Luận văn tốt nghiệp duy tân
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
3 -
download
0
Transcript of Luận văn tốt nghiệp duy tân
Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động cho vay trung và dài hạn
Ngân hàng
1.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và chức năng của Ngân hàng Thương
mại.
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng thương mại ( NHTM ) là một trong các ngành
công nghiệp ra đời sớm nhất. Ở Mỹ Ngân hàng thương mại đầu
tiên được thành lập vào năm 1782, trước Hiến pháp liên bang
được thông qua và nhiều Ngân hàng thương mại được thành lập
từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động. Ở mỗi một
nước, luật Ngân hàng thương mại có quy định khác nhau, người
ta thường dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của Ngân
hàng trên thị trường tài chính để đưa ra cách hiểu về Ngân
hàng thương mại.
Ở Pháp, theo luật ngân hàng năm 1941 thì được coi là
Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình
thức khác, các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp
vụ chứng khoán, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Hay như ở Ấn
Độ, luật ngân hàng năm 1950 và được bổ sung năm 1959 đã nêu:
“Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay,
tài trợ, đàu tư “. Và theo luật Ngân hàng của Đan Mạch năm
1930 định nghĩa : “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp
vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương
mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối
phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo
hiểm…”. Để hiểu về Ngân hàng thương mại thì có rất nhiều
định nghĩa khác nhau, nhưng ta thấy rằng các ngân hàng
thương mại không phải là các trung gian tài chính duy nhất
và để hiểu được các Ngân hàng thương mại là như thế nào và
để phân biệt các Ngân hàng thương mại với các trung gian tài
chính khác như : các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…gọi
chung là các tổ chức phi ngân hàng thì cần phải dựa trên
tính chất cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là : Ngân hàng
thương mại là nơi nhận tiền gửi kí thác, tiền ký gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân
hàng. Ngân hàng Công thương là một NHTM quốc doanh tức là
ngoiaf những đặc điểm như NHTM thì ngân hàng công thương có
một đặc điểm khác được nhà nước tài trợ nguồn vốn chủ sở
hữu.
Ở Việt Nam, theo điều 4 luật các tổ chức tín dụng
(TCTD) được Quốc Hội thông qua tháng 06 năm 2010 có nêu :
“Ngân hàng thương mại là loại hình Ngân hàng được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Theo tổ chức và mục tiêu hoạt động của các loại hình ngân
hàng , hiện nay hệ thống Ngân hàng Việt Nam bao gồm hai
cấp : Ngân hàng thương mại và Ngân hàng trung ương, Ngân
hàng thương mại ra đời với tính chất là nhận tiền gửi, sử
dụng vào nhiệm vụ cho vay, chứng khoán và các dịch vụ khác
của Ngân hàng, ngày càng có vai trò quan trọng trong việc
phát triển kinh tế.
1.1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại.
- Một là : chức năng trung gian tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường các giao dịch kinh
tế diễn ra rất sôi động đã tạo ra những khoản thu nhập,
chi tiêu và tích lũy bằng tiền của các tầng lớp trong
xã hội. Quá trình đó làm hình thành nên những người có
tiền tích lũy, có khả năng cung cấp tín dụng và những
người có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư
phát triển. Nhưng àm thế nào để họ tìm gặp được nhau và
làm sao có thể thỏa mãn nhu cầu vốn đa dạng và to lớn
trong khi các nguồn tiền tiết kiệm đang nằm phân tán
trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo đuổi một
mục đích riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển
giao vốn năng động của thị trường tài chính mà trong đó
hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM hoạt động như
một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu
về vốn tiền tệ trong xã hội. Là trung gian tín dụng,
Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên
là người có tiền cho vay và một bên là những người có
nhu cầu chi tiêu cần đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị
trường, bằng những biện pháp, chính sách và áp dụng
những phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại Ngân
hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ
nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ vốn cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh. Như vậy, có nghĩa là Ngân hàng đã biến
những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi thành những đồng tiền
hoạt động, biến những đồng tiền nằm phân tán thành
