E E4 1E E4 Đi u ki n t nhiên, dân c c a Tây Nguyên Văn hóa – Phong t c l h i c a Tây...

47
MỤC LỤC Lời mở đầu Phần 1: Những nét văn hóa đặc trưng cơ bản của vùng Tây Nguyên I. Điều kiện tự nhiên, dân cư của Tây Nguyên II. Văn hóa – Phong tục lễ hội của Tây Nguyên III. Các hoạt động của dân tộc Tây Nguyên Phần 2: Ý nghĩa của việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Nguyên trong quá trình phát triển an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội cuả vùng nói riêng và của đất nước nói chung. 1.Về kinh tế 2.Về chính trị xã hội 3.Đối với quốc gia 4.Về an ninh quốc phòng Phần 3: Kết Luận

Transcript of E E4 1E E4 Đi u ki n t nhiên, dân c c a Tây Nguyên Văn hóa – Phong t c l h i c a Tây...

MỤC LỤC

Lời mở đầu Phần 1: Những nét văn hóa đặc trưng cơ bản của vùng Tây NguyênI. Điều kiện tự nhiên, dân cư của Tây NguyênII. Văn hóa – Phong tục lễ hội của Tây NguyênIII.Các hoạt động của dân tộc Tây Nguyên

Phần 2: Ý nghĩa của việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Nguyên trong quá trình phát triển an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội cuả vùng nói riêng và của đất nước nói chung.1.Về kinh tế2.Về chính trị xã hội3.Đối với quốc gia4.Về an ninh quốc phòng

Phần 3: Kết Luận

LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời đại ngày nay nền kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gầnnhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm củasự chú ý. Văn hóa là một lĩnh vực đang ngày càng được quantâm nghiên cứu nhiều trên thế giới và trong đó văn hóa củaViệt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Nền văn hóa xuất hiện trong mọi mặt của cuộc sống với mối quan hệ hai chiều, mọi lĩnh vực đều mang trong mình tính văn hóa và văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực và tác động đến mọi lĩnh vực. 

Chỉ xét riêng về khái niệm “Văn hóa là gì ?”, tuy rằng có những điểm chung nhưng mỗi khu vực, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức lại có những định nghĩa khác nhau. Văn hóa là một hệ thống các giá trị chân lí, chuẩn mực, mục tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và hoạt động sáng tạo. Nó được bảo tồn và chuyển hóa cho những thế hệ nối tiếp theo sau.

Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dântộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêngthì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài : “ Văn hóa Tây Nguyên” để làm đề tài cho bài tiểu luận này.

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 6

STT HỌ VÀ TÊN

MÃ SV GHI CHÚ

1

Nguyễn Thị Thanh Huyền

14D170231

2

Nguyễn Thị Thanh Huyền

14D170232

3

Trần Khánh Huyền 14D170161

4

Lê Quang Khánh 14D170235

5

Phùng Thị Ánh Khánh 14D170236 Nhóm Trưởng

6

Hà Thúy Kiều 14D170237 Thư Ký

7

Nguyễn Ngọc Lan 14D170445

8

Phạm Thị Nhật Lệ 14D170446

Phần I. Những nét văn hóa đặc trưng cơ bản của vùng Tây Nguyên

I. Điều kiện tự nhiên, dân cư vùng Tây NguyênTheo địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có

năm tỉnh, kể từ bắc vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng.Tây Nguyên là một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành vùng Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi đây được gọi là Cao nguyên Trung phần. Hiện nay đôi khi được gọi là Cao nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo Đại làm Quốc trưởng, vùng đất này còn được hưởng quy chế riêng là vùng Hoàng triều Cương thổ.

1.Vị trí địa lýTây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp

tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tâygiáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia).

Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không cóđường biên giới quốc tế. Tổng diện tích của 5 tỉnh ở đây rộng 54.639 km2.

2.Đặc điểm địa hìnhThực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên

duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, caonguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao

khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).

Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên(tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk vàĐắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.

Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâutằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừngvới thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên còn được coi là mái nhà của miền trung.

3. Khí hậu

Khí hậu Khí hậu ở Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến giữa tháng 5, và mùa mưa từ cuối tháng5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất không giữ nước, nướcmưa trượt đi trên bề mặt, , trong đó tháng 3 và tháng 4 làhai tháng nóng và khô nhất, về mùa khô Tây Nguyên gần như hoàn toàn không có nước. Do ảnh hưởng của độ cao nên trongkhi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát

và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới.

4. Dân cư

Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông... Chính quyền Việt Nam cộng hòa gọi chung những dân tộc này là "đồng bào sắc tộc" hoặc"người Thượng"; "Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặctrưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung.Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộcthiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm 2004dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm 25,3% dân số) . Riêng tỉnh Đắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999), trong 4 năm tăng 485% . Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia tăng cơ học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân tự do. Ngườidân tộc đang trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá ) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyêndẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng 3,17 lần , chủ yếu lả tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng

ký cư trú với cơ quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng 5,5 đến 6 triệu người.

Trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Cao nguyên Trung Phần thành các tỉnh: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng với tổng cộng gần một triệu dân với 50% dân số tập trung vào hai tỉnh Darlac và Tuyên Đức. Từ 1976 đến đầu thập niên 1990, Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Công Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó tỉnh Gia Lai-Công Tum được chia thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay đổi cả cách viết chính thứctên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông.

Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng

II. Văn hóa – Phong tục lễ hội Tây Nguyên1. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên

Là nơi hội tụ nhiều nét văn hoá truyền thống của đồngbào các dân tộc Êđê, Jarai, M’nông… cùng với những phong tục, tập quán, lễ hội đã tạo cho Tây Nguyên trở thành vùngvăn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc. 

Các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Nguyên ra đời từ niềm tin mãnh liệt vào thần linh mà họ thường vẫn gọi là Yàng nên mang tính cộng đồng rất cao. Các nghi lễ, lễ hội vừa là những sinh hoạt văn hoá có tác dụng to lớn trong việc củng cố và tăng cường sức mạnh của tình đoàn kết, sự gắn bó của cộng đồng nhưng cũng đồng thời tạo môi trường diễn xướng của nhiều nhạc cụ dân tộc như: K’ni, Brố, đinh Tăk Tà, đinh Tút, đinh Năm... Ở đây có những nghi lễ, lễ hội đặc sắc, độc đáo như: lễ trưởng thành, lễ bỏ mả, lễ cúng bến nước, mừng lúa mới, nhà mới, lễ rước Kpan... mangđậm nét văn hóa riêng của dân tộc Tây Nguyên 

Âm nhạc của Tây Nguyên cũng thật đặc sắc với tiếng đàn T’rưng, đàn Klông pút. Nhưng cuốn hút hơn cả là những giàn cồng chiêng với những âm thanh có sức vang động sâu xa. Tiếng cồng chiêng gắn liền với rất nhiều lễ thức trongđời sống cộng đồng của các buôn làng Tây Nguyên.

Những lễ hội được quan tâm giao thoa văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở đây, thể hiện qua những kiến trúc đặc sắc như nhà sàn dài, nhà rông, đời sống văn hóa, ẩm thực... Những họa tiết hoa văn được điểm xuyết khá tinh tếxuất hiện trên các ngôi nhà của dân tộc Tây Nguyên, các dụng cụ của họ, trên từng bộ đồ của dân tộc Tây Nguyên.. Nghệ thuật dệt hoa văn, trang trí và điêu khắc của đồng bào cũng là một mặt rất đặc sắc của văn hoá Tây Nguyên. Đặc biệt đáng chú ý là truyền thống đẽo tượng mồ bằng những khúc gỗ tròn của các tộc người ở Bắc Tây Nguyên.

Rồi đến ẩm thực là rượu cần, cơm lam, canh cà đắng đãbắt đầu vượt ra khỏi không gian của buôn làng trở thành những đặc sản mang thương hiệu riêng cho các dân tộc của một vùng đất Tây Nguyên này. 

2. Luật tục của dân tộc Tây Nguyên

Là toàn bộ những nguyên tắc ứng xử không thành văn được hình thành trong xã hội, những nguyên tắc được áp dụng trong thời gian dài.

Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Ê Đê, Phạtkđuôi của người M Nông, Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Ađatmuca của người Ra Glai, Dâytơrônkđicủa người Mạ, Nri của người S Rê… được coi là sự biểu hiệnthái độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội. 

Bên cạnh mặt hạn chế, nhìn chung các bộ luật trên trong một chừng mực nhất định, vẫn phát huy tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Luật tục đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống tộc người từmôi trường tự nhiên, quan hệ sản xuất và sở hữu, tổ chức và các quan hệ xã hội, phong tục tập quán, hôn nhân và giađình…

Xã hội truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M Nông, GiaRai… là xã hội mẫu hệ. Dòng họ mẹ thống trị mọi mặt trong đời sống xã hội như quyền thừa kế tài sản, hôn nhân và giađình. Do vậy, luật tục là công cụ hữu hiệu để bảo vệ xã hội mẫu hệ, khẳng định vai trò của dòng họ nữ, khẳng định vị trí to lớn của người phụ nữ trong xã hội. 

Trong luật tục Ê Đê, mọi của cải trong gia đình do người phụ nữ quản lý, giữ gìn cho tổ tiên dòng họ. Tài sảntrong gia đình đều thuộc về quyền quản lý của người mẹ hayngười đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản chỉ thực hiện theo dòng họ nữ. Khi vợ chết, mọi của cải và cả con cái đều thuộc về phía gia đình vợ (dì, bà ngoại) quản lý, còn người chồng phải trở về sinh sống với cha mẹ mình mà không được mang theo tài sản và con cái.  Như vậy, luậttục Ê Đê về thừa kế tài sản có phần ưu ái với phụ nữ mà không bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa trai và gái, gia đình chồng và gia đình vợ. Quy định này không phù hợp với pháp luật dân sự hiện hành.

Ở các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… quan hệ hôn nhântheo chế độ mẫu hệ. Theo tập tục này, người phụ nữ đóng vai trò chủ động cưới chồng, người chồng sinh sống bên nhàvợ và con cái sinh ra mang họ mẹ.

