So sánh hệ thống tài chính Mỹ và Việt Nam
Transcript of So sánh hệ thống tài chính Mỹ và Việt Nam
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: Bộ máy tổ chức NHNN
Hình 2: Bộ máy tổ chức FED
Hình 3: Bản đồ các khu vực quản lý của các Ngân hàng FED khu vực
Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ 01/2008
– 01/2011.
Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Bảng 3: T ỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BH: Bảo hiểm
BHTG: Bảo hiểm tiền gửi
CK: chứng khoán
CSHT: cơ sở hạ tầng
FED: Cục dự trữ liên bang Mỹ ( federal reserve system)
NGNN: Ngân hàng Nhà nước
NHDT: Ngân hàng dự trữ
NHNNVN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHQG: Ngân hàng Quốc gia
NHTK: Ngân hàng tiết kiệm
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
TCNH: Tài chính – Ngân hàng
TCTD: tổ chức tín dụng
TTCK: Thị trường chứng khoán
TTTC: Thị trường tài chính
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 1
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
A. PHẦN MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới hiện
nay, hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng vì tạo ra các
kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến người thiếu vốn, cung
cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính lỏng, thông
tin các giao dịch tài chính. Hoạt động của các tổ chức tài chính
trên thế giới đã ra đời và phát triển mạnh mẽ…Tính ưu việt của
các tổ chức tài chính này đã tạo nên một kênh dẫn vốn rất quan
trọng đến các doanh nghiệp và thực tế cho thấy hoạt động của các
tổ chức tài chính là một trong những nhân tố đẩy nhanh trình độ
phát triển công nghệ ở các nước, nhất là đối với các nước chậm
phát triển. Đối với một số quốc gia trên thế giới thì nhu cầu về
vốn đầu tư là rất lớn. Và để đáp ứng được nhu cầu này một số nước
đã rất tích cực trên mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước. Tuy nhiên trong thời gian qua vốn đầu tư còn bị hạn
chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có chính sác đầu tư
còn nhiều bất cập. Nhằm khắc phục tình trạng này việc đưa ra một
cơ chế đầu tư hợp lý là điều cần thiết. Chính vì vậy các tổ chức
tài chính ra đời ở những nước này là một giải pháp hữu hiệu.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 2
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức tài chính này còn mới mẻ
sơ khai chưa có môi trường pháp lý và định hướng rõ ràng. Thiếu
những văn bản pháp quy hoàn chỉnh và đồng bộ, có một số văn bản
pháp quy đến nay đã không còn phù hợp. Và tất nhiên để hoạt động
ngày một hiệu quả hơn, các tổ chức tài chính đều mong muốn đất
nước có một hệ thống tài chính rõ ràng, tối ưu và đi sát với thực
tiễn hiện nay.
Hệ thống tài chính Mỹ được cho là một hệ thống phức tạp về
cấu trúc và chức năng. Đặc biệt nền kinh tế Mỹ đang trải qua cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ năm 1930 không chỉ khiến cho
nền kinh tế của Mỹ mà kinh tế của cả thế giới cũng lâm vào tình
trạng suy thoái trầm trọng . Một nguyên nhân cơ bản là sự giám sát
hệ thống tài chính.
Tại Việt Nam, hệ thống tài chính còn non trẻ và ít nhiều
cũng đã hứng chịu tác động tiêu cực theo xu thế suy thoái kinh tế
của Mỹ và toàn cầu. Do đó đặt ra cơ hội có thể rút ra được nhiều
bài học kinh nghiệm quý giá trong hệ thống tài chính ở Việt Nam,
góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế là một yêu cầu
cấp thiết đang đặt ra từng ngày. Nhận thức rõ được vai trò và tầm
quan trọng của vấn đề này, nhóm đã chọn đề tài: “ So sánh hệ thống
tài chính của Việt Nam và Mỹ” làm đề tài nghiên cứu.
Mục tiêu của đề tài:
- Cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống tài chính của Mỹ và
Việt Nam.
- Nắm được nét chính về hoạt động và công cụ tài chính của các
thị trường tài chính.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 3
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của các định chế tài
chính như: ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,…
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin, dữ liệu từ các nguồn khác nhau.
- So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp mô hình hóa sử dụng bảng biểu, đồ thị.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu dựa trên phương pháp tư duy
phân tích kinh tế. Đi từ tổng quan đến cụ thể cấu trúc mô hình
thị trường tài chính.
Do đây là một lĩnh vực có tính vĩ mô cao, cộng với trình độ nhóm
viết còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong cô đóng góp, chỉ bảo để đề tài của nhóm được
hoàn chỉnh hơn.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 4
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
B. PHẦN NỘI DUNGI. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm
T hị trườn g tài chính là một thị trường mà trong đó tài sản
tài chính được giao dịch. Ngoài việc cho phép trao đổi tài sản
tài chính phát hành trước đó, TTTC tạo điều kiện cho vay và cho
vay bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán tài sản tài
chính mới được ban hành.
2. Phân loại
2.1. Việt Nam
Dựa vào thời hạn tín dụng:
Thị trường tiền tệ: là nơi các công cụ ngắn hạn được mua bán
với số lượng lớn.
Thị trường vốn: là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung gian
dài hạn (do các chính quyền trung ương, chính quyền địa
phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp phát hành) được trao
dổi chuyển nhượng mua bán theo quy định của pháp luật
Dựa vào loại tín dụng : hiện việt nam cũng đã có thị trường tín
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, thị trường
vay nợ, ngân hàng
Thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp
Thị trường tập trung, thị trường phi tập trung : số lượng doanh nghiệp
giao dịch trên thị trường tập trung là rất ít, giao dịch trên
thị trường phi tập trung là chủ yếu
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 5
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Thị trường chính thức và phi chính thức
Thị trường chính thức: các ngân hàng, các công ty tài chính,
các công ty chứng khoáng…
Thị trường không chính thức: hợp tác xã tín dụng, các tổ chức
tín dụng vi mô ở nông thôn
2.2. Mỹ
Thị trường tài chính Hoa Kỳ cũng bao gồm thị trường tiền tệ và
thị trường vốn
Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ: liên quan đến vay ngắn hạn, cho
vay, mua và bán với kỳ hạn ban đầu của một năm hoặc ít hơn.
Kinh doanh trong thị trường tiền tệ được thực hiện qua truy
cập, bán buôn. Cụ thể với những công cụ: trái phiếu kho bạc,
thương phiếu, ngân hàng, chấp nhận, tiền gửi, chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu, thỏa thuận mua lại, các quỹ liên bang,
các chứng khoán ngắn hạn và tài sản thế chấp. Nó cung cấp
tính thanh khoản tài trợ cho hệ thống tài chính toàn cầu.
Thị trường vốn Mỹ: người Mỹ tự hào về hiệu quả của thị trường
chứng khoán và thị trường vốn khác, cho phép số lượng lớn
người bán và người mua tham gia vào hàng triệu giao dịch mỗi
ngày. Chính phủ liên bang cũng đã đóng một vai trò ngày càng
quan trọng trong việc đảm bảo xử lý tính trung thực và công
bằng qua các giao dịch.
Việc thực hiện có hiệu quả vốn thị trường, cổ phiếu và trái
phiếu được phát hành và giao dịch, tạo ra lợi thế rất lớn về
kinh tế tài chính Mỹ nói chung, và thành phố New York nói
riêng.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 6
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Ví dụ:về các thị trường tài chính bao gồm New York Stock
Exchange (bán lại cổ phần chứng khoán phát hành trước đó), thị
trường trái phiếu chính phủ Mỹ (bán lại trái phiếu phát hành
trước đó), và bán đấu giá trái phiếu kho bạc Mỹ (doanh số bán
hàng-tín phiếu kho bạc mới ban hành).
Tổ chức tài chính là một tổ chức có chính nguồn gốc của lợi
nhuận thông qua các giao dịch tài sản tài chính. Ví dụ của các
tổ chức tài chính bao gồm môi giới giảm giá (ví dụ, Charles
Schwab và Associates), ngân hàng, các công ty bảo hiểm, và đa
chức năng tổ chức tài chính phức tạp, chẳng hạn như Merrill
Lynch.
2.3. Nhận xét
Việt Nam và Mỹ đều chia thị trường tài chính thành hai thị
trường chính: thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Tuy nhiên: Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ rất hiệu quả ở chỗ nó
cho phép một số tiền lớn để được chuyển giao một cách nhanh
chóng và với chi phí thấp từ một đơn vị kinh tế (kinh doanh,
chính phủ, ngân hàng, vv) sang một đơn vị kinh tế khác trong
thời gian tương đối ngắn.
II. CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 7
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1. Ngân hàng trung ương
Trên thế giới hiện nay có hai mô hình tổ chức NHTW: một là mô
hình ngân hàng trực thuộc Chính phủ như: NHTW Anh, Pháp, Nhật,
Việt Nam,…; hai là mô hình NHTW không trực thuộc Chính phủ
như: FED,…
1.1. Thành lập
- NHNNVN: sắc lệnh 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
6/5/1951.
- FED: năm 1913 theo Federal Reserve Act (Đạo luật dự trữ
liên bang) được Quốc Hội Mỹ thông qua.