nguồn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh, qua đó phát triển hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
- Hai là : Chức năng làm trung gian thanh toán
Trong đời sống hàng ngày diễn ra hàng tỷ lượt
giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt. Nếu như mọi khoản
thanh toán đầu thanh toán bằng tiền mặt trao tay thì sẽ
kéo theo hàng loạt các công việc phức tạp và tốn kém và
nhiều khi còn gặp rủi ro không lường trước được. Khi
NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình làm trung
gian tín dụng Ngân hàng đã thu hút được hầu hết các nhà
kinh doanh có quan hệ buôn bán với nhau mở tài khoản
tại Ngân hàng tạo cơ sở cho các ngân hàng đứng ra làm
trung gian thanh toán theo lệnh chủ tài khoản bằng cách
trích số dư tiền gửi trên tài khoản của người mua
chuyển sang tài khoản của người bán, tiến hành các
nghiệp vụ này Ngân hàng trở thành thủ quỹ đồng thời là
bộ máy kế toán đáng tin cậy của các nhà kinh doanh
trong việc làm trung gian nhận và trả tiền theo yêu cầu
của họ, kế toán và kết toán tài khoản cho họ. Do đó,
quá trình thực hiện chức năng này hệ thống NHTM đã góp
phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng lưu thông tiền
mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông thuần túy, giúp cho
việc thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ được thuận lợi,
nhanh chóng, an toàn. Đối với Ngân hàng thực hiện chức
năng này tạo cho Ngân hàng có thể duy trì và nâng cao
khả năng thanh toán, quản lý được tình hình thu chi của
các đơn vị qua đó có các quyết định kịp thời nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho khách
hàng và Ngân hàng.
- Ba là : Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh
rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi
nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ
kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng
tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác
nhau của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh
toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân
hàng sử dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức
năng trung gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số vốn huy
động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách
hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong
khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,
được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…Với
chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.1.3 Đặc điểm của Ngân hàng thương mại.
- Một là : NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh kiếm lời
cho nên hoạt động của nó nhằm mục tiêu chủ yếu là theo
đuổi lợi nhuận. Những hoạt động kinh doanh của NHTM là
một loại hình kinh doanh đặc thù với chất liệu kinh
doanh chủ yếu là quyền sử dụng các khoản tiền, sản phẩm
của NHTM có đặc tính phi vật chất và hoạt động của nó
gắn liền với quá trình vận động và lưu thông tiền tệ.
- Hai là : Hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh có độ
rủi ro cao hơn so với các hình thức kinh doanh khác và
thường có ảnh hưởng sâu sắc liên quan đến ngành khác và
cả nền kinh tế. Do đó, để tránh những rủi ro đáng tiếc
xảy ra, nhằm kiểm soát và làm giảm nhẹ những tổn hại do
Ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt ra
những đạo luật riêng nhằm bảo đảm cho hoạt động của
Ngân hàng được vận hành an toàn và có hiệu quả.
- Ba là : NHTM là một trung gian tài chính điển hình.
Điều này được thể hiện trên hai phương diện:
+ NHTM là trung gian giữa những người có vốn và
người cần vốn.
+ NHTM là trung gian giữa ngân hàng trung ương với
công chúng và nền kinh tế.
Trước hết, NHTM là trung gian giữa những người có vốn
nhàn rỗi và người cần vốn để tạo điều kiện cho cung cầu
về nguồn vốn được gặp nhau. Thật vậy, trong nền kinh tế
luôn luôn tồn tại những người có khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi chưa dung đến hay để dành cho những nhu cầu
chi tiền sau này. Nhưng đồng thời cũng có những nhu cầu
về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay cho nhu
cầu nào đó ở hiện tại.
Cho nên, để giải quyết được mâu thuẫn này cần phải có
người thứ ba đứng ra làm trung gian để thỏa mãn được
nhu cầu của cả hai phía. Và với việc thông qua cầu nối
NHTM, những nguồn vốn có thời hạn, số lượng khác nhau
đã chuyển thành những nguồn vốn phù hợp với nhu cầu của
người cần vốn mà không cần đến việc người có tiền nhàn
rỗi và người có nhu cầu về vốn phải trực tiếp gặp nhau.
Vì vậy, NHTM đóng vai trò trung gian giữa người có
nguồn vốn nhàn rỗi và người có nhu cầu cao về vốn.
Bên cạnh đó, NHTM không chỉ là trung gian giữa người có
vốn nhàn rỗi với người cần vốn mà còn là trung gian
giữa NHTW với công chúng và nền kinh tế.
