Doko vn-369366-De-an-Anh-huong-cua-moi-truon

76
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Hường Sinh viên : Đỗ Thị Thu Hồng Lớp : Quản trị kinh doanh Quốc Tế Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42 1

Transcript of Doko vn-369366-De-an-Anh-huong-cua-moi-truon

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ

ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài:

ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

CỦA CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II

QUẢNG NINH

Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Thị Hường

Sinh viên : Đỗ Thị Thu Hồng

Lớp : Quản trị kinh doanh Quốc

Tế

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

1

Khoá : 42

Hệ : Chính Quy

Hà Nội, năm 2003

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan, bài viết này hoàn thành là do em tự

nghiên cứu và cùng với sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị

Hường, em không sao chép từ bất kỳ một bài viết được sử dụng để

bảo vệ trong một học vị nào.

Hơn nữa, tình huống, số liệu và kết quả nghiên cứu trong

đề tài này là trung thực; các thông tin trích dẫn trong đề án

đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Sinh viên

Đỗ Thị Thu Hồng

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

2

MỤC LỤC

Nội dung Trang LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………………………..1

CHƯƠNG I: CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH VÀ ẢNH HƯỞNG

CỦA MÔI TRƯƠNG LUẬT PHÁP MỸ……………….……...3

1.1. Mỹ – một thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng………………..3

1.2. Thực trạng xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam………………4

1.3. Sơ lược về tình hình hoạt động của công ty………………….6

CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG

KINH DOANH CỦA CÔNG TY……………………………....10

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

3

2.1. Đối với Luật thuế và Hải quan………………………………11

2.2. Đối với Luật khắc phục những bất lợi………………………13

2.2.1. Luật thuế đối kháng………………………………………...14

2.2.2. Luật chống bán phá giá……………………………………..14

2.2.3. Các cuộc điều tra chống bán phá

giá………………………..24

2.3. Quy định về trách nhiệm đối với sản phẩm………………...27

2.4. Đối với quyền tự vệ…………………………………………. .28

2.5. Đối với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ……………………….. .28

CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÚP CÔNG TY KHẮC

PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN………………………………….31

3.1. Bài học kinh nghiệm…………………………………………31

3.2. Giải pháp giúp công ty khắc phục khó khăn………………34

3.2.1. Giải pháp mang tầm vĩ mô……………………………………..34

3.2.2. Giải pháp cấp công ty…………………………………………..39

3.2.2.1. Nâng cao năng lực của công ty………………………39

3.2.2.2. Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp

Mỹ…….40

3.2.2.3. Tiến hành mua bảo hiểm cho sản phẩm………………41

3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc

tiến…………….42

3.2.2.5. Làm quen với các vụ kiện tụng………………………42

3.2.2.6. Lưu ý khi làm thủ tục xuất khẩu……………………..44

KẾT LUẬN……………………………………………………………..46 Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

4

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………….47

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

5

LỜI NÓI ĐẦU

N gày nay, thế giới đang đến Việt Nam và Việt Nam cũng bắt đầu đi ra

thế giới. Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật của sự phát triển,

là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và

toàn cầu. Những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến sự “vươn vai” của

hàng hoá Việt Nam vào thị trường quốc tế, trong đó không thể không kể

đến sự lớn mạnh của mặt hàng thuỷ sản. Đây là mặt hàng có thế mạnh lớn

bởi nước ta có vùng chủ quyền khai thác rộng lớn. Hiện nay, Mỹ là thị

trường lớn nhất tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam. Mặc dù Mỹ là một thị

trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu nhập khẩu lớn, đa

dạng và ổn định; và đặc biệt là chúng ta đã có những thuận lợi

về xuất khẩu sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ký kết

nhưng chúng ta nhận thấy một thực tế khách quan là phần lớn

các công ty Thuỷ sản của nước ta muốn (hoặc đã) xuất khẩu vào

thị trường Mỹ đã gặp rất nhiều khó khăn.Và công ty thuỷ sản II

Quảng Ninh không nằm ngoài tình trạng này, ông Ngô Duy Thực

– Giám đốc công ty cho biết: “Mỹ là một thị trường rộng lớn và

phức tạp nên có thể gây choáng ngợp cho các nhà xuất khẩu Việt

Nam”.

Vấn đề đặt ra là tại sao công ty thuỷ sản II Quảng Ninh đến

nay mới “bắt đầu” nhận thấy rằng vào thị trường Mỹ lắm lợi ích

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

6

và cũng đầy khó khăn thử thách? Bài viết “Ảnh hưởng của môi

trường luật pháp Mỹ tới hoạt động kinh doanh của công ty xuất

khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh” sẽ phân tích những khó khăn về

luật pháp Mỹ và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp công ty

khắc phục những khó khăn ấy khi công ty kinh doanh trên thị

trường Mỹ.

Bài viết này bao gồm ba chương:

Chương I: Công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninhvà

ảnh hưởng của môi trường luật pháp Mỹ

Chương II: Tác động của môi trường luật pháp Mỹ đến

hoạt động kinh doanh của công ty

Chương III: Bài học kinh nghiệm và giải pháp giúp công

ty khắc phục những khó khăn khi kinh doanh ở Mỹ

Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Hường – Chủ nhiệm Bộ

môn Kinh Doanh Quốc Tế đã giúp đỡ và tận tình hướng dẫn để em hoàn

thành đề tài này.

Mặc dù em đã rất nỗ lực nhưng do khuôn khổ thời gian hạn hẹp và

trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong

nhận những ý kiến nhận xét và những đóng góp quý báu của thầy cô và

các bạn.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

7

CHƯƠNG I: CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH VÀ ẢNH

HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ

1.1.MỸ – MỘT THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN ĐẦY TIỀM NĂNG

Mỹ đang là một thị trường nhiều triển vọng mà Việt nam mới

bắt đầu khai thác. Thị trường này có sức mua rất lớn và giá cả

tương đối ổn định, tuy nhiên trong thời gian qua, hàng thuỷ sản

Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ vẫn còn rất khiêm tốn so

với nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Mỹ.

Với GDP bình quân đầu người năm 2000 là 32000USD, mức

tăng trưởng trung bình của nền kinh tế là 4%/năm, Mỹ là một thị

trường có sức tiêu dùng rất cao, đặc biệt là hàng thuỷ sản. Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

8

Trung bình mỗi năm người Mỹ tiêu dùng 4,9 pounds thuỷ sản

tương đương 8 kg, tăng 44,6% so với năm 19960 và 19,5% so với

năm 19980. Trong tương lai, mức tiêu thụ thuỷ sản ngày càng

tăng mạnh do xu hướng ngày càng có nhiều người Mỹ chuyển sang

sử dụng sản phẩm thuỷ sản cho bữa ăn chính trong gia đình. Theo

thống kê của Bộ thuỷ sản Mỹ, người Mỹ hiện sử dụng xấp xỉ 20%

tổng sản lượng thuỷ sản thế giới, trong số đó thì hơn một nửa

là thuỷ sản nhập khẩu. Tại Mỹ có nhiều cơ sở chế biến phải sử

dụng nguyên liệu ngoại nhập. Có khoảng 1000 cơ sở chế biến cả

nước phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu ngoại nhập. Do đó, Mỹ

trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản hấp dẫn đối với tất cả

các nước trên thế giới trong đó có Việt nam. Chỉ cần tăng lên

1% trong kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ cũng đã mở ra cơ

hội vàng cho Việt nam tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên gấp

hai lần.

Chính vì vậy, ngay từ năm 1994, Việt nam đã bắt đẫu xuất

khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ với kim ngạch khoảng 6 triệu

USD. Và con số nay đã được tăng lên nhanh chóng qua các năm,

1999 xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này đạt 125,9 triệu

USD, năm 2000 đạt 304,359 triệu USD, và đến năm 2001, đã tăng

lên 500 triệu USD, biến thị trường Mỹ trở thành thị trường

chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong xuất khẩu thuỷ sản của

Việt nam, từ 11,6% thị phần năm 1998 đã tăng lên 28,92% vào năm

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

9

2001 và khả năng thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào

thị trường Mỹ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, trong thời gian vừa

qua, Ngành thuỷ sản Việt nam cũng gặp không ít khó khăn trong

việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Đó là các nhà sản

xuất cá nheo của Mỹ đang thực hiện các biện pháp để hạn chế

việc xuất khẩu các sản phẩm cá tra và cá basa của ta, như tuyên

truyền cá của Việt nam không đáp ứng được các yêu cầu về an

toàn vệ sinh thực phẩm, nuôi trồng trong điều kiện ô nhiễm.

Đồng thời một số Nghị sỹ của Mỹ yêu cầu áp dụng luật chống phá

giá do giá cá của ta rẻ hơn cá catfish của Mỹ 1USD/kg và tốc độ

xuất khẩu vào Mỹ tăng nhanh. Và đặc biệt ngày 1/7/2000 họ còn

đưa ra Quốc hội Hoa kỳ dự luật HR 2439, gọi là ( Country of

origin labelling Bill” ( nhãn mác của nước xuất xứ). Dự luật

HR2330 liên quan đến cá tra và cá basa của Việt Nam nhập khẩu

vào thị trường Mỹ.

1.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO MỸ TRONG

NHỮNG NĂM QUA

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

10

B ắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt

Nam, những lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam đã có mặt

trên thị trường Mỹ. Từ đó trở đi cho đến tháng 7 năm 2000, mặc

dù chưa ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, nhưng giá trị xuất

khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột

biến vào những năm 1995, 2000 và 2001, Mỹ đã vượt Nhật, trở

thành nước nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam (xem bảng

trang bên).

Trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, tôm đông

chiếm tỷ lệ cao nhất. Theo số liệu thông báo của Hải quan Mỹ

thì năm 2001 Việt Nam chỉ đứng thứ nhì sau Thái Lan với khối

lượng trên 32.000 tấn và đạt giá trị là 417,8 triệu USD. Kế đến

là mặt hàng cá tra, cá basa, đứng thứ ba là cá ngừ và thứ tư là

các “ sản phẩm khác” bao gồm cá philê đông, cua tươi, cá biển

đông, cá nước ngọt đông, cua đông… Cơ cấu giá trị xuất khẩu 4

loại thuỷ sản trên đây của Việt Nam vào Mỹ năm 2002 tương ứng

như sau: tôm 79,8%; cá tra, basa 4,5%; cá ngừ 4,1%; và các sản

phẩm khác 11,6%. Theo thống kê của Mỹ, sản phẩm thuỷ sản Việt

Nam xuất khẩu sang Mỹ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại

sản phẩm khác nhau.

Bảng 1.1: Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trườn Mỹ

(triệu USD)

Năm Tốc độ tăng trưởng

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

11

S

T

T

Kim

ngạch

xuất

khẩu

Kim ngạch xuất

khẩu

Tỷ lệ

(%)

1

2

3

4

5

6

7

8

9

1

0

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003 (ước

tính)

5,78

19,498

33,988

39,83

80,20

129,50

298,22

523,60

631,20

767,54

-

13,71

14,49

5,85

40,37

49,30

68,72

228,85

107,60

136,34

-

237,2

74,3

17,2

101,3

61,5

130,2

75,6

20,5

21,6

(Nguồn: Bộ thuỷ sản và tính toán của tác giả)

Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các loại sản phẩm

thuỷ sản của ta là có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi

chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên nên vị

tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan

và Indonesia nên thường bán được giá cao hơn. Thí dụ, năm

2000, mặc dù Việt Nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

12

cao – 224 triệu USD. Trong khi đó Ấn Độ xuất những 26.000 tấn

mà chỉ thu được có 223 triệu USD. Tính ra 1 kg

tôm của Việt Nam bán được 14,934 USD, của Mehico là 13,961

USD, của Thái Lan là 11,895 USD và của ấn Độ là 8,076 USD.

1.3. SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY XUẤT KHẨU THUỶ SẢN II QUẢNG NINH

X í nghiệp xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh được thành lập

từ năm 1988, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chế biến xuất

khẩu thuỷ sản.

Năm 1992, Xí nghiệp được nâng cấp thành Công ty. Bình mới

rượu cũ, những khó khăn tích tụ. Năm 1996 – 1997, Công ty gặp

những khó khăn rất lớn tưởng như khó có thể vượt qua do thiếu

cán bộ quản lý, vốn ít, thiết bị lạc hậu, nhà xưởng, kho tàng

chật chội, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được những đòi

hỏi ngày càng cao của thị trường thế giới. Và 300 công nhân

không đủ việc làm, có nhiều người đã bỏ sang các doanh nghiệp

khác.

Đây cũng chính là thời điểm thách thức đối với mỗi thành

viên của Công ty. Ban lãnh đạo Công ty cùng với cán bộ công

nhân viên tâm huyết đã chung sức tháo gỡ khó khăn, mạnh dạn đầu

tư mở rộng nhà xưởng, đổi mới thiết bị để sản xuất những sản

phẩm tinh chế có giá trị gia tăng, mở rộng ngành nghề kinh

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

13

doanh với phương châm đa phương bạn hàng, đa dạng sản phẩm,

tích cực tìm thị trường đầu ra cho xuất khẩu.