1.2. Vị trí
- NHNNVN: là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ, là Ngân hàng
trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
NHNNVN là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước,
có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
- FED là tổ chức độc lập với chính phủ và Quốc hội Mỹ. Trụ sỡ
chính của FED hiện nay ở Washington, D.C
1.3. Bộ máy tổ chức
- NHNN VN: thống đốc các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư
vấn chính sách tiền tệ Quốc Gia,…
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 8
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- FED: Hội đồng thống đốc, ủy ban thị trường, các ngân hàng
của FED và các n gân hàng địa phương.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 10
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1.4. Lãnh đạo
- NHNNVN : Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, là
người đứng đầu và lãnh đạo NHNN ; chịu trách nhiệm trước Thủ
tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Thống đốc NHNN do thủ tướng
chính phủ đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm. Thống đốc của
NHNNVN hiện nay là: Nguyễn Văn Bình. Từ khi thành lập đến nay
thì NHNNVN đã trải qua 13 đời thống đốc: Nguyễn Lương Bằng
(1951 – 1952), Lê Viết Lượng (1952 – 1963), Tạ Hoàng Cơ (1963
– 1974), Đặng Việt Châu (1974 – 1976), Hoàng Anh (1976 –
1977), Trần Dương (1977 – 1981), Nguyễn Duy Gia (1981 –
1986), Lữ Minh Châu (1986 – 1989), Cao Sỹ Liêm (1989 – 1997),
Đỗ Quế Lượng (1997 – 1998), Nguyễn Tấn Dũng (1998 – 1999), Lê
Đức Thúy(1999 – 2007), Nguyễn Văn Giàu (2007 – 2011),
Nguyễn Văn Bình (2011 đến nay).
- FED: Điều hành FED là Ủy ban Thống đốc gồm bảy thành viên do
Tổng thống Mỹ bổ nhiệm và Thượng viện Mỹ phê chuẩn, nhiệm kỳ
kéo dài đến 14 năm để khỏi chịu tác động chính trị. Riêng chủ
tịch và phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn năm. Chủ tịch FED do Tổng
thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại diện cho Chính
phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân
hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và
miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ
Tổng thống 4 năm thì Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và
miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED. Nếu
nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 11
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này
phải được Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng thống đốc
của FED hiện nay là Giáo Sư Ben Bernanke. Từ khi thành lập
- đến nay FED đã có 14 đời chủ tịch: Charles S. Hamlin (1914 -
1916), William P. G. Harding (1916 – 1922), Daniel R.
Crissinger (1923 – 1927), Roy A. Young (1927 – 1930),
Eugene Meyer ( 1930 – 1933), Eugene R. Black (1933 – 1934),
Marriner S. Eccles (1934 – 1948), Thomas B. McCabe (1948 -
1951), William McChesney Martin, Jr (1951 – 1970), Arthur
F. Burns (1970 – 1978), G. William Miller (1978 – 1979),
Paul A. Volcker (1979 – 1987), Alan Greenspan (1987 –
2006), Ben BernanKe 2006 – nay)
1.5. Tính độc lập: bao gồm độc lập về việc lựa chọn công cụ và độc
lập về lựa chọn mục tiêu khi thực hiện chính sách tiền tệ)
- NHNNVN: thấp do trực thuộc và phải nhận chỉ thị từ chính
phủ( các chính sách cũng phải có chính phủ quyết định), ngân
sách hoạt động cũng do chính phủ xét duyệt.
- FED: Cao do độc lập với chính phủ ( để thay đổi quy chế của
FED Quốc hội thậm chí còn phải sửa đổi cả hiến pháp), các
lãnh đạo có nhiệm kỳ và không được tái cử, ngân sách hoạt
động độc lập.
1.6. Các ngân hàng thành viên
- NHNNVN: NHNNVN và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố.
- FED: FED gồm 12 ngân hàng địa phương và 25 chi nhánh ở khắp
nước Mỹ nên chính thức mà nói, đây là hệ thống ngân hàng
trung ương chứ không phải là một ngân hàng trung ương riêng
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 12
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
lẻ. 12 ngân hàng của FED gồm: Boston, New York,
philadelphia, Cleveland, Richmon, Atlanta, Chicago, St.
Luois, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco, 12
ngân hàng dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc
hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ
chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng
dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu.
Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông
thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động
không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện
để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán
hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài
sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi
hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York,
Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.
1.7. Đồng tiền phát hành
- NHNNVN: Việt Nam đồng “đ” do NHNNVN phát hành
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 13
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- FED: đô la Mỹ (USD). Do các NHDT khu vực phát hành Mỗi ngân
hàng khu vực của FED được ký hiệu bằng chữ cái. Những cái này
in trên giấy bạc mà chúng phát hành. Boston (A), New York
(B), philadelphia (C), Cleveland (D), Richmon (E), Atlanta
(F), Chicago (G) , St. Luois (H) , Minneapolis (I) , Kansas
City (J), Dallas (K), San Francisco (L)
1.8. Ngân sách hoạt động
- NHNNVN: Được sử dụng các khoản thu để trang trải chi phí
hoạt động của mình, chênh lệch thu chi sau khi trích quỹ được
nộp vào ngân sách nhà nước
- FED: độc lập về tài chính, doanh thu đến từ tiền lãi của các
tài sản nắm giữ
1.9. Nhiệm vụ
- NHNNVN: Phát hành tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ,
quản lý tiền tệ tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ
cho Chính Phủ Việt Nam
Phát hành tiền tệ: Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên
toàn quốc như phương tiện trao đổi, NHTW trực tiếp quản lý
cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là
công cụ thứ nhất giúp NHTW điều tiết mức cung ứng tiền tổng
hợp.Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể
điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm
phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay
giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
Quản lý tham mưu chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính
Phủ Việt Nam: Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 14
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa
với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính
sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên NHTW phải
tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và
kinh tế. Với vai trò này NHTW gián tiếp ảnh hưởng đến việc
cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu
khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết
kinh tế vĩ mô
Thực hiện chính sách tiền tệ:
Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán do
NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số
tiền tệ. Qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng.
Đặc điểm: do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên
đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính
xác của chính sách tiền tệ vì khối lượng chứng khoán mua
(bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh,
ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì
thực hiện thống qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc
vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác
để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng
bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Dự trữ bắt buộc
Là số tiền dự trữ bắt buộc mà các Ngân hàng phải giữ lại
do NHTW quy định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không
được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 15
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách
hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ
thống ngân hàng.
T ỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính
chất kỳ hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi
kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ
dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ
dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm.
Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ
ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp
dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được quy định như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ tháng01/2008 – 01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt
bụôc (VND) Văn bản
11%1 - 5%2 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%1 - 4%2 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
8%1 - 2%2 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
6%1 - 2%2 2951 /QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
5%1 - 1%2 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
3%1 - 1%2 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
(1 ): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12
tháng
(2 ): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 16
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Nguồn: http://www.sbv.gov.vn
Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Loại hình tổ chức tín
dụng
379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN
Tiền gửi
VND không
kỳ hạn và
dưới 12
tháng
Tiền gửi
VND từ
12-24
tháng
Tiền gửi
ngoại tệ
không kỳ
hạn và
dưới 12
tháng
Tiền gửi
ngoại tệ
từ 12-24
tháng
1. NHTM nhà nước,
NHTMCP đô thị, chi
nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty cho thuê
tài chính.
3% 1% 4% 2%
2. Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam
1% 1% 3% 1%
3. NHTMCP nông thôn,
ngân hàng hợp tác, quỹ
tín dụng nhân dân.
1% 1% 3% 1%
4. Tổ chức tín dụng
khác.0%
0% 0%0%
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 17
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Nguồn:
http://www.sbv.gov.vn
Lãi suất chiết khấu:
Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của
chính sách tiền tệ, nó là yếu tố sự chuyển biến từ cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nó
còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ
chế tự hoạch toán kinh doanh
- FED: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , giám sát và quản
lý các tổ chức tín dụng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế ,
cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản
có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ
Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả
quốc gia
Kiểm soát cung ứng tiền tệ: FED kiểm soát quy mô nguồn cung
ứng tiền tệ bằng các hoạt động thị trường mà qua đó FED mua
hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ
chức tham gia mua bán với FED gọi là người giao dịch ưu tiên
(primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của FED ở
Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân
hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt
được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần với tỷ lệ mục
tiêu, gồm:
Thỏa thuận mua lại: Thực chất của hoạt động này là cho
vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi
nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 18
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
dịch thị trường của NHDT liên bang New York tham gia các
thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các
mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo
của FED. Trong ngày giao dịch, FED sẽ đặt tiền vào tài
khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy
tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..).
Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại FED
hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn
giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới
65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14
ngày.
Giao dịch mua đứt: Một công cụ khác của bàn giao dịch thị
trường là mua đứt. Trong giao dịch này, FED mua lại trái
phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản
của người giao dịch đặt tại FED. Bởi hoạt động này là mua
đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu
hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18
tháng. Từ những năm 1980, FED cũng bán quyền mua trái
phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua
này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên
sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại FED, do đó
mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế. Bởi các
giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời
gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của
hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn,
tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 19
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là
0,0121%). FED tiến hành giao dịch này hàng ngày trong
2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành
nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.Trong giao dịch
thỏa thuận bán lại (reverse repo), FED sẽ vay tiền từ
các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng
khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, FED sẽ hoàn trả
tiền và các khoản lãi.