Nhìn chung, quan hệ hôn nhân của các dân tộc thiểu sốkể trên là tự nguyện. Trai gái đến tuổi trưởng thành tự doyêu đương, tự do tìm hiểu người bạn đời của mình mà không phải chịu sức ép nào cả. Đây là nét tiến bộ quan trọng trong quan hệ hôn nhân. 

Ở người Ê Đê, tục “nối nòi” (chuê nuê) được luật tục bảo vệ nghiêm ngặt, cũng giống như : “Dầm nhà gãy thì phảithay, dát sàn nát thì phải thế. Chết người này thì phải nối bằng người khác”. Theo đó, khi chồng chết, người đàn bà có quyền đòi hỏi nhà chồng một người em trai chồng để nối nòi. Ngược lại, người vợ chết, người chồng cũng có thểlấy em gái của vợ để nối nòi.Cũng có khi tục nối nòi truyền thống vượt ra ngoài phạm vi hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng. Chẳng hạn, khi cậu chết thì nối lạibằng cháu, bà chết cũng được nối lại bằng cháu.

Tập quán của người Gia Rai không để cho người đàn bà chịu cảnh góa bụa, bất hạnh suốt đời mà cho họ đi bước nữa“để nối lại sợi dây bị đứt”. Luật tục Gia Rai cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền lấy cháu ruột của người chồng đó. Việc lấy trong dòng họ tạo nên mối quan hệbền chặt của dòng họ đó, cũng giống như mối quan hệ giữa các thanh xà với sàn nhà và mái nhà trong một ngôi nhà. Đólà quyền được duy trì nòi giống, huyết thống, duy trì sự tồn tại của dòng họ.

Tập quán của nhiều dân tộc thiểu số rất quan tâm đến trẻ em bởi trẻ em là hình ảnh ngày mai của mỗi dân tộc. Luật tục phê phán những ông bố bà mẹ không biết nuôi dạy, chăm sóc con cái, thậm chí còn bỏ rơi hoặc đẩy những đứa trẻ đáng thương ra ngoài đường.

Tập tục truyền thống của các dân tộc có nhiều điều đềcập đến quyền của người phụ nữ và trẻ em. Nhiều điều quy định đến nay vẫn có giá trị và phù hợp với pháp luật Nhà

nước. Tuy nhiên, bên cạnh những điều luật đề cao và bênh vực người phụ nữ thì còn không ít những tập tục tỏ ra không phù hợp, thậm chí lạc hậu. Có những tập tục xử phạt người phụ nữ quá nặng như tội ngoại tình, loạn luân, hay quan hệ tình dục trước hôn nhân. Chẳng hạn, dân tộc Xê Đăng cư trú ở huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum quy định nếu phụ nữ có thai trước khi cưới sẽ bị phạt heo và rượu để cảbuôn làng cùng uống.

3. Văn hóa ẩm thực của dân tộc Tây Nguyên

3.1 Ẩm thực trong ngày lễ Tết ở Tây Nguyên

Tây Nguyên là nơi sinh sống của hàng chục dân tộc anhem, đông nhất là các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê đê, M’nông,Xơ- Đăng.... Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán riêng và hàng năm đều có tổ chức những ngày lễ Tết cho buôn làngsau khi gặt hái đã hoàn tất.

Những ngày lễ Bỏ Mả, lễ Đâm trâu xây cột, Tết Cơm mới, Tết Giọt nước, Tết Lửa,…diễn ra nhộn nhịp suốt mùa hanh khô. Đây là mùa lễ Tết ở Tây Nguyên.

Trong lễ Tết, ẩm thực của các dân tộc Tây Nguyên đều giống nhau, từ món thịt nướng cho đến rượu cần. Còn cách ăn uống và nấu nướng thế nào thì đó là đặc điểm của mỗi dân tộc và của mỗi địa phương.

Ngày thường, đồng bào Tây Nguyên ăn cơm gạo tẻ với thức ăn nấu từ các loại rau rừng, mộc nhĩ, các loại củ, măng le. Vào các ngày lễ Tết, cơm nếp được thay cơm gạo tẻvà được nấu theo cách thức của tổ tiên: Cơm Lam. Họ vào rừng chặt những ống lồ ô còn non, giữ lại mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào, xong nút lại đem đốt bằnglửa và than cho thật khéo. Những ống cơm lam, ngoài vỏ tuy

đen đúa, lem nhem nhưng khi chẻ bỏ lớp vỏ ấy đi thì lộ ra lớp cơm nếp thơm ngon, hấp dẫn lạ thường. Hương vị nếp quyện với hương thơm của tre tươi qua lửa làm cho cơm lam có một hương vị đặc biệt, hơn hẳn cơm nếp nấu trong chõ, trong nồi.

Thịt là thực phẩm chủ yếu trong các món ăn ngày Tết. Người Tây Nguyên làm lông con vật bằng cách thui đốt. Họ không chế biến được các món ăn đặc biệt như ở miền xuôi. Đáng chú ý là món nướng và làm món như tiết canh, nem sốngở dạng thô sơ. Những món ăn này dùng để khoản đãi hay để dâng cúng thần linh.

Ngoài ra, họ còn dùng phèo lấy từ ruột con vật bốn chân để chế biến món ăn là một đặc điểm trong cách thức ngả món của đồng bào Gia Rai, Ba Na. Kỹ thuật băm sống và trộn bóp đóng vai trò quan trọng tạo ra nhiều món từ thịt trâu bò, dê, nguồn thịt chính trong lễ hiến tế thần linh. Có món thịt bóp với phèo. Có món thịt băm nhỏ trộn với muối đựng trong ống tre. Có món thịt trộn với phèo rồi góilá. Có món thịt trộn với tiết, phèo và muối ớt để trên lá.Có món thịt, ruột non, gan, ruột già hỗn hợp đựng trong ống tre. Lại có món thịt băm, tiết, phèo, muối ớt trộn nhuyễn. Da bóp với phèo cũng thành một món. Món thường gặplà gan và lá sách thái miếng xiên xen kẽ vào que tre để nướng.

Trong các món ăn kể trên họ đều dùng thịt sống, tuy không được nấu nướng nhưng có thể phèo là nguyên liệu có tác dụng làm tái các loại thịt tươi, giống như thính gạo trong món nem của người Kinh. Hơn nữa, tất cả những món sống ấy bao giờ cũng làm thành món đưa cay. Rượu cần là đồuống không thể thiếu được trong các ngày lễ Tết. Thức nhắm, thậm chí được đặt gần bên các ghè rượu, có lót lá

chuối đặt vào chiếc rá (rổ) để thực khách vừa nhâm nhi thưởng thức vừa chuyện trò, thỉnh thoảng đưa tay bốc một nhúm thức ăn đưa lên miệng...

Cùng với món sống, họ cũng làm các món nấu chín theo tập tục lâu đời. Trong các món này, thịt bao giờ cũng đượcnấu chung với bột gạo và rau đã giã nhỏ tạo thành món sền sệt đặc như cháo có thể bốc ăn được.

Món thịt nướng cũng là món thông dụng và được ưa thích. Có loại đem gói kín trong lá tươi rồi vùi vào than hay tro nóng. Có loại thì xâu thành từng xâu hơ trên than củi đang cháy.

Trong không khí cộng đồng ngày lễ Tết, việc ăn uống diễn ra với nhiều ý nghĩa, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu nobụng, ngon miệng mà còn đáp ứng nhu cầu về tình nghĩa chòmxóm láng giềng trong buôn làng, quan hệ giữa con người vớinhau.

Vượt lên trên thực đơn vừa kể, món ăn trong ngày lễ Tết không tách khỏi phần tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, kếtnối giữa người sống kẻ chết, giữa con người với thần linh.Chính vì vậy mà các món ăn thức uống vào ngày lễ Tết của họ mang ý nghĩa thiêng liêng và hết sức trang trọng.

3.2 Phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên

Rượu cần ở Tây nguyên là sản vật- nghi vật – lễ vật, nó có mặt ở mọi lúc, mọi nơi trong đời sống sinh hoạtxã hội, trong tinh cảm, tâm linh của mọi gia đinh hay cộngđồng.Không có rượu cần thì không có lễ lạt, cưới xin, ma chay, bè bạn,…Rượu cần giữ vai trò là lễ vật khi kính dâng lên các Thần linh, giao tiếp với các đấng siêu linh. Với bạn bè, là phương tiện chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, hẹnhò, nhắn nhủ công việc, giao kết tình duyên đôi lứa… Trướckhi thực hiện giao lưu tình cảm, rượu cần làm nghĩa vụ:

thông báo, dâng mời, cầu xin các thần linh chứng giám hoặcban phước. Dù sử dụng trong thời gian nào, không gian nào,tục uống rượu cần vẫn là một nét văn hóa đẹp trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Rượu cần được làm thường xuyên, liên tục bất cứ vào tháng năm nào nhưng chủ yếu dùng vào những ngày “có việc” của buôn làng hay gia đình như: mừng thọ người già, lễ cưới, đám ma, làm nhà, có khách xa đến chơi. Đặc biệt là trong những lễ nghi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, những lễ hội của cả buôn làng.

Gia đình hay buôn làng nào “có việc” như vậy liền được sự đóng góp của cả họ hàng, của buôn. Mọi gia đình đều chuẩn bị ghè rượu to nhất, ngon nhất của mình để đem tới góp chung vừa sẻ chia, giúp đỡ, vừa tạo nên tình cảm gắn bó, thân tình đầm ấm trong cộng đồng.

Để có được ché rượu phải tiến hành nhiều công đoạn, từ chuẩn bị nguyên liệu đến cách thức chế biến, tính toán thời gian phù hợp, sao cho vừa kịp sử dụng…để ghè rượu đạtchất lượng cao nhất. Gia đình Tây Nguyên nào cũng biết làmrượu cần, nhưng tỷ lệ lại là bí quyết riêng chỉ được phép truyền trong mỗi nhà. Do đó, rượu được tạo ra bởi những hương vị khác nhau theo sở thích của từng gia đình. Tuy nhiên có một điều ai cũng phải tuân theo là: trong thời gian làm men rượu, kể cả làm rượu, phải giữ cho thân thể được sạch sẽ, nhất là vợ chồng không được quan hệ sinh lý với nhau. Đồng bào cho rằng như thế sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hương vị của men rượu.