Những cố gắng ấy dã có kết quả xứng đáng. Năm 1998, giá trị

kim ngạch xuất khẩu đạt 7,5 triệu USD, gấp hơn hai lần năm

1997. Những năm 1997 – 1998 là thời điểm đột phá, tạo đà phát

triển cho doanh nghiệp những năm về sau.Và đây là năm đầu tiên

công ty bắt đầu thâm nhập vào thị trường Mỹ. Có thể kể ra những

nhân tố sau đây đã thúc đẩy công ty thâm nhập vào thị trường

Mỹ:

+ Đường lối của đảng và chính phủ thông thoáng tạo mọi cơ

hội thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp ở các thành phần kinh

tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị

trường thế giới. Đặc biệt đáng chú ý là chính phủ đã thông qua

cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 2001 –

2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia

vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ những rào cản

pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Khả năng

tiếp cận với thị trường Quốc tế trong đó có thị trường Mỹ của

các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản sẽ nhiều hơn,

thuận lợi hơn.

+ Nhà nước dành nhiều sự quan tâm cho ngành thuỷ sản: Với

những chương trình hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng của

Ngành thuỷ sản; chương trình đánh bắt xa bờ; chương trình đầu Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

14

tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ để phát triển ngành

thuỷ sản; với sự hỗ trợ toàn diện của Nhà nước, Trung tâm kiểm

tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản ra đời, trở thành cơ quan có

thẩm quyền về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm của ngành, hỗ

trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường. Mới đây chương

trình chuyển đổi một số vùng trồng lúa sang phối hợp nuôi

trồng thuỷ sản đã mở ra khả năng to lớn cho sự phát triển của

ngành thuỷ sản Việt Nam.

+ Nhà nước đã ký gần 80 hiệp định thương mại giữa Việt Nam

và các nước trong đó hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã được

thông qua vào tháng 12/2001 mở ra khả năng to lớn cho thuỷ sản

Việt Nam nói riêng và cho các hàng hoá xuất khẩu nói chung có

điều kiện thuận lợi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.

+ Sự ra đời hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt

nam 12/6/1998 là một mốc son tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp ngành thuỷ sản năm bắt thông tin, nâng cao khả

năng tiếp thị, trao đổi kinh nghiệm hỗ trợ lẫn nhau trong phát

triển xuất khẩu trong đó có xuất khẩu vào thị trường Mỹ.

+ Cùng với sự phát triển của ngành đã hình thành một lớp

doanh nhân mới am hiểu về thị trường, kinh nghiệm quản lý kinh

doanh được tích luỹ, họ đã xây dựng được các mối quan hệ thương

mại tốt với các đối tác của Mỹ, đây là tiền đề để duy trì và phát

triển thị trường.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

15

+ Chất lượng sản phẩm của công ty được quản lý theo tiêu

chuẩn HACCP từ năm 1999 và là một trong hai doanh nghiệp chế

biến thuỷ sản đầu tiên của miền Bắc được Cộng đồng châu Âu cấp

giấy phép xuất khẩu trực tiếp vào 15 nước thành viên EU. Đây là

thuận lợi đầu tiên giúp cho công ty xuất khẩu hàng thuỷ sản

vào thị trường Mỹ.

Tuy vậy, khi thâm nhập vào thị trường Mỹ công ty cũng đã

gặp phải những khó khăn như:

* Những nhân tố khách quan:

+ Thị trường Mỹ quá rộng và lớn, hệ thống luật pháp của Mỹ

rất phức tạp. Trong khi đó công ty mới tiếp cận thị trường này,

sự hiểu biết về nó và kinh nghiệm tiếp cận với thị trường chưa

nhiều.

+ Thị trường Mỹ ở quá xa Việt Nam, chi phí vận tải và bảo

hiểm lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh hàng hoá từ Việt

Nam đưa sang Mỹ tăng lên. Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm

cho hàng thuỷ sản tươi sống bị giảm về chất lượng, tỷ lệ hao

hụt tăng, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh

tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ so với hàng

hoá từ các nước châu Mỹ la tinh có điều kiện khí hậu tương tự ta

đưa vào Mỹ.

+Tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, thị trường

Mỹ nhập khẩu hàng thuỷ sản từ rất nhiều nước khác nhau trong đó

có những nước có lợi thế tương tự như Việt Nam đều coi thị Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

16

trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu,

cho nên chính phủ và các doanh nghiệp của các nước này đều quan

tâm đề xuất các giải pháp hỗ trợ và thâm nhập dành thị phần

trên thị trường Mỹ. Đây cũng được xem là khó khăn khách quan

tác động đến khả năng thúc đấy xuất khẩu thuỷ sản của công ty

vào thị trường này.

* Những nhân tố chủ quan

+ Năng lực chế biến thuỷ sản đông lạnh hiện tại được đánh

giá là dư thừa so với nguồn nguyên liệu hiện có . Đây là một

trong các nguyên nhân dẫn đến việc tranh mua nguyên liệu gay

gắt giữa các doanh nghệp, giá nguyên liệu ngày một bị đẩy lên

cao, thêm vào đó , các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phát

triển nhanh hơn tốc độ đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản đã làm

giảm tính cạnh tranh về giá của sản phẩm.

+ Cơ sở vật chất phục vụ cho đánh bắt, bảo quả và chế biến

thuỷ sản đã được cải thiện đáng kể nhưng tỷ lệ các cơ sở bảo

quản, chế biến thuỷ sản mới đạt ở mức trung bình và yếu còn

chiếm tỷ trọng cao, đây là nhân tố tac động đến chất lượng và

vệ sinh an toàn của hàng thuỷ sản xuất khẩu.

+ Tỷ lệ hàng thuỷ sản xuất khẩu dưới dạng thô ít qua chế

biến còn cao đây cũng là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng gia

tăng kim ngạch xuất khẩu, ảnh tới việc tạo dựng sản phẩm thuỷ

sản độc đáo riêng có của Việt Nam trên thị trường Mỹ và cũng ít

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

17

khai thác được lợi thế do giảm thuế suất thuế nhập khẩu mà hiệp

định thương mại Việt -Mỹ mang lại.

+ Một nhân tố nữa ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào

thị trường Mỹ là tình trạng thiếu vốn kinh doanh ở tất cả các

khâu: đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, thương mại. Công ty phải

tự bươn trải vay vốn với lãi suất cao ảnh hưởng tới giá thành

thuỷ sản xuất khẩu.

Trong năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn do các quy định kiểm

tra của Mỹ, do tình hình nguyên liệu không ổn định nhưng công

ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh vẫn hoàn thành kế hoạch nhà

nước; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 16 triệu USD, tăng 17% so

với năm 2001; sản xuất 7.685 tấn thành phẩm xuất khẩu sang

nhiều thị trường như Nhật Bản, Eu, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông…

Trong đó Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty. Tuy

vậy, khi kinh doanh trên thị trường Mỹ, công ty đánh giá các cơ

hội và thách thức luôn đi cùng nhau. Điều quan trọng là phải

biết khắc phục những khó khăn thử thách và phải biết nắm lấy

những cơ hội để vượt qua và phát triển.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

18

CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP MỸ ĐẾN HOẠT ĐỘNG

KINH DOANH CỦA CÔNG TY

H iệp định thương mại Việt – Mỹ thông qua đã mở rộng cánh

cửa cho công ty đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, một thị

trường mà dung lượng hàng hóa và khả năng tiêu thụ rất lớn. Tuy

vậy, Mỹ là một thị trường còn khá mới mẻ đối với công ty nên khả

năng rủi ro xảy đến với công ty khi xuất khẩu sang Mỹ cũng lớn

hơn so với thị trường khác. Thách thức lớn đang đặt ra đối với

công ty là hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp của Mỹ. Những

quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng hoá nhập khẩu là những trở

ngại lớn đối với công ty và nếu không có sự nỗ lực cao, công ty

sẽ không dễ đàng vượt qua rào cản này.

Những khó khăn đối với công ty không phải do hệ thống pháp

luật của Mỹ còn có nhiều thiếu sót, thiếu đồng bộ, mà do hệ

thống đó quá phức tạp. Ông Ngô Duy Thực – Giám đốc công ty cho

rằng: “ xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ phải xuyên qua một rừng luật

lệ. Những doanh nghiệp nào nắm bắt và hiểu rõ được những luật

lệ kinh doanh và tập quán tiêu thụ ở Mỹ mới có thể có khả năng

gặt hái được ít nhiều kết quả ở thị trường Mỹ”.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

19

Tuy nhiên, công ty khó mà nắm bắt hết hệ thống luật lệ Liên

bang và các bang ở Mỹ. Chúng ta biết rằng, bên cạnh hệ thống

pháp luật Liên bang, các bang ở Mỹ đều có hệ thống pháp luật

riêng.Trong đó có nhiều điều khoản điều chỉnh một vấn đề lại

khá khác biệt nhau.

Hơn nữa, các Thống đốc bang ở Mỹ đều có thẩm quyền rất lớn

trong điều chỉnh các hoạt động kinh tế thương mại. Chính vì

khó khăn phức tạp như vậy, việc xúc tiến nhập khẩu hàng hóa vào

htị trường Mỹ thường phải thông qua các nhà môi giới hải quan.

Một điểm đáng lưu ý khác là trong nhiều thập kỷ qua, chính

sách thương mại Mỹ luôn hướng tới tự do hoá thương mại toàn cầu

(thông qua WTO), khu vực (các hiệp định thương mại khu vực,

như NAFTA), và đặc biệt ở cấp độ song phương với hàng loạt hiệp

định thương mại song phương giữa Mỹ với các nước khác.

Các quy định của Luật Thương mại Mỹ rất chặt chẽ. Và hệ

thống Luật thuế và thuế của Mỹ nổi tiếng là rắc rối và ngày

càng phức tạp. Nhiều loại thuế ở 50 bang được áp dụng không chỉ

ở cấp liên bang, bang mà còn ngay cả ở cấp thấp hơn ( cấp địa

phương). Hơn nữa,người đóng thuế (cá nhân, công ty) đều phải

tự khai thu nhập và nộp thuế dựa trên thu nhập được khai, chứ

không phải chờ cơ quan thuế. Chính do sự phức tạp này mà ngay

cả người dân Mỹ cũng phải thường xuyên thuê dịch vụ của các nhà Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

20

khai thuế chuyên nghiệp nhằm tránh rủi ro bị phạt do khai sai,

nộp chậm thuế…

Về phía công ty thuỷ sản II Quảng Ninh trong quan hệ buôn

bán với Mỹ, nhất là khi thực hiện xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ,

công ty đã và đang gặp phải những khó khăn trở ngại sau đây:

2.1. ĐỐI VỚI LUẬT THUẾ VÀ HẢI QUAN

C ông ty thường gặp phải những rắc rối trong Luật Thuế và

Hải quan (Tariff and Customs Laws), như: cách định giá hàng

nhập khẩu để tính thuế; phí thủ tục Hải quan; những quy định về

mác, mã, bao bì.

Điều cần thiết đối với công ty là hiểu được Hệ thống Danh

bạ thuế quan thống nhất của Mỹ (The Harmonised Tariff

Skhedule of the United States - HTS) để biết được sản phẩm của

mình xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất bao nhiêu. Do thuế

quan của Mỹ thường xuyên thay đổi nên Danh bạ HTS được đóng

thành những trang rời để khi thay đổi thì huỷ bỏ từng trang dễ

dàng, không ảnh hưởng đến toàn bộ Danh bạ. Vì vậy, công ty cần

nắm vững Danh bạ HTS mới nhất để nghiên cứu. Khi biết được mức

thuế phải nộp đối với hàng hoá của mình, công ty cần biết mình

phải cạnh tranh với những nhà sản xuất kinh doanh nào về mặt Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

21

hàng đó tại Mỹ, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước

ta, được hưởng chế độ ưu đãi Thuế phổ cập (Generalised System

of Preferences – GSP). GSP là hệ thống phức tạp, trong đó có

nêu đầy đủ những yêu cầu được hưởng GSP. Tiếp theo, khi công ty

xuát khẩu hàng hoá vào Mỹ cũng cần phải biết rõ cách xác định

giá trị hàng hoá để thu thuế của Hải quan Mỹ. Hiện nay, Mỹ dùng

phương pháp định giá theo “giá trị giao dịch” (Transaction

Value) để làm cơ sở chính cho việc định giá hàng nhập khẩu để

tính thuế.

Có thể thấy cách định giá hàng nhập khẩu để tính thuế như

sau: Giá giao dịch là giá thực sự đã trả hoặc sẽ phải trả cho

hàng hoá khi để xuất sang Mỹ, và cộng thêm với : chi phí đóng

gói bao bì mà người mua phải chịu + hoa hồng bán hàng mà người

mua phải chịu + khoản chi phí mà người mua chi để hỗ trợ người

bán trong sản xuất hoặc xuất khẩu hàng đó + các loại hoa hồng

ký vụ, phí xin giấy phép mà người mua phải trả + các khoản chi

mà người bán hưởg, phát sinh từ việc tái xuất hoặc bán lại, hay

sử dụng định đoạt hàng nhập khẩu ấy.

Giá thực sự đã trả hay sẽ phải trả ở quy định này là tổng

chi phí mà người mua thanh toán cho người bán, không kể giá

cước vận tải quốc tế, bảo hiểm và các loại phí kèm theo chung

quanh giá CIF.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

22

Trong Luật Thuế và Hải quan, công ty cũng cần phải chú ý

đến Phí thủ tục Hải quan ( Customs User Fees). Luật Hải quan và

Thương mại cho phép Hải quan Mỹ được thu phí làm thủ tục hải

quan cho các chuyến hàng nhập khẩu, cho các phương tiện vận

tải, hành khách, chuyển thư, bưu kiện… Việc thu phí này phù

hợp với WTO, không mang tính chất thuế, không mang tính chất

của hàng rào bảo hộ mậu dịch gián tiếp. Loại phí này có tên là

Phí thủ tục hàng hoá (Merchandise Processing Fee: MPF).

