Post on 10-Mar-2023
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
CHUYÊN ĐỀ
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÔNG TY TOÀN CẦU
Hà Nội, 2014
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 7
1. Bùi Kiều Anh
2. Nguyễn Thị Hương
3. Vũ Thị Hồng Nhung
4. Nguyễn Văn Sáng
5. Ngô Minh Thiện
6. Nguyến Thị Thoa (27/2)
7. Vũ Văn Trung
Giảng viên: PGS.TS. Kim Ngọc
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................. i
DANH MỤC HÌNH .............................................................................................ii
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÔNG TY TOÀN CẦU ............................................................................ 3
1.1. Các khái niệm ........................................................................................ 3
1.1.1. Công ty toàn cầu ................................................................................ 3
1.1.2. Các khái niệm khác liên quan ............................................................ 3
1.2. Đặc điểm của các công ty toàn cầu ....................................................... 6
1.2.1. Thâu tóm nguồn lực trên quy mô toàn cầu ........................................ 6
1.2.2. Xem thị trường thế giới như thị trường trong nước ........................... 7
1.2.3. Thiết lập sự hiện diện trên toàn thế giới ............................................ 7
1.2.4. Phát triển chiến lược kinh doanh toàn cầu thông qua phương pháp
tiếp cận tích hợp ............................................................................................ 8
1.2.5. Hoạt động xuyên biên giới ................................................................. 9
1.3. Các lý thuyết về sự hình thành và phát triển của công ty toàn cầu ..... 10
1.3.1. Lý thuyết chu kì sản phẩm ............................................................... 10
1.3.2. Lý thuyết nội vi hóa ......................................................................... 11
1.3.3. Lý thuyết chiết trung ........................................................................ 12
1.3.4. Các quan điểm lý thuyết khác .......................................................... 14
CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
TOÀN CẦU ....................................................................................................... 16
2.1. Sự hình thành các công ty toàn cầu ..................................................... 16
2.1.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................ 16
2.1.2. Nguyên nhân hình thành .................................................................. 17
2.2. Sự phát triển của các công ty toàn cầu ................................................ 18
2.2.1. Các giai đoạn phát triển ................................................................... 18
2.2.2. Thực trạng phát triển ........................................................................ 22
2.3. Quá trình hình thành và phát triển của các công ty toàn cầu của một số
khu vực và quốc gia tiêu biểu ............................................................................. 28
2.3.1. Các công ty toàn cầu Mỹ.................................................................. 29
2.3.2. Các công ty toàn cầu Nhật Bản ........................................................ 30
2.3.3. Các công ty toàn cầu Châu Âu ......................................................... 32
2.3.4. Các công ty toàn cầu của các NIE Châu Á ...................................... 33
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY TOÀN
CẦU VÀ MỘT SỐ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY
TOÀN CẦU TRONG TƯƠNG LAI................................................................ 35
3.1. Đánh giá sự phát triển của các công ty toàn cầu ................................. 35
3.1.1. Thành tựu ......................................................................................... 35
3.1.2. Hạn chế ............................................................................................. 38
3.2. Xu hướng phát triển của các công ty toàn cầu trong tương lai ........... 41
3.2.1. Xu hướng mở rộng hoạt động tại các thị trường mới nổi ................ 42
3.2.2. Xu hướng tăng cường hoạt động mua bán và sáp nhập M&A ........ 45
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 51
i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt
1 BRICS
Brazil, Russia, India,
China, South of Africa
Các nước có nền kinh tế mới
nổi: Brazil, Nga, Ấn Độ,
Trung Quốc và Nam Phi
2 CNN Cable News Network Mạng lưới thông tin toàn cầu
3 CNTB
Chủ nghĩa tư bản
4 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5 GE Global Enterprise Công ty toàn cầu
6 IE International Enterprise Công ty quốc tế
7 M&A
Mergers and Acquisitions
Mua bán và Sáp nhập
8 MNC
Multinational Corporration
Công ty đa quốc gia
9 NIE Newly Industrialized
Economies
Các nền kinh tế công nghiệp
mới
9 R&D
Research & Development
Nghiên cứu và triển khai
11 TNC Transnational Corporration Công ty xuyên quốc gia
12 UNCTAD United Nations Conference
on Trade and Development
Diễn đàn Thương mại và
Phát triển Liên Hiệp quốc
ii
DANH MỤC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1 Hình 3.1
10 quốc gia nhận dòng vốn FDI lớn nhất trên
thế giới, 2013 44
2 Hình 3.2 Xếp hạng dự báo các nền kinh tế nhận nhiều
FDI nhất từ TNCs, 2014-2016
44
3
Hình 3.3
M&A xuyên quốc gia trên thế giới thực hiện
bởi 100 GEs lớn nhất thế giới: Số lượng các
thương vụ theo chiều dọc và chiều ngang,
2003-2012
47
4 Hình 3.4
M&A xuyên quốc gia thực hiện bởi GEs theo
ngành, 2005-2012 48
iii
DANH MỤC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 Bảng 1.1
Phân biệt MNC, TNC và GE
5
2 Bảng 2.1 Tổng số GEs mẹ và chi nhánh từ năm 1988 –
2004 23
3 Bảng 2.2
Số liệu thống kê tài sản, doanh thu và lao động
từ 100 GEs lớn nhất thế giới, 2010-2012
24
4 Bảng 2.3
Danh sách 10 quốc gia đứng đầu về số lượng
GEs, 2014 27
5 Bảng 2.4
Danh sách 10 công ty toàn cầu lớn nhất thế giới,
2014 28
6 Bảng 2.5
Danh sách 10 GEs dẫn đầu thế giới về chi tiêu
R&D, 2013 29
7 Bảng 3.1
Các dòng vốn FDI theo khu vực, 2011 – 2013
37
8 Bảng 3.2 Danh sách 10 thương vụ M&A xuyên quốc gia
lớn nhất theo giá trị thương vụ, quý I, 2014 47
1
MỞ ĐẦU
Trong xu thế hoàn cầu hóa hiện nay, hội nhập kinh tế toàn cầu là một xu
thế tất yếu, bất kỳ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải chấp
nhận và thực hiện. Nhiều quốc gia bắt đầu mở cửa nền kinh tế thu hút đầu tư từ
các công ty xuyên quốc gia (TNC). Đây là cơ hội của các công ty tập đoàn lớn,
các công ty không chỉ giới hạn việc sản xuất kinh doanh của mình ở chính quốc
nữa mà họ bắt đầu mở rộng thị trường ra các nước khác để tìm kiếm cơ hội và
gia tăng lợi nhuận. Các hoạt động của TNCs không còn giới hạn ở một số lĩnh
vực chuyên doanh nữa mà đã chuyển sang đa doanh và có phạm vi ảnh hưởng
toàn cầu. Bởi thế, đã xuất hiện thuật ngữ công ty toàn cầu (GE).
Các công ty toàn cầu có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh
tế thế giới cũng như nền kinh tế mỗi quốc gia, khu vực. Thông qua mạng lưới
các công ty toàn cầu, các nước công nghiệp phát triển có điều kiện để khai thác
những khoản tiền nhàn rỗi trong nước tốt hơn, đưa những công nghệ cũ không
còn phù hợp ra nước ngoài, nhằm đổi mới công nghệ nền sản xuất trong nước
cũng như giải quyết một phần các vấn đề môi trường, sinh thái. Mặt khác, cũng
thông qua chiến lược hoạt động đầu tư của hệ thống mạng lưới GEs, nhiều nước
đang phát triển có cơ hội nhận được nguồn vốn kỹ thuật, công nghiệp tiên tiến
nhằm đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng
cách với các nước phát triển, đồng thời có cơ hội phát huy lợi thế của mình, hội
nhập nền kinh tế thế giới.
Sự phát triển nhanh chóng, sôi động của GEs trong thời gian qua không
những mang đậm nét đặc trưng của thời đại, làm tăng nhanh quá trình toàn cầu
hóa, khu vực hóa của nền kinh tế thế giới, mà còn phản ánh trình độ sản xuất
kinhh doanh, tăng khả năng xuất khẩu và đầu tư, mở rộng thương mại quốc tế
làm cho nền kinh tế quốc gia thích ừng với sự phát triển của sức sản xuất xã hội.
Nhờ có sự hoạt động rộng khắp của GEs mà nền kinh tế của các quốc gia, khu
vực có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau tạo ra những xu hướng phát
triển mới trong thế kỷ XXI.
2
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, lại đang trong tiến trình đổi
mới nền kinh tế, trong khi khái niệm “công ty toàn cầu” còn khá mới mẻ; do đó,
việc nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của các công ty toàn cầu có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Do đó, nhóm nghiên cứu
chọn đề tài “Sự hình thành và phát triển của công ty toàn cầu” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÔNG TY TOÀN CẦU
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Công ty toàn cầu
Trước xu hướng mạnh mẽ của toàn cầu hóa, nhiều quốc gia mở cửa thu
hút đầu tư từ các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Thế độc tôn trong chi phối
quan hệ quốc tế bởi các quốc gia đang dần bị phá vỡ bởi sự nổi lên của các chủ
thể phi quốc gia, trong đó công ty xuyên quốc gia là một trong những chủ thể
phi quốc gia quan trọng nhất. Các hoạt động của TNCs không còn giới hạn ở
một số lĩnh vực chuyên doanh nữa mà đã chuyển sang đa doanh và có phạm vi
ảnh hưởng toàn cầu. Bởi thế, đã xuất hiện thuật ngữ công ty toàn cầu. Một công
ty trở thành doanh nghiệp toàn cầu khi nó hội nhập tất cả các đơn vị cấu thành
của nó và tập trung chiến lược marketing trên quy mô toàn cầu.
Các doanh nghiệp toàn cầu là công ty hoạt động trên phạm vi toàn cầu,
chứ không phải doanh nghiệp đa quốc gia hay xuyên quốc gia được tập trung
trong khu vực. Họ tiếp thị sản phẩm của mình thông qua việc sử dụng phối hợp
cùng một hình ảnh hoặc thương hiệu trong tất cả các thị trường. Công ty toàn
cầu về bản chất là công ty xuyên quốc gia hoạt động trên quy mô toàn cầu.
Thuật ngữ này chỉ phản ánh đặc điểm của TNCs trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay, còn về bản chất và định nghĩa vẫn không có sự khác biệt đáng kể.
1.1.2. Các khái niệm khác liên quan
Ngoài khái niệm công ty toàn cầu, nhiều thuật ngữ được sử dụng như
công ty quốc tế (International Enterprise), công ty đa quốc gia (Multinational
corporration - MNC), công ty xuyên quốc gia (Transnational corporration –
TNC). Các thuật ngữ này có sự khác biệt nhất định trong kinh tế. Sự phân loại
cụ thể thường phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể, theo quy mô địa lý và
doanh số, sự phân biệt quốc tịch của công ty mẹ hay mức độ ảnh hưởng trong
quan hệ quốc tế.
4
Trong những năm 1960, các thuật ngữ công ty quốc tế và công ty đa quốc
gia được sử dụng với ý nghĩa như nhau, chỉ sự lớn mạnh của các công ty đã vượt
khỏi phạm vi một quốc gia và có các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên xét ở cách tiếp cận, thuật ngữ thứ nhất xem xét
công ty từ góc độ kinh doanh quốc tế, trong khi thuật ngữ thứ hai đề cập đến
tính sở hữu đa quốc gia của công ty, vì thế đã phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm của
MNC.
Đến đầu những năm 1970, đã có sự phân biệt giữa hai khái niệm và thuật
ngữ MNC được sử dụng nhiều hơn. Trong thời kì này, cơ cấu tổ chức và các
hoạt động của MNCs chuyển sang cơ chế phi tập trung, đa doanh hơn và quá
trình ra quyết định các hoạt động của công ty không còn độc quyền từ một chủ
sở hữu ở chính quốc mà người nước ngoài cũng được tham gia quản lý các chi
nhánh của các công ty hoạt động ở nước họ, cũng như góp vốn và quyết định
hình thức hợp tác (FDI) với các MNC ở nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vậy, cơ cấu
tổ chức và hoạt động của MNCs không chỉ có tính quốc tế mà còn mang đậm nét
đa quốc gia (Phùng Xuân Nhạ, 2006).
Cuối những năm 1980, do các nước đang phát triển bắt đầu nới lỏng các
quy chế đầu tư nước ngoài và thị trường vốn quốc tế theo xu hướng tự do hóa đã
dẫn tới sự tăng trưởng mạnh mẽ của các MNC, tiêu biểu là trào lưu các công ty
mẹ mở rộng các chi nhánh ra nhiều nước. Bởi vậy, trong thời kì này, thuật ngữ
TNCs được sử dụng rộng rãi. Năm 2005, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa về TNCs như sau:
“TNCs bao gồm các công ty mẹ và các công ty con của chúng ở các nước trên
thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở
hữu hơn là ở nước ngoài. Công ty con là công ty hoạt động ở nước ngoài dưới
sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước
ngoài”.
Xét theo tiêu chí khác nhau như quy mô địa lý và doanh số hay sự phân
biệt quốc tịch của công ty mẹ, các thuật ngữ MNC, TNC và GE có những sự
khác nhau nhất định, được trình bày cụ thể trong bảng dưới đây.
5
Bảng 1.1: Phân biệt MNC, TNC và GE
Tiêu chí MNC TNC GE
Sở hữu
vốn
Là công ty cổ phần
đóng góp từ nhiều cá
nhân của các quốc
gia khác nhau
Là công ty cổ phần,
vốn là từ một quốc
gia hình thành nên
Vốn sở hữu có thể từ
một quốc gia hay
nhiều quốc gia
Cấu trúc
tài sản và
khả năng
Phi tập trung hóa và
tự có thẩm quyền
trên quy mô quốc
gia
Phân tán, phụ thuộc
lẫn nhau, và chuyên
môn hóa
(Matsushita,
Siemens)
Tập trung hóa và quy
mô toàn cầu, nhưng
theo xu hướng mô
hình phân cấp (ngành
sản xuất ô tô, các
công ty Nhật Bản)
Thị trường
hoạt động
Có thể tại một quốc
gia hay nhiều hơn,
tùy thuộc vào chính
sách kinh doanh của
tập đoàn đa quốc gia
đó
Từ hai quốc gia trở
lên (do thực hiện
chính sách hướng
ngoại, mở cửa thị
trường thế giới)
Phạm vi toàn cầu
Vai trò của
các hoạt
động ở
nước ngoài
Hiểu và khai thác các
cơ hội tại chi nhánh.
Các công ty con ở
nước ngoài thường
chỉ phụ thuộc về mặt
thương mại, công
nghệ, kỹ thuật, và
hoàn toàn độc lập về
tài chính
Triển khai thực hiện
chiến lược của công
ty mẹ, Quyền kiểm
soát về đầu tư, sản
xuất kinh doanh
thuộc về công ty mẹ
Những đóng góp
riêng biệt của từng
chi nhánh mỗi quốc
gia vào các hoạt động
hội nhập trên toàn thế
giới
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tổng hợp
Cho đến nay vẫn tồn tại những quan niệm không thống nhất giữa các học
giả về MNC, TNC và GE. Tuy nhiên, về bản chất, các thuật ngữ này không có
sự khác biệt đáng kể. Chúng đều có đặc điểm chung là quy mô lớn, sở hữu đa
quốc gia và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều nước. Sự khác
biệt chủ yếu ở tên gọi, phản ánh đặc điểm nổi bật của các công ty toàn cầu trong
từng giai đoạn lịch sử phát triển.