1.1.2 Vai trò của Ngân hàng Thương mại
- Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho
nền kinh tế
Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị
kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều khó khăn hơn
lợi ích là cần có người đứng ra tập trung tiền nhàn dỗi ở mọi nơi
mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn huy động
được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương
mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu
vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động
của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín
dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất,
cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao
hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị
trường.
Bước sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển
của tín dụng Ngân hàng đã làm biến đổi hoạt động ruỗng lát trong
các nhà máy, xí nghiệp khơi dậy sức sống bằng các dây chuyền sản
xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ
các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện bằng vốn tự có của
các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân
hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường
nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối
lo thường trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi
sự có mặt của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đó là một
ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt
trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu
ngành, những cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
- Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân
hàng được chia làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng
chuyên doanh (NHTM). NHCT được Nhà nước cấp vốn cho hoạt động và
sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động tiền tệ, điều tiết chính
sách tiền tệ quốc gia. Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng
dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán
giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua việc
cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng
thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân
chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với
nền tài chính quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự
hội nhập kinh tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh
tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một
trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính
quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nền tài chính
quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các
lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh
toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các
hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín
dụng với các ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng thương mại trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh
toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng thương mại đã thực
hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận
động của nền tài chính quốc tế.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
1.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau :
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức
tín dụng khác dưới hình thức nhận tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ
có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong
nước và ngoài nước.
- Huy động vốn bằng việc đi vay của các tổ chức tín dụng
khác tại Việt Nam và các tổ chức tín dụng nước ngoài.
- Huy động vốn bằng việc đi vay của NHNN.
- Huy động vốn bằng các hình thức khác theo quy định của
NHNN.
1.1.3.2 Hoạt động cấp tín dụng
NHTM được cho vay dưới các hình thức sau :
- Hoạt động cho vay.
- Hoạt động bảo lãnh.
- Hoạt động chiết khấu.
- Hoạt động cho thuê tài chính.
- Hoạt động bao thanh toán.
- Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu.
1.1.3.3 Các hoạt động khác
Ngoài nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt
động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và tăng
lợi nhuận cho ngân hàng :
- Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
- Dịch vụ môi giới đại lý, ủy thác mua bán chứng khoán
- Dịch vụ bảo quản và quản lý tài sản, chứng từ có giá
- Dịch vụ trung gian mua bán trên thị trường ngoại hối
Thông qua các hoạt động này, Ngân hàng nhận được
khoản thu nhập dưới hình thức hoa hồng.
1.2 Tổng quan về hoạt động cho vay trung và dài hạn
1.2.1 Khái niệm về hoạt động cho vay trung và dài hạn
- Cho vay trung hạn : là khoản vay có thời hạn từ 1-5
năm. Loại hình này thường được dùng để cung cấp, mua
sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở
rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
- Cho vay dài hạn : là khoản vay có thời gian trên 5 năm.
Loại hình này được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản
như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình
thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất.
Nói chung, cho vay trung và dài hạn được đầu tư để
hình thành vốn cố định của khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị,
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp để từ đó cải
tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng
sản xuất chiếm lĩnh thị trường.
1.2.2 Đặc điểm về hoạt động cho vay trung và dài hạn
Cho vay trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
- Cho vay trung - dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ
cho họ trong việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định. Do đó, đối
tuợng cho vay chủ yếu của ngân hàng thương mại trong hình thức
tín dụng này là vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp.
- Do gắn liền với tài sản cố định và vốn vố định của khách
hàng, cho vay trung - dài hạn của ngân hàng thương mại thường
gắn liền với các dự án đầu tư. Tuy nhiên, với cho vay trung
hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó cho vay dài hạn
tập trung cho các dự án đầu tư mở rộng.
- Cho vay trung - dài hạn của ngân hàng thương mại có thời
gian hoàn vốn chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu
được lấy từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận của chính dự
án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể hoàn trả khoản vay có
quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – thời hạn cho vay kéo
dài trong nhiều năm.