3.3 Các món ăn đặc sản của Tây Nguyên

a) Cơm lam Tây Nguyên

Người ăn có thể cảm nhận cả mùi nếp thơm lẫn hương rừng trong miếng cơm lam. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà khôngcứng, ăn không biết ngán. Nhiều khi không có thức ăn kèm, người ta vẫn thấy rất rõ cái vị đậm đà của nó.

Đặc sản của vùng đất ba dan ấy được làm từ gạo nếp ngâm lẫn với lá thơm đêm trước, cho vào ống nứa non. Khi gạo đã đầy hai phần ba ống, người đầu bếp khéo léo đổ nướcsuối mát lạnh đựng trong những cái bầu khô đen bóng dốc vào từng ống một. Người ta tước những thẻ lá chuối già hườm hườm vàng đã tai tái héo bởi hơi nóng lửa hơ và bắt đầu vê từng cái nút cho từng ống nứa.

Những chiếc ống sau khi đã nạp đủ gạo và nước được vùi vào bếp tro hồng. Tiếng những hạt lửa nhỏ nổ, tiếng nước reo li ti trong ống nghe thật ấm áp. Những hạt gạo dẻo bắt đầu giữ rịt lấy nhau, nước từ thành ống nứa ngấm dần vào từng hạt gạo.

Trong những ngày lễ hội, rượu ghè cột thành hàng, thịt nướng và muối ớt đã sẵn sàng. Những ống cơm lam cũng đã được bày ra. Mỗi người một ống, bốn ngón tay nhẹ nhàng tách cái nồi lam ấy thành tư hoặc sáu vừa tầm cho một cái noãn cơm dẻo, đông kết nhô lên. Nó chắc mà lại dẻo, bùi màkhông cứng, ăn không biết ngán.

b) Lẩu lá rừng

Đến với Tây Nguyên đại ngàn, ngoài thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người thân thiện chắc chắn bạn sẽ còn cảm nhận được Tây Nguyên qua những chiếc lá. Đó không chỉ là hương vị mà thiên nhiên dành tặng cho con người mà còn là hương vị của quê hương, xứ sở thông qua món đặc sản củađồng bào Tây Nguyên – Lẩu lá rừng.

Dường như hương vị của núi rừng, của đại ngàn xanh đãthấm vào từng chiếc lá để bạn có thể cảm nhận một cách đầyđủ nhất về Tây Nguyên. Có khoảng hơn 10 loại lá được dùng để chế biến lẩu lá rừng, phần lớn chúng đều được người dânbản địa phát hiện ra khi đi rừng. Ban đầu những lá này được sử dụng như một thứ rau rừng để phục vụ cho những bữaăn trên nương, trên rẫy. Sau này, khi tập quán sản xuất thay đổi thì nó được dùng như một đặc sản đó là lẩu lá rừng. Cùng với những loại lá này còn có mắm thịt, tôm nõn và thịt luộc.

Mỗi loại lá đều được lựa chọn rất nghiêm ngặt, điều quan trọng nhất là chúng không có độc tố, không phản ứng lẫn nhau. Lẩu lá rừng chính là kinh nghiệm từ ngàn đời củađồng bào dân tộc bản địa được đúc kết. Mỗi loại lá đều chứa đựng trong mình những chất dinh dưỡng đặc biệt, có tác dụng tốt đối với sức khỏe.Cùng với các loại lá thì mắm thịt và nem thính được cuốn vào lá, vị cay cay nồng của lá tươi cộng với vị đậm của mắm thịt, vị khô của nem thính cho ta nhiều cảm giác lạ.

c) Cà đắng của Tây Nguyên

Cà đắng là một loại cà dại vốn mọc nhiều trong rừng, trên nương rẫy của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Quả càđắng to hơn cà pháo và thường hơi dài ra. Quả có màu xanh đặc trưng, cuống quả lại có gai nhọn nên cũng dễ nhận biết.

Quả cà đắng dùng để làm các món ăn tuy dân dã nhưng lại được người Tây Nguyên rất hâm mộ, chính vì vậy cà đắnghiện được trồng đại trà trong vườn nhà, vườn rẫy để thu hái quả quanh năm và bán đầy cả chợ lớn Buôn Ma Thuột khiến nhiều khi vào vườn tìm khó hơn ngoài này.

Quả cà đắng già hơi vàng hườm một tí có thể đâm nát với ớt, trộn cá khô nướng xé nhỏ để làm món nhậu ăn sống rất hấp dẫn nhất là với những ai thích vị đắng vì vị ngọt giòn đến ngay sau cái đắng tái tê khi mới bỏ vào miệng. Tuy nhiên cách dùng cà đắng thông thường nhất vẫn là nấu chín nó với cá khô, cá hấp, tôm tép tươi khô, ốc, ếch, lươn, thịt heo, dê, gà, bò,…

Riêng với người Ban mê thì rất thích đãi khách bằng món này nên thỉnh thoảng còn cho cà đắng kết duyên cùng cáhộp, thịt hộp, thịt ba chỉ, da heo hay lòng gà, lòng vịt theo cách nấu của người Kinh cho dễ ăn và hợp với khẩu vị của những người mới ăn.

Miếng cà đắng đầu tiên có thể làm bạn hơi chối vì vị đắng của nó nhưng sẽ hấp dẫn ngay sau đó nếu bạn vượt qua được thử thách này. Khi đó bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt đằm thắm của cà lẫn vào vị ngọt của cá khô, của tôm tép vàvị cay xé lưỡi của ớt tạo nên một khẩu vị rất lạ, hấp dẫn,rất núi rừng Tây Nguyên và thèm mãi cái món ăn dân dã này chả biết chừng.

4. Phong tục kì thú ở Tây Nguyên

4.1 Kiến trúc nhà Rông

Nhà Rông của dân tộc Tây Nguyên là nơi diễn ra toàn bộ sinh hoạt cộng đồng của dân tộc thiểu số Tây Nguyên, làtrụ sở của bộ máy quản trị buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo , tín ngưỡng… là nơi thể hiện các lễ hội tâm linh cộng đồng và là nơi các nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống, là nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống: cồng, chiêng, trống , vũ khí, các đầu con vật được hiến sinh trong các ngày lễ và là nơi đúa trẻ từ tấm bé đã được quay quần quanh bếp lửa

nghe người già kể khan, nơi người lớn được tụ tập hằng đêmnói cho nhau nghe những câu chuyện của núi rừng.

Người Tây Nguyên quan niệm Nhà Rông là nơi khí thiêngcủa đất trời tụ lại để bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi Nhà Rông đều có một nơi thiêng liêng để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu...

Nhà Rông là nơi diễn ra các lễ hội dân gian, là nơi đón khách đến thăm buôn làng. Nhà Rông là nơi hội họp của già làng, là nơi kiện tụng, tranh chấp liên quan đến cộng đồng

Nhà Rông còn là nơi để các thanh niên nam nữ đến gặp gỡ, tỏ tình và kết duyên chồng vợ. Theo tập tục ở đây, thanh niên chưa vợ, chưa chồng ban đêm đến ngủ tại nhà Rông, ngay cả phụ nữ chết chồng hay li dị chồng cũng vậy. Tuy gần gũi nhau nhưng các trai gái không bao giờ gây ra ái tình vụng trộm, do bị phong tục lên án và bị lệ làng phạt rất nặng. Người ta gọi một ngôi làng không có nhà Rông" ngôi làng đàn bà", tức cũng gần như chưa có làng chưa có làng, chưa xứng đáng là làng. Đấy mới chỉ là một tập hợp rời rạc những cái nhà chưa có hồn, trong đó chứa những sinh linh chưa có hồn, chưa thật sự là con người, bởi người ta chỉ thành người khi được thổi vào đấy hồn người, mà hồn người đối với người Tây Nguyên thì phải là hồn làng.

Nhà Rông được coi là linh hồn của làng, là khí thiêngcủa đất trời, sông núi, là nơi lưu giữ những giá trị thiêng liêng của buôn làng. Buôn làng có nhà Rông như đượcthắp lên sức sống, theo tư duy của một số dân tộc truyền thống, nhà Rông là một yếu tố không thể thiếu trong đời sống của các buôn làng, nhà Rông bao quát mọi tinh hoa vănhoá sáng tạo của con người trong cuộc sống tự nhiên, vừa

hùng vĩ, vừa tiềm ẩn những yếu tố tâm linh, là biểu hiện của văn hoá rừng là sự cố kết cộng đồng người với thiên nhiên.

Nhà Rông là hình ảnh thu nhỏ của các thành tố văn hóatruyền thống của một làng, một tộc người. Nó chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong tư duy và hiện thực đời sống sinh hoạt của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số thì “Dân tộc – Làng – Nhà Rông” là mối quan hệ không thể tách rời, cũng như làngcủa người Kinh gắn với cây đa, bến nước, sân đình. Nhà Rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi búa khổng lồ biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy uy quyền, như là chế ngựkhông gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng.

Làng – nhà Rông – lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Văn hóa làng sản sinh ra văn hóa lễ hội và văn hóa nhà Rông, lễ hội dân gian truyền thống tôn vinh quyền uy của nhà Rông còn nhà Rông lại là điều kiện và môi trường để thể hiện lễ hội. Cảhai đều có ý nghĩa duy trì lẫn nhau và nằm trong nhau. Trong khi đó thì lễ hội là đất sống của gần như tất cả cácloại hình văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền từ các lễ thức, phong tục, tập quán đến các loại hình diễn xướng dângian, nhạc cụ dân tộc, trang phục, ngôn ngữ, ứng xử... bởithế nên nhà Rông lại càng có vị trí hết sức quan trọng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhà Rông vừa có giá trịvăn hóa vật thể (hữu hình), lại vừa có giá trị văn hóa phivật thể (nội dung bên trong, nơi thể hiện lễ hội). Những hình ảnh bếp lửa nhà Rông bập bùng, những ghè rượu cần cộtthành dãy hai bên bếp, âm thanh trầm hùng của cồng chiêng,những vòng xoang uốn lượn và gương mặt rạng rỡ của các già

làng, các chàng trai cô gái trong lễ hội ở nhà Rông thể hiện một không gian văn hóa hết sức mộc mạc, đầm ấm, quây quần trong sự cố kết cộng đồng không thể tách rời làm nên bản sắc phong phú, độc đáo của văn hóa truyền thống dưới mái nhà Rông.