6
1.2. Đặc điểm của các công ty toàn cầu
1.2.1. Thâu tóm nguồn lực trên quy mô toàn cầu
Trong khi một công ty quốc tế thâu tóm các nguồn lực từ một hoặc một số
nước, GEs thâu tóm trên toàn thế giới để có được nguồn nguyên liệu, lao động
và vốn tốt nhất, tức là mang lại lợi ích lớn nhất ở mức chi phí thấp, đóng vai trò
quan trọng đới với việc cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.
Hầu hết tăng trưởng tài chính doanh nghiệp với vốn vay mượn hoặc vốn
cổ phần, nhưng chi phí vốn phụ thuộc vào 2 nhân tố: lợi tức người cho vay có
thể thu được và khả năng người vay tạo ra lợi nhuận đủ để trả khoản vay. Sự hội
nhập thế giới giữa các tổ chức tài chính đã dẫn đến sự hội nhập ngày càng tăng
của thị trường vốn thế giới. Ví dụ, các dòng vốn đôi khi tạo ra dòng tiền nóng
làm mất ổn định nền kinh tế như khủng hoảng xảy ra ở Mexico vào năm 1994
khi nhà đầu tư ồ ạt rút vốn từ các nền kinh tế Mỹ Latinh ổn định. Các công ty
toàn cầu nhận thức cần phải có sự kết nối về vốn với không chỉ một nơi duy
nhất. Ví dụ, Exxon sử dụng một chiến lược quảng cáo để thúc đẩy danh mục đầu
tư của nhãn hiệu trong 100 thị trường nơi nó hoạt động. Năm 2004, Nokia cũng
thực hiện một chiến lược tương tự.
Sử dụng kĩ thuật quản lý chuỗi cung ứng kết nối người bán và người mua,
các GEs cố gắng tiếp cận nguồn tài nguyên trên toàn thế giới thông qua hệ thống
tích hợp. Tài nguyên thiên nhiên có giới hạn của Nhật bản thúc đẩy công ty thép
Nippon thâu tóm 60 triệu tấn quặng mỗi năm từ các công ty ở Úc, Bắc và Nam
Mỹ, châu Phi, châu Á và châu Âu. GEs khai thác lao động toàn cầu theo nhiều
cách khác nhau. Xây dựng cơ sở sản xuất ở các nước lao động rẻ, nhưng lợi thế
đó khó có thể duy trì nếu các đối thủ cũng đi theo cách đó. Thay vào đó, các
công ty có thể kí hợp đồng lao động thông qua các công ty địa phương. Nếu chi
phí lao động tăng, hợp đồng có thể được chuyển đến nơi khác. Hoặc khai thác
lao động toàn cầu với hình thức kết nối viễn thông. Ví dụ, Microsoft kí hợp
đồng với kĩ sư phần mềm ở Bangalore và ATT kí hợp đồng với Ấn độ để thực
hiện những công việc văn phòng như ghi sổ kế toán và dịch vụ khách hàng.
7
Tuy nhiên, việc tìm kiếm lao động đẩy nhiều GEs vào các tranh cãi về
quyền lao động, lao động trẻ em. Ví dụ, khi các tổ chức nhận ra lợi thế chi phí sẽ
giảm đi nếu chuyển nhà cung ứng, điều đó sẽ tạo ra thách thức cho các nhà cung
ứng và người lao động. Điều đó sẽ dẫn tới chi phí xã hội. Thêm vào đó, yêu cầu
các GEs tăng cường giám sát các hợp đồng thầu phụ và sử dụng lao động dẫn tới
kết quả nhiều GEs đã phát triển bộ quy tắc ứng xử đối với các hợp đồng thầu
phụ. Ví dụ, H&M yêu cầu tất cả hợp đồng tuân thủ các quy tắc ứng xử, cấm lao
động trẻ em và ủng hộ quyền và sự an toàn của người lao động.
Tóm lại, các GEs tiếp cận 3 loại nguồn lực toàn cầu. Theo đó, việc định
giá toàn cầu hóa của các công ty bằng việc đo mức độ các nguồn vốn, tài
nguyên, lao động được thâu tóm trên toàn cầu.
1.2.2. Xem thị trường thế giới như thị trường trong nước
Các công ty đó thường được gọi là tổ chức “phi trạng thái” do không còn
duy trì sự kết nối độc quyền với với một quốc gia đơn nhất. Nó có thể có trụ sở
ở một quốc gia nhưng không được xác định chỉ duy nhất với quốc gia đó. Ví dụ,
Nestlé có trụ sở ở Thụy Sĩ, nhưng nhiều nhãn hiệu không được xem là nhãn hiệu
của Thụy Sĩ. Nó không phải là địa điểm đã bị ràng buộc, ví dụ như một cái tên
mà không có ý nghĩa hoặc một chiến dịch quảng cáo mà làm cho nó mang tính
"địa phương”. Do đó, thay vì địa phương hóa hình ảnh, những công ty đó cố
gắng toàn cầu hóa. Cuối cùng, các GEs có thể coi thị trường thế giới như là thị
trường trong nước bằng việc trở thành một tổ chức mà hoạt động ở không một
nơi cố định nào. Một cách để xác định mức độ một GE xem thị trường thế giới
như thị trường trong nước là xem xét chỉ số xuyên quốc gia, được đề xuất bởi
UNCTAD, chỉ số này lấy trung bình tỉ lệ vốn nước ngoài trên tổng vốn, doanh
số nước ngoài trên tổng doanh số, lao động nước ngoài trên tổng lao động.
1.2.3. Thiết lập sự hiện diện trên toàn thế giới
Các GEs có thể thiết lập sự hiện diện trên toàn thế giới trong một hoặc
nhiều lĩnh vực kinh doanh; có thể tình cờ hoặc có chủ ý. Trường hợp của R.
Griggs, nhà sản xuất giày Doc Martens thiết lập sự hiện diện toàn cầu hầu hết
8
bởi một cách tình cờ khi việc thiết lập thành công xu hướng thanh thiếu niên hóa
trên toàn thế giới dẫn tới sự chấp nhận giày và bốt của họ. Trái lại, Eastman
Kodak đã mở cửa hàng Kodak Express ở Antarctica bởi vì nó là lục địa duy nhất
công ty chưa đặt chân tới. Mục tiêu nhấn mạnh của nó là “để thể hiện sự cam kết
của chúng tôi để phục vụ khách hàng ở mọi nơi”. Nestlé và Unilever tìm kiếm
có mục đích trong việc thiết lập sự hiện diện toàn cầu trong rất nhiều dòng sản
phẩm. Các hãng như Pepsi Cola, CNN (mạng lưới thông tin toàn cầu), Al-
Jazeera (đạt 35 triệu người xem chỉ riêng trong thế giới Arab) đều có chung đặc
điểm này bởi các công ty này có mục đích thành lập và duy trì sự hiện diện toàn
cầu. Các công ty như DaimlerChrysler, Hanson, McDonald’s, Siemen, Sony có
thương hiệu được xác nhận trên toàn thế giới. Các công ty lớn có thể toàn cầu
hóa trong một hoặc tất cả ngành nghề kinh doanh. Các công ty như Chupa
Chups và R. Giggs cho thấy các công ty nhỏ cũng có thể thiết lập sự hiện diện
toàn cầu, mặc dù chỉ trong một lĩnh vực kinh doanh duy nhất hoặc với một dòng
sản phẩm hẹp. Những ví dụ trên chỉ ra rằng các tổ chức ở bất cứ quy mô nào có
thể thiết lập sự hiện diện toàn cầu. Chúng cũng thể hiện rằng nó có thể thiết lập
trong một hay toàn bộ sản phẩm hay dịch vụ.
1.2.4. Phát triển chiến lược kinh doanh toàn cầu thông qua phương
pháp tiếp cận tích hợp
Trong khi chiến lược kinh doanh tiêu chuẩn trên toàn thế giới tích hợp
chuỗi cung cứng của công ty khi tham gia vào các hoạt động hội nhập, chiến
lược thích ứng địa phương lại tích hợp các hoạt động kinh doanh với các môi
trường địa phương nơi công ty hoạt động. Cả Unilever và Nestlé theo đuổi chiến
lược đa địa phương trong đó họ mua và phát triển thương hiệu nhắm vào thị hiếu
địa phương nhiều hơn thị trường trên toàn thế giới. Điều này làm tăng chi phí
của họ, các quảng cáo có thể cần phải được thiết kế cho thị trường cụ thể; các hệ
thống phân phối có thể thay đổi. Ví dụ, trong The Human Race chúng ta đã thấy
rằng Unilever "quảng cáo" thông qua việc tham quan rạp xiếc khắp các khu phố
ở vùng nông thôn Ấn Độ; trong khi đó, quảng cáo xà phòng của Unilever ở Mỹ
lại qua các ấn bản in ấn và truyền hình.
9
1.2.5. Hoạt động xuyên biên giới
GEs vượt qua cả biên giới bên ngoài và nội bộ. Xuyên biên giới có nghĩa
là một công ty toàn cầu phải định nghĩa lại biên giới của nó để hội nhập các hoạt
động kinh doanh.
Biên giới bên ngoài mà các mà các công ty toàn cầu thường xuyên vượt
qua là biên giới địa lý, mang tính quốc gia, hoặc thời gian và không gian; mối
quan hệ kinh doanh với các tổ chức khác, bao gồm các nhà cung ứng, người
mua, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các bên liên quan. Quản lý mối
quan hệ yêu cầu hoạt động hội nhập xuyên biên giới giữa một tổ chức và một tổ
chức khác. Các hoạt động hội nhập xuyên biên giới bên ngoài có thể là liên kết
ngang (giữa các đối thủ cạnh tranh trong cùng một ngành) hoặc liên kết dọc
(giữa người mua và người cung ứng). Mối quan hệ dọc minh họa bởi chuỗi cung
ứng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên toàn thế giới.
Các công ty toàn cầu xuyên biên giới trong nội bộ theo 2 loại: biên giới
dọc và biên giới ngang theo các mức độ và thứ hạng con người; giữa các chức
năng và kỷ luật. Cả hai đều đạt được thông qua các hoạt động tích hợp. Một cấu
trúc kim tự tháp rõ ràng xác định rằng một số người là cao hơn người khác và
điều đó tạo ra rào cản dọc giữa những người ở trên đỉnh trong một tổ chức và
phần lớn công nhân. Tuy nhiên, rào cản dọc cũng có thể được gắn trong cấu trúc
tổ chức. Ví dục, sự tôn kính tuổi tác ở Nhật Bản khiến cho các kĩ sư có kinh
nghiệm khó mà đánh giá cao các kĩ sư trẻ tài năng. Ở công ty Toshiba, kĩ sư lớn
tuổi hơn rất khó công nhận những ý tưởng sáng tạo đến từ những kĩ sư máy tính
trẻ tuổi.
Biên giới được tạo ra bởi việc đào tạo chuyên nghiệp có thể tạo ra biên
giới dọc, đặc biệt khi một nhóm nhận thấy nó quan trọng đối với tổ chức hơn
các nhóm khác. Ví dụ, Whirlpool thâu tóm bộ phận thiết bị châu Âu của Philips
nhưng khó khăn trong việc chuyển đổi suy nghĩ. Rất nhiều biên giới nội bộ là vô
hình. Ví dụ, hệ thống niềm tin chẳng hạn như sự sáng tạo có thể được khuyến
khích như thế nào, hoặc các xung đột xảy ra ra sao, hoặc thậm chí là một nhân
10
viên dành thời gian làm việc ra sao cũng đều vô hình. Những sự vô hình đó làm
chúng khó có thể mô tả hoặc đo đạc, đong đếm, do đó nó cũng khó có thể thay
đổi trong các tổ chức.
1.3. Các lý thuyết về sự hình thành và phát triển của công ty toàn cầu
Hiện nay có nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau trong giải thích sự ra
đời và phát triển của GEs, tuy nhiên phần lớn đều tập trung vào một số lý thuyết
cơ bản dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích một số lý thuyết chủ yếu giải thích sự ra đời và
phát triển của GEs.
1.3.1. Lý thuyết chu kì sản phẩm
Vào cuối những năm 1960, lý thuyết chu kì sản phẩm của Vernon đã thu
hút được nhiều sự chú ý của các học giả nghiên cứu về thương mại và đầu tư
quốc tế. Vernon đã đưa ra cách giải thích các hiện tượng này từ chu kì phát triển
của sản phẩm: đổi mới (sản phẩm mới, sản xuất quy mô nhỏ), tăng trưởng (sản
xuất hàng loạt), mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái.
Trên cơ sở các giả định của lý thuyết Hechkcher - Ohlin, Vernon đã loại
bỏ giả định không có sự lưu chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước và thêm
vào giả định đổi mới công nghệ dẫn đến các sản phẩm mới. Các sản phẩm này
mang lại lợi nhuận cao nếu được sản xuất hàng loạt với tay nghề giỏi. Các yếu
tố này chỉ có sẵn trong các nước công nghiệp có nhiều vốn; sản phẩm và phương
pháp chế tạo nó phải được thương mại hóa. Giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở các
nước phát triển như Mỹ do có điều kiện cho nghiên cứu và triển khai (R&D) và
có khả năng thực hiện sản xuất với khối lượng lớn. Đồng thời, cũng chỉ ở những
nước này thì kĩ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới
phát huy được hiệu quả sử dụng. Nhờ có lợi thế này, sản phẩm được sản xuất
hàng loạt với giá thành hạ, nhưng cũng nhanh chóng đạt tới mức bão hòa.
Để tránh tình trạng suy thoái và tiếp tục khai thác hiệu quả sản xuất theo
quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, tuy nhiên các
11
hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn bởi hàng rào thuế quan và các hạn chế
thương mại của các chính phủ. Do đó công ty đã di chuyển sản xuất ra nước
ngoài để vượt qua những trở ngại và quá trình này đã hình thành nên GEs.
Như vậy điểm mới trong lý thuyết của Vernon là giải thích hiện tượng
thương mại và đầu tư quốc tế từ quyết định của công ty trên cơ sở so sánh chi
phí và doanh thu, trong khi các lý thuyết trước đó lại căn cứ vào hiệu quả sử
dụng vốn giữa các nước. Hơn nữa, lý thuyết này đã giải thích hiện tượng đầu tư
quốc tế trong mối liên hệ chặt chẽ với đặc điểm của cơ cấu thị trường, chuyển
giao công nghệ và kiến thức quản lý. Mặt khác, lý thuyết này đã kế thừa và phát
triển hợp lý các lý thuyết thương mại quốc tế nên các tính thuyết phục khá cao.
