KẾT QUẢ TRIỂN KHAI MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM QUẢN LÝ RỐI ...
-
Upload
khangminh22 -
Category
Documents
-
view
2 -
download
0
Transcript of KẾT QUẢ TRIỂN KHAI MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM QUẢN LÝ RỐI ...
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
HỨA THANH THUỶ
KẾT QUẢ TRIỂN KHAI MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM
QUẢN LÝ RỐI LOẠN TỰ KỶ Ở TRẺ EM TẠI CỘNG ĐỒNG
Ở HAI TỈNH HÒA BÌNH VÀ THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 9720701
HÀ NỘI, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
HỨA THANH THUỶ
KẾT QUẢ TRIỂN KHAI MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM
QUẢN LÝ RỐI LOẠN TỰ KỶ Ở TRẺ EM TẠI CỘNG ĐỒNG
Ở HAI TỈNH HÒA BÌNH VÀ THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 9720701
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Thanh Hương
2. TS. Nguyễn Thị Hương Giang
HÀ NỘI, NĂM 2021
iii
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và nhóm nghiên cứu thực
hiện tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình từ năm 2016 đến năm 2019.
Các số liệu và kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác ngoài các công bố trong khuôn khổ của
đề tài nghiên cứu này.
Nghiên cứu sinh
Hứa Thanh Thủy
iv
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được thực hiện gắn kết với nghiên cứu cấp nhà nước “Nghiên
cứu đặc điểm dịch tễ học, phương pháp chẩn đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ
ở trẻ em tại cộng đồng” do trường Đại học Y tế công cộng làm chủ trì. Trong quá
trình thực hiện và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ tận
tình cũng như sự quan tâm động viên từ nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại
học, GS.TS. Bùi Thị Thu Hà – chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước và các thầy cô giáo
trường Đại học Y tế công cộng đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và làm việc tại Trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thanh
Hương và TS. Nguyễn Thị Hương Giang. – những người thầy tâm huyết đã tận tình
hướng dẫn, động viên khích lệ, dành nhiều thời gian trao đổi và định hướng cho tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn bộ thành viên trong nhóm nghiên
cứu đã triển khai việc thu thập số liệu, tiến hành can thiệp tại thực địa; đặc biệt là
ThS. Nguyễn Thái Quỳnh Chi đã chia sẻ kinh nghiệm và có nhiều ý kiến đóng góp
quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Luận án này sẽ không thể hoàn thành nếu thiếu đi sự hỗ trợ, hợp tác và tham
gia của các đơn vị, cá nhân như: Sở Y tế, Ủy ban nhân dân tỉnh/huyện/xã, cán bộ y
tế, giáo viên mầm non, người chăm sóc trẻ tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình; cán
bộ y tế tại Bệnh viện Nhi trung ương cùng nhiều chuyên gia y tế… Tôi thực sự trân
trọng và biết ơn những đóng góp quý báu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi tấm lòng ân tình tới Gia đình thân yêu của tôi: bố mẹ,
anh chị, chồng và các con tôi – nguồn động viên vô cùng lớn lao và bền bỉ trong
suốt quá trình tôi học tập và hoàn thành luận án.
Trân trọng!
Nghiên cứu sinh
Hứa Thanh Thủy
v
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................... x
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... xi
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................... xii
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .................................................................................... 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................... 4
1.1. Rối loạn tự kỷ .................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 4
1.1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ ........................................................ 4
1.1.3. Những dấu hiệu nghi ngờ và chẩn đoán trẻ mắc rối loạn tự kỷ .................... 5
1.1.4. Tỷ lệ trẻ mắc rối loạn tự kỷ trên thế giới và Việt Nam ................................. 6
1.2. Quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng ................................................ 7
1.2.1. Một số thuật ngữ liên quan ............................................................................ 7
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em ........................................... 8
1.2.3. Khuyến cáo của các tổ chức quốc tế về quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em ....... 9
1.2.4. Một số mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em trên thế giới ..................... 12
1.2.5. Các thành tố quan trọng của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em ........ 17
1.2.6. Quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Việt Nam .............................................. 19
1.3. Kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn tự
kỷ ở trẻ em .............................................................................................................. 19
1.3.1. Một số thang đo đánh giá kiến thức cơ bản, thái độ và thực hành cơ bản về
rối loạn tự kỷ ở trẻ em ........................................................................................... 24
1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ, giáo viên và nhân
viên y tế về rối loạn tự kỷ ở trẻ em trên thế giới ................................................... 26
1.3.3. Kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ, giáo viên và cán bộ y
tế về rối loạn tự kỷ tại Việt Nam ........................................................................... 34
1.4. Đánh giá kết quả triển khai quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
.................................................................................................................................. 36
vi
1.4.1. Đánh giá kết quả hoạt động nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của cộng
đồng về rối loạn tự kỷ ............................................................................................ 36
1.4.2. Đánh giá kết quả mô hình sàng lọc rối loạn tự kỷ tại y tế cơ sở ................. 39
1.5. Giới thiệu về nghiên cứu gốc và vai trò của nghiên cứu sinh ..................... 40
1.6. Khung lý thuyết và khung logic của luận án ................................................ 42
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 49
2.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 49
2.1.1. Nghiên cứu định lượng ................................................................................ 49
2.1.2. Nghiên cứu định tính ................................................................................... 49
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................................................. 50
2.2.1. Thời gian nghiên cứu ................................................................................... 50
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................... 50
2.3. Thiết kế nghiên cứu ......................................................................................... 50
2.4. Cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu .................................................................. 50
2.4.1. Nghiên cứu định lượng ................................................................................ 50
2.4.2. Nghiên cứu định tính ................................................................................... 53
2.5. Các biến số và chủ đề trong nghiên cứu ........................................................ 54
2.5.1. Biến số trong nghiên cứu định lượng .......................................................... 54
2.5.2. Chủ đề trong nghiên cứu định tính .............................................................. 55
2.6. Thu thập số liệu ............................................................................................... 58
2.6.1. Nghiên cứu định lượng ................................................................................ 58
2.6.2. Nghiên cứu định tính ................................................................................... 59
2.7. Xử lý số liệu ...................................................................................................... 61
2.7.1. Làm sạch số liệu .......................................................................................... 61
2.7.2. Đánh giá tính giá trị về mặt cấu trúc và độ tin cậy của thang đo ................ 61
2.7.3. Tạo các biến tổng hợp ................................................................................. 62
2.8. Phân tích số liêu ............................................................................................... 62
2.8.1 Nghiên cứu định lượng ................................................................................. 62
2.8.2. Nghiên cứu định tính ................................................................................... 64
vii
2.9. Tóm tắt hoạt động can thiệp .......................................................................... 65
2.9.1. Chương trình truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK
............................................................................................................................... 65
2.9.2. Các hoạt động tác động lên hệ thống y tế ................................................... 69
2.10. Đạo đức nghiên cứu ...................................................................................... 69
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 71
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp ............. 71
3.1.1. Thông tin chung về người chăm sóc trẻ ...................................................... 71
3.1.2. Thông tin chung về giáo viên mầm non ..................................................... 72
3.1.3. Thông tin chung về nhân viên y tế .............................................................. 73
3.2. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về
rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp ................................................................... 75
3.2.1. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NCST về rối loạn tự kỷ sau
một năm can thiệp ................................................................................................. 75
3.2.2. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của GVMN về rối loạn tự kỷ ở trẻ
sau một năm can thiệp ........................................................................................... 80
3.2.3. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT về rối loạn tự kỷ ở trẻ
sau một năm can thiệp ........................................................................................... 86
3.2.4. Đánh giá tác động của chương trình truyền thông đến kiến thức, thái độ
thực hành của NCST, GVMN và NVYT theo phân tích điểm xu hướng ............. 91
3.3. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự
kỷ ở trẻ em tại cộng đồng ...................................................................................... 96
3.3.1. Tính phù hợp của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng .. 96
3.3.2. Tính khả thi của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ trẻ em tại cộng đồng ..... 103
Chương 4. BÀN LUẬN ....................................................................................... 113
4.1. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về
rối loạn tự kỷ trước can thiệp ............................................................................. 113
4.1.1. Bàn luận về thang đo đo lường kiến thức, thái độ, thực hành của NCST,
GVMN và NVYT về rối loạn tự kỷ .................................................................... 113
4.1.2. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST về rối loạn tự kỷ trước
can thiệp .............................................................................................................. 118
viii
4.1.3. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của GVMN rối loạn tự kỷ trước
can thiệp .............................................................................................................. 121
4.1.4. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT về rối loạn tự kỷ trước
can thiệp .............................................................................................................. 124
4.2. Bàn luận về sự thay đổi về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST.
GVMN và NVYT về rối loạn tự kỷ sau can thiệp ............................................. 126
4.2.1. Bàn luận về sự thay đổi kiến thức của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn
tự kỷ sau can thiệp ............................................................................................... 126
4.2.2. Bàn luận về sự thay đổi thái độ của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn tự
kỷ sau can thiệp ................................................................................................... 130
4.2.3. Bàn luận về sự thay đổi thực hành xử trí sớm khi nghi ngờ trẻ mắc rối loạn
tự kỷ của NCST, GVMN và NVYT sau can thiệp .............................................. 132
4.3. Bàn luận về tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK
ở trẻ em tại cộng đồng .......................................................................................... 133
4.3.1. Bàn luận về tính phù hợp của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ .......... 134
4.3.2. Bàn luận về tính khả thi của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại
cộng đồng ............................................................................................................ 137
4.4. Bàn luận về tính mới và hạn chế của đề tài ................................................ 139
4.4.1. Bàn luận về tính mới của đề tài ................................................................. 139
4.4.2. Bàn luận về hạn chế của đề tài .................................................................. 141
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 143
KHUYẾN NGHỊ................................................................................................... 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ ............................. 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 146
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 157
Phụ lục 1: Vận hành mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng ở
hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình .......................................................................... 157
Phụ lục 2. Kết quả tổng quan thang đo đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành
về rối loạn tự kỷ ở trẻ em ..................................................................................... 161
Phụ lục 3: Bảng biến số chi tiết của nghiên cứu định lượng ............................ 165
Phụ lục 4: Bộ công cụ định lượng ....................................................................... 172
ix
Phụ lục 5: Bảng chấm điểm kiến thức cơ bản về RLTK ở trẻ ......................... 182
Phụ lục 6: Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo đánh giá kiến thức, thái độ
về RLTK ở trẻ cho từng nhóm đối tượng .......................................................... 184
Phần A: Đối với nhóm đối tượng là người chăm sóc trẻ .................................... 184
Phần B: Đối với nhóm đối tượng là giáo viên mầm non..................................... 188
Phần C: Đối với nhóm đối tượng là nhân viên y tế ............................................. 192
Phụ lục 7: Hướng dẫn phỏng vấn sâu/thảo luận nhóm cho các đối tượng ..... 196
A. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến xã và huyện .................................. 196
B. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến tỉnh ............................................... 198
C. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến trung ương .................................... 200
D. Hướng dẫn phỏng vấn sâu lãnh đạo Sở Y tế/ Chính quyền địa phương ........ 201
E. Hướng dẫn thảo luận nhóm đối với NCST và GVMN ................................... 202
Phụ lục 8: Các sản phẩm truyền thông của chương trình truyền thông ........ 204
A. Mẫu Banner .................................................................................................... 204
B. Mẫu áp phích .................................................................................................. 204
C. Mẫu tờ rơi ....................................................................................................... 205
D. Mẫu sách mỏng (Trang bìa và mục lục) ......................................................... 206
E. Bài phát thanh ................................................................................................. 206
Phụ lục 9: Quyết định phê duyệt đề tài cấp Nhà nước ..................................... 211
Phụ lục 10: Quyết định thông qua Hội đồng đạo đức ...................................... 213
Phụ lục 11: Giấy xác nhận cho phép sử dụng số liệu ........................................ 214
Phụ lục 12: Giấy chứng nhận kết quả Đề tài cấp nhà nước ............................. 215
x
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BV : Bệnh viện
BVĐK : Bệnh viện đa khoa
CBYT : Cán bộ y tế
CDC : Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật
(Centers for Disease Control and Prevention)
CTV : Cộng tác viên
CTVDS : Công tác viên dân số
GVMN : Giáo viên mầm non
ICD : Phân loại Quốc tế về bệnh tật
(International Classification of Diseases)
NCST : Người chăm sóc trẻ
NVYT : Nhân viên y tế
NVYT : Nhân viên y tế thôn bản
PHCN : Phục hồi chức năng
PVS : Phỏng vấn sâu
RLTK : Rối loạn tự kỷ
SCT : Sau can thiệp
TCT : Trước can thiệp
TLN : Thảo luận nhóm
TP : Thành phố
TTK : Trẻ tự kỷ
TTYT : Trung tâm y tế
TTYTDP : Trung tâm y tế dự phòng
TƯ : Trung ương
TYT : Trạm y tế
UBND : Ủy ban nhân dân
WHO : Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
xi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bốn chiến lược ưu tiên để quản lý toàn diện RLTK theo khuyến cáo của
WHO ................................................................................................................................ 9
Hình 1.2.. Khung chiến lược quản lý RLTK theo khuyến cáo của Sáng kiến Sức khỏe
Cộng đồng Tự kỷ Toàn cầu............................................................................................ 11
Hình 1.3.. Khung hành động quản lý RLTK theo khuyến cáo của Diễn đàn Tự kỷ
WISH ............................................................................................................................. 12
Hình 1.4. Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Hoa Kỳ ...................................... 13
Hình 1.5. Mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại Bắc Ireland ........................................... 14
Hình 1.6. Các thành tố của chương trình Giúp đỡ trẻ RLTK tại Úc .............................. 15
Hình 1.7. Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Malaysia ................................... 16
Hình 1.8. Bốn thành tố quan trọng trong mô hình quản lý RLTK ở trẻ em .................. 17
Hình 1.9. Các bước xây dựng mô hình quản ly RLTK ở trẻ tại cộng đồng ................... 41
Hình 1.10. Mô hình thí điểm quản ly rối loạn tự kỷ ở trẻ tại cộng đồng ....................... 46
Hình 1.11. Khung lý thuyết của luận án ........................................................................ 47
Hình 1.12. Khung logic của luận án .............................................................................. 48
Hình 2.1: Quy trình xây dựng và thực hiện chương trình can thiệp .............................. 65
Hình 2.2. Quy trình phát triển tài liệu truyền thông ....................................................... 68
Hình 3.1. Thái độ của NCST về RLTK trước can thiệp (n=193) .................................. 78
Hình 3.2. Sự thay đổi thực hành của NCST khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và sau can
thiệp ................................................................................................................................ 80
Hình 3.3. Thái độ của GVMN về RLTK trước can thiệp (n=182) ................................ 84
Hình 3.4. Sự thay đổi thực hành của GVMN khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và sau can
thiệp ................................................................................................................................ 86
Hình 3.5. Thái độ của NVYT về RLTK trước can thiệp (n=300) ................................. 89
Hình 3.6: Sự thay đổi thực hành của NVYT khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và sau can
thiệp ................................................................................................................................ 91
Hình 3.7. Điểm xu hướng giữa khối cân bằng ............................................................... 93
Hình 3.8. Tỷ lệ tiếp cận với các sản phẩm truyền thông của chương trình ................... 98
Hình 3.9. Thông điệp chính được đối tượng đích rút ra sau chương trình .................... 99
xii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Một số thông tin về địa bàn nghiên cứu ........................................................ 42
Bảng 2.1. Các phương án tính toán cỡ mẫu ................................................................... 51
Bảng 2.2. Cỡ mẫu thực tế cho từng nhóm đối tượng ..................................................... 52
Bảng 2.3. Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính ................................................................. 53
Bảng 2.4. Các nhóm biến số trong nghiên cứu định lượng............................................ 54
Bảng 2.5. Các chủ đề trong nghiên cứu định tính .......................................................... 56
Bảng 2.6. Ma trận chiến lược tiếp cận và giải pháp can thiệp ....................................... 66
Bảng 2.7. Kế hoạch thực hiện can thiệp truyền thông theo thời gian ............................ 67
Bảng 3.1. Thông tin chung về NCST trước và sau can thiệp ........................................ 71
Bảng 3.2. Thông tin chung về giáo viên mầm non trước và sau can thiệp .................... 72
Bảng 3. 3. Thông tin chung về nhân viên y tế trước và sau can thiệp ........................... 73
Bảng 3.4. Sự thay đổi kiến thức của NCST về RLTK đối với từng nội dung trước và
sau can thiệp ................................................................................................................... 75
Bảng 3.5. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của NCST về
RLTK trước và sau can thiệp ......................................................................................... 77
Bảng 3.6. Sự thay đổi thái độ của NCST về RLTK trước và sau can thiệp .................. 79
Bảng 3.7. Sự thay đổi kiến thức của GVMN về RLTK đối với từng nội dung trước và
sau can thiệp 81
Bảng 3.8. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của GVMN về rối
loạn tự kỷ trước và sau can thiệp ................................................................................... 83
Bảng 3.9. Sự thay đổi thái độ của GVMN về RLTK trước và sau can thiệp................. 84
Bảng 3.10. Sự thay đổi kiến thức của NVYT về RLTK đối với từng nội dung trước và
sau can thiệp ................................................................................................................... 87
Bảng 3.11. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của NVYT về
RLTK trước và sau can thiệp ......................................................................................... 88
Bảng 3.12. Sự thay đổi thái độ của NVYT về rối loạn tự kỷ trước và sau can thiệp .... 90
Bảng 3.13. Số khối cân bằng giữa các nhóm và kết quả phân tích PSM ....................... 92
Bảng 3.14. Đánh giá sự cân bằng trong mẫu sau khi ghép cặp ..................................... 94
Bảng 3.15. Tác động của can thiệp lên kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN
và NVYT theo phân tích PSM ....................................................................................... 95
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn phổ tự kỷ, hay còn gọi là rối loạn tự kỷ (RLTK), là một nhóm các
rối loạn phát triển phức hợp của não. Đây là một thuật ngữ tổng hợp bao gồm các
tình trạng tự kỷ, rối loạn bất hòa nhập ở trẻ em và hội chứng Asperger. Rối loạn này
được đặc trưng bởi những khó khăn trong tương tác xã hội, giao tiếp và một loạt các
hành vi và mối quan tâm bị hạn chế hoặc bị lặp đi lặp lại [120]. Các nghiên cứu
dịch tễ học gần đây ước tính tỷ lệ trẻ mắc RLTK toàn cầu là 0,62% [118]. Bên cạnh
đó, tỷ lệ trẻ mắc RLTK cũng tăng nhanh theo thời gian. Ví dụ tại Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc
RLTK trong giai đoạn 1962-1967 là 0,07-0,31%, đến giai đoạn 1987-1999 đã lên
tới 1,1% [40], và báo cáo gần đây nhất điều tra năm 2014 trện trẻ 8 tuổi là 1,68%
[33]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu ở quy mô nhỏ (tiến hành tại các bệnh viện hoặc
ở cộng đồng dân cư trong phạm vi hẹp) cho thấy tỷ lệ mắc RLTK ở trẻ dao động từ
0,4 – 0,7%, trong đó trẻ nam có tỷ lệ mắc cao hơn trẻ nữ khoảng 2,1 – 7,7 lần, trẻ
em thành phố mắc cao hơn so với trẻ em nông thôn [7], [8], [13], [21], [23]. Công
bố mới nhất trên quy mô lớn hơn (ba tỉnh Hà Nội, Hòa Bình và Thái Bình) cho
thấy, tỷ lệ RLTK ở trẻ từ 18 đến 30 tháng là 0,75% [61].
RLTK mang đến gánh nặng lớn về cả vật chất và tinh thần đối với các gia
đình có trẻ tự kỷ (TTK). Nghiên cứu gần đây tại Hoa Kỳ dự báo gánh nặng kinh tế
của RLTK ở trẻ trong khoảng 276-1.011 tỷ Đô la Mỹ, tương đương với 0,98-3,60%
GDP vào năm 2025 [74]. Gánh nặng kinh tế chủ yếu đến từ chi phí dành cho hỗ trợ
sinh hoạt hàng ngày, giáo dục đặc biệt hay do giảm năng suất lao động của gia đình,
trong khi đó chỉ cần những cải thiện nhỏ trong kết quả can thiệp cho trẻ mắc RLTK
cũng đã làm giảm đáng kể những chi phí này trong suốt cuộc đời của trẻ [102].
Quản lý RLTK giúp phát hiện, chẩn đoán sớm trẻ mắc RLTK, từ đó nâng
cao hiệu quả của những can thiệp và hỗ trợ trẻ mắc RLTK, phòng ngừa các khuyết
tật thứ phát, đảm bảo cho trẻ có thể sống tự lập, lao động và hòa nhập xã hội, do đó
giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội trong tương lai [118]. Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) và các tổ chức quốc tế về tự kỷ đã đưa ra các khung chiến lược và cách tiếp
cận để hướng dẫn quản lý RLTK ở trẻ em [83], [114], [118]. Theo những khuyến
cáo này, một số quốc gia trên thế giới, bao gồm cả phát triển và đang phát triển, đã
triển khai quản lý RLTK tại cộng đồng một cách hiệu quả. Ví dụ, Hoa Kỳ, Úc, Bắc
Ireland, Malaysia, bên cạnh việc triển khai chương trình truyền thông nâng cao
2
nhận thức của cộng đồng nhằm phát hiện sớm trẻ mắc RLTK, các quốc gia này
cũng đã xây dựng hệ thống văn bản cập nhật và toàn diện [31], [39], [59], [78].
Trong khi đó, tại Việt Nam, quản lý trẻ RLTK vẫn chưa được thực hiện. Các hoạt
động phát hiện, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ trẻ RLTK được
thực hiện một cách riêng lẻ, chủ yếu do những nỗ lực của gia đình trẻ, với sự trợ
giúp của cơ sở y tế, cơ sở phục hồi chức năng và một số tổ chức phi chính phủ [23].
Thêm vào đó, cộng đồng, ngay cả cán bộ y tế (CBYT) và những người làm công tác
can thiệp cho trẻ RLTK, còn thiếu kiến thức và có nhiều quan điểm sai lầm về
RLTK [12], [16]. Các dịch vụ can thiệp cho trẻ RLTK thiếu về số lượng [4], [23] và
hạn chế về chất lượng [111]. Điều này đã dẫn đến thực trạng trẻ mắc RLTK được
phát hiện và chẩn đoán muộn [8], [113]; hoặc thậm chí trẻ tự kỷ đã lớn nhưng
không được chẩn đoán và nhận được bất kỳ can thiệp nào, không hòa nhập được
với môi trường xã hội xung quanh và phải sống phụ thuộc vào sự chăm sóc của
người thân trong gia đình [23].
Chính vì những lý do trên, xây dựng mô hình quản lý trẻ mắc RLTK tại cộng
đồng, trước tiên trong khuôn khổ của ngành y tế, phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn
hóa xã hội tại Việt Nam là điều vô cùng cần thiết. Đề tài cấp Nhà nước “Nghiên
cứu đặc điểm dịch tễ học, phương pháp chẩn đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ
ở trẻ em tại cộng đồng” bao gồm bốn nhánh, trong đó có Nhánh 4: “Xây dựng mô
hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng” đã được triển khai nhằm đáp ứng nhu
cầu cần thiết đó. Trong khuôn khổ đề tài Nhánh 4, mô hình quản lý RLTK ở trẻ em
tại cộng đồng đã được xây dựng và triển khai thí điểm tại hai tỉnh Hoà Bình và Thái
Bình từ năm 2017 đến 2018 với các hoạt động can thiệp bao gồm truyền thông nâng
cao kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK tại cộng đồng; kết hợp với các hoạt động
tác động lên hệ thống y tế ở cả ba tuyến xã, huyện và tỉnh đã được thực hiện. Mô
hình thí điểm này nếu được chứng minh về tính hiệu quả và khả thi sẽ là bằng
chứng quan trọng trong việc triển khai trên phạm vi rộng hơn trong tương lai. Vì
thế, được sự đồng ý của chủ nhiệm đề tài, nghiên cứu sinh đã thực hiện luận án
“Kết quả triển khai mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng ở
hai tỉnh Hoà Bình và Thái Bình” nhằm cung cấp những bằng chứng khoa học về tính
hiệu quả và khả thi của mô hình giúp các nhà hoạch định chính sách và các bên liên
quan có cơ sở đề xuất các hoạt động quản lý trẻ RLTK tại Việt Nam.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ, giáo viên mầm
non và nhân viên y tế về rối loạn tự kỷ ở trẻ em trước và sau triển khai thí điểm
mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng tại hai tỉnh Hòa Bình và
Thái Bình, năm 2017 - 2019.
2. Đánh giá tính phù hợp và tính khả thi của mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự
kỷ ở trẻ em tại cộng đồng.
4
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Rối loạn tự kỷ
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về RLTK, trong nghiên cứu này, chúng tôi sử
dụng khái niệm của WHO: RLTK là một nhóm các rối loạn phát triển phức hợp
của não. Đây là một thuật ngữ tổng hợp bao gồm các tình trạng tự kỷ, rối loạn bất
hòa nhập ở trẻ em và hội chứng Asperger. Rối loạn này được đặc trưng bởi những
khó khăn về giao tiếp, tương tác xã hội và một loạt các hành vi, mối quan tâm bị
hạn chế hoặc bị lặp đi lặp lại [120].
1.1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ
Từ khi phát hiện về RLTK vào năm 1943 cho đến nay, khoa học vẫn chưa
xác định chính xác nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của hội chứng này. Các nghiên
cứu trên thế giới cho thấy có nhiều yếu tố khác nhau khiến cho trẻ có khả năng mắc
RLTK, bao gồm các yếu tố thuộc về sinh học và môi trường.
- Yếu tố gen và di truyền: Hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng gen là
một trong những yếu tố nguy cơ của RLTK, trong đó có đến 25% các trường hợp
mắc RLTK có sự sắp xếp lại các nhiễm sắc thể và có những đột biến về gen [63].
Các nghiên cứu trên các cặp sinh đôi cùng trứng và chị em ruột đã cho thấy tỷ lệ
RLTK ở những cặp sinh đôi có thể lên tới 90%, còn tỷ lệ này ở anh/chị em ruột chỉ
khoảng từ 3-14% [58], [86].
- Não bất thường và các bệnh lý ở não: Một số nghiên cứu phát hiện ra trẻ
tự kỷ có hành tủy, tiểu não bé hơn mức bình thường hay có sự bất thường trong vỏ
não trước trán và thái dương- những khu vực có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển ngôn ngữ và nhận thức của trẻ [92], [107].
- Tuổi của bố mẹ: Bằng chứng từ các nghiên cứu dịch tễ học và di truyền
học ủng hộ giả thuyết rằng tuổi của cả bố và mẹ càng cao càng làm tăng nguy cơ
RLTK ở con cái, mặc dù cơ chế làm tăng nguy cơ sinh con mắc RLTK ở bố và mẹ
là hoàn toàn khác nhau [46], [73].
5
- Bà mẹ dùng thuốc, mắc các bệnh nhiễm trùng trong quá trình mang
thai: Một số nghiên cứu cho thấy, bà mẹ dùng thuốc valproic acid, thalidomide
trong quá trình mang thai sẽ sinh con bị RLTK cao hơn [42], [66], [106]. Bà mẹ
mang thai mắc các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là các bệnh do vi khuẩn gây ra sẽ làm
tăng nguy cơ mắc RLTK ở trẻ [30], [69].
- Tình trạng dinh dưỡng, cân nặng, sức khỏe tinh thần và môi trường
sống của người mẹ lúc mang thai: Một số nghiên cứu cho thấy bà mẹ bị béo phì;
có các tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần (căng thẳng, lo âu, trầm cảm); thiếu vi
chất dinh dưỡng như axit béo không bão hòa, sắt, methionine, axit folic, vitamin...;
hay tiếp xúc với kim loại nặng trong thời kỳ mang thai làm tăng nguy cơ mắc
RLTK ở trẻ [70], [99], [108].
1.1.3. Những dấu hiệu nghi ngờ và chẩn đoán trẻ mắc rối loạn tự kỷ
Hội Tâm thần Mỹ nhấn mạnh: Không có xét nghiệm y tế cho RLTK. RLTK
được chẩn đoán dựa trên việc quan sát cách đứa trẻ nói và hành động so với những
đứa trẻ khác cùng tuổi [28]. Những dấu hiệu quan trọng hay còn gọi là “lá cờ đỏ”
nghi ngờ trẻ mắc RLTK, bao gồm [2], [5], [39]:
✓ Trẻ 9 tháng tuối không đáp ứng bằng tương tác âm thanh, nụ cười hoặc
không giơ tay đòi bế;
✓ Trẻ 12 tháng tuổi không bập bẹ nói, không biết đáp ứng khi gọi tên;
✓ Trẻ 12 tháng tuổi không biết dùng ngón trỏ để biểu hiện mối quan tâm
✓ Trẻ 16 tháng tuổi chưa nói được từ đơn (ví dụ: bố, mẹ)
✓ Trẻ 24 tháng tuổi chưa nói được 2 từ đơn (ví dụ ăn cơm)
✓ Trẻ tránh giao tiếp bằng mắt hoặc thích chơi một mình
✓ Mất kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng giao tiếp xã hội ở bất kỳ lứa tuổi
nào
✓ Trẻ thấy khó chịu vì những thay đổi nhỏ
✓ Trẻ làm những hành vi lặp lại: vỗ tay, đung đưa cơ thể, vẽ vòng tròn…
✓ Trẻ có những cơn giận dữ bất thường và đôi khi dữ dội với mùi vị, hình
dáng hoặc cảm giác của một thứ nào đó
6
1.1.4. Tỷ lệ trẻ mắc rối loạn tự kỷ trên thế giới và Việt Nam
1.1.4.1. Tỷ lệ trẻ mắc rối loạn tự kỷ trên thế giới
Các nghiên cứu dịch tễ học gần đây ước tính tỷ lệ trẻ mắc RLTK toàn cầu là
62/10.000, nghĩa là cứ 160 trẻ thì có 1 trẻ mắc RLTK. Đây là con số ước lượng
trung bình và thay đổi qua các nghiên cứu. Một số nghiên cứu được thiết kế tốt đã
báo cáo tỷ lệ cao hơn đáng kể [118]. Đặc biệt, kết quả của các điều tra khảo sát qua
các năm cũng cho thấy tỷ lệ mắc RLTK tăng theo thời gian. Ví dụ ở Mỹ, nghiên
cứu của Treffert trong giai đoạn 1962-1967 trên 899.750 trẻ từ 3-12 tuổi cho thấy tỷ
lệ mắc RLTK chỉ là 0,07-0,31%; đến năm 2001 trong báo cáo của Croen và cộng sự
khảo sát trên 4,6 triệu trẻ em dưới 12 tuổi trong 12 năm từ 1987-1999 tỷ lệ trẻ mắc
RLTK lên tới 1,1% [40]. Báo cáo gần đây nhất (tháng 4/2018) của Mạng lưới Giám
sát Tự kỷ và các Khuyết tật phát triển (Autism and Developmental Disabilities
Monitoring_ADDM) của Hoa Kỳ đã công bố tỷ lệ RLTK ở trẻ em 8 tuổi là 1,68%
(tương đương với 1/59) [33]. Tại các nước Châu Á, tỷ lệ mắc RLTK được báo cáo
trong các nghiên cứu gần đây cũng cao hơn so với trước đây, cụ thể trước năm 1980
là khoảng 1,9/10.000 và lên đến trên 14,8/10.000 từ năm 1980 đến nay. Tỷ lệ mắc
RLTK trung bình ở trẻ em 2-6 tuổi được báo cáo ở Trung Quốc từ năm 2000 đến
nay khác nhau giữa các nghiên cứu từ 1,8 đến 424,6/10.000 [122]. Một bài báo tổng
quan (Tina Ting Xiang Neik và cộng sự, 2014) về thực trạng hiện mắc, chẩn đoán,
điều trị và xu hướng nghiên cứu về RLTK tại Singapore và Malaysia cho thấy mặc
dù thừa nhận có sự gia tăng tỷ lệ RLTK nhưng chưa có một báo cáo hoặc nghiên
cứu chính thức nào công bố về tỷ lệ trẻ mắc RLTK tại cộng đồng [85].
Tại các nước châu Phi, các dữ liệu về tỷ lệ hiện mắc RLTK gần như không
sẵn có hoặc rất hiếm [103], [118]. Một tổng quan hệ thống các nghiên cứu về
RLTK ở Châu Phi vào năm 2016 cho thấy, hầu hết các nghiên cứu mới được tiến
hành từ năm 2006 và chủ yếu được thực hiện ở 2 quốc gia Nam Phi và Nigeria,
trong đó chỉ có một nghiên cứu được thực hiện ở cộng đồng nhằm xác định tỷ lệ
hiện mắc RLTK, các nghiên cứu còn lại đều được thực hiện tại các cơ sở y tế [24].
7
Nhìn chung, RLTK không còn là một rối loạn hiếm gặp nhưng nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng phần lớn trẻ mắc RLTK được phát hiện, chẩn đoán và can thiệp
muộn [33] [122].
1.4.1.2. Tỷ lệ trẻ mắc rối loạn tự kỷ tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các nghiên cứu ở quy mô nhỏ (tiến hành tại các bệnh viện
hoặc ở cộng đồng dân cư trong phạm vi hẹp) cho thấy tỷ lệ mắc RLTK ở trẻ dao
động từ 0,4 – 0,7%, trong đó tỷ lệ mắc bệnh chia theo giới (nam/nữ) khoảng 2,1 –
7,7, trẻ em thành phố mắc bệnh cao hơn so với trẻ em nông thôn [7], [8], [13], [21],
[23]. Công bố mới nhất trên quy mô lớn hơn (ba tỉnh Hà Nội, Hòa Bình và Thái
Bình) cho thấy, tỷ lệ RLTK ở trẻ từ 18 đến 30 tháng là 0,75% [61].
1.2. Quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
1.2.1. Một số thuật ngữ liên quan
- Nhận biết: là quan sát được những dấu hiệu đầu tiên gợi ý trẻ có thể có nguy cơ
hoặc bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần và hành vi [3].
- Phát hiện (hay còn gọi là sàng lọc): là sự nhận biết một cách có hệ thống những
dấu hiệu bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần và hành vi, thông qua việc sử
dụng các công cụ sàng lọc. Các công cụ sàng lọc để phát hiện các bất thường sẽ
được các thành viên trong gia đình, cộng đồng hoặc CBYT, cán bộ giáo dục thực
hiện. Kết quả sàng lọc chưa phải là chẩn đoán, trẻ cần được thăm khám chuyên
khoa để có chẩn đoán cuối cùng [3].
- Chẩn đoán: là sự xác định (khẳng định) các khiếm khuyết về phát triển hoặc
những bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần và hành vi; do các nhà chuyên
môn chuyên ngành sâu như CBYT nhi khoa, phục hồi chức năng, chuyên gia tâm lý
– giáo dục – xã hội thực hiện [3].
- Can thiệp: là những hỗ trợ giúp hạn chế tối đa các khuyết tật, tăng cường hoạt
động chức năng chủ động và chất lượng cuộc sống của trẻ [3], [9].
- Sớm: có nghĩa là mọi việc phải bắt đầu ngay khi trẻ còn bé. Đối với RLTK, việc
phát hiện, chẩn đoán và can thiệp khi khi trẻ dưới 3 tuổi sẽ cải thiện hiệu quả điều
trị và làm tăng chất lượng sống của trẻ và gia đình sau này [22], [28], [39].
8
- Quản lý bệnh: là cách tiếp cận chăm sóc người bệnh, trong đó nhấn mạnh đến sự
chăm sóc toàn diện theo diễn biến của bệnh (nhận biết, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị
và theo dõi tình trạng bệnh) và phối hợp các nguồn lực trên toàn hệ thống chăm sóc
sức khỏe ở mọi cấp độ (tuyến). Đây là cách tiếp cận được áp dụng để quản lý các
bệnh không lây nhiễm và đã được chứng minh về tính hiệu quả-chi phí cao [117].
- Quản lý rối loạn tự kỷ: RLTK là một khuyết tật khởi phát từ khi trẻ còn nhỏ và
kéo dài suốt cuộc đời, do đó WHO đã nhấn mạnh sự cần thiết của quản lý RLTK
một cách toàn diện, trong đó nhấn mạnh đến việc phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và
can thiệp sớm cho trẻ mắc RLTK [118].
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em
Thực hiện quản lý và hỗ trợ RLTK trước hết là thực hiện Tuyên ngôn Quốc
tế về Nhân quyền, Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, Công ước Quốc tế về Quyền
của người khuyết tật. Năm 2007, Liên hợp quốc bắt đầu thể hiện ro sự quan tâm đến
RLTK và từ đó đến nay thông qua một loạt các Nghị quyết nhấn mạnh nhu cầu của
người khuyết tật về phát triển trong đó có RLTK. Tại kỳ họp thứ 34, Liên hợp quốc
đã kêu gọi lấy ngày 2/4 hàng năm là “Ngày thế giới nhận thức về RLTK” [112].
Quản lý RLTK giúp giảm gánh nặng về kinh tế cho gia đình có trẻ RLTK và
cho toàn xã hội. RLTK mang đến một gánh nặng lớn về cả vật chất và tinh thần đối
với các gia đình có trẻ tự kỷ. Chăm sóc trẻ tự kỷ là vô cùng khó khăn, đặc biệt trong
bối cảnh các quốc gia mà việc tiếp cận tới các dịch vụ y tế và hỗ trợ xã hội là không
đầy đủ [118]. Nghiên cứu gần đây tại Hoa Kỳ dự báo gánh nặng kinh tế của RLTK
ở trẻ trong khoảng 276-1.011 tỷ Đô la Mỹ, tương đương với 0,98-3,60% GDP vào
năm 2025 và có thể vượt xa bệnh đái tháo đường và tăng động giảm chú ý [74].
Gánh nặng kinh tế chủ yếu đến từ chi phí dành cho hỗ trợ sinh hoạt hàng ngày, giáo
dục đặc biệt hay do giảm năng suất lao động của gia đình, trong khi đó chỉ cần
những cải thiện nhỏ trong kết quả can thiệp cho trẻ mắc RLTK cũng đã làm giảm
đáng kể những chi phí này trong suốt cuộc đời của trẻ [102]. Quản lý RLTK giúp
phát hiện, chẩn đoán sớm RLTK ở trẻ, từ đó nâng cao hiệu quả của những can thiệp
và hỗ trợ trẻ có RLTK, phòng ngừa các khuyết tật thứ phát, đảm bảo cho trẻ có thể
9
sống tự lập, lao động và hòa nhập xã hội, do đó giảm gánh nặng cho gia đình và xã
hội trong tương lai [118].
1.2.3. Khuyến cáo của các tổ chức quốc tế về quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em
- Khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
Tháng 4 năm 2013, Nghị quyết 133/4 của WHO đã nhấn mạnh, những ứng
phó đối với RLTK phải dựa trên các nguyên tắc của bao phủ và tiếp cận dịch vụ y
tế toàn dân; quyền con người; thực hành dựa vào bằng chứng; phương pháp tiếp cận
vòng đời, đa ngành và trao quyền cho những người bị RLTK và gia đình của họ. Để
thực hiện việc quản lý RLTK một cách toàn diện, mỗi quốc gia cần ưu tiên 4 nhóm
chiến lược sau (Hình 1.1) [118]:
Hình 1.1. Bốn chiến lược ưu tiên để quản lý toàn diện RLTK theo khuyến cáo
của WHO
Đến tháng 9 năm 2013, trong cuộc họp với tiêu đề “RLTK và các rối loạn
phát triển khác: từ nâng cao nhận thức tới nâng cao năng lực”, WHO tiếp tục nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc củng cố hệ thống y tế và nâng cao năng lực, đặc biệt
đối với các nước có thu nhập thấp và trung bình. Cụ thể như sau: [119]
10
- Củng cố hệ thống y tế để cung cấp các dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán và can
thiệp cho trẻ mắc RLTK; gắn kết với hoạt động quản lý các khuyết tật, rối loạn tâm
thần và phát triển khác.
- Áp dụng cách tiếp cận toàn diện, liên ngành, có sự tham gia của nhiều lĩnh
vực như y tế, giáo dục, lạo động và phúc lợi xã hội nhằm nâng cao sức khỏe, chăm
sóc, phục hồi chức năng và hỗ trợ phúc lợi xã hội một cách tối ưu cho người RLTK.
- Chăm sóc sức khỏe ban đầu có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm
cũng như hỗ trợ và chăm sóc cho người RLTK.
- Áp dụng mô hình hợp tác chia sẻ với các nhóm dựa vào cộng đồng giúp
đảm nhận các nhiệm vụ liên quan đến đánh giá, quản lý và theo dõi trẻ mắc RLTK
với sự tư vấn từ các chuyên gia tuyến trên.
- Đặc biệt đối với các nước thu nhập thấp và trung bình, nâng cao năng lực
cho các nhóm đối tượng như người cung cấp dịch vụ chăm sóc, cha mẹ, giáo viên
và các nguồn lực khác tại cộng đồng cần được xác định là một vấn đề ưu tiên.
1.2.3.2. Khuyến cáo của Sáng kiến Sức khỏe cộng đồng Tự kỷ Toàn cần
Năm 2008, Tổ chức Tự kỷ lên tiếng (Autism Speaks) đã th4eành lập Sáng
kiến Sức khỏe Cộng đồng Tự kỷ Toàn cầu (Global Autism Public Health
Initiative_GAPH) nhằm xây dựng các chiến lược có hệ thống và bền vững giúp
nâng cao nhận thức, thúc đẩy nghiên cứu, đào tạo và cung cấp dịch vụ toàn cầu.
Khung chiến lược quản lý RLTK của GAPH đưa ra bao gồm 5 cấu phần chính như
sau (Hình 1.2) [114]:
11
Hình 1.2.. Khung chiến lược quản lý RLTK theo khuyến cáo của Sáng kiến
Sức khỏe Cộng đồng Tự kỷ Toàn cầu
- Khuyến cáo của Diễn đàn Tự kỷ WISH
Gần đây nhất, năm 2016, Diễn đàn Tự kỷ WISH (World Innovation Sumit
for Health) đã đưa ra khung hành động giúp quản lý và giải quyết RLTK và các rối
loạn phát triển thần kinh khác trên toàn cầu. Khung hành động này hướng đến các
nhà hoạch định chính sách, và dựa trên cách tiếp cận đa ngành bao gồm dịch vụ y
tế, giáo dục và xã hội (Hình 1.3) [83]:
12
Hình 1.3.. Khung hành động quản lý RLTK theo khuyến cáo của Diễn đàn Tự
kỷ WISH
1.2.4. Một số mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em trên thế giới
- Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ tại Hoa Kỳ
Nhấn mạnh rằng RLTK là một khuyết tật phát triển có thể gây ra những khó
khăn đáng kể về mặt xã hội, giao tiếp và hành vi, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh
(CDC) Hoa kỳ đã xây dựng các hướng dẫn, chính sách toàn diện để sàng lọc, chẩn
đoán và can thiệp cho trẻ tự kỷ. Để thực hiện việc quản lý RLTK hiệu quả, Mạng
lưới Giám sát tự kỷ và các khuyết tật phát triển (Autism and Developmental
Disabilities Monitoring Network _ADDM) được thành lập nhằm cung cấp những
dữ liệu cần thiết, cập nhật về RLTK, xác định các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
của bệnh giúp xác định trẻ mắc RLTK càng sớm càng tốt [39]. Thêm vào đó, Chiến
dịch truyền thông “Nhận biết dấu hiệu, Hành động sớm” (Learn the Signs, Act
Early) được triển khai liên tục từ năm 2004 đến nay đã giúp nâng cao kiến thức,
thực hành của cộng đồng (đặc biệt 3 nhóm đối tượng đích: cha mẹ, CBYT và giáo
Hỗ trợ việc
tiếp cận các
chương trình
giáo dục
cộng đồng,
đào tạo nghề
và việc làm
Y TẾ VÀ AN SINH XÃ HỘI CHO TTK
Nâng cao
nhận
thức và
tỷ lệ sàng
lọc, chẩn
đoán sớm
Cung cấp
can thiệp
dựa trên
bằng
chứng và
các dịch
vụ
Triển
khai hệ
thống hỗ
trợ gia
đình
Triển
khai các
nghiên
cứu và
giám sát
có chất
lượng
DỊCH VỤ XÃ HỘI
GIÁO DỤC
Y TẾ
13
viên mầm non/tiểu học) trong việc nhận biết và phát hiện RLTK ở trẻ [44], [49].
Mô hình quản lý RLTK ở trẻ em của Hoa Kỳ có thể được minh như Hình 1.4 [114]:
Hình 1.4. Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Hoa Kỳ
- Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ tại Bắc Ireland
Năm 2011, Bắc Ireland đã xây dựng và áp dụng mô hình “Sáu bước Quản lý
Rối loạn tự kỷ” (Hình 1.5) với mục đích bao phủ toàn bộ quá trình từ phát hiện,
chẩn đoán, theo doi liên tục và tiếp cận đến các can thiệp, dịch vụ cho trẻ hoặc
thanh thiếu niên mắc RLTK, trong đó nhấn mạnh đến Hệ thống quản lý chuyển
tuyến và hoạt động của các Nhóm đa ngành [59].
Điều tra
cộng đồng
Chiến dịch
truyền
thông
Đánh giá
lâm sàng,
khẳng định
trẻ mắc
RLTK
Các can
thiệp sớm
dựa vào
bằng
chứng
Dịch vụ y tế,
giáo dục, xã
hội tiếp tục
được cung khi
trẻ đến tuổi
trưởng thành
Chuyển tiếp từ
hệ thống giáo
dục sang hỗ trợ
việc làm
hoặc/và các
dịch vụ khác
Y TẾ
XÃ HỘI
GIÁO DỤC
XÃ HÔI
GIÁO DỤC
14
Hình 1.5. Mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại Bắc Ireland
Hệ thống quản lý
chuyển tuyến
Không đạt tiêu chí
Bước 1: Kiểm tra trực
tiếp
Dịch vụ khác phù
hợp
Trẻ không mắc
RLTK
Bước 6: Rà soát định kỳ
Kế hoạch chăm sóc/hỗ trợ
cho trẻ và gia đình
- Chương trình can thiệp sớm
- Can thiệp giáo dục
- Chương trình hỗ trợ cho gia đình
- Thay đổi môi trường
- Can thiệp ngôn ngữ và giao tiếp
- Sức khỏe tâm thần
- Chăm sóc dược (nếu phù hợp)
- Chương trình hỗ trợ hành vi/tâm lý
- Chiến lược xử lý cảm giác
- Chuyển giao
Cung cấp thông tin
cho gia đình
Phối hợp những
đánh giá sâu hơn
Bước 1: Cuộc hẹn đầu
tiên (chẩn đoán ban đầu,
xây dựng mối liên hệ)
Bước 2: Nhóm đánh giá đa ngành
(chẩn đoán xác định)
Bước 3: Nhóm xây dựng đa ngành
(xây dựng nhóm can thiệp)
Bước 4: Kế hoạch chăm sóc/hỗ trợ
và phản hồi của gia đình
Bước 5: Can thiệp và
hỗ trợ tích hợp với gia
đỉnh, bao gồm cả việc
chuyển giao
Điểm tiếp
cận duy
nhất
Chuyển tuyến
tới dịch vụ
RLTK
Biểu mẫu
chuyển tuyến
chuẩn hóa
Nhận biết dấu hiệu
nghi ngờ (NCST,
giáo viên,
CBYT…)
15
- Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ tại Úc
Chương trình “Giúp đỡ trẻ RLTK” (The Helping Children with Autism-
HCWA) được bắt đầu triển kha tại Úc từ năm 2008 trong hệ thống chăm sóc sức
khỏe ban đầu (Medicare Benefit Schedule). Chương trình cung cấp các dịch vụ
chẩn đoán và can thiệp sớm cho trẻ có RLTK hoặc các rối loạn phát triển lan tỏa
khác. Bên cạnh các can thiệp về y tế, chương trình cũng đào tạo giáo viên, các
nhóm hỗ trợ xã hội, các gói hỗ trợ cá nhân và can thiệp sớm cho trẻ có RLTK cũng
như gia đình và người chăm sóc trẻ [55]. Các hoạt động của chương trình được xây
dựng dựa trên việc tổng hợp và phân tích những mô hình can thiệp hiệu quả nhất
trong thực tế [94], [100]. Các cấu phần của Chương trình “Giúp đỡ trẻ RLTK được
minh họa như trong Hình 1.6 [31].
Hình 1.6. Các thành tố của chương trình Giúp đỡ trẻ RLTK tại Úc
- Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ tại Malaysia
Năm 2014, Bộ Y tế Malaysia đã xây dựng và phát triển hướng dẫn về Quản
rối loạn tự kỷ ở trẻ và vị thành niên, trong đó có các khuyến nghị về tiêu chuẩn sàng
lọc, chẩn đoán, điều trị và tổ chức chăm sóc, quản lý trẻ và vị thành niên tự kỷ. Mô
hình quản lý RLTK ở Malaysia được minh họa như Hình 1.7, trong đó có sự tham
gia của gia đình, nhà trường, cơ sở y tế các tuyến, các chuyên gia có liên quan và an
sinh xã hội [78].
16
Đánh giá sự tăng trưởng và phát
triển của trẻ dưới 6 tuổi tại cơ sở
chăm sóc sức khỏe
Đề nghị từ gia đình, nhà
trường
Giới thiệu chuyển tuyến
từ bác sĩ, trị liệu
Sử dụng bảng kiểm sàng lọc M-
CHAT (trong độ tuổi 18 – 24
tháng) *
Bố mẹ trẻ tự điền bảng kiểm
Cho điểm **
Theo dõi
Sàng lọc xác định bởi bác sĩ
Chẩn đoán xác định bởi bác
sĩ chuyên khoa gia đình/
chuyên khoa tâm lý/tâm
thần
Quản ly và đánh giá đa
chiều ***
Trị liệu
ngôn ngữ
Trị liệu
nghề nghiệp
Trị liệu Tâm
lý, hành viGiáo dục
Hỗ trợ xã
hội
Trị liệu bằng
thuốc cho các
bệnh đi kèm
* M-CHAT có thể được sử dụng cho trẻ đến
30 tháng tuổi nếu trẻ lỡ các sàng lọc trước đó.
** Dù kết quả sàng lọc như thế nào, trẻ nghi
ngờ mắc tự kỷ bởi gia đình hay người chăm
sóc đều được chuyển tuyến để chẩn đoán xác
định
Không đạt
*** Hội đồng quản ly và đánh giá đa chiều có thể bao
gồm:
- Bác sĩ chuyên khoa gia đình
- Bác sĩ chuyên khoa Nhi
- Chuyên gia tâm lý
- Chuyên gia tâm lý lâm sàng
- Chuyên gia trị liệu bệnh nghề nghiệp
- Chuyên gia ngôn ngữ
- Chuyên gia nghe
- Chuyên viên y xã hội
Hình 1.7. Mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Malaysia
Ngôn
ngữ trị
liệu
Hoạt
động trị
liệu
Tâm lý/
hành vi trị
liệu
- Bác sĩ gia đình
- Bác sĩ chuyên khoa Nhi
- Chuyên gia tâm lý
- Chuyên gia tâm lý lâm sàng
- Chuyên gia về hoạt động trị liệu
- Chuyên gia về ngôn ngữ trị liệu
- Chuyên gia về thính học
- Nhân viên công tác xã hội
17
1.2.5. Các thành tố quan trọng của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em
Tổng quan những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế và mô hình quản lý
RLTK ở một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy mặc dù các tổ chức và quốc gia
đưa ra khuyến nghị hoặc áp dụng các mô hình khác nhau, quản lý RLTK ở trẻ em
đều có chung bốn thành tố chính sau đây:
Hình 1.8. Bốn thành tố quan trọng trong mô hình quản lý RLTK ở trẻ em
- Hệ thống văn bản chính sách và quản lý điều hành: Là thành tố quan
trọng đầu tiên, được khuyến cáo bởi hầu hết các tổ chức quốc tế [83], [114], [118].
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng cho thấy, hệ thống chính sách và
quản lý điều hành là yếu tố quyết định cho việc triển khai quản lý RLTK. Ví dụ, các
quốc gia có mô hình quản lý RLTK hoạt động hiệu quả như Hoa Kỳ, Bắc Mỹ, Úc,
Bắc Ireland, Malaysia... đã xây dựng hệ thống văn bản chính sách, hướng dẫn
chuyên môn cập nhật và toàn diện để phát hiện, chẩn đoán và điều trị cho người có
RLTK cũng như các chính sách hỗ trợ xã hội, tài chính cho người tự kỷ và gia đình
của họ [39], [55], [59], [78], [85]. Ngược lại, tại Ethiopia, việc chưa có chính sách
cụ thể cho người mắc RLTK đã dẫn đến những khó khăn trong việc triển khai các
dịch vụ cho nhóm đối tượng này [50].
- Hệ thống cung cấp dịch vụ cho người RLTK, trong đó y tế cơ sở giữ vai
trò quan trọng: Quản lý RLTK ở trẻ em dựa vào cộng đồng, bắt đầu từ y tế cơ sở
18
sau đó được kết nối với tuyến cao hơn là chiến lược ưu tiên thứ hai được TTYTTG
nhấn mạnh [118], đồng thời cũng đã được áp dụng và chứng minh hiệu quả tại
nhiều quốc gia trên thế giới, như Hoa kỳ, Anh, Úc, Bắc Ireland hay Malaysia [39],
[55], [59], [78], [85]. Theo đó, NCST/giáo viên/CBYT cơ sở… được trang bị kiến
thức để có thể phát hiện sớm những bất thường trong sự phát triển của trẻ và nếu có
nghi ngờ sẽ đưa trẻ đến cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu để sàng lọc tự kỷ. Tùy
thuộc vào mỗi quốc gia, các bộ công cụ như CHAT, M-CHAT có thể được sử dụng
hoặc phối hợp với các công cụ khác như PDDST-II, STAT, SCQ, ASQ, CAST…
Giai đoạn tiếp theo, chẩn đoán xác định, sẽ được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa
nhi, tâm thần, tâm lý hay phục hồi chức năng ở tuyến cao hơn (bệnh viện công hoặc
tư nhân, trung tâm tự kỷ…). Nếu trẻ đã được chẩn đoán RLTK, các can thiệp sẽ
được áp dụng (sớm nhất có thể) và việc thực hiện, theo dõi can thiệp cho người
RLTK lại được chuyển về y tế cơ sở, cộng đồng và các ngành liên quan (giáo dục,
an sinh xã hội).
- Hệ thống cung cấp thông tin và bằng chứng: Tại các quốc gia có thu nhập
cao, việc xây dựng mạng lưới giám sát hay trung tâm nghiên cứu về RLTK quốc gia
đã được triển khai. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, Mạng lưới Giám sát tự kỷ và các khuyết tật
phát triển (Autism and Developmental Disabilities Monitoring Network - ADDM)
được thành lập từ năm 2000 nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết và cập nhật về
RLTK, xác định các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của RLTK giúp sàng lọc và
chẩn đoán sớm trẻ mắc RLTK. Cho đến nay, ADDM đã có mặt tại 16 bang và theo
doi hơn 300.000 trẻ dưới 8 tuổi [39]. Tại Úc, Hiệp hội Nghiên cứu về RLTK Úc là
nơi cung cấp các bằng chứng về các can thiệp hiệu quả và các vấn đề khác liên quan
đến RLTK cho chương trình “Giúp đỡ trẻ RLTK” hoạt động một cách hiệu quả
[100]. Trong khi đó, hầu hết các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đều chưa có
hệ thống ghi nhận và giám sát RLTK trong cộng đồng cũng như việc triển khai các
nghiên cứu về RLTK còn rất hạn chế. Cùng với đó là những rào cản về chi phí do
các bộ công cụ và hướng dẫn độc quyền dùng để sàng lọc, chẩn đoán và cung cấp
can thiệp cho người mắc RLTK, dẫn tới việc tiếp cận sàng lọc, chẩn đoán và điều trị
RLTK càng có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia có thu nhập khác nhau trên toàn
cầu [109].
19
- Chương trình truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng: Quản lý
RLTK ở trẻ em hướng tới việc nhận biết sớm và phát hiện sớm trẻ mắc RLTK từ
cộng đồng, do đó chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị và
tăng cường tính chủ động của cộng đồng là rất quan trọng [83], [114], [118]. Bài
học kinh nghiệm từ các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng
đã được triển khai thành công trên thế giới như chiến dịch truyền thông “Nhận biết
dấu hiệu, Hành động sớm” (Learn the Signs, Act Early) của Hoa Kỳ [40]; chương
trình “Giúp đỡ trẻ RLTK” của Úc [29], Dự án Từ đầu tiên (First Word), Dự án
Tương lai tươi sáng cho gia đình (Bright Futures for Families) [43]…cho thấy đối
tượng đích mà các chương trình hướng tới là những người đầu tiên tiếp xúc trực
tiếp với trẻ như cha mẹ/NCST, GVMN hoặc tiểu học và CBYT tuyến cơ sở… Các
hoạt động chủ yếu của chương trình bao gồm truyền thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng (áp phích, tờ rơi, màn hình chiếu nơi công cộng, ti vi, phát
thanh, trang web, quảng cáo…); cung cấp các tài liệu giúp theo doi, đánh giá sự
phát triển của trẻ ở các mốc quan trọng; đào tạo, tập huấn hay tư vấn trực tiếp...
Ngoài ra, việc áp dụng các mô hình lý thuyết hành vi và cách tiếp cận truyền thông
phù hợp với đặc điểm về dân số, văn hóa, bối cảnh và kết quả mong đợi có ý nghĩa
quan trọng trong quyết định sự thành công của chiến dịch [31], [44], [88].
1.2.6. Thực trạng, những thuận lợi và khó khăn trong quản lý rối loạn tự kỷ ở
trẻ em tại Việt Nam
1.2.6.1. Thực trạng quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Việt Nam
Nghiên cứu của Trần Thị Thu Hà và cộng sự (2008) phân tích cơ sở dữ liệu
trẻ mắc RLTK khám và điều trị tại bệnh viện Nhi Trung ương trong giai đoạn 2004-
2007 cho thấy khoảng 43,48% trẻ tự kỷ đến khám và được chẩn đoán ở giai đoạn
muộn (trên 36 tháng) [8]. Nghiên cứu của Trần Văn Công và cộng sự tiến hành năm
2014 tại 6 tỉnh/thành phố (TP) cho kết quả khả quan hơn với độ tuổi trung bình trẻ
RLTK được chẩn đoán là 30,63 tháng (SD=15,40) và khoảng 34% trẻ được chẩn
đoán sau 36 tháng [113]. Tuy nhiên, đây là kết quả từ những nghiên cứu được tiến
hành trên đối tượng là trẻ mắc RLTK đã được chẩn đoán và điều trị, không phải từ
các khảo sát tại cộng đồng. Trên thực tế, việc phát hiện trẻ mắc RLTK ở Việt Nam
20
còn rất hạn chế, thậm chí nhiều trẻ đã lớn nhưng không có bất kỳ can thiệp nào
hoặc can thiệp trở nên kém hiệu quả, trẻ không hòa nhập được với môi trường xã
hội xung quanh và phải sống phụ thuộc vào sự chăm sóc của người thân trong gia
đình [23].
1.2.6.2. Những thuận lợi trong quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Việt Nam
- RLTK đã được thừa nhận là một dạng khuyết tật trong văn bản quy phạm pháp
luật:
Tại Việt Nam, các chính sách đối với trẻ mắc RLTK và gia đình được quy
định lồng ghép trong hệ thống văn bản, chương trình về người khuyết tật và trẻ em
khuyết tật nói chung. Tuy nhiên, trước tháng 3/2019, RLTK vẫn chưa được đưa vào
các văn bản pháp quy và thừa nhận như một dạng khuyết tật để có các chính sách
hỗ trợ cho nhóm trẻ này về bảo hiểm y tế, điều trị và hỗ trợ tạo việc làm [15], [17].
Ngày 02/01/2019, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
01/2019/TT-BLĐTBXH Quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng
xác định mức độ khuyết tật thực hiện (hiệu lực từ ngày 01/03/2019). Theo đó,
RLTK đã được thừa nhận là một dạng khuyết tật và có những tiêu chí cụ thể để xác
định mức độ khuyết tật, điều đó đồng nghĩa với việc trẻ mắc RLTK và gia đình có
thể được hưởng các chính sách dành cho người khuyết tật [1].
