PH NG PHÁP 1E E8 1E CC Đ TÀI: CÔNG NGH S N XU T AXIT SUNFURIC L p:ĐHPT4
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
2 -
download
0
Transcript of PH NG PHÁP 1E E8 1E CC Đ TÀI: CÔNG NGH S N XU T AXIT SUNFURIC L p:ĐHPT4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP T/P HỒ CHÍ MINHKHOA CÔNG NGHỆ HOÁ HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌCPHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT AXIT SUNFURIC
Người thực hiên: lê giang nam Mã số sinh viên 08224421 Lớp:ĐHPT4
1
Người hướng dẫn: TS.
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
Mục lục1.Mở đầu........................................................................................1
2.Nội dung.....................................................................................2
2.1.Lịch sử......................................................................................2
2.2.Sản xuất axit sunfuric ............................................................3
2.2.1 .Vai trò axit sunfuric.............................................................3
2.2.2.Nguyên liệu để sản xuất axitsunfuric..................................4
2.2.3. Công nghệ sản xuất axít sunfuric.......................................5
2.2.4 Từ lưu huỳnh.........................................................................9
2.2.5 Từ khí sunfua hydro............................................................10
2.2.6 Từ quặng pyrit sắt..............................................................10
2.3. Công nghệ sạch sản xuất axit sunfuric................................12
2.4. Một số nhà máy sản xuất axit sunfuric trong nước............14
2.4.1 Nhàmáy Super lân Long Thành .........................................15
2.4.2 Nhà máy Supe Lâm Thao:...................................................15
2
2.4.3 Nhà máy hoá chất Tân Bình...............................................15
3.Kết luận.....................................................................................16
4.Tài liệu tham khảo....................................................................17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP T/P HỒ CHÍ MINHKHOA CÔNG NGHỆ HOÁ HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌCPHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT AXIT SUNFURIC
3
Người thực hiên: lê giang nam Mã số sinh viên 08224421 Lớp:ĐHPT4 Người hướng dẫn: TS.
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
4
Mục lục1.Mở đầu........................................................................................1
2.Nội dung.....................................................................................2
2.1.Lịch sử......................................................................................2
2.2.Sản xuất axit sunfuric ............................................................3
2.2.1 .Vai trò axit sunfuric.............................................................3
2.2.2.Nguyên liệu để sản xuất axitsunfuric..................................4
2.2.3. Công nghệ sản xuất axít sunfuric.......................................5
2.2.4 Từ lưu huỳnh.........................................................................9
2.2.5 Từ khí sunfua hydro............................................................10
2.2.6 Từ quặng pyrit sắt..............................................................10
2.3. Công nghệ sạch sản xuất axit sunfuric................................12
2.4. Một số nhà máy sản xuất axit sunfuric trong nước............14
2.4.1 Nhàmáy Super lân Long Thành .........................................15
2.4.2 Nhà máy Supe Lâm Thao:...................................................15
2.4.3 Nhà máy hoá chất Tân Bình...............................................15
3.Kết luận.....................................................................................16
4.Tài liệu tham khảo....................................................................17
5
1.Lịch sử
Sự phát hiện ra axít sulfuric được gắn với nhà
hoá học và là nhà giả kim thuật Hồi giáo, Jabir ibn
Hayyan vào thế kỉ thứ 8. Trong thế kỉ thứ 9, bác sĩ
và nhà giả kim thuật người Ba Tư Ibn Zakariya al-
Razi là người đã thu được chất này bằng cách chưng
cất khô các loại khoáng chất như sulfat sắt
(II) ngậm 7 phân tử nước (FeSO4 • 7H2O và đồng (II)
sulfat ngậm 5 phân tử nước (CuSO4 • 5H2O. Khi bị
nung nóng, các hợp chất này bị phân hủy tương ứng
thành ôxít sắt (II) và ôxít đồng (II), giải
phóng nước và triôxít lưu huỳnh, chúng kết hợp với
nhau tạo thành một dung dịch loãng của axít
sulfuric.