Tuy nhiên lý thuyết chu kì sản phẩm của Vernon cũng bộc lộ nhiều hạn
chế như chưa nhìn thấy vai trò của chính phủ trong việc tạo ra các động lực thúc
đẩy công ty đầu tư ra nước ngoài; việc giải thích sự hình thành của GEs mới chỉ
từ một phía công ty mà chưa tính đến các yếu tố “đẩy của môi trường kinh
doanh trong nước và kéo” của môi trường đầu tư nước ngoài; chưa giải thích
được nhiều hiện tượng thương mại và đầu tư quốc tế trong các ngành công
nghiệp phi chế tạo (dịch vụ) và ở phạm vi toàn cầu.
1.3.2. Lý thuyết nội vi hóa
Vào những năm 1970, lý thuyết nội vi hóa của Bukley và Casson đã được
sử dụng như là lý thuyết chính thống lúc bấy giờ để giải thích sự hình thành và
phát triển của công ty toàn cầu (Jenkins, 1987). Giả định cơ bản của lý thuyết
này là có sự không hoàn hảo của thị trường. Nếu tất cả các thị trường đều là
hoàn hảo thì không có động cơ thúc đẩy các công ty khai thác lợi thế của chúng
ở các khu vực thị trường khác nhau. Mặt khác các công ty cũng không gặp phải
những bất lợi trong việc kiểm soát các chi nhánh của chúng ở nước ngoài.
Theo Jenkins, tính không hoàn hảo của thị trường được biểu hiện ở các
mặt chủ yếu như cạnh tranh độc quyền bán và mua; can thiệp của chính phủ vào
các hoạt động của thị trường thông qua các hàng rào thuế quan; đặc điểm khó
12
kiểm soát và áp dụng các yếu tố sản xuất như công nghệ, kỹ thuật quản lý, kiến
thức marketing…
Theo thuyết nội vi hóa, lợi thế về quy mô là động lực thúc đẩy các công ty
mở rộng đầu tư ra nước ngoài, nhờ đó hình thành GEs. Một cách khác để giải
thích sự hình thành GEs là từ những ảnh hưởng của rào cản thương mại. Các rào
cản thuế quan và phi thuế quan của nước nhập khẩu đã buộc các công ty phải
chuyển các yếu tố sản xuất như vốn công nghệ, kỹ thuật quản lý,… sang nước
này. Thay bằng xuất khẩu hàng hóa trực tiếp, các công ty di chuyển cơ sở sản
xuất của chúng ra nước ngoài. Quá trình này đã tạo ra mạng lưới sản xuất quốc
tế và hình thành nên GEs. Ngoài ra cũng có những yếu tố khác thúc đẩy các
công ty mở rộng chi nhánh ra nước ngoài như tỷ lệ chênh lệch thuế quan giữa
các nước, đặc tính khó kiểm soát của các yếu tố sản xuất.
Mặc dù những luận điểm trên có nhiều tính thuyết phục nhưng cũng gây
ra không ít tranh luận. Một số học giả lại cho rằng sự không hoàn hảo của thị
trường là do GEs tạo ra chứ không phải theo chiều ngược lại như lý thuyết nội vi
hóa đã giả định. Mặt khác lý thuyết này mới chỉ nhìn động lực thúc đẩy công ty
đầu tư ra bên ngoài từ góc độ những lợi thế về các yếu tố sản xuất của công ty
để khai thác đặc điểm khiếm khuyết của thị trường, trong khi động lực quan
trọng còn là những lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
1.3.3. Lý thuyết chiết trung
Trên cơ sở các quan điểm lý thuyết còn nhiều tranh luận, Dunning đã tổng
hợp lại, có tính “chiết trung” để đưa ra cách giải thích đầy đủ hơn về sự hình
thành và phát triển của GEs. Theo lý thuyết chiết trung, động lực thúc đẩy công
ty đầu tư ra nước ngoài bao gồm ba điều kiện chủ yếu: lợi thế về sở hữu; lợi thế
của nước chủ nhà và lợi thế nội vi hóa của công ty.
Lợi thế về sở hữu, chủ yếu là công nghệ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy
công ty đầu tư ra nước ngoài. Các công ty có công nghệ hiện đại (ở các nước
phát triển) sẽ có nhiều cơ hội chiến thắng các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài
13
(các nước đang phát triển) kém về khả năng công nghệ. Bởi thế, chúng đã tích
cực đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế này.
Lợi thế của nước chủ nhà (đặc biệt ở các nước đang phát triển) là giá cả
các yếu tố đầu vào (nguyên nhiên vật liệu, lao động,…) rẻ. Theo Dunning, để
hấp dẫn các công ty đầu tư vào nước mình, nước chủ nhà phải có ít nhất một
trong các yếu tố đầu vào rẻ hơn so với yếu tố cùng loại ở chính quốc. Lợi thế
này động lực thúc đẩy các công ty mở rộng cơ sở sản xuất ra nước ngoài theo
hướng khai thác nguồn nguyên liệu.
Ngoài hai điều kiện trên, để quyết định đầu tư ra nước ngoài, công ty phải
so sánh lợi ích giữa cho thuê các yếu tố sản xuất, chủ yếu là công nghệ hoặc
xuất khẩu với việc trực tiếp sử dụng các yếu tố sản xuất của họ ở nước ngoài.
Nếu phương cách thứ nhất có lợi hơn thì công ty sẽ hướng vào phát triển thương
mại (sản xuất trong nước để xuất khẩu). Ngược lại, họ sẽ quyết định đầu tư ra
nước ngoài và chỉ trong trường hợp này mới hình thành GEs.
Điểm mới của lý thuyết này là Dunning cho rằng sở hữu công nghệ được
coi là yếu tố độc quyền, trong khi các quan điểm trước đó chỉ coi đây là một lợi
thế trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo hoặc hiệu quả kinh tế theo quy
mô. Về điểm này, có thể coi như là sự phát triển trong lý thuyết về GEs. Hơn
nữa, Dunning đã mở rộng nguyên nhân hình thành GEs từ các yếu tố lợi thế
cạnh tranh ngoài công ty (lợi thế so sánh trong phân công lao động giữa các
nước). Mặt khác, Dunning đã giải thích sự lựa chọn mở rộng mạng lưới sản xuất
của công ty từ khía cạnh hiệu quả sử dụng các lợi thế cạnh tranh của công ty
thay vì từ khía cạnh tài chính, chi phí so sánh giữa đầu tư trong và ngoài nước
như trước đây. Bởi vậy nên cách giải thích này đã phản ánh rõ hơn động lực
thúc đẩy công ty đầu tư ra nước ngoài.
Như vậy, so với các quan điểm lý thuyết trước đó, lý thuyết của Dunning
đã có nhiều tiến bộ hơn và sự tiến bộ này được thể hiện ở sự kế thừa, kết hợp và
phát triển các điểm hợp lý của các lý thuyết trước đó. Dù vậy, do tổng hợp nhiều
14
quan điểm lý thuyết khác nhau nên lý thuyết chiết trung còn có nhiều điểm mâu
thuẫn, thiếu cụ thể và mang nặng tính chiết trung.
1.3.4. Các quan điểm lý thuyết khác
Bên cạnh các quan điểm mô hình lý thuyết cơ bản nêu trên, còn có khá
nhiều các lý thuyết khác giải thích một cách gián tiếp sự hình thành của công ty
toàn cầu qua lợi thế cạnh tranh của công ty hoặc từ nguyên nhân ra đời của đầu
tư quốc tế.
Theo lý thuyết lợi thế cạnh tranh của M. Porter đã giải thích sự hình thành
của GEs từ lợi thế độc quyền về một yếu tố cụ thể (công nghệ, marketing,…)
cho phép công ty chiến thắng đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài, nhờ đó đã thúc
đẩy họ đầu tư ra nước ngoài. Sự can thiệp của chính phủ có thể làm thay đổi lợi
thế cạnh tranh của công ty, vì thế làm tăng hoặc giảm động lực đầu tư ra nước
ngoài của công ty.
Trên quan điểm lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo của Robinson,
Hymer đã phát triển để giải thích sự hình thành của FDI. Hymer cho rằng, lợi
thế cạnh tranh độc quyền đã cho phép công ty đạt được lợi nhuận trên mức trung
bình nếu họ đầu tư ở nước ngoài. Thị trường không hoàn hảo đã tạo cơ hội cho
công ty khai thác các lợi thế độc quyền (chủ yếu về công nghệ và hiệu quả kinh
tế theo quy mô) ở bất kì nơi nào dù có hay không sự can thiệp của chính phủ.
Nguyên nhân di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế còn được giải thích bởi
lý thuyết phân tán rủi ro. Lý thuyết này giải thích rằng các nhà đầu tư không chỉ
quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn (lãi suất cao) mà cón phải chú ý
đến mức độ rủi ro trong từng hạng mục đầu tư cụ thể (D. Salvatore, 1993). Vì lãi
suất của các cổ phiểu phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và khả năng
kinh doanh của doanh nghiệp nên để tránh tình trạng phá sản, các nhà đầu tư
không muốn bỏ hết vốn của mình vào một hạng mục đầu tư ở một thị trường nội
địa. Bởi thế họ quyết định giành một phần tài sản của mình để mua cổ phiếu, trái
khoán,… ở thị trường nước ngoài.
15
Một hướng tiếp cận khác giải thích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế
từ quan điểm lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lenin. Trên cơ sở quy luật giá trị
thặng dư, V. Lenin đã cho rằng việc xuất khẩu giá trị nhằm thu được giá trị
thặng dư ở bên ngoài biên giới quốc gia đã trở thành một đặc trưng kinh tế của
chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc. Điển
hình của chủ ngĩa tư bản cũ, trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống
trị, là việc xuất khẩu hàng hóa. Điển hình của chủ nghĩa tư bản mới, trong đó các
tổ chức độc quyền thống trị, là xuất khẩu tư bản.
Ngoài ra, nguyên nhân của đầu tư nước ngoài còn được giải thích trong lý
thuyết địa điểm công nghiệp là do công ty chuyển sản xuất ra nước ngoài cho
gần nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ để giảm bớt chi phí
vận tải, nhờ đó giảm giá thành sản phẩm (R. Vernon, 1974). Một số quan điểm
lý thuyết khác như Krugman, năm hình thái phát triển của đầu tư quốc tế
(Dunning và Narula, 1996),… đã giải thích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc
tế từ mục đích khai thác hiệu quả của vốn đầu tư, trong đó chủ yếu nhờ có sự
thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô của các nước tham gia đầu tư.
Như vậy, có thể thấy hai đặc điểm nổi bật, có tính tương đồng giữa các
quan điểm lý thuyết về GEs. Thứ nhất, theo các quan điểm lý thuyết trên,
nguyên nhân quan trọng hình thành GEs là công ty khai thác các lợi thế độc
quyền của chúng trong điều kiện thị trường không hoàn hảo và có sự chênh lệch
về hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước. Thứ hai, phần lớn các quan điểm lý
thuyết mới giải thích sự hình thành GEs từ một phía, tức là so sánh giữa chi phí
và lợi ích của công ty trong việc lựa chọn lợi thế của họ giữa xuất khẩu hoặc đầu
tư nước ngoài, mà chưa xem xét đến nhiều nguyên nhân quan trọng khác (môi
trường kinh doanh quốc tế) đã tác động vào quá trình hình thành và phát triển
GEs. Thông qua các khái niệm cũng như lý thuyết đã đề cập trong chương 1,
trong chương tiếp theo, bài nghiên cứu sẽ trình bày cụ thể quá trình hình thành
và phát triển của công ty toàn cầu.
16
CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
TOÀN CẦU
2.1. Sự hình thành các công ty toàn cầu
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Dấu vết của các công ty toàn cầu được các nhà lịch sử lần theo từ thế kỉ
XVII – kỉ nguyên của các cuộc khám phá vùng đất mới và xâm chiếm thuộc địa.
Công ty toàn cầu bắt đầu ra đời trong thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản
(CNTB). Trong thời kì đầu cạnh tranh tự do của CNTB, mục đích lợi nhuận và
sự phát triển của sản xuất đã làm tăng nhu cầu về thị trường nguyên liệu, thị
trường lao động, thị trường hàng hóa và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã
thúc đẩy việc tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước
khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi
tìm lợi nhuận sang thị trường bên ngoài. Quá trình này đã được tạo điều bởi sự
phát triển của thương mại quốc tế đã được hình thành qua nhiều thế kỉ trước
dưới sự ủng hộ của các nhà nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa thực dân. Đồng
thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công
thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó,
các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển. Hai công
ty toàn cầu được coi như ra đời sớm nhất vào đầu thế kỉ XVII là Công ty Đông
Ấn của Anh (Bristish East India Company) được thành lập dưới hiến chương
của Hoàng gia Anh để thực hiện việc buôn bán thương mại với Ấn Độ và Công
ty Đông Ấn của Hà Lan (Dutch East India Company). Vào thời bấy giờ, các
công ty đó đã có ảnh hưởng nhất định đến quan hệ quốc tế như: khuyến khích
hoặc thi hành chủ nghĩa thực dân, mở các cuộc thám hiểm thực dân rồi sau đó là
xâm lược mà nguồn lực chính là do các công ty này hỗ trợ. Khi ách thực dân đã
được thiết lập, những công ty này đi đầu trong việc bóc lột và khai thác thuộc
địa.
17
2.1.2. Nguyên nhân hình thành
Thứ nhất, do tích tụ và tập trung sản xuất.
Khi tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy mạnh thì số lượng tư bản trong
tay địa chủ sẽ tăng và địa chủ tái sử dụng đồng vốn này vào công tác nghiên cứu
các loại hình đầu tư sản xuất, mua sắm các trang thiết bị để mở rộng quy mô sản
xuất, tăng khối lượng các yếu tố đầu vào từ đó khối lượng hàng hóa sản xuất ra
ngày càng nhiều và thu được lợi nhuận tăng. Hệ quả tất yếu của việc quay vòng
vốn tiếp tục mở rộng quy mô và bành trướng mình ra thế giới dẫn đến sự hình
thành GEs. Theo Mác và Anghen dự đoán: tích tụ và tập trung sản xuất tư bản
tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn. Đó cũng chính là
nguyên nhân hình thành các công ty độc quyền trước đây, cùng với nó là sự hình
thành thị trường thế giới một cách nhanh chóng và rộng lớn.
Bên cạnh đó hoạt động tín dụng đã đẩy nhanh tốc độ phát triển phương
pháp sản xuất tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội giúp quá trình bành trường
một cách nhanh chóng. Khi mà sản lượng của một ngành hay một số ngành ở
một số khu vực không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở khu vực đó mà còn đáp
ứng cho buôn bán giao lưu giữa các vùng rồi tiến dần tới giao lưu quốc tế. Tức
là tín dụng đã cung cấp tiền cho các gia đình, xí nghiệp, công ty nguồn vốn để
đầu tư mở rộng sản xuất nâng cao sản lượng và năng suất. Khi đã có hàng hóa
để xuất khẩu thì tất yếu hình thành thị trường buôn bán thế giới. Đây là cơ sở để
hình thành các công ty toàn cầu sau này.