- Chương trình phục hồi chức năng (PHCN) dựa vào cộng đồng (trong đó có
hoạt động phát hiện sớm trẻ khuyết tật) đã và đang được triển khai với nhiều
hoạt động từ trung ương đến địa phương
Những năm gần đây, công tác PHCN cho người bệnh, người khuyết tật
ngày càng được Đảng, nhà nước và ngành Y tế quan tâm, thể hiện bằng các văn
bản của Quốc hội, chính phủ như: Luật Người khuyết tật, Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật; Chương trình PHCN cho người khuyết tật được
Chính phủ phê duyệt là một trong các Chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số giai
đoạn 2016 - 2020. Theo thống kê, tính đến năm 2020, cả nước đã có 63 bệnh
viện, trung tâm PHCN. Ngoài ra, 100% bệnh viện trung ương đều có khoa
PHCN, 90% bệnh viện đa khoa và 40% bệnh viện chuyên khoa cấp tỉnh có khoa
21
PHCN; 70% bệnh viện tuyến huyện có khoa PHCN riêng biệt hoặc ghép với
khoa khác; 95% trạm y tế có phân công cán bộ theo dõi công tác PHCN và
người khuyết tật [125].
1.2.6.3. Những khó khăn trong quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại Việt Nam
- Thiếu cơ sở pháp lý trong việc phối hợp giữa các ngành: Lao động thương binh
xã hội, Y tế và Giáo dục
Dựa trên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, vấn đề
RLTK ở trẻ em ở Việt Nam hiện nay có sự tham gia của 3 ngành chính: Lao động-
Thương binh xã hội (đảm bảo các chế độ bảo trợ, an sinh xã hội cho trẻ và gia đình
trẻ mắc RLTK); Y tế (phát hiện, chẩn đoán, xác định mức độ và tiến hành can thiệp
cho trẻ RLTK) và Giáo dục (giáo dục đặc biệt, giáo dục hòa nhập cho trẻ RLTK).
Tuy nhiên, RLTK mới được thừa nhận một cách chính thức (tại Thông tư số
01/2019/TT-BLĐTBXH Quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng
xác định mức độ khuyết tật thực hiện có hiệu lực từ ngày 01/03/2019 [1]) nên việc
quản lý trẻ RLTK trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Ngoài ra, cho đến nay vẫn
chưa có văn bản pháp lý hướng dẫn một cách cụ thể sự phối hợp giữa các ngành
Lao động - thương binh xã hội, Y tế và Giáo dục trong việc quản lý RLTK ở trẻ.
- Hệ thống cung cấp dịch vụ chẩn đoán và can thiệp cho trẻ mắc RLTK còn
nhiều hạn chế
Kết quả tổng quan tài liệu và tìm hiểu về các cơ sở cung cấp dịch vụ cho trẻ
mắc RLTK tại Việt Nam cho thấy thực trạng thiếu về số lượng và hạn chế về chất
lượng đối với dịch vụ này:
Về số lượng: Hiện nay hoạt động chẩn đoán và can thiệp cho trẻ có RLTK
được thực hiện bởi các đơn vị/tổ chức/cá nhân của ngành y tế, giáo dục, phục hồi
chức năng, và các trung tâm tư vấn tâm ly, tuy nhiên các dịch vụ này hiện chỉ có ở
các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh [23].
Về phía ngành y tế, chỉ có một vài bệnh viện tuyến trên mới có khả năng can
thiệp điều trị trẻ có RLTK, hầu hết các bệnh viện tuyến dưới chưa có khả năng phát
hiện và can thiệp RLTK [23]. Ví dụ, tại Hà Nội có một số đơn vị cung cấp dịch vụ
22
chẩn đoán và điều trị RLTK như tại Khoa Phục hồi chức năng (PHCN) và Khoa
Tâm thần tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Trung tâm Giáo dục Hòa nhập Trẻ em
trực thuộc Hội Khoa Học tâm lý; tại Thành phố Hồ Chí Minh có Khoa Tâm lý tại
Bệnh viện Nhi đồng 1, Nhi đồng 2, khoa Tâm thần nhi của Bệnh viện Tâm thần TP.
Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó cũng có một số các đơn vị tư nhân, các tổ chức phi
chính phủ cũng có chương trình hỗ trợ chẩn đoán và cung cấp kiến thức cho cha mẹ
và người chăm sóc trẻ về RLTK. Ví dụ như Dự án chăm sóc thông minh cho trẻ có
RLTK (A365) do Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP) phối hợp cùng
với Mạng lưới người có RLTK Việt Nam (VAN) và các chuyên gia trong nước và
quốc tế với sự hỗ trợ về tài chính của quỹ Grand Challenges Canada [125].
Mạng lưới bệnh viện phục hồi chức năng đã hình thành nhưng mới chỉ có số
ít thực hiện được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ. Đầu tư cho công tác phục hồi chức
năng còn rất hạn chế. Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã được
triển khai nhưng nguồn lực đầu tư cho chương trình này còn gặp khó khăn [4].
Về phía ngành giáo dục, có rất ít các trường cung cấp dịch vụ hỗ trợ học tập
riêng biệt cho trẻ có RLTK và nếu có thường là ở dưới các dạng khuyết tật khác
như chậm phát triển trí tuệ. Do thiếu hệ thống văn bản pháp ly, các cơ sở giáo dục
chưa có sự thống nhất về mô hình hoạt động cũng như cấp quản lý, cấp phép hoạt
động. Trẻ có RLKT trong các trường chuyên biệt thường nhận được sự giáo dục
dưới khả năng của mình. Bên cạnh đó, những học sinh này thường không có cơ hội
tiếp xúc với những đứa trẻ cũng như người lớn bình thường, và điều này tiếp tục tạo
nên những rào cản ngăn cách người khuyết tật với những người khác [10]. Ơ Hà
Nội, có một số cơ sở giáo dục được thành lập để can thiệp cho trẻ có RLTK như:
Trung tâm can thiệp sớm của trường Cao đẳng sư phạm Trung Ương, Trung tâm
giáo dục đặc biệt AeiC, Trung tâm giáo dục chuyên biệt Hoa Anh Đào...
Về chất lượng: nghiên cứu gần đây của Trần Văn Công và cộng sự (2018)
[111] đánh giá về chất lượng của 68 đơn vị cung cấp dịch vụ cho trẻ RLTK tại 19
tỉnh thành trên toàn quốc cho thấy, đa số các đơn vị là các trung tâm (64,7%), tiếp
đến là trường học (16,2%), công ty tư nhân và bệnh viện (cùng chiếm tỷ lệ 7,4%).
Khi được đánh giá theo 9 tiêu chí (tính pháp ly, tuân thủ đạo đức, nguồn nhân lực,
23
cách tiếp cận can thiệp, quy trình cung cấp dịch vụ, kế hoạch can thiệp, đào tạo
nhân viên định kỳ, cơ sở vật chất và hoạt động bổ trợ), không có đơn vị nào trong
số 68 đơn vị đáp ứng đủ 9 tiêu chí. Có tỷ lệ lớn các đơn vị không có tư cách pháp ly
phù hợp (44,1%), không tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức cơ bản (48,5%), không rõ
ràng về các quy trình can thiệp (69,1%) hoặc kế hoạch can thiệp (89,7%) và không
áp dụng cách tiếp cận dựa trên bằng chứng khi triển khai các can thiệp (42,6%).
- Hệ thống cung cấp thông tin và bằng chứng về vấn đề RLTK còn rất hạn chế
Tại Việt Nam, chưa có hệ thống ghi nhận và giám sát RLTK trong cộng
đồng. Ngoài ra, các nghiên cứu về vấn đề RLTK ở trẻ em còn rất hạn chế, đa số là
các nghiên cứu dịch tễ học ở quy mô nhỏ (trong bệnh viện hoặc cộng đồng dân cư
hẹp) [7], [8], [13], [21]; chỉ một vài nghiên cứu gần đây được triển khai với quy mô
lớn hơn (một vài tỉnh hoặc quốc gia) [23], [61].
- Chương trình truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về RLTK còn
hạn chế dẫn đến việc tiếp cận trẻ mắc RLTK gặp nhiều khó khăn
Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về RLTK ở trẻ
em tại Việt Nam đã bắt đầu được quan tâm trong những năm gần đây tuy nhiên
chưa được tiến hành một cách chính thức và hệ thống từ các quan chuyên ngành Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội. Hoạt động truyền thông chủ yếu do những nỗ
lực của các tổ chức phi chính phủ như: Dự án chăm sóc thông minh cho trẻ có
RLTK (A365) do Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP) phối hợp cùng
với Mạng lưới người có RLTK Việt Nam (VAN) và các chuyên gia trong nước và
quốc tế với sự hỗ trợ về tài chính của quỹ Grand Challenges Canada [124].
Việc thiếu các chương trình truyền thông một cách chính thức về vấn đề
RLTK đã dẫn tới tình trạng thiếu kiến thức, thái độ chưa phù hợp của cộng đồng,
cha mẹ có con mắc RLTK và ngay cả CBYT hay những nhân viên làm công tác can
thiệp cho trẻ về vấn đề này [12], [16], [18]. Đồng thời cũng do tác động của yếu tố
văn hóa – xã hội, trẻ em mắc RLTK và gia đình của chúng trải qua sự kỳ thị và
phân biệt đối xử từ cộng đồng, và điều đó gây nên những khó khăn trong việc tiếp
cận trẻ mắc RLTK [57].
24
1.3. Kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn tự
kỷ ở trẻ em
1.3.1. Một số thang đo đánh giá kiến thức cơ bản, thái độ và thực hành cơ bản
về rối loạn tự kỷ ở trẻ em
RLTK là một “hội chứng” có phạm vi, mức độ, dấu hiệu, quá trình khởi phát
và tiến triển rất khác nhau giữa các cá thể. Các thông tin liên quan đến RLTK thậm
chí vẫn đang tồn tại nhiều tranh cãi. Do đó, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu trên thế
giới tìm hiểu về kiến thức, thái độ của các nhóm đối tượng khác nhau về RLTK, các
thang đo được sử dụng trong các nghiên cứu rất khác nhau. Kết quả tổng quan 19
thang đo được sử dụng trong các nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành
về RLTK trên các nhóm đối tượng NCST, giáo viên mầm non/tiểu học và cán bộ y
tế không chuyên về RLTK trong vòng 10 năm gần đây (bảng tổng hợp được trình
bày trong Phụ lục 2) cho thấy 18/19 thang đo được thiết kế dưới dạng bộ câu hỏi tự
điền và có sự đa dạng cả về nội dung, số lượng câu hỏi và dạng câu hỏi. Không có
khuyến cáo đặc biệt nào về sự khác biệt giữa các thang đo trên các nhóm đối tượng
khác nhau trong cộng đồng.
• Đối với thang đo đánh giá kiến thức:
Đa phần (15/19) nghiên cứu tự xây dựng nội dung của thang đo dựa trên việc
tham khảo hướng dẫn về chẩn đoán RLTK của Hội Tâm thần Hoa Kỳ (DSM –IV)
và các nghiên cứu trước đó [26], [29], [32], [36], [45], [62], [75], [82], [96], [115],
[123]. Các nội dung xuất hiện hầu hết trong thang đo đánh giá kiến thức về RLTK
bao gồm: dấu hiệu/đặc điểm của trẻ RLTK, các nguyên nhân/yếu tố nguy cơ/yếu tố
liên quan đến mắc RLTK, cách điều trị/phương pháp giúp cải thiện tình trạng
RLTK. Một số nghiên cứu đề cập đến bản chất của RLTK [82], tính phổ biến hay
trầm trọng của RLTK [115].
Bốn nghiên cứu còn lại, chủ yếu là những nghiên cứu tiến hành trên đối
tượng cán bộ y tế, sử dụng thang đo đã chuẩn hóa và sử dụng trước đó [48], [64],
[65], [67]. Các thang đo này bao gồm:
25
- Thang đo AKS-R (phiên bản sửa đổi của AKS_Autism Knowledge
Survey): gồm 20 câu tuyên bố về bản chất, nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị/can
thiệp và kết quả; được thiết kế dưới dạng thang đo Likert 6 mức độ (từ hoàn toàn
đồng y đến hoàn toàn không đồng ý).
- Thang đo AKQ (Autism Knowledge Questionnaire): Gồm 30 câu hỏi nhiều
lựa chọn; trong đó có 20 câu hỏi về đặc điểm trẻ RLTK; cách chẩn đoán và mức độ
phổ biến của RLTK và 10 câu hỏi giải quyết tình huống trẻ RLTK.
- Thang đo KCAHW (Knowledge about Childhood Autism among Health
Worker): được sử dụng để đánh giá kiến thức trên nhóm đối tượng là CBYT, Thang
đo gồm 19 câu hỏi (Đúng/Sai/Không biết) về chẩn đoán, mức độ và diễn biến
RLTK, được chia thành 4 nhóm: khiếm khuyết trong tương tác xã hội của trẻ RLTK
(8 câu), khiếm khuyết về ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ RLTK (1 câu), đặc điểm
hành vi của trẻ RLTK (4 câu) và mức độ bệnh, đặc điểm khởi phát và tình trạng
mắc kèm (6 câu).
Về số lượng và dạng câu hỏi trong thang đo, kết quả tổng quan cho thấy có
sự dao động khá lớn giữa các nghiên cứu, từ 5 câu hỏi trong nghiên cứu của Adil
Ayub và cộng sự (2017) [32] đến 33 câu trong nghiên cứu của Imran N. và cộng sự
(2010) [67]. Đa phần các nghiên cứu thiết kế câu hỏi đánh giá kiến thức dưới dạng
câu hỏi Đúng/Sai/Không biết. Một số nghiên cứu sử dụng dạng câu hỏi nhiều lựa
chọn và thang đo Likert (1-5 theo mức độ đồng ý).
Mặc dù sử dụng bộ câu hỏi sẵn có hay tự thiết kế, các nghiên cứu đều nhấn
mạnh đến tính phù hợp của thang đo với bối cảnh văn hóa của từng quốc gia. Ví dụ,
trong nghiên cứu của Abeer M. Alharbi và cộng sự (2018) [26] hay nghiên cứu của
Liu và cộng sự (2016) [75], đối với câu hỏi tìm hiểu kiến thức của đối tượng về
những cơ sở cung cấp dịch vụ phù hợp cho trẻ RLTK, tác giả đã liệt kê các dịch vụ
sẵn có tại địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu của Rahbar và cộng sự (2010) tiến hành
tại Pakistan sử dụng thang đo có những câu hỏi liên quan đến những sai lầm thường
gặp về RLTK tại quốc gia này [97]. Nghiên cứu Imran N. sử dụng thang đo sẵn có
AKS-R, cũng có sự bổ sung và thay thế một số câu bằng những sai lầm phổ biến ở
Pakistan [67].
26
• Đối với thang đo đánh giá thái độ:
Thang đo thái độ cũng rất khác nhau trong các nghiên cứu, tùy thuộc vào
mục tiêu, đối tượng nghiên cứu và bối cảnh văn hóa của từng quốc gia. Các nghiên
cứu trên cha mẹ có con bị RLTK thường tìm hiểu về tính chấp nhận, cảm xúc tích
cực của đối tượng khi con mình mắc RLTK [96]. Trong khi đó, các nghiên cứu trên
nhóm NCST nói chung (không có con bị RLTK), GVMN hay CBYT không chuyên
về RLTK thường tìm hiểu thái độ của đối tượng hướng tới trẻ RLTK và hiệu quả
của các can thiệp cho trẻ RLTK [25], [75], [82], [87], [97], [115]. Một số nội dung
khác trong thang đo thái độ được đề cập đến bao gồm: sự tự tin có thể sàng lọc,
chẩn đoán trẻ RLTK trong các nghiên cứu đối với cán bộ y tế [97]; hay sự ủng hộ,
sẵn sàng giúp đỡ trẻ RLTK hòa nhập tại trường học trong các nghiên cứu đối với
giáo viên [25], [75], [87].
Trong hầu hết các nghiên cứu, thang đo thái độ được xây dựng mới, dựa trên
bối cảnh văn hóa của mỗi quốc gia. Chỉ một vài nghiên cứu trên nhóm đối tượng
giáo viên sử dụng thang đo sẵn có AAST (Autism Attitude Scale for Teachers),
gồm 14 câu hỏi thiết kế dưới dạng thang đo Likert 5 mức độ (từ rất đồng ý tới rất
không đồng ý) [25], [87].
Tương tự thang đo kiến thức, số lượng câu hỏi trong thang đo thái độ cũng
rất đa dạng; dao động từ 1 đến 18 câu. Đa phần được thiết kế dưới dạng thang đo
Likert 5 mức độ; một số ít được thiết kế dưới dạng câu hỏi nhiều lựa chọn hay câu
hỏi Đúng/Sai.
• Đối với thang đo thực hành:
Có rất ít nghiên cứu tìm hiểu về thực hành của các nhóm đối tượng không
phải là chuyên gia về RLTK. Trong tổng số 19 nghiên cứu được đưa vào tổng quan,
chỉ có 2 nghiên cứu đánh giá về thực hành liên quan đến việc lựa chọn chuyên gia
khi phát hiện trẻ có dấu hiệu RLTK với 1 câu hỏi duy nhất [96], [115].
1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ, giáo viên và nhân
viên y tế về rối loạn tự kỷ ở trẻ em trên thế giới
- Kiến thức, thái độ, thực hành của NCST
27
Về kiến thức: Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy NCST đã có kiến thức
nhưng chưa đầy đủ, đặc biệt vẫn tồn tại nhiều quan điểm sai lầm về RLTK:
Ơ một số nghiên cứu định tính tiến hành trên nhóm cha mẹ có con bị RLTK
như nghiên cứu của Chen và cộng sự (2014), của Retaskie và cộng sự (2015) và của
Preity và cộng sự (2017), kết quả cho thấy hầu hết đối tượng “không biết gì” hoặc
“chưa từng nghe đến” RLTK vào thời điểm trước khi con mình được chẩn đoán
mắc RLTK [41], [98], [93].
Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2012) [115] tiến hành trên 4.947 NCST từ
3-6 tuổi tại Trung Quốc, sử dụng bộ câu hỏi tự điền gồm 8 câu hỏi nhiều lựa chọn,
kết quả cho thấy đa số (93,9%) đối tượng đã từng nghe tới RLTK. Trong số đó,
57,8% NCST có thể xác định được đúng các dấu hiệu của RLTK ở trẻ, như: khiếm
khuyết về khả năng giao tiếp (84,7%), khiếm khuyết về tương tác ngôn ngữ
(68,6%); hạn chế giao tiếp bằng mắt với thành viên gia đình (55,9%), có mối quan
tâm hạn hẹp và hành vi rập khuôn (45,9%), thường xuyên nói một mình (36,7%).
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy NCST còn nhiều quan điểm sai lầm về chỉ số
IQ của trẻ tự kỷ, thời điểm khởi phát RLTK và mối liên quan quan của RLTK tới
tình trạng kinh tế/văn hóa của cha mẹ.
Nghiên cứu Holf JM và cộng sự (2013) tiến hành trên 1001 NCST chính
trong hộ gia đình tại Utah, Hoa Kỳ, sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn gồm 1 câu hỏi
mở về dấu hiệu trẻ RLTK và 18 câu hỏi nhiều lựa chọn, cho thấy, gần 60% đối
tượng nghiên cứu tự đánh giá bản thân còn thiếu kiến thức về RLTK. Với câu hỏi
mở về những dấu hiệu của trẻ RLTK mà đối tượng biết đến, tất cả các đối tượng
đều nói được ít nhất 1 dấu hiệu, trong đó các dấu hiệu được nhắc tới nhiều nhất là:
các vấn đề về xã hội (165), tăng động giảm chú ý (116), vấn đề về hành vi (87),
giao tiếp (79), lời nói/âm thanh (72). Điều này cho thấy đối tượng đã có kiến thức
liên quan đến dấu hiệu của RLTK. Tuy nhiên, tỷ lệ đối tượng trả lời “không biết”
trong câu hỏi về nguyên nhân và phương pháp chẩn đoán RLTK còn khá cao, tương
ứng là 45,7% và 57,3% [62].
Nghiên cứu hai giai đoạn của Maria Isabel và cộng sự (2015) trên 41 cha mẹ
có con RLTK từ 2-6 tuổi sống ở TP. Filipino- Philipin cho thấy, trong giai đoạn đầu
28
của nghiên cứu (nghiên cứu định tính), cha mẹ thể hiện sự hiểu biết trong việc nhận
biết các dấu hiệu bất thường của trẻ liên quan đến RLTK như hạn chế về kỹ năng xã
hội, khiếm khuyết trong giao tiếp thông thường, hành vi hạn chế và lặp đi lặp lại.
Các đối tượng cũng phát biểu rằng, không có nguyên nhân cụ thể, trực tiếp và rõ
ràng của RLTK cũng như không có biện pháp điều trị hoàn toàn cho tình trạng này
và đồng ý rằng can thiệp sớm giúp cải thiện tình trạng của trẻ RLTK. Tuy nhiên,
nghiên cứu định lượng ở giai đoạn hai cho thấy đối tượng không chắc chắn về
những nguyên nhân và yếu tố nguy cơ cụ thể của RLTK, đặc biệt là nhóm yếu tố
sinh học thuộc cha mẹ và nhóm yếu tố liên quan đến trẻ [96].
Nghiên cứu của Thurgaa R. và cộng sự (2017) trên 99 NCST chính của hộ
gia đình tại Selngor, Malaysia cho thấy 78,8% đối tượng đã từng nghe tới RLTK,
trong đó 47,4% có kiến thức đạt (trả lời đúng ít nhất 6/10 câu hỏi trong thang đo).
Các phát biểu có tỷ lệ trả lời đúng cao bao gồm: “Dấu hiệu chẩn đoán RLTK là trẻ
bị khiếm khuyết trong giao tiếp ngôn ngữ và tương tác xã hội” (84,6%); “Tự kỷ là
một rối loạn phát triển” (73,1%); Trong khi đó các phát biểu khác có tỷ lệ trả lời
đúng còn thấp bao gồm: “Có thể chẩn đoán tự kỷ chỉ dựa trên những đặc điểm về
thể chất” (38,4%); “Trẻ RLTK chủ yếu là nữ” (32,1%) [82].
Nghiên cứu được công bố gần đây nhất của Abeer M. Albarbi và cộng sự
(2018) [26] tiến hành thu thập số liệu tại cơ sở y tế đối với 952 NCST trong gia
đình và 499 cán bộ y tế tại Ả rập Xê-út, kết quả phân tích trên cả 2 nhóm đối tượng
cho thấy 66,3% đối tượng đã từng nghe tới RLTK. Khi được hỏi có mối liên quan
nào giữa RLTK với hôn nhân cùng huyết thống, tiêm vắc-xin và thức ăn không, tỷ
lệ trả lời “Có” tương ứng là 44,2%; 16,3% và 18,3%. Ngoài ra, với quy ước đối
tượng có kiến thức đạt khi có tổng điểm trên 50% tổng số điểm, tỷ lệ có kiến thức
đạt đối với các nội dung: Kiến thức chung về RLTK, Nguyên nhân RLTK, Các can
thiệp RLTK tương ứng là 54,4%, 12,9% và 55,0%. Những kết quả này cho thấy
việc tồn tại những quan điểm sai lầm về RLTK tại quốc gia này. Đặc biệt, khi phân
tích sự khác biệt giữa hai nhóm đối tượng, nghiên cứu cho thấy đối tượng là NCST
có kiến thức kém hơn so với nhóm CBYT, với tỷ lệ đối tượng có kiến thức tổng đạt
tương ứng là 26,0% và 34,0% (p=0,02).
29
Như vậy, kết quả trong hầu hết các nghiên cứu cho thấy NCST đã có kiến
thức về dấu hiệu của RLTK và biết rằng có can thiệp giúp cải thiện tình trạng
RLTK ở trẻ. Tuy nhiên còn thiếu hụt kiến thức liên quan đến nguyên nhân, chẩn
đoán, cách điều trị và những can thiệp cụ thể cho trẻ RLTK. Điều này cũng được đề
cập đến trong một số nghiên cứu định tính, như cho rằng nguyên nhân RLTK ở trẻ
là do những năng lực siêu nhiên (phù thủy, linh hồn quỷ dữ hoặc do lời nguyền)
[53]; do “y của Chúa trời” [93]; hay do các yếu tố môi trường, bao gồm phong cách
làm cha mẹ, môi trường gia đình hoặc trường học [60].
Về thái độ: đối với cha mẹ có con bị RLTK, một số nghiên cứu đã chỉ ra
rằng, họ có xu hướng tự kỳ thị bản thân và cho rằng trong gia đình việc có trẻ
RLTK giống như “một thảm kịch”, “một nỗi buồn” hoặc đó là “sự trừng phạt của
chúa trời” cho chính bản thân họ [33]; hay họ cảm thấy “ngại ngùng” và có cảm
giác “xã hội bị thu hẹp, bó buộc” khi con mình được chẩn đoán mắc RLTK [93].
Trong khi đó kết quả từ hầu hết nghiên cứu trên nhóm đối tượng là NCST hoặc gia
đình không có con bị RLTK đều cho thấy đối tượng có thái độ tích cực với trẻ bị
RLTK cũng như hiệu quả của các can thiệp cho trẻ RLTK. Ví dụ, nghiên cứu của
Wang và cộng sự (2012) cho thấy 84,6% NCST tin vào hiệu quả của các can thiệp
cho trẻ RLTK và trả lời rằng họ sẽ chủ động tìm kiếm chuyên gia y tế nếu con của
họ có biểu hiện RLTK [115]. Nghiên cứu của Thurgaa R. và cộng sự (2017) cũng
cho thấy 94,9% đối tượng có thái độ tích cực đối với trẻ RLTK. Tỷ lệ đồng ý với
các nhận định “Cảm thấy cần quan tâm và biết về RLTK”, “Người RLTK không
gây nguy hiểm cho người khác”, “Cảm thấy đồng cảm với ngưởi RLTK”, “Có suy
nghĩ cần làm quen với người RLTK” và “Sẵn sàng làm việc với người RLTK”
tương ứng là 71,8%; 85,9%; 92,3%; 91,0% và 62,9% [82]. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu gần đây của Abeer M. Albarbi và cộng sự (2018) lại cho thấy đối tượng
tham gia nghiên cứu (bao gồm cả NCST trong gia đình và CBYT cơ sở) có thái độ
chưa tích cực về các can thiệp cho trẻ RLTK: chỉ có 22,7% tin rằng tự kỷ là có thể
cải thiện được và 40,5% cho rằng chẩn đoán và can thiệp sớm có thể giúp ích cho
trẻ RLTK. Ngoài ra, kết quả phân tích riêng đối với nhóm NCST cho thấy đối
tượng chưa sẵn sàng tham gia vào các hoạt động tình nguyện cho trẻ RLTK, cụ thể,
30
chỉ có 39,5% NCST sẵn sàng làm việc với người RLTK, 57,1% sẵn sàng hỗ trợ cho
việc trẻ tự kỷ hòa nhập vào các chương trình giáo dục công cộng” [26].
Về thực hành: Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cha mẹ thường tìm kiếm sai địa
chỉ dịch vụ phù hợp và thời gian để chẩn đoán RLTK ở trẻ thường bị chậm trễ.
Nghiên cứu của Wang (2012), Jin Jun Chem (2014) và Maria Isabel (2015) đều cho
thấy tỷ lệ cha mẹ/NCST đã (hoặc sẽ) đưa tới đúng địa chỉ của chuyên gia về RLTK
khi phát hiện dấu hiệu nghi ngờ còn thấp (tương ứng 20%, 16% và 34%), trong khi
đó, đa số cha mẹ tìm kiếm sai dịch vụ và địa chỉ như chuyên gia tâm lý, họ hàng,
internet [41], [96], [115]. Thời gian để NCST phát hiện ra dấu hiệu lần đầu tiên tới
khi trẻ được chẩn đoán khá dài, điều này đã dẫn tới việc chẩn đoán và can thiệp
RLTK của trẻ muộn [96], [115]. Lý do của sự chậm trễ này là do sai lầm trong nhận
thức về nguyên nhân của RLTK của cha mẹ [41] từ đó hiểu lầm trong tiếp cận đúng
nhóm cán bộ chuyên gia hoặc tìm đến đúng địa chỉ để sàng lọc, chẩn đoán và can
thiệp RLTK [115]. Nghiên cứu của Holf JM và cộng sự (2013) trên 1001 hộ gia
đình tại Hoa Kỳ cũng cho thấy tỷ lệ con của đối tượng được sàng lọc về rối loạn
phát triển nói chung và RLTK còn thấp, tương ứng là 69,6% và 36,7% [62].
- Kiến thức, thái độ, thực hành của giáo viên mầm non/tiểu học
Về kiến thức: Tương tự NCST, GVMN/tiểu học vẫn còn hạn chế về kiến
thức liên quan tới RLTK với điểm trung bình kiến thức đạt ở mức độ trung bình
[29], [64], [75], [76].
Nghiên cứu của Arif Muhammad và cộng sự (2013) trên 170 giáo viên tiểu
học (cả tư thục và công lập) ở Karachi, Pakistan cho thấy, tỷ lệ đối tượng trả lởi
đúng các câu hỏi về dấu hiệu của trẻ RLTK tương đối cao, tương ứng với trường tư
thục và công lập như sau: Đứng đầu là dấu hiệu “giảm giao tiếp bằng mắt với người
khác” (68% và 81%), tiếp theo là “giảm sự tập trung/chú y” (69% và 68%), “không
tương tác xã hội” (55% và 67%), “hạn chế kĩ năng giao tiếp và không thể diễn tả
bản thân” (53% và 75,3% , p<0,01). Trong khi đó những phát biểu về bản chất của
bệnh có tỷ lệ trả lời đúng thấp, ví dụ “RLTK là một rối loạn di truyền” (22% và
28%, p>0,05), “Tự kỷ không thể chữa trị chỉ bằng liệu pháp dùng thuốc” (10,6% và
16,5%, p<0,05) [29].
31
Nghiên cứu của Abdulhade và cộng sự (2013) trên 391 giáo viên giáo dục
đặc biệt và phổ thông tại Jeddah, Ả rập Xê-út cho thấy, tỷ lệ đối tượng trả lời đúng
về các dấu hiệu của RLTK tương ứng là: “thể hiện hành vi rập khuôn” (68,5%); “ít
nói/kém giao tiếp” (56,3%), “hạn chế trong giao tiếp bằng lời nói và tương tác xã
hội” (49,1%). 60,4% đối tượng biết “RLTK là một rối loạn phát triển”; 69,1% đối
tượng trả lời đúng với phát biểu về chẩn đoán RLTK qua việc quan sát hành vi của
trẻ. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những quan điểm sai lầm về điều trị và nguyên nhân
dẫn đến RLTK: tỷ lệ trả lời đúng với phát biểu “điều trị bằng thuốc có thể làm hết
những triệu chứng cốt lõi của RLTK” là 49,1% và với phát biểu “cha mẹ chăm sóc
con không đúng cách có thể dẫn tới RLTK” là 59,8% [64].
Nghiên cứu của Liu và cộng sự (2016) trên 471 GVMN tại Trung Quốc cho
thấy, đối tượng nghiên cứu có kiến thức khá tốt về các mốc phát triển của trẻ, với
điểm trung bình là 9,49/14 điểm; 84% đối tượng trả lời đúng hơn 50% các câu hỏi.
Tuy nhiên, đối với nội dung câu hỏi đánh giá kiến thức về RLTK, điểm trung bình
chỉ là 5,53/15 và chỉ có 17% đối tượng trả lời đúng hơn 50% các câu hỏi. Những
quan điểm sai lầm của đối tượng về RLTK bao gồm khả năng điều trị cho trẻ
RLTK: có đến hơn 90% đối tượng nghĩ rằng “RLTK là có thể chữa khỏi hoàn toàn”
nếu được chẩn đoán và có can thiệp phù hợp, hơn 70% cho rằng “thay đổi chế độ ăn
có thể làm thay đổi kết quả điều trị” [75].
Mặc dù trong hầu hết các nghiên cứu, GVMN có kiến thức về việc chẩn
đoán và điều trị sớm có thể thực hiện bằng các phương pháp y học khoa học: 84%
trong nghiên cứu của Duran Isabelle và cộng sự (2012) [45], và khoảng 70% trong
nghiên cứu Abdulade và cộng sự (2013) [64], một vài nghiên cứu cho thấy giáo
viên còn đang hiểu lầm về khả năng chữa khỏi RLTK ở trẻ [64], [75].
Về thái độ: Trong hầu hết các nghiên cứu, GVMN/tiểu học có thái độ tích
cực về RLTK ở trẻ. Nghiên cứu của Meungguk và cộng sự (2010) trên 127 giáo
viên từ tiểu học đến trung học phổ thông, sử dụng thang đo đánh giá thái độ về
RLTK dành cho giáo viên (AAST) cho thấy, đối tượng có thái độ khá tích cực với
trẻ RLTK (điểm trung bình = 4,06/5, SD=0,81]. Cụ thể, đa số đối tượng đồng ý với
các nhận định: trẻ có thể đi học, giáo viên có thể giúp được trẻ RLTK, trẻ RLTK có
32
thể học tập được nếu có một giáo viên tốt, sẵn sàng nhận trẻ tự kỷ vào lớp học của
mình…[87]. Trong nghiên cứu của Liu và cộng sự (2016), các quan điểm nhận
được sự đồng ý cao của GVMN là: trường mẫu giáo nên có giáo viên có chuyên
môn về giáo dục đặc biệt và trị liệu để cung cấp các dịch vụ cho trẻ có nhu cầu đặc
biệt; nên có và sẵn sàng tham gia vào những hoạt động đào tào về RLTK [75].
Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng trẻ RLTK nên được học ở một
trường đặc biệt. Ví dụ, trong nghiên cứu của Arif Muhammad và cộng sự (2013), có
tới trên 50% đối tượng đồng ý với phát biểu này [76]. Đáng chú ý, một nghiên cứu
gần đây của Abdulrahman Alamri và cộng sự (2016) so sánh thái độ của giáo viên
về RLTK giữa 2 quốc gia Hoa Kỳ và Ả rập Xê-út đã cho thấy có sự khác nhau khá
lớn. Theo đó, giáo viên ở Hoa Kỳ có thái độ tích cực hơn giáo viên ở Ả rập Xê-út,
thể hiện ở việc không đồng ý với các quan điểm tiêu cực như: trẻ RLTK cần được
học tập ở trường chuyên biệt (điểm trung bình 1,74 và 3,21; p<0,01); trường học
thông thường là quá khó đối với trẻ RLTK (điểm trung bình 1,71 và 2,61; p<0,01),
nếu cho lựa chọn sẽ dạy ở trường không có trẻ RLTK (điểm trung bình 1,79 và
2,31; p=0,002 [25].
Về thực hành: Không có nhiều nghiên cứu đánh giá thực hành của giáo viên
liên quan tới nhận biết và phát hiện RLTK ở trẻ em. Nghiên cứu của Lodhi và cộng
sự (2016) cho thấy một số nhóm giáo viên đã tiến hành thực hành phát hiện RLTK
quả trẻ thông qua bảng đánh giá xác định tình trạng khiếm khuyết [76].
- Kiến thức, thái độ, thực hành của cán bộ y tế không chuyên về RLTK
Về kiến thức: Mặc dù là nhóm đối tượng có chuyên môn về y tế, các nghiên
cứu đều cho thấy kiến thức của nhóm đối tượng này vẫn còn rất hạn chế và có sự
khác nhau giữa các nhóm chuyên môn khác nhau.
Nghiên cứu của Rahbar và cộng sự (2011) trên 348 bác sỹ đa khoa tại
Karachi, Pakistan cho thấy chỉ có 44,6% là đã từng nghe tới RLTK. Mặc dù có 61%
bác sỹ nhận thức đúng về dấu hiệu “tách biệt khỏi cha mẹ/gia đình”, vẫn có tỷ lệ
khá cao (khoảng 40%) cho rằng “tự kỷ phổ biến ở các tầng lớp kinh tế xã hội cao”
hay “phổ biến hơn ở các lớp học cấp cao”; 45% đối tượng nhận thức sai về nguyên
nhân của tự kỷ là “do bố mẹ bỏ bê” và do đó “có thể phòng ngừa được”. [97].
33
Thậm chí đối với nhóm bác sỹ thuộc hai chuyên ngành nhi khoa và tâm thần,
nghiên cứu của Monday N. Igwe và cộng sự (2011) tại Nigeria cũng cho thấy kiến
thức của đối tượng cũng rất hạn chế, với trung bình điểm kiến thức chỉ đạt 12,56/19
điểm (SD=3,23). Trong đó nhóm kiến thức có điểm trung bình dưới 50% tổng số
điểm là Nhóm 2 (kiến thức về đặc điểm hành vi của trẻ RLTK) và Nhóm 4 (phân
loại mức độ RLTK, đặc điểm khởi phát, tình trạng bệnh mắc kèm). Hai nhóm còn
lại: kiến thức liên quan đến khiếm khuyết trong tương tác xã hội (Nhóm 1) và
khiếm khuyết về ngôn ngữ - giao tiếp của trẻ RLTK (Nhóm 2) đạt điểm trung bình
trên 70% tổng số điểm [65]. Với cùng bộ công cụ và tiến hành trên cùng quốc gia,
nghiên cứu của E. Eseigbe và cộng sự (2015) trên 167 cán bộ y tế cho kết quả khả
quan hơn với điểm trung bình kiến thức là 13,5/19. Trong đó nội dung có đối tượng
trả lời đúng cao nhất là khiếm khuyết trong tương tác xã hội (Nhóm 1) và thấp nhất
là mức độ RLTK, đặc điểm khởi phát và tình trạng mắc kèm (Nhóm 4) [48].
Nghiên cứu gần đây nhất của Xiaojuan Zhang và cộng sự (2018) tiến hành
trên 265 cán bộ y tế khoa nhi tại Trung Quốc cho thấy điểm trung bình kiến thức là
7,3/12 điểm, trong đó các phát biểu có tỷ lệ trả lời sai so với đáp án là: “Trẻ RLTK
có tài năng đặc biệt”; “RLTK là một rối loạn phát triển thần kinh” và “RLTK có thể
chữa khỏi hoàn toàn nếu được chẩn đoán sớm và can thiệp phù hợp” [123]
Về thái độ: Thiếu tự tin là thái độ phổ biến nhất trong các nghiên cứu tìm
được [79], [97], [104]. Chỉ có khoảng 34% bác sỹ đa khoa trong nghiên cứu của
Rahbar và cộng sự (2011) tự tin rằng mình có thể chẩn đoán chính xác RLTK ở trẻ
[97]. CBYT cảm thấy “bất lực, vô dụng và thiếu tự tin” về khả năng thực hiện sàng
lọc của bản thân. Đặc biệt, họ chưa sẵn sàng coi sàng lọc RLTK là một phần công
việc của họ, mà thuộc về các chuyên gia khác [79], [104]. Khoảng 80% bác sỹ đa
khoa cho rằng trẻ RLTK nên được giáo dục ở trường đặc biệt; hơn 60% cho rằng trẻ
RLTK đang bị kỳ thị hoặc chịu những ý kiến tiêu cực trong xã hội [97].
Về thực hành: Không có nhiều nghiên cứu đánh giá thực hành của nhóm
CBYT tuyến cơ sở liên quan tới nhận biết và phát hiện RLTK ở trẻ em. Tuy nhiên,
một số nghiên cứu cho thấy tính sẵn sàng của CBYT tuyến cơ sở trong hoạt động
sàng lọc trẻ RLTK [68], [121]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố ảnh hưởng đến
34
hoạt động này bao gồm: tính sẵn có về thời gian, tính phù hợp/dễ sử dụng của bộ
công cụ sàng lọ, kiến thức và kinh nghiệm của CBYT khi sử dụng bộ công cụ và
các yếu tố thuộc hệ thống (các quy định, chính sách; hệ thống chuyển tuyến, chia sẻ
thông tin và theo dõi; khả năng tiếp cận dịch vụ, nhận thức của người dân…) [68],
[80], [121]. Nghiên cứu của Heys và cộng sự cho thấy nhu cầu được đào tạo về
RLTK ở trẻ em có y nghĩa lớn trong việc CBYT tuyến cơ sở có thể phát hiện và
giới thiệu các dịch vụ cần thiết cho gia đình khi trẻ có dấu hiệu bất thường [60].
1.3.3. Kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ, giáo viên và cán
bộ y tế về rối loạn tự kỷ tại Việt Nam
- Kiến thức, thái độ, thực hành của NCST
Các nghiên cứu tại Việt Nam đều cho thấy kiến thức rất hạn chế của NCST
liên quan đến RLTK: Nghiên cứu của Hoàng Bảo Khánh (2011) trên 206 NCST
dưới 3 tuổi tại một phường ở Hà Nội cho thấy chỉ có 25,2% đối tượng có kiến thức
đúng về RLTK, 13,6% đối tượng biết khá đầy đủ về các biểu hiện RLTK ở trẻ, 33%
đối tượng hiểu biết đúng về khả năng chữa trị RLTK ở trẻ, đặc biệt có tới 63%
NCST cho rằng trẻ mắc RLTK là do thái độ thiếu quan tâm, chăm sóc của cha mẹ
[12]. Nghiên cứu của Đào Thị Sâm (2013) cho thấy, 46,8% đối tượng hiểu sai về
bản chất RLTK ở trẻ, 70,3% đối tượng nhận thức không đúng về nguyên nhân gây
bệnh (do ma quỷ, mồ mả gia đình bất ổn; môi trường chứa chất độc; chấn thương
tâm lý) [18]. Nghiên cứu của Phạm Thị Lan (2016) tiến hành trên đối tượng là cha
mẹ có con bị RLTK cũng cho thấy 47% không biết đầy đủ các dấu hiệu về ngôn
ngữ; 39,7% và 35,9% không biết đến dấu hiệu “không nhận biết được môi trường
xung quanh” và “cầm tay vào người khác khi muốn nhờ ai đó”; chỉ có 32% biết về
nguyên nhân RLTK ở trẻ [14]. Nghiên cứu gần đây nhất của Nguyễn Trung Kiên và
cộng sự tiến hành năm 2017 trên 480 đối tượng tuổi từ 19-60 tại Hà Nội cho thấy
mặc dù 100% đã từng nghe tới tự kỷ, chỉ có 2,7% đối tượng có kiến thức đạt về
RLTK. Tỷ lệ biết các dấu hiệu RLTK ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi; từ 1 đến 2 tuổi và dưới 1
tuổi tương ứng là 18%; 3,9% và 1% [71].
Về thái độ: Nghiên cứu của Hoàng Bảo Khánh năm 2011 cho thấy, tỷ lệ
NCST có thái độ phù hợp về RLTK, TTK và gia đình có TTK chỉ đạt 33%; trên
35
55% ĐTNC không tin con, cháu mình có nguy cơ mắc tự kỷ [12]. Nghiên cứu định
tính của Vũ Song Hà tiến hành trong năm 2011-2012 cho thấy những đứa trẻ mắc
RLTK và gia đình của trẻ phải trải qua sự kỳ thị và phân biệt đối xử với nhiều hình
thức khác nhau. Trẻ |mắc RLTK thường được xem là những “kẻ không bình
thường” [56], [57]. Cha mẹ những đứa trẻ RLTK đa phần có cảm giác “tội lỗi”,
“chán nản” và “tuyệt vọng” với con của mình [18], [56], [57]. Trong khi đó, nghiên
cứu gần đây của Nguyễn Hoàng Phương và cộng sự tiến hành trên 640 người dân
tuổi từ 20-65 tại cộng đồng lại cho thấy 65% có thái độ đúng đắn về RLTK ở trẻ
em, mặc dù vẫn tồn tại một số quan niệm tiêu cực đối với RLTK như 13,9% đồng ý
rằng trẻ RLTK làm ảnh hưởng tới các bạn trong lớp học, 7% đồng ý rằng trẻ RLTK
phải được giữ trong môi trường riêng biệt [84].
- Kiến thức, thái độ, thực hành của giáo viên mầm non
Nghiên cứu của Vũ Văn Thuấn (2013) trên 116 GVMN tại 5 trường tại Hà
Nội cho thấy, mặc dù 100% đối tượng đã nghe tới RLTK nhưng có đến 85,7% cho
rằng nguyên nhân của RLTK là do cách nuôi dạy, chăm sóc của cha mẹ; 90% nhận
thức được việc chẩn đoán sớm RLTK là vô cùng quan trọng nhưng có tới 64,5%
cho rằng GVMN và 27,1% cho rằng ai cũng có thể chẩn đoán RLTK. GVMN có
kiến thức khá tốt về các dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK và khả năng phục hồi của trẻ
RLTK khi được can thiệp sớm. Về thái độ, đa phần GVMN ủng hộ việc nên cho trẻ
tham gia hòa nhập (84,5%) và có thái độ tích cực với trẻ RLTK: hầu như không có
GVMN nào đồng ý với nhận định “sẽ thất vọng và tức giận nếu nhà trường xếp trẻ
tự kỷ vào lớp mình” hay “sẽ phản đối nếu nhà trường xếp một trẻ bị tự kỷ vào lớp
mình phụ trách”; tỷ lệ đồng ý với các nhận tích cực như “sẽ quan tâm đến trẻ đó,
tìm cách nói chuyện, chơi cùng”, “sẽ hướng dẫn cha mẹ cách dạy, chơi, và hướng
can thiệp” “việc học trong lớp bình thường là điều quan trọng để các trẻ tự kỷ có thể
hòa nhập” chiếm tỷ lệ cao. Về thực hành, 100% GVMN nói rằng “sẽ khuyên cha
mẹ đưa trẻ đi khám và tư vấn ở các cơ sở y tế hoặc tâm ly” nếu có nghi ngờ trẻ
RLTK trong lớp học [19].
- Kiến thức, thái độ, thực hành của cán bộ y tế: Đa số các nghiên cứu đánh giá về
kết quả chẩn đoán, can thiệp trực tiếp cho trẻ RLTK, cho đến nay nghiên cứu sinh
36
chưa tìm được nghiên cứu nào đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK ở trẻ
của CBYT ở Việt Nam được công bố.
1.4. Đánh giá kết quả triển khai quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
1.4.1. Đánh giá kết quả hoạt động nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của
cộng đồng về rối loạn tự kỷ
Chiến dịch “Nhận biết dấu hiêu, Hành động sớm” là chiến dịch truyền thông
nâng cao nhận thức của cộng đồng về RLTK có quy mô rộng, được triển khai từ
năm 2004 tại Hoa Kỳ hướng tới 3 nhóm đối tượng đích: cha mẹ có con dưới 4 tuổi,
CBYT (đặc biệt là bác sĩ nhi khoa) và GVMN [47]. Đã có nhiều nghiên cứu đánh
giá kết quả triển khai Chiến dịch này [44], [49], [88].
Nghiên cứu của K. P. Patel (2007) phân tích cơ sở dữ liệu Healthstytes (bản
quyền thuộc CDC) của hai cuộc điều tra cắt ngang trên nhóm đối tượng là cha mẹ:
vào năm 2004_ thời điểm trước khi triển khai Chiến dịch (cỡ mẫu 4.345) và năm
2006 (cỡ mẫu 5.251), kết quả cho thấy sau 2 năm can thiệp kiến thức, thái độ của
đối tượng về RLTK đã được cải thiện, tuy nhiên hành động hướng tới can thiệp sớm
cho trẻ RLTK chưa có sự thay đổi có y nghĩa. Tỷ lệ đối tượng nhận thức được tầm
quan trọng của RLTK tăng từ 66.9% lên 76,6% (p=0,003), biết được thời điểm tốt
nhất để can thiệp cho trẻ RLTK tăng từ 22% lên 29,4% (p=0,013) và biết về dấu
hiệu nghi ngờ trẻ RLTK tăng từ 36,1% lên 44,7% (p=0,010). Tỷ lệ đối tượng tìm
kiếm thông tin về các mốc phát triển mà trẻ cần đạt được tăng từ 76,0% lên 82,9%
(p=0,023); tuy nhiên tỷ lệ đối tượng cung cấp thông tin về cách trẻ chơi, giao tiếp,
hành động hoặc học tập cho CBYT khi đưa trẻ đi khám bác sỹ thay đổi không có ý
nghĩa thống kê (45,8% năm 2004 so với 48,3% năm 2006, p=0,509) [88].
Nghiên cứu tiếp theo của K. L. Daniel và cộng sự (2009) đánh giá sau 3 năm
can thiệp (năm 2007 so với năm 2004), sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp,
trên cả 3 nhóm đối tượng đích của chương trình đã cho thấy bức tranh toàn diện hơn
về tính phù hợp của chưxơng trình. Kết quả cho thấy tỷ lệ đối tượng đích nghe nói
về chiến dịch là 34% đối với nhóm cha mẹ và 43% đối với nhóm CBYT. Hiệu quả
nâng cao nhận thức, thái độ, thực hành đối với từng nhóm đối tượng như sau [44]:
37
+ Đối với nhóm cha mẹ: Tỷ lệ biết về dấu hiệu nghi ngờ trẻ có thể bị RLTK
tăng từ 36% lên 52% (p <0,05), trả lời đúng về thời điểm tốt nhất trẻ được can thiệp
là dưới 2 tuổi tăng từ 22% lên 42% (p<0,05) và tìm kiếm thông tin về các mốc phát
triển mà trẻ cần đạt được tăng từ 51% lên 66% (p <0,05) [44].
+ Đối với nhóm CBYT: tỷ lệ tự tin mình có năng lực có thể hướng dẫn phụ
huynh về cách theo dõi sự phát triển của con mình tăng đáng kể, từ 29% lên 77%
(p<0,05). Tỷ lệ bác sĩ nhi khoa ủng hộ cách tiếp cận “chờ đợi và xem xét” khi cha
mẹ lo lắng về sự phát triển của con họ giảm từ 30% xuống còn 19% (p <0,05).
Ngoài ra, kết quả đánh giá cũng cho thấy, CBYT biết về chiến dịch thực hiện việc
sàng lọc bệnh nhân nhi thường xuyên hơn so với những người không biết về chiến
dịch (71% so với 61%, p>0,05); tự tin hơn khi trao đổi với phụ huynh về sự phát
triển nhận thức của trẻ (84% so với 74%; p<0,05); hiểu biết hơn về các nguồn lực
sẵn có giúp cho việc điều trị và chuyển tuyến (87% so với 70%; p<0,01) và có năng
lực hướng dẫn phụ huynh hơn các CBYT chưa từng nghe về chiến dịch (59% so với
44%; p<0,02) [44].
+ Đối với nhóm GVMN: Mặc dù thiếu các số liệu định lượng để đánh giá
hiệu quả can thiệp đối với nhóm GVMN, tuy nhiên các thông tin từ nghiên cứu định
tính đã cho thấy những kết quả tích cực từ chương trình can thiệp mang đến cho
nhóm đối tượng này [44].
Nghiên cứu gần đây của Anne M. Gadomski và cộng sự (2018) tiếp tục đánh
giá hiệu quả của tài liệu truyền thông dành cho cha mẹ trong chiến dịch “Nhận biết
dấu hiệu. Hành động sớm” sử dụng kết hợp phương pháp khảo sát và phân tích
băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa CBYT và cha mẹ. Kết quả, sau khi nhận được
các tài liệu truyền thông, cha mẹ đã có nhận thức tốt hơn về các mốc phát triển của
trẻ (65,6% so với 70,3% trước và sau can thiệp, p=0,03), tự tin hơn khi biết phải
làm gì nếu con họ bị chậm phát triển (83,3% so với 85,2% trước và sau can thiệp,
p=0,23) và trao đổi với bác sỹ nhiều hơn về sự phát triển của con họ [49].
Ngoài những nghiên cứu đánh giá một cách khá toàn diện chiến dịch “Nhận
thức dấu hiệu, Hành động sớm” như trên, một số nghiên cứu sau đây cũng đã đánh
38
giá hoạt động truyền thông, đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, thực hành về phát
hiện RLTK ở trẻ trên các nhóm tượng cha mẹ, CBYT và giáo viên:
Nghiên cứu của Kathleen D. Wilson (2013) đánh giá gói can thiệp của
chương trình “Giúp đỡ trẻ RLTK” của Úc trên nhóm cha mẹ có con RLTK, kết quả
đã cho thấy hầu hết đối tượng trả lời đồng y (điểm trung bình 4, trên thang đo 5) với
các tác động tích cực của chương trình trên các khía cạnh như: làm tăng kiến thức,
sự tự tin của cha mẹ, giúp cho họ có thể hỗ trợ trợ tốt hơn cho con em mình, đặc
biệt cải thiện khả năng giao tiếp ở trẻ [116].
Nghiên cứu của Daniela Bordini và cộng sự (2015), đánh giá hiệu quả của
chương trình tập huấn trên các CBYT tuyến cơ sở cho thấy, 81,8% đối tượng đã
nâng cao kiến thức về RLTK; điểm trung bình kiến thức tăng từ 6,73 lên 9,18 (p<
0,01); tổng số câu trả lời đúng tăng 37,1% (từ trung bình 148 câu lên 203 câu), so
sánh tại thời điểm trước và sau khóa đào tạo. Sau 4 tháng can thiệp, thực hành của
đối tượng liên quan đến nhận biết trẻ RLTK cũng được cải thiện, số lượng trẻ được
chuyển lên tuyến trên để chẩn đoán RLTK tăng gấp 6 lần so với thời điểm trước can
thiệp. Những kết quả này đã cho thấy mô hình đào tạo là khả thi, đầy hứa hẹn và
không tốn kém để nâng cao việc phát hiện sớm RLTK tại tuyến y tế cơ sở [37].
Nghiên cứu của Dejene Tilahun và cộng sự (2017) đánh giá tác động của
chương trình tập huấn kéo dài 2 tuần đối với niềm tin và thái độ của CBYT cộng
đồng cho thấy, nhóm CBYT được đào tạo có niềm tin tích cực hơn và giảm sự kỳ
thị hơn so với nhóm không được đào tạo. Trong đó, nhóm CBYT được tham gia cả
khóa đào tạo cơ bản và nhận được tài liệu truyền thông nâng cao sức khỏe có thái
độ và niềm tin tích cực hơn so với nhóm chỉ tham gia gói đào tạo cơ bản chỉ tham
gia khóa đào tạo cơ bản [110].
Nghiên cứu của Cynthia Queisser (2016) đánh giá kết của hoạt động đào tạo
cho 60 điều dưỡng tại bang Ohio, Hoa Kỳ, sử dụng thang đo KCAHW (Kiến thức
RLTK ở trẻ của NVYT) cho thấy có sự cải thiện đáng kể kiến thức và thực hành
của đối tượng ở các nội dung như: kiến thức về khiếm khuyết trong tương tác xã hội
của trẻ RLTK (từ 54,6% lên 75,0%), khiếm khuyết về ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ
RLTK (từ 81,8% lên 100%), đặc điểm hành vi của trẻ RLTK (từ 54,5% lên 100%),
39
bản chất của RLTK (45,4% lên 83,3%) và khả năng điều trị RLTK (từ 70,0% lên
100%) [95].
Nghiên cứu của Heather Crawford và cộng sự đánh giá kết quả chương trình
đào tạo cho GVMN cho thấy, sau 3 tháng tham gia khóa đào tạo, 57% GVMN trả
lời rằng họ đã có nhận thức đúng về RLTK, 23% đã hiểu về các tương tác với trẻ tự
kỷ và 11% cảm thấy tự tin có thể giúp trẻ RLTK và 67% những người tham gia
khóa đào tạo sẵn sàng ghi danh trẻ RLTK vào trong nhóm/lớp của mình [43].
Tương tự, một nghiên cứu được tiến hành vào năm 2014 tại Brazil, đánh giá kiến
thức của 160 giáo viêm mầm non sau khi tham gia khóa tập huấn và được cung cấp
tài liệu hướng dẫn về RLTK, kết quả cũng cho thấy tại thời điểm trước khi tham gia
khóa học, GVMN có kiến thức hạn chế về RLTK, tuy nhiên đã có sự gia tăng đáng
kể các câu trả lời đúng của giáo viên tại thời điểm sau can thiệp [81].
1.4.2. Đánh giá kết quả mô hình sàng lọc rối loạn tự kỷ tại y tế cơ sở
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng và áp dụng quy
trình/hướng dẫn sàng lọc RLTK tại y tế cơ sở [105]. Một số nghiên cứu đã đánh giá
kết quả của hoạt động này, những khó khăn/thuận lợi trong quá trình triển khai từ
đó đề xuất những giải pháp cần thực hiện.
Nghiên cứu của Elizabeth Ann Shedd (2017) đánh giá kết của Dự án DNP
Capstone (Dự án Hướng dẫn Sàng lọc RLTK tại y tế cơ sở) đã cho thấy sau 6 tháng
triển khai dự án, CBYT cơ sở đã thực hiện sàng lọc phát triển (sử dụng ASQ-3) và
RLTK (sử dụng M-CHAT R hoặc M-CHAT F/R) cao hơn so với trước đó (45,2%
so với 17,1%), tuy nhiên vẫn việc thực hiện chuyển tuyến vẫn chưa được cải thiện.
Ly do được đưa ra là thời gian can thiệp còn ngắn nên chưa thể đánh giá các chỉ số
dài hạn như tỷ lệ trẻ dương tính với M-CHAT được chuyển lên tuyến trên [105].
Nghiên cứu của Gillis và cộng sự (2009), đánh giá thực hành sàng lọc RLTK
của 407 bác sỹ nhi khoa và bác sỹ gia đình ở hai bang vùng Đại tây dương, Hoa Kỳ
cho thấy tỷ lệ bác sỹ thực hiện sàng lọc phát triển khá cao (trên 80%) trong khi thực
hiện sàng lọc RLTK lại rất thấp (28%). Các rào cản chủ yếu bao gồm: CBYT thiếu
tự tin khi sử dụng các công cụ sàng lọc RLTK và không có thời gian để thực hiện
việc sàng lọc [52].
40
Nghiên cứu của King T.M và cộng sự (2010) đánh giá kết quả triển khai 6
tháng thí điểm chính sách sàng lọc rối loạn phát triển ở trẻ tại Hoa Kỳ cho thấy,
mặc dù 85% phiếu sàng lọc đã được hoàn thành bởi cha mẹ của trẻ ở đúng độ tuổi
quy định, những rào cản liên quan đến triển khai chính sách này chủ yếu đến từ phía
hệ thống y tế. Cụ thể: CBYT cảm thấy không đủ thời gian (đặc biệt vào thời điểm
có nhiều dịch bệnh như mùa đông), thiếu sự tự tin để thực hiện việc thăm khám cho
trẻ vào thời điểm trẻ 30 tháng tuổi, tiến hành sàng lọc sâu hơn khi có dấu hiệu nghi
ngờ đối với kết quả sàng lọc mà cha mẹ đã thực hiện. Ngoài ra, hệ thống chuyển
tuyến không thông suốt đã làm cho việc thực hiện nội dung “chuyển tuyến đồng
thời đến cả chuyên gia về RLTK và chương trình can thiệp sớm tại địa phương khi
có dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK” không được thực hiện đầy đủ (chỉ 61% trẻ được
chuyển tuyến [72].
Các nghiên cứu trên cũng đã đưa ra những khuyến nghị nhằm khắc phục các
rào cản khi thực hiện quy trình sàng lọc và chẩn đoán RLTK ở trẻ bao gồm, đào tạo
nhân viên y tế, sử dụng hệ thống nhắc việc, và đặc biệt phải thiết lập một hệ thống
chuyển tuyến thông suốt đẩy nhanh việc giới thiệu, liên lạc với các chuyên gia và
các chương trình can thiệp sớm, giám sát và theo dõi các kết quả tiếp theo [52], [72]
[91], [101].
1.5. Giới thiệu về nghiên cứu gốc và vai trò của nghiên cứu sinh
Đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, phương pháp chẩn
đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng” được Bộ Khoa học
và Công nghệ phê duyệt theo Quyết định số 1871/QĐ-BKHCN ngày 06/7/2016
(Phụ lục 9), do GS.TS. Bùi Thị Thu Hà làm chủ nhiệm và trường Đại học Y tế công
cộng là đơn vị chủ trì. Đề tài gồm 3 mục tiêu và chia thành 4 nhánh:
1. Đánh giá đặc điểm dịch tễ học RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (Nhánh 1:
trường Đại học Y tế công cộng chủ trì)
2. Xây dựng quy trình chẩn đoán sớm (Nhánh 2: Khoa Y Dược, Đại học Quốc
gia Hà Nội chủ trì) và can thiệp sớm RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (Nhánh 3: Bệnh
viện Nhi Trung Ương chủ trì);
41
3. Xây dựng mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng (Nhánh
4: trường Đại học Y tế công cộng chủ trì).