Phương pháp này đã được phổ biến tới châu Âu
thông qua việc dịch các luận thuyết và sách Hồi
giáo bởi các nhà giả kim thuật châu Âu, chẳng hạn
như người Đức Albertus Magnus (thế kỷ 13).Axit
sunfuric được các nhà giả kim thuật châu Âu thời
trung cổ biết tới như dầu sunfat, linh hồn của
sunfat hay đơn giản là sunfat. Từ sunfat (vitriol)
có nguồn gốc từ Latinh, nghĩa là 'kính', gợi đến bề
ngoài trong suốt của muối sunfat, những chất cũng
7
được gọi bằng cái tên này. Muối được gọi là sunfat
bao gồm đồng (II) sunfat (sunfat xanh lam hay
sunfat La Mã), kẽm sunfat (sunfat trắng), sắt (II)
sunfat (sunfat lam), sắt (III) sunfat (sunfat của
sao Hoả) và coban sunfat (sunfat đỏ).Sunfat được
coi như chất căn bản quan trọng trong giả kim
thuật, được dùng để tạo ra đá trường sinh. Sunfat
đậm đặc được dùng như chất trung gian khi phản ứng
với các chất khác, do axit không phản ứng với vàng,
sản phẩm cuối cùng của quá trình giả kim. Tầm quan
trọng của sunfat đối với giả kim thuật được nhấn
mạnh trong phương châm của giả kim thuậtVisita
Interiora Terrae Rectificando Invenies Occultum
Lapidem nghĩa là "Đi sâu vào lòng đất, bạn sẽ tìm
ra viên đá bí mật/ được cất giấu", trong L'Azoth
des Philosophes được viết bởi nhà giả kim thuật thế
kỉ thứ 15 Basilius Valentinus.Trong thế kỷ 17, nhà
hóa học người Đức-Hà Lan Johann Glauber đã điều chế
axít sulfuric bằng cách đốt lưu huỳnh cùng với kali
nitrat (KNO3), với sự có mặt của hơi nước. Khi
KNO3bị phân hủy, nó ôxi hóa lưu huỳnh thành SO3, là
chất kết hợp với nước để tạo ra axít sulfuric.
Trong năm 1736, Joshua Ward, một dược sĩ
8
người London đã sử dụng phương pháp này để bắt đầu
việc sản xuất hàng loạt axít sulfuric lần đầu
tiên.Năm 1746 ở Birmingham, John Roebuck bắt đầu
sản xuất axít sulfuric theo cách này trong các
bể chì, là những thiết bị khỏe hơn và ít đắt tiền
hơn cũng như có thể chế tạo lớn hơn so với các loại
đồ chứa bằng thủy tinh đã sử dụng trước đây. Công
nghệ bể chì này cho phép công nghiệp hóa việc sản
xuất axít sulfuric hiệu quả hơn và cùng với một số
cách làm tinh khiết thì nó đã là phương pháp chuẩn
để sản xuất trong gần như hai thế kỷ.Axít sulfuric
của John Roebuck chỉ chứa khoảng 35–40% a xít.
Các phương thức làm tinh khiết sau này
trong công nghệ bể chì của nhà hóa học người
Pháp Joseph-Louis Gay-Lussacvà nhà hóa học người
Anh John Glover đã cải thiện nó tới 78%. Tuy nhiên,
việc sản xuất một số thuốc nhuộm và các hóa chất
khác đòi hỏi phải có sản phẩm đậm đặc hơn, và trong
suốt thế kỷ 18 điều này chỉ có thể thực hiện bằng
cách chưng cất khô các khoáng chất với kỹ thuật
tương tự như các công nghệ nguyên thủy của giả kim
thuật. Pyrit (đisulfua sắt, FeS2) đã bị nung nóng
trong không khí để tạo ra sắt (II) sunfat (FeSO4),
9
chất này bị ôxi hóa bằng cách nung nóng tiếp trong
không khí để tạo ra sắt (III) sulfat (Fe2(SO4)3), là
chất khi bị nung tới 480 °C bị phân hủy để tạo
ra sắt(III) oxit và triôxít lưu huỳnh, chất này cho
qua nước để tạo thành axít sulfuric với nồng độ bất
kỳ. Chi phí cao của công nghệ này đã ngăn cản việc
sản xuất/sử dụng đại trà axít sulfuric đậm đặc.Năm
1831, nhà buôn dấm người Anh Peregrine Phillips đã
lấy bằng sáng chế cho công nghệ kinh tế hơn để sản
xuất triôxít lưu huỳnh và axít sulfuric đậm đặc,
ngày nay được biết đến như là công nghệ tiếp xúc.
Cuối cùng thì tất cả các nguồn cung cấp axít
sulfuric trên thế giới ngày nay đều sản xuất theo
phương pháp này
2.Sản xuất axit sunfuric
2.1 .Vai trò axit sunfuric
Axít sulfuric có nhiều ứng dụng, và nó được sản
xuất với một sản lượng lớn hơn bất kỳ chất hóa học
nào, ngoại trừ nước. Sản lượng của thế giới năm
2001 là 165 triệu tấn, với giá trị xấp xỉ 8 tỷ USD.