Thứ hai, kết quả của cách mạng khoa học kỹ thuật.
Cách mạng khoa học- kĩ thuật có tác động to lớn, đặc biệt trong lĩnh vực
thông tin liên lạc và giao thông vận tải… Thông tin liên lạc phát triển nhanh
chóng tạo nên mạng lưới thông tin giúp cho nhà đầu tư quản lý từ xa mọi việc ở
các công ty con. Nó còn có tác dụng to lớn đối với công tác quản lý tính toán để
đưa ra các sách lược kịp thời và chính xác. Còn về giao thông vận tải thì tạo ra
nhiều loại hình giao thông khác trước đây, có thể vận tải cả bằng tàu hỏa, máy
18
bay, tàu thủy… Những con đường giao thông nối liền các vùng, các quốc gia với
nhau thuận lợi cho giao lưu buôn bán và đi thực tế của những nhà quản lý, thăm
dò thị trường và khả năng đáp ứng của thị trường cao hơn trước. Đây là điều
kiện rất thuận lợi cho quá trình bành trướng của các công ty độc quyền nhanh
hơn và hiệu quả hơn.
Thứ ba, tác động của chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945) đã ra đời hàng loạt các
quốc gia độc lập làm phá sản chủ nghĩa tư bản kiểu cũ, song về kinh tế họ lại
gặp nhiều khó khăn lớn. Nhờ đó các nhà tư bản đã lợi dụng điểm yếu này để
nhanh chóng thâm nhập vào nền kinh tế của các nước này thông qua công ty
xuyên quốc gia. Song mục đích của họ không chỉ nhằm vào kinh tế mà còn
nhằm vào chính trị.
Thứ tư, tận dụng các điều kiện thuận lợi từ nước ngoài
Thông qua chi nhánh của mình ở nước ngoài để tận dụng những điều kiện
thuận lợi của nước chủ nhà như: nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, nguyên-
nhiên vật liệu nhiều, được hưởng nhiều chính sánh ưu đãi của chính phủ (tránh
được thuế nhập khẩu, chi phí thuê rẻ…). Do vậy hàng hóa họ sản xuất ra có
được những ưu thế cạnh tranh hơn hẳn so với hàng hóa của công ty khác, đảm
bảo các công ty này có thể đầu tư lâu dài, có hiệu quả kinh tế cao và lớn mạnh
một cách nhanh chóng.
2.2. Sự phát triển của các công ty toàn cầu
2.2.1. Các giai đoạn phát triển
Nhìn chung, trong suốt chiều dài của lịch sử, các công ty toàn cầu đã có
sự phát triển mạnh mẽ và trở thành một chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất. Sự
tồn tại và phát triển của GEs đem đến những thay đổi to lớn trong nền kinh tế
toàn cầu và cho tương lai của thế giới.
Như đã phân tích ở chương một, các công ty toàn cầu về bản chất là các
công ty xuyên quốc gia ra đời trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản.
19
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay và đã trở thành
một xu thế tất yếu thì việc mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là TNCs
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của các quốc gia. Vì vậy mà hoạt động
của TNCs mở rộng hơn, không chỉ giới hạn ở những lĩnh vực chuyên doanh mà
chuyển sang đa doanh và có phạm vi ảnh hưởng toàn cầu. Bởi vậy, khái niệm
công ty toàn cầu xuất hiện và phản ánh đặc điểm của TNCs trong bối cảnh hiện
nay (John Stopford, 1999). Trên cơ sở đó, phần này của chương sẽ tập trung
phân tích rõ các giai đoạn phát triển của công ty toàn cầu mà bản chất là TNCs.
Việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển sẽ giúp ta hiểu rõ đặc điểm và
bản chất của GEs để thấy được vai trò của chúng trong phát triển kinh tế thế giới
và nước chủ nhà.
Quá trình phát triển của các công ty toàn cầu có thể được chia thành các
giai đoạn sau đây:
Thứ nhất, các công ty toàn cầu đã ra đời ở thời kỳ phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của CNTB thì yêu cầu về thị
trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hóa và thị trường tài
chính đã không ngừng gia tăng nhằm thúc đẩy tăng lợi nhuận và mở rộng sản
xuất hơn nữa. Vì vậy mà việc mở rộng hoạt động sang nhiều quốc gia khác trở
thành một giải pháp đáp ứng được những yêu cầu trên. Hơn nữa các công ty
hoạt động ở một quốc gia lúc này còn gặp phải vấn đề cạnh tranh từ các đối thủ
khác nên thúc đẩy việc mở rộng tìm kiếm lợi nhuận từ thị trường nước ngoài.
Trên cơ sở đó thì các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu hình thành và phát
triển.
Thứ hai, thời kỳ chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của
các công ty toàn cầu. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản
xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của
hàng loạt các tập đoàn sản xuất - kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự
cạnh tranh tự do trong thời kỳ đầu của CNTB với sự thôn tính cá lớn nuốt cá bé
cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền
20
lớn từ Syndica qua Trust tới Conglomerate. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu
hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước
nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này. Sự nổi lên của các công ty
độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền
lực kinh tế của chúng với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN. Điều đã thúc
đẩy sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc trong quan hệ quốc tế. Hai quyền lực
này đã song hành cùng nhau trong nhiều nỗ lực tranh giành thị trường quốc tế,
mở rộng khu vực ảnh hưởng và chiến tranh đế quốc (Hoàng Khắc Nam, 2008).
Thứ ba, giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai các công ty toàn cầu
tiếp tục phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong giai
đoạn này, nhu cầu về việc tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác
chính trị giữa các tư bản chủ nghĩa đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của GEs
với sự ra đời và mở rộng mạnh mẽ của nhiều công ty lớn. Sự phát triển của GEs
không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài chính và
khoa học kỹ thuật,… mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp thế
giới tư bản. Ngoài ra, vai trò của GEs trong phát triển kinh tế cũng không ngừng
được củng cố biểu hiện qua sự đóng góp lớn vào vào việc tăng trưởng các dòng
đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở rộng phân công
lao động quốc tế. Bên cạnh đó, sự ra đời của hàng loạt quốc gia mới thuộc Thế
giới thứ Ba cùng với sự yếu kém của các nền kinh tế đó cũng vẫn duy trì cơ hội
cho GEs mở rộng kinh doanh tại thị trường này. Tuy nhiên, quá khứ gắn liền với
chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã tạo nên sự phản ứng và nghi ngờ
đối với các GEs. Trong những năm 1960 và 1970, nhiều nước mới giành được
độc lập đã coi các GEs là “kẻ bóc lột”, “thực dân kinh tế” hay “động vật ăn thịt”
các nước nghèo. GEs còn bị lên án bởi xuất khẩu công nghệ lạc hậu, khai thác
quá nhiều tài nguyên không tái tạo được, tranh giành thu hút lao động chuyên
môn, chèn ép sản xuất nội địa và tạo nên một tầng lợp giàu xổi ở nước sở tại...
Vì thế, tài sản nước ngoài của các GEs được quốc hữu hoá ở nhiều nơi. GEs
phải rút lui khỏi thị trường của một số nước Thế giới thứ Ba. Mặc dù vậy, điều
21
này cũng không ngăn cản được sự lớn mạnh của GEs, đặc biệt ở các nước
TBCN phát triển.
Thứ tư, từ những năm 1980, thế giới đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ
của của GEs, đặc biệt là thời kỳ sau chiến tranh Lạnh. Trong giai đoạn này sau
chiến tranh xu thế hòa dịu, xu thế hợp tác cùng phát triển, sự phát triển của nền
kinh tế thị trường cùng với xu thế tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế là
những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động của GEs mở rộng ra khắp thế giới.
Đặc biệt, trong thời kỳ này, quan điểm cách nhìn nhận về các công ty toàn cầu
cũng đã có sự thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực hơn. Theo đó, GEs
được xem như là một công cụ của sự phát triển, góp phần tạo ra công ăn việc
làm, tạo nguồn thu thuế, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh
nghiệm làm ăn quốc tế. Điều kiện chính trị thay đổi ở nhiều nước đang phát
triển và các nền kinh tế chuyển đổi, sự phát triển của hệ thống luật lệ quốc tế và
pháp luật quốc gia liên quan đến GEs cũng làm giảm bớt sự nghi ngại chính trị
đối với các GE. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và
thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc thu hút GEs. Nhờ đó, các GEs đã
bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế (Hoàng Khắc
Nam, 2008).
Thứ năm, giai đoạn sau chiến tranh lạnh là thời kỳ phát triển mạnh mẽ
nhất của GEs với việc tăng nhanh số lượng các GEs từ khoảng 37000 đầu thập
kỷ 1990 lên gần 70000 năm 2004. Ngoài ra, mức độ quốc tế hoá của chúng
cũng phát triển chưa từng thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn
lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm khác
cũng đáng chú ý, GE không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu
mà đã xuất hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy
nhiên, quy mô và vai trò của các GE này vẫn còn rất khiêm tốn. Chúng chỉ
chiếm 4 trong tổng số 100 GEs phi tài chính lớn nhất thế giới năm 2003, chiếm
3 trong tổng số 50 GEs tài chính lớn nhất thế giới năm 2004.
22
Sức mạnh kinh tế của GEs cũng không ngừng gia tăng với việc chi phối
khoảng 80% trao đổi thương mại toàn cầu, thực hiện phần lớn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (khoảng 4/5). Ngoài ra, GEs còn có tác động đáng kể trong việc thúc
đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ.
Những hoạt động đầu tư, thương mại và chuyển giao công nghệ góp phần tạo ra
nhiều việc làm, phát triển nguồn nhân lực và đóng góp vào quá trình hội nhập
toàn cầu. Bởi vậy mà các GE hiện nay vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự
phát triển, làm gia tăng vai trò và vị thế của chúng trong các quan hệ quốc tế.
2.2.2. Thực trạng phát triển
Cùng với sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa – khu vực hóa phát triển sâu rộng là sự trỗi
dậy và bành trướng của các công ty toàn cầu. Không thể phủ nhận được vai trò
ngày càng lớn của các công ty toàn cầu trong sự phát triển của nền kinh tế thế
giới. Các công ty toàn cầu nắm trong tay những khối tài sản tài chính khổng lồ
đã thâm nhập vào hầu hết các thị trường tại khắp các quốc gia trên thế giới.
Trong những thập kỷ gần đây, sự phát triển của các công ty toàn cầu đã đạt mức
kỉ lục về cả lượng và chất.
Về lượng, GEs tăng mạnh chưa từng thấy, chỉ trong vòng 16 năm (1988-
2004) , số công ty xuất hiện đã gấp hai lần nâng tổng số công ty gấp 8 lần so với
trước.
Bảng 2.1: Tổng số GEs mẹ và chi nhánh từ năm 1988 - 2004
Năm 1988 1990 1993 1996 1998 2001 2004
Số công
ty mẹ
35.000 37.000 40.000 53.000 60.000 63.000 70.000
Số công
ty chi
nhánh
150.000 170.000 250.000 450.000 500.000 820.000 1.200.000
Nguồn: UNCTAD (2005)
23
Về chất, GEs giờ đây đã vượt xa quy mô của các liên minh độc quyền
truyền thống, ngày nay GEs là những đế chế kinh tế toàn cầu siêu mạnh, thâu
tóm mọi lĩnh vực từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và kể cả là nghiên cứu
khoa học- công nghệ và ứng dụng công nghệ mới. Với tiềm lực tài chính hùng
hậu của mình GEs luôn sẵn sàng đi đầu trong việc làm cái mới, và do đó lợi thế
của kẻ đi đầu nếu thành công thì luôn là những khoản lợi nhuận khổng lồ và sự
thống lĩnh cả thị trường phải đi theo mình.
Tuy trong khoảng thời gian 2010-2012 nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó
khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ Mỹ, sau đó lây lan sang khắp
các trung tâm kinh tế lớn và cộng hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công Châu
Âu, tổng doanh thu của GEs cũng có một vài biến động giảm nhất là từ năm
2011-2012, tuy nhiên tổng tài sản của GEs vẫn tăng trưởng và đạt được những
sự phát triển nhất định. Bảng số liệu sau đây sẽ làm rõ hơn về điều này.
Bảng 2.2: Số liệu thống kê tài sản, doanh thu và lao động từ 100 GEs lớn
nhất thế giới, 2010-2012
Giá trị
100 GEs lớn nhất trên thế giới
100 GEs lớn nhất của
các nền kinh tế đang
phát triển và chuyển đổi
2010 2011
% Thay
đổi
(2010-
2011)
2012
% Thay
đổi
(2011-
2012)
2010 2011 % Thay
đổi
Của cải (tỉ $)
Nước
ngoài 7285 7634 4,8 7698 0,8 1104 1321 19,7
Trong
nước 4654 4897 5,2 5143 5,0 3207 3561 11,0
Tổng 11939 12531 5,0 12842 2,5 4311 4882 13,2
Doanh số (tỉ $)
Nước
ngoài 4883 5783 18,4 5662 -2,1 1220 1650 35,3
24
Trong
nước 2841 3045 7,2 3065 0,7 1699 1831 7,8
Tổng 7732 8827 14,3 8727 -1,1 2918 3481 19,3
Trọng
số nước
ngoài
63 66 2,3 65 -0,6 42 47 5,6
Lao động (nghìn người)
Nước
ngoài 9392 9911 5,5 9845 -0,7 3561 3979 11,7
Trong
nước 6742 6585 -2,3 7030 6,8 5483 6218 13,4
Tổng 16134 16496 2,2 16875 2,3 9044 10197 12,7
Trọng
số nước
ngoài
58 60 1,9 58 -1,7 39 39 -0,3
Nguồn: UNCTAD (2013)
Xu hướng toàn cầu trong sản xuất quốc tế phản ánh ở các cấp độ quốc tế
hóa của GEs lớn nhất thế giới. Dữ liệu cho 100 GEs hàng đầu, chủ yếu là từ các
nền kinh tế phát triển, cho thấy rằng hoạt động quốc tế hóa của họ trong năm
2012 chậm lại. Doanh số bán hàng nước ngoài trong số 100 GEs lớn nhất thế
giới giảm 2,1% trong năm 2012, trong khi doanh số bán hàng trong nước - phần
lớn ở các nền kinh tế phát triển vẫn ổn định. Tương tự như vậy, việc làm và tài
sản nước ngoài bị đình trệ, trong khi đó việc làm và tài sản trong nước tăng
tương ứng là 6,8% và 5%. Những con số này phản ánh cả một sự thay đổi trong
chiến lược của 100 GEs hàng đầu khi họ dường như tập trung hơn vào sản xuất
trong nước. Trong năm 2012, một số công ty GEs có giảm đáng kể tài sản của
họ (cả tổng số và nước ngoài), trượt ra khỏi danh sách 100 toàn cầu GEs (ví dụ
Bayer AG, Nokia OYJ và ThyssenKrupp AG). Một số công ty khác được xếp
hạng từ các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi (ví dụ Hon Hai Precision
Industries, Vimpelcom Ltd, và América Móvil SAB). Dữ liệu về các chỉ số quốc
tế cho 100 GEs lớn nhất có trụ sở tại các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi cho thấy một nỗ lực quốc tế hóa mạnh mẽ với mức tăng mạnh tài sản
25
và doanh số bán hàng nước ngoài. Các tài sản nước ngoài của GEs từ các nền
kinh tế này tăng 19,7% trong năm 2011.