Nhà Rông thường dài khoảng 10m, rộng hơn 4m, cao 15 -16m, nhưng có những ngôi chỉ cao 7-8m... Tính đa dạng trong kiến trúc của mỗi dân tộc ở Tây Nguyên còn là ở kết cấu của ngôi nhà. Nhà Rông của người Tây Nguyên  không dùng đến sắt thép. Các chỗ nối, chắp đều được chặt, đẽo cẩn thận rồi dùng mây, lạt tre để buộc.Từng mối buộc của các dân tộc cũng khác nhau. Cầu thang lên Nhà Rông, các dân tộc thường đẽo 7 đến 9 bậc. Trên đầu cầu thang của mỗidân tộc khác nhau. Người Ba Na là hình ngọn cây rau dớn, người Ja Rai là hình quả bầu đựng nước, người Xê Đăng, Jẻ Triêng là hình núm chiêng hay mũi thuyền, có Nhà Rông  trên nút đầu của cầu thang lại tạo dáng hình ngực thiếu nữ... Kể từ ngày Nhà Rông được khánh thành, con trai làng chưa vợ đều phải đến đây ngủ để bảo vệ. Bởi vậy, kiến trúcdân gian của nhà Rông hết sức độc đáo và mỗi dân tộc mang một kiểu cách khác nhau. Tất cả được xây dựng bằng đôi taytài hoa, bằng cả trí tuệ và sức lực của cộng đồng. Nhà Rông gắn chặt với tâm lý, tình cảm và sinh hoạt xã hội, tôn giáo của đồng bào Tây Nguyên. Xa nhà Rông thì nhớ, đếnvới nhà Rông thì vui. Nhà Rông là trái tim của buôn làng đời đời không thể nào xoá nhoà trong tâm trí người Tây Nguyên.

Hai loại nhà Rông xuất hiện ở Tây Nguyên gồm nhà Rôngtrống (đực) và nhà Rông mái (cái). Nhà Rông trống, tiếng Jrai gọi là Rông tơ nao, có mái to, cao chót vót. Có nhà cao đến 30m. Nhà Rông trống được trang trí rất công phu. Nhà Rông mái được gọi là Rông Ana, nhỏ hơn, có mái thấp.

Hình thức bên ngoài và bên trong đơn giản hơn.Trên những vì kèo được trang trí những hoa văn có màu sắc rực rỡ mangtính tôn giáo thờ phụng, những sự tích huyền thoại của dũng sĩ thuở xưa, những thú vật được cách điệu, những vật,những cảnh sinh hoạt gần gũi với cuộc sống buôn làng. Nổi bật trong trang trí nhà rông là hình ảnh thần mặt trời chói sáng. Nhà rông càng to đẹp thì càng chứng tỏ buôn làng giàu có, mạnh mẽ. Truyền thuyết kể rằng, tổ tiên người Ê đê là ở vùng biển, nên trong tâm thức hay văn hóa,sinh hoạt của người Ê đê cũng có ảnh hưởng ít nhiều.

Người Ê đê chọn hướng Bắc – Nam để làm cổng chính chonhà Dài của mình. Vách nhà hẹp dần từ trên xuống, giống như lòng con thuyền cũng thu hẹp dưới đáy…

Thường nhà Dài Ê Đê có hai cầu thang, một là cầu thang Cái - dành riêng cho phụ nữ và khách quý lên xuống. Đỉnh của cầu thang được đẽo giống như mũi con thuyền, phíadưới có một vầng trăng khuyết và bộ ngực phụ nữ tượng trưng cho chế độ mẫu hệ. Cầu thang Đực thường nhỏ hơn rất nhiều và được đặt cách xa phía bên trái (cũng có nhà được thiết kế có nhiều cầu thang Đực) dành cho những người đàn ông trong gia đình lên xuống. Thường bậc của 2 loại cầu thang trên có số lẻ: 3, 5, 7 (người Ê Đê thích nhất con số7) Điều thú vị là nếu bạn muốn biết gia đình nào có bao nhiêu con gái, hãy nhìn vào cửa sổ. Nhà nào có bao nhiêu cửa sổ thì có bấy nhiêu con gái, cửa sổ nào đóng kínnghĩa là cô gái ấy chưa bắt chồng, còn cửa sổ nào mở rộng có nghĩa là cô gái ấy đã bắt chồng. Và mỗi dân tộc Tây Nguyên thường có một nhà rôngvới những nét riêng về hình dáng và cách trang trí nhưng đều là ngôi nhà chung lớn nhất của cả buôn. Nơi đây thườngdiễn ra các buổi sinh hoạt tập thể như hội họp, tiếp khách

của cả buôn… Nhà rông nào càng to thì chứng tỏ buôn đó càng giàu có và thịnh vượng. 4.2 Bí ẩn về cây si ở buôn Đôn

Khắp Buôn Đôn (Đắk Lắk), đâu cũng có những cây si xanh um và mát rượi, giống cây sống dẻo dai và mặc nắng to, mưa lớn, mặc gió bão hay những trận lũ quét ầm ầm từ thượng nguồn sông Sêrêpốk đổ về. Giờ đến du lịch buôn Đôn,không chỉ được ngắm tận mắt, sờ tận tay và nghe tận tai câu chuyện về tàng si hiếm thấy, bạn còn được đi dạo trên chiếc cầu treo luồn ngoằn ngoèo giữa đám rễ si dài hàng trăm mét kéo hút tầm mắt. Đi giữa “tấm mạng nhện khổng lồ”ấy trong tiếng suối róc rách, bạn còn được nghe tiếng chimK'tia hót láy và đung đưa theo nhịp của chiếc cầu để sang ngắm đảo Ea Nô. Mát và trong vắt, dòng nước từ thượng nguồn đổ về đều bị chùm rễ chia thành những dòng nước nhỏ trôi tiếp về phía xa xa.... Truyền thuyết kể rằng: “Ngày xưa, xưa lắm, có mộtcô gái Ê Đê bên này sông Sêrêpốk yêu một chàng trai M'Nôngbên kia sông. Nhà cô giàu có lắm, bắp đầy nhà, trâu đầy chuồng, ché rượu đầy vách... nên không chấp nhận chàng trai vì nhà chàng nghèo. Để được sống bên nhau suốt đời, cô gái trốn nhà cùng chàng trai. Cha mẹ cô gái sai người đuổi theo và bắt được, nhốt cô vào buồng. Tìm đủ cách nhưng không cứu được cô gái, chàng trai ngồi buồn bã rồi chết ngay bên dòng sông. Một thời gian sau, nơi ấy mọc lênmột cây si nhỏ. Nhận được tin, cô gái xót thương, khóc lócnhiều ngày nên đổ bệnh rồi cũng hồn lìa khỏi xác bay đi tìm chàng trai. Bỗng một ngày, phía bờ sông bên này cũng mọc lên một cây si nhỏ. Cứ thế, theo từng con trăng, hai cây si lan ra mép nước, vươn ra bờ bên kia để mọc, cuối cùng là chúng mọc đan xen nhau như 10 ngón tay thon nhỏ của cô gái được sự che chở từ 10 ngón tay gân guốc và ấm

áp của chàng trai... Lâu dần, lũ làng Ê Đê và M'Nông cũng coi đó như một biểu tượng vĩnh cửu trong tình yêu của con trai, con gái buôn mình...” Giờ đây, khi đi trên chiếc cầutreo ấy (được làm cách đây 6 năm bằng tre, nứa, lồ ô, dài trên 500m, bắc qua một trong 7 nhánh sông Sêrêpốk), đôi khi người ta vẫn cảm được hay chợt nghe thấy tiếng thì thầm, than vãn của đôi trai gái yêu nhau nhưng bạc mệnh thuở nào...  4.3 Hội voi Đắk Lắk

Mỗi khi bước vào hội, voi phải được cúng trước cổng trại mỗi buôn để Yàng (Trời) đuổi con ma đi và mang thêm nhiều sức mạnh tới cho voi và các quản tượng. Ba ché rượu cần ngon nhất, gà, heo con thui (chia ba phần), rượu trộn huyết heo, cơm trăng, gạo sống là những thực phẩm dùng cho các thầy cúng, già làng thực hiện lễ cúng trong tiếng cồng chiêng vang dội. Sau lễ cúng, các nài voi uống rượu cần, ăn thịt heo và đổ rượu lên đầu voi, khi ấy mới chính thức công nhận cho voi vào hội. Hay là các nghi thứccúng bếp lửa, cầu nữ thần Mặt trời theo phong tục của người M'Nông, lấy lửa theo cách cổ xưa từ đá và từ tre, nứa. Đan xen trong đó là nghi lễ Gọi Yàng (Drông Yang) trong tiếng chiêng Aráp cổ truyền: “Hỡi thần lửa, thần mặttrời! Hãy ban cho buôn làng ngọn lửa, cho con trai khỏe mạnh, con gái duyên dáng, cho trẻ con tiếng cười... ơi Yàng”. Bên cạnh đó là diễn tấu các loại chiêng Cưng Knah, Ky pah, Cung Bor, Goong pêh, Tưng Kok, đàn đá, múa nến,...Kết thúc lễ hội lửa, trong tay mọi người ai cũng được traomột cây nến lửa và cùng chung vui bên ché rượu cần, múa xoay quanh cột lễ, đống lửa khổng lồ. Đặc biệt, các nhạc cụ gọi là chiêng như trên đều làm bằng tre nứa, có tiếng kêu khi như tiếng đàn T'rưng gọi Tiên lúa về mừng mùa mới,

khi lại róc rách như tiếng suối chảy, lúc như tiếng gió thổi trên ngàn, tiếng giã gạo

4.4 Nhà mồ Tây Nguyên

Nhà Mồ, và Tượng Mồ, là mảng đặc sắc của văn hóa cổ truyền Tây Nguyên (Nam Trung bộ, Việt Nam). Trong thời gian gần đây, truyền thống dựng nhà mồ-tượng mồ chỉ còn thấy tập trung ở các dân tộc Ba na, Ê đê, Gia rai, Mnông, Xơ Đăng. Nhà mồ được xây trùm trên nấm mộ và là trung tâm của lễ bỏ mả. Nhà mồ có nhiều loại khác nhau. Trang trí nhà mồthường sử dụng 3 màu: đen, đỏ và trắng. 