Ứng dụng chủ yếu của nó bao gồm sản xuất phân bón,
chế biến quặng, tổng hợp hóa học, xử lý nước thải
và tinh chế dầu mỏ.Nhiều prôtêin được tạo thành từ
10
axít amin có chứa sulfua. Các axít này tạo ra axít
sulfuric (hay ion sulfat, SO42-) khi chúng được
trao đổi trong cơ thể
Axít sulfuric là hóa chất thương mại rất quan
trọng, và thực vậy sản lượng axít sulfuric của một
quốc gia là một chỉ số tốt về sức mạnh công nghiệp
của quốc gia đó. Sử dụng chủ yếu của axít sulfuric
(60% sản lượng toàn thế giới) là trong "phương pháp
ướt" của việc sản xuất axít phốtphoric, là chất
được sử dụng để sản xuất các loại phân hóa học
phốtphat cũng như triphốtphat natri để làm bột
giặt. Trong phương pháp này đá phốtphat được sử
dụng, và hơn 100 triệu tấn được sản xuất hàng năm.
Nguyên liệu thô được chỉ ra dưới đây là floro-
apatit, mặc dù thành phần chính xác có thể dao động
nhiều. Nó được xử lý bằng axít sulfuric 93% để tạo
ra sulfat canxi, florua hiđrô (HF) và axít
phốtphoric. HF được loại ra trong dạng axít
florosilicic. Quy trình tổng quan có thể biểu diễn
như sau:
Ca5F(PO4)3 + 5 H2SO4 + 10 H2O → 5 CaSO4·2 H2O + HF
+ 3 H3PO4
Các loại phân bón sulfat như sulfat amoni
11
được sản xuất từ axít
sulfuric,mặcdùvớisảnlượngíthơnsovớicácphốtphat.
Một ứng dụng quan trọng khác của axít sulfuric là
để sản xuất sulfat nhôm, còn được biết như là phèn
làm giấy. Nó có thể phản ứng với một lượng nhỏ xà
phòng trên các sợi bột giấy nhão để tạo ra
cacboxylat nhôm dạng giêlatin, nó giúp làm đông lại
các sợi bột giấy thành bề mặt cứng của giấy. Nó
cũng được sử dụng để sản xuất hiđrôxít nhôm, là
chất được sử dụng trong các nhà máy xử lý nước để
lọc các tạp chất, cũng như để cải thiện mùi vị của
nước. Sulfat nhôm được tạo ra từ phản ứng của bôxít
với axít sulfuric:
Al2O3+3H2SO4→Al2(SO4)3+3H2O
Axít sulfuric cũng được sử dụng cho các
mục đích khác trong công nghiệp hóa chất. Ví dụ, nó
là chất xúc tác axít thông thường để chuyển hóa
cyclohexanoneoxim thành caprolactam, sử dụng để sản
xuất nylon (nilông). Nó cũng được sử dụng để sản
xuất axít clohiđric từ muối ăn bằng công nghệ
Mannheim. Phần nhiều H2SO4 được sử dụng trong công
nghiệp hóa dầu để tinh luyện dầu mỏ, ví dụ làm chất
xúc tác cho phản ứng của isobutan với isobutylen để
12
tạo ra isooctan, là hợp chất làm tăng chỉ số octan
của xăng. Axít sulfuric cũng là quan trọng cho sản
xuất các loại thuốc nhuộm.
Hỗn hợp của axít sulfuric với nước được sử dụng làm
chất điện giải trong hàng loạt các dạng ắc quy
axít-chì trong đó nó tham gia vào phản ứng thuận
nghịch để chì (Pb) và điôxít chì (PbO2) chuyển hóa
thành sulfat chì(II). Axít sulfuric cũng là thành
phần cơ bản của một số chất làm sạch các cống rãnh,
được sử dụng để làm sạch các vật cản có chứa giấy,
giẻ rách và các vật liệu khác mà không dễ làm sạch
bằng các dung dịch xút ăn da.