Trong năm 2011, doanh số nước ngoài tăng hơn 1/3 so với năm trước,
vượt qua tốc độ tăng trưởng trong doanh số bán hàng trong nước. Chỉ có duy
nhất nhân tố việc làm trong nước tăng nhanh hơn việc làm nước ngoài trong
năm 2011. Xu hướng này cho thấy rằng trong khi GEs từ các nước đang phát
triển và các nền kinh tế chuyển đổi nhanh chóng quốc tế hóa hoạt động của
mình, cốt lõi của quá trình sản xuất. Tầm quan trọng của GEs lớn nhất trên toàn
cầu đang giảm dần. Những tài sản nước ngoài của GEs trong năm 2011 đã giảm
xuống còn 9,3%, so với 12% một thập kỷ trước, mặc dù thị phần của họ trong
việc làm của các chi nhánh nước ngoài tăng nhẹ từ 13,7% năm 2001 lên 14,4%
trong năm 2011. Doanh số bán hàng nước ngoài trên toàn cầu của 100 GEs lớn
nhất tăng mạnh, tuy nhiên, 13% đến 21%.Sự giảm sút tài sản nước ngoài cùng
với sự gia tăng doanh số bán hàng nước ngoài chủ yếu phản ánh việc tăng cường
sản xuất nước ngoài được kiểm soát thông qua hợp đồng chứ không phải là
quyền sở hữu trực tiếp. Trái lại, 100 GEs lớn nhất từ các nước đang phát triển và
chuyển đổi gia tăng mạnh mẽ vị thế. Thị phần trong sản xuất toàn cầu gia tăng:
tài sản nước ngoài tăng từ 0,8% lên 1,6% từ năm 2001 đến 2011, doanh số nước
ngoài tăng từ 0,9 đến 5,9%, việc làm nước ngoài tăng từ 1% lên 8% (bảng 2.2).
Fortune Global 500, còn được gọi là Global 500, là một bảng xếp hạng
hàng năm của 500 công ty hàng đầu trên toàn thế giới tính theo doanh thu. Danh
sách này được biên soạn và xuất bản hàng năm do tạp chí Fortune.
Nhìn một cách tổng quan, nửa đầu của TOP 100 GEs trong thập kỷ qua vẫn
được xếp loại một cách ổn định. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến năm 2012, đã có
thay đổi đáng kể trong sự phân bố địa lý của các công ty trong bảng xếp hạng
Global 500. Số lượng các công ty có trụ sở tại Bắc Mỹ đã giảm từ 215 năm 2001
lên 144 năm 2011, trong khi đó sự đóng góp của các công ty có trụ sở tại châu Á
đã tăng nhanh chóng từ 116 năm 2001 đến 188 trong năm 2012. Thị phần của
các công ty từ châu Âu đã tăng nhẹ từ 158 đến 160 trong thập kỷ qua.
26
Bảng 2.3: Danh sách 10 quốc gia đứng đầu về số lượng GEs, 2014
Xếp hạng Quốc gia Số lượng công ty
1 Mỹ 128
2 Trung Quốc 95
3 Nhật Bản 57
4 Pháp 31
5 Đức 28
6 Vương quốc Anh 28
7 Cộng hòa Hàn Quốc 17
8 Thụy Sĩ 13
9 Phần Lan 13
10 Canada 10
Nguồn: www.fortune.com/global500
Cũng theo số liệu của Fortune Global 500, Walmart là công ty toàn cầu
lớn nhất thế giới tính đến tháng 3 năm 2014 với doanh thu đạt 476,3 tỷ USD.
Trong số 10 công ty lớn nhất thế giới, các công ty thuộc lĩnh vực dầu khí chiếm
tỷ lệ cao (5/10). Ngoài ra, các công ty lớn nhất thế giới chủ yếu là tại các nước
phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản…và sự nổi lên của Trung Quốc. Dưới đây
danh sách 10 GEs lớn nhất thế giới cập nhật vào ngày 07 tháng 7 năm 2014
được dựa trên năm tài chính của công ty kết thúc vào hoặc trước ngày 31 tháng
3 năm 2014.
27
Bảng 2.4: Danh sách 10 công ty toàn cầu lớn nhất thế giới, 2014
Đơn vị: Tỷ USD
Xếp hạng Công ty Quốc gia Ngành Doanh thu
1 Walmart Mỹ Bán lẻ 476,3
2 Royal Dutch
Shell
Phần Lan
Vương quốc Anh Dầu khí 459,6
3 Sinopec Trung Quốc Dầu khí 457,2
4
China National
Petroleum
Corporation
Trung Quốc Dầu khí 432,0
5 ExxonMobil Mỹ Dầu khí 407,7
6 BP Vương quốc Anh Dầu khí 396,2
7
State Grid
Corporation of
China
Trung Quốc Năng
lượng 333,4
8 Volkswagen Đức Xe hơi 261,5
9 Toyota Nhật Bản Xe hơi 256,5
10 Glencore Thụy Sĩ Hàng tiêu
dùng 232,7
Nguồn: www.fortune.com/global500
Ngoài ra hệ thống phân phối, công nghệ và R&D của GEs cũng rất lớn,
3/4 chi phí R&D của thế giới tới từ GEs. Nhìn vào bảng số liệu về 10 công ty có
chi phí cho R&D nhiều nhất thế giới, ta có thể thấy đa số các công ty trên thuộc
lĩnh vực máy tính và điện tử và chăm sóc sức khỏe bởi đặc thù của những ngành
này cần nghiên cứu và phát triển nhiều hơn. Các công ty chú trọng đầu tư vào
R&D nhằm đi đầu trong công nghệ đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh
tranh, chiếm giữ thị phần và độc quyền.
28
Bảng 2.5: Danh sách 10 GEs dẫn đầu thế giới về chi tiêu R&D, 2013
Đơn vị: tỷ USD
STT Công ty Ngành Chi phí R&D
1 Volkwagen Xe hơi 11,4
2 Samsung Máy tính và điện tử 10,4
3 Roche Chăm sóc sức khỏe 10,2
4 Intel Máy tính và điện tử 10,1
5 Microsoft Phần mềm và Internet 9,8
6 Toyota Xe hơi 9,8
7 Novartis Chăm sóc sức khỏe 9,3
8 Merck Chăm sóc sức khỏe 8,2
9 Pfizer Chăm sóc sức khỏe 7,9
10 Johnson & Johnson Chăm sóc sức khỏe 7,7
Nguồn: UNCTAD (2014)
Như vậy, các công ty toàn cầu đã hình thành từ thời kỳ chủ nghĩa tư bản,
phát triển cho tới tận ngày nay và tiếp tục phát triển hơn trong tương lai. Quá
trình hình thành và phát triển của các công ty toàn cầu trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử và phát triển cả về lượng và về chất. Cùng với tình hình chung trên toàn
thế giới, các công ty toàn cầu ở một số khu vực và quốc gia đã được hình thành
và phát triển như thế nào, có những đặc trưng và khác biệt ra sao? Phần cuối của
chương này sẽ nghiên cứu và làm rõ vấn đề này.
2.3. Quá trình hình thành và phát triển của các công ty toàn cầu của một
số khu vực và quốc gia tiêu biểu
Như chúng ta đã biết, những công ty cổ phần hoạt động có tính chất quốc
tế thời kỳ đầu được sinh ra ở Châu Âu và đồng thời cũng được sinh ra ở Mỹ.
Nơi đây là mảnh đất thuận lợi để các công ty toàn cầu ra đời và phát triển. Giúp
khôi phục châu Âu, phục hồi kinh tế Nhật Bản, các công ty toàn cầu đã đóng
một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia này. Bên cạnh việc
hình thành và phát triển trong bối cảnh chung của toàn thế giới, các công ty toàn
cầu của mỗi khu vực và quốc gia trên cũng có nét riêng biệt trong những giai
29
đoạn thăng trầm phát triển của mình, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử
của mỗi khu vực và quốc gia.
2.3.1. Các công ty toàn cầu Mỹ
Cùng với Châu Âu, Mỹ là mảnh đất thuận lợi để các công ty toàn cầu ra
đời và phát triển. Mỹ đã có tác động mạnh mẽ đến sự phục hồi của kinh tế Châu
Âu và Nhật Bản, những quốc gia thất bại nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ
hai đồng thời cũng tạo điều kiện cho các công ty toàn cầu Mỹ bành trướng thế
lực ra toàn thế giới. Từ đây xuất hiện các công ty toàn cầu hiện đại, phát triển
cho tới tận ngày nay.
Các công ty toàn cầu của Mỹ được hình thành bởi quy luật cạnh tranh của
thị trường, trong thời kỳ phát triển của CNTB. Những năm 1870, GEs của Mỹ
tồn tại dưới dạng công ty đơn chức năng được điều khiển bởi một người phụ
trách hãng buôn hoặc một nhóm gia đình nhỏ (Hymer, 1979). Đến đầu thế kỷ
20, mô hình này được thay thế bởi hình thức một tập đoàn lớn đảm nhiệm nhiều
chức năng và điều hành nhiều nhà máy. Những tổ chức đã phát triển để điều
hành và quản lý các tập đoàn trước đây ở các châu lục được chọn để điều hành
các nhà máy và chi nhánh trên thế giới của GEs Mỹ. Đây cũng là nền tảng cho
mô hình hoạt động của GEs Mỹ ngày nay.
Trong những năm 1950-1960, với tư cách là quốc gia ít chịu thiệt hại nhất
từ chiến tranh, các công ty toàn cầu của Mỹ mở rộng hoạt động ra bên ngoài, tấn
công vào thị trường Châu Âu. Hơn nửa đầu tư của GEs trên thế giới là của Mỹ.
Năm 1971, giá trị sản xuất tại nước ngoài của GEs Mỹ gấp bốn lần giá trị xuất
khẩu của Mỹ. Các GE của Mỹ phát triển với quy mô lớn, đặc biệt từ những năm
1950 đến giữa những năm 1970 đã thay đổi cấu trúc đầu tư nước ngoài của Mỹ
từ sản xuất hàng hóa dựa vào nguồn lực từ nước ngoài sang xuất khẩu cho mẫu
quốc. Phải kể đến các công ty tiêu biểu như là Anaconda Cooper, United Fruit
và Standard Oil. Đến cuối những năm 1970, 90% thương mại của Mỹ đều thực
hiện bởi GEs.
Ngày nay, GEs của Mỹ cũng khẳng định vị thế của mình trên bản đồ kinh
tế thế giới. Mỹ đứng đầu thế giới về số lượng GEs với 128 công ty vào năm
30
2014. Walmart của Mỹ cũng là tập đoàn có doanh thu nhiều nhất trên thế giới
tính đến tháng 3 năm 2014. Mặc dù sự nổi lên của nền kinh tế Trung Quốc là
một đe dọa đối với vị thế bá chủ của Mỹ, nhưng với lịch sử lâu dài và kinh
nghiệp hoạt động kinh doanh quốc tế của GEs Mỹ, các công ty toàn cầu Mỹ sẽ
tiếp tục phát triển và chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trên thế giới.
2.3.2. Các công ty toàn cầu Nhật Bản
Quá trình tăng trưởng kinh tế của Nhật khởi đầu bằng các chính sách mở
cửa với những chương trình công nghiệp hóa đầy tham vọng được thực thi từ
thời Minh trị. Đường lối chiến lược này đã làm biến đổi sâu sắc, toàn diện cơ
cấu kinh tế của Nhật Bản và là yếu tố căn bản củng cố và khẳng định vị trí
cường quốc kinh tế của nước này trong nền kinh tế thế giới. Các quá trình này
có mối liên hệ chặt chẽ với những thăng trầm của các tập đoàn tài phiệt và các
công ty hàng đầu của Nhật Bản, chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn từ năm 1968 đến 1945
Thời kỳ khôi phục Minh Trị năm 1968 đã đánh dấu sự hình thành một thể
thức mới thay thế các tập đoàn “Samurai”, những nền tảng đầu tiên cho sự hình
thành các Zaibatsu đã bắt đầu xuất hiện. Trong giai đoạn này, chính phủ Nhật
Bản tiến hình xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng và khuyến khích
sự tham gia đầu tư và quản lý của các gia đình giàu có. Hơn một thập kỷ sau đó,
hầu hết các nhà máy do chính phủ thành lập đều hoạt động kém hiệu quả và thua
lỗ liên tục nên các nhà máy được bán lại cho tư nhân, nhằm tập trung vốn đề gây
dựng các quỹ cho kế hoạch phát triển kinh tế mang tính bao quát hơn của Chính
phủ. Các nhà máy của các gia đình phát triển nhanh chóng và mở rộng sang
nhiều lĩnh vực khác nhau dẫn đến sự ra đời của các Zaibatsu.
Zaibatsu là một tổ hợp các công ty hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, do một gia đình nắm giữ toàn bộ quyền sở hữu và quyền kiểm soát. Trong
tập hợp đó, có thể gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty thương mại,
công ty đóng tàu và hàng loạt nhà máy sản xuất. Trong số các Zaibatsu phải kể
tới các tổ hợp Mitsui, Mitsubishi, Sumimoto và Yasuda, kiểm soát 39% đầu tư
toàn quốc và công nghiệp nặng, 56% tài nguyên ngân hàng Nhật Bản.
31
Sự tham gia của Nhật Bản vào chiến tranh thế giới thứ hai đã làm cho sức
mạnh của Zaibatsu tăng hơn nữa, tuy nhiên các Zaibatsu đã bị giải thể sau thất
bại thảm hại của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai.
- Giai đoạn 1945 đến nay
Sự thất bại nặng nề của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai đã đẩy
nước Nhật rơi vào một tình trạng khó khăn chưa từng có. Các ngành công
nghiệp bị phá hủy, năng lực sản xuất kiệt quệ và lạm phát liên tục. Ngay cả
những thành viên của Zaibatsu là các công ty thương mại đã bị phá vỡ thành các
bộ phận riêng biệt và chỉ tái thành lập sau khi Nhật Bản giành độc lập năm 1952.