- Cho vay trung - dài hạn thường có thời gian kéo dài, quy mô
tín dụng thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc
gia luôn biến động. Sự biến động này có thể tích cực hoặc tiêu
cực mà chúng ta không thể biết được. Do đó mà môt khoản vay
dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản vay ngắn
hạn vì thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động
này lớn hơn . Mặt khác, lãi suất của cho vay trung - dài hạn
thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Vì độ rủi ro cao
hơn, thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
1.2.3 Phân loại
Có nhiều cách để phân loại các khoản cho vay trung và dài hạntaị các ngân hàng, chúng ta có thể xem xét các khoản cho vaytrung và dài hạn của các Ngân hàng Thương Mại qua các khoảnsau:
* Cho vay theo dự án đầu tư:
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về dự án đầu tư như:quan niệm về Ngân hàng Thế Giới, ISO 8402 ... Nhìn chung cácquan niệm vay đều có những điểm khác nhau khi tếp cận dự ánđầu tư. Nhưng khi xem xét một dự án đầu tư họ đều chú ý đặctrưng sau :
- Dự án đầu tư có mục tiêu rõ ràng cần đạt tới khi thực hiện.
- Dự án đầu tư không phải là một nghiên cứu hay dự báo mà làmột quá trình tác động để đạt đến mục tiêu mong đợi.
- Dự án đầu tư là một hoạch định cho tương lai nên bao giờcũng có bất ổn định và rủi ro nhất định.
- Các hoạt động của dự án đầu tư theo một kế hoạch (trong mộtkhoảng thời gian ) và có giới hạn nhất định về nguồn lực.
Xét về mặt hình thức thì dự án đầu tư là tập hồ sơ, tài liệutrình bầy một cách chi tiết và co hệ thống một chương trìnhhoạt động và các chi phí tương ứng để đạt mục tiêu nhất địnhtrong tương lai. Các khoản cho vay dự án có thể được thế chấptrên cơ sở bảo lãnh theo đó người cho vay có thể khôi phục vốntừ những tổ chức thực hiện bảo lãnh nếu như dự án không trả nợđúng kế hoạch đã định. Tuy nhiên, khoản vay cũng có thể cungcấp không dựa trên cơ sơ bảo lãnh, không có người đứng ra bảolãnh, dự án tồn tại hay sụp đổ dưa trên chính giá trị của nó.Trong trường hợp này người cho vay đối mặt với rủi ro rất lớnvà họ yêu cầu một mức lãi suất cao hơn những khoản cho vay cóđảm bảo. Các khoản vay như vậy ngân hàng thường đòi hỏi các tổchức tài trợ dự án phải thế chấp tài sản cho đén khi dự ánhoàn tất .
* Cho vay luân chuyển:
Một khoản tín dụng luân chuyển cho phép khách hàng kinh doanhcó thể vay tới một mức tối đa xác định trước, hoàn trả toàn bộhoặc một phần khoản vay, và tiếp tục vay khi có nhu cầu chođến khi hợp đồng tín dụng hết hạn. Là một trong những khoảncho vay kinh doanh linh hoạt nhất, yêu cầu tín dụng luânchuyển thường được ngân hàng chấp nhận mà không đòi hỏi bảođảm bằng bất cứ tài sản nào. Các khoản cho vay như vậy có thểlà ngắn hạn hoặc có thể kéo dài 3 , 4 thậm chí 5 năm. Loạihình tín dụng này được áp dụng nhiều nhất khi khách hàng khôngchắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc về quy môchính xác của nhu cầu vay vốn trong tương lai. Tín dụng luânchuyển giúp hãng có thể giảm mức độ biến động trong chu kìkinh doanh, cho phép hãng vay thêm tiền mặt trong lúc khó khănkhi mà doanh số bán hàng giảm và cho phép hoàn trả khi nguồnthu bằng tiền của hãng tăng lên. ở những nơi mà pháp luật quyđịnh về việc ngân hàng phải chấp nhận mọi yêu cầu vay vốntrong thời hạn của hạn mức tín dụng thì ngân hàng thường sẽtính phí cam kết vay vốn trên phần tín dụng không sử dụng hoặctrên toàn bộ giá trị hợp đồng cho vay luân chuyển.