Những quy định về mác , mã là những quy định mà công ty

cần hết sức lưu ý khi xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ: mọi hàng hoá

nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá

được, ở chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì xuất hập khẩu tên người

mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá

đó. Trên các bao bì, vật dùng chứa đựng bao bì tiêu dùng của

hàng hoá đó tới tay cuối cùng cũng phải ghi rõ xuất xứ của hàng

hoá bên trong. Nếu không tuân thủ những quy định này sẽ bị phạt

mức 10% giá trị lô hàng, phải thực hiện thêm một số yêu cầu và

vẫn phải thực hiện nghĩa vụ mác mã. Hàng nhập khẩu không đáp

ứng yêu cầu về mác mã sẽ bị giữ lại ở khu vực Hải quan Mỹ cho đến

người nhập khẩu thu xếp tái xuất, phá huỷ hoặc cho đến khi hàng

được xem là bỏ để Chính phủ định đoạt hoặc từng phần. Ai cố

tình vi pham hoặc che giấu sẽ bị phạt tiền 5 nghìn USD hoặc bỏ

tù; trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi tẩy

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

23

xoá mác mã về xuất xứ hàng hoá thì bị phạt 100 nghìn USD lần

đầu, nếu tái phạm sẽ bị phạt 250 nghìn USD.

2.2. ĐỐI VỚI LUẬT KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT LỢI TRONG THƯƠNG MẠI MỸ

M ặc dù đã có những hiểu biết về Luật khắc phục những bất

lợi trong thương mại Mỹ nhưng việc áp dụng nó vào thực tiễn đối

với công ty đang là vấn đề hết sức khó khăn.

Trong Luật khắc phục những bất lợi trong thương mại Mỹ

có hai luật rất quan rọng cần chú ý là: Luật thuế đối

kháng(Countervailing Duty Laws – CVD) và Luật chống bán phá

giá(Anti – dumping Laws – AD).

2.2.1. Luật thuế đối kháng

CVD được áp dụng nếu Bộ thương mại Mỹ điều tra xác định

rằng có tình trạng trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc

chế tạo, sản xuất, xuất khẩu một mặt hàng nào đó vào Mỹ của

nước xuất khẩu; ngành công nghiệp Mỹ sản xuất ra hàng hoá đó

hoặc liên quan đến hàng hoá đó bị tổn thương hoặc đe doạ bị tổn

thương về mặt vật chất; xác định mức độ mà nước xuất khẩu ấy

trợ cấp thì Mỹ sẽ áp đặt ngay mức thuế đối kháng. Đây là mức

thuế đánh bổ sung thêm vào mức thuế hiện hành, mức thuế đối

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

24

kháng bằng mức trợ cấp của nước xuất khẩu mà Bộ thương mại điều

tra được trình Tổng thống phê duyệt.

2.2.2. Luật chống bán phá giá

Giống như CVD, AD ra đời nhằm bảo vệ nền công nghiệp

trong nước của Mỹ. Luật này cho phép đánh một mức thuế bổ sung

vào mức thuế hiện hành khi Bộ Thương mại Mỹ điều tra và khẳng

định rằng, hàng đang bán hoặc sẽ bán vào nước Mỹ thấp hơn giá

trị thực sự của nó (phá giá); hoặc Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ

(ITC) khẳng định rằng, một ngành công nghiệp trong nước bị tổn

thương, hoặc đe doạ bị tổn thương về mặt vật chất do Mỹ nhập

khẩu mặt hàng bán phá giá ấy. Sau khi điều tra và kkhẳng định

có bán phá giá, Mỹ sẽ áp dụng ngay thuế chống phá giá với mức

thuế ngang với mức hàng đó đã bán thấp hơn giá trị đích thực

của nó trong tương quan so sánh với giá bán tại Mỹ.

Có thể nói rằng, sự kiện Mỹ điều tra và áp dụng thuế chống

bán phá giá đối với cá tra và cá basa nhập khẩu từ Việt Nam

trong thời gian vừa qua đã đem lại một bài học xương máu cho

công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh nói riêng và các công

ty đang kinh doanh trên thị trường Mỹ nói chung.

Việt Nam và Mỹ đã gặt hái được những kết quả tích trong

năm đầu thực hiện Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, nhưng khó Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

25

khăn và mâu thuẫn đã xuất hiện, trong đó không thể không nói

đến “cuộc chiến” cá tra – cá basa mà Mỹ đã tạo nên trong thời

gian qua.

Catfish? Ở Việt Nam ta và ở Mỹ, cũng như nhiều nước khác

trên thế giới đều có loại cá thuộc họ da trơn (không có vảy) và

đều có râu như cá trê, cá lăng, cá bông lau, cá nheo, cá tra, cá

basa,… Vì chúng có râu nên tiếng Anh gọi là Cá mèo (Catfish),

tên khoa học gọi chung là Siluriformes, đây là tên gọi chung

cho khoảng 2.500 đến 3.000 loài cá thuộc họ (bộ) cá da trơn

phân bố trên khắp thế giới (vì là như nhau, do đó để cho tiện,

tuỳ chỗ em sẽ viết là basa, hoặc là catfish).

Tại sao có “cuộc chiến”? Vì ở Việt Nam có cá basa, Việt

Nam và Mỹ đã có bình thường các mối quan hệ, có Hiệp định

Thương mại song phương và đều muốn tuân thủ các quy định của

WTO để xem xét các mối quan hệ kinh tế song phương, dù Việt Nam

chưa là thành viên, và vì người Mỹ ưa xài cá basa cuat Việt Nam

nên Việt Nam xuất khẩu cá basa sang mỹ, cá basa của Việt Nam

thơm ngon và rẻ, và người Mỹ cũng sành ăn nên mua nhiều, để

phục vụ tốt hơn cho người tiêu dùng Mỹ, các ngư dân của Việt

Nam đã lao động chăm chỉ và sáng tạo để nuôi cá ngon và xuất

khẩu nhiều hơn vào Mỹ.

Đến đây đã xuất hiện vấn đề, ở Mỹ người ta(“Người ta” là

những người Mỹ liên quan đến việc kiện tụng cá basa của Việt

Nam bán sang Mỹ) nói rằng, vì ngư dân Mỹ nuôi cá catfish bị ngư Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

26

dân Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh, như dùng tên sản phẩm

cá không đúng, như bán phá giá,… để ngư dân Mỹ lâm vào cảnh đói

nghèo, và họ đâm đơn kiện Việt Nam. Nhưng xem xét cụ thể (cả

người Mỹ, người Việt Nam và người các nước khác) thì không như

vậy. Không có như vậy vì đến khi có vấn đề năm 2001, ở Mỹ cá basa

của Việt Nam chỉ mới chiếm 5,59% tổng giá trị (Mỹ bán được 385

triệu USD, Việt Nam bán được 21.509.704 USD) và 5,4% trọng

lượng (lượng cá tiêu thụ ở Mỹ: khoảng 295 – 297 triệu Pound,

lượng cá nhập từ Việt Nam là 16 triệu Pound – 1 Pound = 0,454

kg) và cá basa cũng chưa cung cấp được cho tất cả các bang của

Mỹ.

Vậy vấn đề là gì và ở chỗ nào? Trứơc tiên, về lý thuyết

kinh tế. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế chứng minh rằng làm ăn

kinh tế phải nắm vững lý thuyết kinh tế. Những lý thuyết về

cạnh tranh, cung – cầu, chi phí và sản lượng, tính phi kinh tế

vì quy mô, quy luật lợi tức giảm dần,… đều bắt buộc người nào

muốn làm ăn kinh doanh phải nắm vững lý thuyết kinh tế. Các nhà

sản xuất và kinh doanh cá catfish ở Mỹ chắc cũng biết chắc chắn

như vậy. Nhưng thực tế họ (hoặc những người đứng sau lưng họ)

không hành xử như vậy, vì họ cho rằng chính phủ và luật pháp Mỹ

ủng hộ họ. Do nắm bắt tốt thị trường Mỹ, và do độc quyền sản

xuất kinh doanh, ngư dân các bang miền Nam nước Mỹ đã nhanh

chóng tăng diện tích mặt hồ nuôi cá từ 147.146 mẫu năm 1995 lên

185.700 mẵu năm 2001 (tăng trên 26%, nghĩa là tăng trung bình Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

27

trên 4% hàng năm). Theo số liệu của tạp chí Châu Mỹ ngày nay

được trích dẫn theo các nguồn của Mỹ, giá bán catfish tại Mỹ

năm 1990 trung bình là 78 cent/pound, năm 1991: 65cent/pound;

năm 2000: 75 cent/pound; năm 2001: 65 cent/pound; trong khi

đó mức nhập khẩu theo các năm tương ứng là: 4 triệu pound; 5,2

triệu pound; 8,2 triệu pound và 16 triệu pound. Các mức nhập

khẩu này chiếm những thị phần nhất định cá catfish bán ở Mỹ.

Năm 1986 nhập khẩu chiếm 6,7% thị phần, giá bán là

67cent/pound, năm 2001 nhập khẩu chiếm 5,2% thị phần, giá bán

65cent/pound, điều này có nghĩa là mức nhập khẩu ít hay nhiều

chưa có khả năng tác động tới sự dao động giá cả cá catfish bán

ra ở Mỹ. Theo các báo cáo của nhiều cơ quan của chính phủ Mỹ và

viện nghiên cứu tư nhân độc lập ở Mỹ, thì nguyên nhân làm giảm

cá catfish ở Mỹ, gây ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh

của ngư dân ở Mỹ không phải là do những nguyên nhân khách quan

nhập khẩu cá từ nước ngoài, đặc biệt từ Việt Nam, mà là do ở Mỹ

giá thức ăn của cá giảm (chi phí giảm), diện tích nuôi tăng làm

tăng cung cấp cá nguyên liệu, giá thịt gà, sản phẩm cạnh tranh

trực tiếp với cá giảm, nền kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế

Mỹ suy thoái… tất cả đã làm cho hiệu quả kinh doanh và lợi tức

của các nhà sản xuất kinh doanh cá catfish của Mỹ bị giảm sút

là tất yếu. Những điều này có thể hiểu qua lý thuyết của các

sách giáo khoa kinh tế ở Mỹ, cũng như tài liệu thực tế ở Mỹ và

trên toàn thế giới. Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

28

Nhưng những người nuôi cá catfish ở Mỹ (hay những người

đứng đằng sau họ tổ chức việc kiện tụng) lại không cam chịu

việc họ sản xuất kém hiệu quả, họ không tìm lời giải đáp ở

chính bản thân quá trình sản xuất kinh doanh của họ, mà tìm

cách cấm người khác cạnh tranh để duy trì tình trạng độc quyền

trên thị trường Mỹ. Ai là người phải gánh chịu hạu quả của tình

trạng này? Thực tế hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cá tra,

cá basa nhiều vào Mỹ, vậy những người ngư dân Việt Nam (theo

quan điểm của Mỹ) phải chịu hậu quả của tình trạng đó, mặc dù

những ngư dân Việt Nam cũng cần cù khó nhọc như hoặc hơn họ.

Diễn biến của tiến trình sự kiện có thể được trình bày

một phần logic của vấn đề như sau: Những người khởi xướng

chống nhập khẩu cá từ Việt Nam ban đầu muốn có một lệnh cấm

nhập cá từ Việt Nam, nhưng theo luật cảu Mỹ và của quốc tế là

không thể được. Họ đã tìm cách khác, đó là Việt Nam có thể cứ

xuất khẩu vào Mỹ, nhưng không được gọi cá catfish là cá

catfish mà phải gọi tên khác, tuỳ Việt Nam. Mặc dù nhiều nhà

khoa học Mỹ và các cơ quan chức năng của chính phủ Mỹ đều khẳng

định cá của Việt Nam là cá catfish, dù đó là catfish châu Á hay

catfish Việt Nam thì đều là catfish giống như của Mỹ. Và Việt

Nam cũng đã phải gọi tên khác đi khi xuất khẩu cá vào Mỹ. Mặc dù

tên sản phẩm có phần khác đi, nhưng thị trường Mỹ vẫn thích

dùng cá Việt Nam, các nhà nhập khẩu cứ tiếp tục nhập. Vậy thì Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

29

mục đích của người khởi xướng không thực hiện được. Họ chuyển

chiến thuật, tố cáo Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ để

áp dụng Luật chống phá giá và luật thuế chống trợ giá nhằm “bù

đắp thiệt hại từ việc trao đổi thương mại không công bằng”, cá

Việt Nam còn dư lượng chất độc màu da cam…! Nhưng liền ngay sau

đó, nhiều nhà khoa học của Mỹ, của thế giới cũng như của Việt

Nam đã lên tiếng cho rằng cá Việt Nam bảo đảm chất lượng, vệ

sinh, an toàn thực phẩm theo đúng tiêu chuẩn của Mỹ, các cơ

quan chức năng của chính phủ Mỹ phụ trách những vấn đề này cũng

nhận định như vậy, nhiều thị trường khó tính khác đang nhập cá

của Việt Nam và chi phí sản xuất thấp, kinh nghiệm sản xuất…

của các nhà nuôi cá Việt Nam đã bảo đảm cho giá cá bán ở Mỹ là

thấp, tuyệt nhiên không có bán phá giá (bán phá giá có nghĩa là

chi phí để sản xuất ra 1kg cá cao hơn giá bán 1kg cá, nghĩa là

nhà nước hoặc ai đó đã trợ giá khi thực hiện xuất khẩu vào Mỹ,

điều này cũng đã được chứng minh là không có căn cứ trong

trường hợp cá Việt Nam xuất sang Mỹ). Vậy cứ nói suông Việt Nam

bán phá giá cá là quá khó nghe. Họ tìm cách tính toán theo

phương pháp như kiểu cá không phải là cá để cho chi phí sản

xuất và xuất khẩu 1kg cá ở Việt nam buộc phải cao hơn giá bán

1kg cá của Việt Nam ở Mỹ, như thế mới kết luận được Việt Nam bán

phá giá.