Tượng mồ là loại tác phẩm điêu khắc độc đáo bậc nhất của vùng đất này, trong đó tượng mồ Gia rai, Ba na phong phú và đặc sắc hơn cả.

Theo lời kể của tộc người Banar thì tượng nhà mồ là để đưa tiễn người sang thế giới xa xăm. Bởi vậy, khi sống cuộc đời ra sao thì khi chết đi, con người chỉ đi xa nhưngcũng là một cuộc sống không khác gì thế giới bên này. Họ có kiếp sống của sinh thành, giao hoan, có giải trí và đương nhiên, những súc vật cũng cần mang theo. Đến lễ hội Bỏ mả (lễ hội Pthi), chúng ta ngập trong rừng tượng. Tượngnhà mồ hiện lên sống động quanh những nhà mồ, thể hiện mộtnền nghệ thuật cổ, rực rỡ của người dân tộc Tây Nguyên.

4.5 Điêu khắc gỗ dân gian Ba Na

Người Bahnar có câu: "Khẽi ning nơng, pơm bơxát" nghĩalà "tháng nghỉ làm nhà mồ", tháng nghỉ đó lại là mùa hội, mùa vui, mùa "uống tháng, ăn năm, trâu đâm, lợn mổ". Không

chỉ của người Bahnar mà còn của người Giarai, Êđê và nhiềutộc người khác ở Tây Nguyên.  Làm nhà mồ có nghĩa là tổ chức lễ hội bỏ ma hay bỏ mả. Do đó, không phải ngẫu nhiên lễ bỏ mả lại là lễ hội lớn nhất, tưng bừng nhất, vui nhất, mang tính văn hóa nhấtvà cũng mang tính cộng đồng nhất của Tây Nguyên. Chính nhàmồ, tượng mồ - những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc và điêukhắc dân gian độc đáo của Tây Nguyên được ra đời vào dịp lễ hội thường niên này. Người Tây Nguyên quan niệm chết nghĩa là bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới khác - thế giới bên kia, thế giới của hồn ma. Bởi vậy, khi người chết đã ra đi là ra đivĩnh viễn để sống cuộc sống khác. Ngôi nhà mồ, những pho tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả hay cuộc chiatay, cuộc vui cuối cùng giữa người sống và người chết. Để người chết ra đi thanh thản và có cuộc sống đầy đủ ở thế giới bên kia, hôm làm lễ bỏ mả, người sống không chỉ làm nghi thức sinh thành cho người chết mà còn chia của cải cho người chết đem đi. Theo phong tục của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả và chỉ có tácdụng trong những ngày hội lễ mà thôi. Sau lễ bỏ mả, thì ngôi nhà mồ cùng những tượng mồ cũng bị bỏ luôn. Năm tháng, nắng mưa sẽ dần dà làm hư hỏng rồi tan biến những tác phẩm nghệ thuật tượng mồ vào với đất...

5. Sử thi Tây Nguyên

Trong kho tàng văn hoá phong phú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh giá trị của âm nhạc cồng chiêng đã được công nhận là "di sản văn hoá phi vật thể" của UNESCO, còn phải kể đến giá trị của sử thi. Đó là những áng anh hùng ca mà tuỳ theo ngôn ngữ mỗi dân tộc, được gọi

là Khan (theo tiếng Êđê), là Hom (đồng bào Bana), là Hri (đồng bào Giarai), là Ot nrông (đồng bào Mnông)… Gọi là anh hùng ca là căn cứ vào âm điệu anh hùng trong các tác phẩm dân gian ấy. Nhưng có lẽ gọi một cách khoa học chính xác, đó là sử thi. Sử thi hình thành trên nền tảng văn hoá, văn nghệ dân gian thời sơ sử và thời cổ đại, trước hết trên nền tảng thần thoại. Thần thoại phản ánh nhận thức của người xưa về thế giới, về nhân loại, về cuộc sống… Thần thoại thường gắn liền với phong tục, tập quán, nghi lễ và ca múa nhạc nguyên thuỷ. Tây Nguyên là vùng đất sản sinh khá nhiều sử thi và do đó được các nhà khoa học gọi là "vùng sử thi". Từ sau sử thi “khan Đam San” của người Êđê được công bố đầu tiên từ năm 1927, đến nay đã phát hiện được trên 20 sử thi, trong đó có các sử thi nổi tiếng còn truyền tụng tới nay, như ĐămDi, Chilơkok, Khinh Dú, Đăm Đơroăn, Y Prao, và M’hiêng (của người Êđê), Ot mrông, Cây nêu thần, Mùa rẫy Bon (của Mnông) H’điêu, Chín chiêng, Zông (Giarai), Đăm Noi, Xing chi ôn, Diôông (Bana),… Sử thi không chỉ là đặc trưng, nét độc đáo duy nhất của vùng văn hoá Tây Nguyên, mà vùng này còn thể hiện tính thống nhất của mình qua nhiều hiện tượng văn hoá tiêu biểu khác, như âm nhạc cồng chiêng, văn hoá nhà mồ, các loại luật tục khác… Đây là mộtbiểu hiện của sự thống nhất thể loại của vùng văn hoá Tây Nguyên. Diễn xướng sử thi ở Tây Nguyên thường diễn ra trong các dịp hội hè, tiếp khách, mừng nhà mới, cưới xin… ở nhà rông hay ở nhà dài. Các nghệ nhân vừa hát kể sử thi,vừa đệm nhạc, điệu bộ. Sử thi Tây Nguyên, do đó, là một giá trị tinh thần, được đồng bào Tây Nguyên lưu giữ trong trí nhớ và được diễn xướng trong các sinh hoạt cộng đồng mà chúng ta có thể gọi là “văn hoá sử thi”. Sử thi chứa đựng trong nó

những tri thức bách khoa của cộng đồng các dân tộc. Nếu người Ấn Độ nói rằng, mọi cái hiện có ở Ấn Độ đều đã có trong “Mahabhrata” thì người Mnông cũng cho rằng mọi thứ trong cuộc sống của họ đều có từ thời Tiang, Yang (hai nhân vật sử thi). Vì vậy, kho tàng sử thi Tây Nguyên là một kho tàng văn hoá vô giá, là món ăn tinh thần không thểthiếu của người Tây Nguyên.

III.Các hoạt động của dân tộc Tây Nguyên1. Hình ảnh trang phục nổi bật của dân tộc Tây Nguyên

Trang phục Tây Nguyên có đầy đủ các thành phần, chủngloại trang phục và phong cách thẩm mĩ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Lễ hội của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường diễn ra theo chu kì vòng đời conngười (lễ thổi tai, lễ mừng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang,…),theo chu kì vòng đời cây trồng (lễ phát rẫy, lễ xuống hạt giống, lễ thúc lúa, lễ cho lúa lên chòi, lễ cho lúa xuống chòi…). Đây là dịp để người dân nơi đây trưng diện khoe màu các sắc phục truyền thống trong lễ hội. Hội mùa là ngày hội lớn có từ lâu rất phổ biến ở Tây Nguyên, tương tự như ngày Tết của người Kinh. Trong ngày hội này, bộ lễ phục nữ kèm theo những tua vải ngũ sắc sặc sỡ, được kết từ vai xuống quá lưng, tung bay trong điệu múa Tămpe vui nhộn, xoắn xít bên các chàng trai lưng trần quấn khố, mạnh mẽ, điệu nghệ đánh trống, khua chiêng. Trong ngày cưới, nổi bật trên nền ghế Kpan là một hàng dài những người đàn ông đánh chiêng. Cô dâu chú rể với trang phục kín đáo, áo dài tay khẽ khàng khoe sắc, sặcsỡ những dải hoa văn với nhiều họa tiết phức tạp. Đặc biệtlà sự va chạm của dải cườm được kết bằng hạt T’rpeng trên

đầu khố và biên váy làm cho buổi lễ trang trọng và vui tươi hơn. Trong lễ tang, những người thân mang trang phục thường, một màu đen tuyền u ám, không thiết kế hoa văn, chìm đắm trong không gian tĩnh mịch buồn đau, làm cho không khí của buổi lễ thêm phần thương cảm. Trong lễ Bỏ Mả, ngày lễ lớn nhất của người Jarai, trang phục được phô diễn nhiều nhất và phong phú nhất, bởikhông chỉ người trong làng mà còn các bà con, bè bạn của người chết và gia đình người chết ở các làng khác cùng mang các nét độc đáo riêng của trang phục mình đến dự lễ tiễn biệt lần cuối với người quá cố Còn nhiều môi trường hội, lễ và diễn xướng khác để cho trang phục dân tộc Jarai, Bahnar khoe sắc. Chung quy là để thể hiện sự khéo léo và tài hoa của người phụ nữ quacác họa tiết và màu sắc hoa văn dệt, ở đó đã hàm chứa rất nhiều hình ảnh về những sự vật, hiện tượng mà đồng bào vẫnthường tiếp xúc qua lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày. Ở đó, trên các họa tiết, họ đã gửi gắm những ước mơ về một cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc. Giá trị nghệ thuật trang trí hoa văn cổ này không phải ra đời trong phút chốc dưới ngòi bút của một cá nhân họa sĩ nào mà nó được dần dần hình thành qua cuộc sống lâu đời của một tộc người. Hoa văn dân tộc Jarai, Bahnar là sự kết hợp những họatiết hình học theo một bố cục nhất định. Mặc dù nó chưa đạt trình độ cao, nhưng hiệu quả cuối cùng của nó xét về mặt thẩm mỹ đã làm cho người xem cảm thấy nhẹ, thoáng, sống động và có trọng điểm.