Cam kết vay vốn thường có 2 loại:
- Loại phổ biến nhất là cam kết vay vốn chính thức, là cam kếtcó tính chất hợp đồng trong đó ngân hàng đảm bảo sẽ cho kháchhàng vay tới lượng vốn tối đa xác định trước với lãi suất đãấn định hoặc với lãi xuất thay đổi trên cơ sở những lãi xuấtcơ bản như LIBOR. Đối với loại cam kết này, ngân hàng có thểkhông thực hiện nghĩa vụ cho vay nếu như tình hình tài chínhcủa người vay có những thay đổi bất lợi nghiêm trọng hoặc khingượi vay không thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồngvới ngân hàng.
- Loại thứ hai ít chặt chẽ hơn là hạn mức tín dụng bảo đảm,theo đó ngân hàng đồng ý cho khách hàng vay trong trường hợpkhẩn cấp. Mặc dù lãi suất không được ấn định trước và kháchhàng ít khi có ý định vay tiền theo hình thức này nhưng họ vẫnkí hợp đồng với mục đích dùng nó như một vật bảo đảm để có thểvay vốn từ những nguồn khác. Ngân hàng chỉ dùng những cam kếtnới lỏng cho các hãng có chất lượng tín dụng cao nhất vàthường định giá thấp hơn nhiều so với lại cam kết cho vaychính thức. Cam kết tín dụng loại này cho phép khách hàngnhanh chóng nhận được tiền vay và đây là một ưu điểm quantrọng nếu như khách hàng muốn vay vốn từ một tổ chức khác.
Trong những năm gần đây một loại hình tín dụng luân chuyển mớiđã xuất hiện thông qua việc sử dụng thẻ tín dụng. Hiện nay,hơn 1/3 các doanh nghiệp sử dụng thẻ tín dụng như một nguồnvốn hoạt động hiệu quả và nhờ đó tránh việc phải thường xuyênlập các đơn xin vay cho ngân hàng. Tuy nhiên một vấn đề hạnchế đối với việc sử dụng loại vốn này là chi phí vay vốnthường rất cao.
* Cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạnthông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vậnchuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê vớibên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phươngtiên vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuêvà nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụngtài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuêđược hai bên thoả thuận.
Cho thuê tài chính về bản chất là một hoạt động tín dụng trongđó mục đích của người cho thuê cũng giống như mục đích củangười cho vay là thu lãi tiền vốn đầu tư, còn mục đích củangười đi vay cũng như ngưòi đi thuê là sử dụng vốn. Nhưng chothuê tài chính vẫn có đăc trưng riêng biệt cụ thể:
- Hình thức cấp tín dụng của cho thuê tài chính là bằng tàisản, người đi thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản, định kỳ thanhtoán tiền thuê theo thoả thuận.
- Thời gian cho thuê thường chiếm phân lớn thời gian hoạt độngcủa tài sản, trong thời gian nàyngười đi thuê không được huỷhợp đồng ngang. Hết thời hạn của hợp đồng thuê có thể đượcchuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hay tiếp tục thuê theo thoảthuận hai bên
- Bên cho thuê dễ dàng kiểm tra việc sử dụng tài sản đánh giáhiệu quả sử dụng tài sản thuê, phát hiện sớm những rủi ro tiềmẩn để có những biện pháp sử lý kịp thời.
Tất cả tài sản cho thuê phải được bảo hiểm trong suốt thờigian cho thuê, việc mua bảo hiểm phải được thưc hiện trên cơsở hợp đồng bảo hiểm tại một công ti bảo hiểm được phép hoạtđộng tại Việt Nam do bên cho thuê chỉ định. Qui trình quản lývà theo dõi hồ sơ bảo hiểm tài sản cho thuê do giám đốc bêncho thuê quyết định.
* Cho vay tiêu dùng.
Nhằm giúp người tiêu dùng có nguồn vốn tài chính để trang trảinhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình ... Ngân hàng Thương Mạithực hiện cho vay tiêu dùng, căn cứ vào cách thức hoàn trả,cho vay tiêu dùng có thể chia làm 3 loại sau:
- Cho vay tiêu dùng trả một lần: Theo cách cho vay này, kháchhàng thanh toán cho ngân hàng một lần cho đến khi đến hạn.Loại cho vay này thường áp dụng đối với khoản vay vó giá trịnhỏ, thời gian cho vay không dài.