Luận án này được thực hiện gắn kết với Nhánh 4 “Xây dựng mô hình quản
lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng”. Các hoạt động của Nhánh 4 được tóm tắt
trong Hình 1.9:
Hình 1.9. Các bước xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ tại cộng đồng
Vai trò của nghiên cứu sinh: Được sự cho phép của Chủ nhiệm đề tài
(GS.TS. Bùi Thị Thu Hà) và phụ trách Nhánh 4 (PGS.TS. Nguyễn Thanh Hương),
NCS đã tham gia vào các hoạt động nghiên cứu của Nhánh 4, bao gồm: thu thập,
làm sạch số liệu; xử lý và phân tích số liệu; viết một số báo cáo/chuyên đề là sản
phẩm của Nhánh 4 bao gồm: Báo cáo đánh giá về kiến thức, thái độ và thực hành
của NCST, GVMN, NVYT về phát hiện sớm và can thiệp sớm trẻ RLTK trước và
sau can thiệp, Báo cáo sự thay đổi trong hệ thống y tế về sàng lọc - chẩn đoán - can
thiệp sớm và quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng, và Báo cáo đánh giá tính phù
hợp và khả thi của mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (Phụ lục 11: Giấy
xác nhận cho phép sử dụng số liệu của Nhánh 4 để làm luận án của chủ nhiệm đề
tài; và Phụ lục 12: Giấy chứng nhận kết quả Đề tài cấp Nhà nước của Bộ Khoa học
và Công nghệ).
Tháng
01-02/2017
Tại Hòa
Bình và
Thái Bình
Tháng
02-11/2017 Tháng
12/2017
Tháng 01-12/2018
Tại Hòa Bình và
Thái Bình
Tháng
06-09/2019
Tháng
01-05/2019 Tại Hòa Bình và
Thái Bình
42
1.6. Một số thông tin về địa bàn nghiên cứu
Mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng được tiến hành thí điểm tại
hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình. Lý do lựa chọn địa bàn can thiệp: (1) RLTK là một
vấn đề mới, chưa có nhiều cán bộ chuyên môn sâu, do đó nghiên cứu lựa chọn hai
tỉnh đều ở phía Bắc, thuận lợi cho việc đi lại và hỗ trợ từ Viện nhi TW (đơn vị đầu
ngành về RLTK ở trẻ em). (2). Nghiên cứu lựa chọn 1 tỉnh đồng bằng và một tỉnh
miền núi (trong đó có cả đô thị; huyện miền núi và miền biển, có tỉnh đã có một số
hoạt động liên quan đến RLTK và tỉnh chưa có hoạt động nào) nhằm thu được kết
quả đại diện nhất.
Một số thông tin chung về địa bàn nghiên cứu được tóm tắt như trong bảng
dưới đây:
Bảng 1.1. Một số thông tin về địa bàn nghiên cứu
Thông tin Tỉnh Hòa Bình Tỉnh Thái Bình
Các thông tin chung về hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội
Đặc điểm
địa lý
Là tỉnh miền núi thuộc vùng
Tây Bắc
Là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng
sông Hồng
Địa bàn can
thiệp
Thành phố Hòa Bình: đô thị
Huyện Lương Sơn: huyện miền
núi
Thành phố Thái Bình: vùng đô thị
Huyện Tiền Hải: huyện miền biển
Dân tộc
sinh sống
Chủ yếu là Mường (63,3%);
Kinh (27,7%)
Chủ yếu dân tộc Kinh
Nền kinh tế Công nghiệp – xây dựng và
dịch vụ trên 80%
GRDP bình quân năm 2018:
48,3 triệu/người/năm (xếp
hạng 38)
Sản xuất công nghiệp – xây dựng và
dịch vụ trên 70%
GRDP bình quân năm 2018: 38,0
triệu/người/năm (xếp hạng 51)
43
Hệ thống y tế và hiện trạng quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng [11]
Hệ thống y
tế liên quan
đến RLTK
ở trẻ (tuyến
tỉnh, huyện
và xã)
Tuyến tỉnh có bệnh viện đa
khoa, trong đó có Khoa Nhi,
khoa Vật lý trị liệu-PHCN.
Tuyến huyện có Trung tâm y tế
huyện/thành phố và các bệnh
viện huyện/thành phố. Tuyến
xã có các trạm y tế xã.
Tuyến tỉnh có bệnh viện đa khoa
tỉnh, bệnh viện Nhi, bệnh viện Tâm
thần và bệnh viện Phục hồi chức
năng. Tuyến huyện có bệnh viện
huyện/thành phố, Trung tâm y tế dự
phòng huyện/thành phố. Tuyến xã
có các trạm y tế xã
Các hoạt
động liên
quan đến
quản lý
RLTK ở trẻ
em
Chưa có các hoạt động sàng
lọc, chẩn đoán, can thiệp cũng
như quản lý RLTK một cách
chính thức và hệ thống.
Tại tuyến tỉnh (bệnh viện đa
khoa tỉnh) có Khoa Nhi, khoa
vật lý trị liệu-PHCN nhưng
chưa có cán bộ phụ trách về
RLTK, chưa có phòng dành
riêng cho hoạt động sàng
lọc/chẩn đoán cũng như can
thiệp RLTK.
Tuyến huyện và xã: Khảo sát
tại huyện Lương Sơn và thành
phố Hòa Bình cho thấy tuyến
huyện và xã cũng chưa thực
hiện bất kỳ hoạt động sàng
lọc/chẩn đoán và can thiệp nào
về RLTK ở trẻ em.
Hoạt động của chương trình
PHCN tại tỉnh còn nhiều hạn
Các hoạt động sàng lọc, chẩn đoán
và can thiệp cho trẻ có RLTK được
triển khai một cách mạnh mẽ hơn ở
tuyến tỉnh.
Tuyến tỉnh: Chủ yếu được triển khai
tại bệnh viện Nhi tỉnh. Tại đây có
khoa PHCN, trong đó đã có nhóm
“tâm bệnh” hướng tới sàng lọc,
chẩn đoán và can thiệp cho trẻ
RLTK. Hai đơn vị PHCN khác là
Khoa PHCN bệnh viện Đa khoa
tỉnh và Bệnh viện PHCN có cung
cấp thông tin về RLTK ở trẻ em
nhưng gần như không có dịch vụ
nào hướng tới đối tượng này.
Tuyến huyện và xã: Tương tự tỉnh
Hòa Bình, tuyến huyện và xã tỉnh
Thái Bình cũng chưa thực hiện bất
kỳ hoạt động sàng lọc/chẩn đoán và
can thiệp nào về RLTK ở trẻ em.
Hoạt động của chương trình PHCN
44
chế: do chưa có bệnh viện
PHCN, Ban điều hành hoạt
động không thường xuyên và
đội ngũ cộng tác viên đảm
nhận nhiều công việc với phụ
cấp thấp.
tại tỉnh: được triển khai mạnh mẽ
hơn so với tỉnh Hòa Bình, tuy nhiên
chủ yếu hướng tới các hoạt động
PHCN về vận động cho người
trưởng thành, người già. Từ năm
2016, bệnh viện PHCN tỉnh đã chú
trọng đến việc thành lập các khoa
điều trị chuyên sâu: khoa ngôn ngữ
trị liệu, tâm lý trị liệu.
1.7. Khung lý thuyết và khung logic của luận án
- Cơ sở lý thuyết xây dựng mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
và các hoạt động can thiệp
Từ kết quả tổng quan về mô hình quản lý RLTK ở trẻ em như đã trình bày
chi tiết ở mục 1.2, một mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ toàn diện cần dựa trên 4
cách tiếp cận: (1). Đa ngành (phối hợp ngành y tế, giáo dục, an sinh xã hội và các
tổ chức xã hội khác), (2). Vòng đời (quản lý RLTK không chỉ dừng lại ở các can
thiệp khi người mắc RLTK là trẻ em hoặc vị thành niên mà còn cần có những hỗ trợ
tiếp tục khi người mắc RLTK trưởng thành); (3). Trao quyền (cộng đồng tham gia
trên cơ sở được nâng cao năng lực); và (4). Phù hợp bối cảnh. Tuy nhiên, với thực
trạng RLTK vẫn chưa được quản lý ở Việt Nam, nghiên cứu này bước đầu xây
dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (sau đây gọi tắt là mô hình
quản lý) trong ngành y tế và phạm vi quản lý trẻ dưới 60 tháng (giai đoạn y tế
đóng vai trò quan trọng). Hai cách tiếp cận chính khi xây dựng mô hình là Trao
quyền (bắt đầu từ cộng đồng) và Phù hợp bối cảnh (gắn với hiện trạng sẵn có của
hệ thống y tế), cách tiếp cận đa ngành và vòng đời chưa được cân nhắc đến. Sơ đồ
mô hình thí điểm quản ly RLTK ở trẻ tại cộng đồng trình bày trong Hình 1.10.
Dựa trên kết quả tổng quan về 4 thành tố chính của mô hình quản lý RLTK ở
trẻ em và các nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành của các nhóm đối tượng
thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với trẻ, các hoạt động can thiệp được tiến hành ở cả
45
3 cấp độ: cá nhân, cộng đồng và môi trường với các biến số được thể hiện như trong
Khung lý thuyết (Hình 1.11), bao gồm:
- Cấp độ cá nhân: Sàng lọc rối loạn phát triển và RLTK cho trẻ dưới 5 tuổi,
ghi nhận thông tin đưa vào mô hình quản lý (có sự tham gia của Nhánh 1: đánh giá
đặc điểm dịch tễ học RLTK ở trẻ em tại cộng đồng).
- Cấp độ gia đình/cộng đồng: nâng cao kiến thức, thái độ thực hành của các
nhóm đối tượng thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với trẻ (NCST, GVMN và NVYT)
- Cấp độ môi trường: các hoạt động tác động lên hệ thống y tế (có sự tham
gia của Nhánh 2 – Xây dựng quy trình chẩn đoán sớm RLTK trẻ em tại cộng đồng
và Nhánh 3 – Xây dựng quy trình can thiệp sớm RLTK trẻ em tại cộng đồng): đào
tạo//tập huấn cho CBYT các tuyến; hỗ trợ cơ sở vật chất, cung cấp các biểu mẫu, bộ
công cụ, hướng dẫn, quy trình quản lý RLTK ở trẻ tại cộng đồng…
- Các chỉ số đánh giá kết quả ngắn hạn
Do can thiệp mới được triển khai trong thời gian 1 năm, các chỉ số đánh giá
được xác định bao gồm:
- Sự thay đổi kiến thức, thái độ thực hành của NCST, GVMN và NVYT sau
một năm can thiệp.
- Tính phù hợp và khả thi của mô hình quản lý (trong đó tính phù hợp thể
hiện mức độ phù hợp của can thiệp đối với đối tượng đích cụ thể trên địa bàn cụ
thể, còn tính khả thi thể hiện khả năng có thể thực hiện được can thiệp trong bối
cảnh cụ thể [90]). Tính phù hợp được đánh giá trên các khía cạnh: phù hợp về văn
hóa, dễ dàng triển khai và sự phù hợp của các hoạt động can thiệp. Tính khả thi
được đánh giá trên các khía cạnh: hệ thống chính sách, quản ly và điều hành; nguồn
nhân lực; cơ sở vật chất/trang thiết bị, nguồn tài chính và sự ủng hộ của các bên liên
quan.
Từ những cơ sở lý thuyết như trên, Khung lý thuyết và khung logic của luận
án được tóm tắt trong Hình 1.11 và Hình 1.12.
46
Chú thích:
: Giai đoạn sàng lọc/phát hiện/chẩn đoán sớm và can thiệp/điều trị sớm
: Giai đoạn tiếp tục quản lý, can thiệp/điều trị sau khi trẻ được can thiệp/điều trị ở tuyến trên và trở về cộng đồng.
: Hồ sơ của trẻ có RLTK được chuyển từ Bệnh viện Nhi TƯ và BV tuyến tỉnh về TTYT huyện để quản lý.
Hình 1.10. Mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ tại cộng đồng
(Vai trò, nhiệm vụ của từng cấp và vận hành mô hình được trình bày chi tiết trong Phụ lục 1)
Ngoài khả
năng can
thiệp
Cha mẹ/ NCST/ GVMN/NVYTTB/CVT
PHCN tiếp tục theo dõi
Không có dâu hiệu bât thương
[3] TTYT/Bệnh viện huyện/
TTYTDP
[4] Khoa Nhi/ Khoa PHCN
BVĐK tỉnh/thành phố
BV Nhi tỉnh/thành phố
BV PHCN tỉnh
[5] Bệnh viện Nhi TƯ
(Khoa Tâm thần/Khoa PHCN)
Có dâu hiệu bât thương
[1] Công đông [2] Trạm y tế xã/phường
Can thiệp
và giảm nhẹ mức độ
Người thực hiện: Cha mẹ/ NCST/
GVMN/NVYTTB/ CTVPHCN
[B]
[A]
Thông tuyên thăng tư xa/phương lên tinh
47
Hình 1.11. Khung lý thuyết của luận án
Cấp độ cá nhân
Trẻ dưới 5 tuổi
(Sàng lọc rối loạn phát
triển, RLTK)
Nguồn nhân lực y tế Cơ sở vật chất/trang thiết bị tại các tuyến
Hệ thống cung cấp thông tin, bằng chứng (bộ công cụ, các biểu mẫu, quy trình chuyên môn..)
Cấp độ gia đình/cộng đồng (NCST, GVMN và NVYT)
- Kiến thức về RLTK ở trẻ (bản chất, dấu hiệu nhận biết, nguyên
nhân, can thiệp, vai trò của cộng đồng và gia đình…)
- Thái độ (đối với trẻ mắc RLTK, với các can thiệp)
- Thực hành xử trí nghi ngở trẻ RLTK
Các nhà hoạch
định chính sách
(y tế, giáo dục,
lao động xã hôi)
Cấp độ môi trường
Các nhà
chuyên môn, tổ
chức dân sự…
48
Hình 1.12. Khung logic của luận án
Đầu vào
Chính sách và quy
định hiện hành: chức
năng nhiệm vụ cơ sở
y tế các tuyến, quy
định chuyển tuyến
giữa các cơ sở khám
chưa bệnh
Cơ sở y tế các tuyến:
nguồn nhân lực, cơ sở
vật chất/trang thiết bị,
hệ thống quản lý
thông tin
Chương trình truyền
thông: cơ sở vật chất
sẵn có phục vụ cho
hoạt động truyền
thông
Cộng đồng: kiến
thức, thái độ, thực
hành về RLTK của
NCST, GVMN và
NVYT
Hoạt động
Truyền thông nâng cao nhận thức của
cộng đồng về RLTK (hướng tới 3 nhóm
đối tượng đích: NCST dưới 5 tuổi,
GVMN, NVYT tuyến xã/huyện) thông
quan các phương tiện truyền thông đại
chúng
Nâng cao năng lực cho CBYT: tập huấn
với các nội dung phù hợp với chức
năng/nhiệm vụ của CBYT từng tuyến
Cung cấp thông tin, bằng chứng: Cung
cấp các bộ công cụ: sàng lọc phát triển ở
trẻ (ASQ VN), sàng lọc RLTK (M-
CHAT 23), chẩn đoán xác định RLTK
(DSM-IV), phân loại mức độ RLTK
(CARS), phân loại phát triển tâm vận
động (Denver II)
Hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho phòng can thiệp tuyến tỉnh
Cải thiện hệ thống quản lý thông tin
về trẻ RLTK: cung cấp các biểu mẫu
quản lý trẻ RLTK cho các tuyến
Kết quả
Sự thay đổi kiến thức,
thái độ thực hành của
NCST, GVMN,
NVYT
Tác động
Trẻ RLTK
được nhận
biết, phát
hiện và can
thiệp sớm
ơ
Trẻ RLTK
được theo
dõi và quản
lý
Tính phù hợp:
- Dễ vận hành
- Bối cảnh văn hóa
- Hoạt động can
thiệp
Tính khả thi:
- Chính sách, quản
ly, điều hành
- Nhân lực
- Cơ sở vật chất,
trang thiết bị
- Nguồn tài chính
- Sự ủng hộ của các
bên liên quan
49
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Nghiên cứu định lượng
- Người chăm sóc trẻ (NCST) dưới 5 tuổi: là người chăm sóc chính thường xuyên,
dành nhiều thời gian chăm sóc trẻ nhất (cho ăn uống, ngủ nghỉ, chơi, chăm sóc
khi trẻ ốm…) và sống cùng nhà, có quan hệ huyết thống với trẻ.
- Giáo viên mầm non (GVMN): đang công tác tại các trường mầm non.
- Nhân viên y tế (NVYT) không chuyên về RLTK thường xuyên tiếp xúc với trẻ
dưới 5 tuổi: được chia thành 3 tuyến:
o Tuyến xã: y tế thôn và CBYT tại trạm y tế.
o Tuyến huyện: CBYT đang công tác tại Khoa Khám bệnh và Khoa Nhi
thuộc trung tâm y tế (TTYT) hoặc trung tâm y tế dự phòng (TTYTDP)
huyện và bệnh viện đa khoa (BVĐK) huyện.
o Tuyến tỉnh: CBYT đang công tác tại Khoa khám bệnh, Khoa Nhi thuộc
bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh hoặc bệnh viện Nhi tỉnh.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Đối với NCST: từ 18 tuổi trở lên, có khả năng đọc hoặc có thể hiểu và trả lời
các câu hỏi điều tra; đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Đối với GVMN và NVYT: có mặt tại thời điểm tiến hành thu thập số liệu; đồng
ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Nghiên cứu định tính
- Ba nhóm đối tượng trong nghiên cứu định lượng: NCST dưới 5 tuổi; GVMN, và
NVYT tuyến xã, huyện và tỉnh
- CBYT tuyến trung ương (bệnh viện Nhi Trung Ương)
- Lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Hòa Bình và Thái Bình
- Chính quyền địa phương: đại diện lãnh đạo UBND phường/xã, thành phố/huyện,
tỉnh phụ trách lĩnh vực y tế
- Chuyên gia về quản lý y tế, chính sách và hệ thống y tế
50
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng tháng 10/2016 đến tháng 8 năm 2019. Trong đó:
- Nghiên cứu định lượng: Từ tháng 10/2016 đến tháng 8 năm 2019, trong đó:
Thời điểm đánh giá trước can thiệp (TCT): tháng 01 năm 2017
Thời gian can thiệp: từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018
Thời điểm đánh giá sau can thiệp (SCT): tháng 01 năm 2019
- Nghiên cứu định tính: được tiến hành sau khi kết thúc giai đoạn can thiệp
Thời điểm thu thập số liệu: từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 7 năm 2019
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng được thực hiện tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình.
Nghiên cứu định tính được thực hiện tại Hòa Bình, Thái Bình và Hà Nội.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp so sánh trước - sau không có nhóm chứng, kết hợp
nghiên cứu định tính ở giai đoạn sau khi đã kết thúc việc thu thập số liệu định lượng
và đã có kết quả sơ bộ xử lý số liệu định lượng. Cách tiếp cận của nghiên cứu định
tính là mô tả và giải thích, mục đích bổ sung thông tin cho sự thay đổi về kiến thức,
thái độ, thực hành của các nhóm đối tượng sau can thiệp và đánh giá tính phù hợp
khả thi của mô hình quản lý RLTK ở trẻ em.
2.4. Cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu
2.4.1. Nghiên cứu định lượng
- Công thức tính cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu hai tỷ lệ:
Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm
α: mức y nghĩa với α = 0,05 ; β: xác suất sai lầm loại 2; 1- β: lực mẫu
P1: Tỷ lệ trước can thiệp ; P2: Tỷ lệ (kỳ vọng) sau can thiệp
51
- Lựa chọn các tham số để tính cỡ mẫu cho từng nhóm đối tượng:
Giá trị P1 của các phương án tính cỡ mẫu cho đối tượng là NCST dựa trên
kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Bảo Khánh [12] và cho đối tượng là GVMN
dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Thuấn [19]. Còn đối với NVYT, do
chưa tìm được nghiên cứu đã triển khai tại Việt Nam, giá trị P1 được lựa chọn là tỷ
lệ NVYT có thực hành xử trí đúng khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK, theo kết quả tổng
quan các nghiên cứu trên thế giới, ước lượng giá trị là 65%.
Chương trình truyền thông kỳ vọng làm tăng 20% tỷ lệ kiến thức đúng, thái
độ đúng, 15% tỷ lệ thực hành đúng của đối tượng so với thời điểm trước can thiệp.
Các phương án tính cỡ mẫu theo các chỉ số và lực mẫu khác nhau được trình
bày trong Bảng 2.1:
Bảng 2.1. Các phương án tính toán cỡ mẫu
Đối
tượng
Chỉ số P1 P2 Cỡ mẫu
(β = 0,1)
Cỡ mẫu
(β = 0,2)
NCST Kiến thức chung về RLTK 25,2 45,2 118 89
Kiến thức về dấu hiệu trẻ
RLTK 13,6 33,6 93 70
Kiến thức về nguyên nhân
RLTK 37,0 57,0 129 97
Thái độ về RLTK 35,0 55,0 128 96
Thực hành xử trí khi nghi ngờ
trẻ mắc RLTK Chưa có nghiên cứu tại Việt Nam
GVMN Kiến thức về dấu hiệu trẻ
RLTK 75,5 95,5 64 48
Kiến thức về nguyên nhân
RLTK 14,3 34,3 95 72
Thái độ về RLTK 84,5 99,5 67 49
Thực hành xử trí nghi ngờ trẻ
mắc RLTK
100 - - -
NVYT Thực hành đúng về RLTK
(ước lượng) 65 80 185 138
52
Dựa trên bảng tính toán cỡ mẫu theo các phương án và cân nhắc tới nguồn
lực của nghiên cứu, lựa chọn phương án có cỡ mẫu lớn nhất với hiệu lực mẫu (1-
β) bằng 0,8.
- Cỡ mẫu thực tế cho từng nhóm đối tượng
Bảng 2.2. Cỡ mẫu thực tế cho từng nhóm đối tượng
Các tham số NCST NVYT GVMN
n1 (tính theo công thức, cho 1 tỉnh) 97 138 72
n2 (tính theo công thức, cho 2 tỉnh) 194 276 144
n1 (cỡ mẫu thực tế TCT) 193 300 182
n2 (cỡ mẫu thực tế SCT) 226 295 171
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu cho điều tra trước và sau can thiệp là mẫu
không lặp lại và được tiến hành như sau:
+ Đối với NCST và GVMN: sử dụng phương pháp chọn mẫu theo nhiều giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Tại mỗi tỉnh, chọn 1 thành phố (đại diện cho địa bàn có kinh tế
phát triển) và ngẫu nhiên 1 huyện (đại diện cho địa bàn có kinh tế kém phát triển
hơn). Các huyện/thành phố được lựa chọn là: TP. Hòa Bình và Huyện Lương Sơn
(thuộc tỉnh Hòa Bình); TP. Thái Bình và huyện Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình).
- Giai đoạn 2: Tại mỗi thành phố/huyện đã lựa chọn: chọn ngẫu nhiên 1
phường/ xã cho nghiên cứu trước can thiệp; 1 phường/xã cho nghiên cứu sau can
thiệp (mục đích lựa chọn này là để các đối tượng sau can thiệp không trùng với đối
tượng trước can thiệp). Các xã phường được lựa chọn TCT là: xã Tân Vinh (huyện
Lương Sơn), phường Đồng Tiến (TP. Hòa Bình), xã Tây Giang (huyện Tiền Hải),
phường Trần Lãm (TP. Thái Bình); SCT là: xã Hòa Sơn (huyện Lương Sơn),
phường Tân Thịnh (TP. Hòa Bình), xã Đông Minh (huyện Tiền Hải), phường
Hoàng Diệu (TP. Thái Bình). Tại các phường/xã đã lựa chọn: chọn ngẫu nhiên
NCST dưới 5 tuổi và toàn bộ GVMN xã để tham gia vào nghiên cứu.
+ Đối với NVYT: sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn theo từng tuyến:
53
- NVYT được chia thành 3 nhóm: tuyến xã (gồm y tế thôn và CBYT tại TYT
phường/xã); tuyến huyện (BV huyện và TTYT huyện) và tuyến tỉnh (BV đa khoa
tỉnh và BV Nhi).
- Tuyến xã: chọn toàn bộ NVYT thôn và CBYT tại TYT ở các phường/xã
được lựa chọn.
- CBYT tuyến huyện và tuyến tỉnh: chọn ngẫu nhiên mỗi cơ sở y tế 25
CBYT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu. Đối tượng đã tham gia khảo sát TCT sẽ không
tham gia khảo sát SCT.
2.4.2. Nghiên cứu định tính
Sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích: những người có nhiều thông
tin về chủ đề nghiên cứu được lựa chọn để phỏng vân sâu (PVS), thảo luận nhóm
(TLN) hoặc tham dự hội thảo chuyên gia. Cỡ mẫu cho từng nhóm đối tượng được
trình bày trong Bảng 2.3:
Bảng 2.3. Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính
Đối tượng Chi tiết Tổng cộng
NVYT tuyến
xã/phường
01 TLN/huyện x 02 huyện/tỉnh x 2 tỉnh 04 TLN
tuyến
quận/huyện
01 TLN/huyện x 02 huyện/tỉnh x 2 tỉnh 04 TLN
tuyến tỉnh 01 TLN/tỉnh x 2 tỉnh
01 PVS lãnh đạo Sở y tế x 2 tỉnh
02 TLN
02 PVS
tuyến TƯ 01 PVS CBYT BV Nhi Trung ương 01 PVS
GVMN 01 TLN GVMN x 2 tỉnh 02 TLN
NCST 01 TLN x 2 tỉnh 02 TLN
Chính
quyền
UBND
xã/phường
1 PVS/xã x 1 xã/huyện x 2 huyện/tỉnh x 2
tỉnh
04 PVS
UBND huyện 01 PVS/huyện x 02 huyện/tỉnh x 2 tỉnh 04 PVS
UNBD tỉnh 1 PVS x 2 tỉnh 02 PVS
54
Chuyên
gia
Chuyên gia về
RLTK, an sinh
xã hội, giáo
dục đặc biệt và
quản lý y tế.
01 hội thảo, gồm 24 đại biểu tham dự
trong đó có 12 chuyên gia đến từ Vụ Sức
khỏe Bà mẹ - Trẻ em; Viện Chính sách và
chiến lược y tế, Cục Bảo trợ xã hội (Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội); Bệnh
viện Nhi trung ương, Trung tâm Giáo dục
đặc biệt Quốc gia, một số tổ chức phi
chính phủ và trung tâm nghiên cứu ứng
dụng khoa học tâm lý giáo dục, trường đại
học Y tế công cộng.
01 Hội
thảo
chuyên gia
Tổng cộng: 01 hội thảo chuyên gia, 14 cuộc TLN và 15 cuộc PVS với 108 người
tham gia nghiên cứu
2.5. Các biến số và chủ đề trong nghiên cứu
2.5.1. Biến số trong nghiên cứu định lượng
Các biến số trong nghiên cứu định lượng bao gồm các nhóm biến về thông
tin chung của đối tượng nghiên cứu; nhóm biến số về kiến thức, thái độ, thực hành
về RLTK của đối tượng (được xây dựng dưa trên kết quả tổng quan các thang đo
được sử dụng trong các nghiên cứu trên thế giới – Phụ lục 2). Riêng đối với số liệu
sau can thiệp, có thêm nhóm biến về tính phù hợp của hoạt động can thiệp đã triển
khai. Bảng 2.4 tóm tắt các nhóm biến chính của ngiên cứu định lượng.
Bảng 2.4. Các nhóm biến số trong nghiên cứu định lượng
STT Tên nhóm biến số Nhóm biến số chính
1 Thông tin chung
về đối tượng
nghiên cứu
- Các biến số chung đối với cả 3 nhóm đối tượng
(CBYT, NCST và GVMN): Tuổi, giới, dân tộc, trình
độ học vấn
- Biến số riêng đối với NCST: Nghề nghiệp, quan hệ
với trẻ
- Biến số riêng đối với CBYT: Chuyên môn y tế, vị trí
công tác
55
- Biến số riêng đối với GVMN: Chuyên môn về sư
phạm, kinh nghiệm chăm sóc trẻ cần giáo dục đặc biệt,
loại trường đang công tác
2 Kiến thức cơ bản
về RLTK ở trẻ
• Kiến thức về nhận biết RLTK ở trẻ
• Kiến thức về chẩn đoán RLTK
• Kiến thức về nguyên nhân RLTK ở trẻ
• Kiến thức về can thiệp cho trẻ RLTK
3 Thái độ đối với
RLTK ở trẻ
• Thái độ đối với trẻ bị mắc RLTK
• Thái độ đối với can thiệp cho trẻ RLTK
4 Thực hành khi
nghi ngờ trẻ
RLTK
• Đã từng phát hiện/nghi ngở trẻ mắc RLTK
• Thực hành xử lý sớm đối với RLTK ở trẻ
5 Tính phù hợp của
hoạt động đã triển
khai*
• Mức độ tiếp cận với 4 kênh truyền thông của chương
trình: tờ rơi, áp phích, banner, loa phát thanh tại
xã/phường
• Nhắc lại được các thông điệp của chương trình
truyền thông
Ghi chú: (*): chỉ áp dụng ở thời điểm sau can thiệp
2.5.2. Chủ đề trong nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính với mục đích bổ sung thông tin về sự thay đổi kiến
thức, thái độ thực hành về RLTK ở trẻ của đối tượng sau can thiệp đồng thời đánh
giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng
đồng (mục tiêu số 2). Tính phù hợp được đánh giá ở các khía cạnh: tính dễ vận
hành, tính phù hợp với bối cảnh văn hóa và sự phù hợp của các hoạt động can thiệp.
Tính khả thi được đánh giá dựa trên góc độ từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ, bao
gồm các yếu tố: nguồn nhân lực; nguồn tài chính; cơ sở vật chất và trang thiết bị; hệ
thống chính sách, quản lý, điều hành; và sự ủng hộ của các bên liên quan. Chi tiết
được trình bày trong Bảng 2.5.
56
Bảng 2.5. Các chủ đề trong nghiên cứu định tính
Chủ đề Diễn giải cụ thể Đối tượng
Kết quả của
hoạt động
can thiệp
- Nhận định về sự thay đổi về kiến thức, thái độ, thực
hành của đối tượng đích sau chương trình can thiệp:
thay đổi như thế nào, những bằng chứng cụ thể?
- Trẻ RLTK đã được quản ly như thế nào?
NCST,
GVMN,
NVYT (xã,
huyện, tỉnh)
Tính phù hợp của mô hình thí điểm:
Tính dễ dàng
triển khai
Việc vận hành mô hình có dễ dàng không? Nếu có, tại
sao? Nếu không, gặp khó khăn gì, dễ dàng khắc phục
không, khắc phục như thế nào?
NCST,
GVMN
NVYT (xã,
huyện, tỉnh),
Sở y tế,
Chính quyền
địa phương
Phù hợp với
bối cảnh văn
hóa
Mô hình có phù hợp với văn hóa người Việt Nam
không? Nếu có, vì sao. Nếu không, gặp khó khăn gì,
dễ dàng khắc phục không, khắc phục như thế nào?
Sự phù hợp
của các hoạt
động can
thiệp đã triển
khai
- Nhận định về tính phù hợp của chương trình
truyền thông tại cộng đồng (các khía cạnh: sản
phẩm truyền thông, kênh truyền thông, cách thức
thực hiện)? Trong quá trình thực hiện gặp những
khó khăn gì? Khắc phục như thế nào?
- Nhận định về tính phù hợp của các hoạt động tác
động lên hệ thống y tế (tập huấn cho CBYT các
tuyến; cung cấp biểu mẫu, bộ công cụ sàng lọc rối
loạn phát triển, RLTK; hỗ trợ cơ sở vật chất, trang
thiết bị..)? Trong quá trình thực hiện gặp những khó
khăn gì? Khắc phục như thế nào?
Tính khả thi của mô hình thí điểm
Sự ủng hộ
của các bên
liên quan
- Sự cần thiết của quản lý RLTK tại trẻ? Lý do?
- Sự quan tâm và ủng hộ của nhà hoạch định chính
sách về vấn đề này?
57
Khả thi về
nguồn nhân
lực
- Mô hình quản ly được vận hành cần sự tham gia
của các bên liên quan như thế nào? Vai trò của các
bên liên quan trong mô hình có phù hợp với năng
lực và chức năng nhiệm vụ của đối tượng không?
Nếu không: cần phải điều chỉnh như thế nào? Nếu
có: vì sao lại nhận định như vậy?
- Nếu nhân rộng mô hình, cần phải thiết lập nguồn
nhân lực như thế nào? Dự kiến những khó
khăn/thuận lợi? Cách khắc phục?
NCST;
GVMN;
NVYT (xã,
huyện, tỉnh,
trung ương);
Chính quyền;
Chuyên gia
NCST;
GVMN;
NVYT (xã,
huyện, tỉnh,
trung ương);
Chính quyền;
Chuyên gia
Khả thi về cơ
sở vật chất
/trang thiết bị
- Mô hình quản lý RLTK ở trẻ được vận hành cần
thay đổi gì về cơ sở vật chất/trang thiết bị? Những
khó khăn đã gặp phải? Khắc phục như thế nào?
- Nếu nhân rộng mô hình, cần phải xây dựng/thiết
lập hệ thống cơ sở vật chất như thế nào? Dự kiến
những khó khăn/thuận lợi? Cách khắc phục?
Khả thi về hệ
thống quản
ly, điều hành
và phối hợp
- Mô hình quản lý RLTK ở trẻ được vận hành cần
thay đổi gì về hệ thống quản ly, điều hành? Sự phối
hợp giữa các tuyến như thế nào? Những khó khăn
đã gặp phải? Khắc phục như thế nào?
- Nếu nhân rộng mô hình, cần thay đổi gì về chính
sách, hệ thống quản lý, điều hành, phối hợp? Dự
kiến những khó khăn/thuận lợi? Cách khắc phục?
Khả thi về
nguồn tài
chính
- Trong quá trình áp dụng có những khó khăn gì về
mặt tài chính? Cách khắc phục khó khăn?
- Nếu tiếp tục triển khai, nguồn tài chính cần được
huy động như thế nào?
58
2.6. Thu thập số liệu
2.6.1. Nghiên cứu định lượng
2.6.1.1. Xây dựng và thử nghiệm bộ công cụ
- Dựa trên kết quả tổng quan các thang đo đánh giá kiến thức, thái độ, thực
hành về RLTK ở trẻ em (chi tiết trong Phụ lục 2), nhóm nghiên cứu xây dựng bộ
công cụ phát vấn định lượng cho cả ba nhóm đối tượng, trong đó chỉ có phần thông
tin chung là khác nhau giữa các nhóm. Các câu hỏi đánh giá kiến thức (42 câu)
được thiết kế dưới dạng câu hỏi Đúng/Sai/Không biết; các câu hỏi đánh giá thái độ
(13 câu) được thiết kế dưới dạng thang đo Likert 5 mức độ (1 đến 5, từ rất đồng ý
đến rất không đồng ý). Các câu hỏi thông tin chung, đánh giá thực hành xử trí khi
nghi ngờ trẻ mắc RLTK (6 câu) và tiếp cận với hoạt động truyền thông (sau can
thiệp) được thiết kế dưới dạng câu hỏi nhiều lựa chọn.
- Thử nghiệm bộ công cụ: xin ý kiến của 03 chuyên gia (01 chuyên gia trong
lĩnh vực tâm thần kinh, 01 chuyên gia về rối loạn tự kỉ ở trẻ em, và 01 chuyên gia
về lĩnh vực giáo dục nâng cao sức khỏe). Sau khi được điều chỉnh, bộ công cụ tiếp
tục được thử nghiệm trên các nhóm đối tượng (NCST, GVMN và NVYT) với số
lượng 10 người mỗi nhóm. Bộ công cụ được chỉnh sửa trước khi được sử dụng
chính thức. Sau quá trình thử nghiệm, bộ câu hỏi đã được sửa chữa về mặt câu từ và
số lượng câu hỏi trong thang đo đánh giá kiến thức đã giảm từ 42 câu còn 26 câu;
thang đo đánh giá thái độ đã giảm từ 13 câu còn 10 câu và thang đo đánh giá thực
hành giảm từ 2 câu còn 1 câu. Bộ công cụ sau khi chỉnh sửa được trình bày trong
Phụ lục 4.
2.6.1.2. Tập huấn điều tra viên
Điều tra viên là nghiên cứu sinh và 04 cán bộ, giảng viên của Trường Đại
học Y tế công cộng, đã có nhiều kinh nghiệm trong việc thu thập số liệu tại cộng
đồng.
Tập huấn điều tra viên: được diễn ra trong 1 buổi, vào thời điểm khoảng 1
tuần trước khi thu thập số liệu trước và sau can thiệp tại trường Đại học Y tế công
59
cộng. Nội dung tập huấn bao gồm: kiến thức cơ bản về RLTK, quy trình và kỹ năng
thu thập số liệu, cách xử lý một số tình huống trong quá trình thu thập số liệu.
Giảng viên tập huấn là chủ nhiệm đề tài nhánh 4 và chuyên gia đến từ bệnh viện
Nhi Trung ương.
2.6.1.3. Tiến hành thu thập số liệu
- Tiếp cận đối tượng nghiên cứu:
+ Đối với nhóm NCST, GVMN và NVYT tuyến xã: CBYT tại trạm gửi giấy
mời ĐTNC theo danh sách đến TYT vào các khung thời gian trong ngày.
+ Đối với nhóm CBYT tuyến huyện và tỉnh: Điều tra viên trực tiếp đến cơ sở
y tế (đã thông báo trước và được sự đồng ý của Ban lãnh đạo cơ sở y tế).
- Tiến hành thu thập số liệu:
+ Giới thiệu với ĐTNC về mục đích, y nghĩa của nghiên cứu, tính bảo mật
thông tin và sự đồng ý tham gia của ĐTNC.
+ Tiến hành phát bộ câu hỏi và hướng dẫn đối tượng trả lời tại các bàn đã
được bố trí sẵn tại TYT (đối với nhóm NCST, GVMN và NVYT tuyến xã) hoặc tại
phòng làm việc của đối tượng (đối với nhóm CBYT tuyến huyện và tỉnh). Đối với
đối tượng là NCST gặp khó khăn trong việc đọc, viết, điều tra viên phỏng vấn đối
tượng theo bộ câu hỏi và ghi chú những đối tượng này vào phiếu phỏng vấn. Thực
tế, chỉ có 2 NCST trong đợt thu thập số liệu SCT được chuyển thành phỏng vấn.
+ Đối tượng tự điền (hoặc trả lời) bộ câu hỏi khuyết danh trong thời gian
khoảng 20-30 phút. Điều tra viên có mặt tại thời điểm đối tượng điền phiếu để làm
rõ những điểm ĐTNC có câu hỏi và rà soát lại các phiếu trước khi thu để đảm bảo
thông tin được đầy đủ và chính xác.
2.6.2. Nghiên cứu định tính
- Xây dựng bộ công cụ:
Các hướng dẫn PVS/TLN cho từng nhóm đối tượng và các câu hỏi gợi ý
thảo luận trong Hội thảo chuyên gia được xây dựng sơ bộ dựa trên các chủ đề
nghiên cứu cần thu thập. Sau đó tiếp tục được hoàn chỉnh sau đã có kết quả sơ bộ
60
của nghiên cứu định lượng và kết quả tổng hợp từ các báo cáo đánh giá quá trình
triển khai thí điểm mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (Phụ lục 7).
-Tiến hành thu thập thông tin:
- Đối với các cuộc PVS và TLN:
+ Điều tra viên là nghiên cứu sinh và 02 giảng viên của Trường Đại học Y tế
công cộng, có nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai nghiên cứu định tính.
+ Liên hệ và hẹn đối tượng tại nơi thuận tiện nhất cho đối tượng:
+ Đối tượng là GVMN, NCST, NVYT tuyến xã và lãnh đạo UBND
xã: CBYT tại TYT hỗ trợ.
+ Đối tượng là CBYT, lãnh đạo UBND tuyến huyện và tỉnh: cán bộ tại
Sở y tế hỗ trợ.
+ Đối tượng là CBYT tuyến trung ương: Nghiên cứu sinh trực tiếp
liên hệ.
+ Điều tra viên tiến hành PVS/TLN đối tượng, có ghi âm hoặc ghi biên bản
theo sự đồng thuận của đối tượng. Thời gian cho mỗi cuộc PVS/TLN nhóm khoảng
45-60 phút.
- Đối với Hội thảo chuyên gia
+ Thành viên nhóm nghiên cứu của Đề tài nhánh 4 gửi giấy mời tham dự
Hội thảo đến các chuyên gia, Sở y tế và cơ sở y tế tuyến xã, huyện, tỉnh tại Hòa
Bình, Thái Bình và Hà Nội.
+ Chủ nhiệm Đề tài nhánh 4 chủ trì hội thảo, đưa ra các câu hỏi và định
hướng thảo luận. Nghiên cứu sinh tham gia hội thảo với vai trò là báo cáo viên và
hỗ trợ thảo luận. Cấc thông tin thu được trong Hội thảo được thư ky hội thảo ghi âm
và ghi biên bản. Hội thảo diễn tra trong khoảng 180 phút, trong đó có 90 phút thảo
luận.
61
2.7. Xử lý số liệu
2.7.1. Làm sạch số liệu
Bộ số liệu sau khi được nhập vào phần mềm Epi Data 3.1 được chuyển sang
phần mềm SPSS 25 để làm sạch số liệu :
- Dữ liệu không hợp lý (nằm ngoài các phương án lựa chọn): tìm lại phiếu và điền lại
thông tin.
- Dữ liệu bị thiếu (missing): được xử lý theo nguyên tắc:
o Phần thông tin chung: Nếu dựa trên logic có thể tìm được thông tin của đối
tượng => điền theo logic (ví dụ, thiếu thông tin về giới có thể dựa vào đặc
điểm quan hệ với trẻ). Nếu không, dữ liệu thiếu được giữ nguyên.
o Phần kiến thức: Dữ liệu thiếu sẽ được thay thế bằng đáp án “Phân
vân/Không biết”
o Phần thái độ: dữ liệu thiếu được giữ nguyên.
2.7.2. Đánh giá tính giá trị về mặt cấu trúc và độ tin cậy của thang đo
- Tính giá trị về mặt cấu trúc và độ tin cậy của thang đo đo lường kiến thức, thái
độ về RLTK ở trẻ em được đánh giá dựa trên số liệu của điều tra trước can thiệp.
- Đánh giá tính giá trị về mặt cấu trúc: được thực hiện qua áp dụng phương
pháp phân tích nhân tố khám phá (exploratory factor analysis - EFA) để xác định
các nhân tố chính. Tiêu chí là các nhân tố này có giá trị riêng (eigen value) lớn hơn
1 và tỉ lệ biến thiên được giải thích bởi các nhân tố từ 50% trở lên và phân bố các
nhân tố trên biểu đồ Scree plot. Sau đó, ma trận xoay nhân tố (rotated factor matrix)
được sử dụng để xác định các tiểu mục cho mỗi nhân tố, với điều kiện các tiểu mục
này có hệ số tương quan (factor loading) lớn hơn 0,3 [89].
- Đánh giá độ tin cậy (độ nhất quán bên trong) được thực hiện thông qua hệ
số Cronbach’s Alpha, với giá trị từ 0,6 trở lên được coi là chấp nhận được [89].
- Kết quả kiểm định các thang đo đánh giá kiến thức, thái độ về RLTK ở trẻ cho
từng nhóm đối tượng được trình bày trong Phụ lục 6.
62
2.7.3. Tạo các biến tổng hợp
- Biến tổng hợp kiến thức theo từng nhân tố và kiến thức chung:
Quy ước tính điểm cho từng câu trả lời về kiến thức như sau: Với mỗi câu
hỏi trả lời đúng được tính 2 điểm, trả lời sai là 0 điểm và trả lời “Phân vân/không
biết” được tính 1 điểm (những đối tượng trả lời Phân vân/không biết được hiểu là
họ đã từng nghe hoặc đã có một chút kiến thức về câu được hỏi và họ đang phân
vân giữa câu trả lời đúng và sai nên trong nghiên cứu này được đánh giá là có kiến
thức tốt hơn so với những người có câu trả lời sai). Cách chấm điểm kiến thức được
trình bày chi tiết trong Phụ lục 5.
Tạo biến tổng hợp kiến thức theo từng nhân tố: tổng điểm của tất cả câu hỏi
trong cùng nhân tố
Tạo biến tổng hợp kiến thức chung: tổng điểm của tất cả câu hỏi trong thang
đo. Điểm kiến thức chung tối thiểu là 0 và tối đa là 26 đối với nhóm NCST, 30 đối
với nhóm GVMN và 28 đối với nhóm NVYT.
- Biến tổng hợp thái độ chung:
Mã hóa lại các câu hỏi có tính tiêu cực để toàn bộ câu hỏi theo cùng một
hướng: điểm thái độ tích cực nhất là 5 điểm và điểm thái độ tiêu cực nhất là 1 điểm.
Cách chấm điểm thái độ được trình bày chi tiết Phụ lục 5.
Tạo biến tổng hợp thái độ chung: tổng điểm của tất cả câu hỏi trong thang
đo. Đối với nhóm NCST và GVMN, điểm thái độ chung tối thiểu là 6 và tối đa là
30. Còn đối với nhóm NVYT, điểm thái độ chung tối thiểu là 5 và tối đa là 25.
2.8. Phân tích số liêu
2.8.1 Nghiên cứu định lượng
Phần mềm SPSS 25 và Stata 15 được sử dụng để phân tích số liệu. Các chiến
lược phân tích bao gồm:
Phân tích số liệu trước can thiệp: Sử dụng phương pháp phân tích thống kê
mô tả để mô tả về kiến thức, thái độ thực hành của từng nhóm đối tượng tại thời
điểm trước can thiệp.
63
Bộ số liệu trước và sau can thiệp trên từng nhóm đối tượng được nối (merge)
với nhau để tiến hành phân tích so sánh trước và sau can thiệp:
- Đối với từng biến trong thang đo kiến thức: So sánh tỷ lệ trả lời đúng trước
và sau can thiệp (kiểm định Chi bình phương).
- Đối với từng biến trong thang đo thái độ: Kết quả kiểm định phân bố cho
thấy biến thái độ không phân bố chuẩn. Do đó kiểm định Mann-whitney test được
sử dụng để so sánh giá trị trung vị trước và sau can thiệp.
- Đối với biến tổng hợp kiến thức theo từng nhân tố, biến tổng hợp kiến thức
chung và biến tổng hợp thái độ chung: Kết quả kiểm định phân bố cho thấy các biến
này đều không phân bố chuẩn. Do đó kiểm định Mann-whitney test được sử dụng
để so sánh giá trị trung vị trước và sau can thiệp.
- Đối với biến thực hành: So sánh tỷ lệ trước và sau can thiệp theo từng hành
vi đối tượng lựa chọn (kiểm định Chi bình phương).
* Đánh giá tác động của chương trình can thiệp:
Do những hạn chế về mặt nguồn lực, thiết kế nghiên cứu là can thiệp trước-
sau không có nhóm chứng; đồng thời cách chọn mẫu tại hai thời điểm trước và sau
can thiệp là hai mẫu cắt ngang, không lặp lại. Do đó, để đánh giá tác động của
chương trình can thiệp, nghiên cứu sinh áp dụng phương pháp phân tích điểm xu
hướng (Propensity score matching- thường gọi là tắt là PSM hoặc Pscore)-được
đánh giá là phù hợp và khả thi trong trường hợp này [6].
Bản chất của phương pháp PSM là ghép cặp để tạo ra hai nhóm tương đồng
(nhóm can thiệp và nhóm không can thiệp) dựa vào điểm cân bằng hay giá trị xác
suất của mỗi cá thể trong mỗi nhóm nhờ phép thống kê. Sau khi có hai nhóm tương
đồng, nhà nghiên cứu có thể dễ dàng xác định được sự ảnh hưởng của can thiệp khi
so sánh giá trị đầu ra quan tâm giữa hai nhóm can thiệp và không can thiệp. Nếu
không tạo ra được 2 nhóm tương đồng, kết quả thu được có thể sẽ quá cao hoặc quá
thấp so với sự thay đổi thực sự trong thực tế [6], [35].
64
Trong nghiên cứu này, số liệu điều tra trước can thiệp được sử dụng làm
nhóm không can thiệp (nhóm chứng); số liệu điều tra sau can thiệp chính là nhóm
can thiệp. Phân tích PSM được tiến hành theo các bước như sau:
- Bước 1: Kiểm tra điều kiện phân tích PSM
- Lựa chọn biến ghép cặp: Xây dựng mô hình hồi quy với biến độc lập là các
biến số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (tuổi, giới, trình độ học vấn,
dân tộc, vị trí công tác), biến đầu ra là thời điểm trước và sau can thiệp.
- Tính toán điểm xu hướng: Chạy lệnh pscore để xác định số khối tạo cân
bằng giữa 2 nhóm SCT và TCT (loại bớt các cá thể có xác suất dự đoán quá thấp
hoặc quá cao với cả mẫu). Tạo cân bằng giữa hai nhóm nhưng chỉ sử dụng ghép cặp
các giá trị xác suất chung (trùng nhau) giữa giá trị thực và giá trị dự báo.
- Đánh giá sự cân bằng trong mẫu ghép cặp: Đánh sự phù hợp của ghép cặp
thông qua kiểm định sự khác biệt (t-test) giữa hai nhóm can thiệp và không can
thiệp sau ghép cặp. Ghép cặp phù hợp khi sự khác biệt giữa hai nhóm sau khi ghép
cặp không có y nghĩa thống kê (p>0.05).
Bước 2: Đánh giá tác động của chương trình can thiệp:
So sánh kiến thức, thái độ, thực hành của hai nhóm SCT và TCT sau ghép
cặp. Giá trị ATE (the average treatment effect on the treated group – tác động can
thiệp bình quân trên đối tượng can thiệp) cho kết quả trung bình tác động trên đối
tượng can thiệp, ATE có ý nghĩa thống kê khi p của kiểm định ≤ 0,05.
2.8.2. Nghiên cứu định tính
Toàn bộ các băng ghi âm thu được từ các cuộc PVS/TLN và Hội thảo
chuyên gia được gỡ băng và sau đó được mã hoá và phân tích theo chủ đề.
65
2.9. Tóm tắt hoạt động can thiệp
2.9.1. Chương trình truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về
RLTK
Quá trình xây dựng và thực hiện chương trình truyền thông nâng cao kiến
thức, thái độ, thực hành về RLTK ở trẻ em trên ba nhóm đối tượng đích (NCST,
GVMN và NVYT) được thực hiện theo các bước chính được mô tả theo Hình 2.2:
Hình 2.1: Quy trình xây dựng và thực hiện chương trình can thiệp
2.9.1.1. Bước 1: Lựa chọn cách tiếp cận và giải pháp can thiệp phù hợp
Dựa trên kết quả tổng quan các chương trình truyền thông nâng cao nhận
thức của cộng đồng về RLTK ở trẻ em trên thế giới, nhóm nghiên cứu xác định 3
nhóm đối tượng đích chính của chương trình, bao gồm NCST dưới 5 tuổi, GVMN
và NVYT.
Dựa trên kết quả đánh giá ban đầu (đặc điểm đối tượng đích, nhu cầu thông
tin, bối cảnh nguồn lực dành cho chương trình truyền thông tại cộng đồng sẵn có tại
địa phương), nhóm nghiên cứu xây dựng ma trận cách tiếp cận và giải pháp can
thiệp cho từng nhóm đối tượng (Bảng 2.6). Trong đó, đối với nhóm GVMN và
NVYT, cách tiếp cận chủ yếu là giáo dục sức khỏe (thông qua các hoạt động tập
huấn), từ đó tạo đội ngũ nòng cốt triển khai các hoạt động can thiệp tại cộng đồng.
Tổng
quan tài
liệu
Phân tích
bối cảnh và
đối tượng
Theo dõi,
giám sát
66
Đối với nhóm NCST, can thiệp tập trung vào cách tiếp cận truyền thông thay đổi
hành vi với nhiều hoạt động và tài liệu truyền thông được kết hợp với nhau: truyền
thông qua hệ thống loa phát thanh, phát tờ rơi tới từng đối tượng và truyền thông
qua banner, áp phích… Cách tiếp cận trao quyền cho cả ba nhóm đối tượng đích
cũng đã được cân nhắc đến trong chương trình.
Bảng 2.6. Ma trận chiến lược tiếp cận và lựa chọn giải pháp can thiệp
Chiến lược
tiếp cận NCST GVMN và NVYT
Giáo dục sức
khỏe
Tổ chức tập huấn cho CBYT
Phát sách mỏng, video hướng dẫn chẩn
đoán và can thiệp RLTK cho CBYT
TYT xã/phường và GVMN
Truyền thông
thay đổi hành
vi
Treo banner
Treo áp phích
Phát thanh qua loa phát thanh địa phương
Phát tờ rơi (tờ thông tin) tới từng đối tượng
Trao quyền
CBYT tại trạm/ YT
thôn hướng dẫn NCST
cách sử dụng bộ công
cụ ASQ-VN
Tạo nhóm nòng cốt triển khai các hoạt
động truyền thông tại cộng đồng
(GVMN, CBYT tại trạm, YT thôn,
CTV Dân số, CTV PHCN)
2.9.1.2. Bước 2: Xây dựng kế hoạch can thiệp
Chương trình truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK
ở trẻ em tại cộng đồng được thực hiện trong vòng 12 tháng tại các xã/phường thuộc
TP. Hòa Bình và Huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình); TP. Thái Bình và huyện Tiền
Hải (tỉnh Thái Bình). Bảng 2.7 dưới đây trình bày kế hoạch thực hiện can thiệp theo
thời gian (sơ đồ Gantt)
67
Bảng 2.7. Kế hoạch thực hiện can thiệp truyền thông theo thời gian
TT Hoạt động Năm 2018
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
1.
Treo banner
và áp phích
tại TYT và
trường
mầm non
2. Phát tờ rơi
tại TYT,
cho YTTB,
NCST và
GVMN
3. Phát sách
mỏng tại
TYT và
trường
mầm non
4. Phát thanh
trên loa
xã/phường
và tại
trường
mầm non
5. Video clip
dành cho
CBYT và
GVMN
Ghi chú:
Đối tượng đích: NCST
Đối tượng đích: GVMN
Đối tượng đích: NVYT
2.9.1.3. Bước 3: Xây dựng tài liệu truyền thông
Tài liệu truyền thông của chương trình được xây dựng theo các bước như
trong Hình 2.3 dưới đây:
68
Hình 2.2. Quy trình phát triển tài liệu truyền thông
Từ các y tưởng được hình thành qua tổng quan tài liệu, phân tích đối tượng
đích và kết quả thử nghiệm với nhóm chuyên gia và đối tượng đích, nhóm đã xây
dựng được bộ tài liệu truyền thông bao gồm: sách mỏng, tờ rơi, áp phích, banner và
bản ghi âm cho hoạt động phát thanh.
Nội dung của các tài liệu truyền thông bao gồm: Tự kỷ là gì, những dấu hiệu
cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc tự kỷ, vai trò của phát hiện sớm và can thiệp sớm, địa chỉ
chẩn đoán và can thiệp trẻ tự kỷ.
Thông điệp chính của chương trình là “Phát hiện sớm, can thiệp sớm – Vì
tương lai của trẻ tự kỷ”. Thông điệp này được đề cập và xuất hiện ở tất cả các tài
liệu và hoạt động của chương trình truyền thông.
Chi tiết các sản phẩm truyền thông xem tại Phụ lục 8.
2.9.1.4. Bước 4: Triển khai các hoạt dộng truyền thông
Hoạt động truyền thông được thực hiện theo kế hoạch, trong quá trình thực
hiện có sự theo dõi giám sát trực tiếp bởi các thành viên nhóm nghiên cứu
- Theo doi định kỳ (gián tiếp qua điện thoại): hàng tuần
- Giám sát trực tiếp: 3 tháng/đợt
69
2.9.2. Các hoạt động tác động lên hệ thống y tế và nhóm nòng cốt
Để vận hành mô hình, bên cạnh chương trình truyền thông nâng cao nhận
thức của NCST, GVMN và NVYT về RLTK ở trẻ; một số hoạt động tác động lên
sự vận hành/hoạt động của hệ thống y tế cũng được triển khai bao gồm:
- Xây dựng một số quy trình chuyên môn như: Quy trình chẩn đoán sớm
RLTK ở trẻ em tại cộng đồng, Quy trình can thiệp sớm RLTK ở trẻ em tại
cộng đồng (với sự tham gia của Nhánh 2 và Nhánh 3 trong khuôn khổ đề tài
cấp Nhà nước)
- Xây dựng các sổ sách, biểu mẫu phục vụ công tác quản lý trẻ RLTK, bao
gồm: 02 Sổ quản lý trẻ tại cộng đồng (chiều A và chiều B) và 02 Biểu mẫu
theo dõi, quản lý trẻ nghi ngờ có rối loạn phát triển/tự kỷ (tuyến huyện và
tuyến tỉnh).
- Bổ sung thêm nội dung “Báo cáo các trường hợp nghi ngờ có rối loạn tự kỷ”
vào biểu mẫu số 9/BCX “Hoạt động phòng chống bệnh xã hội” đang được
trạm y tế xã/phường sử dụng để báo cáo lên tuyến huyện.
- Hỗ trợ về cơ sở vật chất: cung cấp trang thiết bị phục vụ cho phòng can thiệp
tại bệnh viện Nhi tuyến tỉnh.
- Hoạt động tập huấn cho cán bộ y tế và nhóm nòng cốt:
+ Đối với GVMN/NCST/NVYT tuyến xã/huyện: được tập huấn về nội
dung “Theo dõi phát triển, phát hiện các dấu hiệu sớm của trẻ tự kỷ tại gia
đình/trường học/cơ sở y tế tuyến xã”: sử dụng bộ công cụ ASQ Việt Nam để đánh
giá mức độ phát triển của trẻ từ 0-60 tháng và cách phát hiện các dấu hiệu bất
thường về phát triển ở trẻ.
+ Đối với CBYT tuyến xã và tuyến huyện: được tập huấn thêm về nội
dung “Sàng lọc tự kỷ”: sử dụng bộ công cụ M-CHAT 23 để sàng lọc, phát hiện sớm
trẻ mắc RLTK.
+ Đối với CBYT tuyến tỉnh: được cử đi tham gia lớp tập huấn trong vòng
12 tuần để cấp chứng chỉ can thiệp RLTK tại BV Nhi Trung Ương (theo chương
trình sẵn có của BV Nhi Trung Ương)
70
2.10. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, phương pháp
chẩn đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng” đã được Hội
đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học trường Đại học Y tế công cộng chấp
thuận (cho phép) các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu (Số 319/2016/YTCC-
HD3) – Phụ lục 10.
Toàn bộ thông tin liên quan của đối tượng nghiên cứu được đảm bảo lưu giữ
bí mật, mọi thông tin đều được mã hóa.
Sự tham gia của các đối tượng là hoàn toàn tự nguyện, được thể hiện thông
qua bản chấp thuận tham gia vào nghiên cứu. Đối tượng tham gia vào nghiên cứu
có thể rút lui khỏi nghiên cứu vào bất kì thời điểm nào mà không ảnh hưởng đến họ
theo bất kì hình thức nào. Trong nghiên cứu này không có ai từ chối hoặc rút lui
trong quá trình nghiên cứu.
71
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp
3.1.1. Thông tin chung về người chăm sóc trẻ
Bảng 3.1. Thông tin chung về NCST trước và sau can thiệp
Thông tin TCT (n=193) SCT (n=226)
n % n %
Tuổi trung bình (độ lệch chuẩn) 36,2 (12,5) 40,0 (13,5)
Giới* Nam 23 11,9 13 5,8
Nữ 170 80,1 211 94,2
Dân tộc
Kinh 156 80,8 167 74,6
Mường 35 18,1 52 23,2
Khác 2 1,0 5 2,4
Mối quan
hệ với
trẻ*
Bố 15 7,8 8 3,6
Mẹ 140 72,5 144 64,3
Ông 4 2,1 4 1,8
Bà 31 16,1 64 28,6
Khác 3 1,6 4 1,8
Trình độ
học vấn*
Tiểu học (cấp 1) 8 4,2 6 2,7
Trung học cơ sở (cấp 2) 50 25,9 41 18,3
Trung học phổ thông (cấp 3) 40 20,7 30 13,4
Trung cấp/Cao đẳng 55 28,5 85 38,6
Đại học/ trên Đại học 40 20,7 59 26,8
Nghề
nghiệp *
Công chức, viên chức 46 23,8 111 49,6
Công nhân 25 13,0 17 7,6
Nông dân 51 26,4 51 22,8
Tư nhân/tự kinh doanh/buôn bán 32 16,6 18 8,1
Nghỉ hưu/nội trợ/tự do… 39 20,3 27 12,1
Ghi chú: Kiểm định t-test đối với tuổi trung bình; Kiểm định Chi bình phương với
các biến còn lại; (*): có sự khác biệt giữa trước can thiệp và sau can thiệp (p<0,05)
72
Tại thời điểm TCT, có 193 NCST tham gia nghiên cứu và tại thời điểm SCT là
226 NCST. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) ở thời điểm trước và sau can thiệp
không có sự khác nhau về tuổi và dân tộc. Đa số dân tộc Kinh, tuổi từ 31-50 tuổi
với độ tuổi trung bình là 36,2 (12,5) và 40,0 (13.5), tương ứng thời điểm TCT và
SCT. Tại cả hai thời điểm trước và sau can thiệp. đa số NCST là nữ (chiếm trên
80%) và là mẹ/bà của trẻ. Về trình độ học vấn, tại thời điểm cả TCT và SCT, chiếm
tỷ lệ cao nhất đều là trình độ trung cấp/cao đẳng (tương ứng 28,5% và 38,6%), thấp
nhất là trình độ tiểu học (dưới 5%), tuy nhiên tỷ lệ đối tượng đạt trình độ đại
học/trên đại học ở thời điểm SCT lại cao hơn so với TCT (26,8% so với 20,7%) còn
trình độ trung học cơ sở lại thấp hơn (18,3% và 25,9%). Về nghề nghiệp, đối tượng
SCT có tỷ lệ là công chức/viên chức cao hơn so với TCT (49,6% so với 23,8%),
trong khi tỷ lệ các ngành nghề khác bằng hoặc thấp hơn.