Một cứu cánh đã đến, họ viện dẫn một điều luật về nền

kinh tế phi thị trường có từ thời Đại khủng hoảng 1929 – 1933, Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

30

lúc nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hay CHXHCN Việt Nam chưa ra

đời, hệ thống xã hội chưa xuất hiện (nghĩa là điều luật đó khởi

đầu là để chống lại nhà nước Liên bang Cộng hoà XHCN Xô viết,

chứ chẳng lẽ lại chống lại nước Mông cổ du mục?), dù sau này có

bổ sung nâng câp để xem xét tương quan quan hệ với các nước

XHCN trong việc xác định giá cả không phản ánh đúng quy luật

cung – cầu, giá cả các yếu tố sản xuất. Mục đích nguy hiểm của

việc này là: phải kết luận nền kinh tế của Việt Nam phải là nền

kinh tế phi thị trường, để làm điều kiện tiên quyết cho việc

thắng kiện. Khi là nền kinh tế phi thị trường thì các chi phí

sản xuất kinh doanh xuất khẩu sẽ được tính toán hoàn toàn

không đúng với tình hình thực tế hiện nay trong nuôi và sản

xuất xuất khẩu cá của ngư dân Việt Nam không được sự hỗ trợ của

nhà nước (đây là ngành sản xuất có hiệu quả cao, nhà nước không

có lý do gì để can thiệp và hỗ trợ).

Thực ra ngay trong thực tiễn ngày nay, khó ai có thể tìm

ra một nền kinh tế thị trường thuần tuý, hay một nền kinh tế

XHCN thuần tuý, hay một nền kinh tế phi thị trường thuần tuý.

Chúng chỉ có trong lý thuyết để giảng dạy cho người học nghe

thôi. Tất cả đều trong quá trình biến đổi không ngừng.

Nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế Mỹ hay nhiều nền kinh

tế khác đều là những nền kinh tế thị trường hỗn hợp không thuần

khiết, bằng cách này hay bằng cách khác đều chịu sự điều tiết

của nhà nước, mà hiện nay, nền kinh tế Mỹ được điều tiết bởi Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

31

nhà nước Mỹ nhiều hơn so với nền kinh tế Việt Nam được điều

tiết bởi nhà nước Việt Nam.

Nhiều người, nhất là người Mỹ coi nền kinh tế Mỹ là nền

kinh tế thị trường tự do hay nền kinh tế hỗn hợp. Gần đây, giáo

sư Michael Spence (người được giải thưởng Nobel về kinh tế)

khi trả lời phỏng vấn Tuần báo “Thế giới Chủ nhật” của CHLB Đức

đã cho rằng nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế nửa thị trường,

nửa nhà nước (khi được hỏi: Phải chăng có sự cân bằng giữa thị

trường và nhà nước trong một nền kinh tế quốc dân? Ông trả lời:

có, nhưng nó có thể được xê dịch, tuỳ theo từng nước và tuỳ

theo đặc điểm tình hình…ở Mỹ chúng tôi đã có một sự cân bằng

tương tự như vậy, còn ở châu Âu và ở Đức, tôi thấy vai trò của

thị trường có thể lớn hơn. Thị trường ở đây cần sự cạnh tranh

lớn hơn nữa).

Vậy thì, việc kết luận Việt Nam có nền kinh tế phi thị

trường hay Mỹ có nền kinh tế phi thị trường là vấn đề lý luận,

học thuật. Lấy một vấn đề lý luận, học thuật chưa có hay không

thể có kết luận rõ ràng để làm chuẩn cho việc xác định một chi

phí kinh tế cụ thể là việc làm phi khoa học, không nên có. Còn

vấn đề thực tiễn và logic của CFA (Hiệp hội các chủ trại nuôi

cá catfish ở Mỹ – tổ chức đứng đầu cuộc chiến chống cá tra, cá

basa của Việt Nam) phải là: Việt Nam phải là có nền kinh tế phi

thị trường, và dù chi phí sản xuất xuất khẩu cá của Việt Nam

được tính theo bất cứ kiểu nào mà thấp hơn giá bán của nó ở Mỹ là Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

32

không được, mà tính theo kiểu nào cũng phải có kết quả cao hơn

để kết luận Việt Nam bán phá giá.

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP)

cho rằng phía các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam không chủ

trương đối đầu với phía Mỹ và mong muốn có những giải pháp thoả

đáng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh lành mạnh,

cùng có lợi trên thị trường Mỹ. Phía Việt Nam đã hợp tác có

thiện chí với các tổ chức hữu quan Mỹ, Bộ Thương mại Mỹ,… để

xem xét các vấn đề “bán phá giá”, “tình trạng khẩn cấp”, “nền

kinh tế phi thị trường” đã được nêu nên không đúng đắn. “Trong

trường hợp Bộ thương mại Hoa kỳ đưa ra kết luận cuối cùng thiếu

khách quan, gây bất lợi cho phía các doanh nghiệp Việt Nam,

VASEP rất hiểu rõ thế mạnh pháp lý của mình trong vụ kiện này

và sẽ quyết tâm theo đuổi vụ kiện đến giai đoạn cuối cùng, là

điều trần tại uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ”.

Mặc dù Việt Nam đã rất quyết tâm, nỗ lực và cố gắng nhưng

với sự không tương xứng giữa thế và lực, dẫn đến “cá lớn nuốt

cá bé” và cuối cùng cá catfish của Mỹ đã thắng kiện.

Qua phân tích trên ta thấy, công ty sẽ gặp nhiều khó khăn

dù trong tình huống phải đương đầu với việc hàng xuất khẩu của

công ty bị Mỹ điều tra chống bán phá giá hay khi công ty chủ

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

33

động điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng

nhập khẩu từ nước Mỹ.

Khó khăn lớn nhất ở đây là công ty hầu như chưa biết gì về

luật thương mại quốc tế liên quan tới bán phá giá. Hầu hết các

cán bộ của công ty chịu trách nhiệm về vấn đề này còn thiếu

kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá

và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay, công ty

chưa lần nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với hàng

xuất khẩu của công ty bị điều tra phá giá còn ít. Hơn thế nữa,

công ty cũng chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề bán phá giá. Trong

bối cảnh như vậy công ty cũng không có luật sư hay nhà tư vấn

nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong phú về bán phá

giá cả.

Trong khi đó, để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp

về bán phá giá, sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan

là yếu tố sống còn. Chẳng hạn, phải có một cơ quan đầu mối về

các tranh chấp liên quan tới bán phá giá. Cơ quan này phải cộng

tác chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan và phối hợp hành động

với các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo

vệ người tiêu dùng… Vì thế, bên cạnh khó khăn lớn nhất về thiếu

kiến thức và kinh nghiệm thì sự phối hợp không đồng bộ của các

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

34

cơ quan hữu quan là khó khăn lớn thứ hai của công ty về vấn đề

này.

Khó khăn thứ ba là hệ thống pháp luật về kinh tế – thương

mại của nước ta còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn

thiện. Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại của

chúng ta đã được xây dựng mới, bổ sung và sửa đổi liên tục

nhưng rõ ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp

luật của chúng ta chưa thể đầy đủ và phù hợp với luật thương

mại quốc tế ngay được. Trong lĩnh vực chống bán phá giá, chúng

ta chưa có luật để đối phó với hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị

bán phá giá cũng như những quy định cần thiết để đối phó với

hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác thương mại khác áp

dụng biện pháp này.

Trong việc đối phó với biện pháp chống phá giá cũng cần

cải tổ hệ thống toà án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra toà các

quyết định liên quan tới biện pháp chống phá giá của cơ quan

hành chính có thẩm quyền. Trong trường hợp ta chủ động áp dụng

biện pháp chống bán phá giá thì hệ thống toà án của ta có lẽ

chưa đủ điều kiện để giải quyết khiếu kiện kiểu này, còn trong

trường hợp ta phải đối phó với biện pháp chống bán phá giá của

các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm sử dụng

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

35

cơ chế kiện ra toà chống lại quyết định của các cơ quan hành

chính có thẩm quyền của họ.

Trên thực tế, chính sách thương mại quốc tế chịu ảnh

hưởng bởi quan hệ chính trị giữa các đối tác. Các biện pháp

chống phá giá cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong trường

hợp hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngoài điều tra áp dụng

biện pháp chống bán phá giá, chúng ta có thể gây áp lực chính

trị với họ. Nhưng với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, khoa học kỹ

thuật… của chúng ta hiện nay, cần thấy rõ áp lực của chúng ta

không đủ mạnh. Ngược lại, trong trường hợp chúng ta chủ động

tiến hành điều tra áp dụng biện pháp này với hàng nhập khẩu thì

có thể dự đoán rằng một số nước có thể dùng sức mạnh chính trị

để ép chúng ta nhân nhượng họ, chẳng hạn họ có thể dùng những

lá bài như viện trợ phát triển chính thức (ODA), gia hạn quy

chế tối huệ quốc (MFN)… để đem ra mặc cả với ta.

Trong việc áp dụng hay đối phó với biện pháp chống bán

phá giá, chúng ta cũng không tính đến nhiều chi phí cần thiết.

Một khó khăn khác là cho tới nay và vài năm tới, chúng ta

chỉ có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan tới

chống bán phá giá trong khuôn khổ các hiệp định thương mại

song phương. Đặc điểm chung của các hiệp định này là không có Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

36

quy định đầy đủ về giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc

không có cơ chế hoặc cơ quan chức năng riêng để giải quyết các

tranh chấp liên quan tới chống bán phá giá một cách hiệu quả.

Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và

chống bán phá giá nói riêng có uy tín và hiệu quả nhất là cơ chế

giải quyết tranh chấp của WTO. Đây cũng là một nhân tố mà chúng

ta phải tính đến trong quá trình giải quyết các tranh chấp

liên quan tới chống bán phá giá.

Với những sự kiện gần đây cho thấy, Mỹ vẫn chưa bằng lòng

với các cuộc kiện tụng chống bán phá giá, mà với đà thắng thế

trước cá basa Việt Nam, ngành đánh bắt thuỷ hải sản Mỹ đang đẩy

mạnh chiến dịch khởi kiện tôm nhập khẩu từ 12 nước vì “tội” bán

phá giá, trong đó có Việt Nam. Theo VASEP, Hiệp hội các nhà chế

biến tôm của Mỹ vừa tổ chức một cuộc họp khẩn cấp và bỏ phiếu

nhất trí ủng hộ vụ kiện của Liên minh tôn miền Nam (SSA) chống

lại tôm nhập khẩu. Hiệp hội các nhà chế biến tôm Mỹ (ASPA) cũng

đã cam kết ủng hộ 100.000 USD cho hoạt động này của SSA. Trước

đó họ rất lưỡng lự trong việc tham gia cuộc thảo luận về bán

phá giá tôm do lo ngại sẽ làm phật ý các nhà phân phối chính –

người mua cả tôm nhập khẩu cũng như tôm nội địa.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Bà Phan Thuý

Thanh cho biết: “Dự luật chống các nước xuất khẩu tôm vào Mỹ và Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

37

bất cứ một vụ kiện nào đối với việc Việt Nam xuất khẩu tôm sang

thị trường này là hoạt động bảo hộ mậu dịch, là trái với tinh

thần của Hiệp định Thương mại Việt Mỹ”. Như vậy, cũng giống

như các dự luật vô lý về tên gọi catfish và vụ CFA kiện chống

bán phá giá cá tra – cá basa, dự luật nói trên một lần nữa chứng

tỏ, trong thương mại quốc tế, khi kém khả năng cạnh tranh,

doanh nghiệp Mỹ thường huy động các công cụ pháp luật để bảo hộ

mậu dịch.

Một năm sau khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Mỹ có

hiệu lực, quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước đã có

những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, thật là đáng tiếc

trước một số vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi Hiệp

định. Trong đó có việc, gần đây, Hạ nghị sĩ Ron Paul đã đệ

trình lên Quốc hội Dự luật H.R.5578 chống một số nước, trong

đó có Việt Nam, xuất khẩu tôm sang Mỹ. Dự luật này không chỉ

đòi hỏi hạn chế số lượng tôm nhập khẩu vào Mỹ từ Việt Nam và một

số nước khác mà còn đưa ra những biện pháp trừng phạt về tài

chính đối với các nước này.

Có thể thấy rằng, trường hợp tôm Việt Nam bị kiện là bán

phá giá vào thị trường Mỹ thì vụ kiện này cũng vô lý như vụ kiện

cá tra, cá basa. Lý do là giá tôm Việt Nam ở mức khá cao so với

giá tôm thế giới. Mặt khác, tôm của Mỹ chủ yếu là tôm chì, tôm

thẻ, nguồn khai thác chính là đánh bắt, do tôm tự nhiên ngày Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

38

càng cạn kiệt, nên chi phí giá thành ngày càng cao. Trong khi

đó, tôm Việt Nam phần lớn là tôm sú, tôm càng xanh, nguồn khai

thác chính là tôm nuôi, nên chi phí giá thành thấp, vì vậy

không thể so sánh tôm Mỹ với tôm Việt Nam. Hơn nữa, trong thời

gian nay, các nước châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc,

Philppines, Thái Lan đều trúng mùa tôm. Những yếu tố trên cộng

với những khó khăn kinh tế của Mỹ đã góp phần làm cho bộ phận

kinh tế nông nghiệp, thuỷ sản Mỹ cạnh tranh không lại với hàng

từ các quốc gia đang phát triển.