2.2.Nguyên liệu để sản xuất axitsunfuric
Nguồn nguyên liệu sản xuất axit sunfuric trên
thế giới: Theo thống kê, sản lượng axit sunfuric
trên thế giới được sản xuất từ các nguồn nguyên
liệu khác nhau như sau:
-Đi từ lưu huỳnh: 65% có nhiều ở Mỹ Nga Canada là
nguồn nguyên liệu chủ yếu
-Đi từ khí thải của ngành luyện kim (như SO2,
H2S,..): 23%
-Đi từ quặng pirit: 9%
13
-Đi từ các nguồn khác: 3% thạch cao CaSO4.2H2O hoặc
CaSO4 khan ,Phế thải chứa hợp chất S
2.3. Công nghệ sản xuất axít sunfuric
Axít sunfuric được sản xuất từ hai dạng nguyên
liệu chính là lưu huỳnh nguyêntố hoặc quặng chứa
lưu huỳnh (như quặng pyrít) dựa trên hai phương
pháp chính:
- Phương pháp tiếp xúc đơn và hấp thụ đơn với hiệu
suất chuyển hoá SO2 đạt98%: Nguyên liệu sử dụng là
quặng pyrit sẽ có tiềm năng cao gây ô nhiễm
môitrường bởi: Khí thải chứa SO2, H2SO4 , bụi xỉ
pyrit với nồng độ cao; Nước thảicó tính axít cao và
xỉ pyrit có chứa hàm lượng lưu huỳnh đáng kể (4%
đối vớilò đốt ghi bằng và 1% đối với lò đốt tầng
sôi). Do vậy, hiện nay phương phápnày gần như không
còn được áp dụng;
- Phương pháp tiếp xúc kép và hấp thụ kép với hiệu
suất chuyển hoá SO2
thànhSO3 trong khoảng 99,5 - 99,9%. Phương pháp này
sử dụng 2 thiết bị chuyểnhoá (chuyển hoá 2 cấp), do
hiệu suất chuyển hoá cao nên giảm được lượng
SO27thoát vào khí quyển và do hiệu suất hấp thụ SO3
14
với nước cao nên giảm được lượng SO3 thất thoát ra
ngoài.
Với việc áp dụng công nghệ này đồng thời nguyên
liệu sử dụng là lưu huỳnhthay cho pyrit, sản xuất
axit sunfuric gần như là công nghệ không có nước
thải và chấtthải rắn và khí thải có chứa chất ô
nhiễm với nồng độ thấp.
Dưới đây là những trình bày để tham khảo về công
nghệ sản xuất axit sunfuricbằng phương pháp tiếp
xúc kép và hấp thụ kép, nguyên liêu sử dụng là lưu
huỳnhnguyên tố.
15
Công nghệ sản xuất axít sunfuric theo công nghệ này
được hình thành từ 3 quátrình cơ bản gồm: đốt lưu
huỳnh, chuyển hoá SO2 và sấy khô khí và hấp thụ
SO3.
Sau khi đốt nguyên liệu thành SO2, qua các
thiết bị lọc bụi, tách tạp chất, SO2 đi vào thiết
bị oxy hóa SO2 thành SO3. Quá trình oxy hóa SO2
thành SO3 là một quá trình quan trọng trong sản
xuất axit sunfuric. phản ứng oxy hóa SO2 là phản
ứng đồng thể, khi không có xúc tác phản ứng xảy ra
rất chậm thậm chí cả ở nhiệt độ cao. phản ứng có
năng lượng hoạt hóa lớn, khoảng 120 kJ/mol. Có hai
dạng xúc tác được sử dụng để sản xuất axit
sunfuric, đó là xúc tác kim loại và xúc tác phi kim
loại:
- Xúc tác kim loại: được sử dụng đầu tiên là
platin. Xúc tác này có hoạt tính cao nhưng dễ bị
ngộ độc xúc tác và giá thành rất đắt. Hiện nay,
người ta không sử dụng loại xúc tác này. Có một số
loại kim loại khác như Rh, Ir, Pd... được sử dụng
làm xúc tác nhưng hoạt tính thấp hơn Pt.
- Xúc tác phi kim loại: đây là loại xúc tác được sử
dụng rộng rãi để oxy hóa SO2 trong công nghiệp bao
17
gồm một số oxit kim loại như: oxit sắt, oxit crom,
oxit vanadi... Ban đầu người ta dùng xúc tác sắt và
oxit crom nhưng xúc tác này có mức độ chuyển hóa
trên xúc tác thấp. Oxit vanadi có hoạt tính thấp
nhưng xúc tác này lại bền nhiệt, rẻ tiến và tổng bề
mặt riêng lớn. Hiện nay trong công nghiệp sản xuất
axit sunfuric oxit vanadi được sử dụng
làmxúctáckháphổbiến.Sau khi oxy hóa SO2 thành SO3,
SO3 được hấp thụ bằng axit sunfuric trong tháp hấp
thụ. Ban đầu SO3 hòa tan trong axit sunfuric, sau
đó phản ứng với nước tạo thành axit sunfuric theo
phản ứng sau:nSO3+H2O=H2SO4+(n-1)H2O
Sau đó axit sunfuric sẽ hấp thụ SO3 thành dung dịch
axit sunfuric có những nồng độ khác nhau tùy theo
tỷ lệ giữa khí SO3 và nước.