3.1.2. Thông tin chung về giáo viên mầm non
Bảng 3.2. Thông tin chung về giáo viên mầm non trước và sau can thiệp
Thông tin
TCT (n=182) SCT (n=171)
n % n %
Tuổi trung bình (khoảng tin cậy) 36,7 (9,9) 35,3 (10.5)
Giới Nữ 174 99,4 163 98,8
Nam 1 0,6 2 1,2
Dân tộc Kinh 140 80,5 120 71,4
Mường 30 17,2 45 26,8
Khác 4 2,2 3 1.8
Trình độ học
vấn
THCS/THPT 5 2,9 10 6,1
Trung cấp/Cao đẳng 94 54,0 71 43,3
Đại học/trên đại học 475 42,1 83 50,6
Bằng cấp
chuyên môn
Trung cấp sư phạm mầm non 55 33,1 47 28,5
Cao đẳng sư phạm mầm non 39 23,5 26 15,8
Đại học sư phạm mầm non 69 41,6 84 50,9
Chứng chỉ đào tạo mầm non 3 1,8 8 4,8
Được đào tạo
giáo dục đặc
biệt
Có 53 31,4 67 41,6
Không 116 68,6 94 58.4
73
Kinh nghiệm
chăm sóc trẻ
cần giáo dục
đặc biệt
Có 59 38,8 58 39.2
Không 93 61,2 90 60,8
Loại trường
đang dạy*
Trường của thành phố 61 35,5 86 52,4
Trường của huyện 47 27,3 14 8,5
Trường của xã/làng 47 27,3 50 30,5
Trường tư thục/bán công 17 9,9 14 8,5
Ghi chú: Kiểm định t-test đối với tuổi trung bình; Kiểm định Chi bình phương với
các biến còn lại; (*): có sự khác biệt giữa trước can thiệp và sau can thiệp (p<0,001)
Tại thời điểm TCT, có 182 GVMN tham gia nghiên cứu và tại thời điểm SCT
là 171 GVMN. ĐTNC ở thời điểm trước và sau can thiệp không có sự khác nhau về
tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, bằng cấp chuyên môn, được đào tạo về giáo
dục đặc biệt và kinh nghiệm chăm sóc trẻ cần được giáo dục đặc biệt. Đa số GVMN
là nữ (98-99%), dân tộc Kinh hoặc Mường, có độ tuổi trung bình là 36,7 và 35,3.
Về trình độ học vấn và bằng cấp chuyên môn, đa số đối tượng có bằng trung
cấp/cao đằng hoặc đại học về sư phạm mầm non (trên 90%). Khoảng 60% được đào
tạo về giáo dục đặc biệt và đã có kinh nghiệm chăm sóc trẻ cần giáo dục đặc biệt.
ĐTNC trong mẫu đánh giá trước và sau can thiệp có sự khác biệt về loại
trường đang công tác, tuy nhiên chủ yếu GVMN đang công tác tại các trường mầm
non công lập (trường của thành phố, huyện, xã), chỉ khoảng 10% công tác tại
trường tư thục hoặc bán công.
3.1.3. Thông tin chung về nhân viên y tế
Bảng 3. 3. Thông tin chung về nhân viên y tế trước và sau can thiệp
Thông tin TCT (n=300) SCT (n=295)
n % n %
Tuổi trung bình (độ lệch chuẩn)* 44,4 (12,3) 39,0 (11,1)
Giới Nam 51 17,1 42 14,5
Nữ 246 82,6 247 85,5
Dân tộc
Kinh 221 74,2 221 76,7
Mường 75 25,2 64 22,2
Khác 2 0,7 3 1,1
74
Trình độ học vấn
(*)
Trung học cơ sở 57 19,5 18 6,3
Phổ thông trung học 37 12,6 19 6,7
Trung cấp/Cao đẳng 131 44,7 179 63,0
Đại học/Trên đại học 67 23,1 68 24,0
Bằng cấp chuyên
môn (*)
Bác sĩ 34 14,4 42 15,1
Dược sĩ 4 1,7 18 6,5
Y tá 11 4,7 47 16,8
Y sĩ 88 37,3 123 44,1
Sơ cấp 78 33,1 20 7,2
Chưa đào tạo 21 8,9 29 10,4
Vị trí công tác Y tế thôn bản 89 30,2 82 27,8
CBYT xã/huyện/tỉnh 205 69,8 213 72,2
Ghi chú: Kiểm định t-test đối với tuổi trung bình, Kiểm định Chi bình phương với
các biến còn lại; (*): có sự khác biệt giữa trước can thiệp và sau can thiệp (p<0,001)
Tại thời điểm TCT, có 300 NVYT tham gia nghiên cứu và tại thời điểm SCT
là 295 NVYT. NVYT tham gia nghiên cứu ở thời điểm trước và sau can thiệp
không có sự khác nhau về tuổi trung bình, giới, dân tộc, và vị trí công tác. Đa số
NVYT là nữ (khoảng 80-85%), dân tộc Kinh hoặc Mường (trên 95%), có độ tuổi
trung bình là 44,4 (12,3) và 41,0 (11,1). Về vị trí công tác, khoảng 30% đối tượng
tham gia nghiên cứu là y tế thôn bản và khoảng 70% là CBYT ở xã/huyện/tỉnh.
NVYT tại thời điểm SCT có trình độ học vấn cao hơn so với NVYT tại thời
điểm TCT, trong đó tỷ lệ có trình độ là trung cấp/cao đẳng chiếm tỷ lệ cao nhất
(SCT là 63,0% và TCT là 44,7%), tiếp theo là trình độ đại học (SCT là 22,9% và
TCT là 20,4%). Tại thời điểm SCT chỉ có khoảng 13% NVYT có trình độ dưới
trung cấp, trong khi đó tỷ lệ này tại thời điểm TCT là hơn 30%. Về bằng cấp
chuyên môn, chiếm tỷ lệ cao nhất là bằng y sĩ (SCT là 44,1% và TCT là 37,3%),
tiếp theo là bằng sơ cấp đối với thời điểm TCT (33,0%) còn đối với thời điểm SCT
là y tá (16,8%), tỷ lệ có bằng bác sỹ là 15,1% và chưa được đào tạo 10,4%.
75
3.2. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về
rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
3.2.1. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NCST về rối loạn tự kỷ sau
một năm can thiệp
3.2.1.1. Sự thay đổi kiến thức của NCST về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
Kết quả kiểm định thang đo kiến thức của NCST về RLTK (Phụ lục 6, phần
A) cho thấy, thang đo gồm 13 câu hỏi được chia thành 3 nhân tố với hệ số
Cronbach’s Alpha của nhân tố 1, nhân tố 2, nhân tố 3 và cả thang đo lần lượt là
0,79; 0,58; 0,62 và 0,65. Nhân tố 1 gồm 5 câu hỏi về những dấu hiệu nghi ngờ trẻ
RLTK theo các mốc phát triển (hay còn gọi là “dấu hiệu cờ đỏ”); Nhân tố 2 gồm 5
câu hỏi về phát hiện sớm và can thiệp hiệu quả cho trẻ RLTK; và Nhân tố 3 gồm 3
câu hỏi về những kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ. Ngoài ra, từ việc
tham khảo ý kiến chuyên gia, nghiên cứu sinh giữ lại hai câu hỏi về kiến thức sai
lầm liên quan đến nguyên nhân RLTK ở trẻ để phân tích độc lập.
Sự thay đổi kiến thức của NCST về RLTK được phân tích theo ba cách:
đánh giá sự thay đổi tỷ lệ trả lời đúng đối với từng câu hỏi trong từng nhân tố (Bảng
3.4); đánh giá sự thay đổi kiến thức chung của từng nhân tố và kiến thức chung của
cả thang đo (Bảng 3.5):
Bảng 3.4. Sự thay đổi kiến thức của NCST về RLTK đối với từng nội dung
trước và sau can thiệp
Nội dung
Trả lời đúng Kiểm định χ2
TCT
(n=193)
SCT
(n=226) OR p
n % n %
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK
Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương
tác âm thanh, nụ cười, không giơ tay
đòi bế
118 61,1 156 69,0 1,41 0,091
Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 99 51,3 109 48,2 0,89 0,532
Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 87 45,1 126 55,8 1,54 0,029
Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 77 39,9 139 61,5 2,41 <0,001
Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 88 45,6 149 65,9 2,31 <0,001
76
Nhân tố 2: Kiến thức về sàng lọc sớm, can thiệp hiệu quả RLTK
Tất cả trẻ dưới 24 tháng tuổi cần
được sàng lọc rối loạn phát triển 145 75,1 181 80,1 1,33 0,023
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là can thiệp về ngôn ngữ 163 84,5 199 88,1 1,36 0,284
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là tập luyện vận động 173 89,6 204 90,3 1,07 0,831
Cha mẹ/ NCST có thể phát hiện sớm
dấu hiệu bất thường của trẻ nghi mắc tự
kỷ
172 89,1 208 92,0 1,41 0,306
GVMN có thể phát hiện sớm dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ 177 91,7 214 94,7 1,61 0,223
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK ở trẻ
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
thuốc Tây y *. 93 48,2 127 56,2 1,38 0,102
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ
bằng châm cứu, bấm huyệt * 73 37,8 119 52,7 1,83 0,002
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ
bằng cách uống thuốc đông y để giải
trừ chất độc khỏi cơ thể *
91 47,2 135 59,7 1,66 0,010
Kiến thức sai lầm về nguyên nhân trẻ mắc RLTK (không nằm trong thang đo)
Trẻ mắc tự kỷ do cha mẹ thiếu kỹ
năng chăm sóc* 67 34,7 119 52,7 1,86 0,002
Trẻ mắc tự kỷ vì được cho xem tivi
nhiều* 84 43,5 100 44,2 1,03 0,887
Ghi chú: (*): Là phát biểu sai về RLTK
Kết quả Bảng 3.4 cho thấy, tại thời điểm TCT, NCST còn thiếu kiến thức về
các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngở trẻ mắc RLTK (tỷ lệ trả lời đúng với các dấu hiệu dao
động từ 40-60%) và có những quan điểm sai lầm về nguyên nhân và phương pháp
điều trị RLTK ở trẻ (khoảng 30-40% biết rằng trẻ bị tự kỷ không phải do cha mẹ
thiếu kỹ năng chăm sóc hay do xem ti vi nhiều và khoảng 40-45% biết RLTK
77
không thể chữa khỏi như các bệnh khác bằng cách uống thuốc tây y, đông y hay
châm cứu bấm huyệt).
Tuy nhiên, khi so sánh kiến thức của NCST trước và sau can thiệp, kết quả
Bảng 3.4 đã cho thấy kiến thức của NCST đã được cải thiện: trừ 1 phát biểu “Trẻ 12
tháng chưa biết nói bập bẹ”, đối với 14 phát biểu còn lại, tỷ lệ ĐTNC trả lời đúng
đáp án tại thời điểm SCT đều cao hơn so với thời điểm TCT (với OR từ 1,03 -
2,41). Sự thay đổi này có y nghĩa thống kê (χ2 test, p<0,05) ở các phát biểu về dấu
hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK; về tầm quan trọng của việc sàng lọc rối loạn
phát triển ở trẻ và về những sai lầm trong điều trị và nguyên nhân RLTK.
Bảng 3.5. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của NCST
về RLTK trước và sau can thiệp
Nhóm kiến thức
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) Giá trị p
(Kiếm định
Mann-
Whitney) TCT
(n=193)
SCT
(n=226)
Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi
ngờ trẻ mắc RLTK 5 (7) 8 (6) 0,002
Kiến thức về sàng lọc sớm, can
thiệp hiệu quả cho trẻ RLTK 10 (7) 10 (6) 0,197
Kiến thức sai lầm về điều trị
RLTK ở trẻ 4 (2) 4 (4) 0,050
Kiến thức chung về RLTK ở trẻ 18 (20) 20 (16) <0,001
Khi phân tích sự thay đối trước và sau can thiệp theo từng nhân tố và theo cả
thang đo, kết quả Bảng 3.5 cho thấy, điểm trung vị đối với nhóm kiến thức về dấu
hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK và nhóm kiến thức về sai lầm trong điều trị RLTK ở
trẻ tại thời điểm SCT so với thời điểm TCT và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(Mann-Whitney test, p<0,05). Kết quả phân tích cũng cho thấy điểm trung vị kiến
thức chung về RLK ở trẻ của ĐTNC tại thời điểm SCT cao hơn so với TCT (20
điểm so với 18 điểm, p<0,001).
78
3.2.1.2. Sự thay đổi thái độ của NCST về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
Kết quả kiểm định thang đo thái độ về RLTK của NCST (Phụ lục 6, phần A)
cho thấy thang đo bao gồm 1 nhân tố (hệ số Cronbach’s Alpha là 0,76) với 6 phát
biểu thể hiện thái độ về trẻ mắc RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK.
Kết quả trình bày thái độ của NCST về RLTK trước can thiệp được trình bày
trong Hình 3.1 và sự thay đổi thái độ trước và sau can thiệp được trình bày trong
Bảng 3.6:
Hình 3.1. Thái độ của NCST về RLTK trước can thiệp (n=193)
Kết quả Hình 3.1 cho thấy tại thời điểm TCT, NCST có thái độ tích cực với
các can thiệp cho trẻ RLTK, khoảng 70% đối tượng không/rất không đồng ý với
quan điểm cho rằng "tự kỷ không thể cải thiện được", "can thiệp cho trẻ tự kỷ
không mang lại lợi ích gì". Đối với các phát biểu thể hiện sự kỳ thị với trẻ RLTK,
đa số NCST thể hiện sự không đồng ý. Cụ thể, khi được hỏi “nếu một gia đình có
con tự kỷ chuyển đến sống cạnh nhà tôi, tôi sẽ cảm thấy không thoải mái khi cho
con tôi chơi cùng” 71,1% đối tượng không/rất không đồng ý với điều này. Tiếp đến,
đối với hai phát "trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại đến người xung quanh" hay
"trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho những trẻ chơi cùng", tỷ lệ không/rất không đồng ý
79
khoảng 60%. Tuy nhiên, vẫn có một nửa NCST cho rằng "TTK đều bị thiểu năng trí
tuệ".
Bảng 3.6. Sự thay đổi thái độ của NCST về RLTK trước và sau can thiệp
Nội dung
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) p
TCT
(n=193)
SCT
(n=226)
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 3 (2) 3 (2) 0,054
Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 4 (1) 4 (1) 0,736
Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như
không mang lại lợi ích gì cho trẻ 4 (2) 4 (0) 0,063
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho những
trẻ chơi cùng 4 (2) 4 (2) 0,469
Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại
đến người xung quanh 4 (1) 4 (1) 0,292
Nếu một gia đình có con tự kỷ chuyển đến sống
cạnh nhà tôi, tôi sẽ cảm thấy không thoải mái khi
cho con tôi chơi cùng.
4 (1) 4 (1) 0,527
Thái độ chung về RLTK ở trẻ của NCST 21 (14) 22 (14) 0,275
Ghi chú: kiểm định Mann-Whitney
Kết quả Bảng 3.6. cho thấy điểm trung vị thái độ về RLTK của NCST tại
thời điểm SCT cao hơn so với thời điểm TCT (22 điểm so với 21 điểm), tuy nhiên
sự khác biệt này không có y nghĩa thống kê (Mann-Whitney test, p>0,05). Đối với
từng phát biểu thể hiện thái độ của ĐTNC, kết quả cũng cho thấy không có sự khác
biệt có y nghĩa thống kê điểm trung vị tại thời điểm TCT và SCT.
3.2.1.3. Sự thay đổi thực hành của NCST về xử trí sớm khi nghi ngờ rối loạn tự
kỷ sau một năm can thiệp
Tương ứng với thời điểm TCT và SCT, có 100 (51,8%) và 104 (46,0%)
NCST đã từng quan sát và có nghi ngờ trẻ mắc RLTK, tại thời điểm trẻ 22-23 tháng
tuổi. Đa phần là con hàng xóm/họ hàng/bạn bè (khoảng 80%), tỷ lệ là con của chính
80
ĐTNC rất thấp (dưới 5%). Kết quả về sự thay đổi thực hành của NCST khi nghi
ngờ trẻ RLTK trước và sau can thiệp được trình bày trong Hình 3.7.
Ghi chú: (*): p<0,05; Kiểm định χ2
Hình 3.2. Sự thay đổi thực hành của NCST khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và
sau can thiệp
Kết quả trong Hình 3.2 cho thấy có sự khác biệt có y nghĩa thống kê về thực
hành của NCST trước và sau can thiệp. Trong đó, tỷ lệ trả lời phương án hợp lý
nhất “khuyên NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ” tại thời điểm SCT là 90,4% cao hơn so
với TCT là 78,0% (p <0,05). Đối với hai phương án “Tư vấn cho NCST cách chăm
sóc trẻ tại nhà” và “Tìm và đưa tài liệu cho NCST”, mặc dù không phải là lựa chọn
hợp lý nhất nhưng cũng thể hiện sự tự tin và quan tâm của ĐTNC về RLTK ở trẻ, tỷ
lệ lựa chọn tại thời điểm SCT cũng cao hơn so với TCT (tương ứng 46,2% so với
27,0% và 34,6% so với 25,0%, p<0,001). Đặc biệt, đối với phương án không hợp lý
nhất: “Không làm gì cả”, tại thời điểm SCT không có đối tượng nào lựa chọn, trong
khi đó tại thời điểm TCT vẫn có 7 NCST (7%) lựa chọn phương án này.
3.2.2. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của GVMN về rối loạn tự kỷ ở
trẻ sau một năm can thiệp
3.2.2.1. Sự thay đổi kiến thức của GVMN về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
Kết quả kiểm định thang đo kiến thức của GVMN về RLTK (Phụ lục 6, phần
B) cho thấy, thang đo gồm 15 câu hỏi được chia thành 3 nhân tố với hệ số
81
Cronbach’s Alpha của nhân tố 1, 2, 3 và cả thang đo lần lượt là 0,82; 0,71; 0,76 và
0,68. Nhân tố 1 gồm 5 câu hỏi về những dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ; Nhân tố 2
gồm 7 câu hỏi về những kiến thức cơ bản của RLTK (bản chất của RLTK, phát
hiện, chẩn đoán và can thiệp hiệu quả cho trẻ RLTK); và Nhân tố 3 gồm 3 câu hỏi
về những kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ.
Sự thay đổi kiến thức của GVMN về RLTK được phân tích theo ba cách:
đánh giá sự thay đổi tỷ lệ trả lời đúng đối với từng câu hỏi (Bảng 3.7), đánh giá sự
thay đổi kiến thức từng nhân tố và kiến thức chung của thang đo (Bảng 3.8)
Bảng 3.7. Sự thay đổi kiến thức của GVMN về RLTK đối với từng nội
dung trước và sau can thiệp
Nội dung
Trả lời đúng Kiểm định χ2
TCT
(n=182)
SCT
(n=171) OR p
n % n %
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK
Trẻ 9 tháng không đáp ứng được
tương tác âm thanh nụ cười, không
giơ tay đòi bế
97 53,3 128 74,9 2,61 <0,001
Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 74 40,7 75 43,9 1,14 0,543
Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 70 38,5 95 55,6 2,00 0,001
Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 71 39,0 105 61,4 2,49 <0,001
Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 67 36,8 98 57,3 2,30 <0,001
Nhân tố 2: Kiến thức cơ bản về RLTK
Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc,
ảnh hưởng đến sự kiểm soát cảm xúc
của trẻ.
164 90,1 163 95,3 2,24 0,061
Tự kỷ là một dạng rối loạn về giao tiếp,
ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp và
tương tác xã hội của trẻ.
167 91,8 163 95,3 1,83 0,175
Trẻ tự kỷ thường có vấn đề về hành vi
(hành vi hạn hẹp và lặp đi lặp lại) 165 90,7 162 94,7 1,86 0,143
82
Có thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói
chuyện với NCST về các mốc phát
triển kết hợp với quan sát giao tiếp,
hành vi của trẻ.
160 87,9 157 91,8 1,54 0,226
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là can thiệp về ngôn ngữ 165 90,7 157 91,8 1,16 0,702
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là tập luyện vận động 169 92,9 159 93,0 1,01 0,869
GVMN có thể phát hiện các dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 173 95,1 163 95,3 1,06 0,907
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ
bằng thuốc Tây y *. 77 42,3 112 65,5 2,59 <0,001
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ
bằng châm cứu, bấm huyệt *. 58 31,9 118 69,0 3,57 <0,001
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ
bằng cách uống thuốc đông y để giải
trừ chất độc khỏi cơ thể *.
90 49,5 135 59,7 2,28 <0,001
Ghi chú: (*): Là phát biểu sai về RLTK
Kết quả Bảng 3.7 cho thấy, tại thời điểm TCT, GVMN đã có kiến thức cơ
bản về RLTK như bản chất, cách chẩn đoán và những can thiệp hiệu quả, tuy nhiên
còn thiếu kiến thức về dấu hiện cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK và có kiến thức sai
lầm trong điều trị RLTK ở trẻ. Khoảng 35-50% GVMN trả lời đúng các dấu hiệu cờ
đỏ nghi ngờ trẻ RLTK, khoảng 50-60% trả lời không biết hoặc không trả lời được
những sai lầm thường gặp trong điều trị RLTK.
Tuy nhiên, đến thời điểm SCT kiến thức của GVMN đã được cải thiện, thể
hiện ở tỷ lệ GVMN trả lời đúng đáp án tại trong tất cả các câu hỏi tại thời điểm SCT
đều cao hơn so với thời điểm TCT (với OR từ 1,01 - 3,57). Đặc biệt sự thay đổi này
có y nghĩa thống kê (χ2 test, p<0,001) ở cả năm câu hỏi về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ
trẻ mắc RLTK và câu hỏi liên quan đến kiến thức sai lầm của ĐTNC về điều trị cho
trẻ RLTK phổ biến tại Việt Nam.
83
Bảng 3.8. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của
GVMN về rối loạn tự kỷ trước và sau can thiệp
Nhóm kiến thức
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) Giá trị p
(Kiểm định
Mann-
Whitney) TCT
(n=182)
SCT
(n=171)
Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ
mắc RLTK 5 (6) 6 (4) <0,001
Kiến thức cơ bản về RLTK 14 (1) 14 (1) 0,962
Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK 3 (3) 6 (3) <0,001
Kiến thức chung về RLTK ở trẻ 22 (9) 25 (8) <0,001
Kết quả phân tích sự thay đối trước và sau can thiệp theo từng nhân tố và
theo cả thang đo (kiến thức chung) trong Bảng 3.8 cũng cho thấy, điểm trung vị đối
với nhóm kiến thức về dấu nghi ngờ trẻ mắc RLTK và nhóm kiến thức về sai lầm
trong điều trị RLTK tại thời điểm SCT cao hơn so với thời điểm TCT (Mann-
Whitney test, p<0,001). Còn đối với nhóm nhân tố 2 (kiến thức cơ bản về RLTK)
điểm trung vị trước và sau can thiệp không có sự thay đổi (p>0,05). Đối với biến
kiến thức chung, kết quả phân tích cũng cho thấy điểm trung vị tại thời điểm SCT
cao hơn so với TCT (25 điểm so với 22 điểm, p<0,001).
3.2.2.2. Sự thay đổi thái độ của GVMN về rối loạn tự kỷ ở trẻ sau một năm can
thiệp
Kết quả kiểm định thang đo thái độ về RLTK của GVMN (Phụ lục 6, phần
B) cho thấy thang đánh giá thái độ của GVMN về RLTK bao gồm 1 nhân tố (hệ số
Cronbach’s Alpha là 0,75) với 6 phát biểu về trẻ RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK.
Kết quả trình bày thái độ của GVMN về RLTK trước can thiệp được trình
bày trong Hình 3.3 và sự thay đổi thái độ trước và sau can thiệp được trình bày
trong Bảng 3.9:
84
Hình 3.3. Thái độ của GVMN về RLTK trước can thiệp (n=182)
Kết quả Hình 3.3 cho thấy, GVMN có thái độ tích cực với các can thiệp cho
trẻ RLTK, với gần 90% đối tượng không hoặc rất không đồng ý với nhận định “Tôi
cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như không mang lại lợi ích gì cho trẻ” và
khoảng 65% không hoặc rất không đồng ý với nhận định “Tôi cho rằng tự kỷ không
thể cải thiện được”. Đối với thái độ với trẻ RLTK, trong khi chỉ có 22,8% GVMN
đồng ý hoặc rất đồng ý rằng “TTK có thể gây nguy hiểm cho người xung quanh”, tỷ
lệ này với các phát biểu “TTK đều bị thiểu năng trí tuệ” hay “TTK luôn gây rắc rối
cho trẻ chơi cùng” tương ứng là 36,2% và 42,8%. Đặc biệt, có 70% GVMN đồng ý
với phát biểu “TTK cần được học tại các trường/lớp chuyên biệt”.
Bảng 3.9. Sự thay đổi thái độ của GVMN về RLTK trước và sau can thiệp
Nội dung
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) p
TCT
(n=182)
SCT
(n=171)
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 3 (2) 3 (2) 0,763
Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 4 (1) 4 (0) 0,033
Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như
không mang lại lợi ích gì cho trẻ 4 (1) 4 (1) 0,826
85
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho những
trẻ chơi cùng 3 (2) 4 (2) 0,013
Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại
đến người xung quanh 4 (1) 4 (1) 0,412
Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được học tại các
trường/lớp chuyên biệt 2 (2) 2 (1) 0,380
Thái độ chung về RLTK ở trẻ của GVMN 20 (12) 21 (9) 0,107
Kết quả trong Bảng 3.9 cho thấy mặc dù điểm trung vị thái độ chung về
RLTK của GVMN tại thời điểm SCT cao hơn so với thời điểm TCT (21 điểm so
với 20 điểm), sự khác biệt này không có y nghĩa thống kê (Mann-Whitney test,
p>0,05). Kết quả cũng tương tự đối với từng phát biểu thể hiện thái độ của GVMN
với trẻ RLTK và các can thiệp cho trẻ RLTK.
3.2.2.3. Sự thay đổi thực hành của GVMN về xử trí sớm khi nghi ngờ rối loạn tự
kỷ ở trẻ sau một năm can thiệp
Tại thời điểm TCT có 108/182 (59,3%) và SCT là 131/171 (76,6%) GVMN
đã từng quan sát và nghi ngờ trẻ mắc RLTK, vào thời điểm trẻ khoảng 28 tháng.
Khoảng 60% là bạn cùng trường/lớp với con của họ và 30% là trẻ mầm non trong
lớp/trường học của họ. Kết quả về sự thay đổi thực hành của GVMN khi nghi ngờ
trẻ RLTK trước và SCT được trình bày trong Hình 3.4.
Kết quả trong Hình 3.4 cho thấy có sự khác biệt có y nghĩa thống kê về thực
hành của GVMN trước và sau can thiệp. Trong đó, tỷ lệ đối tượng trả lời phương án
hợp lý nhất “khuyên NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ” nếu nghi ngờ một đứa trẻ mắc
RLTK tại thời điểm SCT cao hơn so với TCT (87,8% so với 69,4%, p <0,001). Đối
với hai phương án “Tư vấn cho NCST cách chăm sóc trẻ tại nhà” và “Tìm và đưa
tài liệu cho NCST”, tỷ lệ GVMN lựa chọn tại thời điểm SCT cũng cao hơn so với
thời điểm TCT (tương ứng 37,2% so với 25,0% và 35,7% so với 23,1%, p<0,001).
Đối với phương án không hợp lý nhất: “Không làm gì cả”, tỷ lệ ĐTNC lựa chọn
TCT là 6,5%, SCT là 4,7% và sự khác biệt không có y nghĩa thống kê (p>0,05).
86
Ghi chú: (*): p<0,05; Kiểm định χ2
Hình 3.4. Sự thay đổi thực hành của GVMN khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và
sau can thiệp
3.2.3. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT về rối loạn tự kỷ ở
trẻ sau một năm can thiệp
3.2.3.1. Sự thay đổi kiến thức của NVYT về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
Kết quả kiểm định thang đo kiến thức của NVYT về RLTK (Phụ lục 6, phần
C) cho thấy, thang đo bao gồm 14 câu hỏi được chia thành 3 nhân tố với hệ số
Cronbach’s Alpha của nhân tố 1, 2, 3 và cả thang đo lần lượt là 0,72; 0,59; 0,62 và
0,61. Nhân tố 1 gồm 5 câu hỏi về những dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK;
Nhân tố 2 gồm 6 câu hỏi về những thông tin cơ bản của RLTK (bản chất, phát hiện,
chẩn đoán và can thiệp hiệu quả cho trẻ RLTK); và Nhân tố 3 gồm 3 câu hỏi về
những sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ.
Sự thay đổi kiến thức của NVYT được phân tích theo ba cách: đánh giá sự
thay đổi tỷ lệ trả lời đúng đối với từng câu hỏi (Bảng 3.10); sự thay đổi kiến thức
từng nhân tố và kiến thức chung của thang đo (Bảng 3.11).
87
Bảng 3.10. Sự thay đổi kiến thức của NVYT về RLTK đối với từng nội
dung trước và sau can thiệp
Nội dung
Trả lời Đúng Kiểm định χ2
TCT
(n=300)
SCT
(n=295) OR p
n % n %
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK
Trẻ 9 tháng không đáp ứng được
tương tác âm thanh, nụ cười, không
giơ tay đòi bế
164 54,7 251 85,1 4,73 <0,001
Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 117 39,0 173 58,6 2,22 <0,001
Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 117 39,0 208 70,5 3,74 <0,001
Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 144 48,0 213 72,2 2,81 <0,001
Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 171 57,0 239 81,0 3,22 <0,001
Nhân tố 2: Kiến thức cơ bản về RLTK
Tự kỷ là một dạng rối loạn cảm xúc, ảnh
hưởng đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ. 275 91,7 277 93,9 1,40 0,293
Chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện
với NCST về các mốc phát triển kết hợp
với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ.
281 93,7 274 92,9 0,88 0,702
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là can thiệp về ngôn ngữ 265 88,3 273 92,5 1,57 0,081
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ
là tập luyện vận động 273 91 272 92,2 1,17 0,597
Cha mẹ có thể phát hiện các dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 285 95,0 284 96,3 1,36 0,448
GVMN có thể phát hiện các dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 284 94,6 286 96,9 1,79 0,165
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK ở trẻ
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
thuốc Tây y *. 125 41,7 208 70,5 3,35 <0,001
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
châm cứu, bấm huyệt *. 103 34,3 191 64,7 3,51 <0,001
88
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
cách uống thuốc đông y để giải trừ
chất độc khỏi cơ thể *.
172 57,3 249 84,4 3,51 <0,001
Ghi chú: (*): Là phát biểu sai về RLTK
Kết quả Bảng 3.10 cho thấy, tại thời điểm TCT, NVYT còn thiếu kiến thức
về dấu hiện cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK và cũng có những sai lầm về khả năng
điều trị RLTK. Tỷ lệ trả lời đúng các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ RLTK trong
khoảng 40-55%, và khoảng 40-65% đối tượng cho rằng RLTK có thể chữa khỏi
như các bệnh khác bằng các biện pháp như như uống thuốc tây y, đông y hay châm
cứu bấm huyệt.
Kết quả Bảng 3.10 cũng cho thấy kiến thức của NVYT đã được cải thiện sau
một năm can thiệp: Trong số 14 câu hỏi, có 13 câu có tỷ lệ ĐTNC trả lời đúng tại
thời điểm SCT cao hơn so với TCT. Đặc biệt, sự thay đổi này có y nghĩa thống kê
(p<0,001) ở cả 5 câu hỏi về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ RLTK và cả ba câu hỏi liên
quan đến kiến thức sai lầm của ĐTNC về điều trị RLTK phổ biến tại Việt Nam.
Bảng 3.11. Sự thay đổi kiến thức chung và kiến thức theo từng nhóm của
NVYT về RLTK trước và sau can thiệp
Nội dung
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) Giá trị p
(Kiểm định
Mann-Whitney) TCT
(n=300)
SCT
(n=295)
Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ
mắc RLTK 6 (5) 8 (4) <0,001
Kiến thức cơ bản về RLTK 10 (4) 10 (4) 0,855
Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK 3 (3) 6 (2) <0,001
Kiến thức chung về RLTK ở trẻ 20 (10) 22 (8) <0,001
Kết quả phân tích sự thay đối trước và sau can thiệp theo từng nhân tố và
theo cả thang đo trong Bảng 3.11 cũng cho thấy, điểm trung vị đối với nhóm kiến
thức về dấu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK và nhóm kiến thức về sai lầm trong điều
trị RLTK ở trẻ tại thời điểm SCT cao hơn so với TCT (p<0,001). Còn đối với nhóm
kiến thức cơ bản (bản chất, chẩn đoán sớm, can thiệp hiệu quả cho trẻ RLTK) điểm
89
trung vị trước và sau can thiệp không có sự thay đổi (p>0,05). Đối với biến tổng
hợp kiến thức chung vể RLTK, kết quả cho thấy điểm trung vị tại thời điểm SCT
cao hơn so với TCT (22 điểm so với 20 điểm, p<0,001).
3.2.3.2. Sự thay đổi thái độ của NVYT về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp
Kết quả kiểm định thang đo thái độ về RLTK của NVYT (Phụ lục 6, phần C)
cho thấy thang đo gồm 1 nhân tố (hệ số Cronbach’s Alpha là 0,63) với 5 phát biểu
về trẻ RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK.
Kết quả trình bày thái độ của GVMN về RLTK trước can thiệp được trình
bày trong Hình 3.5 và sự thay đổi thái độ trước và sau can thiệp được trình bày
trong Bảng 3.12:
Hình 3.5. Thái độ của NVYT về RLTK trước can thiệp (n=300)
Kết quả trong Hình 3.5. cho thấy NVYT có thái độ tích cực với các can thiệp
cho trẻ RLTK và trẻ mắc RLTK, khoảng 75% đối tượng không hoặc rất không đồng
ý với phát biểu "tự kỷ không thể cải thiện được” hay “TTK thường có hành vi gây
hại đến người xung quanh”. Trong tổng số điểm tối đa là 25, điểm trung bình cả
thang đo thái độ của NVYT là 16,20 điểm (SD=3,18), tương đương 65%.
90
Bảng 3.12. Sự thay đổi thái độ của NVYT về rối loạn tự kỷ trước và sau can
thiệp
Nội dung
Trung vị
(khoảng tứ phân vị) p
TCT
(n=300)
SCT
(n=295)
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 3 (2) 4 (1) <0,001
Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 4 (0) 4 (0) 0,124
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng 4 (2) 4 (1) <0,001
Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại
đến người xung quanh 4 (1) 4 (0) 0,135
Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được học tại các
trường/lớp chuyên biệt. 2 (1) 2 (1) 0,215
Thái độ chung về RLTK ở trẻ của NVYT 16 (3) 17 (3) <0,001
Kết quả trong Bảng 3.12 cho thấy, điểm trung vị thái độ chung về RLTK của
NVYT tại thời điểm SCT cao hơn so với TCT (17 điểm so với 16 điểm, p<0,001).
Ngoài ra, kết quả so sánh điểm trung vị của từng phát biểu cũng cho thấy, can thiệp
đã làm thay đổi thái độ của NVYT đối với trẻ tự kỷ theo hướng tích cực hơn, cụ thể
ở phát biểu: “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ” và “Tôi cho rằng trẻ
tự kỷ luôn gây rắc rối cho những trẻ chơi cùng” (p<0,001).
3.2.3.3. Sự thay đổi thực hành của NVYT về xử trí sớm khi nghi ngờ rối loạn tự
kỷ ở trẻ sau một năm can thiệp
Tương ứng tại thời điểm TCT và SCT, có 110/300 (38,2%) và 174/275
(63,3%) NVYT đã từng quan sát và nghi ngờ trẻ mắc RLTK, vào thời điểm trẻ 25-
30 tháng. Đa phần là con của hàng xóm/bạn bè/ họ hàng (khoảng 80%), một số ít là
trẻ đi khám bệnh (dưới 10%). Kết quả về sự thay đổi thực hành của NVYT khi nghi
ngờ trẻ RLTK trước và sau can thiệp được trình bày trong Hình 3.6:
91
Ghi chú: Kiểm định χ2, p đều lớn hơn 0,05
Hình 3.6: Sự thay đổi thực hành của NVYT khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và
sau can thiệp
Kết quả trong Hình 3.6 cho thấy, tại thời điểm SCT tỷ lệ lựa chọn phương án
“khuyên NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ”; “Tư vấn cho NCST cách chăm sóc trẻ tại
nhà” hay “Tìm và đưa tài liệu cho NCST” đều cao hơn so với TCT, tuy nhiên sự
khác biệt không có y nghĩa thống kê (p>0.05). Đối với phương án không hợp lý
nhất: “Không làm gì cả”, tỷ lệ ĐTNC chọn lựa thấp (khoảng 7%) và không có sự
khác biệt có y nghĩa thống kê tại hai thời điểm TCT và SCT.
3.2.4. Đánh giá tác động của chương trình truyền thông đến kiến thức, thái độ
thực hành của NCST, GVMN và NVYT theo phân tích điểm xu hướng
Để cung cấp thêm bằng chứng về tác động của can thiệp truyền thông đối với
sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của các nhóm đối tượng đích, phương pháp
phân tích điểm xu hướng (PSM) được áp dụng. Trước khi thực hiện đánh giá tác
động theo PSM, kiểm định điều kiện ghép cặp theo các bước sau đây:
Bước 1: Lựa chọn các biến số là thông tin chung của đối tượng để ghép cặp:
Các biến thỏa mãn điều kiện ghép cặp đối với NCST là: năm sinh, giới, trình độ,
nghề nghiệp, dân tộc, mối quan hệ với trẻ; đối với GVMN là tuổi, trình độ, dân tộc,
đào tạo giáo dục đặc biệt, kinh nghiệm chăm sóc trẻ đào tạo đặc biệt và loại trường
đang dạy; và đối với NVYT là tuổi, giới, dân tộc, trình độ và vị trí công tác. Tính
92
toán điểm xu hướng, kết quả cho thấy số khối cân bằng (block) tương ứng với nhóm
NCST, GVMN và NVYT là 6 khối; 5 khối và 4 khối; với số lượng quan sát trước
và sau can thiệp được được trình bày chi tiết trong Bảng 3.13 và Hình 3.7.
Bảng 3.13. Số khối cân bằng giữa các nhóm và kết quả phân tích PSM
Đối tượng Khối cân bằng TCT SCT Tổng
Người chăm
sóc trẻ
Khối 1 (giá trị PSM thấp nhất là 0) 30 49 79
Khối 2 (giá trị PSM thấp nhất là 0,2) 69 21 90
Khối 3 (giá trị PSM thấp nhất là 0,4) 24 16 40
Khối 4 (giá trị PSM thấp nhất là 0,5) 22 45 67
Khối 5 (giá trị PSM thấp nhất là 0,6) 47 92 139
Khối 6 (giá trị PSM thấp nhất là 0,8) 1 3 4
Tổng 193 226 419
Giáo viên
mầm non
Khối 1 (giá trị PSM thấp nhất là 0) 45 56 101
Khối 2 (giá trị PSM thấp nhất là 0,2) 70 28 98
Khối 3 (giá trị PSM thấp nhất là 0,4) 44 51 95
Khối 4 (giá trị PSM thấp nhất là 0,6) 23 33 56
Khối 5 (giá trị PSM thấp nhất là 0,8) 0 3 3
Tổng 182 171 353
Nhân viên y
tế
Khối 1 (giá trị PSM thấp nhất là 0) 115 45 160
Khối 2 (giá trị PSM thấp nhất là 0,2) 73 29 102
Khối 3 (giá trị PSM thấp nhất là 0,4) 30 27 57
Khối 4 (giá trị PSM thấp nhất là 0,6) 82 194 276
Tổng 300 295 595
93
NCST GVMN
CBYT
Hình 3.7. Điểm xu hướng giữa khối cân bằng
Bước 2: Đánh giá sự cân bằng trong mẫu ghép cặp: Bảng 3.14 cung cấp giá
trị trung bình sai số trước và sau khi ghép cặp, % giảm bias và kết quả kiểm định t-
test. Kết quả cho thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm chứng (TCT) và nhóm can thiệp
(SCT) sau khi ghép cặp đều không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy
việc ghép cặp là phù hợp, các đối tượng sau khi ghép cặp tương đồng hơn.
94
Bảng 3.14. Đánh giá sự cân bằng trong mẫu sau khi ghép cặp
Đối
tượng
Biến ghép
cặp
Ghép cặp
(Có/Không)
Giá trị trung
bình % bias
%
giảm
bias
p
(t-test) SCT TCT
Người
chăm
sóc trẻ
Tuổi Không 40,0 36,2 17,7 0,078
Có 39,1 38,3 6,5 63,5 0,528
Giới Không 1,94 1,88 21,7 0,026
Có 1,96 1,95 1,9 91,1 0,805
Trình độ Không 4,56 4,01 25,9 0,009
Có 4,57 4,55 0,5 98,1 0,960
Nghề nghiệp Không 2,35 3,29 -48,8 0,000
Có 2,48 2,39 4,8 90,2 0,611
Dân tộc Không 1,26 1,19 16,6 0,093
Có 1,22 1,19 9,1 45,3 0,366
Mối quan hệ
với trẻ
Không 2,27 2,11 32,3 0,001
Có 2,29 2,29 1,1 96,7 0,917
Giáo
viên
mầm
non
Tuổi Không 35,3 36,7 -13,6 0,23
Có 34,5 34,8 -3,2 76,5 0,79
Trình độ Không 3,43 3,40 4,9 0,65
Có 3,48 3,45 5,6 -13,9 0,67
Đào tạo
GDĐB
Không 0,42 0,31 21,4 0,05
Có 0,36 0,34 3,6 83,2 0,79
Kinh nghiệm
chăm sóc trẻ
GDĐB
Không 1,95 2,12 -15,8 0,15
Có 1,88 2,04 -15,4 2,6 0,23
Loại trường Không 1,39 1,61 -44,9 0,00
Có 1,42 1,39 7,0 84,3 0,59
Dân tộc Không 1,29 1,20 21,2 0,05
Có 1,27 1,28 -4,0 80,9 0,77
Nhân
viên y
tế
Tuổi Không 39,0 44,40 -48,1 0,00
Có 38,4 40,74 -20,4 57,70 0,02
Giới Không 1,85 1,83 7,2 0,38
Có 1,85 1,87 -6,5 9,80 0,45
Trình độ Không 2,98 2,59 38,3 0,00
Có 3,03 3,11 -8,1 78,80 0,28
Chuyên môn Không 3,73 2,79 44,3 0,00
Có 3,76 3,88 -5,8 86,80 0,50
Vị trí công
tác
Không 1,72 1,70 8,7 0,20
Có 1,72 1,74 -7,2 10,00 1,00
Dân tộc Không 1,23 1,26 -6,6 0,42
Có 1,23 1,20 7,40 -11,70 0,39
95
Bảng 3.15. Tác động của can thiệp lên kiến thức, thái độ, thực hành của NCST,
GVMN và NVYT theo phân tích PSM
Đối tượng Biến đầu ra
(SCT so với TCT)
Ảnh hưởng can
thiệp trung bình
(ATE)
Khoảng tin cậy Giá trị
p
Người
chăm sóc
trẻ
Kiến thức chung 1,35 0,14 2,56 0,028
Nhân tố 1 0,68 0,28 1,64 0,016
Nhân tố 2 0,21 -0,30 0,72 0,419
Nhân tố 3 0,43 -0,01 0,86 0,052
Thái độ chung 0,74 -0,52 2,01 0,249
Thực hành chung 0,55 0,33 0,79 0,000
Giáo viên
mầm non
Kiến thức chung 2,17 0,78 3,56 0,002
Nhân tố 1 1,21 0,07 2,35 0,037
Nhân tố 2 -0,20 -0,72 0,32 0,448
Nhân tố 3 1,32 0,74 1,90 0,027
Thái độ chung 0,76 -0,33 1,86 0,172
Thực hành chung 0,23 0,06 0,40 0,007
Nhân
viên y tế
Kiến thức chung 2,53 2,80 4,28 0,000
Nhân tố 1 1,86 1,12 2,60 0,000
Nhân tố 2 -0,24 -0,57 0,10 0,175
Nhân tố 3 0,89 0,51 1,28 0,000
Thái độ chung 0,95 0,15 1,75 0,021
Thực hành chung 0,03 -0,18 0,12 0,715
Ghi chú: Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ RLTK, Nhân tố 2:
Kiến thức cơ bản về RLTK, Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về RLTK
Kết quả trong Bảng 3.15 đã cung cấp thêm bằng chứng về tác động của các
hoạt động can thiệp khi triển khai thí điểm mô hình quản lý RLTK ở trẻ tại hai tỉnh
Hòa Bình và Thái Bình. Cụ thể, chương trình can thiệp đã làm tăng kiến thức
chung, đặc biệt là kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK (nhân tố 1) của cả
ba nhóm đối tượng NCST, GVMN và NVYT; làm thay đổi thái độ của NVYT, thay
đổi thực hành của NCST và GVMN theo hướng tích cực hơn so với thời điểm trước
can thiệp.
96
3.3. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự
kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
Trong suốt một năm triển khai mô hình thí điểm, tại các địa bàn tiến hành
can thiệp đã có tổng số 7,776 trẻ được sàng lọc (3883 ở Thái Bình và 3.893 ở Hòa
Bình), phát hiện 81 trẻ (37 trẻ ở Thái Bình và 44 trẻ ở Hòa Bình) nghi mắc hoặc
mắc RLTK. Toàn bộ 81 trẻ này đã được đưa vào mô hình thí điểm và định kỳ cập
nhật các thông tin về tình trạng (có hay chưa) được can thiệp cũng như kết quả can
thiệp trên trẻ. Tính tới thời điểm tiến hành nghiên cứu đánh giá này, trong số 81 trẻ
được đưa vào mô hình, mới có 33 trẻ (chiếm 40,7%) được gia đình đưa đi can thiệp,
48 trẻ còn lại (chiếm 59,3%) bao gồm 12 trẻ mới được phát hiện, 1 trẻ đã mất và 35
trẻ chưa được can thiệp do gia đình chưa đồng ý. Do thời gian can thiệp còn hạn
chế, các kết quả can thiệp trực tiếp trên trẻ chưa được ghi nhận rõ ràng. Tuy nhiên,
số lượng trẻ được đưa vào mô hình cùng với những bằng chứng về tác động của
chương trình can thiệp trong việc nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của NCST,
GVMN và NVYT đã cho thấy những kết quả bước đầu của mô hình thí điểm.
Ơ phần dưới đây, tính phù hợp của mô hình thí điểm được đánh giá ở các
khía cạnh: phù hợp về bối cảnh văn hóa, vận hành dễ dàng và phù hợp về các hoạt
động can thiệp. Tính khả thi được đánh giá dựa trên các yếu tố: nguồn nhân lực;
nguồn tài chính; cơ sở vật chất và trang thiết bị; hệ thống chính sách, quản lý, điều
hành; và sự ủng hộ của các bên liên quan.
3.3.1. Tính phù hợp của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
3.3.1.1. Phù hợp với bối cảnh văn hóa
Kết quả nghiên cứu định tính đã cho thấy, RLTK không phải là một vấn đề
mới tại Việt Nam nhưng các thông tin về hội chứng này đang trong tình trạng
“nhiễu loạn”: các thông tin xuất hiện tràn lan trên các phương tiện truyền thông đại
chúng nhưng lại thiếu tính chính xác. Thậm chí, cụm từ “tự kỷ” được sử dụng rất
nhiều nhưng sai về bản chất, từ đó đã gây tổn thương và tạo ra những rào cản cho
người mắc RLTK và gia đình của họ. Trong bối cảnh đó, các nguồn thông tin từ cơ
quan y tế luôn được sự tin tưởng cao nhất của người dân. Mô hình thí điểm được
97
xây dựng dựa trên nòng cốt là ngành y tế đã được đánh giá là phù hợp với bối cảnh
văn hóa này tại Việt Nam:
“Thông tin trên các phương tiện truyền thông cũng rất nhiều, nhưng không phải
thông tin nào cũng đúng. Vì vậy, rất cần có một nguồn thông tin chính thống mà người dân
trong cộng đồng thực sự tin tưởng, đó chính là các nguồn thông tin từ hệ thống y tế. Mô
hình thí điểm với sự tham gia nòng cốt là cán bộ y tế theo tôi là trong bối cảnh như hiện
nay là phù hợp” (PVS, lãnh đạo UBND, Hòa Bình).
Ngoài ra, hầu hết các đối tượng trực tiếp tham gia vào mô hình thí điểm đều
bày tỏ quan điểm rằng, mô hình bắt đầu bằng mối quan hệ giữa gia đình - NVYT
tuyến xã - GVMN là phù hợp với mối quan hệ gần gũi hiện có trong cộng đồng
người Việt Nam. Điều này giúp cho việc phát hiện, sàng lọc và quản lý trẻ RLTK
tại cộng đồng được thuận tiện và dễ dàng:
“Y tế thôn, CBYT xã và GVMN rất gần gũi và có tiếng nói trong cộng đồng, do đó,
mô hình khởi đầu bằng mối quan hệ này sẽ tạo nền tảng cho các bước sàng lọc, chẩn đoán
và quản lý sau này”. (TLN, CBYT tuyến tỉnh, Thái Bình).
3.3.1.2. Vận hành một cách dễ dàng
Hầu hết đối tượng tham gia nghiên cứu, đặc biệt là những đối tượng trực tiếp tham
gia vào mô hình thí điểm đều đồng ý rằng, mô hình đã thiết lập chức năng, nhiệm vụ và
cách thức triển khai rõ ràng, không tạo ra những thay đổi quá lớn trong môi trường
chính sách hiện tại, do đó việc triển khai thí điểm khá thuận lợi.
“Vai trò của các nhóm trong mô hình phù hợp với các văn bản hiện hành, do đó
không gặp những phản ứng tiêu cực trong quá trình triển khai”. (TLN, CBYT tuyến tỉnh,
Hòa Bình)
Khó khăn duy nhất ghi nhận được từ các cuộc PVS/TLN đó là việc triển khai
chính sách bảo hiểm y tế tại tuyến cơ sở:
“Khi chúng tôi triển khai việc chuyển tuyến trẻ có kết quả dương tính với MCHAT
23 từ tuyến xã lên thẳng tuyến tỉnh không qua tuyến huyện thì BHYT không thanh toán cho
những trường hợp này. Điều này cũng gây khó khăn cho gia đình trẻ và cho cả CBYT cơ
sở” (TLN, NVYT tuyến xã, Hòa Bình).
98
“Nếu mà thông tuyến như vậy chắc phải là chính sách từ trên Bộ Y tế chứ Sở Y tế
chắc là không được. Sở Y tế không đủ thẩm quyền vì còn liên quan đến vấn đề kinh phí
thanh toán bảo hiểm y tế” (PVS, Lãnh đạo Sở y tế tỉnh Thái Bình).
3.3.1.3. Tính phù hợp của chương trình truyền thông nâng cao kiến thức, thái
độ, thực hành về rối loạn tự kỷ tại cộng đồng
Kết quả đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của các đối tượng
đích của chương trình truyền thông (mục 3.2) là một chỉ báo quan trọng thể hiện
tính phù hợp của chương trình. Ngoài ra, các phân tích sau đây cung cấp những
thông tin bổ sung cho tính phù hợp của chương trình:
- Mức độ tiếp cận của đối tượng đích với các sản phẩm truyền thông:
Hình 3.8. Tỷ lệ tiếp cận với các sản phẩm truyền thông của chương trình
Kết quả trong Hình 3.8 cho thấy, tỷ lệ NCST, GVMN và NVYT tiếp xúc với
ít nhất 1 sản phẩm truyền thông của chương trình nằm trong khoảng 80-90%, cao
nhất là nhóm NVYT. Trong đó, NCST chủ yếu tiếp cận với sản phẩm truyền thông
là bài phát thanh qua loa xã/phường và tờ rơi; GVMN tiếp cận với bài phát thanh
qua loa xã/phường, áp phích và tờ rơi; còn NVYT tiếp cận được với cả 4 loại hình
truyền thông ở mức độ tương đương nhau (60-65%).
- Hiểu được thông điệp của chương trình
99
Hình 3.9. Thông điệp chính được đối tượng đích rút ra sau chương trình
Kết quả Hình 3.9 cho thấy, đa số (tỷ lệ từ 73-91%) NCST, GVMN và NVYT
đã rút ra được thông điệp chính của chương trình truyền thông liên quan đến sự cần
thiết của phát hiện sớm, can thiệp sớm cho trẻ mắc RLTK, đó là“Cần phát hiện
sớm các dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK”, “Trẻ mắc RLTK cần được can thiệp
càng sớm càng tốt” và “Cần sự phối hợp của NCST, GVMN và CBYT để phát hiện
sớm dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK”, trong đó tỷ lệ nhắc được các thông điệp
giảm dần theo thứ tự NVYT, GVMN và NCST.
Như vậy, kết quả định lượng cho thấy tỷ lệ tiếp cận ít nhất 1 sản phẩm truyền
thông và tỷ lệ rút ra được thông điệp chính của chương trình can thiệp đều đạt ở
mức 70-90%, đây là những chỉ số quan trọng thể hiện tính phù hợp của chương
trình truyền thông. Ngoài ra, các thông tin từ kết quả nghiên cứu định tính đã giúp
bổ sung thêm thông tin và làm ro hơn kết quả định lượng này:
Trước hết, các đối tượng tham gia nghiên cứu đều có nhận định chung về các
hoạt động truyền thông là phù hợp và có ý nghĩa; các sản phẩm truyền thông đều
rất dễ hiểu, được thiết kế đẹp mắt và họ cảm thẩy hài lòng về những sản phẩm này.
Đặc biệt, các đối tượng đích (NCST, GVMN và NVYT) đều bày tỏ sự thích thú đối
với bài phát thanh và tờ rơi, do các sản phẩm này cung cấp nhiều nội dung hữu ích
về RLTK_vấn đề mà trước đây họ đã nghe thấy nhưng gần như không hiểu rõ:
100
“Các hoạt động rất có ý nghĩa và phù hợp, các tài liệu đều rất là đẹp từ hình ảnh
cho đến màu sắc chủ đạo là màu xanh, trông rất là bắt mắt. Như thế là rất tốt. Bản thân
tôi thấy rất là hài lòng” (TLN, NVYT tuyến xã, huyện Lương Sơn).
“Chị có nhận được tờ thông tin từ cô y tế thôn. Nhìn chung chị thấy rất dễ hiểu và
hữu ích nữa. Mặc dù là cái tự kỷ trước đây thì cũng có nghe đến rồi, nhưng chưa bao giờ
biết thông tin nào là đúng. Bài phát thanh thì cũng có nghe ở xã, cũng mới đây thôi, rất là
hay, nhiều khi đang làm việc gì đó, cũng phải dừng lại để nghe cho hết” (TLN, NCST,
huyện Tiền Hải).
Còn đối với hai sản phẩm truyền thông banner và áp phích, một số ý kiến
cho rằng, họ có nhìn thấy dán ở trường hay ở trạm y tế, nhưng vì ít thông tin và
cũng bị lẫn với nhiều áp phích khác nên các đối tượng không chú ý nhiều và thấy ít
hứng thú với các sản phẩm này. Đây có thể là lý do dẫn đến tỷ lệ tiếp cận với các
sản phẩm này thấp hơn so với tờ rơi hay bài phát thanh:
“Mấy cái áp phích [ý là banner và áp phích] như em đang cầm kia thì ngay cả
trường mầm non chỗ chị cũng có dán đấy. Bố mẹ đến đón con thì cũng thấy ở trường
nhưng mà cũng ít người chú ý vì là có nhiều áp phích khác và cái của mình cũng ít thông
tin hơn các cái khác” (TLN, GVMN, TP. Hòa Bình).
Thêm vào đó, nhận định từ các NVYT tuyến xã về cách thức thực hiện các
hoạt động truyền thông theo cách lồng ghép với các hoạt động họ đang thực hiện
cũng cho thấy cách làm này là phù hợp trong bối cảnh nguồn nhân lực còn hạn chế:
“Khi mình làm chương trình về tiêm chủng thì mình sẽ nhắc nhở bố mẹ của trẻ luôn
là có cái phiếu này [ý nói là bộ công cụ sàng lọc phát triển AQS VN], bố mẹ nhớ về kiểm
tra cho trẻ, thấy gì băn khoăn thì lần sau cho trẻ đi tiêm hỏi lại, hoặc là đến hỏi luôn cũng
được. Như vậy là mình làm kết hợp với các hoạt động khác… Cứ làm như vậy mới khả thi
được” (TLN, NVYT tuyến xã, TP. Hòa Bình).
Chương trình truyền thông được đánh giá là phù hợp với hầu hết đối tượng
đích, tuy nhiên, để đạt kết quả tốt hơn, một số ý kiến cho rằng, cần có những hoạt
động truyền thông riêng cho các bố mẹ, gia đình có con bị rối loạn phát triển
hoặc RLTK để họ thấy rằng không phải chỉ một mình con họ có vấn đề mà các nhà
khác cũng vậy. Bằng cách này, những nỗ lực của cha mẹ có con bị RLTK cũng tăng
lên và sự tự kì thị cũng bớt đi nhiều.
101
“Nếu mà mình có một cái buổi mà gọi là tập trung vào chính các nhà có con bị tự
kỷ” … “nếu như mà chị tập trung 40-50 bố mẹ [ý là bố mẹ có con bị tự kỷ], khi mà người
ta trao đổi với nhau họ thấy: ừ không phải một mình con nhà mình, cũng rất nhiều người
bị như thế, mỗi con bị một kiểu, thôi thì cùng bố mẹ, thôi thì là nhiều thế này thì con nhà
mình cũng phải cố gắng để can thiệp cho con. Em nghĩ là cái cách nhìn của bố mẹ về con
chắc khác hơn chứ không thể nào như này [ý là không can thiệp gì cho trẻ]” (TLN CBYT
Khoa Nhi, BVĐK tỉnh Hòa Bình).
“đầu tiên nhà một bạn, mẹ cũng nghĩ là tủi thân, nghĩ là sao lại con mình khổ mỗi
con nhà mình, nhưng mà khi mà cho 2 mẹ gặp nhau một phát thấy con nhà kia nó kém hơn
con nhà mình thì mẹ lại có động lực hơn” (TLN CBYT Khoa Nhi, BVĐK tỉnh Thái Bình).
3.3.1.4. Tính phù hợp của các hoạt động tác động lên hệ thống y tế
Để vận hành mô hình, bên cạnh chương trình truyền thông tại cồng đồng,
một số hoạt động tác động lên sự vận hành/hoạt động của hệ thống y tế cũng được
triển khai, bao gồm: cung cấp các biểu mẫu quản lý trẻ RLTK, đào tạo cho CBYT
(tuyến xã, huyện) về các bộ công cụ sàng lọc rối loạn phát triển và RLTK và hỗ trợ
cơ sở vật chất cho y tế tuyến tỉnh. Kết quả nghiên cứu định tính đã cho thấy, hoạt
động nhận được sự hài lòng nhất, được đánh giá là phù hợp nhất là hoạt động
tập huấn cho CBYT:
“Hài lòng nhất là hoạt động tập huấn đó”..“Hôm có mấy bác sĩ ở trung ương về
đấy, chúng tôi lại được hướng dẫn lại lần nữa [ý là hướng dẫn sử dụng bộ công cụ ASQ và
MCHAT-23]. Mà cái bác gì ở bệnh viện trung ương bác ý nói dễ hiểu lắm” (TLN CBYT
xã/phường TP. Hòa Bình).