Theo em, có hai yếu tố chính khiến nảy sinh việc các nhà

sản xuất tôm Mỹ muốn kiện các nước. Thứ nhất, các luật sư muốn

khuấy động vấn đề phá giá tôm lên để trục lợi, từ nhà sản xuất

tôm Mỹ đến nhà xuất khẩu tôm châu Á đều phải thuê họ tranh cãi.

Thứ hai, khi hội nhập kinh tế thế giới không chỉ doanh nghiệp

các nước nghèo gặp khó khăn mà ngay cả nhiều doanh nghiệp sản

xuất nông nghiệp, thuỷ sản của Mỹ cũng lao đao. Vì vậy, họ muốn

dùng chiêu bài khởi kiện chống phá giá để bảo hộ mậu dịch, ngăn

chặn hàng nhập khẩu từ các nước và tranh thủ tài trợ từ phía

chính phủ Mỹ.

Không chỉ tôm Việt Nam, tôm xuất khẩu vào thị trường Mỹ

của các nước khác từ châu Á thường rẻ hơn tôm sản xuất tại Mỹ từ

10% - 20%, xuất phát từ việc các nước này có nhiều biện pháp

giảm chi phí giá thành từ sản xuất đến chế biến xuất khẩu. Vì Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

39

vậy, chuyện các nhà sản xuất tôm Mỹ phản ứng em nghĩ là điều

tất nhiên. Nếu họ khởi kiện vấn đề trên thì sẽ gây khó khăn cho

các nhà nhập khẩu từ châu Á, nhưng theo em lần này họ không

phải dễ “nuốt trôi”, vì ngoài Việt Nam, còn nhiều nước khác

nằm trong danh sách kiện của họ về bán phá giá tôm, trong đó

Thái Lan và Trung Quốc là những nước chính mà họ nhằm tới. Tuy

nhiên, ngay công luận thế giới cũng cho rằng, việc kiện con cá

tra – basa lần trước là vô lý, nếu kiện thêm con tôm từ các nước

châu Á, sự phi lý càng tăng lên.

Mặc dù vậy, chúng ta không thể làm ngơ trước sự kiện này.

Bởi vì tôm đông lạnh là mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất

Việt Nam vào thị trường Mỹ. Như vậy, doanh số xuất khẩu tôm

sang Mỹ tăng gấp 10 lần so với cá tra – cá basa, do vậy nếu bị

kiện bán phá giá ngành tôm sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa,

điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp xuất khẩu tôm vào Mỹ.

Như vậy, nguy cơ bị áp dụng thuế chống bán phá giá ngày

một nhiều hơn và do đó công ty cần phải nhanh chóng hành động

một cách mau lẹ để đối phó với tình hình.

2.2.3. Các cuộc điều tra chống phá giá, thuế đối kháng, áp

thuế Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

40

C ác đơn khiếu nại theo luật chống phá giá và luật thuế đối

kháng phải được đệ trình đồng thời lên Bộ Thương mại và Ủy ban

Thương mại Quốc tế Mỹ. Nếu đơn khiếu nại được chấp nhân thì sau

45 ngày kể từ ngày nộp đơn, hoặc sau khi Bộ Thương mại đã bắt

đầu tiến hành điều tra độc lập, Ủy ban Thương mại Quốc tế phải

đánh giá sơ bộ về những thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đối

với một ngành công nghiệp Mỹ.

Nếu đánh giá của Ủy ban Thương mại Quốc tế xác định là

không có vi phạm thì cuộc điều tra sẽ kết thúc. Nếu Ủy ban

Thương mại quốc tế xác định là có vi phạm thì Bộ Thương mại sẽ

đánh giá sơ bộ xem có một cơ sở hợp lý nào để tin rằng có sự trợ

giá chịu thuế hoặc sự phá giá đã xảy ra hay không.

Nếu Bộ Thương mại xác định là có cơ sở hợp lý, thì trong

trường hợp luật thuế bù giá, họ sẽ xác định một biên trợ giá

cho từng hãng hoặc từng nước bị điều tra. Việc xác định này

phải được hoàn thành trong vòng 65 ngày sau ngày bắt đầu điều

tra. Thời hạn này có thể được kéo dài đến 130 ngày.

Trong trường hợp theo luật chống phá giá, sau khi đánh giá

sơ bộ, Bộ Thương mại sẽ tính toán biên phá giá bình quân – mức

chênh lệch cao hơn giá trị bình thường của sản phẩm nước ngoài

so với giá xuất khẩu. Đánh giá sơ bộ phải hoàn thành trong vòng

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

41

140 ngày sau ngày bắt đầu điều tra. Tuy nhiên, thời hạn này có

thể kéo dài đến 190 ngày.

Trong cả hai trường hợp, sau khi những đánh giá sơ bộ đã

được hoàn thành, người nhập khẩu sản phẩm đó phải nộp bảo lãnh

hoặc đặt cọc bằng tiền mặt tương đương với mức trợ giá thuần dự

tính hoặc biên phá giá cho cơ quan Hải quan Mỹ.

Nếu đánh giá sơ bộ của Bộ Thương mại là không có, thì không

phải nộp tiền đặt cọc, nhưng điều tra của Bộ Thương mại và Ủy

Ban Thương mại Quốc tế vẫn tiếp tục cho đến bước đánh giá cuối

cùng.

Có một số điều khoản đưa vào hiệp định để tạm hoãn các cuộc

điều tra theo cả luật chống phá giá và luật thuế đối kháng nếu

một số điều kiện được đáp ứng.

Trong vòng 75 ngày đánh giá sơ bộ, trong điều kiện bình

thường, Bộ Thương mại sẽ đưa ra đánh giá cuối cùng đối với cả

hai trường hợp theo luật chống phá giá và luật thuế đối kháng,

tuy nhiên thời hạn này có thể kéo dài đến 135 ngày. Nếu đánh

giá cuối cùng của Bộ Thương mại xác định là không có quy phạm,

quá trình điều tra sẽ kết thúc và tiền bảo lãnh hoặc tiền đặt

cọc sẽ được hoàn trả. Nếu đánh giá cuối cùng của Bộ Thương mại

là có thì Ủy ban Thương mại Quốc tế sẽ phải xác định những

thiệt hại cuối cùng. Đánh giá cuối cùng của Ủy Ban thương mại Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

42

Quốc tế phải được thực hiện trong vòng 120 ngày sau khi Bộ

Thương mại đưa ra đánh giá sơ bộ hoặc đến ngày thứ 45 sau khi Bộ

Thương mại đưa ra đánh giá cuối cùng là có sự vi phạm.

Nếu đánh giá cuối cùng của Ủy Ban Thương mại Quốc tế khẳng

định là có vi phạm, thì Bộ Thương mại phát yêu cầu nộp thúê

theo luật thuế đối kháng hoặc chống phá giá trong vòng 7 ngày

sau khi có xác nhận có của Ủy Ban Thương mại Quốc tế. Lưu ý là

mức thuế cuối cùng phải nộp cho hàng nhập khẩu có thể cao hơn

nhiều so với mức đặt cọc.

Theo yêu cầu, Bộ Thương mại phải kiểm tra, thường là 12

tháng một lần, mức trợ giá chịu thuế hoặc biên phá giá đối với

hàng hoá phải yêu cầu nộp thuế đối kháng hoặc chống phá giá

chưa giải quyết xong. Bộ Thương mại , theo yêu cầu, còn phải

kiểm tra các cuộc điều tra đã bị đình chỉ dể đánh giá tình

trạng và sự tuân thủ hiệp định, cũng như khoản trợ giá chịu

thuế thuần và biên phá giá.

Đạo luật về các hiệp định trong khuôn khổ Vòng đàm phán

Urugoay quy định rằng Bộ Thương mại và Ủy ban Thương mại Quốc

tế tiến hành “nhũng cuộc kiểm tra lần cuối” trong vòng 5 năm kể

từ khi phát hành một lệnh để xác định xem việc huỷ bỏ những

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

43

lệnh có liên quan có dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn hoạt

động phá giá hoặc trợ giá trị thuế hay không.

Việc huỷ bỏ lệnh phá giá hoặc đình chỉ việc điều tra có thể

xảy ra nếu Ủy ban Thương mại Quốc tế xác định là việc huỷ bỏ

hoặc đình chỉ sẽ không dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn hành

động phá giá hoặc trợ giá chịu thuế.

Các bên không đồng ý với đánh gia cuối cùng của Bộ Thương

mại và Ủy ban Thương mại Quốc tế về các vụ chống phá giá hoặc

thuế đối kháng có thể nộp đơn yêu cầu xử lại lên toà án Thương

mại Quốc tế của Mỹ ở New York. Nếu hàng hoá từ Canada hoặc

Mehico, các bên có thể yêu cầu ban hội thẩm lưỡng quốc thuộc

NAFTA kiểm tra hoặc có thể kháng cáo lên toà án Thương mại Quốc

tế.

Có một số điều khoản nhất định của luật này được gọi là

“những trường hợp khẩn cấp” cho phép người khiếu nại có thể

yêu cầu một hành động khẩn cấp ngăn chặn làn sóng nhập khẩu

đang đe doạ ngành công nghiệp trong nước.

2.3. QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI SẢN PHẨM

H àng rào phi thuế quan của Mỹ lại khắt khe hơn so nhiều thị

trường khác. Mỹ có quy định về trách nhiệm đối với sản phẩm để Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

44

bảo vệ người tiêu dùng như sau: người sản xuất phải chịu trách

nhiệm về chất lượng hàng hoá đối với sức khoẻ người tiêu dùng.

Nếu sản xuất sai quy chế về chất lượng quốc gia sẽ bị phạt.

Từ sau 18/12/1997, Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc

nhập khẩu hàng thuỷ sản. Theo quy định này, hàng thuỷ sản nhập

khẩu vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của

nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã

ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập trung vào việc bảo

đảm an toàn thực phẩm (Food safety), các yếu tố chất lượng

được gắn với hệ thống quy phạm sản xuất (GMP) và các yếu tố vệ

sinh (SSOP). Gần đây môi trường pháp luật của Mỹ về quản lý

chất lượng thuỷ sản nhập khẩu không có thay đổi lớn. Các thay

đổi chỉ có quy định về nhãn hiệu (VS Labeling ACT), luật này có

hiệu lực từ 8/5/1994. Từ tháng 6/1995 áp dụng các quy định về

dán nhãn đồ hộp cá, các sản phẩm tôm và các yếu tố thông báo về

an toàn. Tuy yêu cầu khắt khe về chất lượng và các tiêu chuẩn,

nhưng Mỹ lại trả giá cao hơn hẳn các thị trường khác.

Bên cạnh những điều quy định trên, công ty cần chú ý một số

điều luật như: Quyền tự vệ (Safeguard) và bảo hộ quyền sở hữu

trí tuệ.

2.4. ĐỐI VỚI QUYỀN TỰ VỆ

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

45

M ỹ được quyền áp dụng quyền tự vệ theo điều 19 của Hiệp

định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), có nghĩa là tuy

đã cho các nước hưởng ưu đãi về thuế và phi thuế quan (MFN và

GSP), nhưng nếu xét thấy sản xuất trong nước bị phương hại, Mỹ

sẽ dành quyền đơn phương huỷ bỏ các ưu đãi đó và áp dụng các

biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu các loại hàng hoá đó vào

Mỹ (như việc Mỹ vừa quyết định liên quan đến việc nhập khẩu cá

da trơn của Việt Nam).

2.5. ĐỐI VỚI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

V ề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Mỹ có quy chế nghiêm cấm

việc sử dụng bất hợp pháp quyền tác giả, mẫu mã, kiểu dáng công

nghiệp. Trường hợp vi phạm bản quyền, làm giả mạo mẫu mã, nhãn

hiệu sẽ bị trừng phạt nặng.

Trên đây là những khó khăn về luật pháp Mỹ mà công ty đang

gặp phải. Như vậy, nếu công ty thiếu hiểu biết (hay hiểu biết

ít) về luật kinh doanh của Mỹ, thiếu sự hỗ trợ và bảo vệ của nhà

nước… thì việc công ty tự bươn chải trên thị trường Mỹ là rất

khó khăn. Nhưng quả là thiếu sót nếu chúng ta chỉ nhìn thấy

những khó khăn từ luật pháp của nước đối tác, bởi vì hệ thống

luật pháp Việt Nam cũng gây ra những trở ngại cho các doanh

nghiệp.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

46

Có thể nói rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam cần hoàn

thiện hơn để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định thương mại, hay đúng

hơn cần sâu rộng để các doanh nghiệp Việt Nam có chỗ dựa pháp

lý “của mình” để có được điều kiện, được chắp cánh vươn mạnh ra

bên ngoài. Cho đến nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn

thiếu đồng bộ, chưa ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau;

hệ thống đó đang được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc loại

bỏ những phần lỗi thời, hoặc ban hành mới.

Bên cạnh đó Việt Nam còn thiếu nhiều văn bản pháp luật

liên quan đến nhiều quy định quan trọng trong Hiệp định, chẳng

hạn như các quy định liên quan đến NTR, NT và quyền sở hữu trí

tuệ. Việt Nam cũng chưa tham gia vào một số điều ước quốc tế

quan trọng.