Thực hiện chính sách tiền tệ:
Mua và bán trái phiếu Chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang
(FED) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào
lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ
giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi
FED bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra
ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền
sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn
hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho
vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu FED yêu cầu
các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này,
khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi
suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ FED: Các ngân hàng
thành viên của FED vay tiền từ FED để trang trải các nhu
cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED ấn định cho các khoản vay
này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 20
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ
được vay.
Bảng 3 : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng12/2010
Yêu cầu dự trữ
Loại trách nhiệm
Yêu cầu
% Của các
khoản nợ
Ngày có
hiệu lực
Tài khoản giao dịch thuần
$ 0 đến $ 10.700.000 0 30/12/201
0
Nhiều hơn $ 10.700.000 đến
58.800.000 $ 3 30/12/201
0
Nhiều hơn $ 58.800.000 10 30/12/201
0
Nonpersonal tiền gửi thời gian 027/12/199
0
Eurocurrency nợ 0 27/12/201
0
Nguồn: http://www.federalreserve.gov
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 21
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Tỷ lệ chiết khấu:
FED thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định
hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed" . Đây là tỷ lệ các ngân hàng
ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục
dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ Fed
không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở
con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn
chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị
trường
FED còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các NHTM phải
trả khi vay tiền từ FED. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa
chọn cách vay quỹ đặt cọc tại FED từ một ngân hàng khác mặc dù
lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của FED. Lý do của cách
lựa chọn này là việc vay tiền từ FED mang tính công khai rộng
rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh
khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay.
Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường
cao hơn 3% so với "lãi suất quỹ vốn tại Fed" . Lãi suất ưu đãi
là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những
khách hàng tin cậy nhất.
Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì
chi phí đi vay thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh
nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao đưa đến
kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn.
Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn
tại Fed” mỗi lần ở mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 22
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần, từ 6,25% xuống 1% nhằm
chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi
suất do FED điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả
tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED"
tụt xuống mức 1%, con số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 –
0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 06/2004, Cục dự trữ liên bang
bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25%
ngày 08/08/2006.
Có thể FED cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị
trường nhằm thay đổi tỷ lệ cho vay dài hạn. Tuy nhiên năng
lực của nó yếu hơn rất nhiều các định chế tài chính tư nhân.
2. Các định chế tài chính
2.1. Ngân hàng thương mại
2.1.1. Về khái niệm
Ở Việt Nam: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận ký gửi từ khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính.
2.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM
Huy động vốn: nhận tiền gửi, các loại tiền bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi có thể rút ra theo
yêu cầu của người gửi mà không phải tôn trọng một kỳ hạn ký
thác nào khác. Có nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn:
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 23
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Tiền gửi dùng séc: là loại tiền gửi dùng để chi trả các
Séc và hối phiếu
Tiền gửi tiết kiệm: là tiền gửi vào tài khoản tiết kiệm
còn gọi là tài khoản dùng sổ. Đó là những khoản tiền gửi
nhỏ, ổn định tương đối lâu ở tài khoản, được hưởng lãi,
tương đối cao hơn lãi của tiền gửi thông dụng
Luật Mỹ cho phép ngân hàng có thể buộc người gửi tiết
kiệm phải báo 30 ngày trước khi rút nhưng các ngân hàng
không sử dụng quyền này, không đòi hỏi phải báo trước vì
nó có thể bị giới hạn về ngạch số tiền gửi tối đa
(100.000 USD)
Tiền gửi có thấu chi: ở Mỹ, có sự phối hợp gửi tiền vào
tài khoản tiết kiệm và tài khoản dùng séc bằng cách gửi
tiền vào tài khoản ATS (automatic Transfer Service
Account). Từ ngày 1/11/1978, NHTM được phép trả lãi cho
TK dùng séc bằng cách gửi tiền vào TK dùng séc để rút
tiền bằng séc
- Các loại tiền gửi đặc biệt của Hoa Kỳ: ngoài các loại tiền
gửi thông dụng như của Việt Nam thì Hoa Kỳ còn có những
loại tiền gửi vào những tài khoản đặc biệt được áp dụng từ
thập niên 1970 và 1980. Đó là tiền gửi phối hợp giữa tiền
gửi dùng Séc và tiền gửi tiết kiệm vào những tài khoản giao
dịch bao gồm lệnh rút tiền giao dịch và dịch vụ chuyển ngân
tự động.
Nghiệp vụ đầu tư vốn:
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 24
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- Đầu tư chứng khoán: các định chế tài chính là các nhà đầu
tư trên thị trường tài chính. Đây là nguồn lợi quan trọng
thứ hai sau cho vay. Thông thường chứng khoán mà họ đầu tư
bao gồm những chứng khoán an toàn nhất như: trái phiếu kho
bạc đến những khoản đầu tư tương đối an toàn. Nếu tính về
thời hạn, có những chứng khoán rất ngắn hạn chỉ có 24h ở Mỹ
có thỏa ước mua lại (RPs) do NHTM phát hành để vay trong
24h, có khi gọi là thỏa ước qua đêm.
- Cho vay: là hình thức thông dụng nhất của các định chế tài
chính nói chung và của ngân hàng nói riêng trên khắp thế
giới. Việt Nam hay Mỹ cũng vậy. Tại Hoa Kỳ, cho vay chiếm
gần 60% tổng tích tài sản của NHTM.
2.2. Các tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác và các loại hình ngân hàng khác
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành
lập theo pháp luật nước ngoài
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 25
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
khác
Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm
dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự
nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng nhằm mục tiêu chủ yếu
là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời
sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín
dụng nhân dân và các hình thức khác.
Các loại hình tổ chức tín dụng (theo sở hữu): Tổ chức tín
dụng được thành lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổ chức
tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng
hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100%
vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có chi nhánh, văn phòng đại diện
của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam
2.2.1. Ngân hàng tiết kiệm
NHTK được thành lập với mục đích huy động các khoản tiền
tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Chủ nhân của các ngân
hàng tiết kiệm cũng chính là những người gửi tiền tiết kiệm.
Phương thức hoạt động của NHTK mang tính tương trợ là chủ
yếu, chứ không như ngân hàng thương mại là nhằm mục đích kinh
doanh là chính.
Vốn hoạt động chủ yếu của NHTK là từ tiền gửi tiết kiệm của
dân chúng hoặc là vốn đóng góp của các nhà hảo tâm với tính
chất hỗ trợ người nghèo là chính hơn là đóng góp để kiếm lời.
Loại ngân hàng này không phát hành các công cụ nợ để vay vốn
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 26
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
của công chúng và cũng hầu như không vay của các tổ chức nước
ngoài hay NHTW, trừ trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt.
Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các NHTK cho vay
rất thận trọng. Tiêu chuẩn hàng đầu trong vấn đề cho vay là
sự an toàn. Đối tượng cho vay chủ yếu là các khoản vay cầm cố,
thế chấp bằng nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là
đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác
vay. Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng
này cũng chính là những người đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân
hàng. Lãi suất cho vay thường rất thấp vì nó mang tính chất
tương trợ nhiều hơn là kinh doanh.
Ở Mỹ, NHTK tồn tại dưới hình thức các ngân hàng tiết kiệm
tương trợ (Mutual savings banks). Các NHTK tương trợ này
thu hút tiền vốn bằng cách nhận tiền gửi và dùng chúng trước
hết để cho vay thế chấp. Những người gửi tiền đồng thời là
người chủ sở hữu các ngân hàng này. Trước năm 1980, các ngân
hàng này bị hạn chế ở các khoản cho vay bất động sản, nhưng
ngày nay họ đã được phép phát hành các tài khoản tiền gửi có
thể phát séc dưới dạng các tài khoản NOW hay Super NOW và
thực hiện các khoản cho vay khác ngoài cho vay bất động sản
như vay tiêu dùng, vay cho sản xuất nông nghiệp, cũng như
cung cấp các dịch vụ như tín thác, phát hành thẻ tín dụng.
Ở Việt Nam không có NHTK riêng biệt, hầu như tất cả các
ngân hàng thương mại đều có bộ phận quỹ tiết kiệm để huy động
vốn nhàn rỗi trong dân cư nhằm hình thành nguồn vốn chung của
ngân hàng thương mại.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 27
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
2.2.2. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần
và hoạt động theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và
bình đẳng. Các thành viên của quỹ góp tiền vào quỹ dưới hình
thức mua các thẻ thành viên (tương tự như cổ phiếu) có mệnh
giá bằng nhau. Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Các
thành viên của quỹ sẽ được hưởng quyền vay tiền của quỹ khi
cần. Khi cần thêm vốn, quỹ lại phát hành thêm thẻ thành viên
và tiếp nhận thêm những thành viên mới. Thông thường quỹ
không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành viên
vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán.