“Tập huấn hồi ở bệnh viện tôi có tham gia đấy. Giờ về vẫn nhắc các bố mẹ để ý
theo dõi con. Tôi cho công tác viên đi phát cái bộ ASQ cho các gia đình, nhắc họ lấy phiếu
ra mà đánh dấu vào đấy xem con mình thế nào. Trước cũng có nghe nhưng cũng chỉ biết
vậy chứ chẳng làm gì. Có cái chương trình này thấy mình cũng thay đổi, để ý hơn. Mà tôi
nhắc cả bên trường mầm non nữa đấy. Nói chung tôi thấy hoạt động tập huấn rất là tốt,
rất là hiệu quả” (TLN, CBYT tuyến xã, TP. Thái Bình).
Liên quan tới các hoạt động hỗ trợ cải tạo cơ sở vật chất và cung cấp TTB
cho y tế tuyến tỉnh, hầu hết các đối tượng tham gia định tính đều cảm thấy chưa
102
được hài lòng do đến thời điểm hiện tại phòng can thiệp cho trẻ RLTK vẫn còn khó
khăn về cơ sở vật chất và TTB:
“Chương trình hỗ trợ về trang thiết bị thì nói chung là cũng có nhưng mà một số
vẫn còn chưa đáp ứng được theo hy vọng. Bây giờ bệnh viện cũng mới bắt đầu có ba trẻ
đến can thiệp thì chưa thấy gặp khó khăn, nhưng em nghĩ là nếu số lượng trẻ tăng lên thì
chắc chắn là thiếu rất là nhiều” (TLN, CBYT Khoa Nhi BVĐK tỉnh Hòa Bình).
“Hai phòng can thiệp này là cải tạo từ phòng cũ của khoa Nhi, các trang thiết bị
mới gọi là có để thực hiện can thiệp thôi, chứ còn phải nói là vẫn rất là nghèo nàn” (TLN
CBYT Khoa Nhi BVĐK tỉnh Hòa Bình).
Bên cạnh đó, khi xây dựng mô hình, nhóm nghiên cứu đã xây dựng 02 cuốn
sổ quản lý trẻ tại cộng đồng (sổ chiều A và chiều B), 02 sổ theo dõi, quản lý trẻ
nghi ngờ có rối loạn phát triển/tự kỷ (tuyến huyện và tuyến tỉnh), đồng thời bổ sung
thêm nội dung “Báo cáo các trường hợp nghi ngờ có rối loạn tự kỷ” vào biểu mẫu
số 9/BCX “Hoạt động phòng chống bệnh xã hội” đang được trạm y tế xã/phường sử
dụng để báo cáo lên tuyến huyện. Kết quả đánh giá về tính phù hợp của các biểu
mẫu này cho thấy, 2 cuốn sổ được sử dụng ở tuyến xã (sổ chiều A và chiều B) và
việc tích hợp thêm thông tin RLTK vào mẫu báo cáo 9/BCX là phù hợp và được y
tế tuyến xã sử dụng, trong khi đó việc sử dụng biểu mẫu quản lý trẻ dành cho
tuyến huyện và tỉnh là không cần thiết vì các số liệu hiện nay đều được cán bộ cập
nhật và quản lý trên máy tính. Do đó, vấn đề khó khăn ở đây là chưa có hệ thống
thông tin kết nối các tuyến với nhau (xã/phường - huyện/thành phố - tỉnh) nên việc
quản lý thông tin trẻ RLTK vẫn ở trong phạm vi của từng tuyến:
“3 tháng một lần chị vẫn ghi thêm thông tin về RLTK vào Báo cáo bệnh xã hội và gửi
lên trung tâm đấy. Việc tích hợp thêm nội dung như thế rất là tiện, mình chỉ cần ghi thêm
vào thôi chứ không cần thêm một cuốn sổ.”… “Sổ chiều A và chiều B cũng rất là cần thiết,
mình quản lý được tình trạng của trẻ đang như thế nào để mà còn nhắc nhở cha mẹ”
(TLN, NVYT tuyến xã, huyện Lương Sơn).
“Em nói thật là em không dùng cái sổ xanh xanh mà chị đưa đâu. Em lưu vào file
trong máy tính luôn nên mỗi lần chị hỏi về số lượng là em có để gửi email cho chị ngay
đấy. Cái sổ đấy em thấy không phù hợp với em” (TLN CBYT tuyến tỉnh, TP. Hòa Bình)
103
“Vâng, hiện tại thì khoa bọn em đang có mail chung và chia sẻ các hoạt động
chung trong khoa. Nhưng mà nếu có thể kết nối được thông tin từ các tuyến phía dưới và
trên cả TƯ thì việc quản lý thông tin sẽ dễ dàng hơn” (TLN CBYT tuyến tỉnh, Hòa Bình)
3.3.2. Tính khả thi của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ trẻ em tại cộng đồng
3.3.2.1. Nguồn nhân lực
Các đối tượng tham gia nghiên cứu đều đồng ý rằng, việc xây dựng và triển
khai mô hình quản lý dựa trên hệ thống nhân lực sẵn có ở cộng đồng và trong hệ
thống y tế, trong đó thiết lập vai trò của các bên liên quan phù hợp với năng lực,
chức năng và nhiệm vụ hiện tại của họ là cách tiếp cận hoàn toàn phù hợp. Đây
cũng là điểm cốt lõi giúp mô hình quản ly đã được triển khai khả thi và có kết quả.
Cụ thể:
Tại cộng đồng, vai trò của NCST, GVMN, nhân viên y tế thôn bản
/NVYTTB) trong mô hình thí điểm là phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường về
phát triển của trẻ bằng việc sử dụng bộ công cụ ASQ Việt Nam. Kết quả đánh giá
sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành xử trí sớm RLTK ở trẻ của NCST, GVMN,
NVYT sau một năm can thiệp (chi tiết ở mục 3.2) đã cho thấy “cộng đồng” đã có đủ
năng lực đảm nhận nhiệm vụ của mình trong mô hình. Đây chính là một chỉ báo
quan trọng để nhìn nhận tính phù hợp và khả thi của mô hình quản lý. Các thông tin
thu được từ các cuộc thảo luận nhóm cũng đã chứng minh thêm điều này:
“Trước thì chúng tôi không biết [ý là RLTK ở trẻ] nhưng mà sau thì được nghe các
bài tuyên truyền trên loa phát thanh rồi lại đọc các tờ thông tin nên là đã hiểu hơn về cái
tự kỷ rồi đấy. Chứ trước là cứ nghe nói tự kỷ thôi, chứ có hiểu là gì đâu”... Chúng tôi được
hướng dẫn dùng tài liệu để về tự theo dõi và kiểm tra cho con cháu mình ở nhà, xem có
dấu hiệu gì bất thường không. Có gì nghi ngờ là lại đến ngay trạm để hỏi thêm” (TLN,
NCST, huyện Lương Sơn)
“Giờ thì mình chú tâm tới việc kiểm tra các mốc phát triển của các con hơn. Trước
thì chỉ có các con nào mà thấy biểu hiện rõ ràng chậm phát triển, hơn nhiều các bạn khác,
rất là đặc biệt thì mới để ý và nói với cha mẹ của các con” (TLN, GVMN, TP. Thái Bình)
Trước khi có cái tự kỷ này về đây, chúng tôi có nghe nói rồi cũng biết nhưng không
hiểu lắm. Bố mẹ nhiều lúc cứ hỏi con cháu thế nọ thế kia có phải tự kỷ không. Chúng tôi
104
cũng chẳng biết rõ và cũng chỉ biết bảo thử lên bệnh viện hỏi xem. Giờ thì chúng tôi biết
rồi. Phát cho bố mẹ cái ASQ [phiếu đánh giá sàng lọc phát triển ở trẻ em] để về nhìn con
mình xem có dấu hiệu gì không, mà phải làm càng sớm càng tốt. Có gì thì báo lại rồi lên
trạm, các cô ở đó làm cái M-CHAT 23. Nếu trẻ có gì thì các cô ở trạm sẽ giới thiệu gia
đình lên bệnh viện Nhi tỉnh” (TLN, CBYT tuyến xã, TP. Thái Bình)
Tại tuyến xã/phường, kết quả nghiên cứu cho thấy chương trình thí điểm mô
hình quản lý RLTK ở trẻ đã tổ chức các khóa đào tạo/tập huấn cho cán bộ TYT
xã/phường để có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ sàng lọc trẻ nghi mắc tự kỷ bằng bộ
công cụ M-CHAT 23:
“Cái M-CHAT23 đấy tôi biết chứ. Năm trước ý chúng tôi chả cầm đi hỏi từng nhà
có con nhỏ đấy. Lúc đấy là đã được hướng dẫn cách hỏi, cách đánh dấu thế nào rồi”
(TLN, CBYT tuyến xã, TP. Hòa Bình).
Kết quả đánh giá tại tuyến xã/phường cũng cho thấy TYT đã phân công người
phụ trách quản lý và theo dõi trẻ có dấu hiệu nghi ngờ rối loạn phát triển và RLTK.
Cán bộ phụ trách này có thể là người chuyên trách các chương trình liên quan đến
trẻ em hoặc người chuyên trách chương trình sức khỏe tâm thần cộng đồng.
“Ở trạm này tôi là người được giao cầm sổ chiều A và chiều B để quản lý. Tôi phụ
trách chương trình bà mẹ trẻ em. Cứ cái gì liên quan đến hai đối tượng này là tôi làm
(cười). Giờ lại thêm cái việc này. Nhưng cũng phải nói thật là cái tự kỷ này nó không như
các vấn đề khác. Thi thoảng mới có nhà đưa con đến nên thực ra là cũng không vất vả
hơn” (TLN, CBYT tuyến xã, TP. Thái Bình).
Tại tuyến huyện, nhân lực tham gia thử nghiệm mô hình quản lý cũng là
những người đang phụ trách các chương trình sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh
sản, tâm thần cộng đồng. Khi được phân công nhiệm vụ và được phát một cuốn sổ
để tổng hợp các trường hợp trẻ được chuyển lên và chuyển về, cán bộ điều phối tại
TTYT huyện/thành phố triển khai xuống các xã và yêu cầu các xã báo cáo theo mẫu
để tổng hợp.
“Chị làm chương trình tâm thần cộng đồng nên khi nghe có chương trình tự kỷ này
về, sếp giao luôn cho chị. Cũng không thêm gì nhiều việc. Dưới xã họ báo cáo lên theo
mẫu báo cáo rồi, mình chỉ cần tổng hợp lại thôi” (TLN, CBYT tuyến huyện, Lương Sơn)
105
Tại tuyến tỉnh, để có thể đảm nhận được vai trò chẩn đoán và can thiệp cho
trẻ RLTK, CBYT cần có chứng chỉ hoàn thành khóa học 12 tuần của Bệnh viện Nhi
TƯ. Đối với Bệnh viện Nhi tỉnh Thái Bình, các bác sĩ, điều dưỡng của Khoa PHCN
đã thực hiện can thiệp RLTK từ cách đây khoảng 7 năm và đã đảm nhận được vai
trò. Còn ở BVĐK tỉnh Hòa Bình, tại thời điểm trước can thiệp chưa thực hiện hoạt
động này. Tuy nhiên, kết quả đánh giá sau can thiệp đã cho thấy, bệnh viện đã cử
một bác sĩ và ba điều dưỡng của Khoa Nhi đi học để triển khai hoạt động tại đơn vị
can thiệp mới được thành lập (trong thời gian triển khai can thiệp) tại Khoa:
“Đợt vừa rồi em và bạn Nh. cũng mới đi học ở chỗ thầy M. [bệnh viện Nhi TƯ] về.
Bọn em cũng can thiệp cho hai bạn do thầy M. chuyển từ chỗ thầy về. Thầy gọi cho bọn em
bảo có hai trường hợp ở Hòa Bình mà thầy thấy bọn em làm can thiệp được nên thầy giới
thiệu về đây. Mỗi bạn bọn em có một cuốn sổ theo dõi theo từng lần tập để xem các bạn ý
tiến bộ như thế nào” (TLN CBYT Khoa Nhi BVĐK tỉnh Hòa Bình).
Có thể thấy rằng, bệnh viện tuyến tỉnh không phải tuyển thêm người để triển
khai hoạt động can thiệp RLTK mà nhân lực đều là những người đã và đang công
tác tại Khoa Phục hồi chức năng (PHCN) hoặc Khoa Nhi.
Tại tuyến trung ương: Hiện tại, Bệnh viện Nhi TW có hai Khoa đang cùng
tham gia sàng lọc, chẩn đoán và can thiệp cho trẻ mắc RLTK là Khoa Tâm thần và
Khoa PHCN. Do đó, nguồn nhân lực đã có sẵn và có đủ năng lực để đảm nhận vai
trò chẩn đoán khẳng định và can thiệp trong mô hình.
Như vậy, về nhân lực để triển khai mô hình, từ tuyến xã lên đến tuyến trung
ương đều có thể sử dụng nhân lực sẵn có tại địa phương/đơn vị mà không cần tuyển
dụng mới nhân sự. Đây là một khía cạnh rất quan trọng đảm bảo tính khả thi của
mô hình.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu định tính cũng đã chỉ ra những khó khăn về
mặt nhân lực khi triển khai mô hình cần được cân nhắc đến khi triển khai mô hình
trong tương lai:
Trước hết, là khó khăn liên quan tới năng lực của CBYT tuyến xã và tuyến tỉnh:
Theo phản hồi của các cán bộ tại TYT, mặc dù đã được tập huấn sử dụng các
bộ công cụ sàng lọc rối loạn phát triển và RLTK, họ vẫn cảm thấy chưa thực sự tự
106
tin khi sử dụng bộ công cụ M-CHAT23 và có mong muốn được tập huấn kỹ hơn
nữa để có thể thực hiện sàng lọc trẻ RLTK hiệu quả hơn.
“Thực sự là chị vẫn chưa được tự tin lắm về việc dùng bộ M-CHAT. Cụ thể là cần
đặt câu hỏi như thế nào để cha mẹ/NCST có thể hiểu và trả lời được ngay; khi hỏi về các
dấu hiệu cờ đỏ cần giải thích cụ thể ra sao…”… “rất mong muốn là được tiếp tục đào
tạo” (TLN, CBYT tuyến xã, huyện Tiền Hải)
Đối với CBYT tuyến tỉnh, hiện đang phải đảm nhận vai trò chẩn đoán và can
thiệp cho trẻ RLTK tại địa phương, kết quả nghiên cứu cho thấy, đây là thách thức
vô cùng lớn đặc biệt đối với những tỉnh chưa từng thực hiện hoạt động này (tương
tự như Hòa Bình trước thời điểm can thiệp):
“Mặc dù được đi tập huấn rồi, bọn em cũng đang can thiệp cho 2 trẻ ở đây. Nhưng
mà thú thật là cái RLTK này rất là thách thức, chắc chắn bọn em hay các đồng nghiệp sau
này muốn theo đuổi lĩnh vực này phải rất quyết tâm”… hỏi em có tự tin không, thì em phải
nói thật là chưa thể tự tin đâu ạ” (TLN CBYT Khoa Nhi BVĐK tỉnh Hòa Bình).
“Về vấn đề này, nhiều tỉnh phải nói là “như một tờ giấy trắng” nghĩa là hầu như
cán bộ y tế chưa biết gì. Thế nên là để nhân rộng được mô hình, cái cần đầu tiên là giải
quyết về mặt chuyên môn cho tuyến tỉnh, thế mới giảm được tải cho tuyến trung ương
được” (PVS, CBYT bệnh viện Nhi Trung Ương).
Ngoài ra, những khó khăn của việc kiêm nhiệm thêm việc quản lý RLTK đối
với y tế thôn và cán bộ y tế tuyến xã, huyện cũng đã được nhắc đến, tuy nhiên khó
khăn này có thể khắc phục được thông qua việc lồng ghép vào các hoạt động
thường qui đang thực hiên tại cơ sở y tế:
“Cán bộ tại trạm, mà ngay cả y tế thôn cũng thế, thì như em biết đấy, gần ba chục
chương trình quốc gia một năm, những đợt có chiến dịch rất là bận, thêm chương trình là
thêm bận rộn.” (TLN, CBYT tuyến xã, TP. Hòa Bình).
Để khắc phục khó khăn này, nhiều ý kiến cho rằng, việc quản lý và theo dõi
RLTK ở trẻ có được lồng ghép vào các chương trình đã có sẵn mà họ đang thực
hiện, ví dụ như chương trình quản lý các vấn đề sức khỏe của trẻ em hoặc chương
trình tâm thần cộng đồng.
107
“Một quý em vẫn báo cáo Nhi một lần để nắm được số liệu trẻ còi, trẻ không tăng
cân, trẻ suy dinh dưỡng dưới 2 tuổi. Đánh giá tỷ lệ suy dinh dưỡng là 6 tháng một lần cân
toàn bộ trẻ dưới 5 tuổi. Thành ra để tiếp cận trẻ và thực hiện việc quản lý trẻ mắc tự kỷ kết
hợp luôn cùng cũng không khó đâu.” (TLN, CBYT tuyến huyện, TP. Thái Bình)
3.3.2.2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Tương tự đối với nguồn nhân lực, mô hình quản ly thí điểm được xây dựng và
triển khai dựa trên hệ thống cơ sở vật chất sẵn có tại cơ sở y tế các tuyến, không
phải xây dựng mới phòng ốc:
Đối với tuyến xã và huyện, hầu như không cần có sự thay đổi gì về cơ sở vật
chất, trang thiết bị khi triển khai mô hình:
“Trạm y tế có cần thêm trang thiết bị hay cơ sở vật chất gì đâu. Tất cả là dựa trên
con người sẵn có, phòng ốc sẵn có tại trạm thôi. Chỉ có thêm cái là có thêm tài liệu, sổ
sách hay tờ rơi, áp phích về tự kỷ, được bổ sung thêm và để ở trạm. Thế là cán bộ y tế có
cái để trao đổi thêm với người dân” (TLN, CBYT tuyến xã, TP. Hòa Bình)
Còn đối với tuyến tỉnh, sự thay đổi về cơ sở vật chất cũng chỉ ở mức độ cải
tạo các phòng ốc sẵn có tại cơ sở và bổ sung một số trang thiết bị cần thiết phục vụ
can thiệp, nếu cơ sở y tế chưa triển khai hoạt động can thiệp cho trẻ RLTK, ví dụ
tỉnh Hòa Bình. Sự thay đổi này được các bên liên quan nhận định là không quá lớn
và hoàn toàn có thể đưa vào kế hoạch mua sắm trang thiết bị hàng năm của đơn vị.
“Tôi nghĩ khi bệnh viện tỉnh xây dựng kế hoạch hàng năm hoàn toàn có thể bổ sung
danh mục trang thiết bị cần thiết phục vụ nhu cầu của đơn vị. Việc này là hoàn toàn khả
thi thôi” (PVS, lãnh đạo Sở y tế tỉnh Hòa Bình).
Việc không gây ra những thay đổi lớn về cơ sở vật chất, trang thiết bị khi áp
dụng mô hình quản ly đã được các bên liên quan, đặc biệt là các nhà hoạch định
chính sách nhận định là vô cùng quan trọng giúp cho mô hình dễ dàng được áp
dụng trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế:
“Vấn đề quản lý và có những hỗ trợ cho người khuyết tật nói riêng, hay là người
mắc tự kỷ nói riêng là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, bất kỳ
sự thay đổi lớn nào về cơ sở vật chất, tài chính đều sẽ gây khó khăn cho việc triển khai.
Nhưng với mô hình quản lý tự kỷ được xây dựng dựa trên những gì sẵn có, lổng ghép vào
108
những hoạt động hay chương trình đang triển khai như vậy thì rất phù hợp và khả thi để
triển khai” (PVS, lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Thái Bình)
Tuy nhiên, một số khó khăn liên quan đến cơ sở vật chất, trang thiết bị đối
với y tế tuyến huyện cũng đã được đề cập đến, nếu trong tương lai tuyến huyện
tham gia vào hoạt động can thiệp cho trẻ RLTK:
“Tương tự như là nguồn nhân lực, khi mà RLTK ở trẻ em đã trở thành một chương
trình thường quy như các chương trình y tế hiện nay đang triển khai tại cộng đồng, thì
tuyến huyện cần phải có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị cho
hoạt động này. Điều này sẽ là khó khăn lớn đối với tuyến huyện” (PVS, lãnh đạo Sở y tế
tỉnh Thái Bình).
3.3.2.3. Nguồn tài chính
Dưới góc độ của nhà cung cấp dịch vụ, các CBYT tham gia nghiên cứu đều
cho rằng mô hình thí điểm là hoàn toàn khả thi về mặt tài chính do các hoạt động
của mô hình đều có thể được lồng ghép vào các chương trình y tế đang thực hiện
ở các tuyến mà không cần bổ sung nguồn tài chính:
Tại cộng đồng, tuyến xã và huyện: hoạt động đào tạo cho NCST, GVMN và
NVYT có thể được lồng ghép với chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em (như tiêm
chủng mở rộng, phòng chống dinh dưỡng, y tế học đường); trong khi hoạt động
phát hiện và sàng lọc trẻ RLTK có thể lồng ghép với chương trình chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe tâm thần cộng đồng; còn hoạt động can thiệp cho trẻ
RLTK có thể lồng ghép với chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng:
“Nội dung này đưa vào chương trình tâm thần hoặc chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em
đều được. Đầu mối là TYT là rất quan trọng, gần gũi người dân, kể cả không có kinh phí
thì vẫn triển khai được vì CBYT đều đã được tập huấn nâng cao kiến thức rồi, gắn với
công việc hiện tại thì cán bộ tại TYT hoàn toàn có thể kết hợp và thực hiện được” (TLN,
CBYT tuyến xã, huyện Lương Sơn).
Tại tuyến tỉnh: hoạt động chẩn đoán và can thiệp cho trẻ RLTK có thể được
thực hiện bởi các bác sỹ và điều dưỡng đã được đào tạo bởi Bệnh viện Nhi Trung
Ương thông qua chương trình nâng cao năng lực hàng năm. Nguồn tài chính phục
109
vụ nâng cấp, bổ sung trang thiết bị cho phòng can thiệp có thể được đưa vào kế
hoạch hàng năm:
“Tôi cũng đã nghĩ đến việc thiết lập một đơn vị can thiệp tại đây. Chúng tôi đã có
phòng trống, chỉ cần bổ sung một số trang thiết bị. Đó không phải là một khoản tiền lớn,
bệnh viện có thể trang bị cho phòng can thiệp hang năm, bắt đầu bằng những trang thiết
bị cơ bản” (TLN, CBYT tỉnh, Hòa Bình)
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những khó khăn về mặt tài chính
cho các gia đình có con mắc RLTK do các quy định về bảo hiểm y tế hiện nay chưa
rõ ràng. Giải pháp vận động chính sách, đặc biệt là chính sách liên quan đến bảo
hiểm y tế cũng được nhận định là rất quan trọng để giải quyết bài toán về “kinh
phí”, yếu tố quyết định tính bền vững của mô hình:
“Can thiệp tự kỷ đòi hỏi sự kiên trì của gia đình và kèm theo đó là tài chính vô cùng
lớn. Bảo hiểm y tế, nói là có chi trả đấy nhưng quy định rất là phức tạp. Việc chuyển tuyến
từ xã lên tỉnh bắt buộc phải qua tuyến huyện, giờ mình muốn chuyển tuyến thẳng từ xã lên
tỉnh thì phải vận động được bên bảo hiểm xã hội.” (PVS, lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Hoà Bình)
“Các quy định hiện tại của bảo hiểm y tế áp dụng cho trẻ tự kỷ thì rất là khó khăn
cho gia đình. Vì là cái tự kỷ này, can thiệp là hàng ngày, hàng tháng, cứ đi đi về về. Vậy
thì, trẻ không nằm viện được thanh toán không? thanh toán bao nhiêu đợt? mấy
ngày/đợt… Ví dụ, điều trị tâm lý thì chỉ cho 2 tiếng/ngày, trong khi can thiệp cho trẻ tự kỷ
phải cần thời gian nhiều hơn thế. Gia đình muốn làm lại phải tự chi trả. Do đó, can thiệp
về chính sách, xây dựng các gói bảo hiểm y tế cho RLTK là rất cần thiết” (Hội thảo,
chuyên gia về quản lý y tế)
Ngoài ra, để giải quyết câu chuyện về tài chính cho can thiệp RLTK, vai trò
của tuyến huyện trong việc can thiệp cũng được đề cập trong các cuộc thảo luận
với bác sĩ, điều dưỡng tuyến tỉnh. Theo đó, trong tương lai, nếu tuyến huyện triển
khai được hoạt động can thiệp RLTK cho trẻ ở mức độ vừa phải sẽ giúp gia đình
tiết kiệm được chi phí đi lại, ăn ở để can thiệp cho con và cũng góp phần giảm tải
cho tuyến trên.
“Gần hơn [ý nói là tuyến huyện làm can thiệp] thì khả năng can thiệp sớm sẽ nhanh
hơn. Ví dụ nhiều huyện ở Hòa Bình bọn em về tỉnh có khi cả mấy trăm cây. Nếu như họ lên
được đến tỉnh thì họ phải ở trên này 10-15 ngày, nhà ở rồi ăn uống các thứ. Bây giờ mình
110
làm can thiệp 1 tiếng mà bắt người ta ở đây chờ hôm sau mới can thiệp được thì rất là
khó” (TLN, CBYT tuyến tỉnh, Hòa Bình)
3.3.2.4. Hệ thống chính sách, quản lý và điều hành
Mô hình quản lý vận hành dựa trên sự phối hợp, kết nối giữa các tuyến đã
được thiết lập trong hệ thống y tế (cộng đồng, xã, huyện, tỉnh và trung ương). Điều
này được nhìn nhận là một lợi thế lớn của ngành y tế so với các ngành khác:
“Lợi thế của ngành y tế là đã có sẵn hệ thống y tế với các tuyến từ xã đến trung
ương, vì thế việc xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ trong ngày y tế thuận lợi hơn so
với ngành giáo dục hay lao động xã hội.”(Hội thảo, chuyên gia về giáo dục đặc biệt).
Kết quả đánh giá sau một năm can thiệp cho thấy, sự kết nối này thể hiện rất
rõ và khá thuận lợi đối với chiều A của mô hình nếu trẻ được chuyển lên tuyến
trên theo đúng trình tự (tuyến xã – huyện – tỉnh – trung ương):
“TTYT huyện là nơi tiếp nhận báo cáo của tuyến xã về các trường hợp trẻ nghi ngờ
có RLTK, sau đó trung tâm giới thiệu lên bệnh viện tuyến tỉnh/tuyến trung ương và vào sổ
quản lý những trường hợp đó. Nói chung việc chuyển trẻ lên tuyến trên như thế không gặp
khó khăn gì” (TLN, CBYT tuyến huyện, TP. Hòa Bình).
Tuy nhiên, kết quả đánh giá cũng cho thấy, trong một năm can thiệp, việc thực
hiện chiều B (chiều chuyển trẻ đã được can thiệp từ tuyến trên về) chưa thể hiện
rõ ràng và gặp nhiều khó khăn.
Trước hết, nhiều đối tượng tham gia nghiên cứu cho rằng đầu mối quản lý
thông tin trẻ RLTK đang ở tuyến huyện là chưa thực sự hợp lý, do tuyến huyện
không gần với gia đình của trẻ:
“Thông tin trẻ mắc RLTK được chuyển xuống TTYT huyện, trong khi TTYT huyện lại
không phải là nơi kết nối và gần gũi với gia đình của trẻ, nên là gặp khó khăn trong việc
báo cho gia đình trẻ khi cần phải quay lại bệnh viện để tiếp tục làm can thiệp” (TLN,
CBYT tuyến tỉnh, Thái Bình).
Để giải quyết vấn đề này, CBYT tuyến tỉnh cho rằng trẻ đã được chẩn đoán tự
kỷ nên được chuyển thẳng xuống các đầu mối tại xã/phường để họ quản lý cả
chiều chuyển lên và chiều chuyển xuống. Sau đó, các xã/phường sẽ tự báo cáo với
111
đầu mối tuyến huyện. Vì tuyến xã/phường sẽ giúp nhắc nhở gia đình tiếp tục đưa trẻ
lên bệnh viện can thiệp theo lịch hẹn tốt hơn.
“Vẫn cứ phải chuyển xuống xã, sau đó xã chuyển lên trung tâm thế nào thì tùy. Vì xã
mới là nơi gần với gia đình trẻ, có thể nhắc nhở gia đình đưa trẻ đi can thiệp theo lịch hẹn
của bệnh viện” (TLN, CBYT tuyến tỉnh, Thái Bình).
Thêm vào đó, việc quản lý trẻ theo chiều B còn gặp khó khăn do tình trạng
cha mẹ giấu thông tin của con em mình:
“Khi tổng hợp thông tin để theo dõi từ phía bệnh viện tỉnh thì gặp khó khăn vì cha
mẹ muốn giữ kín thông tin, không có địa chỉ của gia đình hoặc bố mẹ cho số điện thoại ảo
không liên lạc được để TTYT có thể hỗ trợ để can thiệp, theo dõi tại cộng đồng” (TLN,
CBYT tuyến huyện, TP. Thái Bình).
Ngoài ra, việc quản lý thông tin trẻ RLTK còn gặp khó khăn đối với những
trẻ được can thiệp ở ngoài hệ thống y tế. Khi đó việc quản lý thông tin trẻ RLTK
rất cần sự phát huy vai trò của mạng lưới NVYTTB theo doi các gia đình đã đưa
con đi can thiệp, nắm được thông tin can thiệp ở đâu, cập nhật vào sổ theo dõi và
báo cáo với trạm y tế, từ đó chuyển thông tin lên tuyến trên.
3.2.2.5. Tính cần thiết của mô hình và sự ủng hộ/cam kết của các bên liên quan
Mặc dù có những khó khăn cần giải quyết, các đối tượng tham gia nghiên
cứu đều có nhận định chung về tính cần thiết triển khai mô hình quản lý RLTK ở
trẻ em trong phạm vi ngành y tế:
“Tự kỷ thì bản chất vẫn là một vấn đề sức khỏe, chìa khóa của vấn đề này là phát
hiện sớm và can thiệp đúng, kịp thời. Nhìn nhận vấn đề như vậy để thấy được vai trò của y
tế, đặc biệt là y tế cơ sở là vô cùng quan trọng” (PVS, lãnh đạo SYT, Thái Bình).
Mô hình quản ly cũng nhận được sự ủng hộ/cam kết của các bên liên quan,
đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách trong ngành y tế. Ngoài ra, kết quả phỏng
vấn sâu chuyên gia cũng cho thấy, một số chính sách cho trẻ RLTK cũng đang
trong quá trình được xây dựng và hoàn thiện:
“Đây là đề tài rất đúng và trúng, hiện nay thế giới người ta đã và đang đi theo
hướng này, tức là đưa về cộng đồng vì đối tượng trẻ tự kỷ hầu hết là ở cộng đồng. Nhiều
112
nghiên cứu đã chứng minh kinh phí của mô hình cộng đồng là rẻ hơn so với điều trị trong
cơ sở điều trị.” (Hội thảo, chuyên gia bảo trợ xã hội).
“Đây là một đề tài rất có ý nghĩa về mặt xã hội. Về phía cơ quan quản lý liên quan
đến vấn đề sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chúng tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Chúng
tôi cam kết sẽ hỗ trợ vấn đề này, bắt đầu bằng việc xây dựng danh mục kỹ thuật chuyên
môn mà trạm y tế sẽ làm mà đc chi trả trong đó có sàng lọc tự kỷ, Hy vọng với văn bản
này, gia đình có trẻ tự kỷ sẽ đỡ khó khăn hơn” (Hội thảo, chuyên gia quản lý y tế).
Tuy nhiên nhiều ý kiến từ phía chuyên gia cũng cho thấy, cần tiếp tục phát
triển mô hình với cách tiếp cận đa ngành, trong đó có sự phối hợp y tế, giáo dục và
an sinh xã hội để phù hợp với các khuyển nghị của quốc tế về quản lý RLTK:
“Mô hình chưa thấy đối tượng gồm nhóm phía giáo dục, tâm lý và CTXH, hầu như
chỉ mới ở nhóm y tế. Tính toàn diện so với nghị quyết A367 của Tổ chức Y tế thế giới đã
đạt chưa? Cần mở rộng mô hình để thể hiện rõ sự phối hợp đa ngành, trong đó cần làm rõ
vai trò giữa giáo dục, y tế và công tác xã hội” (Hội thảo, chuyên gia bảo trợ xã hội).
“Các ngành cần tham gia vào chung trong vấn đề này. Vấn đề tự kỷ của trẻ em thì
là lâu dài, cả đời nên y tế chỉ có thể hỗ trợ ở giai đoạn nào đó, do vậy chúng tôi đánh giá
cao ở đề tài chính ở góc độ can thiệp tại cộng đồng dựa vào y tế cơ sở. Sau đó, cần tiếp
tục có sự kết hợp giữa các đơn vị thì mới đảm bảo tính bền vững.” (Hội thảo, chuyên gia
quản lý y tế).
Với những phân tích ở trên, có thể thấy mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại
cộng đồng được thí điểm tại hai tỉnh Thái Bình và Hòa Bình là phù hợp và khả thi.
Cần tiếp tục áp dụng và nhân rộng mô hình để trước mắt thể hiện ro nét hơn sự vào
cuộc của ngành y tế liên quan đến vấn đề sức khỏe này, và sau đó là sự kết nối, phối
hợp đa ngành giữa y tế, giáo dục và an sinh xã hội.
113
Chương 4. BÀN LUẬN
Luận án là một phần của đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu đặc điểm
dịch tễ học, phương pháp chẩn đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng
đồng” do trường Đại học Y tế công cộng chủ trì, phối hợp với Bệnh viện Nhi trung
ương, Khoa Y Dược – Đại học Quốc Gia, Sở Y tế Hòa Bình và Sở Y tế Thái Bình
triển khai từ năm 2016-2019. Trong bối cảnh RLTK ở trẻ vẫn là một vấn đề mới và
chưa được quản lý một cách chính thức tại Việt Nam, ngành lao động thương binh xã
hội và giáo dục cũng đang nỗ lực xây dựng môi trường chính sách, xã hội nhằm hỗ trợ
người RLTK, đề tài cấp nhà nước này đã thể hiện sự vào cuộc của ngành y tế đối với
vấn đề này.
Nội dung nhánh 4 “Xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng” đã
lựa chọn tỉnh Hòa Bình và Thái Bình là địa bàn thí điểm mô hình; trong đó đối với
tuyến xã và huyện tiến hành thí điểm tại TP. Hòa Bình và huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa
Bình), TP. Thái Bình và huyện Tiền Hải (tỉnh Hòa Bình). Các hoạt động can thiệp bao
gồm truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT
về RLTK; các hoạt động tác động lên hệ thống y tế ở cả ba tuyến xã, huyện và tỉnh (hỗ
trợ trang thiết bị cho phòng can thiệp; cung cấp biểu mẫu, sổ theo dõi; tập huấn cho
CBYT tuyến xã, huyện sử dụng các công cụ sàng lọc RLTK ở trẻ; cử CBYT tuyến tỉnh
tập huấn tại BV Nhi Trung ương….). Luận án là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam
cung cấp bằng chứng về những kết quả đạt được và tính phù hợp, khả thi của mô hình
thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng. Phần dưới đây, một số điểm chính của
nghiên cứu sẽ được bàn luận nhằm khẳng định vị thế của nghiên cứu.
4.1. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về rối
loạn tự kỷ trước can thiệp
4.1.1. Bàn luận về thang đo đo lường kiến thức, thái độ, thực hành của NCST,
GVMN và NVYT về rối loạn tự kỷ
Kết quả tổng quan về các thang đo trên thế giới đã cho thấy, RLTK là một vấn
đề còn nhiều tranh cãi, những hiểu biết về vấn đề này rất khác biệt giữa các quốc gia
114
và phụ thuộc nhiều vào bối cảnh văn hóa. Từ đó, các thang đo đo lường kiến thức, thái
độ, thực hành về RLTK ở trẻ có sự đa dạng về cả nội dung, số lượng câu hỏi và dạng
câu hỏi. Tại Việt Nam, đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên chưa có NC
nào xây dựng và đánh giá thang đó trước khi tiến hành nghiên cứu. Vì thế việc xây
dựng một công cụ đảm bảo chất lượng là điều cần thiết.
Nghiên cứu xây dựng thang đo đánh giá kiến thức cơ bản, thái độ và thực hành
xử trí sớm RLTK ở trẻ em cho các nhóm đối tượng đích (NCST, GVMN và NVYT)
theo ba bước chính : Đầu tiên, dựa trên kết quả tổng quan các thang đo được sử dụng
trong các nghiên cứu trên thế giới, nhóm nghiên cứu xây dựng bộ công cụ chung cho
cả ba đối tượng đích (gồm 42 câu hỏi đánh giá kiến thức, 13 câu đánh giá thái độ và 2
câu đánh giá thực hành) . Điều này được lý giải là do nghiên cứu hướng tới việc đánh
giá kiến thức cơ bản, thái độ và thực hành cơ bản trên các nhóm đối tượng tại cộng
đồng, những người đầu tiên tiếp xúc trực tiếp với trẻ hiện đang có kiến thức rất hạn
chế về vấn đề RLTK [12], [19], [23]. Mặt khác, kết quả tổng quan cũng cho thấy,
không có khuyến cáo đặc biệt về thang đo giữa các đối tượng khác nhau trong cộng
đồng (bao gồm NCST, giáo viên và CBYT không chuyên về RLTK). Do đó, việc xây
dựng thang đo chung cho cả ba nhóm đối tượng đích trong nghiên cứu này là phù hợp
với bối cảnh.
Bước tiếp theo, chúng tôi tiến hành đánh giá tính giá về mặt nội dung bằng việc
tham vấn ý kiến chuyên gia và thử nghiệm trên các nhóm đối tượng đích (NCST,
GVMN và NVYT), mục đích là để chỉnh sửa câu từ, bổ sung hoặc loại bỏ một số câu
hỏi cho phù hợp với bối cảnh văn hóa và nền tảng kiến thức của Việt Nam. Điều này
cũng phù hợp với khuyến cáo của các nghiên cứu trên thế giới trong việc lưu y đến yếu
tố bối cảnh khi xây dựng thang đo đo lường kiên thức, thái độ, thực hành về RLTK ở
trẻ em [26], [67], [75], [97].
Cuối cùng, chúng tôi tiến hành kiểm định tính giá trị về mặt cấu trúc (sử dụng
phương pháp phân tích nhân tố chính) và độ tin cậy (sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha)
của thang đo dựa trên kết quả của điều tra ban đầu nhằm đảm bảo bộ câu hỏi sử dụng
để phân tích đạt yêu cầu về mặt chất lượng ở mức chấp nhận được và phù hợp với
nguồn kinh phí của đề tài.
115
Kết quả kiểm định tính đã cho thấy thang đo kiến thức của cả ba nhóm đối
tượng đều được chia thành 3 nhân tố với hệ số Cronbach’s Alpha của cả thang đo
tương ứng với nhóm NCST, GVMN và NVYT là 0,65; 0,68 và 0,61. Đây là những giá
trị ở mức độ “chấp nhận được” [89], cao hơn một số nghiên cứu tự xây dựng thang đo
dưới dạng câu hỏi Đúng/sai. Ví dụ, trong nghiên cứu khám phá của Pankaj Garg tiến
hành tại New South Wales, Úc (2014) [50], sử dụng thang đo đánh giá kiến thức của
bác sĩ đa khoa gồm 14 câu hỏi đúng/sai, được chia thành 2 nhân tố, giá trị cronbach
alpha chung là 0,47. Hay trong nghiên cứu của Campbell và Barger tại Hoa Kỳ (2010),
đánh giá kiến thức của học sinh cấp hai với thang đo gồm 10 câu hỏi Đúng/Sai cũng có
giá trị cronbach alpha là 0,47 [38]. Tuy nhiên, kết quả này trong nghiên của chúng tôi
lại thấp hơn so với các nghiên cứu mà trong đó sử dụng bộ công cụ đã được chuẩn hóa
trước đó. Ví dụ, nghiên cứu của Abdulhade và cộng sự (2013), sử dụng bộ công cụ
AKQ (Autism Knowledge Questionnaire), gồm 30 câu hỏi nhiều lựa chọn, đánh giá
kiến thức về RLTK của 391 giáo viên giáo dục đặc biệt và phổ thông tại Jeddah, Ả rập
Xê-út, kết quả kiểm định độ nhất quán bên trong (độ tin cậy) cho kết quả giá trị
cronbach alpha bằng 0,926. Tương tự, kết quả kiểm định thang đo KCAHW
(Knowledge about Childhood Autism among Health Worker), gồm 19 câu hỏi thiết kế
dưới dạng Đúng/Sai/Không biết, trong nghiên cứu của Bakare và cộng sự (2008) [34]
và nghiên cứu của Eseigbe và cộng sự (2015) [48] trên nhóm đối tượng là CBYT ở
Nigeria đều cho giá trị cronbach alpha ở mức lớn hơn 0,9. Điều này có thể do mặc dù
nghiên của chúng tôi cũng xuất phát từ những thang đo đã được chuẩn hóa, nhưng các
yếu tố về bối cảnh văn hóa, những nhiễu loạn về thông tin liên quan tới RLTK ở Việt
Nam đã tác động đến kết quả nghiên cứu này.
Sau khi kiểm định tính giá trị về mặt cấu trúc, số lượng câu hỏi trong thang đo
kiến thức đối với nhóm NCST, GVMN và NVYT lần lượt là 13, 15 và 14, đạt ở mức
trung bình, thuận tiện khi tiến hành thu thập số liệu. Mặc dù số lượng câu hỏi khác
nhau, thang đo kiến thức của cả ba nhóm đối tượng đều được chia thành 3 nhân tố,
trong đó có sự trùng lặp nhau ở 10 câu: kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc
rối loạn tự kỷ (5 câu_ nhân tố 1), Kiến thức sai lầm về điều trị trẻ RLTK (3 câu_nhân
tố 3) và can thiệp hiệu quả cho trẻ mắc RLTK (2 câu nằm trong nhân tố 2). Sự khác
116
biệt giữa các thang đo ở một số câu hỏi trong nhân tố Kiến thức cơ bản về RLTK và
cũng phù hợp với vai trò của từng nhóm đối tượng đối với trẻ. Cụ thể, đối với nhóm
NCST, thang đo có sự xuất hiện các phát biểu liên quan đến vai trò và người có thể
phát hiện sớm và sàng lọc sớm rối loạn phát triển và RLTK ở trẻ; đối với nhóm
GVMN có sự xuất hiện các phát biểu về bản chất, đặc điểm trẻ RLTK, cách chẩn
đoán; còn đối với NVYT là các phát biểu về bản chất, cách chẩn đoán và đối tượng có
thể phát hiện sớm dấu hiệu RLTK ở trẻ. Ngoài ra, khi so sánh với các thang đo của các
nghiên cứu trên thế giới, thang đo trong nghiên cứu này có những điểm tương đồng và
khác biệt. Cụ thể, các câu hỏi trong hai nhân tố Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ
trẻ RLTK và Kiến thức cơ bản về RLTK (bản chất, cách chẩn đoán, can thiệp hiệu
quả) xuất hiện hầu hết trong khá nhiều nghiên cứu trên thế giới đó [26], [29], [32],
[45], [82], [96], [115], [123]. Trong khi đó, các câu hỏi trong nhân tố Kiến thức sai
lầm về điều trị RLTK ở trẻ em, rất ít xuất hiện ở các thang đo trên thế giới. Điều này
có thể lý giải do đây là những phát biểu thể hiện sai lầm phổ biến của người dân Việt
Nam, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về bối cảnh văn hóa. Nghiên cứu gần đây của
Xiaojuan Zhang tại Trung Quốc (2018) [123], một quốc gia có nhiều nét tương đồng
về văn hóa với Việt Nam, cũng có hai phát biểu “có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
châm cứu, bấm huyệt”, “có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng cách uống thuốc đông
y” tương tự như nghiên cứu của chúng tôi.
Việc thiết kế thang đo phù hợp với bối cảnh văn hóa của từng quốc gia/khu vực
cũng đã đươc nhấn mạnh và áp dụng trong nhiều nghiên cứu trên thế giới. Như nghiên
cứu của Abeer M. Alharbi và cộng sự (2018) tại Ả-rập Xê-út [26], nghiên cứu của Liu
và cộng sự (2016) tại Trung Quốc [75], đối với câu hỏi tìm hiểu kiến thức của đối
tượng về những cơ sở cung cấp dịch vụ phù hợp cho trẻ RLTK, tác giả đã liệt kê các
dịch vụ sẵn có tại địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu của Rahbar và cộng sự (2010) và
nghiên cứu Imran N. và cộng sự (2010) tại Pakistan đã xây dựng hoặc bổ sung thêm
những câu hỏi liên quan đến những sai lầm thường gặp về RLTK tại quốc gia này [67],
[97].
Tương tự, đối với thang đo đánh giá thái độ, kết quả kiểm định cho thấy thang
đo gồm 1 nhân tố với độ tin cậy (hệ số Cronbach’s Alpha) là 0,76; 0,75 và 0,63 tương
117
ứng với ba nhóm đối tượng NCST, GVMN và NVYT. Những giá trị này cũng ở mức
độ “chấp nhận được” [89], tuy có thấp hơn so với các nghiên cứu sử dụng thang đo sẵn
có, như nghiên cứu của Meungguk và cộng sự (2010) [87] hay nghiên cứu của A.
Alamri và cộng sự (2016) [25], sử dụng thang đo AAST (Autism Attitude Scale for
Teachers) gồm 14 phát biểu, có chỉ số Cronbach’s Alpha trên 0,9. Về nội dung và số
lượng câu hỏi, thang đo thái độ sử dụng trong nghiên cứu này gồm 5-6 câu thể hiện
thái độ hướng tới trẻ mắc RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK, tương tự nhiều nghiên
cứu trên thế giới [26], [82], [97], [123].
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ dùng 1 câu hỏi để đo lường thực hành xử
trí của đối tượng khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK, với mong muốn ở giai đoạn đầu tiên
này, những người tiếp xúc trực tiếp với trẻ trẻ có thể tìm kiếm đúng địa chỉ (cơ sở y tế)
khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK. Kết quả tổng quan cũng cho thấy, có rất ít nghiên cứu tìm
hiểu về thực hành của các nhóm đối tượng không phải là chuyên gia về RLTK. Nghiên
cứu Wang J. và cộng sự [115] và nghiên cứu của Maria Isabel và cộng sự [96] là hai
nghiên cứu tìm được, cùng đánh giá về thực hành liên quan đến việc lựa chọn chuyên
gia khi phát hiện trẻ có dấu hiệu RLTK với 1 câu hỏi duy nhất. Tuy nhiên, nếu trong
tương lai, khi vấn đề RLTK đã được thiết lập một cách rõ ràng, các chỉ số đánh giá
thực hành sâu hơn như trẻ được theo dõi các mốc phát triển, được sàng lọc rối loạn
phát triển/ RLTK: trẻ nghi mắc RLTK được chuyển đúng tuyến, được quản lý… sẽ là
những chỉ số cần được cân nhắc trong các nghiên cứu tiếp theo.
Từ những phân tích, bàn luận trên đây, có thể thấy thang đo đánh giá kiến thức,
thái độ, thực hành của các nhóm đối tượng trong cộng đồng (NCST, GVMN và NVYT
không chuyên về RLTK) trong nghiên cứu này được xây dựng theo phương pháp
tương đối chuẩn; đã cân nhắc đền các yếu tố về mặt bối cảnh, văn hóa và đạt về tính
giá trị và độ tin cậy để có thể sử dụng đo lường.
118
4.1.2. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST về rối loạn tự kỷ trước
can thiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại thời điểm trước can thiệp NCST đã nghe nói
đến RLTK nhưng hiểu biết về RLTK còn hạn chế và tồn tại nhiều kiến thức sai lầm về
RLTK.
Trước hết, đối với kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ (những khiếm khuyết về giao
tiếp và tương tác) nghi ngờ trẻ mắc RLTK tương ứng với các mốc phát triển quan
trọng của trẻ đó là 9 tháng, 12 tháng 16 tháng và 24 tháng, kết quả nghiên cứu đã cho
thấy tỷ lệ trả lời đúng dao động chỉ trong khoảng 40-60%. Kết quả này khá tương đồng
với các nghiên cứu gần đây tại các quốc gia châu Á. Ví dụ, trong nghiên cứu của của
Wang và cộng sự (2012) tiến hành trên 4.947 NCST từ 3-6 tuổi tại Trung Quốc [115],
57,8% NCST (trong số 93,9% đối tượng đã từng nghe tới RLRK, tương đương với
54,3% tính theo cỡ mẫu tổng) biết đến các dấu hiệu của RLTK ở trẻ. Cụ thể biết đến
các dấu hiệu như khiếm khuyết về khả năng giao tiếp, tương tác ngôn ngữ; hạn chế
giao tiếp bằng mắt dao động trong khoảng 35-80%. Tương tự, trong nghiên cứu của
Thurgaa R. và cộng sự (2017) trên 99 NCST chính của hộ gia đình tại Selngor,
Malaysia [82], trong tổng số 78,8% đã từng nghe tới RLTK, tỷ lệ NCST biết tới các
dấu hiệu khiếm khuyết trong giao tiếp ngôn ngữ và tương tác xã hội chiếm 84,6%,
tương đương với 66,7% tính theo cỡ mẫu tổng. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đối tượng
biết đến ít nhất 1 dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK là 82,9%, thấp hơn so với nghiên
cứu Holf J.M. và cộng sự (2013) [62], tiến hành trên 1001 NCST chính trong hộ gia
đình tại bang Utah, Hoa Kỳ, kết quả cho thấy tất cả các đối tượng đều nêu ra được ít
nhất 1 dấu hiệu. Kết quả này cũng khá dễ hiểu, do vấn đề RLTK đã được quản lý và
truyền thông một cách bài bản, toàn diện tại Hoa Kỳ; trong khi đó vẫn còn là một vấn
đề mới tại Việt Nam.
Hiểu về nguyên nhân của RLTK sẽ giúp làm giảm thái độ kỳ thị của cộng đồng
đối với gia đình có trẻ RLTK và thái độ “tự kỳ thị” của chính các gia đình có trẻ
RLTK [33], [93]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã cho thấy NCST đang có những
quan điểm sai lầm về nguyên nhân dẫn đến RLTK ở trẻ, có tới khoảng một nửa đối
tượng vẫn cho rằng trẻ bị tự kỷ là do cha mẹ thiếu kỹ năng chăm sóc hay do xem ti vi
119
nhiều, chiếm tỷ lệ tương ứng là 53,4% và 47,2% và tỷ lệ trả lời đúng các phát biểu này
(không đồng y) tương ứng chỉ là 34,7% và 43.5%. Kết quả này cũng phù hợp với hầu
hết các nghiên cứu đã triển khai tại Việt Nam. Ví dụ, nghiên cứu của Hoàng Bảo
Khánh (2011) trên 206 NCST dưới 3 tuổi tại một phường ở Hà Nội cho kết quả có tới
63% NCST cho rằng trẻ mắc RLTK là do thái độ thiếu quan tâm, chăm sóc của cha mẹ
[12]. Nghiên cứu của Đào Thị Sâm (2013) cho thấy hiểu biết sai lầm về RLTK còn cao
hơn, theo đó tới 70,3% đối tượng nhận thức không đúng về nguyên nhân gây RLTK là
do ma quỷ, mồ mả gia đình bất ổn; môi trường chứa chất độc; chấn thương tâm lý
[18]. Ngày cả nghiên cứu tiến hành trên NCST có con mắc RLTK như nghiên cứu của
Phạm Thị Lan (2016) cũng cho kết quả chỉ có 32% NCST biết về nguyên nhân RLTK
ở trẻ [14]. Đây cũng là thực trạng được đề cập ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới.
Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2012) tại Trung Quốc [115] cho thấy chỉ có 36,9%
trả lời đúng (không đồng ý) với phát biểu “Trẻ mắc RLTK thường ở những gia đình có
nền kinh tế và giáo dục cao”. Ngay cả trong nghiên cứu tại Hoa Kỳ (Holf JM và cộng
sự, 2013) tiến hành trên 1001 NCST chính trong hộ gia đình tại bang Utah [62], tỷ lệ
đối tượng trả lời “không biết” trong câu hỏi về nguyên nhân của RLTK cũng chiếm tới
45,7%. Sai lầm của NCST về nguyên nhân của RLTK cũng được đề cập đến trong một
số nghiên cứu áp dụng phương pháp định tính, như trong nghiên cứu của Joseph K.
Gona và cộng sự (2015) tại Kenya, NCST cho rằng nguyên nhân RLTK ở trẻ là do
những năng lực siêu nhiên (phù thủy, linh hồn quỷ dữ hoặc do lời nguyền) [53]; trong
nghiên cứu của Sumayia Preity và cộng sự. (2017) ở Bangladesh thì cho rằng do “y
của Chúa trời” [93]; hay do các yếu tố môi trường, bao gồm phong cách làm cha mẹ,
môi trường gia đình hoặc trường học, được đề cập đến trong nghiên cứu của M. Heys
và các cộng sự (2017) tại Nepal [60].
Mặc dù đa phần (gần 90%) NCST trong nghiên cứu của chúng tôi biết rằng có
biện pháp khoa học có thể cải thiện tình trạng RLTK (can thiệp ngôn ngữ, can thiệp
vận động), vẫn tồn tại nhiều quan điểm sai lầm về khả năng điều trị khỏi RLTK bằng
các biện pháp cổ truyền tại Việt Nam, hay bằng việc uống thuốc Tây y. Tỷ lệ NCST
trả lời đúng các phát biểu trong nhóm nhân tố về kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK
ở trẻ dao động từ 37,8%-48,2%, thấp nhất trong ba nhóm nhân tố của thang đo. Kết
120
quả này cũng tương tự với kết quả nghiên cứu Holf JM và cộng sự (2013) tại Hoa Kỳ,
mặc dù 89,1% biết được rằng có can thiệp giúp cải thiện tình trạng RLTK nhưng có tới
37,3% đối tượng không biết can thiệp đó là gì, do đó không biết sẽ phải đến đâu để có
được sự trợ giúp nếu nghi ngờ trẻ mắc RLTK [62]. Hay trong nghiên cứu được công
bố gần đây nhất của Abeer M. Albarbi và cộng sự (2018) tại Ả-rập Xê-út, tỷ lệ biết
đến các can thiệp cho trẻ RLTK chỉ đạt mức 55,0% [26].
Kết quả nghiên cứu về thái độ cho thấy NCST có thái độ tích cực với các can
thiệp cho trẻ RLTK, đa số (70%) đồng ý rằng tự kỷ có thể cải thiện được thông qua
các can thiệp. Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu tiến hành trên nhóm
NCST nói chung, nhưng tích cực hơn nhiều so với các nghiên cứu trên nhóm NCST có
con bị RLTK. Ví dụ, nghiên cứu của Wang và cộng sự (2012) trên nhóm NCST nói
chung cho thấy 84,6% tin vào hiệu quả của các can thiệp cho trẻ RLTK và trả lời rằng
họ sẽ chủ động tìm kiếm chuyên gia y tế nếu con của họ có biểu hiện RLTK [115].
Trong khi ở một số nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam trên nhóm NCST có con bị
RLTK, đa phần NCST có cảm giác “chán nản” và “tuyệt vọng” với sự tiến triển của
con mình [18], [56], [57].
Kết quả nghiên cứu về thái độ với trẻ RLTK cho thấy NCST thể hiện thái độ
tích cực và không đồng ý với các nhận định kỳ thị trẻ RLTK (với tỷ lệ khoảng 70%).
Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Thurgaa R. và cộng sự (2017), tỷ lệ
đồng ý với nhận định “Người RLTK không gây nguy hiểm cho người khác”, “Sẵn
sàng làm việc với người RLTK” tương ứng là 85,9% và 62,9% [82].
Về thực hành, kết quả nghiên cứu cho thấy, 78,0% NCST nghi ngờ trẻ mắc
RLTK đã khuyên gia đình đưa đứa trẻ đó đi khám bác sỹ. Kết quả này đã cho thấy
NCST nhận định được đúng vai trò của y tế trong việc chẩn đoán và can thiệp cho trẻ
RLTK. Tuy nhiên nghiên cứu vẫn chưa đi sâu tìm hiểu về loại dịch vụ y tế nào NCST
đã chỉ dẫn và chúng tôi cũng chưa tìm được nghiên cứu tương tự trên thế giới hay Việt
Nam nên chưa đưa ra được bàn luận về kết quả này.
Nhìn tổng thể, có thể thấy kiến thức của NCST đang còn hạn chế nhưng thái độ
và thực hành xử trí trẻ mắc RLTK lại khá tốt, khác với lý thuyết thay đổi hành vi thông
121
thường: kiến thức tác động đến thái độ và từ đó ảnh hưởng tới hành vi. Điều này có thể
được lý giải bởi chính phức tạp về bản chất của RLTK cộng với tác động của các yếu
tố thuộc văn hóa, xã hội tại Việt Nam như: sự nhiễu loạn về thông tin; tính nhân văn
đối với trẻ em nói chung, đặc biệt với trẻ em có khiếm khuyết (thường được nhắc tới là
“những đứa trẻ không may mắn”); và tính “cộng đồng” trong lối sống của người dân
(thường xuyên nhắc nhở/ khuyên bảo khi cảm thấy có băn khoăn)… Tất cả những yếu
tố đó có thể đã làm cho cộng đồng nói chung và NCST nói riêng mặc dù đã nghe đến
hội chứng tự kỷ, thậm chí lạm dụng từ “tự kỷ” trong giao tiếp hàng ngày, nhưng lại
thiếu hiểu biết và có nhiều kiến thức sai lầm. Nhưng khi nhìn nhận trẻ mắc RLTK thì
vẫn có thái độ nhân văn và khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK (mặc dù có thể không chính
xác, do thiếu kiến thức), với thái độ “nhân văn” đó, khuyên bảo gia đình trẻ đưa trẻ đi
khám bác sỹ. Từ đó, có thể thấy, việc nâng cao kiến thức, xóa bỏ sai lầm về RLTK là
vấn đề cần được nhấn mạnh khi xây dựng chương trình truyền thông.
4.1.3. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của GVMN rối loạn tự kỷ trước
can thiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức của GVMN về RLTK ở trẻ ở mức độ
“chấp nhận được” với điểm điểm trung bình kiến thức đạt 22,09 (SD = 4,24, min=12,
max=30) trong tổng số điểm tối đa là 30, tương đương 73,4% tổng số điểm của thang
đo. Kết quả các nghiên cứu gần đây được tiến hành tại các quốc gia đang phát triển
cũng cho kết quả tương tự: mặc dù được đo lường bằng các bộ công cụ khác nhau,
kiến thức của NCST thường đạt ở mức độ 60-70% tổng số điểm. Ví dụ nghiên cứu của
Abdulhade và cộng sự (2013) trên 391 giáo viên giáo dục đặc biệt và phổ thông tại
Jeddah, Ả rập Xê-út [64], tỷ lệ trả lời đúng câu hỏi dao động từ 50-70%; hay nghiên
cứu của Liu và cộng sự (2016) trên 471 GVMN tại Trung Quốc [75], điểm trung bình
kiến thức chung đạt 67,78% trong tổng số 32 điểm của cả thang đo.
Tuy nhiên, xét về từng nội dung cụ thể, kết quả nghiên cứu có sự khác biệt.
Trong khi các nghiên cứu trên thế giới cho thấy kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ
RLTK của GVMN được đánh giá là cao nhất trong các nội dung, thì trong nghiên cứu
này đây lại là nhóm kiến thức đối tượng đang hạn chế nhất. Ví dụ, nghiên cứu của Arif
Muhammad và cộng sự (2013) trên 170 giáo viên tiểu học (cả tư thục và công lập) ở
122
Karachi, Pakistan [29] cho thấy, tỷ lệ đối tượng trả lời đúng các câu hỏi về dấu hiệu
của trẻ RLTK nằm trong khoảng 50-80%, trong đó đứng đầu là dấu hiệu “giảm giao
tiếp bằng mắt với người khác” (68% và 81%), tiếp theo là “giảm sự tập trung/chú y”
(69% và 68%), “không tương tác xã hội” (55% và 67%) và “hạn chế kĩ năng giao tiếp
và không thể diễn tả bản thân” (53% và 75,3%), giá trị tương ứng giữa trường tư thục
và công lập. Hay nghiên cứu của Abdulade và cs (2013) ở Ả Rập Xê út [64], tỷ lệ đối
tượng nhận biết được các dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK cũng nằm trong khoảng 50%-
70% [29]. Tương tự, nghiên cứu của Liu và cộng sự (2016) trên 471 GVMN tại Trung
Quốc [75] cho thấy điểm trung bình đối với kiến thức về các mốc phát triển của trẻ là
9,49 (trong tổng số 14 điểm, tương đương khoảng 70%). Trong khi đó, tỷ lệ tương ứng
của nghiên cứu này nằm trong khoảng 35-50%.