Một khía cạnh khác được nhiều bên đối tác chú ý là: Tính

minh bạch và khả năng dự báo được của các văn bản pháp luật của

Việt Nam còn rất thấp. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt

đối xử trong pháp luật Việt Nam chưa rõ và chưa thực hiện triệt

để. Trong hầu hết các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tín

dụng, tài chính ngân hàng,… pháp luật Việt Nam trên thực tế

dường như vẫn phân biết đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và

ngoài nước. Điều này dẫn đến một thực trạng là Việt Nam có quá

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

47

nhiều luật khác nhau điều chỉnh các hành vi có cùng một bản

chất.

C ó thể nói rằng, những khó khăn về mặt luật pháp đối với

công ty khi tiến vào thị trường Mỹ là rất lớn và chúng xuất

phát từ những khía cạnh sau: hệ thống luật liên quan đến

thương mại và kinh doanh của Việt Nam đã có, nhưng có thể là

chưa đủ, còn chung chung, chưa có hệ thống các luật gia tư vấn

cho các nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu, nhất là sang Mỹ;

trong khi đó hệ thống luật pháp thương mại Mỹ là rất phức tạp;

nhưng bản thân công ty và cả nhiều luật gia của nước ta lại có

hiểu biết ít về hệ thống luật pháp thương mại Mỹ. Như vậy, có

thể thấy rõ rằng, nếu chỉ biết sản xuất mà chưa biết kỹ càng

luật chơi buôn bán nơi mình đưa hàng đến bán thì kết quả sẽ là

hiệu quả kinh doanh thấp. Tác hại của hiệu quả kinh doanh thấp

không chỉ ảnh hưởng đến công ty, mà còn ảnh hưởng đến sự phát

triển kinh tế của đất nước nói chung.

N hững khó khăn của công ty trong những năm đầu tiến vào thị

trường Mỹ chắc vẫn còn nhiều, em tin rằng với sức bật mạnh mẽ

của công ty, với tiến trình hoàn thiện của hệ thống luật pháp

Việt Nam, với những học hỏi và kinh nghiệm được tích luỹ dần,

công ty sẽ khắc phục khó khăn để kinh doanh có hiệu quả trên

thị trường Mỹ. Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

48

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

49

CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÚP CÔNG TY

KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN KHI KINH DOANH TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ

3.1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Qua nghiên cứu môi trường luật pháp Mỹ ảnh hưởng tới hoạt

động của công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh và đặc biệt

là sau khi cá tra – cá basa của Việt Nam bị xử thua kiện ở Mỹ cho

thấy lý lẽ đúng đắn chưa chắc đã thắng trên “chợ” quốc tế, mà

đặc biệt là chợ Mỹ. Chuyện Việt Nam bị xử ép rõ ràng đến mức

ngay cả giới báo Mỹ và quốc tế cũng phải lên tiếng mỉa mai cái

gọi là “tự do hoá thương mại Hoa Kỳ”. Tuy nhiên, giờ không phải

là lúc nhắc lại chuyện cũ nữa. Sản phẩm Việt Nam vẫn ra chợ

quốc tế. Thương hiệu Việt Nam vẫn đang được người tiêu dùng Mỹ

lựa chọn. Nhưng điều quan trọng là qua đó chúng ta rút ra được

kinh nghiệm gì cho ngành thuỷ sản nói chung và cho các doanh

nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ nói

riêng.

Vấn đề đầu tiên là thông tin. Qua vụ kiện vừa rồi, khâu

cuối cùng (cũng là khâu căn bản quyết định sự thành công trong

việc xuất khẩu) là những người nuôi trồng thì lại rất thiếu

thông tin. Từ sự thiếu thông tin này có thể dẫn đến một số sơ

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

50

xuất kỹ thuật không đáng có, để phía bên kia vịn cớ bắt bẻ

mình.

Thứ hai, khi Việt Nam áp dụng kinh tế thị trường là phải

xây dựng tinh thần cộng đồng, làm ăn có tổ chức.Việc tham giai

các hiệp hội sẽ giúp cho người sản xuất hiểu biết, chia sẻ

thông tin, phối hợp với nhau định ra hướng phát triển chung.

Qua nghiên cứu cho thấy, các nước có nền kinh tế hoàn toàn tự

do là hoạt động nông, ngư nghiệp phải có tổ chức, đó là hiệp

hội các nghề nghiệp. Còn ở Việt Nam, chỉ khi các doanh nghiệp

đụng chuyện thì mới thấy lợi ích của mình bị thiệt hại. Hai năm

gần đây, VASEP bảo thống nhất giá bán, giá mua thì các doanh

nghiệp chỉ ừ mà không thực hiện. VASEP thì không thể ép các

doang nghiệp được, vì chỉ là tổ chức tự nguyện. Do đó, các

doanh nghiệp cần phải thông qua các hiệp hội, các cơ quan chức

năng… để có thể phản ứng và đối đầu với đối thủ của mình. Hơn

nữa, phải cùng nhau lo sao sản phẩm phải có nhãn hiệu, có tiêu

chuẩn quốc tế, và cùng nhau duy trì để phát triển cái nghề cá

bè truyền thống rất quý của mình.

Thứ ba, phải kiên trì tiếp thị, đoàn kết đấu tranh trên

thương trường, không để xảy ra tình trạng “quân ta phá quân

mình”. Doanh nghiệp Việt Nam khi tới làm ăn tại thị trường Mỹ

cần lưu ý rằng, việc quảng cáo, tiếp thị trên các phương tiện Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

51

truyền thông nơi đây có ảnh hưởng hết sức to lớn tới hiệu quả

kinh doanh. Tuy nhiên, đây là điều mà doang nghiệp không mấy

dễ dàng thực hiện để đảm bảo các yếu tố như ấn tượng, sáng tạo

và phù hợp với văn hoá, lối sống của Mỹ… Việc đoàn kết, thống

nhất quan điểm hành động cũng là vấn đề chúng ta cần phải củng

cố hơn. Thực tế điều cần thiết này đã không chỉ xảy ra ở cấp

công ty với công ty, mà ngay cả ở các cấp cao hơn. Sự mâu thuẫn,

thiếu gắn kết, mạnh ai lấy làm trong việc nội bộ của chính mình

cũng là một nguyên nhân làm chúng ta hành động lúng túng, kém

hiệu quả.

Thứ tư, muốn đi vào kinh tế thị trường thì phải biết

luật chơi của nó; chơi với Mỹ thì phải biết luật Mỹ và phải

chơi theo kiểu Mỹ, phải nắm bắt được điểm mạnh điểm yếu của Mỹ,

đồng thời chúng ta phải có giải pháp để đối phó khi bị chơi ép.

Luật chơi ở đây là luật pháp Mỹ, luật liên bang và luật 51 tiểu

bang. Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp ở Mỹ đều có luật sư

giỏi đứng đằng sau, còn các doanh nghiệp của ta chưa có được

điều đó.

Mặt khác các doanh nghiệp phải xem xét có gì chưa phù hợp

để điều chỉnh cho phù hợp trong quá trình hoạt động kinh

doanh. Chúng ta cứ nghĩ kinh tế thị trường là tự do hoàn toàn,

mạnh ai lấy làm, không phải như vậy. Như trong nghề nuôi cá Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

52

tra, cá basa vừa qua, năng lực xuất khẩu của công ty thuỷ sản

II Quảng Ninh chỉ được 40.000 tấn cá thành phẩm. Nhưng người

nuôi đang có trong tay khoảng 75.000 tấn và đa phần đứng ngoài

các câu lạc bộ, các hội đoàn chế biến xuất khẩu là những nơi

luôn gắn với thị trường.

Hơn nữa không nên bám chặt vào một thị trường, dù đó là

thị trường Mỹ. Có như thế mới khỏi bị ép.

Thứ năm, khi một nước xuất khẩu sang một nước khác với

sản phẩm có nhiều ưu thế hơn về chất lượng và giá cả thì chắc

chắn dù ít hay nhiều cũng sẽ đụng phải phản ứng của những nhà

sản xuất cùng loại sản phẩm trong nước đó. Đây có thể là phản

ứng không công bằng nhưng thức tế vẫn thường xảy ra và phải

chấp nhận như là quy luật của thương trường. Do đó, vấn đề mấu

chốt là chúng ta phải dự báo và định lượng được mức độ phản ứng

đó ngay cả trước khi đem hàng sang bán để đề ra được sách lược

đối phó thích hợp. Em nghĩ rằng cả 3 bên, từ phía xuất khẩu,

phía nhập khẩu và nhà sản xuất ở nước đó cần phải ngồi lại với

nhau ngay từ đầu. Mình lắng nghe họ, họ lắng nghe mình. Chúng

ta không mong đợi sự cảm thông, nhưng hy vọng sẽ có những giải

pháp cùng chung sống trên một thị trường. Nếu mọi việc vẫn

tiếp diễn gay gắt, chúng ta sẽ tính toán được một chiến lược

xuất khẩu khôn khéo và toàn diện hơn.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

53

Vào thị trường Mỹ khó khăn, phức tạp là như vậy, nhưng

cho đến nay chưa có một cơ quan chức năng nào của chính phủ

đứng ra đảm nhiệm việc tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp.

Ngay cả Bộ Thương mại cũng chưa phân định trách nhiệm này cho

bộ phận cụ thể nào của mình. Điều này có nghĩa, tạo điều kiện

cho doanh nghiệp vào Mỹ thật đấy, nhưng cho đến nay chúng ta

chỉ mới dừng lại ở giai đoạn “hô hào” mà thôi.

Những vấn đề rút ra trên đây không chỉ là bài học có ích cho

doanh nghiệp sản xuất chế biến, xuất khẩu hải sản mà còn có ích

chung cho tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

3.2. GIẢI PHÁP GIÚP CÔNG TY KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN KHI KINH

DOANH TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ

T rong chiến lược phát xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2005,

công ty sẽ phấn đấu trở thành ngọn cờ đầu xuất khẩu thuỷ sản ở

phía Bắc, đồng thời tăng tỷ trọng xuất sang thị trường có tiềm

năng lớn nhất là Mỹ nhằm đa dạng hoá thị trường và đảm bảo sự

phát triển bền vững của công ty. Tuy vây, những mục tiêu đó chỉ

có thể đạt được một cách đầy đủ nếu như các vấn đề đặt ra đối

với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản của công ty và vấn đề

khó khăn về luật pháp vừa được phân tích ở trên được giải quyết

bằng các biện pháp cụ thể và đồng bộ.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

54

Do giới hạn của phạm vi đề tài nên trong bài viết này em chỉ

đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn về mặt

luật pháp mà công ty đang gặp phải khi kinh doanh trên thị

trường Mỹ.

3.2.1. Giải pháp mang tầm vĩ mô

T rong bước đầu mở rộng quan hệ kinh tế sang thị trường Mỹ,

vai trò của các cơ quan chính phủ rất quan trọng. Chính phủ và

các Bộ vừa là người mở đường, tạo dựng quan hệ, người bảo hộ và

bảo vệ cho tất cả các doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu hàng

hoá sang Mỹ, dù đó là doanh nghiệp quốc doanh hay tư nhân.

Trong bài viết “Khởi động thực hiện Hiệp địh Thương mại

Việt Nam – Hoa Kỳ”, Thứ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam cho rằng,

các cơ quan của nhà nước có nhiệm vụ “… đẩy mạnh hơn nữa hoạt

động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

sớm mở trung tâm thương mại để giới thiệu sản phẩm; tăng cường

công tác hỗ trợ pháp lý và tháo gỡ vướng mắc về thủ tục visa cho

doanh nghiệp, thủ tục lập văn phòng đại diện và các rào cản phi

thuế quan mà Hoa Kỳ là nơi có rất nhiều vụ tranh chấp chống bán

phá giá, tự vệ… Tranh thủ vận động thu hút đầu tư công nghệ

cao, công nghệ sinh học và chế biến nông sản. Các Bộ, ngành

tiếp tục triển khai tốt chương trình hành động của Chính phủ Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

55

thực hiện Hiệp định Thương mại để khai thác hết tiềm năng của

thị trường này, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ,

tăng sản phẩm, xây dựng mạng lưới tiêu thụ trong nước để cạnh

tranh ngay trên đất nước ta khi mở cửa thị trường theo lộ

trình…”

Các biện pháp hỗ trợ của các tổ chức, cơ quan quản lý Nhà

nước giúp các doanh nghiệp nói riêng và các nhà sản xuất kinh

doanh hàng thuỷ sản nói chung không đi chệch hướng và đạt tới

thành công một cách thuận lợi hơn. Trong thời gian tới, sự hỗ

trợ của Nhà nước đối với sự phát triển xuất khẩu thuỷ sản bao

gồm:

Thứ nhất, là thực hiện chính sách đầu tư, tín dụng ưu đãi

một cách hợp lý hơn. Nguồn vốn ưu đãi này nên tập chung cho các

lĩnh vực xây dựng đội tàu đánh bắt xa bờ; phát triển các chợ,

cảng thu mau hải sản từ các vùng có tiềm năng lớn; hỗ trợ nuôi

trồng thuỷ sản và đổi mới công nghệ chế biến. Khi phân phối

nguồn vốn này cần đưa ra yêu cầu cam kết sử dụng đúng mục đích

và có hiệu quả đối với từng địa phương, doanh nghiệp và hộ dân.