Ở Việt Nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín
dụng hợp tác. Đây là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ
ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện
thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Các tổ chức tín
dụng và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ
nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín
dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân,
hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác . Theo Điều 64 Luật
Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng hợp tác được huy động
vốn của các thành viên và của các tổ chức cá nhân để cho các
thành viên vay. Việc cho các đối tượng không phải là thành
viên vay phải được Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu
chấp thuận và không được vượt quá tỷ lệ tối đa do Ngân hàng
Nhà nước quy định”.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 28
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô
hình tương tự như quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho vay có
quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã, được tổ chức xung quanh
một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân viên của một công
ty). Mục đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay
với mức lãi suất thấp nhất có thể. Họ thu nhận vốn bằng cách
bán cổ phần cho các thành viên và các thành viên ngoài việc
được quyền vay ưu đãi còn được hưởng cả lãi từ cổ phần mà họ
mua. Các khoản vay từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hoá
tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các liên hiệp tín
dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản tiền gửi
thanh toán và có thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản
ngoài các khoản cho vay tiêu dùng.
2.3. Thị trường chứng khoán
2.3.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam:
- Ngày 28/7/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố
Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động và thực hiện phiên
giao dịch đầu tiên đánh đấu sự ra đời của thị trường chứng
khoán Việt Nam. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh
nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270
tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao
dịch.
- Đầu năm 2006 được coi là mốc thời gian mang tính chất phát
triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam
một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 29
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao
dịch Hà Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới
60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam
trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới.
Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng
"hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Trong giai đoạn 2007, luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày
01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và
tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc
tế.
- Giai đoạn 2008: cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, thị
trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt
giảm mạnh.
- Giai đoạn 2009 đến nay: thị trường chứng khoán Việt Nam hồi
phục chậm sau khủng hoảng.
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
- Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
- Các công ty chứng khoán
- Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính
quyền địa phương, các công ty cổ phần …
2.3.2. Thị trường chứng khoán Mỹ
Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan
trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng
tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị
trường chứng khoán khác.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 30
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Thị trường chứng khoán Mỹ được thành lập vào năm 1792 và
được hình thành hoàn chỉnh từ năm 1934 cho đến nay. Xét theo
tính chất tổ chức thị trường, thị thường chứng khoán Mỹ được
chia thành thị trường chứng khoán tập trung và thị trường
chứng khoán phi tập trung.
- Các thị trường chứng khoán tập trung bao gồm 14 sở giao dịch
chứng khoán trên khắp nước Mỹ. Sở giao dịch chứng khoán
Newyork (NYSE) là sở giao dịch chứng khoán lớn nhất và lâu
đời nhất nước Mỹ, đây hiện là trung tâm giao dịch chứng
khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch
chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường
chứng khoán quốc gia. Sở giao dịch chứng khoán Mỹ
(American Stock Exchange - AMEX) là thị trường chứng khoán
tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung của Mỹ cũng rất phát
triển, đó là Nasdaq. Thị trường OTC qua mạng máy tính
Nasdaq được thành lập từ năm 1971 là thị trường có số lượng
chứng khoán giao dịch lớn nhất ở Mỹ với 15000 chứng khoán.
Chứng khoán của các công ty thuộc ngành Công nghệ thông
tin, các công ty vừa và nhỏ chiếm đa số trên thị trường này.
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Mỹ:
- Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ (SEC)
- Các sở giao dịch chứng khoán
- Các công ty chứng khoán
- Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính
quyền địa phương, các công ty cổ phần …
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 31
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
2.3.3. Nhận xét:
Ta có thể nhận thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam
chỉ mới ra đời cách đây 12 năm và còn rất non trẻ so với thị
trường chứng khoán Mỹ. So sánh thị trường chứng khoán non
trẻ của Việt Nam với một thị trường lâu đời như Mỹ là khập
khiễng, nhưng thị trường Mỹ có một số điểm đáng để chúng ta
học tập.
- Thị trường chứng khoán Mỹ hoạt động liên tục từ 9 giờ sáng
đến 4 giờ chiều, nhưng luôn có rất nhiều người tham gia giao
dịch với khối lượng cả tỷ cổ phiếu mỗi ngày. Cơ quan quản lý
thị trường chứng khoán Mỹ đưa ra những quy định ngặt nghèo
từ niêm yết đến báo cáo, từ môi giới đến tự doanh, từ phương
thức giao dịch đến sử dụng tiền vay… Tất cả đều quy định
thành luật rõ ràng và các công ty chứng khoán hay ngân hàng
đầu tư có trách nhiệm thông báo những quy định đó cho khách
hàng của họ.
- Do thị trường chứng khoán tiềm ẩn rủi ro mất vốn rất cao,
nên đa số nhà đầu tư cá nhân đều ủy thác tài sản của họ cho
những tổ chức chuyên nghiệp kinh doanh và quản lý hộ, chứ
không tự đi kinh doanh như ở Việt Nam. Do đó, số lượng nhà
đầu tư cá nhân rất ít. Trong khi đó, các tổ chức môi giới hay
tư vấn đầu tư thường có uy tín, có đội ngũ nhân viên được đào
tạo bài bản, có kinh nghiệm thực tế và phong cách chuyên
nghiệp, không bao giờ trả lời cho khách hàng những vấn đề mà
họ không thông thạo.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 32
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Ngoài ra, các công ty chứng khoán bị ràng buộc với quy
định: đảm bảo an toàn tài sản và khả năng sinh tồn cho nhà đầu
tư trong trường hợp mất vốn. Có nghĩa là, nếu thu nhập của
bạn thấp, mà bạn dùng hết tiền của bạn đi đầu tư vào những
dạng đầu tư mang tính rủi cao sẽ không được chấp thuận. Đây
là điều mà các công ty chứng khoán Việt Nam không có trong
chính sách của họ, mà ngược lại, có công ty còn khuyến khích
khách hàng vay tiền để đầu tư, khi thị trường chứng khoán
tuột dốc thì chỉ việc giải chấp và thu hồi cả vốn lẫn lãi.
Thậm chí, có công ty còn tư vấn khách hàng mua cổ phiếu,
trong khi khối tự doanh của họ muốn bán ra cổ phiếu đó
2.3.4. Mối tương quan giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện
nay
Thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện nay chưa có liên
hệ chặt chẽ . Tuy nhiên, chúng cũng có sự biến động tương đối
giống nhau vì nhìn chung thị trường chứng khoán chịu ảnh hưởng
rất lớn của sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát
triển kéo theo sự phát triển của thị trường chứng khoán và
ngược lại khi nền kinh tế khủng hoảng ảnh hưởng nhiều tới thị
trường chứng khoán ….Vậy sự biến động của thị trường Việt Nam
và thị trường Mỹ tương đối giống nhau là một điều hiển nhiên.
Khi Việt Nam hòa nhập hơn vào kinh tế khu vực và thế giới, thị
trường chứng khoán Việt Nam sẽ thiết lập một mối liên hệ dài
hạn với những thị trường lớn như Mỹ và các thị trường khác
ngoài khu vực.
2.4. Thị trường bảo hiểm
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 33
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
2.4.1. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
Các công ty bảo hiểm: Đến năm 2011 có khoảng 57 công ty bảo
hiểm đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó có 2 doanh nghiệp
nhà nước, 24 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty bảo hiểm liên
doanh và 20 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trên thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
(Bảo Việt) chiếm thị phần chủ yếu. Trên thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ, ba doanh nghiệp có thị phần lớn nhất là Bảo
Việt, Prudential và AIA. Các công ty bảo hiểm hoạt động theo
Luật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài chính.
Quy mô thị trường: Tổng số thu phí bảo hiểm năm 2011 gần
36.325 tỷ đồng, tăng 18,4% so với năm trước trong đó bao hiểm
phi nhân thọ tăng 20,4% và bảo hiểm nhân thọ tăng 15%. Doanh
thu của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung đầu tư
vào trái phiếu và gửi tại các ngân hàng thương mại
2.4.2. Thị trường bảo hiểm Mỹ
Đến năm 2006 có khoảng 2.648 công ty bảo hiểm tài sản -
thương vong và 1.257 công ty bảo hiểm nhân thọ - y tế tại Mỹ,
trên thực tế, con số này có thể lớn hơn. Tổng tài sản của công
ty bảo hiểm tài sản - thương vong đạt 1.483tỷ $ trong năm
2006. Tài sản tiền mặt và vốn đầu tư là $ 1.229 tỷ $, các công
ty bảo hiểm nhân thọ - y tế có tổng tài sản là 4.723 tỷ $. Tài
sản tiền mặt và vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm lên tới
2874 tỷ $. Các công ty bảo hiểm tại Mỹ thường có qui mô rất
lớn, phát triển hệ thống trên khắp thế giới như AIA, Liberty
Mutual, ACE …
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 34
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
2.4.3. Nhận xét
Nếu so sánh, ta có thề thấy qui mô cũng như thi trường của
các công ty bảo hiểm Việt Nam trên toàn thế giới còn khoảng
cách xa so với các công ty bảo hiểm Mỹ. Đây là một thách thức
không nhỏ cho các công ty bảo hiểm trong nước khi thị trường
bảo hiểm Việt Nam thật sự mở cửa hoàn toàn. Việc cấp giấy
phép hoạt động cho các công ty bảo hiểm của Mỹ được thực hiện
theo Hiệp định Thương mại song phương (BTA), do chính phủ
Việt Nam và Mỹ phê chuẩn. Theo BTA, có hiệu lực từ tháng
12/2001, các công ty bảo hiểm của Mỹ có thể thành lập công ty
liên doanh với các công ty Việt Nam từ tháng 12/2004 và công
ty 100% vốn nước ngoài từ tháng 12/2006.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, nhiều công ty bảo hiểm
Mỹ đã dần thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Tập đoàn bảo
hiểm nhân thọ hàng đầu của Mỹ New York Life (thành lập năm
1845t, với trên 200 tỷ USD giá trị tài sản, doanh thu hàng
năm trên 25 tỷ USD, hiện có thị trường rộng lớn tại châu Mỹ và
châu á) đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội vào 4/2000, Tháng
12/2001, New York Life chính thức gửi hồ sơ xin thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ với 100% vốn nước ngoài lên Bộ
Tài chính. Đồng thời, hai công ty bảo hiểm khác của Mỹ là
American International Group (AIG) và AON Inchibrok đã
được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Mới đây, Việt Nam
cũng chính thức được cấp phép hoạt động cho Tập đoàn ACE và
Tập đoàn Marsh Inc., tập đoàn môi giới bảo hiểm lớn nhất thế
giới, với 100% vốn của Mỹ, với thời hạn hoạt động 50 năm…
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 35
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Về triển vọng, quan hệ hợp tác kinh tế - bảo hiểm và những
ngành khác như ngân hàng, tài chính nói riêng và các quan hệ
song phương toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung chắc chắn
sẽ có những phát triển mạnh mẽ hơn cả bề rộng, lẫn bề sâu.