Ngược lại, nếu như trong nghiên cứu này, tỷ lệ GVMN trả lời đúng các câu hỏi
về bản chất của RLTK như “Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc, ảnh hưởng đến sự
kiểm soát cảm xúc của trẻ”, “Tự kỷ là một dạng rối loạn về giao tiếp, ảnh hưởng đến
khả năng giao tiếp/tương tác xã hội của trẻ”, hay cách chẩn đoán trẻ mắc RLTK: “Có
thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với NCST về các mốc phát triển kết hợp với
quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ” ở mức cao: khoảng 90%, thì đối với các câu hỏi
này ở các nghiên cứu trên thế giới tỷ lệ GVMN trả lời đúng thấp hơn nhiều. Ví dụ
trong nghiên cứu của Abdulhade và cộng sự (2013) tại Jeddah, Ả rập Xê-út [64],
69,1% đối tượng trả lời đúng với phát biểu về chẩn đoán RLTK qua việc quan sát hành
vi của trẻ. Hay trong nghiên cứu của Arif Muhammad và cộng sự (2013) ở Karachi,
Pakistan, những phát biểu về bản chất của bệnh có tỷ lệ trả lời đúng thấp, từ 20-30%.
Kết quả về những sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ ở nhóm GVMN của nghiên
cứu này khá tương đồng với các nghiên cứu trên thế giới, như nghiên cứu của Liu và
cộng sự (2016) tại Trung Quốc cho thấy có đến hơn 90% đối tượng nghĩ rằng “RLTK
là có thể chữa khỏi hoàn toàn” nếu được chẩn đoán và có can thiệp phù hợp, hơn 70%
cho rằng thay đổi chế độ ăn có thể làm thay đổi kết quả điều trị [75]. Hay trong nghiên
cứu của Abdulhade và cộng sự (2013) tại Jeddah, Ả rập Xê-út, 51,9% cho rằng “điều
trị bằng thuốc (tây) có thể làm hết những triệu chứng cốt lõi của RLTK” [64].
123
Về thái độ đối với trẻ RLTK, nghiên cứu này cho thấy GVMN có thái độ khá
tích cực với các can thiệp cho trẻ RLTK với khoảng 90% nhận định can thiệp mang lại
lợi ích cho trẻ và tình trạng của trẻ có thể cải thiện được. Kết quả này cũng tương đồng
kết quả trong nghiên cứu của Meungguk và cộng sự (2010) tại Hoa Kỳ, các giáo viên
đều đồng ý rằng, trẻ RLTK có thể học tập được nếu có một giáo viên tốt, sẵn sàng
nhận trẻ tự kỷ vào lớp học của mình…[87]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại cho thấy
GVMN chưa sẵn sàng để nhận trẻ RLTK vào lớp học bình thường, điều này thể hiện ở
tỷ lệ đồng ý với các phát biểu như “TTK đều bị thiểu năng trí tuệ”, “TTK luôn gây rắc
rối cho trẻ chơi cùng” và “TTK cần được học tại các trường/lớp chuyên biệt” khá
cao, tương ứng là 36,2%; 42,8% và 65,5%. Kết quả này tương đương với nghiên cứu
tại Ả Rập Xê Út (một quốc gia Châu Á), nhưng lại cao hơn nhiều so với nghiên cứu tại
Hoa Kỳ (quốc gia phát triển) trong một báo cáo gần đây của Abdulrahman Alamri và
cộng sự (2016) so sánh thái độ của giáo viên giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Ả rập Xê út.
Theo đó, giáo viên ở Hoa Kỳ có thái độ tích cực hơn giáo viên ở Ả rập Saudi, thể hiện
ở việc không đồng ý với các quan điểm tiêu cực như: trẻ RLTK cần được học tập ở
trường chuyên biệt (điểm trung bình 1,74 và 3,21); trường học thông thường là quá
khó đối với trẻ RLTK (điểm trung bình 1,71 và 2,61), nếu cho lựa chọn sẽ dạy ở
trường không có trẻ RLTK (điểm trung bình 1,79 và 2,31) [25].
Kết quả thực hành xử trí khi nghi ngở trẻ RLTK của GVMN cho thấy 69,4% đã
khuyên cha mẹ/NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ, 25,0% tư vấn cho NCST cách chăm sóc
trẻ tại nhà và 23,1% đưa tài liệu cho NCST; chỉ có 7% NCST không làm gì (do không
biết hoặc không chắc chắn phải làm gì). Kết quả này cho thấy GVMN đã biết đến dịch
vụ y tế là nơi đầu tiên NCST cần đưa trẻ đến để kiếm tra và cũng đã tích cực trong
việc tư vấn và tìm kiếm tài liệu cho NCST. Khi so sánh với nghiên cứu của Vũ Văn
Thuấn (2013) trên 116 GVMN tại 5 trường tại Hà Nội, tỷ lệ lựa chọn cách xử trí
“khuyên cha mẹ/NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ” của nghiên cứu này là thấp hơn. khi
100% đối tượng nghiên cứu của Vũ Văn Thuấn đều chọn cách xử trí này [19].
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy GVMN có kiến thức chung ở mức độ
“chấp nhận được”, tuy nhiên kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK còn kém.
GVMN có thái độ tích với các can thiệp cho trẻ nhưng chưa sẵn sàng nhận trẻ vào lớp
124
học bình thường. GVMN đã có xử trí tương đối tích cực khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK,
tuy nhiên vẫn còn hạn chế. Nhìn nhận những kết quả này với vai trò của GVMN trong
mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ (phối hợp với NCST và NVYT phát hiện sớm dấu
hiệu trẻ mắc RLTK) và kỳ vọng của chương trình can thiệp (sẽ là nhóm nòng cốt để
tiếp tục duy trì), có thể thấy, chương trình can thiệp ngoài việc cần nhấn mạnh vào
nâng cao kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK, cần quan tâm đến việc đào kỹ
năng và thực hành sàng lọc rối loạn phát triển cho trẻ nhằm tăng tính chấp nhận của
GVMN về việc có trẻ RLTK trong lớp học bình thường và xử trí tốt hơn khi gặp các
trường hợp nghi ngờ mắc RLTK.
4.1.4. Bàn luận về kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT về rối loạn tự kỷ trước
can thiệp
NVYT trong nghiên cứu này, mặc dù ở các tuyến khác nhau, nhưng đều là
những CBYT không chuyên về vấn đề RLTK ở trẻ em. Do đó, mặc dù là đối tượng đã
có chuyên môn về sức khỏe, kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng thiếu kiến thức về
RLTK ở nhóm đối tượng này, thậm chí trong nhiều kết quả nghiên cứu, NVYT còn có
kiến thức thấp hơn so với hai nhóm đối tượng còn lại (nhóm NCST và GVMN). Ví dụ,
đối với các câu hỏi về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK, tỷ lệ NVYT trả lời
không đúng câu nào trong nhóm chiếm đến 31,3%, trong khi đó tỷ lệ này tương ứng ở
nhóm NCST và GVMN là 17,1 và 30,2%. Đặc biệt không có NVYT nào trả lời đúng 4
phát biểu trở lên (trong khi nhóm NCST và GVMN tỷ lệ tương ứng là 30,6 và 28,6%).
Kết quả này cho thấy một thách thức lớn cho chương trình truyền thông nâng cao nhận
thức về RLTK tại cộng đồng trong tương lai.
So sánh kết quả đánh giá kiến thức của NVYT về RLTK trong nghiên cứu này
với các nghiên cứu tương tự trên thế giới, chúng tôi nhận thấy bên cạnh một số kết quả
khá tương đồng, cũng có một số khác biệt. Xét về kiến thức chung, kết quả nghiên cứu
này cho thấy NVYT có điểm trung bình đạt 20,47 trong tổng số 28 điểm (tương
đương 73,1%). Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên cứu Monday N. Igwe và
cộng sự (2011 [65] và nghiên cứu của của E. Eseigbe và cộng sự (2015) [48] tại cùng
quốc gia Nigeria, sử dụng cùng thang đo KCAHW, trung bình điểm kiến thức đạt
12,56 và 13,5 điểm trong tổng số 19 điểm (tương đương 66,1 - 71,1%). Tuy nhiên, nếu
125
như trong nghiên cứu của hai nhóm tác giả này [48], [65], kiến thức của NVYT về đặc
điểm trẻ RLTK (khiếm khuyết trong tương tác xã hội và trong ngôn ngữ - giao tiếp)
đạt mức cao hơn (trên 70%) so với kiến thức về hành vi của trẻ RLTK và kiến thức về
đặc điểm bệnh học (mức độ, khởi phát, tình trạng mắc kèm) (dưới 50%), thì trong
nghiên cứu này, kiến thức về các dấu hiệu mắc RLTK lại thấp (từ 39-57%) hơn so với
kiến thức về đặc điểm và cách chẩn đoán RLTK (trên 90%).
Liên quan đến kiến thức về sai lầm trong điều trị trẻ mắc RLTK, kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ NVYT cho rằng hoặc trả lời là không biết đối với phát biểu “có thể
điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ” bằng các biện pháp như châm cứu, bấm huyệt, uống thuốc
đông y, tây y chiếm 42,7% - 65.7%, tương đồng với một số nghiên cứu trên thế giới,
như nghiên cứu của Xiaojuan Zhang và cộng sự (2018) tại Trung Quốc [123] cho thấy
có đến gần 70% CBYT khoa nhi cho rằng “RLTK có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu
được chẩn đoán sớm và can thiệp phù hợp”; hay nghiên cứu của Imran N. và cộng sự
(2011) tại Pakistan [67], NVYT cũng có quan điểm sai lầm về điều trị RLTK, khi
64,4% cho rằng “liệu pháp chế độ ăn là một trong những biện pháp trị liệu RLTK”.
Về thái độ, mặc dù đa số (75%) NVYT không/rất không đồng ý với phát biểu
“TTK thường có hành vi gây hại đến người xung quanh”, vẫn có 38% nghĩ rằng “trẻ
RLTK luôn gây rắc rối cho những trẻ chơi cùng”, khoảng 50% cho rằng “trẻ RLTK
đều bị thiểu năng trí tuệ”, và khoảng 65% đồng ý với phát biểu “trẻ tự kỷ cần được học
tại trường lớp chuyên biệt”. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu M. H. Rahbar, K.
Ibrahim và P. Assassi (2011) tại Pakistan: khoảng 80% bác sỹ đa khoa cho rằng trẻ
RLTK nên được giáo dục ở trường đặc biệt [97].
Tỷ lệ NVYT đã từng nghi ngờ trẻ mắc RLTK là 38,2%, thấp hơn so với nhóm
NCST (51,8%) và GVMN (59,3%). Kết quả này có thể được lý giải do NCST và
GVMN có tần suất tiếp xúc với trẻ nhiều hơn so với NVYT. Độ tuổi trung bình của trẻ
khi bị các nhóm đối tượng NCST. GVMN và NVYT nghi ngờ mắc RLTK là 23 tháng,
28 tháng và 25 tháng. Mặc dù chưa đủ để đưa ra kết luận, các số liệu này có thể gợi ý
về việc NCST là nhóm đối tượng phát hiện những dấu hiệu nghi ngờ RLTK ở trẻ sớm
nhất, do mối quan tâm của họ đối với các vấn đề liên quan đến con em mình. Tỷ lệ
NVYT lựa chọn cách xử trí “khuyên cha mẹ/NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ” là 86,4%,
126
cao nhất trong ba nhóm đối tượng đích (tỷ lệ tương ứng ở NCST là 78%; GVMN là
69,4%). Kết quả này cho thấy NVYT đã rất tích cực và chủ động trong việc xử trí trẻ
nghi mắc RLTK và hoàn toàn phù hợp với vai trò chuyên môn của họ.
Như vậy, trước thời điểm can thiệp, NVYT mặc dù là nhóm có chuyên môn về
vấn đề sức khỏe nhưng kiến thức vẫn còn kém, thậm chí thấp hơn so với hai nhóm
NCST và GVMN (đặc biệt ở nhóm kiến thức quan trọng nhất: dấu hiệu nghi ngờ trẻ
mắc RLTK). Điều này có thể là do NVYT chưa đặt mối quan tâm vào vấn đề này,
trong khi đó NCST và GVMN lại là hai đối tượng hàng ngày tiếp xúc, chăm sóc và
giáo dục trẻ nên mối quan tâm của họ đến các vấn đề liên quan đến trẻ em nhiều hơn.
Tuy nhiên, vì là nhóm có chuyên môn về y tế, NVYT có tỷ lệ xử trí đúng khi nghi ngờ
trẻ mắc RLTK cao nhất trong ba nhóm. Cùng với kết quả nghiên cứu về thái độ tích
cực của NVYT về các can thiệp cho trẻ RLTK đã cho thấy NVYT đã nhìn nhận RLTK
là một vấn đề sức khỏe, cần và có thể giải quyết được bởi chuyên ngành y tế.
Tương tự đối với nhóm GVMN, nếu nhìn nhận các kết quả trên với vai trò của
NVYT trong mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ và kỳ vọng của chương trình can
thiệp (là nhóm nòng cốt trong mọi hoạt động của mô hình trong cả giai đoạn thí điểm
và duy trì), có thế thấy bên cạnh những thách thức rất lớn trong việc làm thế nào để
nâng cao năng lực của NVYT giúp họ có thể đảm nhận vai trò của mình, chương trình
can thiệp cũng có những thuận lợi nhất định do tính sẵn sàng của nhóm này trong giải
quyết vấn đề RLTK ở trẻ em.
4.2. Bàn luận về sự thay đổi về kiến thức, thái độ, thực hành của NCST. GVMN
và NVYT về rối loạn tự kỷ sau can thiệp
4.2.1. Bàn luận về sự thay đổi kiến thức của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn
tự kỷ sau can thiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại thời điểm SCT, cả ba nhóm đối tượng đích
(NCST, GVMN và NVYT) đều có sự cải thiện đáng kể về kiến thức liên quan đến các
dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK so với thời điểm TCT với mức tăng từ 10-
30%. Cụ thể, nếu như tại thời điểm TCT tỷ lệ trả lời đúng về các dấu hiệu nghi ngờ trẻ
mắc RLTK ở các mốc quan trọng như thời điểm trẻ 12 tháng, 16 tháng và 24 tháng chỉ
127
khoảng 40-45% đối với NCST, 35-40% đối với GVMN và 40-50% đối với NVYT thì
tại thời điểm SCT tỷ lệ này đã tăng lên tương ứng với các nhóm là 55-65%; 55-60% và
70-80% và sự thay đổi này đều có y nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này được khẳng
định một lần nữa khi so sánh điểm trung vị kiến thức biến tổng hợp “Kiến thức về dấu
hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK” của các nhóm đối tượng đích trước và sau can thiệp. Đối
với nhóm NCST, điểm trung vị đã tăng lên từ 5 điểm lên 8 điểm (p<0,05); đối với
nhóm GVMN tăng lên từ 5 lên 6 điểm (p<0,001) và đối với nhóm NVYT tăng lên từ 6
lên 8 điểm (p<0,001). Đây chính là chỉ báo quan trọng đầu tiên phản ánh kết quả của
chương trình can thiệp truyền thông. Kết quả này có thể nói là khá khả quan khi so
sánh với kết quả của một số chương trình truyền thông về RLTK tại cộng đồng trên thế
giới. Ví dụ, nghiên cứu của Patel và cộng sự tại Hoa Kỳ (2007) [88] khi phân tích cơ
sở dữ liệu của hai cuộc điều tra cắt ngang nhằm đánh giá chương trình truyền thông
“Nhận biết dấu hiêu, Hành động sớm” trên nhóm đối tượng là cha mẹ có con dưới 4
tuổi: vào năm 2004 là thời điểm trước khi triển khai Chiến dịch (cỡ mẫu 4.345) và năm
2006 (cỡ mẫu 5.251), kết quả cho thấy, sau hai năm can thiệp tỷ lệ đối tượng biết về
dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK đã tăng từ 36,1% lên 44,7% (p=0,010). Nghiên cứu
tiếp theo của K. L. Daniel và cộng sự (2009) [44] cũng đánh giá chương trình này sau
3 năm can thiệp (năm 2007 so với năm 2004) cho thấy, tỷ lệ cha mẹ có kiến thức về
các dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK tăng lên từ 36% lên 52% (p <0,05) và ở nhóm
CBYT tăng từ 74% lên 87% (p<0,05). Điều này có thể giải thích do sự khác biệt về
quy mô và kênh truyền thông của chương trình can thiệp. Đối với can thiệp ở quy mô
quốc gia sử dụng kênh truyền thông đại chúng (truyền hình, truyền thanh, trang web,
video clip…) như chiến dịch truyền thông Nhận biết dấu hiệu – hành động sớm, khả
năng tiếp cận của đối tượng đích đến các hoạt động của chương trình có thể là hạn chế
hơn so với can thiệp được triển khai ở quy mô nhỏ, kết hợp cả hình thức truyền thông
đại chúng (banner, áp phích và loa phát thanh) và truyền thông nhóm/cá nhân (phát tận
tay tờ rơi, sách mỏng đối tượng đích, trò chuyện trực tiếp, thảo luận nhóm và tập
huấn…) như nghiên cứu can thiệp của chúng tôi. Lý giải này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu về tỷ lệ tiếp cận với chương trình truyền thông: đối với chương trình
“Nhận biết dấu hiệu – hành động sớm”, tỷ lệ cha mẹ và CBYT nghe nói về chiến dịch
128
là của là 34% và 43% [44]; trong khi đó đối với nghiên cứu này, tỷ lệ là 78,8%, 87,1%
và 92,9% tương ứng với nhóm NCST, GVMN và NVYT.
Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới đã cho thấy thực trạng trẻ mắc
RLTK được chẩn đoán và điều trị muộn [8], [113]. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng này là do nhận thức sai lầm của NCST về nơi cung cấp dịch vụ y tế và khả
năng chữa trị cho trẻ RLTK [12], [14], [62]. Nghiên cứu của Phạm Thị Lan (2016) tiến
hành trên đối tượng là cha mẹ có con bị RLTK cho thấy cha mẹ tìm kiếm đến các dịch
vụ như phòng khám đông y, châm cứu bấm huyệt và nghĩ rằng trẻ có thể được chữa
khỏi hoàn toàn khi được điều trị theo những cách này [14]. Tương tự, kết quả nghiên
cứu của Holf J.M. và cộng sự (2013) [62], tiến hành trên 1001 NCST chính trong hộ
gia đình tại bang Utah, Hoa Kỳ cũng cho thấy mặc dù 89,1% đối tượng cho rằng có
can thiệp giúp cải thiện tình trạng RLTK, có tới 37,3% đối tượng không biết can thiệp
đó là gì. Khi được hỏi nếu nghi ngở một đứa trẻ RLTK thì đứa trẻ nên đến đâu để có
được sự trợ giúp, vẫn có 24,9% đối tượng trả lời không đúng về cơ sở phù hợp và
14,6% trả lời là không biết [62].
Kết quả của điều tra ban đầu trước khi xây dựng và áp dụng thí điểm mô hình
RLTK ở trẻ tại cộng đồng của nghiên cứu can thiệp này cũng cho thấy, cả ba nhóm đối
tượng (NCST, GVMN và NVYT) đều có kiến thức sai lầm về khả năng điều trị cho trẻ
RLTK, từ đó đã khuyến nghị chương trình can thiệp đưa nội dung loại bỏ những sai
lầm về điều trị cho trẻ RLTK là một trong những nội dung quan trọng của chương
trình truyền thông. Kết quả của nghiên cứu này đã cho thấy, tại thời điểm SCT, cả ba
nhóm đối tượng đích của chương trình truyền thông (NCST, GVMN và NVYT) đều có
sự cải thiện về kiến thức liên quan đến những sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ so với
thời điểm TCT với mức tăng từ 10-40%. Cụ thể, nếu như tại thời điểm TCT tỷ lệ
NCST có nhận thức đúng về việc không thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng các biện
pháp như thuốc tây y, châm cứu, bấm huyệt hay bằng thuốc đông y chỉ khoảng 40-
50% thì ở thời điểm SCT tỷ lệ này đã tăng lên 50-60%. Tương tự, đối với GVMN là
30-50% tại thời điểm TCT tăng lên 60-70% tại thời điểm SCT và đối với NVYT là 35-
55% tại thời điểm TCT tăng lên 65-85% tại thời điểm SCT. Kết quả này được khẳng
định một lần nữa khi so sánh điểm trung vị kiến thức biến tổng hợp “Kiến thức sai lầm
129
về điều trị RLTK ở trẻ” của các nhóm đối tượng đích trước và sau can thiệp. Những
kết quả này đã cung cấp thêm bằng chứng chứng minh hiệu quả của việc áp dụng cách
tiếp cận giáo dục sức khỏe và truyền thông nâng cao kiến thức của chương trình can
thiệp truyền thông đầu tiên tại Việt Nam về về RLTK ở trẻ em.
Đối với các nội dung kiến thức liên quan tới cách chẩn đoán, can thiệp hiệu quả
và vai trò của NCST và GVMN trong việc phát hiện dấu hiệu sớm bất thường ở trẻ,
kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đối tượng trả lời đúng tại thời điểm SCT cao hơn so
với TCT, tuy nhiên sự khác biệt không có y nghĩa thống kê (p>0,05). Đây cũng chính
là những nội dung mà NCST, GVMN và NVYT đã có kiến thức khá tốt tại thời điểm
TCT (ít nhất 75% trả lời đúng câu hỏi) và các tài liệu truyền thông cũng chưa thực sự
nhấn mạnh, có thể do đó không có sự thay đổi rõ rệt tại thời điểm SCT.
Kết quả phân tích tác động của chương trình can thiệp lên kiến thức của các
nhóm đối tượng đích bằng phương pháp phân tích điểm xu hướng (PSM) cho thấy can
thiệp đã làm tăng kiến thức chung của cả ba nhóm đối tượng, trong đó cao nhất ở
nhóm NVYT (tăng 2,53 điểm so với TCT), tiếp theo là nhóm GVMN (tăng 2,17 điểm
so với TCT) và thấp nhất là nhóm NCST (tăng 1,35 điểm so với TCT). Điều này có thể
dễ dàng lý giải bởi tần suất và mức độ tiếp cận với các hoạt động can thiệp của NVYT
và GVMN cao hơn so với nhóm NCST – điều này đã được cân nhắc trong giai đoạn
xây dựng chiến lược tiếp cận truyền thông và lập kế hoạch can thiệp. Theo đó, nhóm
NVYT và GVMN được xác định sẽ là “nhóm nòng cốt” tiếp tục triển khai và nhân
rộng hoạt động truyền thông tại cộng đồng (cách tiếp cận trao quyền) nên ngoài việc
được tiếp xúc với các sản phẩm truyền thông như nhóm NCST (banner, áp phích, tờ
rơi, loa phát thanh) hai nhóm đối tượng này còn được nhận sách mỏng, xem video clip
hướng dẫn và tham gia các khóa đào tạo phù hợp với chức năng nhiệm vụ trong mô
hình. Thêm vào đó, các sản phẩm truyền thông như banner và áp phích cũng được treo
tại các cơ sở y tế và trường mầm non, do đó tần suất tiếp xúc của NVYT và GVMN
cũng cao hơn so với NCST. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu
về tỷ lệ tiếp cận ít nhất một sản phẩm truyền thông của các nhóm đối tượng đích (theo
thứ tự NVYT, GVMN và NCST: 92,9%; 87,1% và 78,8%). Ngoài ra, một trong những
yếu tố có thể dẫn đến việc kiến thức của NVYT, GVMN được nâng cao hơn so với
130
nhóm NCST là do nền tảng về trình độ văn hóa và chuyên môn của hai nhóm này cao
hơn so với nhóm NCST.
Các kết quả nghiên cứu trên cùng với kết quả rất tích cực khi so sánh điểm
trung vị kiến thức chung về RLTK ở trẻ trên từng nhóm đối tượng tại thời điểm trước
và sau can thiệp, một lần nữa có thể khẳng định hiệu quả nâng cao kiến thức về RLTK
ở trẻ của chương trình can thiệp tại Hòa Bình và Thái Bình.
4.2.2. Bàn luận về sự thay đổi thái độ của NCST, GVMN và NVYT về rối loạn tự
kỷ sau can thiệp
Tại thời điểm TCT, NCST có thái độ tương đối tích cực với các can thiệp cho
trẻ RLTK và không có thái độ kỳ thị hay phân biệt đối với trẻ mắc RLTK. Do đó, mặc
dù tại thời điểm SCT, điểm trung vị thái độ chung về RLTK của NCST cao hơn so với
TCT nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu này cũng
tương đồng với hầu hết các nghiên cứu về thái độ của NCST trên thế giới và Việt Nam
trong những năm gần đây. Ví dụ, nghiên cứu của Thurgaa R. và cộng sự (2017) cho
thấy 94,9% đối tượng có thái độ tích cực đối với trẻ RLTK: đồng ý với các nhận định
như trẻ mắc RLTK không gây nguy hiểm cho người khác, không gây rắc rối cho trẻ
chơi cùng, sẵn sàng cho con chơi với trẻ RLTK [82]. Hay trong nghiên cứu gần đây
của Nguyễn Hoàng Phương và cộng sự (2018) đã cho thấy 65% NCST có thái độ tích
cực đối với RLTK ở trẻ và trẻ mắc RLTK [84]. Kết quả này là dấu hiệu khá tích cực,
có thể tạo thuận lợi cho các hoạt động can thiệp hoặc chính sách hỗ trợ cho trẻ RLTK,
giúp trẻ RLTK có thể hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, cần lưu y rằng, đối tượng
NCST trong nghiên cứu này không phải là những người có con/cháu mắc RLTK, do
đó nghiên cứu không đánh giá thái độ “tự kỳ thị” của nhóm đối tượng này. Kết quả
nghiên cứu định tính về những khó khăn trong quá trình quản lý trẻ RLTK đã ghi nhận
nhiều ý kiến của CBYT về tình trạng NCST giấu và từ chối đưa trẻ nghi mắc RLTK
đến cơ sở y tế để chẩn đoán xác định; thậm chí nhiều trường hợp trẻ đã được chẩn
đoán xác định mắc RLTK, gia đình cũng từ chối can thiệp cho trẻ. Nhiều nghiên cứu
đã lý giải nguyên nhân của tình trạng này, có thể là do NCST không tin con, cháu
mình có thể mắc tự kỷ (thái độ “không chấp nhận”) [12]; do cha mẹ/NCST có cảm
giác “tội lỗi”, “chán nản”, “tuyệt vọng” (thái độ “tự kỳ thị”) và lo sợ con mình bị xã
131
hội xa lánh [18], [56], [57]. Do đó, việc tiếp tục truyền thông để làm giảm sự kỳ thị đối
với trẻ RLTK và “tự kỳ thị” của các gia đình có trẻ mắc RLTK là vô cùng cần thiết.
Điều này cũng phù hợp với các khuyến nghị của các đối tượng tham gia nghiên cứu
định tính: cần có những chương trình truyền thông dành riêng cho nhóm đối tượng cha
mẹ/NCST có con bị mắc RLTK.
Đối với nhóm GVMN, kết quả đánh giá ban đầu cho thấy GVMN có thái độ
tương đối tốt với các can thiệp cho trẻ RLTK, nhưng có thái độ chưa tích cực với trẻ
RLTK: khoảng gần 40% đồng ý với nhận định “TTK đều bị thiểu năng trí tuệ”, “TTK
luôn gây rắc rối cho trẻ chơi cùng”; và 70% GVMN nghĩ rằng “TTK cần được học tại
các trường/lớp chuyên biệt”. Kết quả đánh giá tại thời điểm SCT đã cho thấy có sự
thay đổi tích cực của GVMN đối phát biểu “TTK luôn gây rắc rối cho trẻ chơi cùng”
(điểm trung vị SCT là 4 tăng 1 điểm so với TCT). Điều này cho thấy, GVMN đã có
cách nhìn nhận “thiện cảm hơn” đối với trẻ RLTK. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy GVMN vẫn đang đồng nhất trẻ RLTK với trẻ bị thiểu năng trí tuệ và do
đó nên được học tại các trường lớp chuyên biệt. Các thông tin thu được từ các cuộc
thảo luận nhóm với GVMN đã giúp chúng tôi lý giải sâu hơn cho kết quả nghiên cứu
này: Bản chất GVMN không hề có “thái độ phân biệt” với trẻ, mà với những trải
nghiệm của họ trong công việc, họ thấy rằng trong bối cảnh lớp học khá đông (từ 40-
50 trẻ), các bé học cùng lớp đa phần chưa biết cách giúp đỡ lẫn nhau, thậm chí có hiện
tượng thấy bạn “lạ” không muốn chơi cùng… thì việc để trẻ RLTK học ở lớp học
chuyên biết sẽ tốt hơn cho trẻ. Khi trao đổi ý kiến này với chuyên gia về RLTK, chúng
tôi cũng nhận được sự đồng tình như vậy: mặc dù trẻ RLTK không hoàn toàn bị thiểu
năng trí tuệ, nhưng những sự khác biệt về hành vi, ngôn ngữ của trẻ, đặt trong bối cảnh
văn hóa, xã hội Việt Nam hiện nay việc mong đợi trẻ có thể hòa nhập hoàn toàn vào
các lớp học bình thường là khó có thể đạt được. Vì thế, việc được học ở các lớp
chuyên biệt có thể là giải pháp tốt hơn cho trẻ trong thời gian này. Từ những phân tích
đó, kết quả đánh giá sự thay đổi thái độ của GVMN cho thấy tại thời điểm SCT không
khác biệt có y nghĩa thống kê so với thời điểm TCT (21 điểm so với 20 điểm, p>0,05)
cần được nhìn nhận một cách thận trọng.
132
Đối với NVYT, kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy đối tượng có thái độ
tương đối tích cực với các can thiệp cho trẻ RLTK và không có thái độ kỳ thị với trẻ
RLTK. Và tương tự như nhóm GVMN, 60% NVYT cũng đồng ý với nhận định “trẻ
RLTK cần được học các trường lớp chuyên biệt” vì nghĩ rằng việc được học tại các
trường lớp chuyên biệt sẽ giúp trẻ đỡ bị cô lập hơn, tại đó có các thầy cô giáo được
đào tạo về giáo dục đặc biệt sẽ giúp trẻ cải thiện các hội chứng của RLTK tốt hơn . Kết
quả này khá tương đồng với nghiên cứu của Rahbar và cộng sự (2011) tại Karachi –
Pakistan, có tới 80% CBYT cho rằng trẻ RLTK nên được giáo dục ở trường đặc biệt;
và hơn 60% cho rằng trẻ RLTK đang bị kỳ thị hoặc chịu những ý kiến tiêu cực trong
xã hội [97]. Kết quả đánh giá sau can thiệp đã cho thấy điểm trung vị thái độ chung về
RLTK của NVYT tại thời điểm SCT cao hơn so với thời điểm TCT (17 điểm so với 16
điểm), và sự thay đổi này có y nghĩa thống kê (p<0,001), đặc biệt NVYT đã có thái độ
tích cực hơn đối với trẻ tự kỷ, tỷ lệ không đồng ý với phát biểu “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ
đều bị thiểu năng trí tuệ” và “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho những trẻ
chơi cùng” cao hơn so với thời điểm TCT (p<0,001). Những kết quả này là rất khả
quan, thể hiện NVYT đã có kiến thức tốt hơn về bản chất của RLTK, đặc điểm trẻ tự
kỷ, từ đó có cái nhìn thiện cảm hơn về trẻ RLTK. NVYT có thái độ tích cực hơn về trẻ
RLTK và can thiệp cho trẻ có thể sẽ quan tâm đến trẻ RLTK và gia đình của trẻ hơn,
và cũng có thể là người động viên gia đình có trẻ mắc RLTK tham gia vào mô hình
quản lý.
4.2.3. Bàn luận về sự thay đổi thực hành xử trí sớm khi nghi ngờ trẻ mắc rối loạn
tự kỷ của NCST, GVMN và NVYT sau can thiệp
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ dùng 1 câu hỏi để đo lường thực hành xử
trí của đối tượng khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK, với mong muốn ở giai đoạn đầu tiên
này, những người tiếp xúc trực tiếp với trẻ tìm kiếm đúng địa chỉ (cơ sở y tế) khi nghi
ngờ trẻ mắc RLTK. Do đó, các khía cạnh khác của thực hành như: trẻ được theo dõi
các mốc phát triển, được sàng lọc rối loạn phát triển/ RLTK: trẻ nghi mắc RLTK được
chuyển đúng tuyến, được quản lý trong mô hình… chưa được đánh giá thông qua số
liệu của điều tra cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại thời điểm SCT, đa số đối
tượng (90%) ở cả ba nhóm NCST, GVMN và NVYT đều đã có xử trí đúng nhất khi
133
nghi ngờ trẻ mắc RLTK: “Khuyên NCST đưa trẻ đi khám bác sỹ”. So với thời điểm
TCT, tỷ lệ đối tượng thực hành đúng đã tăng lên và có sự khác biệt có y nghĩa thống
kê đối với hai nhóm NCST và GVMN. Đối với nhóm NVYT, tại thời điểm TCT, đối
tượng đã có thực hành tốt (đạt tỷ lệ 95%) do đó không có sự thay đổi rõ rệt tại thời
điểm SCT. Do không tìm được nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đánh giá về khía
cạnh này, chúng tôi chưa thể đưa ra bàn luận về kết quả của chương trình can thiệp
trong việc thay đổi thực hành xử trí sớm của các nhóm đối tượng về RLTK ở trẻ với
kết quả từ các nghiên cứu tương tự.
4.3. Bàn luận về tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở
trẻ em tại cộng đồng
Tính phù hợp, tính khả thi và khả năng duy trì của chương trình can thiệp sau
khi kết thúc giai đoạn thí điểm/thử nghiệm luôn là mối quan tâm của những người làm
chương trình và của cả cộng đồng được can thiệp. Tuy nhiên, hầu hết các can thiệp y
tế tại Việt Nam đều gặp một vấn đề là khó duy trì tính bền vững sau khi dự án kết
thúc. Với kinh nghiệm của một số dự án, nếu các hoạt động được thực hiện xuất phát
từ nội lực của địa phương thì sẽ làm tăng tính khả thi và khả năng duy trì của chương
trình. Một trong những cách tiếp cận quan trọng mà WHO đã đưa ra để khuyến cáo
các quốc gia khi xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ cũng là “dựa vào cộng đồng”
và “phù hợp với bối cảnh” [118]. Đây cũng chính là hai cách tiếp cận chính mà nhóm
nghiên cứu đã áp dụng khi xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ: mô hình được xây
dựng và vận hành dựa trên nguồn nhân lực và cơ sở vật chất sẵn của hệ thống y tế, do
đó không gây ra những sự thay đổi lớn trong tổ chức và hệ thống; các nhóm cộng đồng
(NCST, GVMN, NVYTTB, CTVDS) được huy động tối đa và nâng cao năng lực để
có thể chủ động tham gia vào mô hình [11]. Đây chính là những điều cốt lõi giúp cho
mô hình quản ly được nhận định là phù hợp, khả thi và có khả năng nhân rộng trên địa
bàn khác.
Tính phù hợp và khả thi của mô hình quản lý RLTK ở trẻ trong nghiên cứu này
được đánh giá trên nhiều khía cạnh, bao gồm tính dễ vận hành, phù hợp với văn hóa,
sự phù hợp của các hoạt động can thiệp đã triển khai; tính khả thi khi triển khai mô
hình trên bốn khía cạnh (nguồn nhân lực; cơ sở vật chất/trang thiết bị; hệ thống quản
134
ly, điều hành và phối hợp; và nguồn tài chính) và sự cần thiết và ủng hộ của các bên
liên quan đối với mô hình quản lý. Kết quả đánh giá cung cấp các thông tin đa chiều
và toàn diện dưới góc độ của cả những người đã trực tiếp tham gia vào vận hành thí
điểm mô hình, những nhà chuyên môn và nhà hoạch định chính sách các cấp. Phần
dưới đây sẽ bàn luận chi tiết hơn về tính phù hợp và khả thi của mô hình theo các khía
cạnh này.
4.3.1. Bàn luận về tính phù hợp của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ
Mô hình được xây dựng và vận hành dựa trên nguồn nhân lực và cơ sở vật chất
sẵn của hệ thống y tế, phù hợp với bối cảnh văn hóa và niềm tin của cộng đồng, không
gây ra những sự thay đổi lớn trong tổ chức và hệ thống. Các nhóm cộng đồng (NCST,
GVMN, NVYTTB, CTVDS) được huy động tối đa và được nâng cao năng lực để có
thể chủ động đảm nhận vai trò đã được mô tả cụ thể trong mô hình. Đây chính là điều
cốt lõi giúp cho mô hình thí điểm được nhận định là phù hợp với bối cảnh hiện tại của
Việt Nam và cũng phù hợp với cách tiếp cận đã được ứng dụng thành công trong việc
quản lý các bệnh không truyền nhiễm [117].
Để triển khai mô hình thí điểm, nhóm nghiên cứu đã đặt trọng tâm và phát triển
hai nhóm hoạt động can thiệp chính, đó là: (1). Chương trình truyền thông nâng cao
kiến thức, thái độ, thực hành của cộng đồng về nhận biết sớm, chẩn đoán sớm, can
thiệp sớm và quản lý RLTK ở trẻ và (2). Các hoạt động tác động lên cơ sở vật chất,
quy trình quản lý trong hệ thống y tế: đào tạo//tập huấn cho CBYT các tuyến; hỗ trợ cơ
sở vật chất, cung cấp các biểu mẫu, bộ công cụ, hướng dẫn, quy trình quản lý RLTK ở
trẻ tại cộng đồng. Kết quả đánh giá đã cho thấy cả hai nhóm hoạt động này đều phù
hợp với đối tượng đích và bối cảnh văn hóa, xã hội, kinh tế hiện tại của cộng đồng và
hệ thống y tế.
Trước hết, chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị và tăng
cường tính chủ động của cộng đồng trong việc nhận biết và phát hiện sớm các dấu hiệu
RLTK ở trẻ được xác định là hoạt động vô cùng quan trọng để có thể bắt đầu quá trình
triển khai quản lý RLTK ở trẻ tại cộng đồng. Điều này đã được khuyến cáo bởi WHO
và các tổ chức quốc tế về RLTK ở trẻ [83], [114], [118]. Nhiều quốc gia trên thế giới
135
cũng đã triển khai chương trình truyền thông với quy mô quốc gia, như chương trình
“Nhận biết dấu hiệu, Hành động sớm” (Learn the Signs, Act Early) của Hoa Kỳ [40];
chương trình “Giúp đỡ trẻ RLTK” (Helping Children with Autism) của Úc [29]… Do
đó, ngay từ giai đoạn thiết kế can thiệp, nhóm nghiên cứu đã đặt trọng tâm vào việc
xây dựng và triển khai hoạt động này. Tính tới thời điểm hiện tại, đây là chương trình
can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của cộng đồng về RLTK
ở trẻ đầu tiên tác động lên cả ba nhóm đối tượng đích là NCST, GVMN và CBYT -
những đối tượng đầu tiên tiếp xúc trực tiếp với trẻ, có vai trò trong việc phát hiện sớm
những dấu hiệu bất thường ở trẻ. Từ đó tạo nên bước khởi đầu cho quá trình sàng lọc
sớm - chẩn đoán sớm – can thiệp sớm cho trẻ mắc RLTK.
Chương trình can thiệp đã sử dụng cách tiếp cận giáo dục sức khoẻ và truyền
thông nâng cao kiến thức, thái độ và thay đổi hành vi làm trọng tâm. Đối với nhóm
NVYT và GVMN, can thiệp tập trung vào cách tiếp cận giáo dục sức khoẻ, bao gồm
hoạt động tập huấn cả về kiến thức nhận biết sớm, chẩn đoán sớm, can thiệp sớm và
quản lý RLTK ở trẻ cũng như kỹ năng truyền thông, từ đó tạo đội ngũ nòng cốt triển
khai các hoạt động can thiệp tại cộng đồng. Đối với nhóm NCST, can thiệp tập trung
vào cách tiếp cận truyền thông thay đổi hành vi với nhiều hoạt động và tài liệu truyền
thông được kết hợp với nhau: truyền thông qua hệ thống loa phát thanh, NVYT tư vấn
lồng ghép trong các đợt khám về cho trẻ, phát tờ thông tin, sách mỏng tới từng đối
tượng và truyền thông qua áp phích …
Các chiến lược truyền thông sử dụng trong can thiệp dựa trên kinh nghiệm của
một số chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về RLTK ở trẻ đã
được thực hiện thành công trên thế giới. Ví dụ, trong chiến dịch “Nhận biết dấu hiệu,
Hành động sớm” (được triển khai từ năm 2004 ở Hoa Kỳ với quy mô quốc gia) [44],
CDC đã phối hợp cách tiếp giáo dục sức khỏe, truyền thông thay đổi hành vi và tiếp
thị xã hội để xác định đối tượng đích và hoạt động truyền thông phù hợp cho từng
nhóm đối tượng. Cụ thể, kết quả điều tra ban đầu đã cho thấy mặc dù nhóm cha mẹ đã
từng nghe tới RLTK nhưng hầu như không có kiến thức về hội chứng này: không biết
về các dấu hiệu nghi ngờ và không tin rằng RLTK có liên quan tới mình. Từ đó,
chương trình đã áp dụng phương pháp truyền thông đại chúng và xác định mục tiêu
136
đối với đối tượng này là nâng cao kiến thức phát hiện sớm và sự cần thiết phải theo dõi
trẻ. Trong khi đó, với nhóm CBYT và GVMN, có kiến thức tốt hơn về các dấu hiệu
nghi ngờ RLTK theo các mốc phát triển quan trọng nhưng họ lại không thường xuyên
theo dõi các cột mốc này hoặc truyền tải mối quan tâm với cha mẹ của trẻ, do đó cách
tiếp cận đối với nhóm CBYT và GVMN là giáo dục sức khỏe.
Cách tiếp cận giáo dục sức khỏe cũng được nhiều chương trình truyền thông về
RLTK áp dụng, trong đó nhấn mạnh đến việc cung cấp và hướng dẫn sử dụng những
bộ công cụ để đối tượng đích có thể phát hiện các dấu hiệu sớm của RLTK. Ví dụ: Dự
án First Words cung cấp công cụ kiểm tra sự phát triển về giao tiếp, xã hội và hoạt
động hàng ngày của trẻ để cha mẹ/NCST sử dụng để phát hiện những bất thường giúp
cho việc can thiệp sớm hiệu quả. Tổ chức ZERO TO THREE cung cấp tài liệu về các
mốc phát triển của trẻ: từ sơ sinh đến 8 tháng, từ 8 đến 18 tháng và từ 18 đến 36 tháng
để cha mẹ/NCST có thể tự theo dõi sự phát triển của trẻ tại nhà [47]. Tương tự, chiến
dịch “Nhận thức dấu hiệu, Hành động sớm” của CDC Hoa Kỳ hay Chương trình
“Giúp đỡ trẻ rối loạn tự kỷ” của Úc cũng đã cung cấp gói hướng dẫn cho cha mẹ giúp
cha mẹ tự tin hơn trong việc theo dõi và phát hiện dấu hiệu nghi ngờ ở trẻ [31], [88],
[116].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết (khoảng 80%) đối tượng đích của chương
trình truyền thông đều đã rút ra được thông điệp chính của chương trình là “Cần phát
hiện sớm các dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK”, “Trẻ mắc RLTK cần được can thiệp
càng sớm càng tốt”, “Cần sự phối hợp của NCST, GVMN và CBYT để phát hiện sớm
dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK”. Đây là một kết quả khá tích cực đối với một
chương trình can thiệp tại cộng đồng: nghiên cứu của Daniel và cộng sự (2009) đánh
giá kết quả chương trình “Nhận biết dấu hiêu, Hành động sớm” chỉ khoảng 60% đối
tượng đích nhận được thông điệp chính của chương trình [44]. Kết quả này, cùng với
kết quả nghiên cứu về sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của các nhóm đối
tượng đích như đã phân tích ở phần trên, một lần nữa khẳng định tính phù hợp của
cách tiếp cận cũng như các chiến lược của chương trình truyền thông nâng cao kiến
thức, thái độ, thực hành về RLTK tại cộng đồng trong nghiên cứu này.
137
Tiếp theo, đối với các hoạt động can thiệp tác động lên hệ thống y tế, kết quả
nghiên cứu cho thấy đa số ĐTNC đều nhận định về tính phù hợp của các hoạt động.
Trong đó, tính phù hợp của hoạt động đào tạo, tập huấn cho CBYT cơ sở (tuyến xã,
huyện) được đánh giá cao nhất, đã giúp họ có thể tham gia và đảm nhận vai trò của
mình trong mô hình. Kết quả này cùng với kết quả đánh giá về sự thay đổi kiến thức,
thái độ, thực hành của NVYT đã giúp khẳng định tính phù hợp của hoạt động này, và
cũng hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm triển khai quy trình sàng lọc RLTK tại cơ sở
y tế trên thế giới. Ví dụ, trong nghiên cứu của Cynthia Queisser (2016) [95], đứng
trước thực trạng tỷ lệ trẻ được sàng lọc RLTK ở bang Ohio, Hoa Kỳ thấp hơn so với
các bang lân cận, nghiên cứu can thiệp này đã tiến hành tập huấn cho các điều dưỡng
tại tuyến y tế cơ sở. Kết quả đánh giá sau 3 tháng triển khai tập huấn đã thu được kết
quả khá tích cực, điều dưỡng đã có sự cải thiện đáng kể về cả kiến thức và thực hành
sàng lọc RLTK cho trẻ [95].
4.3.2. Bàn luận về tính khả thi của mô hình quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại
cộng đồng
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy cách tiếp cận “dựa vào cộng đồng” và “phù hợp
với bối cảnh” khi xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ là hoàn toàn khả thi về các
khía cạnh nguồn nhân lực; cơ sở vật chất/trang thiết bị; hệ thống quản ly, điều hành và
phối hợp; và nguồn tài chính. Đây cũng là yếu tố quyết định tính khả thi của mô hình,
giúp mô hình có thể được nhân rộng trong tương lai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
cũng đã cho thấy, trong quá trình triển khai thí điểm mô hình, vẫn tồn tại một số khó
khăn cần được khắc phục để có thể nâng cao tính khả thi của mô hình.
Thứ nhất, CBYT tại trạm y tế vẫn còn thiếu tự tin khi sử dụng công cụ sàng lọc
RLTK (MCHAT-23). Khó khăn này cũng đã được nhắc đến ở hầu hết các nghiên cứu
đánh giá chương trình thí điểm quản lý rối loạn tự kỷ tại y tế cơ sở ở các quốc gia trên
thế giới. Ví dụ, nghiên cứu của Gillis và cộng sự năm 2009 tiến hành đánh giá trên 407
bác sỹ nhi khoa và bác sỹ gia đình sau 4 tháng tham gia vào chương trình sàng lọc
RLTK tại y tế cơ sở ở hai bang vùng Đại tây dương - Hoa Kỳ đã cho thấy tỷ lệ bác sỹ
thực hiện sàng lọc phát triển khá cao (trên 80%) trong khi thực hiện sàng lọc RLTK lại
rất thấp (28%). Lý do chủ yếu của kết quả này là do CBYT thiếu tự tin khi sử dụng bộ
138
công cụ sàng lọc RLTK (CHAT, M-CHAT, PDDST-II và STAT) [52]. Hay trong
nghiên cứu của Elizabeth Ann Shedd (2017) [105], đánh giá kết của Dự án DNP
Capstone (Dự án Hướng dẫn Sàng lọc trẻ RLTK tại y tế cơ sở) trên hai nhóm đối
tượng là điều dưỡng và CBYT tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu, kết quả cũng cho
thấy mặc dù có sự tăng đáng kể kiến thức của cả hai nhóm đối tượng về RLTK ở trẻ
trong hầu hết các lĩnh vực ở thời điểm sau can thiệp so với trước can thiệp, CBYT đặc
biệt là nhóm điều dưỡng vẫn cảm thấy thiếu tự tin khi sử dụng và thực hiện việc sàng
lọc RLTK ở trẻ. Các nghiên cứu trên cũng đã đưa ra những khuyến nghị nhằm khắc
phục khó khăn này là tiếp tục triển khai các hoạt động đào tạo và đào tạo lại cho cán
bộ y tế cơ sở về cách sử dụng bộ công cụ sàng lọc RLTK ở trẻ [52], [105].
Thứ hai, CBYT ở tuyến xã và huyện phải kiêm nhiệm thêm công việc do đó
không có thời gian để thực hiện tốt vai trò của mình trong mô hình quản ly. Khó khăn
này cũng đã được đề cập đến trong khá nhiều nghiên cứu như: nghiên cứu của Gillis
năm 2009 [52], nghiên cứu của King T.M năm 2010 [72] hay nghiên cứu của
Elizabeth Ann Shedd năm 2017 [105]. Cụ thể, nghiên cứu của King T.M và cộng sự
(2010) đánh giá kết quả triển khai 6 tháng thí điểm chính sách sàng lọc rối loạn phát
triển ở trẻ tại Hoa Kỳ cho thấy, một trong những rào cản liên quan đến triển khai chính
sách này là CBYT cảm thấy không đủ thời gian (đặc biệt vào thời điểm có nhiều dịch
bệnh như mùa đông) để có thể thực hiện việc thăm khám cho trẻ vào thời điểm trẻ 30
tháng tuổi, tiến hành sàng lọc sâu hơn khi có dấu hiệu nghi ngờ đối với kết quả sàng
lọc mà cha mẹ đã thực hiện [72].
Thứ ba là khó khăn liên quan đến đầu mối điều phối và sự phối hợp giữa các
tuyến (cộng đồng, y tế tuyến xã, y tế tuyến huyện và y tế tuyến tỉnh). Kết quả nghiên
cứu đã cho thấy, nếu để đầu mối quản lý trẻ RLTK ở tuyến huyện sẽ khó khăn cho
việc thông báo cho gia đình có trẻ RLTK tới bệnh viện can thiệp. Do đó, có thể cân
nhắc đến việc chuyển vai trò này cho y tế tuyến xã (TYT). Ngoài ra, hiện tại chưa có
hệ thống kết nối điện tử giữa các tuyến để quản lý thông tin trẻ RLTK và thực hiện
việc chuyển tuyến một cách thuận lợi. Đây là cũng là khó khăn thường gặp không chỉ
ở các quốc gia đang hoặc kém phát triển [109] mà còn gặp ở một số quốc gia phát triển
[54].
139
Cuối cùng nhưng vô cùng quan trọng là những khó khăn về nguồn tài chính để
duy trì hoạt động quản lý trẻ rối loạn tự kỷ. Đây là khó khăn chung cho bất kỳ chương
trình/can thiệp y tế nào, đặc biệt trong bối cảnh của các quốc gia nguồn lực còn hạn
chế [109]. Nghiên cứu cũng đã tìm hiểu quan điểm của các bên liên quan trong việc
giảm thiểu ở mức thấp nhất khó khăn này, bao gồm nâng cao vai trò của y tế tuyến
huyện trong hoạt động can thiệp cho trẻ mắc RLTK; tăng cường phối hợp giữa ngành
y tế, giáo dục và lao động thương binh xã hội trong các hoạt động quản lý và hỗ trợ
cho trẻ mắc RLTK sao cho tận dụng một cách tối đa các chính sách đã có cho trẻ
RLTK; lồng ghép việc quản lý RLTK ở trẻ vào các chương trình chăm sóc sức khỏe
tâm thần tại cộng đồng; và giải pháp về vận động, xây dựng chính sách như chính sách
bảo hiểm y tế, hỗ trợ xã hội….
4.4. Bàn luận về tính mới và hạn chế của đề tài
4.4.1. Bàn luận về tính mới của đề tài
Đây là nghiên cứu can thiệp đầu tiên tại Việt Nam cung cấp bằng chứng về hiệu
quả, tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng
đồng. Cách tiếp cận xây dựng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em trong nghiên cứu là dựa
trên tính sẵn có của hệ thống y tế (sự kết nối sẵn có giữa các tuyến từ xã đến trung
ương, lồng ghép vào các hoạt động đang triển khai tại y tế cơ sở), và bắt đầu từ nhóm
cộng đồng (huy động sự tham gia của cộng đồng trên cơ sở đã được nâng cao năng
lực). Cách tiếp cận này giúp phát hiện sớm và giải quyết vấn đề RLTK từ khi trẻ còn
nhỏ, chứ không chỉ hướng vào các nhóm đã được chẩn đoán xác định RLTK như trong
các nghiên cứu trước đây.
Nghiên cứu đã xây dựng các giải pháp can thiệp, bao gồm kết hợp các hoạt
động truyền thông tại cộng đồng và những tác động lên hệ thống y tế. Hai nhóm hoạt
động này đã hỗ trợ lẫn nhau giúp cho quá trình vận hành mô hình thí điểm được thuận
lợi, nhịp nhàng. Hoạt động truyền thông tại cộng đồng giúp phát hiện sớm trẻ có
những dấu hiệu bất thường về phát triển, từ đó trẻ sẽ được đi theo các giai đoạn của
mô hình quản lý; các hoạt động tác động lên hệ thống y tế cung cấp nguồn nhân lực,
các biểu mẫu và cơ sở vật chất/trang thiết bị để mô hình được vận hành thông suốt, từ
140
đó làm tăng niềm tin của các gia đình có trẻ mắc RLTK trong việc chẩn đoán và can
thiệp cho trẻ.
Chương trình can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của
cộng đồng về RLTK trong nghiên cứu này đã áp dụng cách tiếp cận giáo dục sức khỏe,
truyền thông thay đổi hành vi và trao quyền hướng tới cả ba đối tượng đích quan trọng
là NCST, GVMN và NVYT. Các hoạt động truyền thông được triển khai đều dựa trên
cơ sở đánh giá nhu cầu với sự tham gia của đối tượng đích và các bên liên quan tại địa
phương, kết hợp với nghiên cứu tổng quan tài liệu và tham vấn ý kiến chuyên gia.
Nghiên cứu đã xây dựng được bộ câu hỏi đo lường kiến thức, thái độ, thực hành
của ba nhóm đối tượng đích (NCST, GVMN và NVYT) dựa trên kết quả tổng quan
các bộ công cụ trên thế giới. Trong đó, thang đo đo lường thái độ và thực hành được
đánh giá tính giá trị về mặt nội dung bằng việc tham vấn ý kiến chuyên gia và thử
nghiệm trên các nhóm đối tượng đích; kiểm định tính giá trị về mặt cấu trúc (sử dụng
phương pháp phân tích nhân tố chính) và độ tin cậy (sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha)
trước khi đưa vào áp dụng chính thức. Quy trình xây dựng và kết quả kiểm định đã cho
thấy bộ công cụ sử dụng trong nghiên cứu đảm bảo về mặt chất lượng và có thể được
sử dụng để tham khảo và áp dụng cho các nghiên cứu tiếp theo.
Nghiên cứu đã phát triển, thử nghiệm và sử dụng một số sản phẩm truyền thông
(tờ rơi, sách mỏng, áp phích, banner, bài phát thanh) và tài liệu đào tạo y tế tuyến cơ
sở (xã, huyện). Đồng thời, kết quả đánh giá sau can thiệp đã cho thấy các tài liệu
truyền thông là phù hợp với văn hóa, trình độ của đối tượng đích; sự kết hợp đa hình
thức truyền thông trong can thiệp là phù hợp và cho hiệu quả tích cực trong việc nâng
cao kiến thức, thái độ và thực hành về RLTK trên các nhóm đối tượng đích. Các hoạt
động truyền thông được triển khai trên địa bàn dựa trên nguồn lực sẵn có từ hệ thống y
tế cơ sở và địa phương, nên đảm bảo tính duy trì và tính bền vững. Đây là bằng chứng
khoa học giúp cho các nhà quản lý y tế, nhà khoa học và CBYT có thể tiếp tục hoặc
nhân rộng việc sử dụng kết quả và các sản phẩm truyền thông, tài liệu của nghiên cứu
này trong tương lai.
141
Đánh giá tác động của chương trình can thiệp lên kiến thức, thái độ, thực hành
của các nhóm đối tượng đích nghiên cứu này đã dụng phương pháp phân tích điểm xu
hướng (PSM) để loại bỏ những sai số do sự khác biệt giữa hai mẫu trước và sau can
thiệp, từ đó cho kết quả chính xác hơn so với phân tích thông thường.
Nghiên cứu đánh giá tính phù hợp và khả thì của mô hình trên nhiều khía cạnh,
dưới góc độ của nhiều bên liên quan: những người đã trực tiếp tham gia vào vận hành
thí điểm mô hình, những nhà chuyên môn và nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực
y tế từ trung ương đến y tế cơ cơ và cả liên ngành (lao động thương binh xã hội và
giáo dục).
4.4.2. Bàn luận về hạn chế của đề tài
Bên cạnh những kết quả thu được khả quan, nghiên cứu cũng có một số điểm
hạn chế cần được lưu y.
Do hạn chế về mặt nguồn lực, thiết kế của nghiên cứu là can thiệp trước sau
không có nhóm chứng. Do đó việc đánh giá kết quả của can thiệp không loại bỏ được
những sai lệch trong so sánh theo thời gian: sự thay đổi có thể là kết quả của những
nguyên nhân khác, không phải là do can thiệp. Việc phân tích tác động của chương
trình can thiệp theo phương pháp PSM chỉ có thể loại bỏ được sự khác biệt về bản chất
giữa hai nhóm, không giúp loại bỏ sai số này.
Địa bàn nghiên cứu thuộc hai tỉnh ở khu vực miền Bắc nên chưa đảm bảo tính
đại diện cho toàn bộ Việt Nam, do đó cần thận trọng khi sử dụng kết quả và các sản
phẩm của nghiên cứu này ở những địa bàn có đặc điểm kinh tế - văn hóa khác biệt, ví
dụ như khu vực miền Nam.
Bộ công cụ được sử dụng để đo lường kiến thức, thái độ về RLTK của các
nhóm đối tượng đích (NSCT, GVMN và NVYT) mới chỉ đánh giá tính tin cậy về sự
nhất quán bên trong của các nhân tố và cả thang đo, chưa đánh giá độ tin cậy về thử
nghiệm lại (test-retest reliability). Thang đo đo lường kiến thức là thang đo lựa chọn
đơn giản (đúng/sai/không biết), nên hạn chế trong việc mức độ biểu thị chi tiết và diễn
giải sâu. chưa phản ánh đủ bản chất phức tạp của vấn đề RLTK. Các nội dung trong
thang đo thái độ chưa đề cập đến thái độ “tự kỳ thị” của cha mẹ có con bị RLTK- yếu
tố ảnh hưởng lớn đến quyết định đưa trẻ nghi mắc RLTK đi khám và can thiệp. Nội
dung đánh giá về thực hành mới chỉ dừng lại ở hành vi xử trí khi nghi ngờ trẻ mắc
RLTK, chưa đánh giá được các chỉ số sâu hơn như trẻ được theo dõi các mốc phát
triển, được sàng lọc rối loạn phát triển/ RLTK: trẻ nghi mắc RLTK được chuyển đúng
tuyến, được quản lý… Vì vậy, các nhà nghiên cứu cần tiếp tục thực hiện đánh giá này
142
nhằm góp phần cung cấp bộ công cụ đảm bảo chất lượng trong nghiên cứu về kiến
thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về RLTK ở trẻ trong tương lai.
Trong mô hình thí điểm, công cụ chẩn đoán trẻ RLTK được sử dụng là DSM-
IV (trong khi tại thời điểm nghiên cứu đã có tiêu chuẩn DSM-V). Mặc dù việc áp dụng
tiêu chuẩn DSM-IV đã được sự đồng thuận của các chuyên gia về RLTK với lý do:
tiêu chuẩn DSM-IV phù hợp với bối cảnh tại Việt Nam hơn do tiêu chuẩn DSM-V khá
chặt chẽ nên dễ bỏ sót những trường hợp tự kỷ nhẹ hoặc không điển hình. Các nghiên
cứu tiếp theo cần cân nhắc đến các công cụ chẩn đoán khác: DSM-V hoặc ICD10.
Các can thiệp trong nghiên cứu mới tập trung vào những thay đổi ở tuyến cơ sở
và tuyến tỉnh, chưa tác động được vào qui định chính sách ở cấp trung ương, do đó
trong quá trình triển khai mô hình còn gặp khó khăn liên quan các vấn đề về mặt chính
sách (thanh toán bảo hiểm, chuyển thẳng trẻ từ tuyến xã lên tuyến tỉnh, xin giấy
chuyển tuyến nhiều lần…). Do đó, các giải pháp về chính sách cần được cân nhắc
trong trình duy trì và nhân rộng mô hình trong tương lai.