Y phục cổ truyền của người Ê đê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn

ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê đê ưa dùng các trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.

Lễ cưới của các dân tộc Tây NguyênNam nữ thanh niên được tự do tìm hiểu. Nơi gặp gỡ, tỏ

tình, có thể là trong rừng, trên rẫy, ở nhà rông, vào những ngày cưới, hội lễ của làng.

Các thiếu nữ người Giê Triêng đến tuổi lấy chồng đượccha mẹ làm cho những cái lều xung quanh làng làm nơi hẹn hò. Khi ưng ý người bạn trai nào đó, nàng mời chàng tối đến, ở cùng. Sau nǎm đêm tâm sự nếu chàng trai chưa thổ lộtình cảm, thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu. Thông thường, sau khi hai bên trai gái đồng ý, họthưa với cha mẹ nhờ người mối đi hỏi. Qua ông mối, các thiếu nữ Gia rai và Ê đê nhắn ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, hôn lễ sẽ được tiến hành.

Trong lễ hỏi của người M’nông, người mối đem hai ống lồ ô trong đựng mǎng chua và da trâu thái nhỏ sang nhà gáicầu hôn. Nếu nhà gái đổng ý thì nhận hai ống lồ ô làm vật giao ước. Nếu việc cầu hôn bị từ chối, ông mối mang bát gạo do nhà gái đưa cho để báo lại việc từ hôn.

Sau lễ ǎn hỏi, người Êđê thường có tục “gửi dâu”, họ hàng nhà gái dẫn cháu gái đến nhà chồng chưa cưới ở như con trong gia đình. Thời gian “gửi dâu” càng lâu thì sính lễ nhà gái phải nộp cho nhà trai càng giảm.

Đám cưới thường được tổ chức vào cuối nǎm, lúc rỗi rãi và no đủ. Lễ cưới của người M’nông mở đầu bằng việc nhà gái mang biếu họ hàng nhà trai mỗi người một bát gạo

đầy. Mỗi bát gạo này sẽ tương ứng với một cái ché mà nhà trai phải tặng lại nhà gái. Hôm cưới, hai người làm chứng đại diện cho hai họ xúc cho cặp tân hôn mỗi người ba miếngcơm và ngược lại, đôi tân hôn cũng xúc trả lại cho hai người làm chứng ǎn.

Sau đó đôi vợ chồng mới cưới uống rượu chung trước tiên để mở đầu cho bữa tiệc kéo dài vài ba ngày. Sau khi cưới phải cữ 7 ngày, đôi tân hôn tránh gặp người lạ và không ra khỏi nhà.

Lễ đính ước của người Gia rai được tổ chức qua bữa tiệc rượu cần ở nhà gái. Hôm đó, đôi trai gái cùng vít cầnrượu uống chung. Sau đấy trao đổi vòng đeo tay cho nhau biểu hiện sự cam kết thuỷ chung. Tiếp theo là “đoán số phận qua giấc mơ lành, dữ”. Trong đêm tân hôn, nếu đôi vợ chồng thấy giấc mơ xấu thì lập tức phải đến nhờ ông mối cầu thần linh cho chung sống trong một nǎm để hoãn mộng. Đúng vào hẹn đó, nếu vợ chồng vẫn gặp mộng xấu, có thể phải bỏ nhau.

Trong đám cưới của người Cà dong có tổ chức lễ ǎn thềkhông bỏ nhau của đôi vợ chồng. Hai vợ chồng trao cho nhau9 miếng trầu, 9 miếng cau, ý chúc nhau sức khỏe và xum họpmãi mãi. Tiếp đó chồng trao cho vợ chuỗi cườm, và ngược lại, vợ trao cho chồng vòng đồng. Cặp vợ chồng trẻ còn lấycơm nắm bôi lên đầu nhau, ý muốn hồn hai người nhập vào nhau, và bôi máu gà lên trán, ý muốn xua đuổi hồn dữ ra khỏi thể xác.

Với người Mạ, hôm cưới người ta phủ một cái chǎn lớn thêu đẹp lên đôi trai gái không mặc quần áo và cụng đầu hai người vào nhau bảy lần. Sau một lúc tượng trưng cho thời gian của một đêm hoa chúc, hai người thức dậy, lấy một bát thịt gà, rượu và vòng đeo tay. Chồng đeo vòng cho vợ và ngược lại. Vợ chồng uống chung rượu và cùng ǎn thịt

gà. Sau một thời gian, nhà gái mang củi sang nhà trai để làm “lễ củi”. Số lượng gùi củi tương ứng với số khǎn mà nhà gái tặng họ nhà trai.

Người Giê Triêng quan niệm lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì đôi vợ chồng trẻ càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, người ta làm lễ hợp cẩn, đôi trai gái trao nắm cơm với ít gan gà cho nhau ǎn, tiếp đó uống rượu chung. Có nơi, trong buổi lễ này, người ta đánh chiêng tậphợp dân làng, bắt đôi nam nữ nằm trên chõng tre để giữa nhà, cùng đắp chung tấm chǎn. Lại có nơi, người chủ trì buổi lễ dứt mấy sợi tóc của đôi trai gái bỏ lẫn lên đầu nhau với ngụ ý hợp hai hồn của họ làm một.

Trong đám cưới của người Ê đê có tục “té nước” vào chú rể như tục “mở cửa nhà” ở người Thái. Khi rước rể về nhà vợ, bạn bè của chàng rể chạy trước đón đường té nước vào người cô dâu chú rể, mỗi lần như vậy nhà gái phải nộp cho họ một số lễ vật. Người Ê đê cho rằng đám cưới nào có nhiều người chặn đường té nước thì đôi trai gái sau này cuộc sống sẽ hạnh phúc và khi chết sẽ có nhiều người thương, kẻ khóc.

Sau ngày cưới, chồng ở nhà vợ (Gia rai, M’nông, Ê đê,Cơ ho), hoặc ở nhà chồng (Mạ), hoặc luân phiên ở nhà chồngtừ ba đến nǎm nǎm rồi lại chuyển sang ở nhà vợ bằng thời gian ấy (Xơ đǎng, Ba na, Giê Tnêng).

2.Lễ hội cồng chiêng ở Tây Nguyên

Nói về văn hóa Tây Nguyên mà quên cồng chiêng thì là một thiếu sót lớn. Cồng chiêng được coi như ngôn ngữ để con người giao tiếp với thiên nhiên. Trong mỗi cái chiêng lại có Thần chiêng (Yang chiêng). Có lẽ vì thế tiếng

chiêng có ý nghĩa thiêng liêng và theo tập quán cổ truyền,chỉ được dùng trong các nghi lễ, lễ hội cần thiết.

Cồng chiêng Tây Nguyên là nơi chứa đựng những giá trị kiệt tác của nhân loại. Không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự đa dạng độc đáo kỹ thuật diễn tấu mà cồng chiêng còn là biểu tượng cho cuộc sống của con người nơi đây.

Văn hoá cồng chiêng được bắt nguồn từ văn minh Đông Sơncổ đại, nền văn minh được biết đến với tư cách là một nền văn hoá trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á. Nghệ thuật cồngchiêng của Việt Nam đã phát triển đến một trình độ cao so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Giá trị văn hóa củacồng chiêng ở Việt Nam có vị thế đặc biệt nổi bật trong hệnhạc khí cổ truyền bởi nó bắt nguồn từ sự tổng hoà các giátrị văn hóa đa dạng như: giá trị biểu thị đặc trưng và bảnsắc văn hóa vùng; giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người; giá trị phản ánh đa chiều; giá trị nghệ thuật; giá trị sử dụng đa dạng; giá trị vật chất;giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy; giá thị tinh thần; giá trị cố kết cộng đồng và giá trị lịch sử.

 Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bao trùm 5 tỉnh Tây Nguyên, tập hợp của nhiều dân tộc thiểu số. Cồng,chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng khôngnúm. Các dàn cồng chiêng thường gồm nhiều bộ. Mỗi bộ có sốlượng khác nhau và đảm nhiệm những chức năng riêng trong cuộc hoà tấu. Nhạc cụ cồng chiêng có nhiều cỡ, đường kính từ 20, 50 đến 60 cm, loại cực đại tới 90 - 120 cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, một bộ có từ 2 đến 12 - 13 chiếc, thậm chí có nơi tới 18 - 20 chiếc. Trong một bộ chiêng có chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất.

 Các dàn cồng chiêng không chỉ làm nhiệm vụ điểm nhịp, đi tiết tấu hoặc giai điệu một bè mà còn hoà tấu nhạc đa âm. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay.Có thể gõ vào giữa mặt chiêng hay đánh ngoài rìa tùy theo bài bản. Người Êđê đa số sử dụng loại dùi cứng tạo nên tiếng vang rất to nhưng lại có nhiều tạp âm. Người Bana thường sử dụng dùi làm bằng cây sắn là loại gỗ mềm hơn, tuy nét nhạc không vang bằng nhưng âm cơ bản nghe rất rõ. Loại dùi thứ ba làm bằng gỗ thường có bọc thêm một lớp bênngoài (xưa kia người ta sử dụng da tinh hoàn của trâu, bò hoặc dê, về sau được bọc bằng vải rồi đổi sang bọc bằng cao su). Dùi loại này phù hợp nhất vì tạo nên âm thanh rấthay. Khi đánh cồng, bàn tay mặt của nhạc công vỗ vào núm cồng như xoa dịu. Trước đây một số nhà nghiên cứu tưởng rằng chỉ có một cách đánh bên ngoài mà thôi, nhưng về sau mới biết bàn tay trái nắm ở bên trong cũng tham gia biểu diễn với nhiều cách, hoặc nắm vào vành hoặc bóp vành rồi buông ra, giống như cách nhấn nhá trong các loại đờn dây hay cách ém hơi trong kỹ thuật hát. Thậm chí có khi nhạc công đeo thêm chiếc vòng để khi lắc tay thì chiếc vòng đụng vào mặt trong phối hợp với tiếng gõ bên ngoài.