- Cho vay tiêu dùng trả góp: Loại cho vay thường áp dụng đốivới các khoản vay có giá trị lớn hay thu nhập đinh kỳ củangười vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Cho vay tiêu dùng tuần hoàn làkhoản cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụngthẻ tín dụng. Trong thời gian thoả thuận, căn cứ vào nhu cầuchi tiêu và thu nhập từng thời kỳ, khách hàng thực hiện vay vàtrả nợ một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng. Hình thứccho vay này có rủi ro tương đối thấp nhưng có lãi suất cao,tuy nhiên ngân hàng chịu những chi phí cao về dịch vụ và quảnlý.
* Cho vay hợp vốn.
Cho vay hợp vốn là hình thức cho vay trong đó có từ 2 haynhiều tổ chức tín dụng tham gia vào một dự án đầu tư hayphương án sản xuất kinh doanh của một khách hàng vay vốn. Bêncho vay hợp vốn là hai hay nhiều tổ chức tín dụng cam kết vớinhau để thực hiện đồng tài trợ cho một dự án. Bên nhận tài trợlà pháp nhân hay tổ tổ chức có nhu cầu và được bên đồng tàitrợ cấp tín dụng để thực hiện dự án.
Điều kiện áp dụng cho vay hợp vốn:
- Nhu cầu xin cấp tín dụng để thực hiện dự án của bên nhận tàitrợ vượt quá giới hạn cho vay của một ngân hàng theo quy địnhhiện hành.
- Khả năng tài chính và nguồn vốn của một ngân hàng không đápứng được nhu cầu cấp tín dụng của dự án đầu tư.
- Nhu cầu phân tán rủi ro của ngân hàng.
- Bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều ngân hàng.
Nguyên tắc tổ chức việc cho vay hợp vốn:
- Các thành viên tự nguyện tham gia và phối hợp với nhau đểthực hiện.
- Các thành viên thống nhất lựa chọn một ngân hàng làm đầumối.
- Hình thức cấp tín dụng và phương thức giao dịch giữa các bêntham gia cho vay hợp vốn với bên nhận tài trợ phải được cácbên thoả thuận ghi trong hợp đồng cho vay hợp vốn.
Trường hợp có vấn đề phát sinh trong quá trình hợp vốn, cácbên tham gia cho vay hợp vốn cùng thoả thuận và thống nhất vớibên nhận tài trợ để xử lý theo hợp đồng. Mọi tranh chấp do viphạm hợp đồng cho vay hợp vốn và hợp đồng tín dụng được cácbên giải quyết trên cơ sở đàm phán thoả thuận. Trường hợpkhông giải quyết được các bên có quyền khởi kiện theo qui địnhcủa pháp luật.
1.2.4 Các chỉ tiêu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay
trung và dài hạn tại Ngân hàng
- Tổng doanh số cho vay : Khi doanh số cho vay lớn cho
thấy ngân hàng uy tín và cung cấp dịch vụ đa dạng,
phong phú cho khách hàng. Chất lượng cho vay tốt là cơ
sở để tăng doanh số cho vay, vì vậy chỉ tiêu doanh số
cho biết một phần về chất lượng cho vay trung và dài
hạn.
Dư nợ trung và dài hạn
Chỉ tiêu dư nợ =
---------------------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Phản ánh dư nợ trung và dài hạn chiếm bao nhiêu % so với
tổng dư nợ ngân hàng trong thời kỳ. Tỉ lệ này càng cao thể
hiện sự chú ý phát triển tín dụng trung và dài hạn của ngân
hàng, khả năng cho vay phát triển dự án đầu tư của ngân hàng
đối với nền kinh tế.
Thu nợ tín
dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu quay vòng vốn=
-------------------------------------------
Tổng dư
nợ trung và dài hạn
Phản ánh sự quay vòng vốn nhanh hay chậm của loại tín dụng
này. Thông thường vòng quay càng lớn thể hiện việc thu hồi
nợ càng tốt và ngược lại. Do đó cần xem xét trong mối quan
hệ với các chỉ tiêu khác :
Nợ quá hạn của
tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn =
--------------------------------------------------------
Tổng
dư nợ trung và dài hạn
Chỉ tiêu này cho biết tỉ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn
trong tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn. Tỉ lệ này càng
thấp chứng tỏ sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Tuy nhiên để
xác định tính chính xác cần xem xét các nguyên nhân của nó.