Khin>1sảnphẩmlàoleum.
Khi n=1 sản phẩm là axit sunfuric 98%.
Khi n<1 sản phẩm là axit sunfuric loãng. -Thời gian tiếp xúc tăng thì tốc độ chuyển hóa tăng
thông thường tháp tiếp xúc có 4 tầng tiếp xúc ,gần
đây người ta sử dụng tháp tầng sôi
18
- Quá trình 1: đốt lưu huỳnh
Bản chất của quá trình này là ôxi hoá (đốt) lưu
huỳnh để tạo thành SO2:
S + O2 → SO2
Do vậy, trong quá trình này, lưu huỳnh nguyên tố
trước hết được làm nóng
chảy, được lọc và sau đó được bơm áp lực cao phun
vào thiết bị đốt. Lưu huỳnh bị cháy với không khí
khô và sạch đã được sấy từ tháp sấy đưa tới (sử
dụng axít H2SO4 93 -95%). Khí giầu SO2 nóng có nồng
độ khoảng 10,5% thể tích được làm nguội trongnồi
hơi tận dụng nhiệt và thiết bị gia nhiệt hơi quá
nhiệt. Nhiệt độ khí ra khỏi thiết bịđốt là gần
1050oC và nhiệt độ khí ra khỏi thiết bị hơi quá
nhiệt là 450oC.
- Quá trình 2: Chuyển hoá SO2
Bản chất của quá trình 2 là oxy hoá SO2 để trở
thành SO3:
2 SO2 + O2 → 2SO3
Khí SO2 được ôxy hoá thành SO3 với sự trợ giúp của
xúc tác trong thiết bị
19
chuyển hoá. Thiết bị này gồm 4 lớp xúc tác, trong
đó 3 lớp đầu thuộc giai đoạn chuyểnhoá thứ nhất và
lớp còn lại thuộc giai đoại chuyển hoá thứ hai.
Khí giầu SO2 có nhiệt độ 430oC đi vào lớp xúc tác
thứ nhất. Qua ba lớp xúc
tác khoảng 85% SO2 chuyển hoá thành SO3. Phản ứng
chuyển hoá là toả nhiệt vànhiệt này dùng để gia
nhiệt khí SO2 tuần hoàn lại tháp hấp thụ thứ nhất
đến nhiệt độ430oC và nhiệt còn lại dùng để gia
nhiệt nước cấp cho nồi hơi trong thiết bị tận
dụngnhiệt đầu tiên.
Giai đoạn chuyển hoá thứ hai, đạt được hiệu suất
chuyển hoá 99,7% và nhiệt
phản ứng cũng được tận dụng tại thiết bị tận dụng
nhiệt thứ hai.
- Quá trình 3: Sấy khô không khí và hấp thụ SO3
Bản chất của quá trình này là SO3 được hấp thụ bằng
nước trong dung dịch axítsunfuric để trở thành
H2SO4:
SO3 + H2O -----> H2SO4
Việc cung cấp không khí khô cho thiết bị đốt lưu
huỳnh được thực hiện nhờ quạthút qua tháp sấy để
thu hơi nước trong không khí bằng axít sunfuric và
20
tạo ra khí khô.Công nghệ sản xuất axit sunfuric sẽ
phát sinh ra khí thải gồm bụi lưu huỳnh từcông đoạn
cung cấp lưu huỳnh bột và khí SO2 , mù axit trong
khí thải sau tháp hấp thụ.
Chất thải rắn chủ yếu là cặn lưu huỳnh không cháy
hết trong lò đốtlưuhuỳnh. Quátrình sản xuất này hầu
như không có nước thải.