Vào những năm 1950 và 1960, thị trường chứng khoán chưa phát triển và
những nhu cầu của các công ty này chỉ có thể đáp ứng bởi các ngân hàng thành
phố. Đó là những ngân hàng có quy mô lớn nhất Nhật Bản. Chính lý do này, dẫn
đến sự hình thành môt hình gồm các ngành công nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau xung quanh các ngân hàng thành phố, gọi là nhóm ngân hàng. Các
nhóm ngân hàng và Zaibatsu luôn luôn cạnh tranh khốc liệt và mỗi nhóm đều
muốn độc chiếm ở những lĩnh vực phát triển quan trọng. Các công ty thương
mại được phát triển quy mô hơn và hàng hóa đa dạng hơn. Đó là Mitsubishi,
Mitsui, Marubeni, C.Itoh, Nissho Iawai và Sumitomo. Vào năm 1972, tổng
doanh thu bán hàng của 6 công ty này chiếm 20% GNP của Nhật (tương đương
76,8 tỷ đô la). Đến năm 1974, 6 công ty này đã nắm giữ cổ phần trong 5390
công ty, là cổ đông lớn nhất của 1057 công ty với số vốn cổ phẩn 440 tỷ đô la.
Chỉ riêng Mitsubishi vào năm 1973 đã có 14 chi nhánh, 23 công ty con và 82
văn phòng đại diện ở nước ngoài với tổng số nhân viên hơn 3000 người.
(HVQHQT, 1996).
Những năm cuối thập kỷ 60, đầu 70, các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản
bấy giờ - công ty toàn cầu Nhật Bản hiện nay đều thay đổi chiến lược kinh
doanh của mình, đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đến cuối những năm
1980, mạng lưới xuyên quốc gia của Nhật Bản phát triển chưa từng có, bao gồm
các công ty lớn có khả năng sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Cho tới ngày nay, số lượng các công ty toàn cầu của
32
Nhật Bản đạt 57 (năm 2013), xếp thứ 3 thế giới về quốc gia có số lượng công ty
toàn cầu nhiều nhất thế giới (Fortune Global 500, 2014).
Có thể thấy rằng, có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát
triển của các công ty toàn cầu Nhật Bản. Thứ nhất, bối cảnh quốc tế và khu vực
thuận lợi cho sự phát triển bình yên của Nhật Bản. Thứ hai, tỷ giá của đồng yên
Nhật Bản luôn ở mức thấp kéo dài. Thứ ba, các nguồn cung cấp nguyên liệu và
năng lượng luôn dồi dào, rẻ và ổn định. Thứ tư, quá trình quốc tế hóa các hoạt
động sản xuất ngày càng được đẩy mạnh (Nguyễn Thiết Sơn, 2004). Với sự phát
triển không ngừng, các công ty toàn cầu Nhật Bản tăng cường hơn nữa sức
mạnh cạnh tranh và khả năng chị phối thị trường thế giới.
2.3.3. Các công ty toàn cầu Châu Âu
Có thể nói Châu Âu là nơi ra đời sớm nhất của công ty toàn cầu. Toàn bộ
quá trình phát triển của các công ty toàn cầu Châu Âu có thể chia làm các giai
đoạn như sau:
- Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, Châu Âu là nơi mà phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển đầy đủ bản chất của nó sớm
nhất. Cũng chính nơi đây, các công ty của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh và
Hà Lan đã thực hình quá trình hoạt động kinh doanh ra ngoài biên giới quốc gia
dưới hình thức các công ty thương mại, khai thác đồn điền. Điều này là nhờ sự
phát triển của ngành hàng hải cũng như việc tìm ra những vùng đất mới vào
khoảng thế kỷ 15-17. Các công ty điển hình là Đông Ấn của Hà Lan và Anh,
Royal Deucth Shell, những công ty toàn cầu đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Hậu quả của chiến tranh thế giới thứ hai đã tàn phá nặng nề các nước châu
Âu cũng như các công ty ở châu Âu, hoạt động của chúng hầu như không thể
hồi phục được nữa (Nguyễn Thiết Sơn, 2004).
- Thời kỳ 1945-1960
Từ 1945-1960 là thời kỳ châu Âu phục hồi nền kinh tế của mình. Kế
hoạch Marshall đã tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia của Mỹ tràn
vào Tây Âu. Sự phát triển của công ty Mỹ ở châu Âu đã tác động mạnh mẽ làm
33
các công ty Châu Âu phục hồi, khi đã phục hồi và từng bước phát triển đã buộc
chúng phải liên minh với nhau để có thể sức mạnh thực hiện sự cạnh tranh trở
lại. Và từ đây, các công ty toàn cầu Châu Âu thực thụ đã ra đời.
Tuy nhiên, các công ty toàn cầu Châu Âu mới chỉ phục hồi, chưa đủ sức
mạnh cạnh tranh với Mỹ trên thị trường quốc tế, hàng hóa sản xuất ra chủ yếu
được tiêu thụ trong nội bộ các nước Tây Âu.
- Từ 1960 đến nay
Từ 1960 đến nay là thời kỳ các công ty toàn cầu của Châu Âu phục hồi và
phát triển với việc đổi mới chiến lược kinh doanh cũng như tăng cường chuyển
giao công nghệ cho các nước ngoài khu vực, phát triển công nghệ mới để tăng
cường sức mạnh cạnh tranh với các công ty Mỹ. Quy mô và hoạt động của các
công ty toàn cầu Châu Âu ngày càng được gia tăng và phát triển, thể hiện ở giá
trị đầu tư trực tiếp nước ngoài, số lượng GEs của các công ty Châu Âu luôn
thuộc top 10 thế giới.
Có thể thấy rằng, Châu Âu chính là cái nôi đầu tiên của các công ty toàn
cầu ngày nay. Với sự phát triển trong suốt chiều dài lịch sử cho đến ngày nay,
các công ty toàn cầu Châu Âu ngày càng khẳng định vị thế của mình trên bản đồ
kinh tế thế giới, loại bỏ sự lệ thuộc vào các công ty của Mỹ.
2.3.4. Các công ty toàn cầu của các NIE Châu Á
Các công ty toàn cầu của các NIE châu Á được hình thành cùng với quá
trình công nghiệp hóa ở các nước Đông Á trong điều kiện trình độ tích tụ, tập
trung tư bản đã mở rộng trên phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, đến những năm 1980,
các công ty toàn cầu của NIEs mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Do đẩy mạnh
công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, tác động của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ trên thế giới, xây dựng được kết cấu hạ tầng qui mô lớn, tăng cường
thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài một cách có hiệu quả; một số nền kinh
tế châu Á có nhu cầu mở rộng mạng lưới kinh doanh xuyên quốc gia của chính
mình. Nhờ những quá trình này đã tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời và phát triển
mạnh mẽ của TNCs. Khác với sự hình thành GEs của Mỹ và châu Âu trên cơ sở
tự do cạnh tranh, GEs của NIEs châu Á được hình thành phần lớn nhờ sự hỗ trợ
34
của Chính phủ. Sự can thiệp tương đối mạnh vào quá trình hình thành và tạo
mọi điều kiện giúp đỡ để GEs phát triển. Chính phủ NIEs châu Á đã dành nguồn
tài chính lớn xây dựng các tập đoàn kinh doanh theo kiểu các Zaibatsu Nhật
Bản, với mục đích để chúng đủ sức mạnh trở thành các đầu tàu kéo nền kinh tế
phát triển và có khả năng cạnh tranh với khu vực và thế giới (Hoàng Thị Bích
Loan, 2002). Chính vì vậy, các tổ hợp công nghiệp lớn thực sự trở thành chỗ
dựa và xương sống của nền kinh tế. Tiêu biểu là Hyundai, Goldstar, Deawoo,
Samsung của Hàn Quốc; ChinFong của Đài Loan và các tổ hợp công nghiệp lớn
khác của Hồng Kông và Singapore. Những tổ hợp này chiếm vị trí độc quyền
trong nhiều lĩnh vực kinh tế then chốt và mở rộng hoạt động ra nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới.
Quá trình hình thành và phát triển công ty toàn cầu của NIEs Châu Á căn
bản theo phương thức phát triển rút ngắn. Sự hình thành và phát triển của GEs
của NIEs Châu Á trong những năm qua xét cho cùng là sản phẩm tất yếu phù
hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của thời đại. Đó là quy luật
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ cũng như xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Ngoài ra, xuất phát từ
điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của NIEs Châu Á đã góp phần vào phát
triển mạng lưới GEs hùng hậu trên thế giới ngày nay.
Như vậy, cùng với xu hướng phát triển của toàn thế giới, các công ty toàn
cầu của các nền kinh tế lớn trên thế giới đã hình thành và phát triển cho tới tận
ngày nay. Nếu các công ty toàn cầu của Mỹ và Châu Âu hình thành dựa trên quy
luật tự do cạnh tranh, thì các công ty toàn cầu của NIEs Châu Á được hình thành
chủ yếu nhờ sự điều chỉnh của nhà nước, bên cạnh sự hình thành trên nền tảng
các Zaibatsu, mang đậm màu sắc Samurai của các công ty toàn cầu Nhật Bản.
Nhờ sự hoạt động rộng khắp, bao phủ toàn cầu của các công ty toàn cầu mà nền
kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo
ra những xu hướng phát triển mới trong thế kỷ XXI.
35
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY TOÀN
CẦU VÀ MỘT SỐ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY
TOÀN CẦU TRONG TƯƠNG LAI
3.1. Đánh giá sự phát triển của các công ty toàn cầu
Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử các công ty toàn cầu đã có sự phát
triển nhanh chóng không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Ngoài ra, GEs
còn chứng kiến sự phát triển về mức độ quốc tế hóa thể hiện qua sự gia tăng
không ngừng về số lượng các chi nhánh. Ngày nay, GEs không chỉ là độc quyền
của các nước phát triển mà đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ ngay cả ở các
nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi. Sức mạnh kinh tế của các GEs
là rất lớn thể hiện qua việc chi phối hầu hết các quan hệ kinh tế, thương mại, đầu
tư và chuyển giao công nghệ trên thế giới. Đồng thời, quy mô và sức mạnh của
GEs tiếp tục được củng cố và phát triển, nằm trong trung tâm của quá trình phát
triển và làm gia tăng vai trò của GEs đối với các quốc gia và các quan hệ quốc
tế. Vì thế, chương này, bài nghiên cứu sẽ đưa ra những đánh giá về những tác
động tích cực và tiêu cực của GEs trong quá trình phát triển.
3.1.1. Thành tựu
Nghiên cứu những thành tựu của GEs trong quá trình phát triển của chúng
cùng với việc giải thích quá trình hình thành và phát triển là một chủ đề được
nhiều học giả và nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tập trung phân tích.
GEs mang lại lợi ích cho các nước tham gia đầu tư và góp phần gia tăng
sản lượng thế giới. Theo đó, các công ty toàn cầu trong quá trình phát triển đã
bổ sung nguồn vốn tăng trưởng cho nước chủ nhà và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của nước đầu tư. Vì vậy, việc nâng cao sử dụng các nguồn lực sản xuất ở
các quốc gia đã có tác động tích cực làm tăng sản lượng thế giới. Ngoài ra, GEs
trong quá trình thực hiện đầu tư nước ngoài cũng có tác động đáng kể tạo ra
động lực tăng trưởng của các nước đang phát triển thông qua việc bổ sung tích
lũy nội địa và nguồn ngoại tệ cho các nước đang phát triển.
36
Thực tế, các công ty toàn cầu chi phối trên 90% tổng giá trị FDI toàn cầu.
Đây được xem như là một thước đo vai trò to lớn của các GEs trong nền kinh tế
thế giới vì FDI là công cụ quan trọng nhất của các GEs trong việc thực hiện
chiến lược toàn cầu của mình.
Bảng 3.1: Các dòng vốn FDI theo khu vực, 2010 – 2012
Đơn vị: Tỷ đô la Mỹ và phần trăm
Khu vực
Dòng vốn FDI vào Dòng vốn FDI ra
2010 2011 2012 2013 2010 2011 2012 2013
Thế giới 1409 1700 1330 1452 1505 1712 1347 1411
Các nền kinh tế phát triển 696 880 517 566 1030 1216 853 857
Các nền kinh tế đang phát
triển
- Châu Phi
- Châu Á
- Châu Mỹ và Caribbean
637
44
401
190
725
48
431
244
729
55
415
256
778
57
426
292
413
9
284
119
423
7
304
111
440
12
302
124
454
12
326
115
Các nền kinh tế chuyển đổi 75 95 84 108 62 73 54 99
Các nền kinh tế có cấu
trúc yếu, nhỏ khác 45 58 58 57 12 12 10 9
LDCs 19 22 24 28 3 4 4 5
LLDCs 27 36 34 30 9,3 6 3 4
SIDS 4,7 6 7 6 0,3 2 2 1
Tỷ phần
Các nền kinh tế phát triển 49,4 51,8 38,8 39,0 68,4 71,0 63,3 60,8
Các nền kinh tế đang phát
triển
- Châu Phi
- Châu Á
- Châu Mỹ và Caribbean
45,2
3,1
28,4
13,5
42,6
2.8
25,3
14,3
54.8
4,1
31,2
19,2
53,6
3,9
29,4
20,1
27,5
0,6
18,9
7,9
24,7
0,4
17,8
6,5
32,7
0,9
22,4
9,2
32,2
0,9
23,1
8,1
Các nền kinh tế chuyển đổi 5,3 5,6 6,3 7,4 4,1 4,3 4,0 7,0
Các nền kinh tế có cấu
trúc yếu, nhỏ khác 3,2 3,4 4,4 3,9 0,8 0,7 0,7 0,7
LDCs 1,3 1,3 1,8 1,9 0,2 0,3 0,3 0,3
LLDCs 1,9 2,1 2,5 2,0 0,6 0,4 0,2 0,3
SIDS 0,3 0,4 0,5 0,4 0,0 0,1 0.2 0,1
Nguồn: UNCTAD, FDI-TNC-GVC Information System, FDI database
37
Thống kê từ năm 2010-2013 chỉ ra rằng hoạt động đầu tư quốc tế được
tăng lên từ năm 2010-2011. Cụ thể dòng FDI chảy vào các quốc gia phát triển
tăng từ 696 tỷ đôla lên 880 tỷ đôla; dòng FDI chảy ra của các quốc gia này cũng
tăng từ 1030 tỷ đôla lên 1216 tỷ đôla. Các nước đang phát triển có dòng vốn đầu
tư chảy vào tăng từ 637 tỷ đôla lên 725 tỷ đôla; dòng vốn chảy vào tăng từ 413
tỷ đôla lên 423 tỷ đôla. Nhưng đến năm 2012 thì do chính sách của các chính
phủ, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp tăng cao từ những nước
phát triển đến những nước đang phát triển buộc các GEs phải thu hẹp đầu tư, họ
chỉ tìm và đầu tư vào những ngành có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận tốt, dần
chuyển một số những chi nhánh con tại các quốc gia về đất nước mình để giảm
chi phí vốn, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong quốc gia.
Các công ty toàn cầu thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ trên
toàn thế giới ở hầu hết các lĩnh vực của khoa học công nghệ và quản lý. Có thể
nói GEs phát triển đa dạng các hạng mục công nghệ và cơ cấu sản phẩm công
nghệ cũng rất đa dạng như tiến bộ công nghệ thể hiện ở các phát minh sáng chế,
công nghệ thiết kế xây dựng, công nghệ kiểm tra chất lượng sản phẩm, công
nghệ quản lý, công nghệ marketing, công nghệ đào tạo và các công nghệ khác.