Đồng thời có biện pháp kiểm tra liên tục, thường xuyên về tình

hình thực hiện thông qua cán bộ chuyên môn tín dụng để có biện

pháp sử lý kịp thời khi có sai phạm.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

56

Thứ hai, là tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất

lượng sản phẩm. Bộ Thuỷ sản và các cơ quan chức năng có liên

quan như Tổng cục đo lường chất lượng cần bổ sung những quy

định cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng và biện pháp kiểm tra giám

định đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản dựa trên

các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời tăng cường hoàn thiện năng

lực hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về

kiểm tra và chứng nhận vệ sinh thuỷ sản (hiện nay là Trung tâm

kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam -

NAFIQUACEN). Hoạt động của cơ quan này cần được tiến hành

thường xuyên và toàn diện hơn đối với các loại thuỷ sản khi đưa

ra thị trường tiêu thụ. Thêm vào đó cần có biện pháp tuyên

truyền để các chủ tàu, thuyền viên, các doanh nghiệp và các

cán bộ công nhân viên của họ hiểu rõ về tầm quan trọng của việc

đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Biện pháp tuyên truyền

có thể thông qua các hội thảo tổ chức theo cấp ngành; các buổi

nói chuyện chuyên đề tại các doanh nghiệp, đại phương,…

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cũng nên có sự

hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản bằng cách cung cấp

thông tin thị trường, tư vấn sản xuất nuôi trồng, giải pháp về

chính sách quản lý, luật pháp và những ưu đãi,… đến từng doanh

nghiệp, hộ dân.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

57

Em nhận thấy rằng, những nhiệm vụ và hoạt động nêu trên của

Nhà nước và các cơ quan của chính phủ trong định hướng quan hệ

với thị trường Mỹ là rất quan trọng, tạo được điều kiện và định

hướng bước đầu cho các doang nghiệp Việt Nam hoạt động. Tuy

nhiên, có thể do tính chất cấp bách của việc thực hiện Hiệp

định Thương mại Việt – Mỹ, mà chúng dừng lại ở tính chất tác

nghiệp.

Trong quan hệ với Mỹ, vấn đề hoạch định chiến lược lâu dài

là rất quan trọng, có thể là quan trọng nhất. Khi nghiên cứu

Mỹ, có thể nói rằng với một nền kinh tế thị trường tự do, nhưng

chính phủ Mỹ luôn có vai trò hết sức quan trọng trong việc

hoạch định và điều chỉnh các chính sách kinh tế cũng như điều

chỉnh toàn bộ hệ thống – xã hội của đất nước.

Mặc dù Mỹ có nền kinh tế lớn nhất thế giới, nhưng không

phải trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế đều đứng đầu

thế giới trong mọi lúc, mọi nơi và không bị thách thức căng

thẳng bởi những bạn hàng cạnh tranh nước ngoài ngày một phát

triển hơn. Người ta nói, thương trường là chiến trường, chính

phủ Mỹ dã dường như hành động rất đúng với phương châm này.

Với một nền kinh tế thị trường tự do lớn nhất thế giới,

nước Mỹ không để cho cơ chế thị trường tác động hàon toàn vào

nền kinh tế, mà có sự điều tiết với một sức mạnh “cân bằng Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

58

tương tự” với sức mạnh của thị trường. Điều này thể hiện rất

rõ trong thực tế ở Mỹ hiện nay.

Trước hết, chính phủ Mỹ là một trong những chủ thể hoạch

định chính sách quan trọng nhất. Qua mỗi một nhiệm kỳ 4 năm,

các Tổng thống và chính phủ mới ở Mỹ đều có những chính sách

kinh tế mới của mình. Chính sách mới này được định ra phù hợp

với xu hướng phát triển dài hạn của nền kinh tế Mỹ và nó được

đổi mới thích ứng với điều kiện mới, do đó, có thể thấy nền

kinh tế này luôn được đổi mới, năng động mà không gây xáo trộn

đến quá trình sản xuất kinh doanh của hệ thống kinh tế. Bên

cạnh việc hoạch định những chính sách kinh tế chung, chính phủ

Mỹ luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các ngành nghề

cạnh tranh có hiệu quả với nước ngoài, nghĩa là chính phủ luôn

can thiệp để tạo thuận lợi trong kinh doanh cho các doanh

nghiệp Mỹ. Điều đó được thể hiện ở việc chính phủ tài trợ cho

các hoạt động nghiên cứu – ứng dụng (tạo sản phẩm mới, nâng cao

chất lượng sản phẩm, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu bạn hàng,

khả năng cạnh tranh…) vừa tài trợ cho các doanh nghiệp dưới

nhiều hình thức để phát triển sản xuất ở trong và ngoài nước

(bảo hộ thị trường trong nước, giảm thuế,…), áp dụng luật

chống phá giá, trừng phạt kinh tế – chiến tranh kinh tế, đàm

phán mở cửa thị trường ngoài nước, gây sức ép kinh tế - chính

trị, buộc các nước thực hiện chế độ tự nguyện xuất khẩu (giảm

xuất khẩu vào Mỹ); trên bình diện quốc tế, Mỹ tham gia và chỉ Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

59

đạo dưới nhiều hình thức các hoạt động của WTO, của các tổ chức

kinh tế đa phương, song phương, tạo các luật chơi kinh tế quốc

tế có lợi cho Mỹ, tiếng nói của Mỹ thường chi phối hoạt động

của các tổ chức này do tiềm lực kinh tế to lớn của Mỹ…

Rõ ràng, chính phủ Mỹ có vai trò rất quan trọng, những

hoạt động chính sách và điều hành vĩ mô của chính phủ rất đa

dạng, một phần do sức mạnh và phạm vi hoạt động kinh tế Mỹ,

phần khác, theo em, do nhận thức của chính phủ và sự gắn kết

giữa bộ máy nhà nước với sự chi phối của các nhám lợi ích và các

giới chủ doanh nghiệp.

Sự khác biệt giữa việc hoạch định chính sách kinh tế ở Mỹ

và nước ta là rất lớn. Trước tiên là do chế độ chính trị – xã hội

khác biệt, thứ hai là do trình độ, quy mô và tính chất của nền

kinh tế cũng rất khác nhau; thứ ba, các mối quan hệ kinh tê -

chính trị của hai nước khác biệt nhau, các phương tiện (tài

chính, bộ máy…) được sử dụng để hoạch định chính sách cũng

khác nhau. Dù như vậy, vai trò của chính phủ nước ta, cũng như

chính phủ nước Mỹ đều rất quan trọng đối với mỗi nước của các

chính phủ đó. Vai trò của chính phủ Việt Nam được thể hiện ở

chỗ định ra những chính sách kinh tế vĩ mô dài hạn, nền kinh tế

nước ta sẽ phải phát triển như thế nào qua những chặng đường

trong tương lai, và chúng sẽ được điều chính qua từng nhiệm kỳ

của chính phủ với những chính sách kinh tế vĩ mô trung hạn, ở

nước ta là sau các kỳ Đại hội Đảng, nước ta có các chính phủ Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

60

mới. Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế thông qua các chính

sách vĩ mô, có tính chất định hướng, một mặt, làm cho nền kinh

tế phát triển một cách nhịp nhàng cân đối, rõ ràng, minh bạch,

thu hút được mọi người dân muốn làm kinh tế đều có thể tham gia

hoạt động kinh tế vì lợi ích của cá nhân mình, vừa phục vụ lợi

ích chung phát triển đất nước, mặt khác, chính phủ cần có

những chính sách kinh tế quốc tế phù hợp với thực tiễn, bảo vệ

được lợi ích của giới kinh doanh nước ta khi tham gia vào kinh

doanh quốc tế, đồng thời thu hút được nhiều vốn đầu tư nước

ngoài, nhiều nhà kinh doanh ngoại quốc vào làm ăn ở nước ta.

Chính phủ cần được chuyên nghiệp hoá, trong sạch, vững mạnh,

có hiểu biết tường tận các lý luân – học thuyết kinh tế, các

quá trình kinh tế trong nước, cũng như phải nắm vững những

biến đổi thường xuyên của tình hình kinh tế – chính trị quốc

tế.

Có thể mỗi nước có một hoặc nhiều hoàn cảnh khác nhau,

nhưng nếu có những định hướng đúng đắn, điều chỉnh tính hợp

lý, đổi mới tích cực, thì không thể nào nền kinh tế không phát

triển sôi động và mạnh mẽ được.

3.2.2. Giải pháp cấp công ty

T rong điều kiện của Việt Nam, hoạt động của các doanh

nghiệp nói chung và của công ty thuỷ sản II Quảng Ninh nói

riêng phụ thuộc trước tiên vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

61

nước, nhất là các đường lối, chủ trương, chính sách và sự chỉ

đạo của các bộ ngành.

Nếu sự lãnh đạo và chỉ đạo đó tạo được chân trời rộng lớn,

tạo được động lực và chỗ dựa cho công ty hoạt động, thì rõ ràng

vấn đề còn lại là của công ty.

Công ty có rất nhiều nhiệm vụ để khắc phục những khó khăn

của mình.

3.2.2.1. Nâng cao năng lực hoạt động của công ty để tạo ra các sản

phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ. Những biện pháp cụ thể

là:

Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ

ngoại thương lành nghề.

Ứng dụng công nghệ mã số, mã vạch vào hoạt động của

công ty. Từ năm 1990, rất nhiều nước trên thế giới yêu cầu

sản phẩm phải có mã số, mã vạch mới được nhập khẩu, nhất là

hàng thuỷ sản. Sản phẩm của Việt Nam nếu không có mã số mã

vạch thì sẽ không thể bán được hoặc muốn bán được thì phải

chấp nhận để bạn hàng nước sở tại gia công, vừa tốn kém,

vừa phức tạp, dẫn đến tình trạng mất thị trường. Vì vậy,

việc tiêu chuẩn EAN – Việt Nam ra đời (1995) và Việt Nam ra

nhập Hội mã số vật phẩm quốc tế đã đáp ứng được nhu cầu cấp

bách cần thể hiện các mã số mã vạch trên các sản phẩm của

Việt Nam, đánh dấu một bước quan trọng của các doanh

nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

62

Sử dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn

quốc tế (ISO) trong công ty.

Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 đề cập đến các yếu tố

chính trong quản lý chất lượng. Muốn thành công, công ty

phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng

hoá, bắt đầu từ khâu đánh bắt nuôi trồng đến quy trình sản

xuất và nghiệm thu sản phẩm. Công ty phải có chương trình

giáo dục đào tạo cho mọi người trong công ty và tiến hành tự

kiểm tra, đánh giá từng công đoạn theo chu kỳ quy định

trước.

Nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm bằng cách ứng

dụng hệ thống HACCP vào hoạt động sản xuất của công ty. Hệ

thống HACCP(Hazard Analysis Critical Cotrol Point –

Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là

hệ thống tiêu chuẩn được thiết kế riêng cho công nghệ

thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm. Hệ

thống HACCP chỉ có tính chất bắt buộc đối với các công ty

chế biến thực phẩm tại những lãnh thổ thừa nhận HACCP như

Mỹ và EU, nhưng trên thực tế, nếu nhà nhập khẩu của Mỹ mua

nguyên liệu từ nước ngoài thì họ phải chịu trách nhiệm về

nguyên liệu đó theo nguyên tắc HACCP kể từ khi hàng đến

cửa khẩu. Cơ chế này buộc họ phải đòi hỏi các nhà xuất khẩu

nước ngoài tuân thủ các nguyên tắc HACCP.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

63

3.2.2.2. Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp của Mỹ

Việc nghiên cứu những quy định liên quan đến xuất nhập

khẩu trong luật kinh doanh của Mỹ, cung cách làm ăn và tác

phong của người Mỹ… giúp các doanh nghiệp Việt Nam tính toán

cân nhắc và có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác với các

công ty Mỹ đến lúc nào để đạt hiệu quả cao nhất, rủi ro thấp

nhất.

Nếu công ty có xu hướng làm ăn lâu dài và ổn định trên thị

trường Mỹ, thì nên lập văn phòng đại diện ở Mỹ. Các văn phòng

này có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về luật pháp, thị hiếu,

giá cả, chất lượng và mẫu mã… để công ty trong nước kịp thời

nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thị trương Mỹ. Tuy nhiên,

khi lập một văn phòng đại diện thì công ty nên sử dụng luật sư

và các dịch vụ tư vấn về pháp luật để tránh những sai lầm do ít

am hiểu về luật. Họ sẽ đưa ra những lời khuyên, những hướng dẫn

bổ ích giúp công ty có được các cân nhắc và đưa ra các quyết

định đúng đắn để không những tránh được rủi ro về pháp luật, mà

còn có thể lợi dụng được các ưu đãi trong luật pháp của Mỹ.

Công ty cũng có thể tìm hiểu và có được tư vấn về hệ thông

luật pháp Mỹ thông qua các tổ chức trong nước như Bộ Thương

mại, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trung tâm phát Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

64

triển ngoại thương tại thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan thương

vụ Mỹ tại Việt Nam, các nhà môi giới Hải quan Mỹ và các ngân

hàng Mỹ tại Việt Nam… Công ty cũng cần tổ chức tiếp cận và phân

tích, khai thác thông tin thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với

thị trường thế giới thông qua các hội thảo, hội chợ, triển lãm

quốc tế ở cả trong nước và ở Mỹ. Công ty cũng cần phải chủ động

tìm kiếm, đàm phán, ký kết hợp đồng với các bạn hàng Mỹ, tổ

chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị

trường.

3.2.2.3. Tiến hành mua bảo hiểm cho sản phẩm

Mỹ là một thị trường mà người tiêu dùng rất hay kiện cáo.

Vì vậy, một trong những vấn đề cần quan tâm là luật pháp về

trách nhiệm đối với sản phẩm, được dùng để bảo vệ người tiêu

dùng Mỹ. Những vụ kiện cáo về trách nhiệm sản phẩm do người

tiêu dùng Mỹ kiện có thể làm cho công ty tốn nhiều triệu USD.