-Hấp thụ SO3 :Thực hiện trong tháp hấp phụ ,chất
lỏng đi từ đỉnh tháp xuống ,khí SO2 đi từ dưới
lên :
mSO3+ H2O =H2SO4 (m-1)SO3
Tùy hệ số m thu được axit khác nhau :
+m=1:axit có nồng độ 100%
+m>1:tạo thành oleum H2SO4nSO3
+m<1:axit có nồng độ <100%
Hiệu suất hấp thụ phụ thuộc vào nhiệt độ và nồng độ
axit
Điều kiện thích hợp của quá trình hấp phụ :
+Trước khi vào tháp khí SO2 được làm lạnh đến nhiệt
độ <60
+Nhiệt độ tháp duy trì ở nhiệt độ 60 oC
+Hiệu suất hấp phụ đạt đến trên 99%
21
2.4 Từ lưu huỳnh:
S → SO2 → SO3 → H2SO4
S + O2 = SO2
2SO2 + O2 = 2SO3
SO3 + H2O = H2SO4
Axít sulfuric được sản xuất từ lưu huỳnh, ôxy
và nước theo công nghệ tiếp xúc. Trong giai đoạn
đầu lưu huỳnh bị đốt để tạo ra sulfur điôxít. Nó bị
ôxi hóa thành sulfur triôxít bởi ôxy với sự có mặt
của chất xúc tác vanadi(V) ôxít. Cuối cùng sulfur
triôxít được xử lý bằng nước (trong dạng 97-98%
H2SO4) để sản xuất axít sulfuric 98-99%. Bên cạnh
đó, SO3 cũng bị hấp thụ bởi H2SO4 để tạo ra ôleum
(H2S2O7), chất này sau đó bị làm loãng để tạo thành
axít sulfuric.
(1) S(rắn) + O2(khí) = SO2 (khí)
(2) 2SO2 + O2(khí) = 2SO3 (khí) (có mặt V2O5)
(3) SO3(khí) + H2O (lỏng) = H2SO4 (lỏng)
2.5 Từ khí sunfua hydro:
H2S → SO2 → SO3 → H2SO4
2H2S + 3O2 = 2SO2 + 2H2O
2SO2 + O2 = 2SO3
22
SO3 + H2O = H2SO4
2.6 Từ quặng pyrit sắt:
FeS2 → SO2 → SO3 → H2SO4
Đốt quặng pyrit trong không khí:
4FeS2 + 11O2 = 2Fe2O3 + 8SO2
4FeS + 7O2 = 2Fe2O3 + 4SO2
2SO2 + O2 = 2SO3
SO3 + H2O = H2SO4
Kết quả của quá trình đốt pirit ta được :hổn hợp khí 7-9%SO2,
10-11%O2 còn lại là Nito với một số tạp chất .Còn
lại là 2Fe2O3 Fe3O4 sử dụng cho kỹ nghệ luyện gang
hay sản xuất xi măng
Các điều kiện ảnh hưởng đến quá trình đốt Pirit :
-Nhiệt độ cao cháy càng nhanh ,duy trì nhiệt độ
600-800 oC
-Diện tích tiếp xúc giữa nguyên liệu và oxy trong
không khí ,kích thước quặng thích hợp là 8mm
-Lượng không khí thổi vào lò khống chế cho oxi dư
11%
Lò đốt pirit
-Lò đốt nhiều tầng hay còn gọi là lò bơi chèo ,lò
có bảy tầng đốt và một tầng sấy ,quặng được đổ tự
23
động từ trên xuống ,không khí đi từ dươi lên ,khí
SO2 lấy ra từ đỉnh lò ,tầng 3-4 xảy ra mạnh nhất
-Lò phun đốt quặng ở dạng bụi ,năng suất lớn hơn lò
bơi chèo có thể đốt cháy khoảng một trăm tấn trên
ngày ,nhược điểm là nhiều bụi
-Lò tầng sôi người ta thổi không khí từ dưới lên
với kích thước hạt quặng thích hợp để pirit cháy ở
trạng thái ở trạng thái lơ lửng này có thể 200
tấn .Ngày nay người ta sử dụng không khí giầu oxy
để đốt quặng pirit
Tinh chế hổn hợp SO 2
-Tách bụi ra khỏi hổn hợp khi có kích thước lớn
bằng thiết bị lắng ly tâm xiclon ,bụi có kích thước
nhỏ bằng thiết bị lọc điện
-Tách asen và selen oxit bằng cách cho khí qua tháp
rửa từ dưới lên ,axitsunfuric từ trên xuống ,các
bụi asen và selenoxit bị hòa tan hoặc lắng xuống
đáy thấp
-Tách mù axit sunfuric thiết bị lọc điện ướt
-Tách hơi nước nhờ axit sunfuric đặc đi từ trên
xuống khí đi từ dưới lên Sau khi khí SO2 làm sạch
được oxi hóa thành SO3
Oxi hóa SO 2 thành SO3
24
-Phương pháp Nitro hóa nhờ các oxi Nitro N2O3 NO2
là chất chuyển tiếp oxi hóa của không khí
SO2 + NO2+H2O =H2SO4+NO
SO2 + N2O3+H2O =H2SO4+2NO
NO+O2=2NO2
NO+ NO2=N2O3
Qúa trình oxihoa SO2 thành H2SO4 trong pha lỏng
bao gồm nhiều quá trình nối tiếp xảy ra trên ranh
giới pha lỏng pha khí vì thế tốc độ của quá trình
không chỉ phụ thuộc vào sựu khuếch tán mà chỉ phụ
thuộc vào tốc độ của phản ứng hóa học
3. Công nghệ sạch sản xuất axit sunfuric
Chỉ bằng việc thay đổi tỷ lệ nguyên liệu, kết
hợp với cải tiến các công nghệ đốt lò, Nhà máy Supe
Lâm Thao đã biến một công nghệ cũ của Liên Xô thành
dây chuyền sản xuất H2SO4 chưa từng có, tận dụng
được nguyên liệu pyrit trong nước, và giảm triệt để
chất thải gây ô nhiễm (như khói bụi, SO2 và axít).