 Người Tây Nguyên còn có nhiều phong cách chơi cồng chiêng rất phong phú và bài bản. Nếu dàn cồng chiêng ở cácnước khác, chẳng hạn như Gamelan ở Java, Gong Kebyar ở Bali (Indonesia) hay Kulingtan, dân tộc Mindanao của Philippines, nhạc công luôn ngồi yên tại chỗ thì người đánh cồng chiêng Tây Nguyên luôn di động, còn động tác thìđa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng ... Người Bana và Giarai có phương pháp đánh chỉ điệu (một bài trầm đánh trên một vài giai điệu); người Êđê đánh theo cách thức từng chùm...

Người dân Tây Nguyên không chỉ dùng riêng một loại chiêng núm hoặc chiêng bằng, mà thường dùng kết hợp với nhau. Trong đó, chiêng núm làm bè trầm, chiêng bằng đánh giai điệu. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời gian, hướng về nguồn cội.

 Giá trị của cồng chiêng không chỉ thể hiện ở kỹ thuật chế tác mà nó còn có ý nghĩa tâm linh. Cồng chiêng đại diện cho văn hoá Tây Nguyên, được sử dụng trong nhiều nghilễ, tín ngưỡng quan trọng. Cồng chiêng được xem là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu của con người với thần thánh và thếgiới siêu nhiên. Người Giarai, khi đứa trẻ được sinh ra, trong lễ hội "thổi tai", tiếng chiêng sẽ cấp cho đứa bé những tín hiệu đầu tiên của văn hoá dân tộc. Chiêng còn sửdụng khi làm đám cưới, làm nhà mới, làm rẫy, đưa người chết ra mồ và cả khi bỏ nhà mồ. Chiêng đem cái thiêng vào cuộc sống, khiến con người cảm thấy được sống trong một không gian thanh cao, tâm linh, huyền ảo. Tiếng cồng chiêng Tây Nguyên hoà nhịp âm vang gợi cho người nghe như thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, khônggian lễ hội... của con người nơi đây. Không chỉ có vậy, tiếng cồng chiêng còn đem đến cho đời sống của người Tây Nguyên sự lãng mạn. Đó chính là nguồn gốc của những áng sửthi, thơ ca đi vào lòng người.  Ngày 15/11/2005, UNESCO công nhận “Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại”. Sự kiện này có ý nghĩa to lớn đối với cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống văn hoá vừa đa dạng phong phú, vừa độc đáo và giàu bản sắc của các dân tộc TâyNguyên.

3. Lễ cúng bến nước của người Tây Nguyên

Lễ cúng Bến nước hay Tết Giọt nước, Tết Bến nước là mộttrong những nghi lễ quan trọng của dân tộc Tây Nguyên. Được tổ chức hằng năm, với mục đích cúng tạ thần nước đã đem lại những may mắn trong năm cũ và cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi cho năm sau.

Lễ cúng Bến nước là một sinh hoạt cộng đồng đậm chất văn hóa của người Tây Nguyên cầu cho nước sạch, nước trong, mang lại sức khỏe cho buôn làng. Đây là một trong những nghi lễ rất quan trọng đối với người Giê Triêng. Nước còn quan trọng hơn cả cơm ăn áo mặc.

Không ăn cơm còn sống được cả tháng trời, không có áo mặt thì chỉ bị lạnh thôi, còn không có nước thì không thể sống được. Do đó Thần nước được người Tây Nguyên thờ cúng long trọng, và vô cùng linh thiêng…”. Ngay từ khi tìm đất lập làng, người Tây Nguyên bao giờ cũng quan tâm tìm nguồnnước. Một nguồn nước dồi dào, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt vàsản xuất chính là nơi người Tây Nguyên chọn là nơi lập làng… 

Để thực hiện nghi thức này, người Tây Nguyên chọn ra những người đàn ông tài giỏi của buôn làng dựng cây nêu. Để tránh súc vật chạy qua, cây nêu sẽ được chọn dựng ở vị trí cao ráo trước nhà Rông. Một số người khác sẽ phải đi lên đầu nguồn nước để kiểm tra, đảm bảo nguồn nước trong lành sẽ chảy về làng. Trước khi tiến hành nghi lễ, từ sángsớm, già làng sẽ đánh những hồi chuông dài báo cho buôn làng biết là sắp tổ chức lễ cúng bến nước. Bến nước hôm đóđược trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, treo đồ vật trang trí.

Lễ cúng có 3 phần. Phần thứ nhất là cúng tại bến nước để cầu cho thần nước mang lại sức khỏe cho buôn làng, tiếp

đó là cúng tại hàng rào trước khi mang nước vào nhà và cuối cùng là cúng tại nhà của chủ bến nước. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, người ta sẽ lấy nước vào cácvật đựng nước, thường là các quả bầu khô, bỏ vào gùi và gùi về nhà lấy phước. Trong khi đó một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ...

4. Lễ hội bắt chồng ở Tây Nguyên

Chuyện cướp vợ của người H’Mông chắc nhiều bạn đã biết nhưng liệu bạn có biết ở Tây Nguyên cũng có một lễ hội kháthú vị tên là “ Lễ hội Bắt chồng “ không?

Khi cái lạnh sâu cùng những cơn gió hanh hao của mùa đông tràn về cũng là lúc khắp các thôn bản của đồng bào Chu Ru, Cil, Cơ Ho... ở Tây Nguyên rộn rã bước vào mùacưới - mùa bắt chồng. Với họ, mùa xuân gõ cửa cũng đồng nghĩa với niềm vui nhân đôi ùa tới từng bản làng, ngõ xóm.Và, một trong những tín vật kết nối mang tính linh thiêng nhất là cặp Srí (nhẫn cưới). Xung quanh cặp nhẫn này là hàng ngàn điều huyền diệu mang đậm bản sắc Tây Nguyên.

Ngày xuân đến Tây Nguyên, những cơn mưa phùn bất chợt rắc đều suốt chiều dài con ngõ nhỏ khiến những rặng dã quỳkhắp nơi bừng thức một màu vàng rực như níu kéo, như mời gọi. Cùng lâng lâng bên những ché rượu cần, khắp nơi rộn ràng lễ hội xuân – Lễ hội bắt chồng. Trong cách gọi của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, cặp nhẫn cưới là Srí. Khác với cách làm nhẫn của người Kinh, những cặp Srí mang một sức mạnh huyền bí, vừa kết nối, vừa như một lời thề về hạnh phúc gia đình khi người con gái đã hoàn thành thủ tụcbắt chồng.

Để có cặp nhẫn cưới hoàn hảo, các nghệ nhân phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ: Lấy sáp ong nấu chảy, trộn phântrâu rồi dùng que gỗ tròn bằng ngón tay nhúng vào, chờ khôrút que gỗ ra, sáp ong và phân trâu khô quánh thành những ống tròn, nghệ nhân cắt thành những khuyên nhỏ làm khuôn đúc nhẫn. Bạc sau khi được đun nóng sẽ đổ vào khuôn, trướcsức nóng của bạc mới nấu, sáp ong và phân trâu sẽ bết chặttạo thành một lớp men bên ngoài nhẫn. Khuôn đúc nhẫn có hai loại: Loại nhỏ để đúc nhẫn mái cho người phụ nữ; loại to đúc nhẫn trống dành cho người con trai. Trong quá trìnhđánh bóng và chạm trổ nghệ nhân dùng nước bồ kết hoặc nướclá cây Kơ -nia đun sôi để rửa và gửi gắm ước vọng về một mùa xuân vĩnh hằng.

Đến thời điểm này ở Lâm Đồng chỉ còn duy nhất một nghệ nhân làm được “nhẫn bắt chồng”, đó là Ya Tuất ở Đơn Dương.Hơn 20 năm nay, anh vẫn miệt mài làm ra hàng triệu chiếc nhẫn. Làm nhẫn tuy không đòi hỏi kỹ thuật cao nhưng phải là người thực sự có năng khiếu. Ngày xưa ông Ya Tiêng, chacủa Ya Tuất miệt mài làm mãi vẫn không thành công, chỉ có Ya Tuất may mắn học làm được từ sự chỉ dạy của cậu là Ya Grang. Và Ya Tuất tin vào cái duyên ngầm của người truyền dạy và người học. Hiện Ya Tuất đã làm được 14 loại nhẫn khác nhau, một số loại đặc sắc như: nhẫn có mặt đính hạt Karel (một loại hạt cây rừng chỉ Ya Tuất biết), tiếng dân tộc gọi là nhẫn Srí lơ hây, nhẫn vòng thường (Srí car), nhẫn mắt sâu (loại nhẫn quí nhất, tiếng dân tộc gọi là srímata hơ la), ngoài ra còn nhiều loại nhẫn, vòng bạc khác. Đặc biệt Ya Tuất vừa làm vừa truyền nghề cho cậu con trai như muốn gìn giữ nét văn hóa truyền thống.

Như nét văn hóa riêng đã tồn tại nhiều năm, những cô gái dân tộc Chu Ru, Cil, Cơ Ho... ở Tây Nguyên muốn có chồng phải đi bắt, lễ bắt chồng thường diễn ra vào ban

đêm. Khi thích một chàng trai nào đó, cô gái về thông báo cho gia đình và dòng họ biết, gia đình sẽ đến nhà trai nóichuyện hỏi dạm. Nếu cả hai dòng họ đồng ý, cô gái sẽ đến đeo nhẫn vào tay người con trai trong đêm đẹp trời. Trườnghợp người con trai không thích có thể tháo nhẫn trả lại nhưng 7 ngày sau, cô gái lại chọn một đêm đẹp trời đến đeonhẫn cho chàng trai và cứ thế lặp đi, lặp lại cho đến khi nào chàng trai thương và chấp nhận thì đám cưới diễn ra. Trước khi cưới một ngày, buôn làng tổ chức đêm hội gọi là “Đêm bắt chồng”.