Để tránh được những phiền phức và tốn kém trên, công ty nên mua

bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu hàng sang thị trương này.

Theo luật trách nhiệm sản phẩm của Mỹ, nếu người sản xuất

thua kiện liên quan đến chất lượng sản phẩm sẽ bị tịch biên tất

cả tài sản ở thị trường Mỹ, và không bao giờ có thể quay lại

kinh doanh ở thị trường này. Vì vậy, công ty nên mua bảo hiểm Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

65

cho tất cả các thiệt hại về trách nhiệm sản phẩm. Loại bảo hiểm

này, không những bảo hiểm các rủi ro về tách nhiệm sản phẩm mà

còn bảo hiểm cả các rủi ro khi qúa cảnh qua biên giới và các

loại rủi ro khác có liên quan.

3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản

V ai trò của tiếp thị là rất quan trọng, nhất là với một thị

trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ.

Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, công ty cần làm tốt

công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiên cứu thị

trương, tiếp thị qua hội trợ triển lãm, tiếp thị qua mạng

Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới , xây dựng bộ

phận đại diện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận

các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm

thuỷ sản của công ty, từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu

sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới.

3.2.2.5. Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp.

T hông qua các vụ kiện trong thời gian vừa qua như: Hiệp hội

cá nheo Mỹ kiện không cho các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng tên

gọi catfish đối với cá tra, cá basa xuất khẩu vào Mỹ; vụ kiện

Việt Nam bán phá giá mặt hàng này và gần đây nhất là vụ kiện Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

66

Việt Nam bán phá giá cả tôm vào thị trường Mỹ cho thấy một mặt

công ty phải thật am hiểu về pháp luật của thị trường Mỹ cũng

như luật thương mại quốc tế, mặt khác phải có một đội ngũ

chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm

bắt được thông tin để tư vấn cho công ty, giúp công ty có thể

điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Bên

cạnh đó, một sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý

của các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng.

Vậy khi phải đối phó với tình hình trên thì công ty có thể

làm gì?

Vận động được coi là biện pháp đầu tiên trong mọi tình

huống. Có thể theo trình tự chung là vận động bằng nhiều con

đường để các doanh nghiệp hoặc các cơ quan có thẩm quyền của

nước nhập khẩu không nộp đơn kiện chống bán phá giá. Khi đơn đã

nộp thì cần vận động cơ quan có thẩm quyền không tiến hành điều

tra với nhiều lý do như có bằng chứng hiển nhiên không có phá

giá hoặc không có thiệt hại, hoặc phá giá ở mức de minimis, tức

là biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu, hoặc tỷ lệ nhập

khẩu từ công ty có thể bỏ qua, tức là chiếm dưới 3% tổng nhập

khẩu mặt hàng đó.

Khi cơ quan thẩm quyền của Mỹ vẫn tiếp tục điều tra thì

lại tích cực vận động họ không áp dụng biện pháp tạm thời,

chẳng hạn với lý do hàng nhập khẩu chưa gây thiệt hại vật chất

cho ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp công ty thấy Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

67

khả năng đối tác sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá một cách

chính thức là khó tránh khỏi thì cần vận động để mức thuế chống

bán phá giá càng thấp càng tốt, chẳng hạn vận động những nhà

sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu như là nguyên liệu đầu vào và

người tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu gây sức ép với cơ quan

thẩm quyền áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá.

Nếu công ty kết hợp thêm vận động chính trị hoặc có những

đề xuất thương mại có giá trị cao thì sẽ tác động lớn tới quá

trình điều tra và ra quyết định liên quan tới chống bán phá giá

của đối tác.

Trong trường hợp vận động không đem lại kết quả, công ty

cần phải có những giải pháp tình thế để hạn chế phần nào thiệt

hại và tránh bị sa lầy trong các tranh chấp về bán phá giá.

Tuy nhiên, ngay từ bây giờ công ty phải có hành động cụ thể để

đối phó với biện pháp này trong dài hạn.

Thứ nhất, công ty cần chỉ ra đơn có hợp lệ hay không, dựa

trên hai khái niệm là sản phẩm tương tự và ngành sản xuất trong

nước.

Thứ hai, trong một số tranh chấp bán phá giá công ty nên

đặt vấn đề lợi ích vật chất lên hàng đầu hơn là chúng ta theo

đuổi mục tiêu “ta đúng, đối tác sai”. Nói cách khác, cho dù

công ty biết chắc là ta không bán phá giá một sản phẩm nào đó, Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

68

nhưng nếu thấy khả năng thắng kiện là không cao và tốn kém, khi

đó công ty nên đưa ra nhân nhượng để đỡ bị thiệt, đối tác cũng

nhân hoà được quyền lợi kinh tế và chính trị trong nội bộ nước

họ. Biện pháp nhân nhượng được luật phá giá của WTO cho phép là

cam kết giá. Trong quá trình điều tra, nước xuất khẩu có thể tự

nguyện cam kết tăng giá xuất khẩu. Nếu nước nhập khẩu chấp

nhận đề xuất này thì quá trình điều tra chấm dứt trừ khi nước

xuất khẩu vẫn yêu cầu tiếp tục điều tra.

Cam kết tăng giá xuất khẩu là một biện pháp khá đơn giản,

đỡ tốn chi phí thao đuổi tranh chấp. Một ưu điểm rõ ràng là nhà

xuất khẩu được hưởng phần lớn chênh lệch giữa giá bán tại nước

nhập khẩu trước và sau khi tăng giá xuất khẩu. Trong khi đó,

nếu bị áp dụng thuế chống bán phá giá thì có thể thấy rằng giá

bán tại nước nhập khẩu tăng lên nhưng nhà xuất khẩu không được

lợi gì cả. Hơn nữa, sau khi bị đánh thuế chống bán phá giá, nhà

xuất khẩu sẽ dần dần phải tăng giá để không bị coi là bán phá

giá nữa. Trong khi chờ đợi cơ quan rà soát kiểm tra để dỡ bỏ

thuế chống phá giá, giá hàng xuất khẩu sẽ bị tăng vọt do thuế

chống bán phá giá vẫn tiếp tục đánh vào hàng hoá đã được nâng

giá. Điều này dẫn dến sự ngưng trệ xuất khẩu và ảnh hưởng lớn

tới sản xuất mặt hàng đó tại nước xuất khẩu.

3.2.2.6. Khi làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ, công ty

cần lưu ý những vấn đề sau đây: Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

69

- Cung cấp tất cả các thông tin được yêu cầu trong tờ khai

hải quan và hoá đơn.

- Chuẩn bị cẩn thận các tờ khai và đánh máy một cách rõ

ràng.

- Các chứng từ phải ghi đầy đủ các thông tin được thể hiện

trong một phiếu đóng gói hợp thức.

- Đánh dấu và đánh số từng kiện hàng sao cho tương ứng với

các số hiệu và ký hiệu thể hiện trong chứng từ.

- Mô tả chi tiết từng loại hàng hoá của từng kiện hàng

trong hoá đơn chứng từ.

- Ghi ký hiệu hàng hoá cùng tên nước xuất xứ lên hàng hoá

một cách rõ ràng và dễ thấy, trừ trường hợp hàng hoá đó được

miễn trừ khỏi các quy định về ghi tên nước xuất xứ.

- Tuân thủ các điều kiện chung của các Đạo luật riêng biệt

của Mỹ áp dụng cho hàng hoá của nhà xuất khẩu, ví dụ như các quy

định liên quan tới thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ uống có

cồn hay các chất phóng xạ.

- Tuân thủ nghiêm ngặt những hướng dẫn về: cách lập hoá

đơn, đóng gói, tên mác, nhãn hiệu… mà khách hàng Mỹ yêu cầu.

- Hợp tác với Hải quan Mỹ trong việc xây dựng các tiêu

chuẩn về bao gói cho hàng hoá của nhà xuất khẩu.

- Tổ chức kiểm tra an ninh chặt chẽ ở cơ sở sản xuất cũng như

trong quá trình vận chuyển hàng hoá tới nơi gửi hàng (bằng tàu

biển, máy bay…). Nên chở hàng bằng tàu có tham gia Hệ thống Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

70

kiểm định hàng hoá tự động. Nếu sử dụng môi giới hải quan để

thực hiện giao dịch, nên thuê một hãng có tham gia vào hệ thống

môi giới tự động.

T rong những năm tới, nếu như điều kiện thiên nhiên thuận

lợi và các biện pháp nêu trên được thực hiện một cách đồng bộ

thì ngành thuỷ sản nói chung và công ty thuỷ sản II Quảng Ninh

nói riêng sẽ không ngừng phát triển. Từ đó sẽ khẳng định thêm

được vị thế của thuỷ sản là mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Nhờ

vậy sẽ nâng cao được mức sống, trình độ của người lao động

trong ngành, đồng thời nâng cao được lợi nhuận cho công ty và

đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

71

KẾT LUẬN Mặc dù trong thời gian qua có những biến động về thị trường thuỷ sản

Mỹ, nhưng nhìn chung hàng thuỷ sản của công ty vẫn xuất khẩu được. Tuy

vậy, công ty vẫn còn đang gặp khá nhiều khó khăn về luật pháp khi kinh

doanh trên thị trường Mỹ.

Như vây, vấn đề đặt ra trước tiên đối với công ty là phải sản xuất kinh

doanh tốt, có chất lượng và có uy tín. Tuy nhiên, đây không phải là một

điều đơn giản. Có người cho rằng, cứ có sản phẩm chất lượng tốt, đạt yêu

cầu tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của Mỹ, được người tiêu dùng

Mỹ chấp nhận, thì vẫn có thể tiếp tục xuất sang Mỹ. Thực tế có thể như vậy,

nhưng em cho rằng trong làm ăn kinh doanh, nên tránh những rắc rối kiện

tụng, nhất là ở Mỹ.

Để tránh được những rắc rối như vậy, công ty phải nhanh chóng tự

lớn lên, về công nghệ, về hiểu biết và kinh nghiệm quản trị kinh doanh, về

luật và lệ của nước mình và nước Mỹ để tiến hành làm ăn kinh doanh, về

luật lệ quốc tế và của Mỹ để chiến thắng trong kiện tụng, nếu buộc phải

như vậy.

Như trong bài đã phân tích, nếu công ty có sản phẩm tốt, nhưng

không biết “tô điểm” cho nó (hay tô điểm chưa đủ), không quảng cáo tiếp

thị tốt, nhãn mác nhập nhèm, giao hàng thất thường không đúng thời hạn,

cố bán những hàng mà người sở tại không ưa thích lắm, hoặc đưa ra

những hàng hoá vào thị trường nào đó đã tràn ngập hàng hóa cùng loại

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

72

có chất lượng và giá cả hợp lý hơn… thì rõ ràng khả năng thất bại là nhiều

hơn. Đấy là chưa kể những sản phẩm có chất lượng chưa tốt.

Qua bài viết, giúp công ty thấy được ranh giới giữa vai trò của các cấp

điều hành vĩ mô và vai trò hoạt động của công ty là rất rõ ràng. Các cấp vĩ

mô không thể làm thay cho công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Công ty hoàn toàn có khả đối phó với mọi khó khăn trong kinh doanh và

phát huy mọi mặt sáng tạo chủ động của mình để sản xuất kinh doanh có

hiệu quả.

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách và giáo trình:

1. PGS.TS. Nguyễn Thị Hường - Giáo trình Kinh Doanh Quốc

Tế – Tập I- Nhà xuất bản Thống Kê - 2001.

2. Võ Thị Thanh Thu – Những giải pháp về thị trường cho

xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam – Nhà xuất bản Thống Kê - 2002.

Báo và tạp chí:

1. TS. Đỗ Đức Bình – Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tác

động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam- Tạp chí

Kinh Tế và Phát Triển – số 11/2001 – tr.20

2. PGS.TS. Nguyễn Thị Hường - Đẩy mạnh xuất hàng hoá Việt

Nam sang thị trường Hoa Kỳ – Tạp chí Kinh Tế và Phát

Triển – số 11/2001 – tr.29

3. ThS. Nguyễn Thị Thu Hương – Xuất khẩu thuỷ sản của Việt

Nam vào Mỹ, cơ hội và thách thức – Tạp chí Thị trường và

quản lý – số 6/2002 – tr.13

4. ThS. Lê Công Toàn – Những điều mà doanh nghiệp cần biết

để thâm nhập vào thị trường Mỹ – Tạp chí Thương mại – số

7/2002 – tr.6

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

74

5. PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng- Tìm hiểu cuộc chiến catfish

của Mỹ chống cá tra và cá basa của Việt Nam – Châu Mỹ ngày

nay – số 4/2002 – tr.25

6. Nguyễn Đình Lương – Dự luật HR1950 gây cản trở quá trình

thực hiện Hiệp định Thương mại song phương –Châu Mỹ ngày

nay – số 8/2003- tr.64

7. Tạp chí Kinh tế và dự báo- số 5/2002 – tr.10

8. Lương Van Tự – Khởi động thực hiện Hiệp định Thương mại

Việt – Mỹ – Báo Nhân Dân – 23/12/2002 – tr2

9. Ngô Duy Thực – Công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh

đón nhận danh hiệu anh hùng lao động – Tạp chí Thuỷ sản-

số 8/2003 – tr.7

Các nguồn khác:

1. Báo cáo tổng kết từ năm 1994 đến năm2002 của Bộ Thuỷ sản

2.Http://www.vneconomy.com

3.Http://www.vnexpress.com

4.Http://www.vinseek.com

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

75

Đề án môn học Đỗ Thị Thu Hồng - KDQT 42

76