3. Một số loại hình tổ chức tài chính khác
3.1. Quỹ lương hưu.
Hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất
lớn đó là bảo hiểm xã hội Việt Nam. Phần thặng dư của Bảo hiểm
xã hội Việt Nam chủ yếu chuyển sang Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Một báo cáo gần đây cho biết, suy thoái kinh tế, khủng hoảng
của thị trường tài chính,chứng khoán thu hẹp tín dụng đã
khiến quỹ lương hưu của các công ty hàng đầu nước Mỹ bị thiệt
hại tới 280 tỷ đôla. Theo thống kế của Merce, hãng chuyên tư
vấn nhân lực, kể từ cuộc khủng hoảng tín dụng vào mùa thu năm
2007, quỹ lương hưu của 1.500 công ty hợp thành bộ chỉ số
Standard & Poor 1.500 (là tổng hợp của S&P 500, SP 600 và S&P
400), đã tổn thất 280 tỷ đôla.
3.2. Tiết kiệm bưu điện
Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm
nhỏ lẻ dựa trên hệ thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu
chính Viễn thông Việt Nam. Tổng số vốn Tiết kiệm bưu điện huy
động được gần 30.000 tỷ đồng. Phần huy động này chủ yếu
chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát triển.
Năm 1911, hệ thống tiết kiệm Bưu điện Mỹ được thành lập mang
tới cho người dân Mỹ nơi gửi tiền tiết kiệm và chuyển tiền an
toàn và hiệu quả. Tiền tiết kiệm tại hệ thống lên tới 1,2 tỷ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 36
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
USD những năm 1930, tiếp tục tăng trong Thế chiến 2, đạt đỉnh
năm 1947 với gần 3,4 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 1967 hệ thống bị
đóng cửa vì bị coi là không cần thiết sau khi các ngân hàng tư
nhân tăng lãi suất và cung cấp dịch vụ bảo đảm như hệ thống
tiết kiệm bưu điện. Ngày nay, đối mặt với khủng hoảng tài
chính, USPS có thể nhìn vào tấm gương của các ngân hàng bưu
chính kiểu mẫu như Kiwi Bank và Japan Post Bank để tìm ra
đường sống chính từ hệ thống mình từng loại bỏ.
3.3. Quỹ hỗ trợ và phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước (tín dụng chỉ định) cho các dự án. Quỹ này
trực thuộc Bộ tài chính. Các quỹ đầu tư phát triển địa phương
trực thuộc các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Các quỹ này có
nhiệm vụ cho vay các dự án theo định hướng phát triển của từng
địa phương. Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển
của các địa phương hoạt động không chịu sự chi phối của Luật
các tổ chức tín dụng và không chịu sự giám sát của Ngân hàng
Nhà nước.
Tại Mỹ, các quỹ đầu tư chứng khoán đã có được một lịch sử
hoạt động khá lâu đời. Hình thức tín thác đầu tư (đơn vị tín
thác đầu tư UITs) là hình thức ban đầu của các quỹ đầu tư chứng
khoán tại Mỹ. Sau sự kiện TTCK sụp đổ vào năm 1929, quỹ công ty
xuất hiện và được biết đến với tên gọi là các công ty quản lý
(Management Company). Đây thực chất là một loại quỹ đầu tư
chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty đầu tư dạng mở
(quỹ tương hỗ) và công ty đầu tư dạng đóng. Theo quy định của
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 37
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Mỹ, tất cả các quỹ đầu tư chứng khoán cho dù là một công ty
quản lý hay là một quỹ tín thác đều phải lập Hội đồng quản trị
và ít nhất 40% thành viên trong hội đồng phải là các thành
viên độc lập không liên quan tới công ty quản lý quỹ.
III. CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
1. Thị trường tiền tệ
1.1. Tín phiếu kho bạc
1.1.1. Tín phiếu kho bạc Việt Nam
Tín phiếu kho bạc: là loại giấy nợ do chính phủ phát hành
có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân
sách Nhà nước và là một công cụ trong những công cụ quan
trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ.
(tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành).
Tín phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng
hay 9 tháng với một hay nhiều mức mệnh giá. Tín phiếu kho bạc
thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản).
1.1.2. Tín phiếu kho bạc Mỹ
Tín phiếu Kho bạc Mỹ miễn các loại thuế cho tiểu bang và
địa phương. Những chứng khoán không phải trả một lãi suất
quan tâm và lợi ích thu được ước tính bằng cách lấy sự khác
biệt giữa giá thanh toán và mệnh giá trái phiếu, và tính rằng
tỷ lệ lợi nhuận trên cơ sở hàng năm. Tín phiếu kho bạc được
coi là những chứng khoán an toàn nhất cho nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Tín phiếu kho bạc được phát hành bởi chính phủ Mỹ. Có ba
loại kỳ hạn: 90, 180, và 360 ngày. Hai loại ngắn hơn được bán
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 38
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
đấu giá trên cơ sở hàng tuần, trong khi các loại hàng năm
được bán đấu giá hàng tháng. Tín phiếu kho bạc có thể được
mua trực tiếp thông qua đấu giá hoặc gián tiếp thông qua thị
trường thứ cấp.
1.1.3. Nhận xét
Giống nhau: t ín phiếu kho bạc đều do chính phủ phát hành
Khác nhau: tín phiếu kho bạc Hoa Kỳ có thể được mua trực
tiếp, gián tiếp thông qua bán đấu giá.
1.2. Chứng chỉ tiền gửi
1.2.1. Chứng chỉ tiền gửi ở Việt Nam: là một loại giấy tờ có giá do các
ngân hàng phát hành có thời hạn trên một năm với những đặc
điểm tương tự như trái phiếu. Loại hình giấy tờ có giá do
ngân hàng thương mại phát hành có thời hạn dưới một năm
được gọi là kì phiếu.
1.2.2. Chứng chỉ tiền gửi ở Mỹ (CD):
L à một tiền gửi có kỳ hạn, một sản phẩm tài chính thường
được cung cấp cho người tiêu dùng tại Hoa Kỳ bởi các ngân
hàng, tổ chức tiết kiệm, và các công đoàn tín dụng.
CD tương tự như tài khoản tiết kiệm ở chỗ chúng được bảo
hiểm và do đó hầu như rủi ro tự do, họ là "tiền trong ngân
hàng". CD được bảo hiểm bởi Công ty Cổ phần Bảo hiểm tiền gửi
liên bang (FDIC).
1.2.3. Nhận xét: CD được bảo hiểm bởi Công ty Cổ phần Bảo hiểm tiền
gửi liên bang (FDIC) cho các ngân hàng và tín dụng quốc
gia Liên minh Quản trị (NCUA) cho công đoàn tín dụng.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 39
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1.3. Thương phiếu
1.3.1. Thương phiếu Việt Nam:
Thương phiếu: là những phiếu hứa trả của các doanh nghiệp
lớn và được bán cho doanh nghiệp khác, các công ty bảo hiểm,
quỹ bảo hiểm xã hội hay ngân hàng. Mặc dù giá trị thương
phiếu lưu hành nhỏ hơn 5% giá trị vay nợ ngân hàng, nhưng
hình thức trả nợ này rất quan trọng đối với một số ngành kinh
doanh.
Hối phiếu có chính phủ chấp nhận: hiện loại hình này thực
hiện trong các giao dịch ngoại thương.
1.3.2. Thương phiếu Mỹ
Thương phiếu đề cập đến kỳ phiếu ngắn hạn không có bảo đảm
được ban hành bởi các tập đoàn tài chính và phi tài chính.
Thương phiếu có kỳ hạn lên đến 270 ngày (tối đa cho phép mà
không có yêu cầu SEC đăng ký). Khối lượng dollar thương
phiếu vượt quá số tiền của bất kỳ công cụ thị trường tiền tệ
khác. Nó thường được ban hành bởi các tập đoàn lớn, tín dụng
với các đường dây không sử dụng tín dụng ngân hàng và do đó
mang nguy cơ mặc định thấp.