Thời gian can thiệp còn ngắn, do đó chưa thể hiện rõ các yếu tố về văn hóa, xã
hội như niềm tin, sự kỳ thị, phân biệt của cộng đồng; sự thay đổi các nhà hoạch định
chính sách, các bên liên quan… ảnh hưởng đến sự vận hành của mô hình, do đó chưa
lường trước được những khó khăn liên quan đến những vấn đề này. Mặt khác, cũng do
hạn chế về thời gian can thiệp, số trẻ RLTK được phát hiện và quản ly chưa nhiều nên
nghiên cứu chưa đánh giá đến được tác động cuối cùng của mô hình là cải thiện kết
quả điều trị mà mới dừng lại ở việc đánh giá kết quả ngắn hạn (tính phù hợp và khả thi
của mô hình). Ngoài ra, cách tiếp cận trong nghiên cứu này đối với việc đánh giá tính
khả thi và phù hợp của mô hình chủ yếu theo phương pháp định tính, do đó có những
hạn chế nhất định về tính đại diện và tính tin cậy trong thang đo.
Mô hình được xây dựng (chủ đích) trong phạm vi ngành y tế, chưa áp dụng
được cách tiếp cận “đa ngành” như khuyến cáo của WHO và các tổ chức quốc tế khác
về RLTK. Do đó, nhiệm vụ tiếp theo là cần có sự kết nối những nỗ lực của ngành y tế,
lao động thương binh xã hội và giáo dục để tiếp tục phát triển mô hình quản lý RLTK
ở trẻ em tại cộng đồng một cách toàn diện hơn, dựa trên nền tảng của mô hình quản lý
đã được phát triển trong nghiên cứu này.
143
KẾT LUẬN
1. Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT về
RLTK ở trẻ em sau can thiệp
Các hoạt động can thiệp đạt mang lại những thay đổi tích cực về kiến thức, thái
độ và hành vi ở cả 3 nhóm đối tượng NCST, GVMN và NVYT, cụ thể:
- Về kiến thức: NCST, GVMN và NVYT đã có sự cải thiện về kiến thức liên quan
đến các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK (tỷ lệ đối tượng trả lời đúng tăng lên
10-30% tại thời điểm SCT so với TCT) và loại bỏ những sai lầm trong điều trị RLTK
ở trẻ (tỷ lệ đối tượng trả lời đúng tăng lên 10-40% tại thời điểm SCT so với TCT).
- Về thái độ: Tại thời điểm SCT, điểm trung vị thái độ của cả ba nhóm đối tượng
đều cao hơn so với TCT, tuy nhiên sự thay đổi này không có y nghĩa thông kê đối với
nhóm NCST và GVMN.
- Về thực hành: tại thời điểm SCT, đa số đối tượng (90%) ở cả ba nhóm NCST,
GVMN và NVYT đều đã có xử trí đúng nhất khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK. Đặc biệt, sự
cải thiện này có y nghĩa thống kê đối với nhóm NCST và GVMN.
2. Tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại
cộng đồng
Mô hình thí điểm được đánh giá là phù hợp và khả thi ở các khía cạnh:
- Các hoạt động can thiệp (chương trình truyền thông tại cộng đồng và các hoạt
động tác động lên hệ thống y tế) phù hợp với đối tượng đích; đặc điểm về văn hóa, xã
hội của địa bàn can thiệp.
- Dựa trên nguồn nhân lực sẵn có ở cộng đồng và sự kết nối sẵn có của hệ thống
y tế: NCST/GVMN/NVTTB đã được nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK
giúp cho việc phát hiện và xử trí sớm trẻ nghi ngờ mắc RLTK; cán bộ tuyến xã/
phường, huyện có thể kiêm nhiệm thêm việc quản lý; cán bộ tuyến tỉnh được điều
chuyển công việc và cử đi đào tạo để có thể thực hiện can thiệp.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số khó khăn cần được khắc phục để có thể nâng cao
tính phù hợp và khả thi của mô hình trong tương lai:
- CBYT tại trạm y tế vẫn còn thiếu tự tin khi sử dụng công cụ sàng lọc RLTK;
CBYT phải kiêm nhiệm nhiều công việc; đầu mối và sự phối hợp trong quản lý trẻ
RLTK chưa phù hợp và thiếu chặt chẽ; và những khó khăn lên quan đến tài chính.
- Quá trình triển khai mô hình cũng gặp nhiều khó khăn bao gồm: CBYT tuyến
xã phải kiêm nhiệm nhiều công việc, vẫn tồn tại sự kỳ thị đối với trẻ RLTK tại cộng
đồng và khó khăn về thủ tục liên quan đến BHYT cho trẻ mắc RLTK.
144
KHUYẾN NGHỊ
Đối với Sở y tế Hòa Bình và Thái Bình
- Tiếp tục duy trì hoạt động can thiệp truyền thông bằng cách lồng ghép với chương
trình chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng.
- Duy trì vận hành mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng; tiến tới nhân rông
mô hình sang các địa bàn khác trong phạm vi toàn tỉnh
Đối với Bộ Y tế
- Xem xét sử dụng, áp dụng có chỉnh sửa cho phù hợp các sản phẩm truyền thông đã
xây dựng trong can thiệp (tờ rơi, cuốn sách mỏng, bài phát thanh, tài liệu đào
tạo…) cho các hoạt động truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về
RLTK ở trẻ tại cộng đồng.
- Ban hành hướng dẫn chính thức trong việc sử dụng các công cụ trong mô hình để
phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và can thiệp sớm cho trẻ mắc RLTK để chính thức
hóa cho việc nhân rộng mô hình
- Đào tạo và đào tạo lại cho CBYT tuyến cơ sở về sàng lọc RLTK ở trẻ cần phải
được thực hiện định kỳ (lồng ghép với các chương trình tập huấn đang triển khai).
- Xây dựng hệ thống thông tin kết nối giữa các tuyến, đảm bảo thông tin được cập
nhật và giảm bớt thời gian làm báo cáo của đầu mối các tuyến.
- Xây dựng cơ chế phối hợp với ngành giáo dục và lao động – thương binh xã hội để
việc quản lý và theo dõi trẻ RLTK được thực hiện với kết quả tốt hơn và có lợi nhất
cho gia đình có trẻ mắc RLTK.
- Lồng ghép hoạt động quản lý RLTK ở trẻ vào chương trình chăm sóc sức khỏe tâm
thần cộng đồng (sổ theo dõi, hoạt động tập huấn, tổ chức truyên thông…)
- Phối hợp với Bảo hiểm xã hội xây dựng chính sách về bảo hiểm y tế, đảm bảo
quyền lợi cao nhất cho trẻ RLTK.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ
1. Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Đinh Thu Hà, Nguyễn Thanh Hương
(2019), Kiến thức, thái độ, thực hành của giáo viên mầm non về rối loạn tự kỷ tại
hai tỉnh Thái Bình và Hòa Bình, Tạp chí Y học thực hành, 4(1095), tr.59-62.
2. Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Hương
Giang, Nguyễn Thanh Hương (2019), Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo kiến
thức về rối loạn tự kỷ ở trẻ: Kết quả nghiên cứu đối với cán bộ y tế, Tạp chí Y học
thực hành, Tập 1103, Số 7 (1103), tr.116-120
3. Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Hương
Giang, Nguyễn Thanh Hương (2019), Kiến thức, thái độ, thực hành của người
chăm sóc trẻ về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái
Bình, Tạp chí Y học thực hành, Tập 1103, Số 7/2019, tr.120-124.
4. Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Nguyễn Thị Nga, Đinh Thu Hà,
Nguyễn Hương Giang, Nguyễn Thanh Hương (2020), Sự thay đổi kiến thức, thái
độ, thực hành của cán bộ y tế về rối loạn tự kỷ sau một năm can thiệp tại hai tỉnh
Hòa Bình và Thái Bình, Tạp chí Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, Tập 4, Số
02/2020, tr.98-106.
5. Hua Thanh Thuy, Nguyen Thai Quynh Chi, Nguyen Thi Nga, Dinh Thu Ha,
Nguyen Thi Huong Giang & Nguyen Thanh Huong (2020) Developing a
community-based autism spectrum disorder management model: Results after 1-
year pilot experience, International Journal of Healthcare Management, DOI:
10.1080/20479700.2020.1755809
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Lao đông - Thương binh và Xã hội (2019), Thông tư số 01/2019/TT-
BLĐTBXH ngày 02/01/2019 Quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do Hội
đồng xác định mức đô khuyết tật thực hiện, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2008), Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Tài liệu số 15: Phục hồi
chức năng trẻ tự kỷ, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
3. Bộ y tế (2011), Hướng dẫn phát hiện sớm - can thiệp sớm trẻ em khuyết tật, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2013), Báo cáo tổng quan ngành y tế Việt Nam năm 2013: Hướng tới
Bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, Hà Nội.
5. Bộ Y tế (2015), Quyết định số 3312/QĐ-BYT ngày 07/8/2015 về Hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em, Hà Nội.
6. Lương Vinh Quốc Duy (2008), "Đánh giá tác động của một dự án hoặc chương
trình phát triển: Phương pháp Propensity Score Matching", Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, Đại học Đà Nẵng. 3(26), tr. 140-144.
7. Nguyễn Thị Hương Giang, Trần Thị Thu Hà và Cao Minh Châu (2010), "Nghiên
cứu phát hiện sớm tự kỷ bằng bảng kiểm sàng lọc M-CHAT 23", Tạp chí Y học
thực hành. 741(11), tr. 5-7.
8. Trần Thị Thu Hà và Nguyễn Thị Hương Giang (2008), "Nghiên cứu xu thế mắc
và một số đặc điểm dịch tễ học của trẻ tự kỷ điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung
ương giai đoạn 2000 đến 2007", Tạp chí Y học thực hành 4, tr. 104-107.
9. Trần Thị Thu Hà và Trần Trọng Hải (2005), Phát hiện sớm, can thiệp sớm một số
dạng tàn tật ở trẻ em Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
10. Lê Minh Hằng (2013), Giáo dục hòa nhập - Cánh cửa rộng mở cho trẻ em khuyết
tật tại Việt Nam, Khóa luận thực tập hè Trường Cao đẳng Swarthmore,
Pennsylvania, Hoa Kỳ.
11. Nguyễn Thanh Hương và các cộng sự. (2017), Hiện trạng quản lý rối loại tự kỷ ở
trẻ em tại cộng đồng, Báo cáo chuyên đề, Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học,
phương pháp chẩn đoán và can thiệp sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng
Hà Nội.
12. Hoàng Bảo Khánh (2011), Kiến thức thái độ về hội chứng tự kỷ và một số yếu tố
liên quan của người chăm sóc trẻ dưới 3 tuổi ở phường Thành Công và phường
147
Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ YTCC, Đại học Y tế
công cộng, Hà Nội.
13. Phạm Trung Kiên và các cộng sự. (2014), "Nghiên cứu tỉ lệ hiện mắc và kết quả
điều trị tự kỷ trẻ em tại tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh.
4(18), tr. 74-79.
14. Phạm Thị Lan (2016), Kiến thức, thực hành và nhu cầu được cung cấp thông tin
của cha mẹ có con tự kỷ tại trường chuyên biệt An Phúc Thành tại Hà Nội năm
2016, Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
15. Đậu Tuấn Nam và Vũ Hải Vân (2015), "Chính sách đối với trẻ tự kỷ ở Việt Nam
hiện nay", Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam. 11(96), tr. 60-67.
16. Vũ Thị Oanh (2016), Thực trạng năng lực của cán bộ can thiệp cho trẻ tự kỷ,
Luận văn thạc sĩ Tâm ly học, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
17. Quốc Hội (2010), Luật số 51/2010/QH12_ Luật Người khuyết tật, Hà Nội, Việt
Nam.
18. Đào Thị Sâm (2013), Khảo sát thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ,
Luận văn thạc sĩ Tâm ly học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ
Chí Minh.
19. Vũ Văn Thuấn (2013), Thái độ của giáo viên mầm non trên địa bàn thành phố
Hà Nội về tự kỷ, Luận văn thạc sĩ Tâm ly học, Trường Đại học Giáo dục, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Hứa Thanh Thủy (2019), Tổng quan về kiến thức, thái độ, thực hành của người
chăm sóc trẻ, giáo viên mầm non và nhân viên y tế về rối loạn tự kỷ, Chuyên đề
nghiên cứu sinh, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
21. Nguyễn Đức Trí và Trần Diệp Tuấn (2014), "Tỉ lệ M‐CHAT dương tính (nguy cơ
bị rối loạn phổ tự kỷ): một khảo sát tại cộng đồng trẻ học mầm non từ 16‐36
tháng trong quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ", Tạp chí Nghiên cứu Y học TP.
Hồ Chí Minh. 1(18), tr. 454-458.
22. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013), Tự kỷ - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà
xuất bản Đại học Sư Phạm, Hà Nội, 200.
23. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2015), Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục
hòa nhập cho trẻ tự kỉ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011 - 2020, Báo
cáo đề tài cấp nhà nước, Đại học Sư Phạm Hà Nội.
148
Tài liệu tiếng Anh
24. Abubakar, A., Ssewanyana, D., and Newton, C. R. (2016), "A Systematic Review
of Research on Autism Spectrum Disorders in Sub-Saharan Africa", Behav
Neurol. 2016, p. 3501910.
25. Alamri, Abdulrahman and Tyler-Wood, Tandra (2016), "Teachers’ Attitudes
Toward Children with Autism: A Comparative Study of the United States and
Saudi Arabia", The Journal of the International Association of Special Education.
16, pp. 14-25.
26. Alharbi, Abeer Mohammed (2018), "Knowledge and Attitude of Families and
Health Care Providers towards Autism", Open Access J Public Health. 2(2), p.
014.
27. American Psychiatric Association (2013), Diagnostic and Statistical Manual of
Mental Disorders, Fifth Edition (DSM–5), American Psychiatric Publishing
Washington, DC.
28. American Psychiatric Association (2018), What Is Autism Spectrum Disorder?,
accessed 02/04/2019, from https://www.psychiatry.org/patients-
families/autism/what-is-autism-spectrum-disorder.
29. Arif, M. M., et al. (2013), "Awareness of autism in primary school teachers",
Autism Res Treat. 2013, pp. 595-961.
30. Atladottir, H. O., et al. (2010), "Maternal infection requiring hospitalization
during pregnancy and autism spectrum disorders", J Autism Dev Disord. 40(12),
pp. 1423-30.
31. Autism awareness Australia (2014), Helping children with autism, accessed
05/04/2019, from https://www.autismawareness.com.au/financial-support/hcwa/.
32. Ayub, Adil, et al. (2017), "Knowledge and Perception Regarding Autism among
Primary School Teachers: A Cross-sectional Survey from Pakistan, South Asia",
Indian journal of community medicine. 42(3), pp. 177-179.
33. Baio, J., et al. (2018), "Prevalence of Autism Spectrum Disorder Among Children
Aged 8 Years - Autism and Developmental Disabilities Monitoring Network, 11
Sites, United States, 2014", MMWR Surveill Summ. 67(6), pp. 1-23.
34. Bakare, Muideen O., et al. (2008), "Knowledge about childhood autism among
health workers (KCAHW) questionnaire: description, reliability and internal
consistency", Clinical practice and epidemiology in mental health : CP & EMH.
4, p. 17.
149
35. Baker, Judy L. (2000), Evaluating the Impact of Development Projects on
Poverty: A Handbook for Practitioners, Directions in development, World Bank,
Washington, DC.
36. Bordini, D., et al. (2015), "Impact of training in autism for primary care
providers: a pilot study", Braz J Psychiatry. 37(1), pp. 63-6.
37. Bordini, Daniela, et al. (2015), "Impact of training in autism for primary care
providers: a pilot study", Brazilian Journal of Psychiatry. 37(1), pp. 63-66.
38. Campbell, J. M. and Barger, B. D. (2011), "Middle school students' knowledge of
autism", J Autism Dev Disord. 41(6), pp. 732-40.
39. Centers for Disease Control and Prevention (2018), Autism Spectrum Disorder
(ADS), accessed 02/04/2019, from
https://www.cdc.gov/ncbddd/autism/index.html.
40. Centers for Disease Control and Prevention (2018), Summary of Autism Spectrum
Disorder (ASD) Prevalence Studies, USA, accessed 05/04/2019, from
https://www.cdc.gov/ncbddd/autism/documents/ASDPrevalenceDataTable2016.p
df.
41. Chen, Jin Yun (2014), Chinese Parents’ Perception of Autism Spectrum
Disorders: An Exploration of the Influence of Culture, Master's thesis in Genetic
Counseling, The Faculty of the Graduate School of Arts and Sciences, Brandeis
University, USA.
42. Christensen, J., et al. (2013), "Prenatal valproate exposure and risk of autism
spectrum disorders and childhood autism", JAMA. 309(16), pp. 1696-703.
43. Crawford, Heather, et al. (2003), "An evaluation of a short training course on
autism for preschool personnel", Good Autism Practice Journal. 4(2), pp. 12-20.
44. Daniel, K. L., et al. (2009), "'Learn the signs. Act early': a campaign to help every
child reach his or her full potential", Public Health. 123 Suppl 1, pp. e11-6.
45. Durand-Zaleski, Isabelle, et al. (2012), "A first national survey of knowledge,
attitudes and behaviours towards schizophrenia, bipolar disorders and autism in
France", BMC Psychiatry. 12(1), p. 128.
46. Durkin, M. S., et al. (2008), "Advanced parental age and the risk of autism
spectrum disorder", Am J Epidemiol. 168(11), pp. 1268-76.
47. Early Childhood Technical Assistance Center (2012), Public Awareness and
Primary Referral Sources, accessed 10/4/2019, from
http://ectacenter.org/topics/earlyid/pubaware.asp.
150
48. Eseigbe, E. E., et al. (2015), "Knowledge of Childhood Autism and Challenges of
Management among Medical Doctors in Kaduna State, Northwest Nigeria",
Autism Research and Treatment. 2015, p. 6.
49. Gadomski, A. M., et al. (2018), "Impact of "Learn the Signs. Act Early."
Materials on Parental Engagement and Doctor Interaction Regarding Child
Development", J Dev Behav Pediatr. 39(9), pp. 693-700.
50. Garg, Pankaj, et al. (2014), "An Exploratory Survey for Understanding
Perceptions, Knowledge and Educational Needs of General Practitioners (GSs)
Regarding Autistic Disorders in New South Wales (NSW), Australia", Journal of
clinical and diagnostic research : JCDR. 8(7), pp. PC01-PC9.
51. Geier, D. A., et al. (2013), "A two-phase study evaluating the relationship
between Thimerosal-containing vaccine administration and the risk for an autism
spectrum disorder diagnosis in the United States", Transl Neurodegener. 2(1), p.
25.
52. Gillis, Jennifer M (2009), "Screening practices of family physicians and
pediatricians in 2 southern states", Infants & Young Children. 22(4), pp. 321-331.
53. Gona, Joseph K., et al. (2015), "Parents’ and Professionals’ Perceptions on
Causes and Treatment Options for Autism Spectrum Disorders (ASD) in a
Multicultural Context on the Kenyan Coast", PLOS ONE. 10(8), p. e0132729.
54. Gorsuch, R. L. (1997), "Exploratory factor analysis: its role in item analysis", J
Pers Assess. 68(3), pp. 532-560.
55. Government, Department of Health - Autralian (2014), Autism - Helping
Children with Autism program, accessed 05/04/2019, from
http://www.health.gov.au/internet/main/publishing.nsf/Content/autism-children.
56. Ha, V. S., et al. (2014), "Living with autism spectrum disorder in Hanoi,
Vietnam", Soc Sci Med. 120, pp. 278-85.
57. Ha, Vu Song (2014), Understanding Autism Spectrum Disorder in Hanoi,
Vietnam, School of Population Health, The University of Queensland, Australia.
58. Hallmayer, J., et al. (2011), "Genetic heritability and shared environmental
factors among twin pairs with autism", Arch Gen Psychiatry. 68(11), pp. 1095-
1102.
59. Health and Socical Care Board (2011), Six Steps of Autism Care, Regional
Autistic Spectrum Disorder Network for Northern Ireland, Northern Ireland.
151
60. Heys, M., et al. (2017), "Understanding parents' and professionals' knowledge
and awareness of autism in Nepal", Autism. 21(4), pp. 436-449.
61. Hoang, Van Minh, et al. (2019), "Prevalence of autism spectrum disorders and
their relation to selected socio-demographic factors among children aged 18–
30 months in northern Vietnam, 2017", International Journal of Mental Health
Systems. 13(1), p. 29.
62. Holt, J. M. and Christensen, K. M. (2013), "Utahns' understanding of autism
spectrum disorder", Disabil Health J. 6(1), pp. 52-62.
63. Huguet, G., Ey, E., and Bourgeron, T. (2013), "The genetic landscapes of autism
spectrum disorders", Annu Rev Genomics Hum Genet. 14, pp. 191-213.
64. I. Haimour, Abdulhade and F. Obaidat, Yahia (2013), "School Teachers’
Knowledge about Autism in Saudi Arabia", World Journal of Education. 3(5),
pp. 45-56.
65. Igwe, Monday N., et al. (2011), "Assessment of knowledge about childhood
autism among paediatric and psychiatric nurses in Ebonyi state, Nigeria", Child
and adolescent psychiatry and mental health. 5(1), p. 1.
66. Imai, K., et al. (2014), "Psychological and mental health problems in patients
with thalidomide embryopathy in Japan", Psychiatry Clin Neurosci. 68(6), pp.
479-86.
67. Imran, N., et al. (2011), "A survey of Autism knowledge and attitudes among the
healthcare professionals in Lahore, Pakistan", BMC Pediatr. 11, p. 107.
68. James, Lesly W., Pizur-Barnekow, Kris A., and Schefkind, Sandra (2014),
"Online survey examining practitioners' perceived preparedness in the early
identification of autism", The American journal of occupational therapy : official
publication of the American Occupational Therapy Association. 68(1), pp. e13-
e20.
69. Jiang, H. Y., et al. (2016), "Maternal infection during pregnancy and risk of
autism spectrum disorders: A systematic review and meta-analysis", Brain Behav
Immun. 58, pp. 165-172.
70. Karimi, P., et al. (2017), "Environmental factors influencing the risk of autism", J
Res Med Sci. 22, p. 27.
71. Kien, Nguyen Trung and Phuong, Nguyen Hoang (2018), "Autism Knowledge in
the Community in Hanoi,Vietnam in 2017: A Cross-Sectional Survey",
International Journal of Science and Research. 7(3), pp. 1442-1445.
152
72. King, T. M., et al. (2010), "Implementing developmental screening and referrals:
lessons learned from a national project", Pediatrics. 125(2), pp. 350-60.
73. Lee, B. K. and McGrath, J. J. (2015), "Advancing parental age and autism:
multifactorial pathways", Trends Mol Med. 21(2), pp. 118-25.
74. Leigh, J. P. and Du, J. (2015), "Brief Report: Forecasting the Economic Burden
of Autism in 2015 and 2025 in the United States", J Autism Dev Disord. 45(12),
pp. 4135-4139.
75. Liu, Y., et al. (2016), "Knowledge, attitudes, and perceptions of autism spectrum
disorder in a stratified sampling of preschool teachers in China", BMC
Psychiatry. 16, p. 142.
76. Lodhi, S. K., et al. (2016), "Assessing the knowledge, attitudes and practices of
school teachers regarding dyslexia, attention-deficit/ hyperactivity and autistic
spectrum disorders in Karachi, Pakistan", J Ayub Med Coll Abbottabad. 28(1),
pp. 99-104.
77. Macedoni-Luksic, M., et al. (2015), "Levels of metals in the blood and specific
porphyrins in the urine in children with autism spectrum disorders", Biol Trace
Elem Res. 163(1-2), pp. 2-10.
78. Malaysia Health Technology Assessment Section (2014), Management of Autism
Spectrum Disorder in Children and Adolescents, Ministry of Health Malaysia,
Putrajaya, Malaysia.
79. Matenge, Batetshi (2014), An exploration of nursing professionals’
understanding of Autism Spectrum Disorder, PhD Thesis, Psychology
Department, University of Cape Town, South Africa.
80. Minnesota Department of Human Services (2015), Report on barriers, strategies
and effectiveness of practices in identification of children between the ages of 1-3
with symptoms of Autism Spectrum Disorder, USA.
81. Misquiatti, Andréa Regina Nunes, et al. (2014), "Communication and autism
spectrum disorders: review of knowledge of teachers in pre and post-intervention
phases", Revista CEFAC. 16(2), pp. 479-486.
82. Mohamed Nur Adli K., Thurgaa R., et al. (2017), "The Knowledge and Attitude
of Autism among Community in Mukim Dengkil, Sepang, Selangor ",
International Journal of Scientific and Research Publications. 7(220-225).
83. Munir, Kerim, et al. (2016), Autism: A Global Framework for Action. Doha,
Qatar Foundation, World Innovation Summit in Health, Doha, Qatar.
153
84. Nguyen Hoang Phuong, Nguyen Trung Kien, and Nguyen Thanh Liem (2018),
"Outcomes of Survey on the Public Attitudes toward Autism in Hanoi, Vietnam",
International Journal of Science and Research. 7(3), pp. 1646-1650
85. Neik, Tina, et al. (2014), "Prevalence, diagnosis, treatment and research on
autism spectrum disorders (ASD) in Singapore and Malaysia", International
Journal of Special Education. 29(3), pp. 82-92.
86. Ozonoff, S., et al. (2011), "Recurrence risk for autism spectrum disorders: a Baby
Siblings Research Consortium study", Pediatrics. 128(3), pp. e488-95.
87. Park, Meungguk and Chitiyo, Morgan (2010), "An Examination of Teacher
Attitudes towards Children with Autism", Journal of Research in Special
Educational Needs. 11(1), pp. 70-78.
88. Patel, Kinjal Prabodh (2007), The Impact of the “Learn the Signs. Act Early.”
Public Health Awareness Campaign on Early Intervention Behavior, Thesis of
Master of Public Health, Georgia State University.
89. Pett, Marjorie A., Lackey, Nancy R., and Sullivan, John J. (2003), Making sense
of factor analysis : the use of factor analysis for instrument development in health
care research, SAGE publising.
90. Peters, D.H., Nhan T.Tran, Taghreed Adam (2013), Implementation research in
health: A practical guide, Alliance of Health Policy and System Research, World
Health Organization, Geneva.
91. Pizur-Barnekow, Kris, et al. (2013), "Service coordinators’ perceptions of autism-
specific screening and referral practices in early intervention", Topics in Early
Childhood Special Education. 33(3), pp. 153-161.
92. Pramparo, T., et al. (2015), "Cell cycle networks link gene expression
dysregulation, mutation, and brain maldevelopment in autistic toddlers", Mol Syst
Biol. 11(12), p. 841.
93. Preity, Sumayia, et al. (2017), "Views of the Parents of Autistic Children about
Autism and Schools for Autistic Children: A Qualitative Study in Urban
Bangladesh", International Journal of Public Health Research. 5(5), pp. 56-61.
94. Prior, Margot, et al. (2011), A review of the research to identify the most effective
models of practice in early intervention of children with autism spectrum
disorders, Australian Government Department of Families, Housing, Community
Services and Indigenous Affairs, Australia.
154
95. Queisser, Cynthia (2016), Assessing Nurses' Knowledge About Autism Spectrum
Disorders, Virginia Henderson Global Nursing e-Repository, accessed
13/4/2019, from https://sigma.nursingrepository.org/handle/10755/621158.
96. Quilendrino, Maria Isabel O, et al. (2015), "Parents’ perceptions of autism and
their health-seeking behaviors", Clinical Epidemiology and Global Health. 3, pp.
S10-S15.
97. Rahbar, M. H., Ibrahim, K., and Assassi, P. (2011), "Knowledge and attitude of
general practitioners regarding autism in Karachi, Pakistan", J Autism Dev
Disord. 41(4), pp. 465-74.
98. Retaskie, Katelyn (2015), Parents Perceptions of Autism Spectrum Disorder,
Retrieved from Sophia, the St. Catherine University repository, accessed
13/4/2019, from https://sophia.stkate.edu/msw_papers/510/.
99. Reynolds, L. C., et al. (2014), "Maternal obesity and increased risk for autism and
developmental delay among very preterm infants", J Perinatol. 34(9), pp. 688-92.
100. Roberts, Jacqueline and Prior, Margot (2006), Review of the research to identify
the most effective models of practice in early intervention of children with autism
spectrum disorders, Australian Government Department of Health and Ageing,
Australia.
101. Robins, D. L. (2008), "Screening for autism spectrum disorders in primary care
settings", Autism: the international journal of research and practice. 12(5), pp.
537-556.
102. Rogge, N. and Janssen, J. (2019), "The Economic Costs of Autism Spectrum
Disorder: A Literature Review", Journal of Autism and Development Disorders.
103. Ruparelia, K., et al. (2016), "Autism Spectrum Disorders in Africa: Current
Challenges in Identification, Assessment, and Treatment: A Report on the
International Child Neurology Association Meeting on ASD in Africa, Ghana,
April 3-5, 2014", J Child Neurol. 31(8), pp. 1018-26.
104. Self, T. L., Coufal, K., and Parham, D. F. (2010), "Allied healthcare providers'
role in screening for autism spectrum disorders", Journal of Allied Health. 39(3),
pp. 165-174.
105. Shedd, Elizabeth Ann (2017), Guidline for Autism Screening in Primary Care,
Capstones Research Commitee, 11.
155
106. Smith, V. and Brown, N. (2014), "Prenatal valproate exposure and risk of autism
spectrum disorders and childhood autism", Arch Dis Child Educ Pract Ed. 99(5),
p. 198.
107. Solso, S., et al. (2016), "Diffusion Tensor Imaging Provides Evidence of Possible
Axonal Overconnectivity in Frontal Lobes in Autism Spectrum Disorder
Toddlers", Biol Psychiatry. 79(8), pp. 676-84.
108. Talbott, E. O., et al. (2015), "Air toxics and the risk of autism spectrum disorder:
the results of a population based case-control study in southwestern
Pennsylvania", Environ Health. 14, p. 80.
109. Tekola, B., et al. (2016), "Challenges and opportunities to improve autism
services in low-income countries: lessons from a situational analysis in Ethiopia",
Global mental health (Cambridge, England). 3, p. e21.
110. Tilahun, D., et al. (2017), "Ethiopian community health workers' beliefs and
attitudes towards children with autism: Impact of a brief training intervention",
Autism. 23(1), pp. 39-49.
111. Tran, Cong Van and Weiss, Bahr (2018), "Characteristics of Agencies Providing
Support Services for Children with Autism Spectrum Disorders in Vietnam",
International journal of social science and humanity : IJSSH. 8(4), pp. 116-121.
112. United Nations (2007), Third committee calls on assembly to designate 2 April
World Autism Day, UN General Assembly, accessed 07/4/2019, from
www.un.org/press/en/2007/gashc3899.doc.htm.
113. Van Cong, T., et al. (2015), "Early identification and intervention services for
children with autism in Vietnam", Health Psychol Rep. 3(3), pp. 191-200.
114. Wallace, S., et al. (2012), "A global public health strategy for autism spectrum
disorders", Autism Res. 5(3), pp. 211-7.
115. Wang, J., et al. (2012), "Autism awareness and attitudes towards treatment in
caregivers of children aged 3-6 years in Harbin, China", Soc Psychiatry Psychiatr
Epidemiol. 47(8), pp. 1301-8.
116. Wilson, Kathleen D. (2013), Helping Childen with Autism Package- Parents'
Perspectives, Thesis of Master of Education, Faculty of Education, University of
Tasmania, Tasmania.
117. World Health Organization (2008), How can chronic disease management
programmes operate across care settings and providers?, Health systems and
policy analysis, WHO Regional Office for Europe, Denmark.
156
118. World Health Organization (2013), Comprehensive and coordinated efforts for
the management of autism spectrum disorders, accessed 08/04/2019, from
http://apps.who.int/gb/ebwha/pdf_files/eb133/b133_4-en.pdf.
119. World Health Organization (2013), Meeting on Autism spectrum disorders and
other developmental disorders: From raising awareness to building capacity,
World Health Organization, Geneva, Switzerland.
120. World Health Organization (2018), Questions and answers about autism
spectrum disorders (ASD), accessed 02/4/2019, from
https://www.who.int/features/qa/85/en/.
121. Ws, Angie, et al. (2015), "Factors influencing autism spectrum disorder screening
by community paediatricians", Paediatrics & child health. 20(5), pp. e20-e24.
122. XiangSun and CarrieAllisonb (2009), "A review of the prevalence of Autism
Spectrum Disorder in Asia", Research in Autism Spectrum Disorders. 4(2), pp.
156-167.
123. Zhang, Xiaojuan, et al. (2018), "Child Healthcare Workers’ Knowledge About
Autism and Attitudes Towards Traditional Chinese Medical Therapy of Autism:
A Survey from Grassroots Institutes in China", Iran J Pediatr. . In Press(In
Press), p.:e60114.
Trang web
124. https://a365.vn/
125. https://kcb.vn/category/phcn/phuc-hoi-chuc-nang
157
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Vận hành mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng ở
hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình
Trong mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng, chức năng nhiệm vụ của
các bên liên quan như sau:
A. SÀNG LỌC/PHÁT HIỆN/CHÂN ĐOÁN SỚM
A1. Cộng đồng (bao gồm cha mẹ/NCST, GVMN, NVYTTB, CTV PHCN)
Phát hiện sớm trẻ từ 60 tháng trở xuống có dấu hiệu chậm phát triển/nghi mắc
RLTK. Cha mẹ/NCST sử dụng 09 phiếu đánh giá sàng lọc phát triển ở trẻ em trong
(ASQ VN). Các phiếu đánh giá sàng lọc phát triển ở trẻ em này đã được đề xuất trong
Quy trình Chẩn đoán sớm do nhóm nghiên cứu của Đại học Quốc gia xây dựng và đã
được hội đồng thẩm định thông qua. Theo từng giai đoạn phát triển của trẻ trong các
phiếu đánh giá, nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào đề cập trong từng phiếu, cha
mẹ/NCST cần đưa trẻ đến cơ sở y tế có chuyên môn về Nhi để trẻ được kiểm tra lại.
Cụ thể là BVĐK tỉnh hoặc BV Nhi tỉnh. Cha mẹ/NCST sẽ được phát một cuốn sổ theo
dõi trẻ trong đó có 09 phiếu đánh giá sàng lọc phát triển để thực hiện tại gia đình.
Đối với trẻ 18 tháng trở lên, nếu phát hiện các dấu hiệu bất thường khi đánh giá
bằng phiếu sàng lọc phát triển, cha mẹ/NCST cũng nên đưa trẻ đến TYT xã/phường để
kết hợp đánh giá bằng bộ công cụ M-CHAT 23.
NVYTTB/CTVPHCN đóng vai trò hỗ trợ cha mẹ/NCST làm đánh giá sàng lọc
phát triển ở trẻ bằng cách đến thăm hộ gia đình có trẻ trong các độ tuổi cần đánh giá
sàng lọc phát triển (theo danh sách), nhắc nhở cha mẹ/NCST làm đánh giá hoặc tự
mình làm đánh giá. NVYTTB/CTVPHCN cũng được phát một cuốn sổ theo dõi trẻ
giống cuốn sổ phát cho cha mẹ/NCST.
GVMN cũng tham gia thực hiện đánh giá sàng lọc phát triển ở trẻ với những trẻ
đi học mẫu giáo. GVMN cũng được phát một cuốn sổ theo dõi trẻ giống cuốn sổ phát
cho cha mẹ/NCST.
A2. Trạm y tế xã/phường (TYT)
Thông tư 33/2015/TT-BYT về “Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế
xã, phường, thị trấn” quy định TYT có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động chuyên môn
kỹ thuật, trong đó có nhiệm vụ “Giám sát, thực hiện các biện pháp kỹ thuật phòng,
chống bệnh truyền nhiễm, HIV/AIDS, bệnh không lây nhiễm, bệnh chưa ro nguyên
nhân”. Theo đó, TYT có thể thực hiện nhiệm vụ sàng lọc/chẩn đoán trẻ nghi mắc
RLTK bằng bộ công cụ M-CHAT 23
Trong mô hình quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng, người chuyên trách sử
dụng bộ công cụ M-CHAT 23 để sàng lọc/chẩn đoán trẻ nghi mắc tự kỷ có thể là bác
158
sĩ hoặc y sĩ sản nhi, người đã tham gia lớp tập huấn do BVĐK tỉnh/BV Nhi tỉnh tổ
chức.
A3. Trung tâm y tế (TTYT)/Bệnh viện/TTYT dự phòng huyện
Thông tư 37/2016/TT-BYT ngày 25 tháng 10 năm 2016 của Bộ Y tế về Hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định TTYT
có nhiệm vụ “thực hiện các hoạt động phòng bệnh dịch truyền nhiễm, HIV/AIDS,
bệnh không lây nhiễm, bệnh chưa ro nguyên nhân…”. Theo đó, TTYT huyện có thể
thực hiện nhiệm vụ sàng lọc/chẩn đoán trẻ nghi mắc RLTK bằng bộ công cụ M-CHAT
23 giống như TYT. Tùy vào nơi ở của trẻ gần TYT hay TTYT huyện mà cha
mẹ/NCST có thể đưa trẻ đến một trong hai địa điểm này để sàng lọc/chẩn đoán. Bên
cạnh đó, TTYT cũng thực hiện chức năng giám sát hỗ trợ việc thực hiện các hoạt động
chuyên môn của tuyến dưới.
Để thực hiện tốt cả nhiệm vụ sàng lọc/chẩn đoán và giám sát hỗ trợ, cần có cơ
chế phối hợp giữa đơn vị lâm sàng (BV) và đơn vị dự phòng (TTYT dự phòng) để
cùng thực hiện nhiệm vụ liên quan đến quản lý RLTK ở trẻ em. Mỗi đơn vị cần cử 01
cán bộ tham gia chính vào các hoạt động quản ly RLTK để đảm bảo cho các hoạt động
được thực hiện trong quá trình thử nghiệm mô hình và duy trì được sau khi đề tài kết
thúc.
A4. Khoa Nhi/Khoa PHCN, BVĐK hoặc BV Nhi tỉnh/thành phố
BV tuyến tỉnh/thành phố thực hiện nhiệm vụ khám bệnh và chữa bệnh cho trẻ
em. Trong mô hình quản ly trẻ có RLTK, BV tuyến tỉnh/thành phố đóng vai trò là đơn
vị thực hiện chẩn đoán để khẳng định trẻ mắc tự kỷ bằng bộ công cụ DSM IV, phân
loại mức độ bằng 2 bộ công cụ CARS và Denver II và thực hiện can thiệp/điều trị cho
trẻ có RLTK trong khả năng của bệnh viện.
Trong trường hợp khẳng định lại mà trẻ chưa phát hiện RLTK, trẻ được chuyển
về TYT xã/phường để cha mẹ/NCST/GVMN/NVYTTB/CTVPHCN theo doi tiếp và
được cán bộ TYT đánh giá định kỳ 3 tháng/lần bằng bộ công cụ M-CHAT 23. Với
những trẻ trên 36 tháng đến 60 tháng, BV tuyến tỉnh sẽ hẹn đánh giá định kỳ bằng bộ
công cụ DSM-IV và CARS.
Trường hợp trẻ được xác định là có RLTK, nếu ở mức độ BV tuyến tỉnh/thành
phố có thể can thiệp được, trẻ sẽ được giữ lại can thiệp tại BV. Trong quá trình can
thiệp/điều trị, nếu cần có tư vấn của Bệnh viện Nhi TW, bác sĩ của BV tuyến tỉnh có
thể liên hệ với bác sĩ của Bệnh viện Nhi TW để được hướng dẫn/hỗ trợ.
Sau khi được đánh giá phân loại, trẻ mắc RLTK sẽ trải qua 3 tuần (21 ngày) tại
bệnh viện tỉnh để nhận được những can thiệp ban đầu. Những hoạt động can thiệp ban
đầu này nhằm tạo thuận lợi cho những can thiệp tiếp theo ở tuyến cơ sở, ví dụ như trẻ
tạo được thói quen tách cha mẹ, trẻ làm quen với lịch trình can thiệp, hoạt động can
thiệp... Đồng thời, trong quá trình này, cha mẹ sẽ được trực tiếp tham gia quá trình can
159
thiệp bằng cách áp dụng những kỹ năng được học để thực hành trên chính con mình
dưới sự hướng dẫn của cán bộ y tế.Sau đó, trẻ được chuyển về cộng đồng để quản lý
và tiếp tục được can thiệp bởi cha mẹ/NCST và/hoặc GVMN. Định kỳ 3 tháng/lần
TTYT huyện nhắc nhở gia đình đưa trẻ lên để đánh giá mức độ tiến bộ của trẻ như đã
đề cập ở mục A3.
Nếu mức độ mắc tự kỷ của trẻ nằm ngoài khả năng can thiệp của BV tuyến tỉnh,
trẻ sẽ được giới thiệu lên Bệnh viện Nhi TW.
Ngoài ra, BV tuyến tỉnh cũng thực hiện hoạt động hỗ trợ cho cán bộ của tuyến
huyện về chuyên môn khi cần thiết theo hoạt động chỉ đạo tuyến.
Tại các BVĐK tỉnh có cả hai Khoa Nhi và Khoa PHCN cùng tham gia hoạt động
can thiệp cho trẻ mắc RLTK, cần có sự thống nhất về vai trò điều phối chính và thống
nhất về các hoạt động can thiệp ở hai Khoa.
A5. Bệnh viện Nhi Trung ương
Bệnh viện Nhi TW là một trong ba bệnh viện hàng đầu khu vực trong lĩnh vực
Nhi khoa. Hiện tại, Bệnh viện Nhi TW có hai Khoa đang cùng tham gia sàng lọc/phát
hiện/chẩn đoán và can thiệp cho trẻ có RLTK là Khoa Tâm thần và Khoa Phục hồi
chức năng. Trong mô hình quản lý trẻ mắc RLTK, Bệnh viện Nhi TW là tuyến cuối
cùng mà trẻ được chuyển từ tuyến dưới lên để khẳng định lại hoặc can thiệp. Tại Bệnh
viện Nhi TW, trẻ mắc RLTK sẽ được can thiệp theo quy trình can thiệp sớm.
B/ TIẾP TỤC CAN THIỆP/ĐIỀU TRỊ SAU KHI TRẺ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ Ở
TUYẾN TRÊN VÀ TRỞ VỀ CỘNG ĐỒNG
B5. Bệnh viện Nhi Trung ương
Khi trẻ được đưa đến Bệnh viện Nhi TW, trẻ có thể được chẩn đoán để khẳng
định lại xem có mắc RLTK hay không và/hoặc trẻ được can thiệp nếu xác định chắc
chắn mắc RLTK. Tại đây, có 3 tình huống có thể xảy ra:
1. Bệnh viện Nhi TW chưa xác định chắc chắn trẻ có RLTK và chuyển trẻ đi
khám tại các Khoa chức năng (như đề cập trong Quy trình Chẩn đoán sớm)
hoặc chuyển về cộng đồng để tiếp tục theo doi và đánh giá định kỳ (như đề cập
ở mục A1).
2. Trẻ có RLTK sau khi được can thiệp tại Bệnh viện Nhi TW được chuyển về BV
tuyến tỉnh để tiếp tục điều trị trước khi chuyển về cộng đồng.
3. Trẻ có RLTK sau khi được can thiệp tại Bệnh viện Nhi TW và đạt được mức độ
phục hồi để chuyển về cộng đồng, trẻ sẽ được chuyển thẳng về cộng đồng và
được tiếp tục can thiệp tại gia đình và/hoặc trường mẫu giáo.
B4. Khoa Nhi/Khoa PHCN, BVĐK/BV Nhi tỉnh/thành phố
Như đã đề cập phía trên, tại BV tuyến tỉnh, với cơ sở vật chất và trang thiết bị đã
có cũng như với nhân lực đã được đào tạo, trẻ có RLTK (tình huống 3 phía trên) sẽ
160
được tiếp tục can thiệp để phục hồi. Sau khi đạt được mức độ phục hồi được bác sĩ xác
nhận, trẻ sẽ được chuyển về cộng đồng sinh hoạt, tiếp tục được cán bộ TYT xã/phường
quản ly và tiếp tục được gia đình và/hoặc GVMN can thiệp.
B3. TTYT/BV/TTYT dự phòng huyện
Sau khi được chuyển về tiếp tục sinh hoạt tại cộng đồng, định kỳ 3 tháng/lần,
TTYT huyện phối hợp với TYT xã mời gia đình đưa trẻ lên BV Nhi/BVĐK tỉnh để
đánh giá sự tiến bộ của trẻ. Nếu trẻ vẫn tiến triển tốt, trẻ lại tiếp tục được sinh hoạt tại
cộng đồng. Nếu tình trạng của trẻ có biểu hiện nặng lên trẻ sẽ được giữ lại BV tuyến
tỉnh để can thiệp theo chương trình can thiệp của trẻ từ trước đó hoặc thay đổi chương
trình can thiệp (bác sĩ can thiệp trực tiếp quyết định).
Bên cạnh đó, TTYT huyện cũng sẽ thực hiện vai trò hỗ trợ chuyên môn, giám sát
tuyến dưới như đã mô tả ở trên.
B2. TYT xã/phường
Quản ly trẻ có RLTK sau khi trẻ được chuyển từ tuyến tỉnh hoặc BVNTW về.
TYT phối hợp với TTYT huyện mời gia đình đưa trẻ lên TTYT huyện đánh giá định
kỳ 3 tháng/lần. CBYT của TYT xã cũng được tham gia các lớp tập huấn/đào tạo do
tuyến tỉnh và tuyến huyện phối hợp thực hiện. Do đó, khả năng phát hiện sớm trẻ nghi
mắc tự kỷ và kỹ năng sử dụng bộ công cụ M-CHAT 23 cũng được nâng cao hơn.
B1. Cộng đồng
Cha mẹ/NCST, GVMN, NVYTTB, CTVPHCN được nhận các tài liệu truyền
thông, nghe các thông tin truyền thông về RLTK và tham gia các lớp tập huấn do do
nhóm xây dựng mô hình phối hợp với BVNTW tổ chức nên kiến thức về tự kỷ được
nâng cao, đồng thời khả năng phát hiện trẻ có những dấu hiệu bất thường trong quá
trình phát triển cũng được tăng cường.
GVMN sau khi được tập huấn sẽ tham gia vào quá trình hỗ trợ can thiệp nếu trẻ
có RLTK đi học. Mỗi trường mầm non sẽ có một GVMN tham gia hoạt động tập huấn
và phụ trách can thiệp cho trẻ khi cần thiết.
Đối với những trẻ mắc RLTK tại cộng đồng nhưng không tham gia vào mô hình
quản ly này mà gia đình có những can thiệp riêng do nhiều ly do khác nhau,
NVYTTB/CTVPHCN/GVMN sẽ phát hiện và báo cáo lại với cán bộ TYT để quản ly
và có những hỗ trợ phù hợp như đã làm với các trẻ tham gia trong mô hình.
161
Phụ lục 2. Kết quả tổng quan thang đo đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về
rối loạn tự kỷ ở trẻ em
Bảng tổng hợp một số thang đo đánh giá kiến thức cơ bản, thái độ và thực hành
xử trí sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ em
Thông tin về
nghiên cứu
Thang đo kiến thức Thang đo
thái độ
Thang đo
thực hành
A. Đối tượng nghiên cứu là người chăm sóc trẻ (bao gồm cha mẹ và những
người chăm sóc trẻ khác trong gia đình)
Wang J. và cs
2012
Trung Quốc
[115]
Bộ câu hỏi tự điền:
8 câu hỏi nhiều lựa chọn:
Đã từng nghe, dấu hiệu, tính phổ biến,
tính trầm trọng, IQ của trẻ, thời điểm
khởi phát, tài năng của trẻ, có liên
quan tới tình trạng kinh tế/văn hóa của
cha mẹ.
1 câu hỏi nhiều
lựa chọn:
Sẽ làm gì nếu
phát hiện con
của mình có
dấu hiệu
RLTK.
1 câu nhiều
lựa chọn:
Chọn lựa
chuyên gia
nào khi
phát hiện
trẻ RLTK
Maria Isabel
và cs
2015
Philipine [96]
Bộ câu hỏi tự điền:
Gồm 19 câu hỏi thang đo Likert 1-5,
về nguyên nhân/yếu tố ảnh hưởng đến
RLTK ở trẻ:
- Yếu tố thuộc xã hội tâm lý của cha
mẹ (tình trạng kinh tế, văn hóa…)
- Yếu tố sinh học của cha mẹ (tuổi,
chế độ ăn, stress khi mang thai…)
- Yếu tố liên quan đến trẻ (tiêm
vacxin, bị ốm hoặc chấn động trước 1
tuổi, thức ăn…)
3 câu hỏi thang
đo Likert 1-5:
Thái độ khi có
con bị RLTK
1 câu hỏi
nhiều lựa
chọn:
Lưa chọn
chuyên gia
khi phát
hiện trẻ có
dấu hiệu
khác
thường
Abeer M.
Alharbi và cs
2018
Ả rập Xê-út
[26]
Bộ câu hỏi tự điền:
Gồm 8 câu hỏi Đúng/Sai/Không biết
- Kiến thức chung về RLTK (2 câu)
- Nguyên nhân RLTK (3 câu)
- Các can thiệp và kết quả (2 câu)
- Dịch vụ cung cấp (1 câu)
3 câu hỏi
Đúng/Sai
Sẵn sàng giúp
đỡ/hỗ trợ trẻ
RLTK
162
Thurgaa R. và
cộng sự, 2017
Malaysia
[82]
Bộ câu hỏi tự điền:
Gồm 10 câu hỏi Đúng/Sai/Không biết
về bản chất RLTK, đặc điểm trẻ
RLTK (dấu hiệu nhận biết), chẩn đoán
và can thiệp RLTK
5 câu hỏi
Đúng/Sai
Thái độ đối với
người RLTK
Holt JM,
2013
Hoa Kỳ [62]
Bộ câu hỏi phỏng vấn định lượng
Gồm 19 câu hỏi.
Trong đó có 1 câu hỏi mở về dấu hiệu
trẻ RLTK, 18 câu hỏi nhiều lựa chọn
về nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị,
nguồn thông tin… về RLTK
B. Đối tượng nghiên cứu là giáo viên mầm non hoặc tiểu học
Meungguk và
cộng sự, 2010
Hoa Kỳ [87]
AAST (Autism
Attitude Scale
for Teachers)
Gồm 14 câu
hỏi thang đo
Likert 1-5
A. Alamri và
cộng sự, 2016,
Hoa Kỳ và Ả
rậpXê-út [25]
Arif M. M. và
cộng sự, 2013
Pakistan [29]
Bộ câu hỏi tự điền
Gồm 16 câu hỏi Đúng/Sai/Không
biết, được thiết kế dựa trên tiêu chuẩn
chẩn đoán RLTK của Hội Tâm thần
Hoa Kỳ (DSM –IV)
1 câu hỏi
Đúng/ Sai: Trẻ
RLTK cần
được học ở
trường lớp
chuyên biệt
Abdulhade và
cộng sự, 2013,
Ả rậpXê-út [64]
Bộ câu hỏi tự điền
AKQ
Gồm 30 câu hỏi nhiều lựa chọn
Liu và cộng sự
2016
Trung Quốc
[75]
Bộ câu hỏi tự điền
32 câu hỏi Đúng/Sai/Không biết
- Kiến thức về các mốc phát triển của
trẻ (14 câu)
- Về RLTK (17 câu)
- Tổ chức tiến hành can thiệp cho trẻ
18 câu hỏi
thang đo Likert
1-5
Thái độ về
chăm sóc, giáo
dục, chính sách
163
RLTK (1 câu với 10 tổ chức được
nêu tên)
cho trẻ RLTK
(10 câu)
Thái độ với trẻ
RLTK (8 câu)
Adil Ayub và
cộng sự, 2017
Pakistan [32]
Bộ câu hỏi tự điền
5 câu hỏi nhiều lựa chọn
Nguồn thông tin, bản chất RLTK, dấu
hiện, can thiệp và chuyên gia
C. Đối tượng nghiên cứu là cán bộ y tế không chuyên về RLTK
Rahbar và
cộng sự
2010
Pakistan [97]
Bộ câu hỏi tự điền
9 câu hỏi thang đo Likert 1-5
Bản chất của RLRK, đặc điểm trẻ
RLTK, những sai lầm về RLTK
6 câu hỏi thang
đo Likert 1-5
Thái độ đối với
trẻ RLTK, các
can thiệp, khả
năng của bản
thân trong phát
hiện và chẩn
đoán trẻ RLTK
Monday N.
Igwe và cộng
sự
2011
Nigeria [65]
Bộ câu hỏi tự điền
KCAHW
19 câu hỏi Đúng/Sai/Không biết chia
thành 4 nhóm: khiếm khuyết trong
tương tác xã hội (8 câu), khiếm
khuyết về ngôn ngữ và giao tiếp (1
câu), đặc điểm hành vi (4 câu) và mức
độ bệnh, đặc điểm khởi phát và tình
trạng mắc kèm (6 câu)
E. E. Eseigbe
và cộng sự
2015
Nigeria [48]
Xiaojuan
Zhang và
cộng sự
2018
Trung Quốc
[123]
Bộ câu hỏi tự điền
12 câu Đúng/Sai/Không biết
(dựa theo bộ câu hỏi KCAHW)
Bản chất, mức độ phổ biến RLTK,
đặc điểm trẻ RLTK.
3 câu hỏi nhiều
lựa chọn về
khả năng điều
trị RLTK bằng
y học cổ truyền
164
Imran N. và
cộng sự
2011
Pakistan [67]
Bộ câu hỏi tự điền
33 câu hỏi:
Phần 1: 10 câu hỏi thang đo likert 1-3
về đặc điểm giúp chẩn đoán trẻ RLTK
theo DSM-IV
Phần 2: 22 câu hỏi theo AKS-R, thay
thế một số câu bằng sai lầm phổ biến
ở Pakistan
Phần 3: 1 câu hỏi nhiều lựa chọn về
phương pháp trị liệu
Bordini D. và
cộng sự, 2014
Brazil [36]
Bộ câu hỏi tự điền
12 câu hỏi nhiều lựa chọn, được xây
dựng dựa trên DSM-IV
Abeer M.
Alharbi và
cộng sự
2018
Ả rập Xê-út
[26]
Bộ câu hỏi tự điền
8 câu hỏi Đúng/Sai/Không biết
- Kiến thức chung về RLTK (2 câu)
- Nguyên nhân RLTK (3 câu)
- Các can thiệp và kết quả (2 câu)
- Dịch vụ cung cấp (1 câu)
3 câu hỏi
Đúng/Sai
Sẵn sàng giúp
đỡ/hỗ trợ trẻ
RLTK
165
Phụ lục 3: Bảng biến số chi tiết của nghiên cứu định lượng
Tên biến Định nghĩa biến số Phân
loại
Phương
pháp thu
thập
A. Thông tin chung đối tượng nghiên cứu
Tuổi Tuổi tính theo năm dương lịch Rời
rạc
Tạo biến
mới
Giới tính Nam hay nữ Nhị
phân Phát vấn
Dân tộc Đối tượng thuộc dân tộc nào? Định
danh Phát vấn
Trình độ học vấn Cấp bậc cao nhất mà đối tượng đạt được Thứ
bậc Phát vấn
Biến riêng đối với NCST
Nghề nghiệp Công việc tạo ra thu nhập chính của đối tượng Định
danh Phát vấn
Mối quan hệ với
trẻ
Mối quan hệ của người được phỏng vấn với
trẻ
Định
danh Phát vấn
Biến riêng đối với NVYT
Chuyên môn về y
tế
Bằng cấp cao nhất về chuyên môn y tế của đối
tượng
Định
danh Phát vấn
Vị trí công tác Vị trí công tác hiện tại của đối tượng Định
danh Phát vấn
Biến riêng đối với GVMN
Chuyên môn về
sư phạm Bằng cấp cao nhất về sư phạm của đối tượg
Định
danh Phát vấn
Kinh nghiệm
chăm sóc trẻ cần
giáo dục đặc biệt
Đối tượng đã từng hay chưa bao giờ chăm sóc
trẻ cần giáo dục đặc biệt (trẻ bị “chậm” về thể
chất/ tinh thần/ tình cảm làm ảnh hưởng đến
sự phát triển tổng thể và bình thường của trẻ
như trẻ tự kỷ, thiểu năng trí tuệ…)
Nhị
phân Phát vấn
166
Loại trường đang
công tác Loại trường mầm non đối tượng đang công tác
Định
danh Phát vấn
B. Kiến thức về RLTK ở trẻ*
Kiến thức về khái niệm/bản chất của RLTK
Tự kỷ là một
dạng rối loạn
giao tiếp
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Tự kỷ là
một dạng rối loạn về giao tiếp”
Thứ
bậc Phát vấn
Tự kỷ là một
dạng rối loạn về
cảm xúc
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Tự kỷ là
một dạng rối loạn về cảm xúc”
Thứ
bậc Phát vấn
Tự kỷ là một
khuyết tật về phát
triển
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Tự kỷ là
một khuyết tật về phát triển”
Thứ
bậc Phát vấn
Kiến thức về mốc phát triển của trẻ RLTK
Dấu hiệu lúc trẻ 9
tháng tuổi
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ 9
tháng không đáp ứng tương tác bằng âm
thanh, nụ cười, không giơ tay đòi bế là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Dấu hiệu về ngôn
ngữ lúc trẻ 12
tháng tuổi
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ 12
tháng chưa biết nói bập bẹ là một trong những
dấu hiệu của tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Dấu hiệu về hành
động lúc trẻ 12
tháng tuổi
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ 12
tháng chưa biết chỉ ngón trỏ là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Dấu hiệu về ngôn
ngữ lúc trẻ 16
tháng tuổi
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ 16
tháng tuổi chưa nói được từ đơn là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Dấu hiệu về ngôn Đối tượng đồng ý/phân vân/không đồng ý về Thứ Phát vấn
167
ngữ lúc trẻ 24
tháng tuổi
phát biểu “Trẻ 24 tháng tuổi chưa nói được 2
từ đơn là một trong những dấu hiệu của tự kỷ”
bậc
Dấu hiệu chung
về ngôn ngữ, xã
hội tại bất kỳ thời
điểm nào
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ bị
mất đi kỹ năng ngôn ngữ hoặc xã hội đã hình
thành từ trước đó tại bất kỳ độ tuổi nào là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Kiến thức về đặc điểm của trẻ RLTK
Đặc điểm về
hành vi của trẻ tự
kỷ
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ tự
kỷ thường có vấn đề về hành vi”
Thứ
bậc Phát vấn
Đặc điểm về tình
cảm của trẻ tự kỷ
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ tự
kỷ không biết thể hiện tình cảm, thậm chí với
cả cha mẹ mình”
Thứ
bậc Phát vấn
Kiến thức về nguyên nhân của trẻ RLTK
Do tổn thương
não bộ
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Tự kỷ có
nguyên nhân từ tổn thương não bộ”.
Thứ
bậc Phát vấn
Do cha mẹ thiếu
kỹ năng chăm
sóc
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ mắc
tự kỷ do cha mẹ thiếu kỹ năng chăm sóc con” Thứ
bậc Phát vấn
Do trẻ được cho
xem ti vi nhiều
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Trẻ mắc
tự kỷ vì được cho xem ti vi nhiều”
Thứ
bậc Phát vấn
Kiến thức về sàng lọc, chẩn đoán trẻ RLTK
Chẩn đoán bằng
cách hỏi NCST
về các mốc phát
triển kết hợp
quan sát
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với
người chăm sóc trẻ về các mốc phát triển kết
hợp với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ”.