Ngoài ra, GEs từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Đức,… thường đi đầu trong chuyển giao công nghệ và những nước này cũng là
các nước đi đầu trong việc tiếp cận các công nghệ chuyển giao này.
GEs có tiềm lực to lớn trong việc tổ chức các hoạt động phát triển công
nghệ (R&D) và có vai trò quan trọng trong việc đưa ra các phát minh sáng chế
về công nghệ. Xét về khả năng, GEs có lượng vốn đầu tư lớn, đội ngũ nhà khoa
học chất lượng cao, cơ sở vật chất hiện đại để thực hiện các hoạt động R&D.
Hiện nay GEs chiếm khoảng 80% tổng công nghệ mới của toàn thế giới và
quyết định đến chiến lược phát triển công nghệ của toàn thế giới. Vì vậy, vị trí
và vai trò của các công ty toàn cầu trong nền kinh tế thế giới ngày càng được
nâng cao.
38
Ngoài ra, công ty toàn cầu còn giữ vai trò nổi bật trong việc thúc đẩy
thương mại thế giới phát triển, đặc biệt là những nền kinh tế hướng về xuất
khẩu. Vì vậy mà GEs đã trở thành một nhân tố quan trọng trọng trong nền kinh
tế toàn cầu, chi phối hoạt động thương mại quốc tế. Trong quá trình hoạt động
của mình các GEs thúc đẩy xuất nhập khẩu thông qua ba kênh lưu thông hàng
hóa cơ bản đó là: hàng hóa xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hóa bán ra từ các
chi nhánh ở nước ngoài và hàng hóa trao đổi trong một công ty ở cùng một tập
đoàn. GEs chi phối hầu hết chu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia bởi kênh lưu
thông xuyên quốc gia của mình. Theo báo cáo của UNCTAD năm 2013 thì tổng
giá trị kim ngạch thương mại thế giới năm 2010 xấp xỉ ở ngưỡng 19 nghìn tỷ
đôla, nhưng chiếm trong đó đến 80% là do GEs đóng góp. Cụ thể hàng hóa trao
đổi với công ty mẹ chiếm 6,3 nghìn tỷ đôla tương đương với 33,15%, hàng hóa
bán ra từ các chi nhánh nước ngoài chiếm 12,63% tương đương với 2,4 nghìn tỷ
đôla và hàng hóa giữa các công ty trong cùng một tập đoàn chiếm khoảng 6,3
nghìn tỷ đôla tức 33,15%. Điều đó chứng minh được tầm quan trọng của các
GEs trong hoạt động thương mại quốc tế. GEs là trụ cột cho sự phát triển của
thương mại thế giới, năm 2006 thì giá trị thương mại do GEs tạo ra chiếm
khoảng 30% so với toàn thế giới nhưng đến năm 2010 thì nó đã lên tới 80%.
Như vậy, với sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng và chất thể hiện qua sự
chi phối các quan hệ đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế, các công ty toàn cầu
ngày càng củng cố được vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Hiện nay, xu
hướng tự do hóa thương mại đã trở thành một xu thế tất yếu làm cho vị thế của
GEs ngày càng được củng cố hơn nữa trở thành một tác nhân chính trong quá
trình phát triển, chủ thể của quan hệ quốc tế.
3.1.2. Hạn chế
3.1.2.1. Bản chất độc quyền nhóm của GEs
Các nghiên cứu chỉ ra rằng GEs đầu tư ra nước ngoài chủ yếu là để thực
hiện chiến lược cạnh tranh độc quyền của các công ty lớn (Hirschman, 1971).
Theo đó, nguyên nhân chính khiến các công ty đầu tư ra nước ngoài bao gồm:
Khai thác lợi thế độc quyền của chúng và loại bỏ hoặc hạn chế cạnh tranh với
39
các đối thủ ở nước ngoài. GEs thông qua hoạt động mua lại các công ty sẵn có ở
thị trường nước ngoài đã làm giảm đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra,
các công ty toàn cầu đầu tư vào các ngành công nghiệp mới, hướng vào thay thế
nhập khẩu hơn là các ngành công nghiệp hiện có, do đó khả năng tăng số lượng
đối thủ cạnh tranh trong các ngành công nghiệp hiện có là rất hạn chế. Mặt khác
GEs khi đầu tư vào các thị trường đặc biệt là các nước đang phát triển nhanh
chóng trở thành các đối thủ độc quyền trong các ngành công nghiệp mà chúng
hoạt động bởi có nhiều lợi thế về công nghệ, vốn, mạng lưới marketing, hiệu
quả sản xuất theo quy mô (Phùng Xuân Nhạ, 2007).
3.1.2.2. Tác động tiêu cực đến môi trường, tài nguyên
Có nhiều quan điểm cho rằng GEs chuyển giao các công nghệ, sản phẩm
lỗi thời, không phù hợp cho các nước đang phát triển. Theo đó, động lực để
chuyển giao công nghệ là nhằm kéo dài vòng đời công nghệ, mở rộng thị trường
và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, vì sợ mất bí mật công nghệ hay tạo ra các đối thủ
cạnh tranh mới mà các công ty thường ít khi chuyển giao các công nghệ nguồn
vào các nước tiếp nhận. Vì vậy, công nghệ chuyển giao thường là công nghệ
trung gian hoặc công nghệ lạc hậu mà tốn ít chi phí để đầu tư vào hoạt động bảo
vệ môi trường, đồng thời không tạo ra các đối thủ cạnh tranh mới. Mặt khác, các
nước đang phát triển đang đứng trước nhu cầu lớn về cải tiến công nghệ nên
chấp nhận chuyển giao các công nghệ này để đổi lấy các lợi ích cần thiết nhất
định. Những công nghệ này khi đưa vào các nước đang phát triển gây ra các hậu
quả vể ô nhiễm môi trường và hủy hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra,
hiện nay các nước đang phát triển đứng trước nguy cơ trở thành bãi rác công
nghệ, chi phí lớn để xử lý triệt để do nhập khẩu những công nghệ lạc hậu này.
Đồng thời, GEs tiếp cận thị trường các nước đang phát triển bởi nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào và giá rẻ. Việc đầu tư xây dựng nhà xưởng vào nước
đó giúp các công ty tiết kiệm được chi phí thu mua, vân chuyển nguyên liệu tới
nơi sản xuất và phân phối chúng ra các khu vực xung quanh. Ngoài ra, vì cần
động lực để vươn lên mà các nước đang phát triển thường quan tâm tới các lợi
ích kinh tế ngắn hạn hơn là những chi phí kinh tế dài dài hạn mà đất nước phải
40
trả. Không chỉ vậy, bởi luật pháp, và công nghệ của các nước đang phát triển
còn thấp chưa đủ khả năng để kiểm soát quy trình hoạt động của GEs dẫn tới
việc ô nhiễm môi trường, lách thuế ảnh hưởng trầm trọng tới môi trường, xã hội.
3.1.2.3. Ảnh hưởng đến môi trường kinh tế
Việc các GEs đặt nhà máy tại một quốc gia không đồng nghĩa với việc họ
sẽ cố định sản nghiệp của mình. GEs đem lại sự không chắc chắn cho nền kinh
tế khi mà họ hoàn toàn có thể dời xưởng và hoạt động kinh doanh tới các nước
có chi phí nhân công rẻ hơn và luật pháp cởi mở hơn. Mặt trái của việc tăng tính
cạnh tranh cho môi trường kinh doanh, các GEs tác động nghiêm trọng tới các
ngành sản xuất khác trong nước. Lý do là vì các GEs có tiềm lực tài chính mạnh,
có thương hiệu, có công nghệ để sản xuất ra hàng hóa với chi phí thấp hơn. Các
công ty nội địa không thể cạnh tranh, họ bị lần áp từ thị phần trên thị trường tới
các cơ hội tiếp cận với các hợp đồng sản xuất, tới cơ hội vay vốn.
Nước sở tại bị thất thu ngân khổ do hiện tượng chuyển giá: các GEs luôn
luôn cố gắng giảm nghĩa vụ thuế của họ ở các nước có thuế suất cao và tăng
chúng trong những nước có mức thuế suất thấp. Một cách để làm điều này là
thông qua chuyển giá hay chuyển các thành phần và hàng hóa đã được họ hoàn
thành ở các nước khác nhau với giá khác nhau. Nơi nghĩa vụ thuế là cao, họ
chuyển hàng hoá ở một mức giá tương đối cao để làm cho chi phí xuất hiện cao
hơn. Sau các nguyên liệu đó được thu lại trong nước thuế suất thấp hơn bằng
cách chuyển hàng hoá ở một mức giá tương đối thấp hơn. Điều này sẽ làm giảm
hóa đơn thuế tổng thể của họ.
Hiện tượng xuất khẩu lợi nhuận: Các GEs lớn, đổ vốn vào các nước đang
phát triển nhưng lợi nhuận thì lại được chuyển về quốc gia gốc của tập đoàn đó.
Trong trường hợp này, các nước đang phát triển sẽ không nhận được nhiều lợi
ích từ việc để các GEs lập nhà máy trên nước của họ.
Xu hướng tạo ra nhân công với kỹ năng làm việc thấp: Bởi đầu tư tại quốc
gia đang phát triển là đầu tư sản xuất, gia công yêu cầu kỹ năng làm việc thấp,
41
mức lương lại tương đối cao hơn so với làm nông, dẫn tới một bộ phân dân số
hướng làm công nhân kỹ năng thấp thay vì đầu tư cho học tập.
Không thể chuyển giao công nghệ: bởi nhân lực trong nước không đủ
trình độ ứng dụng và bởi GEs không muốn chuyển giao, dẫn tới mục tiêu muốn
phát triển công nghệ của nước đang phát triển không thực hiện được.
Như vậy, các công ty toàn cầu được nhìn nhận là những tác nhân chính
gây ra tính không hoàn hảo của thị trường và phát triển cơ cấu thị trường cạnh
tranh độc quyền ở nước chủ nhà. Hoạt động của GEs chủ yếu mang lại lợi ích
cho các nước phát triển, trong khi các nước đang phát triển phải gánh chịu nhiều
hậu quả về ô nhiễm và sự phụ thuộc.
3.2. Xu hướng phát triển của các công ty toàn cầu trong tương lai
Trong vòng một thập kỷ qua, cả thế giới chứng kiến một sự thay đổi đáng
kể của các công ty trên quy mô toàn cầu. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế đã làm gia
tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia, cùng với cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã buộc các công ty phải thay đổi để thích
ứng nhanh chóng với những biến động này. Nhìn lại tốc độ thay đổi trong vòng
một thập kỷ qua, một câu hỏi lớn đặt ra là các công ty toàn cầu sẽ tiếp tục phát
triển như thế nào trong tương lai. Theo nghiên cứu của trang Economist
Intelligence Unit, các công ty toàn cầu sẽ trở nên lớn mạnh, có sức lan tỏa toàn
cầu và toàn diện hơn trong tương lai, đặc biệt trong 10 năm tới, tiếp cận tới
nhiều thị trường các nước nhiều hơn hiện tại. Mặc dù mở rộng nhanh chóng, các
công ty toàn cầu vẫn tăng cường sự liên kết toàn cầu với nhiều dòng chảy thông
tin và sự hợp tác vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Chúng sẽ giảm mức độ phi
tập trung hơn, nhưng không hoàn toàn tập trung. Hoạt động tại các chi nhánh sẽ
tự do kiểm soát các cơ hội nhằm thúc đẩy hoạt động của các công ty toàn cầu
trong khi trụ sở chính sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc thiết lập tinh
thần và giá trị của công ty. Từ đó, có hai xu hướng phát triển chính của các công
ty toàn cầu trong bối cảnh hiện nay là: Mở rộng các hoạt động tại các thị trường
mới nổi và tăng cường hoạt động mua bán và sáp nhập M&A.
42
3.2.1. Xu hướng mở rộng hoạt động tại các thị trường mới nổi
Để nắm bắt các cơ hội phát triển tại nước ngoài, các công ty toàn cầu đang
có xu hướng tiếp cận các thị trường mới nổi. Trụ sở của các công ty toàn cầu tại
các thị trường này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong kinh doanh toàn cầu,
cạnh tranh với các công ty tại các nước phát triển về nguồn tài nguyên thiên
nhiên, công nghệ và thâm nhập vào thị trường toàn cầu. Vì vậy, các công ty toàn
cầu đầu tư nhiều hơn vào các thị trường mới nổi thay vì các nền kinh tế chủ đạo
trước đây như Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản. Điều này thể hiện qua chỉ số dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo báo cáo “World Investment Report 2014”
của UNCTAD chỉ ra rằng các nền kinh tế đang phát triển nhận được nhiều đầu
tư trực tiếp nước ngoài hơn các nền kinh tế phát triển, trong đó 3/5 là các nền
kinh tế mới nổi như Trung Quốc (số 2), Nga (số 3) và Brazil (số 5). Xu hướng
này sẽ tiếp tục tăng lên trong những năm tiếp theo, đặc biệt là theo dự đoán về
tiềm năng các nước nhận được nhiều FDI thì Trung Quốc vượt Mỹ trở thành
quốc gia nhận nhiều vốn FDI nhất giai đoạn 2014-2016. Các nền kinhh tế mới
nổi như Ấn Độ, Brazil tiếp tục thuộc nhóm các nền kinh tế có tiềm năng sẽ nhận
nhiều FDI từ các công ty toàn cầu nhiều nhất vào năm 2014-2016. Ngoài ra,
đáng chú ý là sự nổi lên của một số nền kinh tế ở khu vực Đông Nam Á như
Indonesia hay Thái Lan, Việt Nam (UNCTAD, 2014).
43
Hình 3.1: Danh sách 10 quốc gia nhận FDI
lớn nhất trên thế giới, 2013
Đơn vị: Tỷ USD
Hình 3.2: Xếp hạng dự báo các nền kinh tế
nhận nhiều FDI nhất từ TNCs, 2014-2016
(Phần trăm người được hỏi lựa chọn, (x) = xếp
hạng năm 2013
Trong báo cáo về kết quả của “Điều tra tiềm năng các thị trường tăng
trưởng cao” của KPMG, một công ty tư vấn kiểm toán và thuế hàng đầu thế giới
của Mỹ, vào năm 2013 chỉ ra rằng các công ty toàn cầu của Mỹ sẽ tăng cường
mở rộng phạm vi đầu tư, đặc biệt ở các thị trường mới nổi và tăng trưởng cao.