Không giống như một số loại khác của các công cụ thị trường
tiền, trong đó các ngân hàng đóng vai trò là người trung gian
giữa người mua và người bán, thương phiếu được phát hành
trực tiếp bởi các công ty, cũng như của các tổ chức tài
chính. Ngân hàng có thể hoạt động như đại lý giao dịch, nhưng
họ cho rằng không có vị trí gốc và không có cách nào có nghĩa
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 40
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
vụ hoàn trả thương phiếu. Các công ty cũng có thể bán thương
phiếu thông qua các đại lý, có thu phí và sắp xếp cho việc
chuyển giao các quỹ từ người cho vay cho khách hàng vay.
1.3.3. Nhận xét: Hoạt động thương phiếu Hoa Kỳ có ngân hàng nhà
nước làm trung gian giữa ngươi mua và người bán. Ngân
hàng có thể hoạt động như đại lý giao dịch. Các công ty
cũng có thể bán thương phiếu thông qua các đại lý, người
có thu phí và sắp xếp cho việc chuyển giao các quỹ từ
người cho vay cho khách hàng vay.
1.4. Vay liên ngân hàng
1.4.1. Việt Nam: là loại hình giao dịch rất phổ biến giữa các ngân
hàng thương mại với nhau. Các loại hình cho vay phổ biến
gồm: cho vay qua đêm, cho vay kì hạn 3 tháng, 6 tháng.
1.4.2. Mỹ
L à một thị trường trong đó các ngân hàng mở rộng cho vay
với nhau cho một thời hạn quy định. Hầu hết các khoản vay
liên ngân hàng kỳ hạn một tuần hoặc ít hơn, phần lớn là qua
đêm. Khoản vay được thực hiện theo tỷ giá liên ngân hàng (còn
gọi là lãi suất qua đêm nếu thời hạn của khoản vay là qua
đêm).
Ngân hàng được yêu cầu phải tổ chức một số lượng đầy đủ tài
sản lỏng, chẳng hạn như tiền mặt, quản lý chạy bất kỳ ngân
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 41
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
hàng tiềm năng của khách hàng. Nếu một ngân hàng không thể
đáp ứng các yêu cầu thanh khoản, nó sẽ cần phải vay tiền trên
thị trường liên ngân hàng để bù đắp sự thiếu hụt. Một số ngân
hàng, mặt khác, có tài sản dư thừa chất lỏng ở trên và vượt ra
ngoài các yêu cầu thanh khoản. Các ngân hàng sẽ cho vay tiền
trên thị trường liên ngân hàng, nhận được sự quan tâm về tài
sản.
Thị trường cho vay liên ngân hàng đề cập đến các tập hợp
con của ngân hàng giao dịch ngân hàng diễn ra trong thị
trường tiền tệ.
Chúng thường được phát hành trong đơn vị ít nhất một triệu
người và có xu hướng có kỳ hạn ba tháng hoặc ít hơn. Kể từ khi
thị trường thứ cấp hoạt động tồn tại cho gần như tất cả các
công cụ thị trường tiền tệ, nhà đầu tư có thể bán cổ phần của
họ trước khi đến ngày đáo hạn. Thị trường tiền tệ là một
over-the-counter (OTC) thị trường.
Các ngân hàng là những cầu thủ quan trọng trong một vài
phân đoạn của thị trường tiền tệ. Để đáp ứng yêu cầu dự trữ và
quản lý nhu cầu thanh khoản ngày ngày, các ngân hàng mua và
bán các khoản vay ngắn hạn trong thị trường ngân sách liên
bang. Đối với các khoản vay đáo hạn dài hơn, các ngân hàng có
thể khai thác thị trường đồng đô la.
1.5. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 42
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1.5.1. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán ở Việt Nam
Là giao dịch mua/bán lại chứng khoán có kỳ hạn được sử dụng
trên thị trường tài chính.
Đây là loại hình giao dịch mà nhà đầu tư có thể mua và bán
chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu…) của chính mình trong
một khoảng thời gian thỏa thuận nhất định với công ty chứng
khoán. Hiểu một cách đơn giản, hợp đồng mua /bán lại chứng
khoán là việc nhà đầu tư đi vay tiền và dùng chứng khoán để
thế chấp.
Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán là nghiệp vụ phái sinh từ
các nghiệp vụ cho vay có đảm bảo (hay nghiệp vụ cho vay cầm cố
giấy tờ có giá, cho vay có bảo đảm bằng chứng khoán). Khi nhà
đầu tư có nhu cầu về vốn trong thời gian nhất định, mà không
muốn bán chứng khoán của mình, nhà đầu tư có thể ký hợp đồng
mua bán có kỳ hạn với công ty chứng khoán, trong đó cam kết sẽ
mua lại số lượng chứng khoán đã bán này từ công ty chứng
khoán tại thời điểm xác định trong tương lai, với mức giá xác
định trước tại thời điểm bán.
Hiện nay, ở Việt Nam, hợp đồng mua lại chứng khoán là
nghiệp vụ do công ty chứng khoán đưa ra để mua có kỳ hạn các
loại cổ phiếu chưa niêm yết, chưa lên sàn, với các cổ phiếu
đã niêm yết thì có dịch vụ cầm cố.
1.5.2. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán ở Mỹ: được mua từ một đại lý
với thỏa thuận rằng họ sẽ được bán trở lại vào một ngày
trong tương lai với một mức giá cao hơn. Các thỏa thuận
này là chất lỏng của tất cả các khoản đầu tư thị trường
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 43
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
tiền tệ, khác nhau, từ 24 giờ đến vài tháng. Trong thực
tế, tương tự như tài khoản tiền gửi ngân hàng, nhiều công
ty sắp xếp cho các ngân hàng để chuyển tiền mặt dư thừa
cho các quỹ như vậy tự động.
1.5.3. Nhận xét: Thị trường tài chính Việt Nam mới chỉ bắt đầu
hoạt động qua thị trường thứ cấp, trong khi đó Hoa Kỳ phát
triển rất mạnh trong thị trường này.
1.6. Euro-dollars: là nợ phải trả bằng đô la tiền gửi của các ngân
hàng nằm bên ngoài Hoa Kỳ (hoặc các thiết bị ngân hàng
quốc tế tại Hoa Kỳ). Các ngân hàng Mỹ có thể huy động vốn
trên thị trường đồng đô la thông qua chi nhánh ở nước
ngoài và các công ty con của họ. Một lựa chọn thứ hai là
phát hành giấy chứng nhận thương lượng lớn tiền gửi
(CDs). Đây là chứng chỉ do các ngân hàng trong đó nêu một
số quy định của tiền đã được gửi cho một khoảng thời gian
và sẽ được mua lại với lãi suất khi đáo hạn. Thỏa thuận
mua lại (repos) là một nguồn tài trợ. Các Repos và Repos
đảo ngược giao dịch trong đó người vay đồng ý bán chứng
khoán với bên cho vay và sau đó mua lại chứng khoán giống
nhau hoặc tương tự sau một thời gian xác định, ở một mức
giá nhất định, và bao gồm cả lãi suất tại một tỷ lệ đã thỏa
thuận. Repos được thế chấp hoặc bảo đảm khoản vay bằng
trái ngược với các quỹ liên bang cho vay là không có bảo
đảm.
2. Thị trường vốn
2.1. Trái phiếu
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 44
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
2.1.1. Việt Nam
Trái phiếu : là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát
hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản
tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian
xác định và với một lợi tức quy định. Người mua trái phiếu,
hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính
phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường
hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái
phiếu vô danh)
Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu
bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người
vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam
kết nợ được xác định trong hợp đồng vay.
2.1.2. Mỹ
Trái phiếu (còn được gọi là tín dụng, thị trường thu nhập
cố định) là một thị trường tài chính tham gia có thể phát
hành trái phiếu mới, được gọi là thị trường sơ cấp , hoặc mua
và bán chứng khoán nợ , được biết đến là thị trường thứ cấp ,
thường là trong các hình thức trái phiếu.
2.2. Trái phiếu Chính phủ
2.2.1. Việt Nam: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ
phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân
và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là
Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái
phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 45
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
nhất, trái phiếu Chính phủ thường được phát hành theo
phương pháp đấu thầu.
2.2.2. Mỹ: thường được gọi là trái phiếu rủi ro , bởi vì chính phủ
có thể tăng thuế hoặc tạo ra các tiền tệ khác để mua lại
các trái phiếu đến hạn ở Mỹ, chứng khoán kho bạc được bằng
đô la Mỹ . Trong trường hợp này, thuật ngữ "rủi ro" có
nghĩa là rủi ro tín dụng . Tuy nhiên, rủi ro vẫn còn tồn
tại, chẳng hạn như rủi ro tiền tệ cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Thứ hai, là nguy cơ lạm phát , trong đó chủ yếu
thanh toán vào ngày đáo hạn sẽ có sức mua thấp hơn dự đoán
nếu tỉ lệ lạm phát cao hơn dự kiến.
2.2.3. Nhận xét: Thị trường trái phiếu chính phủ mỹ có rủi ro tín
dụng cao, rủi ro tiền tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài,
nguy cơ lạm phát , trong đó chủ yếu thanh toán vào ngày
đáo hạn sẽ có sức mua thấp hơn dự đoán nếu tỉ lệ lạm phát
cao hơn dự kiến.