Công trình này do kỹ sư Nguyễn Văn Loan và cộng
sự thực hiện, đã đoạt giải nhất trong lĩnh vực Công
nghệ bảo vệ môi trường, Giải thưởng Sáng tạo Khoa
học Công nghệ Việt Nam năm 2002.
25
Từ năm 1985, nhà máy đưa vào vận hành dây chuyền
sản xuất axit sunfuric số 2 theo thiết kế của Liên
Xô. Dây chuyền này sử dụng loại lò phi tiêu chuẩn
KC-150, đốt nguyên liệu là pyrit nguyên khai của
Liên Xô hoặc Trung Quốc. Nhưng do không có loại
nguyên liệu trên, nhà máy đã phải chuyển sang dùng
quặng pyrit Giáp Lai của Việt Nam. Với loại nguyên
liệu mới, dây chuyền không vận hành được vì không
phù hợp thiết kế và lượng xỉ thải quá nhiều gây ô
nhiễm môi trường khu vực.
Những năm sau đó, nhà máy đã hai lần thử chuyển
đổi nguyên liệu mới, là quặng pyrit nhập từ
Albania, rồi đến lưu huỳnh hoá lỏng nhập khẩu. Mỗi
lần thay thế, tuy dây chuyền đã tăng được sản
lượng, nhưng vẫn chỉ bằng hoặc hơn nửa công suất
thiết kế. Điều đáng nói là tổn thất axit và khí SO2
quá lớn, quy ra axit sunfuric nguyên chất là 12-14
tấn/ngày đêm. Lượng chất thải khổng lồ này đã làm ô
nhiễm nặng nề khu dân cư xung quanh và ăn mòn chính
các thiết bị trong nhà máy, ảnh hưởng trực tiếp đến
người lao động. Ước tính, nếu chỉ dùng vôi để trung
hoà toàn bộ số axit này thì phải cần tới 3.500 tấn
mỗi năm, tương đương với 1,3 tỷ đồng. Sản xuất luôn
26
gián đoạn vì phải dừng xưởng để xử lý sự cố. Một
thực tế khác nhà máy phải nhập khẩu toàn bộ nguyên
liệu, mà không sử dụng được nguồn pyrit trong nước.
Trước tình hình này, các kỹ sư của công ty
đã đề xuất phương án phối trộn lưu huỳnh hoá lỏng
nhập khẩu với pyrit của công ty Giáp Lai trong nước.
Đây là một giải pháp công nghệ chưa từng có (trên
thế giới hiện thịnh hành hai loại công nghệ sản
xuất axít sunfuric: hoặc chỉ đốt pyrit hoặc chỉ đốt
lưu huỳnh trong lò tiêu chuẩn), trong khi dây
chuyền sản xuất số 2 của nhà máy sử dụng lò phi
tiêu chuẩn và nguyên liệu hỗn hợp.