Trong đêm hội này, chàng trai và cô gái phải đọc một sốcâu luật tục riêng của đồng bào mình, có một số câu luật độc đáo như: “Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha; ăn ruộng,ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò; làm bẫy phải hỏi thần núi về với vợ như về với nước,...”. Ngày cưới, chàng trai và cô gái rút nhẫn ra và đeo lại cho nhau. Sau lễ cưới 7 ngày, cô gái tháo nhẫn đưa mẹ chồng cất giữ và ngược lại nhẫn chàng trai do mẹ vợ cất giữ. Nếu cuộc sống vợ chồng sau đó xảy ra mâu thuẫn, không hòa hợp, ai đề nghị ly hôn trước thì người đó phải đưa một con trâu cho người kia (thường là trâu đực). Đồng thời sau lễ bắt chồng, ai đi ngoại tình sẽ phải đền ba con trâu đực to và số trâu sẽ tăng lên nếu ngoại tình nhiều lần. Đây cũng được xem như luật tục riêng làm tăng tính gắn kết và chungthủy trong cuộc sống vợ chồng. Lễ bắt chồng còn được đồng bào xem như một việc đại sự của cả dòng họ và chiếc nhẫn thành tín vật chung cho hai nhà.

5. Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên

Đó là lòng thành dâng cúng tạ ơn của hậu thế đối với các bậc tiền hiền, những người có công khai sơn phá thạch,khẩn hoang lập ấp định hình dân cư, làng xã.

Vào khoảng tháng 12 đến tháng 3 âm lịch hàng năm, đồng bào Tây Nguyên diễn ra ngày hội đâm trâu. Người Xơ đăng- Bana tiến hành lễ hội trong 3 ngày, người Gia Rai chỉ tiếnhành trong một ngày rưỡi. Ngày vão lễ hội gọi là “ Mút “, ngày cuối ăn đầu trâu gọi là Bongkok

Để chuẩn bị cho tục đâm trâu, những thanh niên trai trẻsẽ vào rừng chặt bốn cây to bằng bắp chân vài thước cao vàbốn ngọn lồ ô đem về buôn làng. Sau đó họa khắc lên các cây và các ngọn lồ ô những hoa văn, họa tiết đặc trưng chovăn hóa tâm linh, địa hình kỳ bí và tín ngưỡng nơi đây.

Họ dắt một con trâu đắc ý đem buộc chặt vào cột “Gingga” trước sân nhà Rông. Có một cây lồ ô tượng trưng cho tay thần, cắm cao chính giữa. Trói thêm một con heo lớn áp sát vào cột để chứng tỏ sự trù phú của buôn làng.

Bắt đầu khai hội thường vào giờ Sửu xế chiều. Những trai làng thành thạo có nhiệm vụ đánh trống và cồng chiêng. Đầu họ chít khăn đỏ, mặc áo lễ “Blan” hoặc mặc áo ló chui đầu, không tay, có thêu hoa văn sặc sỡ hai bên vạtáo, đóng khố hoa “Kteh” và trong tư thế sẵn sàng đợi lệnh trỗi nhạc. Các sơn nữ mặc áo “Phia” – một kiểu áo lễ của nữ giới, váy hoa “Kteh”, đầu chít khăn trắng tựa sắc lan rừng đang nở rộ. Mọi người trong buôn làng, từ già trẻ, gái trai xúng xính trong bộ áo quần mới nhất, trò chuyện líu lo nơi sân nhà Rông.

Chủ trì ngày hội đâm trâu là một già làng, còn gọi là “Riu Yang” (thầy cúng). Riu Yang đứng nghiêm trang bên cộtđang buộc con trâu, sau lưng ông là nam thanh nữ tú, ban nhạc cồng chiêng.

Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, thầy cúng khấn: Cầu xin thần trời – thần nước – thần núi- thần sông suối hãy đến đây chứng kiến ngày hội đâm trâu của dân làng. Cầu

xin các thần linh thiêng hãy phù hộ cho dân làng trồng được nhiều lúa, nuôi được nhiều trâu bò, súc vật…  

Thầy cúng đọc xong, tức thì tiếng trống, tiếng cồng chiêng nổi lên. . Âm thanh sôi động trong những vũ điểu uyển chuyển, đa dạng của các sơn nữ khiến cho lễ hội thêm phần quyến rũ, hấp dẫn. Vũ nhạc của các sơn nữ lặng xuống cũng là lúc các chàng trai đầu chít khăn đỏ trong tay manglưỡi kiếm sáng loáng nhảy ra múa tiếp. Nhảy múa một lúc, họ đặt vũ khí xuống, dùng những gậy gỗ dài một thước đấu với nhau. Tốp này vào nghỉ đã có tốp khác ra thay. Trong lúc họ múa, gái làng thi nhau té nước vào họ. Chàng nào tài hoa thì không bị ướt, chàng nào bị ướt nhiều tức là bịthần quở và có nguy cơ ế vợ.

Sau các màn múa hát họ bắt đầu đâm trâu. Chàng nào chỉ đâm một nhát mà trâu chết ngay thì được khen ngợi. Trâu ngã xuống bắt đầu xẻ thịt chia đều cho từng bếp trong buônlàng. Một phần thịt trâu được dành lại ăn uống chung tại nhà Rông. Đầu trâu được gác lên cột lề. Sáng ngày sau còn có lễ rước đầu trâu lên nhà Rông. Đầu trâu được chẻ ra làmmón ăn. Riêng cặp sừng được giữ lại và treo lên vách nhà Rông. Người làng còn lấy máu trâu hòa với rượu để rửa những bảo vật truyền kiếp nhà Rông.

Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên có ý nghĩa tái diễn lại thời các bậc tiền bối đã dũng cảm chiến đấu mở mang sáng lập buôn làng. Mời đấng thần linh về ăn thịt trâu, uống rượu cần thể hiện lòng thành của hậu thế đối với bậc tiền bối.

Phần II. Ý nghĩa việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Nguyên

Trong tâm thức mọi người dân Việt Nam, Tây Nguyên là vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc. Trải qua thời gian, cácdân tộc nơi đây đã sáng tạo một kho tàng văn hóa đa dạng, phong phú và giàu bản sắc. Chẳng hạn như những lễ hội cuốnhút, những pho sử thi đồ sộ, những mái nhà rông cao vút với các trang trí đậm đà bản sắc dân tộc, những bộ luật tục giàu giá trị lịch sử…

Nghiên cứu về Tây nguyên và những nét đặc trưng cơ bản của Tây nguyên để thấy được những nét đẹp đáng tự hào của Tổ quốc Việt Nam nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng, góp phần quảng bá du lịch Việt và từ đó thấy được ýnghĩa của việc gìn giữ và bảo tồn những nét văn hóa đó đốivới vùng và quốc gia.

1. Về kinh tế

- Tây Nguyên là một vùng lí tưởng cho hoạt động dulịch. Ít nơi nào lại có điều kiện thuận lợi để tạo sản phẩm đặc trưng, riêng biệt, hấp dẫn, về du lịch như nơi đây. - Khai thác khoáng sản: Nhiều dự án đầu tư tại Tây Nguyên nhằm khai thác các thế mạnh của nguồn tài nguyên phong phú này. Trong đó phải kể đến những dự án khai thác khoáng sản lớn của tập đoàn Đức Long Gia Lai nhưthác như mỏ đá Granit Oplat, mỏ đá bazan, baxazan khối…

2. Về chính trị xã hội

- Hoạt động lễ hội, du lịch giúp tạo ra mối liên kết, sự kết hợp giữa các vùng, các địa phương góp phần làmgia tăng mối quan hệ, tình đoàn kết giữa các dân tộc.

- Việc bảo tồn các nét đặc trưng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên giúp nơi đây giữ được nét văn hóa truyền thống, xây dựng một nền văn hóa đa sắc tộc.

3. Đối với quốc gia

Tây nguyên là một vùng văn hóa đa sắc tộc, việc bảo tồn làng truyền thống có ý nghĩa sống còn để giữ gìn không gian sinh tồn của văn hóa tộc người. Đây là phương pháp bảo tồn sống, là giải pháp quan trọng và có ý nghĩa thiết thực nhất để giúp nó phát triển bền vững

4. Về an ninh quốc phòng

Tây Nguyên có nhiều dân tộc sinh sống, là điểm nóngchính trị của nước ta, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng quốc phòng, an ninh của nước ta. Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư xây dựng,phát triển kinhtế - xã hội vùng Tây Nguyên, đặc biệt chú trọng hệ thống chính trị các cấp nhằm khai thác tiềm năng kinh tế đảm bảo an ninh quốc phòng cho các dân tộc phát triển kinh tế, văn hóa, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu,từng bước đi lên CNXH. 

Phần III. Kết luận Đất nước Việt Nam chúng ta có nhiều dân tộc anh em chung sống trong một lãnh thổ. Không riêng gì dân tộc Tây Nguyên mà mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa, tiếng nói riêng, phong tục, tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng cũng khác nhau nhưng tất cả dân tộc đều có chung một nguyện vọng là: Xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.

Tây Nguyên là nơi có nhiều dân tộc cùng chung sống, và cũng là nơi thưa dân nhất nước ta, với những phong tục,tập quán riêng đa dạng, với những nền văn hóa riêng của từng dân tộc đã tạo nên nét đẹp riêng cho vùng Tây Nguyên này. Nhìn chung các dân tộc Tây Nguyên đều có chung một điểm là nhà sàn. Mỗi nhà sàn là một đặc trưng riêng của từng dân tộc biểu hiện sự thịnh vượng của dân tộc đó.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – HạnhPhúc Hà Nội ngày 29 tháng 10 năm 2014 BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM (Lần 1)

Thời gian : 8h ngày 29 tháng 10 năm 2014 Địa điểm : sân thư viện Thành phần tham dự : Các thành viên nhóm 6 Vắng mặt : 0 Nội dung : nhóm trưởng phân chia công việc cho các thành viên trong nhóm Buổi họp kết thúc vào lúc 9h30 ngày 29 tháng 10 năm 2014

Thư ký Nhóm trưởng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – HạnhPhúc Hà Nội ngày 1 tháng 11 năm 2014 BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM (Lần 2)

Thời gian : 8h ngày 1 tháng 11 năm 2014 Địa điểm : sân thư viện Thành phần tham dự : Các thành viên nhóm 6 Vắng mặt : 0 Nội dung : nhóm trưởng tổng hợp tài liệu từ các thànhviên Buổi họp kết thúc vào lúc 9h30 ngày 1 tháng 11 năm 2014

Thư ký Nhóm trưởng