2.3. Trái phiếu của doanh nghiệp
2.3.1. Việt Nam
Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn
hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa
dạng. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, ngoài qui định phải
có mức vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ trở lên và hoạt động kinh
doanh của năm liền trước phải có lãi, đồng thời không có lỗ
luỹ kế như với phát hành cổ phiếu, công ty muốn chào bán trái
phiếu ra công chúng còn phải đảm bảo không có các khoản nợ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 46
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
phải trả quá hạn trên một năm. Thêm vào đó, công ty phải có
thời gian hoạt động từ 1 năm trở lên và báo cáo tài chính của
năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đảm bảo
tính minh bạch và công khai về thông tin cho các nhà đầu tư.
Qui trình phát hành trái phiếu phổ biến nhất được tiến
hành thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Trong nghiệp vụ
này, một hay nhiều công ty chứng khoán hoặc ngân hàng tập hợp
với nhau thành các nhóm bảo lãnh phát hành, đứng ra mua lại
toàn bộ trái phiếu phát hành từ người phát hành rồi bán lại
cho nhà đầu tư.
Trái phiếu đô thị: là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ
một năm trở lên, do chính quyền địa phương ủy quyền cho kho
bạc hoặc các pháp nhân do chính quyền địa phương lập ra, phát
hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công
trình mang tính công cộng như đường xá, bến cảng, trường
học, bệnh viện,…Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy
phát hành trái phiếu đô thị được xem là lựa chọn hiệu quả
trong huy động vốn cho đầu tư.
Thị trường trái phiếu đô thị hình thành và phát triển dựa
trên những điều kiện cơ sở là: thị trường tài chính phát
triển; cơ chế quản lý tài chính nhà nước được thực hiện theo
hướng phi tập trung hóa, có sự chuyển giao quyền lực phân cấp
đầu tư và vay nợ của chính quyền trung ương cho chính quyền
địa phương.
2.3.2. Mỹ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 47
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Trái phiếu đô thị là một trái phiếu do một thành phố Mỹ
hoặc chính quyền địa phương, hoặc cơ quan của họ. Khả năng
của tổ chức phát hành trái phiếu, thành phố trực thuộc Trung
ương bao gồm các thành phố, quận, cơ quan tái phát triển, các
huyện mục đích đặc biệt , khu vực trường học , quận, tiện ích
công cộng, công khai sở hữu sân bay và cảng biển, và bất kỳ tổ
chức khác của chính phủ (hoặc nhóm của các chính phủ) dưới
mức nhà nước. Trái phiếu đô thị có thể là nghĩa vụ chung của
tổ chức phát hành hoặc bảo đảm bằng các khoản thu quy định.
Trái phiếu đô thị là chứng khoán được phát hành cho mục
đích tài trợ cho nhu cầu cơ sở hạ tầng của thành phố phát
hành. Những nhu cầu này khác nhau rất nhiều nhưng có thể bao
gồm trường học, đường phố và đường cao tốc, cầu, bệnh viện,
nhà ở công cộng, thoát nước và hệ thống nước, các tiện ích
điện, và các dự án công cộng khác nhau.
Một trong những lý do chính trái phiếu thành phố trực
thuộc Trung ương đang xem xét một cách riêng biệt từ các loại
trái phiếu khác là khả năng đặc biệt của họ để cung cấp thu
nhập được miễn thuế. Lãi vay đã trả bởi các công ty phát hành
cho chủ sở hữu trái phiếu thường được miễn tất cả các loại
thuế liên bang, cũng như thuế tiểu bang hoặc địa phương tùy
thuộc vào nhà nước mà trong đó người phát hành, hạn chế nhất
định. Trái phiếu phát hành cho các mục đích nhất định chịu
thuế tối thiểu thay thế.
Các loại dự án, dự án được tài trợ bởi một trái phiếu ảnh
hưởng đến tính cách có thể đánh thuế được thu nhập nhận được
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 48
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
trên các trái phiếu được tổ chức do chủ sở hữu trái phiếu.
Lãi thu nhập trên trái phiếu là các dự án quỹ được xây dựng vì
lợi ích chung là thường được miễn thuế thu nhập liên bang,
trong khi thu nhập lãi suất trái phiếu phát hành để tài trợ
cho các dự án một phần hoặc toàn bộ lợi ích các bên tư nhân,
đôi khi được gọi là trái phiếu hoạt động tư nhân , có thể bị
thuế thu nhập liên bang. Tuy nhiên, trái phiếu đủ điều kiện
hoạt động tư nhân, cho dù là do một đơn vị của Chính phủ hoặc
tổ chức tư nhân, được miễn các loại thuế liên bang bởi vì
trái phiếu là các dịch vụ tài chính hoặc các cơ sở, trong khi
cuộc họp kiểm tra hoạt động tư nhân, là cần thiết bởi một
chính phủ.
2.4. Trái phiểu chuyển đổi
2.4.1. Việt Nam
Tính hấp dẫn của nó là ở chỗ nó cho phép nhà đầu tư chyển
đổi sang cổ phiếu thường vào một thời điểm nhất định trong
tương lai. Do kì vọng này mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một
mức lãi suất rất thấp, giúp các công ty phát hành nhanh chóng
huy động được một số vốn lớn với chi phí tài chính dễ chịu.
Trái phiếu thường không được mua bán trên các sàn giao
dịch tập trung mà chủ yếu qua thị trường OTC. Khi mua bán
trái phiếu, nhà đầu tư thường không phải trả hoa hồng cho
người môi giới như với cổ phiếu. Thay vào đó, người môi giới
trái phiếu được hưởng phần chênh lệch giá bán/mua. Trái
phiếu có thể do Chính phủ, các tổ chức tín dụng, các công ty
hay tổ chức siêu quốc gia phát hành trên thị trường sơ cấp.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 49
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Để tăng mức độ hấp dẫn của trái phiếu hoặc vì một mục đích
nào đó trái phiếu hay được phát hành kèm với một số quyền
khác. Khi kết hợp với một hợp đồng quyền chọn (mua hoặc bán)
nó trở thành loại trái phiếu có khả năng yêu cầu thanh toán
trước hạn. Yêu cầu thanh toán trước hạn có thể thuộc về người
phát hành trái phiếu nếu đó là một trái phiếu có thể mua lại
hoặc thuộc về người sở hữu trái phiếu nếu đó làm trái phiếu
có khả năng bán lại.
Trái phiếu được coi là một tài sản tài chính có mức độ an
toàn cao. Rủi ro chủ yếu mà người nắm giữ trái phiếu phải
chịu là về mặt lãi suất. giá cả phụ thuộc khá nhiều vào độ tin
cậy tín dụng của người phát hành. Tính thanh khoản của trái
phiếu phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của nhà phát hành.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào
công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần
phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc
một số cổ phần của công ty đó.
Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là
chủ sở hữu của công ty phát hành.
Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như chuẩn chung của thế giới,
qui định về phát hành trái phiếu cũng chặt chẽ hơn phát hành
cổ phiếu.
2.4.2. Mỹ
L à một loại trái phiếu mà người đó có thể chuyển đổi thành
cổ phần của cổ phiếu phổ thông trong các công ty phát hành
hoặc tiền mặt có giá trị như nhau, một mức giá đã thỏa thuận.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 50
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Mặc dù nó thường có một phiếu giảm giá tỷ lệ thấp hơn so với
nợ không chuyển đổi tương tự, dụng cụ mang giá trị gia tăng
thông qua các tùy chọn để chuyển đổi trái phiếu chứng khoán,
và do đó tham gia vào sự tăng trưởng hơn nữa trong giá trị vốn
cổ phần của công ty. Các nhà đầu tư nhận được xu hướng tăng
giá tiềm năng của chuyển đổi vốn chủ sở hữu trong khi bảo vệ
nhược điểm với dòng tiền từ các khoản thanh toán phiếu giảm
giá và trở về gốc khi đến hạn.
Từ quan điểm của tổ chức phát hành, lợi ích quan trọng của
việc nâng cao tiền bằng cách bán trái phiếu chuyển đổi là
giảm lãi suất thanh toán bằng tiền mặt . Lợi thế cho các công
ty phát hành trái phiếu chuyển đổi, nếu trái phiếu được
chuyển đổi thành cổ phiếu, công ty nợ biến mất. Tuy nhiên,
trong trao đổi vì lợi ích của giảm lãi suất các khoản thanh
toán, giá trị của vốn chủ sở hữu của cổ đông giảm do pha loãng
cổ phiếu dự kiến khi sở hữu trái phiếu chuyển đổi của trái
phiếu mới cổ phần .
Một thị trường cổ phiếu hoặc thị trường chứng khoán là một
thực thể công cộng (một mạng lưới lỏng lẻo của các giao dịch
kinh tế, không phải một cơ sở vật lý hoặc thực thể rời rạc)
cho kinh doanh của công ty chứng khoán (cổ phiếu) và các dẫn
xuất với một mức giá đã thoả thuận, đây là những chứng khoán
được liệt kê trên thị trường chứng khoán cũng như những
người chỉ giao dịch tư nhân.