Để thực hiện giải pháp này, nhóm đã nghiên cứu,
tổ chức lắp đặt hệ thống thiết bị trộn pyrit với
lưu huỳnh theo những tỷ lệ khác nhau, nhằm tìm ra
tỷ lệ ưu việt nhất; tính toán các thông số kỹ thuật
như lưu lượng khí thổi vào lò, chiều cao lớp sôi
hợp lý, nhiệt độ lớp sôi, nồng độ khí SO2 ra khỏi
lò, thay thế xúc tác…
Nhờ việc thay thế nguyên liệu và thực hiện cải
tiến đồng bộ, từ năm 1995, dây chuyền số 2 đã đạt
sản lượng trên 360 tấn axit sunfuric/ngày, vượt
công suất thiết kế 6%. Lượng SO2 và bụi xỉ bay ra
27
giảm xuống tới dưới mức tiêu chuẩn, và xỉ thải giảm
từ 280 xuống còn 80 tấn/ngày. Nhiệt độ xỉ giảm từ
150 xuống còn 60 độ C, đồng thời nhà máy cũng thu
hồi được toàn bộ lượng axit phải thải bỏ trước đây.
Cũng do sản xuất ổn định nên hầu như không cần khởi
động lại dây chuyền, vì vậy giảm cường độ làm việc
và cải thiện môi trường cho người lao động.
Qua 7 năm ứng dụng, từ năm 1995 đến nay, giải
pháp đã làm lợi trực tiếp đạt trên 74 tỷ đồng,
ngoài ra còn làm tăng đáng kể sản lượng, doanh thu
nói chung của toàn công ty. Kỹ sư Nguyễn Văn Loan
cho biết, giải pháp này có thể áp dụng được cho tất
cả các doanh nghiệp sản xuất axit sunfuric có dây
chuyền công nghệ tương tự với dây chuyền của Công
ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao. Ngoài ra,
cũng có thể tận dụng nguồn pyrit nghèo hơn quặng
pyrit Giáp Lai, như pyrit của nhà máy sản xuất đồng
Sinh Quyền
4. Một số nhà máy sản xuất axit sunfuric trong
nước:
4.1 Nhà máy Super lân Long Thành thuộc Công ty phân bón miền
Nam:
28
Sản xuất axít sulfuric 80.000 tấn/năm, giúp nhà
máy chủ động nguyên liệu để đưa sản lượng phân lân
các loại từ 100.000 tấn trước đây lên 200.000 tấn.
Nguồn nguyên liệu sản xuất axít sulfuric là các
quặng sunfua sắt.
4.2 Nhà máy Supe Lâm Thao:
Đã biến một công nghệ cũ của Liên Xô thành dây
chuyền sản xuất H2SO4chưa từng có, tận dụng được
nguyên liệu pyrit trong nước và giảm triệt để chất
thải gây ô nhiễm (như khói bụi, SO2 và axít) chỉ
bằng việc thay đổi tỷ lệ nguyên liệu, kết hợp với
cải tiến các công nghệ đốt lò.
Nguồn nguyên liệu là quặng pyrit (của công ty Giáp
Lai, Việt Nam) phối trộn lưu huỳnh hóa lỏng nhập
khẩu. Đây là một giải pháp công nghệ chưa từng có
(trên thế giới hiện thịnh hành hai loại công nghệ
sản xuất axít sunfuric: hoặc chỉ đốt pyrit hoặc chỉ
đốt lưu huỳnh trong lò tiêu chuẩn), trong khi dây
chuyền sản xuất của nhà máy sử dụng lò phi tiêu
chuẩn và nguyên liệu hỗn hợp. Để thực hiện giải
pháp này, nhà máy đã nghiên cứu, lắp đặt hệ thống
thiết bị trộn pyrit với lưu huỳnh theo những tỷ lệ
khác nhau, nhằm tìm ra tỷ lệ ưu việt nhất; tính
29
toán các thông số kỹ thuật như lưu lượng khí thổi
vào lò, chiều cao lớp sôi hợp lý, nhiệt độ lớp sôi,
nồng độ khí SO2 ra khỏi lò, thay thế xúc tác…
4.3 Nhà máy hoá chất Tân Bình
Axít Sunfuric kỹ thuật: được sản xuất từ nguyên
liệu lưu huỳnh theo phương pháp tiếp xúc.
Dùng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp khác:
từ axit sunfuric sản xuất phèn lọc nước, nước đổ
bình ắcquy, sản xuất phân bón, thuốc nhuộm, sơn,
dược phẩm, chất dẻo, các sản phẩm gốc sunfat, ….
Axít Sunfuric tinh khiết: được sản xuất theo phương
pháp chưng cất Axit Sunfuric kỹ thuật.
Dùng trong phòng thí nghiệm, công nghệ điện tử và
sản xuất các sản phẩm chất lượng cao.
30