Cụ thể, 69% câu trả lời nhận được xác định mở rộng phạm vi hoạt động là mục
tiêu hàng đầu của các công ty những năm tới, phần lớn tập trung đầu tư vào các
thị trường mới nổi và tăng trưởng cao bên ngoài Mỹ. Khi được hỏi về các thị
trường mới, các công ty dự kiến sẽ đầu tư hơn 5 triệu đô la vào các thị trường
nước ngoài trong năm 2014, trong đó, các địa điểm lựa chọn của các nhà quản lý
là Brazil (27%), Trung Quốc (26%), Mexico (17%) và Ấn Độ (13%). Với những
tín hiệu tích cực về tăng trưởng của nền kinh tế trong nước trong bối cảnh giải
quyết khủng hoảng, các công ty toàn cầu của các nước phát triển đã cởi mở hơn
Nguồn: UNCTAD (2014)
Nguồn: UNCTAD (2014)
44
trong quyết định đầu tư vào các thị trường mới nổi và tăng trưởng cao để thúc
đẩy tăng trưởng trong những năm tới cũng như đánh dấu sự xuất hiện của mình
ngày càng nhiều trên phạm vi toàn cầu.
Để làm rõ xu hướng này, bài nghiên cứu xem xét tăng trưởng doanh thu
của các công ty toàn cầu tại các thị trường mới nổi và tăng trưởng cao. Cũng
theo kết quả điều tra của KMPG và trang Economics Intelligent Unit, tương ứng
có 77% người được hỏi trả lời rằng ước tính doanh thu của các công ty của họ ở
các thị trường mới nổi và tăng trưởng cao sẽ tăng lên trong những năm tiếp theo,
trong khi 22% ước tính sẽ giữ nguyên và 1% sẽ giảm. Điều đó có nghĩa là, các
công ty toàn cầu đang ngày có xu hướng mở rộng hoạt động của mình ra thị
trường bên ngoài nhằm tăng doanh thu để chiếm lĩnh thị trường các nước mới
nổi và tăng trưởng cao.
Tuy nhiên, các công ty cũng gặp khó khăn trong quá trình mở rộng hoạt
động sang các thị trường này. Các vấn đề pháp lý, rủi ro chính trị, tham nhũng,
sự hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao, tốc độ tăng trưởng chậm, lạm phát
cao trong khi chi phí lao động và môi trường cạnh tranh ngày càng cao được xác
định là những rào cản lớn nhất đối với hoạt động của các công ty toàn cầu tại
các thị trường mới nổi. Tuy nhiên, những thách thức này không phải là không
thể vượt qua nếu như các công ty có chiến lược đầu tư hợp lý tại các thị trường
này.
Bên cạnh việc mở rộng hoạt động tại các thị trường mới nổi thuộc nhóm
BRICS, các công ty toàn cầu cũng có xu hướng đầu tư vào các thị trường các
nước đang phát triển khác như Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Việt Nam…
Những nước này có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nhu cầu về hàng hóa và dịch
vụ như các dịch vụ tài chính, chăm sóc sức khỏe và nhu cầu cơ sở hạ tầng ngày
càng được coi trọng. Mặc dù, thị trường các nước này có thể không tạo ra lợi
nhuận ngay lập tức, nhưng chúng có triển vọng tăng trưởng trong dài hạn và
việc các công ty thiết lập một sự hiện diện sớm tại các thị trường nước này có
thể giúp các công ty có được lợi thế cạnh tranh.
45
3.2.2. Xu hướng tăng cường hoạt động mua bán và sáp nhập M&A
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt hiện nay, các công ty
toàn cầu ngày càng chủ động thay đổi cũng như tái cơ cấu doanh nghiệp mình.
Một trong những xu hướng toàn cầu liên quan mật thiết đến tái cơ cấu doanh
nghiệp giữa các ngành là xu hướng mua bán và sáp nhập M&A. M&A được coi
như là một phương tiện để các công ty toàn cầu định hình lại lợi thế cạnh tranh
trong lĩnh vực hoạt động của mình.
Để nhìn rõ xu hướng này, bài nghiên cứu xem xét số lượng các thương vụ
mua bán và sáp nhập M&A của 100 công ty toàn cầu lớn nhất thế giới giai đoạn
2003-2012. Nhìn vào biểu đồ ta thấy, số lượng các thương vụ M&A trong
những năm gần đây có xu hướng tăng lên mạnh mẽ, đặc biệt sau cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới năm 2007. Phần lớn các thương vụ M&A do 100 GEs
lớn nhất thế giới được tiến hành ở các nền kinh tế phát triển, cụ thể là có hơn
300 thương vụ M&A xuyên quốc gia ở các nền kinh tế phát triển trong khi chỉ
có gần 100 thương vụ là ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi vào
năm 2012. Ngoài ra, các công ty toàn cầu thực hiện các thương vụ M&A chủ
yếu bằng đầu tư theo chiều dọc. Số lượng các thương vụ theo chiều dọc luôn lớn
hơn số lượng thương vụ đầu tư theo chiều ngang ở cả các nước phát triển và
đang phát triển. Xu hướng này sẽ tiếp tục phát triển trong một vài thập kỷ tới.
46
Hình 3.3: M&A xuyên quốc gia trên thế giới thực hiện bởi 100 GEs lớn nhất
thế giới: Số lượng các thương vụ theo chiều dọc và chiều ngang, 2003-2012
Các nền kinh tế phát triển: theo chiều dọc Các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi: theo chiều dọc
Các nền kinh tế phát triển: theo chiều ngang Các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi: theo chiều ngang
Nguồn: UNCTAD (2014)
Thêm vào đó, xem xét số liệu về 10 thương vụ M&A lớn nhất trong quý
đầu tiên của năm 2014 có thể thấy tất cả các công ty mục tiêu đều thuộc các
nước phát triển trong khi năm 2013, chỉ có 5/10 công ty mục tiêu đến từ các
nước phát triển.
Bảng 3.2: Danh sách 10 thương vụ M&A xuyên quốc gia lớn nhất theo giá
trị thương vụ, quý I, 2014
Đơn vị: nghìn USD
Thời gian Công ty mục tiêu Ngành mục
tiêu
Quốc gia
mục tiêu
Công ty
mua
Giá trị
giao dịch
Công ty mẹ
mua lại cuối
cùng
Nước của
công ty mẹ
mua lại
cuối cùng
1 28/04/2014 AstraZeneca PLC Bào chế dược
phẩm Anh Pfizer Inc 106.863 Pfizer Inc Mỹ
2 04/04/2014 Lafarge SA Xi măng, thủy
lực Pháp Holcim Ltd 25.909 Holcim Ltd Hà Lan
3 18/02/2014 Forest Laboratories
INC
Bào chế dược
phẩm Mỹ
Actavis
PLC 25.110 Actavis PLC Ai-len
4 30/04/2014 Alstom SA –
Energy Businesses
Tua bin và máy
phát tua bin Pháp GE 17.124 GE Mỹ
47
5 22/04/2014 GlaxoSmithKline
PLC- Oncology
Bào chế dược
phẩm Anh
Novartis
AG 16.000 Novartis AG Hà Lan
6 13/01/2014 Beam Inc Rượu vang và
rượu mạnh Mỹ
Suntory
Holdings
Ltd
13.933 Kotobuki
Realty Co Ltd Nhật Bản
7 17/03/2014 Grupo Corporativo
ONO SA
Viễn thông,
ngoại trừ liên
lạc không dây
Tây Ban
Nha
Vodafone
Holdings
Europe SLU
10.025 Vodafone
Group PLC Anh
8 21/02/2014 Scania AB
Xe có động cơ
và phụ tùng xe
khách
Thụy Điển Volkswagen
AG 9.162
Porsche
Automobil
Holding SE
Đức
9 22/04/2014 Novartis AG –
Vaccines Business
Sản phẩm sinh
hoạt, ngoại trừ
chất chẩn đoán
Hà Lan GlaxoSmith
Kline PLC 7.102
GlaxoSmithKl
ine PLC Anh
10 16/03/2014 RWE Dea AG Dầu thô và khí
tự nhiên Đức L1 Energy 7.099
LetterOne
Holdings SA Lucxembua
Nguồn: UNCTAD (2014)
Sự hợp nhất diễn ra trong tất cả các ngành công nghiệp, chế biến, điện tử,
dịch vụ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Đặc biệt, trong lĩnh vực dịch vụ, việc
hợp nhất có tác dụng mở rộng thị trường, tăng lượng khách hàng nên các hãng
này quan tâm nhiều đến sự hợp nhất.
Hình 3.4: M&A xuyên quốc gia thực hiện bởi GEs theo ngành, 2005-2012
Đơn vị: Phần trăm
Nguồn: UNCTAD (2014)
48
Quá trình sát nhập và mua lại các công ty có xu hướng ngày càng mạnh
mẽ. Điều này thúc đẩy hơn nữa quá trình tích tụ và tập trung tư bản và quốc tế
hoá sản xuất, lưu thông, tăng cường tiềm lực cho các hãng, làm cho chúng có thế
lực trong cạnh tranh, mở rộng thị trường.
Như vậy, cùng với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các công ty toàn cầu
đang ngày càng tăng cường, mở rộng hoạt động của mình cũng như khẳng định
sự hiện diện của mình trên bản đồ thế giới. Với xu hướng mở rộng hoạt động
sang các thị trường mới nổi và tăng cường hoạt động mua bán và sáp nhập
M&A, trong những năm tiếp theo, các công ty toàn cầu sẽ trở lên lớn mạnh và
toàn diện hơn, tiếp tục giữ vai trò chủ thể kinh tế quan trọng trong nền kinh tế
thế giới.
49
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu “Sự hình thành và phát triển của công ty toàn cầu” đã làm
sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn về sự hình thành và phát triển của công
ty toàn cầu. Từ việc phân tích khái niệm, đặc điểm, các lí thuyết về sự hình
thành và phát triển, đến nguyên nhân hình thành, các giai đoạn và thực trạng
phát triển của công ty toàn cầu, bài viết còn mở rộng đánh giá sự phát triển về
mặt thành tựu và hạn chế của các công ty này và xu hướng phát triển trong bối
cảnh hiện nay.
Trước hết, đề tài tập trung phân tích cơ sở lí luận chung từ phân biệt các
khái niệm giữa công ty đa quốc gia (MNC), công ty xuyên quốc gia (TNC), và
công ty toàn cầu (GE) để từ đó hiểu rõ về các đặc trưng, lý thuyết cơ bản và đặc
điểm của công ty toàn cầu. Công ty toàn cầu về bản chất là công ty xuyên quốc
gia, thuật ngữ này thể hiện đặc điểm phát triển của TNCs cho phù hợp với bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Công ty toàn cầu bắt đầu ra đời trong thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản,
sự xuất hiện của GE là tất yếu khách quan trong lịch sử. Cơ sở lí thuyết giải
thích sự ra đời và phát triển của GEs đều tập trung vào nguyên tắc lợi thế so
sánh trong phân công lao động quốc tế như Lý thuyết chu kì sản phẩm, Lý
thuyết nội vi hóa, Lý thuyết chiết trung, ... Như vậy nguyên nhân quan trọng
hình thành GEs là công ty khai thác các lợi thế độc quyền của chúng trong điều
kiện thị trường không hoàn hảo và có sự chênh lệch về hiệu quả sử dụng vốn
giữa các nước.
Trải qua quá trình dài các giai đoạn phát triển, công ty toàn cầu đã có sự
phát triển nhanh chóng không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Với sự tăng
trưởng mạnh mẽ cả về lượng và chất như vậy thể hiện qua sự chi phối các quan
hệ đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế, các công ty toàn cầu ngày càng củng
cố được vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của
các công ty toàn cầu cũng có một số tác động tiêu cực nhất định nền kinh tế thế
giới bởi bản chất độc quyền của nó, cũng như những tác động xấu đến môi
50
trường tự nhiên và môi trường kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển, các
công ty toàn cầu cần thận trọng trong việc cân nhắc giữa các lợi ích và ảnh
hưởng tiêu cực do sự phát triển ấy tạo nên. Bài nghiên cứu cũng đưa ra hai xu
hướng phát triển chính của các công ty toàn cầu trong tương lai, đó là mở rộng
các hoạt động tại các thị trường mới nổi và tăng cường hoạt động mua bán và
sáp nhập M&A. Những xu hướng phát triển này nhằm giúp các công ty toàn cầu
khẳng định và tăng cường sự hiện diện của mình trên quy mô toàn cầu, cũng
như thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà các công ty đặt ra trong quá trình
phát triển của mình.
Bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc phân tích quá trình hình thành và phát
triển của công ty toàn cầu. Những khía cạnh khác về công ty toàn cầu sẽ được
phát triển trong các bài nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Khắc Nam (2008), Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc
tế, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24.
2. Hoàng Thị Bích Loan (2002), Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế
công nghiệp mới Châu Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Học viện quan hệ quốc tế (1996), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên
quốc gia ở các nước đang phát triển, NXB Chính trị Quốc gia.
4. Lê Văn Sang & Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc gia
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Các công ty xuyên quốc gia, NXB Đại học
Quốc gia TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
6. Phùng Xuân Nhạ (2001), Giáo trình đầu tư quốc tế, NXB ĐHQGHN, Hà
Nội.
7. Phùng Xuân Nhạ (2007), Các công ty xuyên quốc gia: Lý thuyết và thực
tiễn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Tiếng Anh
8. Barbara Parker (2005), Introduction to Globalization and Business:
Relationships and Responsibilities, SAGE Publication Ltd.
9. Dominick Salvatore (1993), International Economics, Macmillan
Publishing Company, p. 351-375.
10. Dunning & Narula (1996), The Investment Development Path Revisited:
Some emerging issues, Routledge, London and New York.
11. Dunning (1979), Explaining changing patterns of international
production: in defense of eclectic theory, Oxford Bulletin of Economics
and Statistics, vol. 41, no. 4, p. 269-295.
12. Economist Intelligence Unit (2010), Global firms in 2020: The next
decade of change for organisations and workers.
52
13. Hymer (1979), The Multinational Corporation: A Radical Approach,
Cambridge University Press, Cambridge.
14. KPMG (2013), 2014 High Growth Markets Outlook Survey Report.
15. Peter J. Buckley and Mark Casson (1985), The economic theory of the
multinational enterprise, St. Martin's Press, New York.
16. R. Jenkins (1987), Transnational Corporations, p. 17-37.
17. R. Vernon (1996), International investment and international trade in the
product cycle, Quarterly Journal of Economics, p. 199-207.
18. Sergei Afontsev (2012), The future of transnational corporations: trends
and scenarios for global politics.
19. UNCTAD (2005), Transnational Corporations and the
Internationalization of R&D, World Investment Report 2005, United
Nations Publication.
20. UNCTAD (2007), The Universe of the largest transnational
corporations, World Investment Report 2007, United Nations Publication.
21. UNCTAD (2012), Transnational Corporations, Vol. 21, No. 2.
22. UNCTAD (2012), Toward a new generation of investment policies,
World Investment Report 2012, United Nations Publication.
23. UNCTAD (2013), Global Value Chains: Investment and Trade for
Development, World Investment Report 2013, United Nations
Publication.
24. UNCTAD (2014), Investing in the SDGs: An Action Plan, World
Investment Report 2014, United Nations Publication.
Website
25. http://www.coolgeography.co.uk/GCSE/Year11/EconomicGeog/Industry/
TNCs/basic_facts_about_tncs.htm
26. http://fortune.com/global500
27. http://leeiwan.wordpress.com/2007/06/18/difference-between-a-global-
transnational-international-and-multinational-company/