Tham gia thị trường bao gồm các nhà đầu tư cá nhân bán lẻ,
nhà đầu tư tổ chức như các quỹ tương hỗ, các ngân hàng, các
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 51
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
công ty bảo hiểm và các quỹ phòng hộ, và Tổng công ty cũng
công khai giao dịch kinh doanh cổ phiếu của chính mình. Một
số nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư tổ chức và các tập đoàn kinh
doanh cổ phiếu của chính mình thường nhận được cao hơn nguy
cơ điều chỉnh lợi nhuận hơn so với các nhà đầu tư bán lẻ
Các thị trường chứng khoán là một trong những nguồn quan
trọng nhất cho các công ty nâng cao tiền. Điều này cho phép
doanh nghiệp được giao dịch công khai, hoặc tăng thêm vốn
tài chính cho việc mở rộng bằng cách bán cổ phần của quyền sở
hữu của công ty trong một thị trường công cộng. Các thanh
khoản trao đổi dành cho các nhà đầu tư cung cấp cho họ khả
năng để nhanh chóng và dễ dàng bán chứng khoán. Đây là một
tính năng hấp dẫn của đầu tư vào cổ phiếu, so với khoản đầu tư
khác ít chất lỏng như bất động sản . Một số công ty chủ động
tăng tính thanh khoản bằng cách kinh doanh cổ phiếu của
chính mình.
Lịch sử đã chỉ ra rằng giá của cổ phiếu và tài sản khác là
một phần quan trọng của sự năng động của hoạt động kinh tế,
và có thể ảnh hưởng hoặc là một chỉ báo về tâm trạng xã hội.
Một nền kinh tế thị trường chứng khoán đang tăng lên được coi
là một nền kinh tế lên và sắp tới. Trong thực tế, thị trường
chứng khoán thường được coi là chỉ số chính của sức mạnh phát
triển kinh tế của một quốc gia.
Trao đổi cũng hoạt động như các trung tâm thông tin cho mỗi
giao dịch, có nghĩa là họ thu thập và cung cấp các cổ phiếu,
và đảm bảo thanh toán cho người bán bảo mật.Điều này giúp
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 52
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
loại bỏ nguy cơ cho một người mua cá nhân hoặc người bán mà
các đối tác có thể mặc định trên giao dịch.
IV. CƠ SỞ HẠ TẦNG TÀI CHÍNH
CSHT tài chính là tập hợp của các tổ chức cho phép hoạt động
có hiệu quả của các trung gian tài chính. Nó bao gồm các yếu tố
như hệ thống thanh toán, văn phòng thông tin tín dụng và đăng ký
tài sản thế chấp. Nói rộng hơn, CSHT tài chính là khuôn khổ các
luật lệ và hệ thống làm nền tảng để các bên (tiết kiệm – cho vay;
đi vay – đầu tư ) lập kế hoạch, đàm phán và thực hiện các giao
dịch tài chính.
CSHT tài chính giữ một vai trò rất quan trọng trong việc phát
triển và ổn định nền kinh tế của một nước. Nó cung cấp một cơ chế
hiệu quả để đánh giá rủi ro, lợi nhuận đầu tư, giúp quản lý phân
bổ rủi ro và phân bổ nguồn lực trên toàn nền kinh tế. Các văn
phòng tín dụng giúp cung cấp các thông tin cần thiết với độ chính
xác cao và phân tích rủi ro kịp thời, đặc biệt là đối với tín dụng
tiêu dùng. Bên cạnh đó, hệ thống tài sản thế chấp cung cấp thông
tin để cảnh báo đến người cho vay về sự tồn tại tiềm năng của lãi
suất ưu tiên trong tài sản thế chấp và cung cấp cho các chủ nợ đã
đăng ký bảo đảm sự ưu tiên của họ trong tài sản thế chấp, làm giảm
rủi ro cho người cho vay và tạo điều kiện thuận lợi trong việc
tiếp cận tín dụng. Ngoài ra, hệ thống thanh toán, chuyển tiền và
chứng khoán tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
và chuyển giao quỹ an toàn vượt qua khoảng cách giữa các tổ chức.
Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng tài chính của mỗi nước là không giống
nhau.Thông qua 4 thành phần chính của CSHT là: hệ thống luật pháp
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 53
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
và quản lý của nhà nước; nguồn lực và thông lệ giám sát; cung cấp thông tin
và hệ thống thanh toán, chúng ta hãy thử làm một vài nhận xét sơ bộ
về CSHT tài chính của Việt Nam và Mỹ.
1. Hệ thống luật pháp và quản lý của Nhà nước
Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và điều kiện thực
tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là tương
đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật
Ngân sách nhà nước, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức
tín dụng, Luật bảo hiểm. Dự kiến năm 2006 Luật chứng khoán sẽ
ra đời (hiện tại văn bản cao nhất quy định về tổ chức và hoạt
động của thị trường chứng khoán là Nghị định của chính phủ).
Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và thống
nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng
không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự
giám sát của Ngân hàng nhà nước như Quỹ Hỗ trợ phát triển và
các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ
trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của ngân hàng thương
mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
Nhìn chung hệ thống luật pháp của Mỹ là khá chặt chẽ, đầy đủ
và ổn định với vô số các bộ Luật về tài chính. Điều này đã giúp
cho hệ thống tài chính Mỹ hoạt động một cách liên tục và hiệu
quả
2. Nguồn lực và thông lệ giám sát
Thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai thập kỷ cải cách
tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 54
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
rủi ro không thể xem thường trong khi công tác giám sát vĩ mô
thị trường tài chính hiện còn không ít bất cập. Trên thực tế,
việc giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ
phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính chưa
hoàn thiện, nhất là giám sát dựa trên rủi ro. Giám sát rủi ro
chéo với các thị trường tài sản như bất động sản, chứng khoán
còn lỏng lẻo do thiếu sự phối hợp, liên thông trong giám sát
toàn bộ thị trường tài chính giữa các cơ quan giám sát chuyên
ngành. Do đó, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống giám sát tài
chính hợp nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết, trong đó
nhiệm vụ đầu tiên là cần xây dựng một bộ chỉ tiêu phục vụ cho
việc giám sát hợp nhất thị trường tài chính dựa trên các tiêu
chí giám sát tài chính hiện đại đang được nhiều nước trên thế
giới áp dụng. Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ giám
sát chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành
mạnh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Cơ chế giám sát thực thi hệ thống tài chính của Mỹ tương đối
chặt chẽ và thông minh. Nước này đã áp dụng, theo dõi và giám
sát triệt để các tiêu chí giám sát tài chính như các chỉ tiêu
an toàn vĩ mô, vi mô; chỉ tiêu thị trường chứng khoán, chỉ tiêu
giám sát các định chế kinh doanh chứng khoán, chỉ tiêu giám
sát các định chế bảo hiểm, các chỉ tiêu dự báo khủng hoảng tài
chính…Chính những điều này đã giúp cho hệ thống tài chính Mỹ
ngày một phát triển bền vững
3. Cung cấp thông tin
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 55
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói
chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các
quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ
một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông
tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tín cậy. Hiện
trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy nhiên để trở thành một tổ
chức có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải làm.
Các tổ chức thông tin tín dụng ở Mỹ như Equifax, Experian,
TransUnion đang ngày một phát triển và hoạt động hiệu quả
4. Hệ thống thanh toán
Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử
dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay,
các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây
dựng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân
hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh
toán của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi tất cả các ngân hàng
xây dựng xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán của hệ
thống tài chính Việt Nam là đảm bảo.
Hệ thống thanh toán ở Mỹ rất đa dạng. Hầu hết các tổ chức tài
chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mai đều áp dụng hệ
thống thanh toán tập trung. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng
ở Mỹ phát triển khá rầm rộ. Mới đây, hệ thống thanh toán của Mỹ
đã hợp tác với ControlScan (một nhà cung cấp hàng đầu của
ngành công nghiệp thẻ thanh toán PCI) để tập trung chủ yếu vào
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 56
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
khách hàng là những thương gia với những tiện ích đặc sắc và độ
bảo mật cao khi họ sử dụng hệ thống thanh toán này
C. PHẦN KẾT LUẬN
Từ việc so sánh hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam, chúng ta
rút ra kết luận: hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng vì
tạo ra các kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến người thiếu
vốn, cung cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính
lỏng, thông tin các giao dịch tài chính nên Chính phủ nên sớm có
một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 57
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
pháp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ. Xây dựng hệ thống ngân
hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng và đa dạng các hình thức
huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính
nhằm khai thông vốn trong nước, thu hút tư bản nước ngoài để đáp
ứng vốn và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó,
Chính phủ cần có biện pháp mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan,
chính sách ưu đãi tín dụng,…để nâng cao chất lượng tín dụng. Khi
định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là hệ thống ngân
hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc
tự do hóa thị trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư
bản ngắn hạn ồ ạt gây ra bất ổn trong thị trường tài chính. Cần có
sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng,
mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với
những mặt hàng, ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu.
Cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh
nguy cơ thất thoát vốn. Sự can thiệp của Chính Phủ nên mang tính
linh động
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 58
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Nhập môn tài chính – tiền tệ, Nxb Lao động xã hội – năm2008.
2. Các bài báo trong www.vneconomy.com.vn
3. Các bài báo trong www.vnexpress.net
4. Các bài nghiên cứu và số liệu trong website của NHNNVN
5. Các bài viết của TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Th.s. Nguyễn Lĩnh Nam, Th.s. Vũ Thị Ngọc Liên thuộc NHNN
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH
1. Frederic S. Mishklin, The Economics of money,
banking and financial markets
2. www.bis.org
3. www.imf.org
4. www.federalreserve.gov
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 59