Nợ quá
hạn khó đòi của tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn khó
đòi=------------------------------------------------------------
x100%
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Phản ánh tỉ lệ % nợ quá hạn khó đòi của toàn bộ hoạt
động về tín dụng trung và dài hạn. Tỉ lệ này càng thấp
càng tốt.
Lợi nhuận do tín dung
trung và dài hạn mang lại
Chỉ tiêu lợi nhuận =
----------------------------------------------------------------
x 100%
Tổng dư nợ tín dụng
trung và dài hạn
Phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Tỉ lệ
này càng lớn chứng tỏ hiệu quả cao.
Ngoài ra, ở góc độ kinh tế xã hội, chúng ta có thể xem xét một số
chỉ tiêu phản ánh các giá trị gia tăng được tạo ra từ khoản cho
vay của ngân hàng, đó là :
-Tổng số việc làm tạo ra từ các dự án có sử dụng cho vay trung và
dài hạn.
- Tổng giá trị gia tăng được tạo ra từ doanh số cho vay của ngân
hàng. Phần giá trị gia tăng của một dự án có thể do nhiều nguồn
vốn khác nhau của dự án tạo ra. Do đó, rất khó để xác định phần
giá trị gia tăng do khoản cho vay tạo ra. Tuy nhiên, có thể ước
lượng một cách tương đối theo % vốn góp vào dự án từ khoản cho
vay của ngân hàng.
- Nhiều tác động khác khó có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định
lượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính như tác
dụng cho vay trung và dài hạn với việc: đổi mới cơ cấu kinh tế xã
hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, tăng năng suất lao động xã
hội.
Chương II Thực trạng về hoạt động cho vay trung và dài hạn
tại Ngân hàng TMCP Việt Á, chi nhánh Đà Nẵng
2.1 Giới thiệu hoạt động Ngân hàng TMCP Việt Á, chi nhánh Đà
Nẵng.
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển NH TMCP Việt Á, chi
nhánh Đà Nẵng.
- Năm 1991, Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC đã thành lập
hai tổ chức tín dụng tại hai thành phố lớn :
+ Ngân hàng tài chính cổ phần nông thôn Đà Nẵng tại
TP. Đà Nẵng
+ Công ty tài chính cổ phần Sài Gòn tại thành phố
Hồ Chí Minh
-Năm 2003, quy mô của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn
Đà Nẵng và công ty tài chính cổ phần Sài Gòn không còn đáp
ứng nhu cầu phát triển của mỗi đơn vị. Mặt khác, để tăng
cường sức mạnh và năng lực cạnh tranh cho mỗi đơn vị khi nền
kinh tế Việt Nam hội nhập với thị trường toàn cầu, được sự
cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng thương
mại cổ phần nông thôn Đà Nẵng và công ty tài chính cổ phần
Sài Gòn hợp nhất để thành lập một pháp nhân mới là Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Việt Á.
-Ngân hàng TMCP Việt Á có trụ sở chính : 119-121 Nguyễn Công
Trứ, P.Nguyễn Thái Bình,Q.1, TP Hồ Chí Minh
+ Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh : số
4103001665 do sở kế hoạch và đầu tư TP. Hồ Chí Minh cấp ngày
19/06/2006. Đăng ký sửa đổi lần thứ 14 ngày 31/12/2008.
+ Mã số thuế : 0302963695
+ Tổng số vốn điều lệ tính đến 12/2012 :
3.000.000.000 đồng
+ Tổng số vốn hoạt động : 4.183.000.000 đồng
+ Tổng số cán bộ, nhân viên ( tính đến 12/2010) :
1210 ( không bao gồm thành viên Hội đồng quản trị và Ban
kiểm soát )
Thông tin về VAB- CN Đà Nẵng :
Ngày 09 tháng 05 năm 2003, ngân hàng nhà nước đã cấp giấy
phép hoạt động số 12/ NH_GP cho Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Á, có trụ sở 119-121 Nguyễn Công Trứ, Quận 1, TP Hồ Chí
Minh và Ngân hàng Thương mại cổ phần nông thôn Đà Nẵng ( Chi
nhánh cấp 1 ) của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á đóng
tại 33 Hùng Vương, Quận Hải Châu, Tp Đà Nẵng.
+ Tên goi : Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á,
Chi nhánh Đà Nẵng
+ Địa chỉ : 33 Hùng Vương
+ Điện thoại : (0511) 3840472
+ Email : [email protected]
+ Fax : (0511) 3823369
Từ khi thành lập đến nay, chi nhánh Đà Nẵng là chi nhánh dẫn
đầu trong toàn bộ hệ thống về quy mô hoạt động, phát triển
mạng lưới và hiệu quả kinh doanh.
Xác định Đà Nẵng là thị trường có nhiều tiềm năng về kinh tế
xã hội để thu hút đàu tư phát triển thành vùng kinh tế trọng
điểm của miền Trung với đối tượng khách hàng ngày càng đa
dạng. Sau gần 8 năm hoạt động, CN Đà Nẵng đã đạt được thành
quả lớn về quy mô phát triển mạng lưới và kết quả hoạt động
kinh doanh. Xác định đối tượng khách hàng của ngân hàng là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thương và dân cư trên địa bàn
TP Đà Nẵng và vùng phụ cận trong hai năm. Trong hai năm qua
CN Đà Nẵng đã tập trung phát triển và mở rộng them năm CN và
PGD trên địa bàn để tiếp cận khách hàng có nhu cầu giao
dịch.
Trong những năm qua, cùng với sự cố gắng không ngừng, ngân
hàng TMCP Việt Á, chi nhánh Đà Nẵng đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng và huy động vốn, sử dụng vốn
và hiệu quả kinh doanh của CN Đà Nẵng cao hơn mức bình quân
của các Ngân hàng TMCP hoạt động trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Với hoạt động của mình ngân hàng TMCP Việt Á CN Đà
Nẵng đã góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của TP Đà
Nẵng nói riêng và khu vực miền Trung nói chung.
2.1.2 Cơ cấu, tổ chức và bộ máy quản lý
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức
2.1.2.2 Nhiệm vụ phòng ban
- Giám đốc : Chịu trách nhiệm trước Tổng Giám Đốc điều hành chung
toàn bộ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Trực tiếp chỉ đạo các
phòng chức năng cân đối tổng hợp, tổ chức cán bộ, kiểm tra nội bộ
phòng giao dịch.
- Phó giám đốc giao dịch : Thay mặt giám đốc điều hành về mặt
giao dịch, chịu trách nhiệm cá nhân trước Giám đốc và pháp luật
về những công việc mà mình giải quyết.
- Phó giám đốc tín dụng : Thay mặt giám đốc điều hành các hoạt
động về tiền tệ, tín dụng của ngân hàng và chịu trách nhiệm cá
nhân trước giám đốc và pháp luật về những công việc mà mình giải
quyết.
- Phòng giao dịch và ngân quỹ : Hướng dẫn thủ tục mở tài khoản
thực hiện quản lý các tài khoản tiền gửi của chi nhánh và thanh
toán lien hàng. Thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, nghiệp
vụ chuyển tiền trong nước, chi trả kiều hối, nghiệp vụ chi hộ
trong ngân hàng Việt Á hoặc theo ủy nhiệm của khách hàng. Ngoài
ra bộ phận ngân quỹ còn có nhiệm vụ thu tiền mặt vào ngân quỹ của
chi nhánh và chi ra theo yêu cầu của khách hàng xin vay vốn được
duyệt
- Phòng quan hệ khách hàng : Gồm hai bộ phận
+ Bộ phận khai thác
Xác nhận hồ sơ vay, kiểm tra tính pháp lý và định giá
tài sản, bảo đảm cho khoản tiền vay hoặc cho khoản yêu cầu VAB
bảo lãnh, lập tờ trình tín dụng, lập hồ sơ tín dụng ( sau khi tờ
trình đã được duyệt), xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng.
Nghiệp vụ tín dụng : hỗ trợ nhu cầu tài chính của
khách hàng trong quá trình khách hàng thực hiện các dự án, phương
án khả thi và có hiệu quả trong các lĩnh vực đầu tư, sản xuất
kinh doanh của khách hàng và đôn đốc khách hàng thực hiện đúng
hợp đồng tín dụng.
Kiểm tra sau khi cho vay về tình hình sử dụng vốn, tài
sản thế chấp cầm cố, tình hình sản xuất kinh doanh của khách
hàng.