Thứ
bậc Phát vấn
168
Khả năng phát
hiện trẻ RLTK
của NCST
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “NCST
có thể phát hiện dấu hiệu bất thường của trẻ
nghi mắc tự kỷ
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng phát
hiện trẻ RLTK
của GVMN
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “GVMN
có thể phát hiện dấu hiệu bất thường của trẻ
nghi mắc tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng phát
hiện trẻ RLTK
của NVYTTB
Đánh giá của đối tượng về phát biểu
“NVYTTB có thể phát hiện các dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ”
Thứ
bậc Phát vấn
Sự cần thiết phải
sàng lọc chậm
phát triển và
khuyết tật cho trẻ
dưới 24 tháng
tuổi
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Tất cả
trẻ dưới 24 tháng tuổi cần được sàng lọc chậm
phát triển và khuyết tật” Thứ
bậc Phát vấn
Kiến thức về điều trị cho trẻ RLTK
Khả năng điều trị
bằng thuốc tây y
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
điều trị cho trẻ tự kỷ bằng thuốc Tây y”
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng điều trị
bằng châm cứu,
bấm huyệt
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
điều trị cho trẻ tự kỷ bằng châm cứu, bấm
huyệt”
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng điều trị
bằng uống thuốc
đông y
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
điều trị cho trẻ tự kỷ bằng cách uống thuốc
đông y để giải trừ chất độc khỏi cơ thể”
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng điều trị
bằng can thiệp
ngôn ngữ
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
điều trị cho trẻ tự kỷ bằng can thiệp về ngôn
ngữ”
Thứ
bậc Phát vấn
Khả năng điều trị
bằng luyện tập
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Có thể
điều trị cho trẻ tự kỷ bằng tập luyện vận
Thứ
bậc Phát vấn
169
vận động động”
Cần người có
nghiệp vụ sư
phạm
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Điều trị
cho trẻ tự kỷ cần người có nghiệp vụ sư
phạm”
Thứ
bậc Phát vấn
Cần được thực
hiện bắt đầu từ y
tế cơ sở
Đánh giá của đối tượng về phát biểu “Điều trị
cho trẻ tự kỷ cần được thực hiện bắt đầu từ y
tế cơ sở (tuyến xã/phường)”
Thứ
bậc Phát vấn
C. Thái độ về RLTK ở trẻ
Thái độ với trí
tuệ của TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi cho rằng hầu hết trẻ tự kỷ đều bị
thiểu năng trí tuệ”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ về khả
năng chữa khỏi
của tự kỷ
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi cho rằng tự kỷ không chữa được”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ về lợi ích
của can thiệp cho
TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu
như không mang lại lợi ích gì cho trẻ”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ về việc
gây rắc rối của
TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối
cho những trẻ chơi cùng”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ về việc
gây hại của TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi cảm thấy hầu hết trẻ tự kỷ thường có
hành vi gây hại đến người xung quanh”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ khi cho
con mình chơi
cùng TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Nếu một gia đình có con tự kỷ chuyển
đến sống cạnh nhà tôi, tôi sẽ cảm thấy không
thoải mái khi cho con tôi chơi cùng”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ với khả
năng nhận biết
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi thấy mình có thể nhận biết một số
Thứ
bậc Phát vấn
170
TTK dấu hiệu để phát hiện trẻ tự kỷ”
Thái độ về khả
năng hồi phục
của trẻ TTK khi
được can thiệp
sớm
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi tin rằng nếu được can thiệp sớm thì
trẻ tự kỷ có thể hồi phục hoàn toàn”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ về tính
hệ thống của các
can thiệp cho
TTK
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Can thiệp cho trẻ tự kỷ cần mang tính
hệ thống từ tuyến cơ sở (y tế thôn bản, trạm y
tế xã) đến tuyến cao hơn”
Thứ
bậc Phát vấn
Thái độ khi cho
TTK học tại
trường/ lớp
chuyên biệt
Mức độ không đồng ý của đối tượng với phát
biểu “Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được
học tại các trường/lớp chuyên biệt”
Thứ
bậc Phát vấn
D. Thực hành xử lý khi nghi ngờ trẻ RLTK
Đã từng quan sát
và nghi ngờ TTK
Đối tượng đã từng quan sát một đứa trẻ và có
nghi ngờ đứa trẻ mắc tự kỷ.
Nhị
phân Phát vấn
Tuổi của trẻ vào
thời điểm nghi
ngờ
Tuổi tính theo tháng dương lịch Rời
rạc Phát vấn
Quan hệ của đối
tượng với trẻ
nghi ngờ mắc
RLTK
Mối quan hệ (ruột thịt hoặc không phải ruột
thịt) của đối tượng với trẻ mà đối tượng đã
nghi ngờ mắc RLTK
Định
danh Phát vấn
Xử trí khi nghi
ngờ trẻ RLTK
Cách xử trí của đối tượng khi nghi ngờ trẻ mắc
RLTK
Định
danh Phát vấn
Lý do không làm
gì khi nghi ngờ trẻ
RLTK
Ly do đối tượng không làm gì khi nghi ngờ trẻ
mắc RLTK
Định
danh Phát vấn
171
E. Tính phù hợp của chương trình truyền thông***
Tiếp xúc với áp
phích
Đối tượng đã từng hoặc chưa từng tiếp xúc với
áp phích về RLTK ở trẻ của chương trình
truyền thông
Nhị
phân Phát vấn
Tiếp xúc với
banner
Đối tượng đã từng hoặc chưa từng tiếp xúc với
banner về RLTK ở trẻ của chương trình truyền
thông
Nhị
phân Phát vấn
Tiếp xúc với tờ
rơi
Đối tượng đã từng hoặc chưa từng tiếp xúc với
tờ rơi về RLTK ở trẻ của chương trình truyền
thông
Nhị
phân Phát vấn
Tiếp xúc với bài
phát thanh tại xã
Đối tượng đã từng hoặc chưa từng tiếp xúc với
bài phát thanh về RLTK ở trẻ của chương trình
truyền thông
Nhị
phân Phát vấn
Nhắc lại thông
điệp truyền thông
Đối tượng nhắc lại được thông điệp “Cần phát
hiện sớm các dấu hiệu của trẻ nghi mắc tự kỷ”
Nhị
phân Phát vấn
Đối tượng nhắc lại được thông điệp “Trẻ tự kỷ
cần được can thiệp càng sớm càng tốt”
Nhị
phân Phát vấn
Đối tượng nhắc lại được thông điệp “Cần có
sự phối hợp của cha mẹ, cán bộ y tế xã, giáo
viên mầm non để phát hiện sớm dấu hiệu của
trẻ nghi mắc tự kỷ”
Nhị
phân Phát vấn
Đối tượng nhắc lại được thông điệp “Việc
khẳng định chính xác trẻ có tự kỷ hay không
phải do bác sĩ có chuyên môn ở tuyến tỉnh trở
lên thực hiện”
Nhị
phân Phát vấn
Ghi chú:
*: Các câu hỏi về Kiến thức: Đối tượng có 3 lựa chọn: Đúng - Không biết/Phân vân - Sai;
**: Các câu hỏi về Thái độ: Đối tượng có 5 lựa chọn (Từ 1 đến 5): Rất đồng ý – Đồng ý –
Phân vân – Không đồng ý – Rất không đồng ý
***: Các biến số chỉ có ở số liệu sau can thiệp
172
Phụ lục 4: Bộ công cụ định lượng
PHẦN GIỚI THIỆU
PHIẾU KHẢO SÁT
QUAN ĐIỂM CUA ……[GHI NHÓM ĐỐI TƯỢNG]…..
VỀ RỐI LOẠN TỰ KỶ Ở TRẺ EM
Xin chào Ông/Bà/Anh/Chị! Trường Đại học Y tế công cộng, Bệnh viện Nhi
Trung ương, Khoa Y Dược (Đại học Quốc gia) đang tiến hành tìm hiểu quan điểm và
kiến thức của ……[GHI NHÓM ĐỐI TƯỢNG ] …………. về rối loạn tự kỷ ở trẻ em.
Các thông tin thu thập được từ cuộc khảo sát này sẽ giúp chúng tôi xây dựng chương
trình truyền thông về hội chứng tự kỷ tại cộng đồng, tài liệu tập huấn cho cán bộ y tế,
và xây dựng mô hình quản ly trẻ tự kỷ phù hợp với thực tế tại địa phương
Phiếu khảo sát này không nhằm đánh giá câu trả lời của ông/bà/anh/chị đúng
hay sai. Câu trả lời có thể khác nhau tùy theo trải nghiệm của cá nhân. Phiếu câu hỏi
không có tên và địa chỉ nên các nội dung trả lời của ông/bà sẽ được đảm bảo tính
khuyết danh và bí mật. Ông/Bà/Anh/Chị cũng có thể từ chối tham gia nghiên cứu, rút
khỏi nghiên cứu hoặc từ chối trả lời một số câu hỏi của chúng tôi nếu Anh/chị cảm
thấy không thoải mái. Câu trả lời từ chính nhận biết và quan điểm của ông/bà là những
thông tin vô cùng quy báu đối với chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn Ông/Bà/Anh/Chị đã tham gia vào nghiên cứu của chúng tôi!
Tôi đã đọc và đồng ý tham gia
Chữ kí
…………………………………
Thời gian: ngày …………./tháng…………/năm………………
Địa điểm:………………………………………………………………….
Điều tra viên:…………………………………………………………..
Mã phiếu: ……………………………………………………………….
173
PHẦN THÔNG TIN CHUNG CUA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ:
Stt Câu hỏi Trả lời
A1. Năm sinh (tính theo dương lịch) _____________
A2. Giới 1. Nam
2. Nữ
A3. Cấp học cao nhất đã hoàn thành 1. Không biết chữ
2. Tiểu học (lớp 1-5)
3. Trung học cơ sở (lớp 6-9)
4. Trung học phổ thông (lớp 10-12)
5. Trung cấp/Cao đẳng
6. Đại học
7. Trên đại học
8. Không đi học nhưng biết đọc, biết
viết
A4. Nghề nghiệp 1. Công chức, viên chức
2. Công nhân
3. Nông dân
4. Cán bộ tổ chức tư nhân
5. Tự kinh doanh/buôn bán
6. Không có việc làm
7. Nghỉ hưu
8. Nội trợ
88. Khác (ghi cụ thể): _______________
A5. Dân tộc 1. Kinh
2. Hoa
3. Mường
4. Thái
88. Khác (ghi cụ thể): _______________
A6. Mối quan hệ với trẻ 1. Bố
2. Mẹ
3. Ông
4. Bà
88. Khác (ghi cụ thể): _______________
174
ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN MẦM NON
STT Câu hỏi Trả lời
A1. Năm sinh (tính theo dương lịch) _____________
A2. Giới tính 1. Nam
2. Nữ
A3. Cấp học cao nhất đã hoàn thành 1. Tốt nghiệp trung học cơ sở (lớp 9)
2. Tốt nghiệp trung học phổ thông (lớp
12)
3. Trung cấp/Cao đẳng
4. Đại học
5. Trên đại học
A4. Bằng cấp chuyên môn về sư phạm
mà chị đã đạt được
1. Trung cấp sư phạm mầm non
2. Cao đẳng sư phạm mầm non
3. Đại học sư phạm mầm non
4. Chứng chỉ đào tạo mầm non
88. Khác (ghi cụ thể): ______________
A5. Chị có được đào tạo về giáo dục
đặc biệt không?
1. Có
2. Không
A6. Chị có kinh nghiệm chăm sóc trẻ
cần được giáo dục đặc biệt không?
1. Có
2. Không
A7. Loại trường mà chị đang dạy 1. Trường của thành phố
2. Trường của huyện
3. Trường của xã/làng
4. Trường tư thục
5. Trường bán công
88. Khác (ghi cụ thể): _____________
A8. Dân tộc 1. Kinh
2. Hoa
3. Mường
4. Thái
89. Khác (ghi cụ thể): _____________
175
ĐỐI VỚI CAN BỘ Y TẾ
STT Câu hỏi Trả lời
A1. Năm sinh (tính theo dương lịch) _____________
A2. Giới tính 1. Nam
2. Nữ
A3. Cấp học cao nhất đã hoàn thành 1. Tốt nghiệp trung học cơ sở (lớp 9)
2. Tốt nghiệp trung học phổ thông (lớp
12)
3. Trung cấp/Cao đẳng
4. Đại học
5. Trên đại học
A4. Bằng cấp chuyên môn về y tế cao
nhất đã đạt được
1. Bác sĩ
2. Dược sĩ
3. Y tá/ Điều dưỡng
4. Y sĩ/ Nữ hộ sinh
5. Đông y
6. Sơ cấp y tế (3 tháng, 6 tháng)
7. Chưa qua đào tạo chuyên môn về y tế
A5. Vị trí công tác hiện nay của anh 1. Y tế thôn bản
2. Cán bộ y tế xã/huyện/tỉnh
A6. Dân tộc 1. Kinh
2. Hoa
3. Mường
4. Thái
90. Khác (ghi cụ thể): ______________
176
KIẾN THỨC VỀ RỐI LOẠN TỰ KỶ
(Chung cho cả 3 đối tượng)
Ông/Bà/Anh/Chị hãy cho biết quan điểm của mình về một số nội dung liên quan
đến rối loạn tự kỷ dưới đây
Stt Nội dung Đúng Sai
Không
biết/Phân
vân
B1. Tự kỷ là một khuyết tật về phát triển, thường khởi
phát trước 3 tuổi và kéo dài suốt cuộc đời. 1 2 9
B2. Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc, ảnh hưởng
đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ. 1 2 9
B3. Tự kỷ là một dạng rối loạn về giao tiếp, ảnh hưởng
đến khả năng giao tiếp/tương tác xã hội của trẻ. 1 2 9
B4. Tự kỷ có nguyên nhân từ tổn thương não bộ. 1 2 9
B5. Trẻ 9 tháng không đáp ứng tương tác bằng âm
thanh, nụ cười, không giơ tay đòi bế là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ.
1 2 9
B6. Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ. 1 2 9
B7. Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ. 1 2 9
B8. Trẻ 16 tháng tuổi chưa nói được từ đơn là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ. 1 2 9
B9. Trẻ 24 tháng tuổi chưa nói được 2 từ đơn là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ. 1 2 9
B10. Trẻ bị mất đi kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng xã
hội đã hình thành từ trước đó (VD: trẻ đã biết tự
cất giày vào tủ nhưng một thời gian sau không làm
được việc đó nữa) là một trong những dấu hiệu của
tự kỷ.
1 2 9
B11. Trẻ tự kỷ thường có vấn đề về hành vi. 1 2 9
B12. Trẻ tự kỷ không biết thể hiện tình cảm, thậm chí
với cả cha mẹ mình. 1 2 9
B13. Trẻ mắc tự kỷ do cha mẹ thiếu kỹ năng chăm sóc
con. 1 2 9
177
Stt Nội dung Đúng Sai
Không
biết/Phân
vân
B14. Trẻ mắc tự kỷ vì được cho xem ti vi nhiều. 1 2 9
B15. Có thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với
người chăm sóc trẻ về các mốc phát triển kết hợp
với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ.
1 2 9
B16. Cha mẹ có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường
của trẻ nghi mắc tự kỷ. 1 2 9
B17. Giáo viên mầm non có thể phát hiện các dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 1 2 9
B18. Nhân viên y tế thôn bản có thể phát hiện các dấu
hiệu bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 1 2 9
B19. Tất cả trẻ dưới 24 tháng tuổi cần được sàng lọc về
chậm phát triển và khuyết tật. 1 2 9
B20. Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng thuốc Tây
y. 1 2 9
B21. Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng châm cứu,
bấm huyệt. 1 2 9
B22. Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng cách uống
thuốc đông y để giải trừ chất độc khỏi cơ thể. 1 2 9
B23. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng can thiệp về
ngôn ngữ 1 2 9
B24. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng tập luyện vận
động. 1 2 9
B25. Điều trị cho trẻ tự kỷ cần người có nghiệp vụ sư
phạm.
1 2 9
B26. Điều trị cho trẻ tự kỷ cần được thực hiện bắt đầu từ
y tế cơ sở (tuyến xã/phường).
1 2 9
178
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI RỐI LOẠN TỰ KỶ
(Chung cho cả 3 đối tượng)
Ông/Bà/ Anh/Chị hãy cho biết mức độ đồng ý của mình với các nội dung dưới đây.
Stt Nội dung Rất
đồng ý
Đồng
ý
Phân
vân
Không
đồng ý
Rất
không
đồng ý
C1. Tôi cho rằng hầu hết trẻ tự kỷ đều
bị thiểu năng trí tuệ 1 2 3 4 5
C2. Tôi cho rằng tự kỷ không chữa
được 1 2 3 4 5
C3. Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự
kỷ hầu như không mang lại lợi ích
gì cho trẻ
1 2 3 4
5
C4. Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây
rắc rối cho những trẻ chơi cùng 1 2 3 4 5
C5. Tôi cảm thấy hầu hết trẻ tự kỷ
thường có hành vi gây hại đến
người xung quanh
1 2 3 4 5
C6. Nếu một gia đình có con tự kỷ
chuyển đến sống cạnh nhà tôi, tôi
sẽ cảm thấy không thoải mái khi
cho con tôi chơi cùng
1 2 3 4 5
C7. Tôi thấy mình có thể nhận biết
một số dấu hiệu để phát hiện trẻ tự
kỷ.
1 2 3 4 5
C8. Tôi tin rằng nếu được can thiệp
sớm thì trẻ tự kỷ có thể hồi phục
hoàn toàn.
1 2 3 4 5
C9. Can thiệp cho trẻ tự kỷ cần mang
tính hệ thống từ tuyến cơ sở (y tế
thôn bản, trạm y tế xã) đến tuyến
cao hơn.
1 2 3 4 5
C10. Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần
được học tại các trường/lớp
chuyên biệt.
1 2 3 4 5
179
THỰC HÀNH XỬ KÝ KHI NGHI NGỜ TRẺ RỐI LOẠN TỰ KỶ
(Chung cho cả 3 đối tượng)
Stt Câu hỏi Phương án trả lời
D1. Anh/chị đã bao giờ quan sát
một đứa trẻ và có nghi ngờ đứa
trẻ mắc tự kỷ chưa?
0. Chưa từng CHUYỂN PHẦN E
1. Đã từng
D2. Đứa trẻ đó mấy tháng tuổi vào
thời điểm anh/chị nghi ngờ?
…………………… tháng tuổi
D3. Đứa trẻ đó là ai? 1. Con/cháu hàng xóm
2. Con của người họ hàng
3. Con của bạn bè
4. Con/cháu của anh/chị
5. Bạn cùng trường/lớp với con anh/chị
6. Trẻ mầm non trường/lớp anh/chị
7. Trẻ đến khám
88. Khác (ghi ro): ……………………….
D4. Anh/chị đã làm gì khi nghi ngờ
đứa trẻ đó mắc tự kỷ?
(có thể chọn nhiều phương án)
Chỉ cần chọn vào một trong
các số 1, 2, 3, 88 CHUYỂN
SANG PHẦN E
0. Không làm gì hỏi tiếp câu D6
1. Khuyên cha mẹ/người chăm sóc trẻ đưa
trẻ đi khám ở cơ sở y tế có chuyên môn.
2. Tư vấn cho cha mẹ/người chăm sóc trẻ
cách chăm sóc/can thiệp cho trẻ tại nhà.
3. Tìm tài liệu về tự kỷ đưa cho cha
mẹ/người chăm sóc trẻ xem.
88. Khác (ghi ro): ……………………….
D5. Vì sao anh/chị không làm gì? 1. Vì không chắc chắn với những gì mình
biết về tự kỷ.
2. Vì sợ cha mẹ đứa trẻ cho rằng mình nói
không tốt về con của họ.
3. Vì không biết phải làm gì.
88. Khác (ghi ro) …………………………
180
TRUYỀN THÔNG VỀ RỐI LOẠN TỰ KỶ
(Chỉ đối với bộ câu hỏi sau can thiệp)
Stt Câu hỏi Phương án trả lời
E1. Trong vòng 1 năm qua,
anh/chị có nhận được/tiếp
cận với bất kỳ thông tin nào
về tự kỷ/rối loạn tự kỷ ở trẻ
em không?
0. Không Kết thúc phỏng vấn
1. Có
E2. Nếu có, anh/chị đã nhận
được thông tin về tự kỷ/rối
loạn tự kỷ ở trẻ em từ nguồn
nào?
(Có thể chọn nhiều phương
án)
1. Loa phát thanh tại xã/phường
2. Tờ rơi
3. Banner
4. Áp phích
5. Cán bộ y tế xã/phường
6. Bạn bè, người cùng xóm/xã
7. Ti vi
8. Đài phát thanh
9. Trên trang web/mạng
88. Khác (ghi ro)………………………………
Đưa ra các hình ảnh về các sản phẩm truyền thông của chương trình
E3. Anh/Chị đã bao giờ
nhận/đọc được tờ rơi về tự
kỷ ở trẻ em (như ảnh) chưa?
0. Chưa bao giờ nhận được
1. Có
98. Không nhớ/Không chắc chắn
E4. Anh/Chị đã bao giờ nhìn
thấy áp phích về tự kỷ ở trẻ
em (như ảnh) chưa?
0. Chưa bao giờ nhận được
1. Có
98. Không nhớ/Không chắc chắn
E5. Anh/Chị đã bao giờ nhìn
thấy banner về tự kỷ ở trẻ
em (như ảnh) chưa?
0. Chưa bao giờ nhận được
1. Có
98. Không nhớ/Không chắc chắn
E6. Anh/Chị đã bao giờ nghe
thấy bài phát thanh nào về tự
kỷ ở trẻ em phát trên loa
phát thanh của xã/phường
mình chưa?
0. Chưa bao giờ nghe thấy
1. Đã từng nghe trên loa phát thanh
xã/phường
98. Không nhớ/Không chắc chắn
181
Stt Câu hỏi Phương án trả lời
E7. Trong các tài liệu truyền
thông liên quan đến tự kỷ/rối
loạn tự kỷ ở trẻ em, anh/chị
thích tài liệu nào?
(có thể chọn nhiều phương
án)
0. Không thích hoạt động/tài liệu nào
1. Tờ rơi
2. Banner
3. Áp phích
4. Bài phát thanh qua loa xã/phường
E8. Qua các tài liệu truyền thông
liên quan đến tự kỷ/ rối loạn
tự kỷ ở trẻ em, anh/chị rút ra
được thông tin gì?
(có thể chọn nhiều phương
án)
1. Cần phát hiện sớm các dấu hiệu của trẻ
nghi mắc tự kỷ.
2. Trẻ tự kỷ cần được can thiệp càng sớm
càng tốt.
3. Cần có sự phối hợp của cha mẹ, cán bộ y tế
xã, giáo viên mầm non để phát hiện sớm
dấu hiệu của trẻ nghi mắc tự kỷ.
4. Việc khẳng định chính xác trẻ có tự kỷ hay
không phải do bác sĩ có chuyên môn ở
tuyến tỉnh trở lên thực hiện.
182
Phụ lục 5: Bảng chấm điểm kiến thức cơ bản về RLTK ở trẻ
A. CHẤM ĐIỂM KIẾN THỨC
Stt Nội dung Đúng Sai Không
biết
B1. Tự kỷ là một khuyết tật về phát triển, thường khởi
phát trước 3 tuổi và kéo dài suốt cuộc đời. 2 0 1
B2. Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc, ảnh hưởng
đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ. 2 0 1
B3. Tự kỷ là một dạng rối loạn về giao tiếp, ảnh hưởng
đến khả năng giao tiếp/tương tác xã hội của trẻ. 2 0 1
B4. Tự kỷ có nguyên nhân từ tổn thương não bộ. 2 0 1
B5. Trẻ 9 tháng không đáp ứng tương tác bằng âm
thanh, nụ cười, không giơ tay đòi bế là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ.
2 0 1
B6. Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ. 2 0 1
B7. Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ là một trong
những dấu hiệu của tự kỷ. 2 0 1
B8. Trẻ 16 tháng tuổi chưa nói được từ đơn là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ. 2 0 1
B9. Trẻ 24 tháng tuổi chưa nói được 2 từ đơn là một
trong những dấu hiệu của tự kỷ. 2 0 1
B10. Trẻ bị mất đi kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng xã
hội đã hình thành từ trước đó (VD: trẻ đã biết tự cất
giày vào tủ nhưng một thời gian sau không làm
được việc đó nữa) là một trong những dấu hiệu của
tự kỷ.
2 0 1
B11. Trẻ tự kỷ thường có vấn đề về hành vi. 2 0 1
B12. Trẻ tự kỷ không biết thể hiện tình cảm, thậm chí
với cả cha mẹ mình. 2 0 1
B13. Trẻ mắc tự kỷ do cha mẹ thiếu kỹ năng chăm sóc
con. 0 2 1
B14. Trẻ mắc tự kỷ vì được cho xem ti vi nhiều. 0 2 1
B15. Có thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với
người chăm sóc trẻ về các mốc phát triển kết hợp
với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ.
2 0 1
B16. Cha mẹ có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường 2 0 1
183
Stt Nội dung Đúng Sai Không
biết
của trẻ nghi mắc tự kỷ.
B17. Giáo viên mầm non có thể phát hiện các dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 2 0 1
B18. Nhân viên y tế thôn bản có thể phát hiện các dấu
hiệu bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 2 0 1
B19. Tất cả trẻ dưới 24 tháng tuổi cần được sàng lọc về
tự kỷ. 2 0 1
B20. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng thuốc Tây y. 0 2 1
B21. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng châm cứu, bấm
huyệt. 0 2 1
B22. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng cách uống thuốc
đông y để giải trừ chất độc khỏi cơ thể. 0 2 1
B23. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng can thiệp về ngôn
ngữ 2 0 1
B24. Có thể điều trị cho trẻ tự kỷ bằng tập luyện vận
động. 2 0 1
B25. Điều trị cho trẻ tự kỷ cần người có nghiệp vụ sư
phạm. 0 2 1
B26. Điều trị cho trẻ tự kỷ cần được thực hiện bắt đầu từ
y tế cơ sở (tuyến xã/phường). 2 0 1
B. CHẤM ĐIỂM THÁI ĐỘ
Lựa chọn Câu C1-C2-C3-C4-C5-C6-C10
(Giữ nguyên điểm chấm trong bộ
công cụ)
Câu C7, C8, C9
(Đảo ngược điểm
chấm)
Rất đồng ý 1 điểm 5 điểm
Đồng ý 2 điểm 4 điểm
Phân vân 3 điểm 3 điểm
Không đồng ý 4 điểm 2 điểm
Rất không đồng ý 5 điểm 1 điểm
184
Phụ lục 6: Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo đánh giá kiến thức, thái độ về
RLTK ở trẻ cho từng nhóm đối tượng
Phần A: Đối với nhóm đối tượng là người chăm sóc trẻ
A.1. Thang đo đánh giá kiến thức
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) được thực hiện để kiểm
tra các điều kiện cho phép thực hiện
phân tích nhân tố. Kết quả kiểm tra ma
trận tương quan cho thấy, không có tiểu
mục nào có hệ số tương quan với ít
nhất một trong các tiểu mục còn lại
nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết quả
kiểm định Barlett’s với p-value = 0,000
< 0,05, chỉ số KMO là 0,641> 0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
Số lượng các nhân tố của thang đo được
lựa chọn dựa trên kết quả của biểu đồ
Scree với tiêu chí lựa chọn các nhân tố
có trị riêng (tổng số biến thiên của thang
đo giải thích bởi nhân tố đó) lớn hơn 1
và kết quả phân tích hợp lý về mặt ý
nghĩa của các tiểu mục trong các nhân tố.
Kết quả phân tích cho thấy có 3 nhân tố
đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 13 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 3 nhân tố: Nhân tố 1
gồm 5 phát biểu về những dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo các mốc phát triển (hay
còn gọi là “dấu hiệu cờ đỏ”); Nhân tố 2 gồm 5 phát biểu về phát hiện sớm và can thiệp
hiệu quả cho trẻ RLTK; và Nhân tố 3 gồm 3 phát biểu về những kiến thức sai lầm
trong điều trị RLTK ở trẻ:
185
Nội dung Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả năng
giải thích độ
biến thiên
kiến thức
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,79 36,6%
B5 Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương tác
âm thanh, nụ cười hoặc không giơ tay đòi bế 0,48
B6 Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 0,50
B7 Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 0,64
B8 Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 0,67
B9 Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 0,55
Nhân tố 2: Kiến thức về phát hiện sớm và can thiệp hiệu
quả cho trẻ RLTK
0,58 24,0%
B16 Cha mẹ/NCST có thể phát hiện sớm dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ 0,41
B17 GVMN có thể phát hiện sớm dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ 0,32
B19 Tất cả trẻ dưới 24 tháng tuổi cần được
sàng lọc về tự kỷ 0,30
B23 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là
can thiệp về ngôn ngữ 0,30
B24 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là
tập luyện vận động 0,41
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ 0,62 21,9%
B20 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng thuốc
Tây y. 0,32
B21 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng châm
cứu, bấm huyệt. 0,40
B22 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng cách
uống thuốc đông y để giải trừ chất độc khỏi
cơ thể. 0,59
Cả thang đo 0,65 82,5%
- Độ tin cậy của thang đo
186
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha của từng
nhân tố và của cả thang đo. Kết quả cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của nhân tố 1,
nhân tố 2, nhân tố 3 và cả thang đo lần lượt là 0,79; 0,58; 0,62 và 0,65.
A.2. Thang đo đánh giá thái độ
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) được thực hiện để kiểm
tra các điều kiện cho phép thực hiện
phân tích nhân tố. Kết quả kiểm tra
ma trận tương quan cho thấy, không
có tiểu mục nào có hệ số tương quan
với ít nhất một trong các tiểu mục còn
lại nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết
quả kiểm định Barlett’s với p-value =
0,000 < 0,05, chỉ số KMO là 0,717>
0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
Số lượng các nhân tố của thang đo
được lựa chọn dựa trên kết quả của
biểu đồ Scree với tiêu chí lựa chọn các
nhân tố có trị riêng (tổng số biến thiên
của thang đo giải thích bởi nhân tố đó)
lớn hơn 1 và kết quả phân tích hợp lý
về mặt y nghĩa của các tiểu mục trong
các nhân tố. Kết quả phân tích cho thấy
có 1 nhân tố đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 6 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 1 nhân tố: thái độ về trẻ
RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK:
187
Nội dung Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả năng
giải thích độ
biến thiên
thái độ
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,76 52,8%
C1 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 0,75
C2 Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 0,70
C3 Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như
không mang lại lợi ích gì cho trẻ 0,73
C4 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng 0,72
C5 Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây
hại đến người xung quanh 0,74
C6 Nếu một gia đình có con tự kỷ chuyển đến sống
cạnh nhà tôi, tôi sẽ cảm thấy không thoải mái
khi cho con tôi chơi cùng. 0,72
- Độ tin cậy của thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, kết quả cho
thấy hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,76
188
Phần B: Đối với nhóm đối tượng là giáo viên mầm non
B.1. Thang đo đánh giá kiến thức
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) được thực hiện để kiểm
tra các điều kiện cho phép thực hiện
phân tích nhân tố. Kết quả kiểm tra ma
trận tương quan cho thấy, không có tiểu
mục nào có hệ số tương quan với ít
nhất một trong các tiểu mục còn lại
nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết quả
kiểm định Barlett’s với p-value = 0,000
< 0,05, chỉ số KMO là 0,653> 0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
Số lượng các nhân tố của thang đo
được lựa chọn dựa trên kết quả của
biểu đồ Scree với tiêu chí lựa chọn các
nhân tố có trị riêng (tổng số biến thiên
của thang đo giải thích bởi nhân tố đó)
lớn hơn 1 và kết quả phân tích hợp lý
về mặt y nghĩa của các tiểu mục trong
các nhân tố. Kết quả phân tích cho thấy
có 4 nhân tố đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 17 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 4 nhân tố: Nhân tố 1
gồm 5 phát biểu về những dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo các mốc phát triển (hay
còn gọi là “dấu hiệu cờ đỏ”); Nhân tố 2 gồm 7 phát biểu về những thông tin cơ bản của
RLTK (bản chất của RLTK, phát hiện, chẩn đoán và can thiệp hiệu quả cho trẻ
RLTK); Nhân tố 3 gồm 3 phát biểu về những kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở
trẻ và Nhân tố 4 gồm 2 phát biểu về đặc điểm trẻ tự kỷ:
189
Nội dung Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả năng
giải thích độ
biến thiên
kiến thức
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,82 37,4%
B5 Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương tác âm
thanh, nụ cười hoặc không giơ tay đòi bế 0.51
B6 Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 0.61
B7 Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 0.58
B8 Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 0.66
B9 Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 0.66
Nhân tố 2: Kiến thức về những thông tin cơ bản của RLTK
ở trẻ
0,71 23,7%
B2 Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc, ảnh
hưởng đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ. 0.45
B3 Tự kỷ là một dạng rối loạn về giao tiếp, ảnh
hưởng đến khả năng giao tiếp/tương tác xã hội
của trẻ. 0.41
B11 Trẻ tự kỷ thường có vấn đề về hành vi (hành
vi hạn hẹp và lặp đi lặp lại) 0.35
B15 Giáo viên mầm non có thể phát hiện các dấu
hiệu bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ. 0.41
B17 Có thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện
với người chăm sóc trẻ về các mốc phát triển
kết hợp với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ. 0.46
B23 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là can
thiệp về ngôn ngữ 0.55
B24 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là tập
luyện vận động 0.44
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ 0,76 14,9%
B20 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng thuốc
Tây y. 0,32
B21 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng châm
cứu, bấm huyệt. 0,40
B22 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng cách 0,59
190
uống thuốc đông y để giải trừ chất độc khỏi cơ
thể.
Nhân tố 4: Kiến thức về đặc điểm của trẻ RLTK 0,28 7,5%
B10 Trẻ bị mất đi kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng
xã hội đã hình thành từ trước đó 0.31
B12 Trẻ tự kỷ không biết thể hiện tình cảm, thậm
chí với cả cha mẹ mình. 0.32
- Độ tin cậy của thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha của từng
nhân tố và của cả thang đo. Kết quả cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của Nhân tố 4 là
0,28 thấp hơn 0,6, do đó chúng tôi loại bỏ các câu hỏi thuộc nhân tố này khỏi thang đo.
Thang đo cuối cùng bao gồm 15 câu hỏi chia thành 3 Nhân tố với hệ số Cronbach’s
Alpha của nhân tố 1, nhân tố 2, nhân tố 3 và cả thang đo lần lượt là 0,82; 0,71; 0,76 và
0,68.
B.2. Thang đo đánh giá thái độ
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO
(Kaiser-Meyer-Olkin) được thực hiện
để kiểm tra các điều kiện cho phép
thực hiện phân tích nhân tố. Kết quả
kiểm tra ma trận tương quan cho
thấy, không có tiểu mục nào có hệ số
tương quan với ít nhất một trong các
tiểu mục còn lại nằm ngoài khoảng từ
0,3 - 0,7. Kết quả kiểm định Barlett’s
với p-value = 0,000 < 0,05, chỉ số
KMO là 0,681> 0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
191
Số lượng các nhân tố của thang đo
được lựa chọn dựa trên kết quả của
biểu đồ Scree với tiêu chí lựa chọn các
nhân tố có trị riêng (tổng số biến thiên
của thang đo giải thích bởi nhân tố đó)
lớn hơn 1 và kết quả phân tích hợp lý
về mặt ý nghĩa của các tiểu mục trong
các nhân tố. Kết quả phân tích cho
thấy có 1 nhân tố đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 6 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 1 nhân tố: thái độ về trẻ
RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK:
Nội dung Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả năng
giải thích độ
biến thiên
kiến thức
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,75 59,8%
C1 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 0,38
C2 Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 0,57
C3 Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như
không mang lại lợi ích gì cho trẻ 0,53
C4 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng 0,56
C5 Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây
hại đến người xung quanh 0,60
C10 Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được học tại
các trường/lớp chuyên biệt 0,34
- Độ tin cậy của thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, kết quả cho
thấy hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,75
192
Phần C: Đối với nhóm đối tượng là nhân viên y tế
C1. Thang đo đánh giá kiến thức:
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) được thực hiện để kiểm
tra các điều kiện cho phép thực hiện
phân tích nhân tố. Kết quả kiểm tra
ma trận tương quan cho thấy, không
có tiểu mục nào có hệ số tương quan
với ít nhất một trong các tiểu mục còn
lại nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết
quả kiểm định Barlett’s với p-value =
0,000 < 0,05, chỉ số KMO là 0,646>
0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
Số lượng các nhân tố của thang đo được
lựa chọn dựa trên kết quả của biểu đồ
Scree với tiêu chí lựa chọn các nhân tố
có trị riêng (tổng số biến thiên của thang
đo giải thích bởi nhân tố đó) lớn hơn 1
và kết quả phân tích hợp lý về mặt ý
nghĩa của các tiểu mục trong các nhân tố.
Kết quả phân tích cho thấy có 3 nhân tố
đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 14 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 3 nhân tố: Nhân tố 1
gồm 5 phát biểu về những dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo các mốc phát triển (hay
còn gọi là “dấu hiệu cờ đỏ”); Nhân tố 2 gồm 6 phát biểu về những thông tin cơ bản của
RLTK (bản chất của RLTK, phát hiện, chẩn đoán và can thiệp hiệu quả cho trẻ
RLTK); và Nhân tố 3 gồm 3 phát biểu về những kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK
ở trẻ:
193
Tiểu mục Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả
năng
giải
thích
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo các
mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,72 31,61%
B5 Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương tác âm
thanh, nụ cười hoặc không giơ tay đòi bế 0,41
B6 Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ 0,41
B7 Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ 0,45
B8 Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn 0,57
B9 Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn 0,56
Nhân tố 2: Kiến thức cơ bản về RLTK ở trẻ (bản chất, phát hiện,
chẩn đoán và can thiệp hiệu quả)
0,59 29,42%
B2 Tự kỷ là một dạng rối loạn về cảm xúc, ảnh hưởng
đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ, 0,38
B15 Có thể chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với
người chăm sóc trẻ về các mốc phát triển kết hợp
với quan sát giao tiếp, hành vi của trẻ,
0,33
B16 Cha mẹ có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường
của trẻ nghi mắc tự kỷ, 0,38
B17 Giáo viên mầm non có thể phát hiện các dấu hiệu
bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ, 0,32
B23 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là can
thiệp về ngôn ngữ 0,50
B24 Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là tập
luyện vận động 0,47
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK ở trẻ 0,62 20,33%
B20 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng thuốc Tây
y. 0,43
B21 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng châm cứu,
bấm huyệt. 0,46
B22 Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng cách uống
thuốc đông y để giải trừ chất độc khỏi cơ thể. 0,40
Cả thang đo 0,61 81,36%
- Độ tin cậy của thang đo
194
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha của từng
nhân tố và của cả thang đo. Kết quả cho hệ số Cronbach’s Alpha của nhân tố 1, nhân
tố 2, nhân tố 3 và cả thang đo lần lượt là 0,72; 0,59; 0,62 và 0,61.
C.2. Thang đo đánh giá thái độ
- Tính giá trị về mặt cấu trúc
Bước 1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các tiểu mục:
Ma trận tương quan, kiểm định
Bartlette, và kiểm định KMO (Kaiser-
Meyer-Olkin) được thực hiện để kiểm
tra các điều kiện cho phép thực hiện
phân tích nhân tố. Kết quả kiểm tra
ma trận tương quan cho thấy, không
có tiểu mục nào có hệ số tương quan
với ít nhất một trong các tiểu mục còn
lại nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết
quả kiểm định Barlett’s với p-value =
0,000 < 0,05, chỉ số KMO là 0,624>
0,5.
Điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là chấp nhận được.
Bước 2. Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của mỗi nhân tố
Số lượng các nhân tố của thang đo
được lựa chọn dựa trên kết quả của
biểu đồ Scree với tiêu chí lựa chọn các
nhân tố có trị riêng (tổng số biến thiên
của thang đo giải thích bởi nhân tố đó)
lớn hơn 1 và kết quả phân tích hợp lý
về mặt y nghĩa của các tiểu mục trong
các nhân tố. Kết quả phân tích cho thấy
có 1 nhân tố đáp ứng tiêu chí.
Phương pháp xoay nhân tố trực giao (Vartimax) được sử dụng để xác định các tiểu
mục cho từng nhân tố với tiêu chí giữ lại những tiểu mục có giá trị tương quan lớn hơn
0,3. Kết quả cho thấy có 6 tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 1 nhân tố: thái độ về trẻ
RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK:
195
Nội dung Hệ số
tương
quan
Cronbach’
s Alpha
Khả năng
giải thích độ
biến thiên
thái độ
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,63 52,8%
C1 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ 0,70
C2 Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được 0,54
C4 Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng 0,72
C5 Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây
hại đến người xung quanh 0,67
C6 Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được học tại
các trường/lớp chuyên biệt 0,56
- Độ tin cậy của thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, kết quả cho
thấy hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,63
196
Phụ lục 7: Hướng dẫn phỏng vấn sâu/thảo luận nhóm cho các đối tượng
A. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến xã và huyện
Mục tiêu
1. Đánh giá kết quả thực hiện thử nghiệm mô hình quản lý RLTK ở trẻ tại cộng
đồng sau 1 năm can thiệp tại địa bàn.
2. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ tại
cộng đồng
Gợi ý phỏng vấn
1. Vừa qua, có một số hoạt động truyền thông về rối loạn tự kỷ ở trẻ em được thực
hiện trên địa bàn xã/phường (huyện) mình? Trạm y tế và cộng tác viên y tế (Trung
tâm y tế) đã tham gia hoạt động gì trong chương trình?
- Bài phát thanh trên loa xã/phường, tờ rơi, sách mỏng phát tới cha mẹ phù hợp
như thế nào? Nội dung phát trên loa, tờ rơi, sách mỏng có dễ hiểu, có rõ
không?
- Chương trình này tác động đến kiến thức của cán bộ y tế và của người dân
trong cộng đồng về rối loạn tự kỷ ở trẻ em như thế nào?
- Theo đánh giá của anh/chị, các hoạt động đó được triển khai tốt hay chưa tốt?
Có những khó khăn/rào cản nào? Cần khắc phục như thế nào?
- Cần phải thêm hay bớt những hoạt động nào?
2. Theo anh/chị, nếu triển khai các hoạt động truyền thông trên các địa bàn tương tự,
cần thay đổi những điều gì?
3. Đánh giá chung của anh/chị về mô hình quản lý trẻ có rối loạn tự kỷ tại cộng đồng
đã được triển khai tại tỉnh mình trong 1 năm vừa qua ra sao1: về nhân lực, tổ chức,
tài chính, điều phối.
4. Anh/Chị đánh giá thế nào về:
- Quá trình vận hành của mô hình từ tuyến xã đến huyện đến tỉnh:
▪ Các tuyến phối hợp với nhau ra sao trong việc chẩn đoán sớm và khẳng định rối
loạn tự kỷ?
▪ Sự phối hợp này có thuận lợi/khó khăn gì? Khắc phục khó khăn như thế nào?
1 Lưu ý đưa mô hình ra cho họ xem rôi hỏi phù hợp với từng tuyến
197
▪ Các trẻ sau khi được can thiệp tại BV được tiếp tục theo dõi sự tiến bộ/tiếp tục
can thiệp tại nhà ra sao?
▪ Mức độ sẵn sàng cho con đi can thiệp của các gia đình có con đã được khẳng
định là tự kỷ trên địa bàn xã/phường mình như thế nào?
- Mức độ phù hợp của mô hình đối với địa phương: Việc quản lý trẻ từ tuyến xã
lên huyện lên tỉnh như mô hình đã vận hành trong 1 năm qua có điểm nào cần
điều chỉnh và điều chỉnh như thế nào?
- Tính phù hợp và khả thi (về nhân lực, tài chính, tổ chức, quản ly/điều hành,
phối hợp với giáo dục, lao động thương binh xã hội) trong việc tiếp tục triển
khai mô hình tại địa phương và áp dụng cho các địa bàn tương tự tỉnh mình như
thế nào? Cụ thể như thế nào? Gợi ý khắc phục những điểm bất cập khi triển
khai mô hình.
- Cần điều chỉnh gì để mô hình triển khai được phù hợp hơn và hiệu quả hơn với
địa phương cũng như với các địa bàn khác?
Chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia phỏng vấn!
198
B. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến tỉnh
Mục tiêu
1. Đánh giá kết quả thực hiện thử nghiệm mô hình quản lý RLTK ở trẻ tại cộng
đồng sau 1 năm can thiệp tại địa bàn.
2. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ tại
cộng đồng
Đánh giá kết quả thực hiện can thiệp: Trong một năm qua:
- Khoa mình nhận được sự hỗ trợ về chuyên môn từ BV Nhi TW như thế nào? (đào
tạo, hỗ trợ và hướng dẫn trong quá trình điều trị, chuyển các trường hợp lên thẳng
BV Nhi TW về BV Nhi/Khoa Nhi để can thiệp/tiếp tục can thiệp…).
- Anh/chị đánh giá kết quả của sự hỗ trợ đó như thế nào? Cần có những bổ sung/điều
chỉnh gì để kết quả đạt được tốt hơn?
Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình
1. Đánh giá chung của anh/chị về mô hình quản lý trẻ có rối loạn tự kỷ tại cộng đồng
đã được triển khai tại tỉnh mình trong 1 năm vừa qua ra sao2: về nhân lực, tổ chức,
tài chính, điều phối.
2. Anh/Chị đánh giá thế nào về:
▪ Quá trình vận hành của mô hình từ tuyến xã đến huyện đến tỉnh:
▪ Các tuyến phối hợp với nhau ra sao trong việc chẩn đoán sớm và khẳng định rối
loạn tự kỷ?
▪ Sự phối hợp này có thuận lợi/khó khăn gì? Khắc phục khó khăn như thế nào?
▪ Các trẻ sau khi được can thiệp tại BV được tiếp tục theo dõi sự tiến bộ/tiếp tục
can thiệp tại nhà ra sao?
▪ Có cùng gia đình phối hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn có can thiệp tự
kỷ để can thiệp cho trẻ không?
- Mức độ phù hợp của mô hình đối với địa phương: Việc quản lý trẻ từ tuyến xã
lên huyện lên tỉnh như mô hình đã vận hành trong 1 năm qua có điểm nào cần
điều chỉnh và điều chỉnh như thế nào?
2 Lưu ý đưa mô hình ra cho họ xem rôi hỏi phù hợp với từng tuyến
199
- Tính phù hợp và khả thi (về nhân lực, tài chính, tổ chức, quản ly/điều hành,
phối hợp với giáo dục, lao động thương binh xã hội) trong việc tiếp tục triển
khai mô hình tại địa phương và áp dụng cho các địa bàn tương tự tỉnh mình như
thế nào? Cụ thể như thế nào? Gợi ý khắc phục những điểm bất cập khi triển
khai mô hình.
- Cần điều chỉnh gì để mô hình triển khai được phù hợp hơn và hiệu quả hơn với
địa phương cũng như với các địa bàn khác?
Chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia phỏng vấn!
200
C. Hướng dẫn thảo luận nhóm NVYT tuyến trung ương
Mục tiêu
1. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ tại
cộng đồng
Gợi ý câu hỏi
1. Anh/chị thấy việc quản lý RLTK ở trẻ em có cần thiết hay không? Tại sao anh/chị
lại có nhận định như vậy (đối với trẻ RLTK, với gia đình, với xã hội)?
2. Theo anh/chị nếu triển khai việc quản lý RLTK ở trẻ em có được các bên liên quan
(ngành y tế, giáo dục, chính quyền địa phương, người dân…) ủng hộ hay không? Tại
sao anh/chị lại có nhận định như vậy?
3. Anh/chị hãy đánh giá một cách chi tiết các nội dung sau về mô hình quản lý RLTK
tại cộng đồng dự kiến sẽ được áp dụng trên nhiều địa phương [đưa mô hình cho các
đối tượng tham gia phỏng vấn]
▪ Các tuyến phối hợp với nhau như trong mô hình có phù hợp hay không? Các
văn bản hiện hành có hỗ trợ cho việc phối hợp này hay không? Theo các
anh/chị, để mô hình được vận hành cần những thay đổi về cơ sở vật chất, nguồn
thông tin, nguồn nhân lực, sự quản lý/điều hành trong hệ thống y tế hay trong
chính tổ chức tham gia vào mô hình. Những thay đổi này có dễ dàng được chấp
nhận không? Sẽ gặp những khó khăn gì? Có thể khắc phục như thế nào?
▪ Sự sẵn sàng tham gia vào mô hình quản lý RLTK tại cộng đồng của CBYT
tuyến trung ương như thế nào?
▪ Việc áp dụng mô hình này có gì vượt trội/ưu việt hơn so với việc quản lý RLTK
ở trẻ em hiện nay? (Gợi ý: thực trạng quản lý RLTK ở trẻ em hiện nay được
triển khai thế nào? Có vấn đề gì tồn tại? Khi áp dụng mô hình, những tồn tại đó
được giải quyết như thế nào?)
4. Theo anh/chị, để có thể áp dụng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em một cách hiệu quả
và phù hợp, cần lưu y những điều gì? Những điểm gì cần điều chỉnh và điều chỉnh như
thế nào?
Chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia phỏng vấn!
201
D. Hướng dẫn phỏng vấn sâu lãnh đạo Sở Y tế/ Chính quyền địa phương
Mục tiêu
1. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ
tại cộng đồng
Gợi ý câu hỏi
1. Ông/bà thấy việc quản lý RLTK ở trẻ em có cần thiết hay không? Tại sao ông/bà
lại có nhận định như vậy (đối với trẻ RLTK, với gia đình, với xã hội)?
2. Theo ông/bà nếu triển khai việc quản lý RLTK ở trẻ em có được các bên liên
quan (ngành y tế, giáo dục, chính quyền địa phương, người dân…) ủng hộ hay
không? Tại sao ông/bà lại có nhận định như vậy (lợi ích mà mô hình đem lại?)
3. Ông/bà hãy đánh giá một cách chi tiết các nội dung sau về mô hình quản lý
RLTK tại cộng đồng đã được áp dụng trên địa bàn tỉnh trong năm vừa qua [đưa mô
hình cho các đối tượng tham gia phỏng vấn]
▪ Các tuyến phối hợp với nhau như trong mô hình có phù hợp hay không? Các
văn bản hiện hành có hỗ trợ cho việc phối hợp này hay không?
▪ Sở Y tế/UBND (tỉnh, huyện, xã) có ủng hộ việc tiếp tục áp dụng mô hình
quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng hay không? Nếu không: Vì sao? Nếu
có: Sẽ có những hỗ trợ như thế nào để việc triển khai được hiệu quả hơn?
▪ Nguồn tài chính để áp dụng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em theo ông bà nên
được huy động từ đâu? Làm thế nào để đảm bảo được nguồn tài chính ổn
định khi triển khai mô hình?
4. Theo ông/bà, để có thể áp dụng mô hình quản lý RLTK ở trẻ em một cách hiệu
quả và phù hợp, cần lưu y những điều gì? Những điểm gì cần điều chỉnh và điều
chỉnh như thế nào?
Chân thành cảm ơn Ông/bà đã tham gia phỏng vấn
202
E. Hướng dẫn thảo luận nhóm đối với NCST và GVMN
Mục tiêu
1. Đánh giá kết quả thực hiện thử nghiệm mô hình quản lý RLTK ở trẻ tại cộng
đồng sau 1 năm can thiệp tại địa bàn.
2. Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ
tại cộng đồng
Đánh giá kết quả thực hiện can thiệp:
1. Anh/chị đã nghe tới RLTK/ tự kỷ ở trẻ bao giờ chưa?
Nếu chưa: Tại sao lại chưa biết đến? Đã bao giờ chủ động tìm kiếm thông tin
chưa? Những khó khăn khi tìm hiểu các thông tin về RLTK ở trẻ?
Nếu đã nghe tới: Nghe từ đâu? Rút ra được điều gì từ các nguồn thông in
đó?
2. Vừa qua, có một số hoạt động truyền thông về RLTK ở trẻ em được thực hiện
trên địa bàn xã/phường mình (đưa một số tài liệu truyền thông để đối tượng nhớ
lại):
▪ Anh/chị có biết đến các hoạt động/sản phẩm này không?
▪ Bài phát thanh trên loa xã/phường, banner, áp phích, tờ rơi phát tới cha mẹ,
sách mỏng cho CBYT phù hợp như thế nào (về nội dung, hình thức)?
▪ Chương trình này tác động đến kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK ở trẻ
em của các anh chị như thế nào? Tại sao các anh/chị lại có nhận định như
vậy?
▪ Theo đánh giá của anh/chị, các hoạt động đó được triển khai tốt hay chưa
tốt? Cần phải cải thiện điều gì để đạt kết quả tốt hơn?
▪ Theo anh/chị, nếu triển khai hoạt động truyền thông trên các địa bàn tương
tự, cần thực hiện như thế nào (hình thức truyền thông, thời điểm, thông
tin…)
Đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình
1. Anh/chị thấy việc quản lý RLTK ở trẻ em có cần thiết hay không? Tại sao
anh/chị lại có nhận định như vậy (đối với trẻ RLTK, với gia đình, với xã hội)?
203
2. Theo anh/chị nếu triển khai việc quản lý RLTK ở trẻ em có được các bên liên
quan (ngành y tế, giáo dục, chính quyền địa phương, người dân…) ủng hộ hay
không? Tại sao anh/chị lại có nhận định như vậy (lợi ích mà mô hình đem lại?)
3. Nếu thực hiện việc quản lý RLTK trẻ tại cộng đồng, mô hình như sau[đưa mô
hình cho các đối tượng tham gia phỏng vấn] sẽ được áp dụng, trong đó vai trò của
NCST/GVMN rất quan trọng trong việc nhận biết và phát hiện trẻ RLTK. Ngoài
ra, nếu trẻ đã được chẩn đoán RLTK, trẻ sẽ được can thiệp tại BV và sau đó sẽ tiếp
tục được theo dõi, hỗ trợ và can thiệp tại nhà/trường học bởi NCST/GVMN.
▪ Anh/chị có sẵn sàng tham gia vào quá trình này không? Nếu không: Vì sao?
Nếu có: anh/chị cần những hỗ trợ gì để có thể thực hiện tốt vai trò này?
▪ Theo anh/chị, có rào cản gì về văn hóa có thể ảnh hưởng đến việc quản lý trẻ
RLTK không (ví dụ, sự kỳ thị của cộng đồng khiến cho cha mẹ, gia đình
không đưa con đi khám và điều trị; yếu tố về niềm tin, tôn giáo)? Làm thế
nào để khắc phục?
4. Hiện nay, công tác y tế tại địa phương liên quan đến vấn đề RLTK ở trẻ như thế
nào? Anh/chị có khó khăn gì khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ liên quan đến RLTK ở
trẻ? Theo anh/chị, thực hiện quản lý RLTK tại cộng đồng có khắc phục được khó
khăn này không? Tại sao anh/chị nhận định như vậy?
5. Những mong muốn khác của anh/chị liên quan đến vấn đề RLTK ở trẻ nói riêng
và vấn đề y tế nói chung?
Chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia phỏng vấn!
204
Phụ lục 8: Các sản phẩm truyền thông của chương trình truyền thông
A. Mẫu Banner
B. Mẫu áp phích
207
E. Bài phát thanh
1. Mở đầu:
Xã hội ngày càng phát triển kèm theo đó là nhu cầu chăm sóc sức khỏe, giáo
dục ngày càng được quan tâm. Một trong những nhóm đối tượng được hưởng lợi từ
quá trình này chính là trẻ em. Trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng trở
thành những nhóm đối được được quan tâm chăm sóc hơn cả. Hiện nay chủ đề về
Tự kỷ và trẻ tự kỷ đang được xã hội vô cùng quan tâm do mức độ phát hiện bệnh ở
trẻ ngày càng nhiều. Tuy nhiên, thực tế không phải người làm cha làm mẹ nào cũng
có thể hiểu được cụ thể những kiến thức về trẻ tự kỷ. Bài phát thanh sau đây sẽ
mang đến những kiến thức cơ bản nhất để cả xã hội sẽ sớm có những nhận thức
đúng đắn hơn về Tự kỷ.
2. Định nghĩa:
Rối loạn phổ tự kỷ hay còn gọi là tự kỷ, là một dạng khuyết tật phát triển
suốt đời, bộc lộ ngay từ những năm đầu đời. Tự kỷ là kết quả rối loạn của hệ thần
kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Đặc trưng của tự kỷ bao gồm những
khó khăn trong tương tác xã hội, giao tiếp và một loạt các hành vi và mối quan tâm
bị hạn chế hoặc bị lặp đi lặp lại. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ đứa trẻ nào, không
phân biệt giới tính, dân tộc, lối sống, điều kiện kinh tế, hay địa vị xã hội.
3. Dấu hiệu:
Chẩn đoán trẻ có thực sự có tự kỷ hay không cần phải được thực hiện chấn
đoán nghiêm ngặt bới các chuyên môn. Tuy nhiên, dưới đây là 7 dấu hiệu cảnh báo
cờ đỏ trẻ có khả năng tự kỷ mà cha mẹ, giáo viên mầm non, cán bộ y tế cần đặc biệt
chú y:
1. Không có nụ cười hồi đáp hoặc biếu hiện thích thú, nồng ấm khi trẻ được
6 tháng hoặc hơn
2. Không có sự tương tác qua lại bằng âm thanh, nụ cười hoặc biểu lộ nét
mặt khi trẻ được 9 tháng
3. Không nói bập bẹ khi trẻ được 12 tháng
208
4. Không tương tác qua lại bằng cử chỉ, điệu bộ như chỉ ngón trỏ, với một
vật gì đó hoặc vẫy tay khi trẻ được 12 tháng
5. Chưa nói được từ đơn khi trẻ được 16 tháng
6. Chưa nói được câu hai từ, nói chưa ro nghĩa (không bao gồm bắt chước
hoặc nhại lời) khi trẻ được 24 tháng
7. Mất kỹ năng ngôn ngữ (bớt khả năng nói, bập bẹ mà trước đó đã làm
được) hoặc mất kỹ năng xã hội (làm quen, phản ứng lại khi được gọi tên)
ở bất kỳ lứa tuổi nào.
4. Quy trình chẩn đoán tự kỷ ở Việt Nam:
Và để có thể chẩn đoán tự kỷ ở Việt Nam chúng ta có thể thực hiện theo quy
trình gôm 5 bước cơ bản sau:
Bước 1: Cộng đồng (bao gồm cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên ầm non,
nhân viên y tế thôn bản, cộng tác viên phục hồi chức năng) tiến hành sàng lọc phát
triển trẻ bằng bộ công cụ ASQ. Nếu thấy trẻ có dấu hiệu nghi ngờ thì tiến hành
bước 2. Nếu không thì tiếp tục đánh giá định kỳ lại bằng ASQ theo các mốc thời
gian.
Bước 2: Tiến hành sàng lọc trẻ nghi ngờ mắc tự kỷ bằng bộ công cụ M-
CHAT 23 (được tiến hành bởi cán bộ y tế từ tuyến xã/phường trở lên). Nếu kết quả
M-CHAT 23 dương tính thì tiến hành bước 3. Nếu âm tính thì quay lại bước 1 để
tiếp tục theo doi trẻ.
Bước 3: Phát hiện các rối loạn phát triển khác như: bại não, Down, câm điếc
bẩm sinh..v..v (từ bước này trở đi, người thực hiện là cán bộ y tế từ tuyến tỉnh trở
lên). Nếu kết quả chấn đoán cho thấy trẻ không có các rối loạn phát triển khác thì
tiến hành bước 4.
Bước 4: Chẩn đoán tự kỷ bằng bộ công cụ DSM-IV (hay còn gọi là Sổ tay
thống kê và chẩn đoán về các rối loạn tâm thần). Nếu kết quả dương tính thì tiến
hành bước 5. Nếu không thì quay lại bước 1 để tiếp tục theo doi trẻ.
Bước 5: Đánh giá mức độ tự kỷ (bằng thanh CARS) và xác định các rối loạn
kèm theo. Trong 5 bước trên, cha mẹ và giáo viên mầm non sẽ là người thực hiện
209
theo doi định kỳ, sàng lọc phát triển của trả theo từng giai đoạn và tìm dấu hiệu
cảnh báo (Bước 1). Cán bộ y tế tại cơ sở sẽ tiến hành làm M-CHAT 23 (Bước 2).
Các bước còn lại từ bước 3 đến bước 5 sẽ được thực hiện bởi các cán bộ y tế tuyến
tỉnh trở lên.
Như vậy để có thể phát hiện và chẩn đoán “sớm” tình trạng của trẻ, bước
đầu tiên cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên mầm non, nhân viên y tế thôn bản,
cộng tác viên phục hồi chức năng cần thực hiện chính là theo doi, đánh giá sự phát
triển của tất cả các trẻ. Vì vậy vai trò của cha mẹ, giáo viên mầm non, cán bộ y tế
trong phát hiện, chẩn đoán và chan thiệp sớm cho trẻ tự kỷ là vô cùng cần thiết và
quan trọng.
- Cha mẹ là người đóng góp vai trò quan trọng và đầu tiên trong việc phát hiện
sớm và chẩn đoán trẻ mắc tự kỷ. Cha mẹ có thể tự sử dụng 9 piếu đánh giá sàng lọc
phát triển ở trẻ em từ 0-60 tháng tuổi (bộ công cụ ASQ Việt Nam) để đánh giá tình
trạng phát triển của trẻ
- Bên cạnh đó giáo viên mầm non cũng tham gia thực hiện trong giai đoạn
đánh giá phát triển ở trẻ đi học mẫu giáo. Bằng những quan sát của mình, dựa trên
những thông tin, kỹ năng đã được tập huấn, giáo viên mầm non có thể sử dụng các
phiếu đánh giá sự phát triển cho trẻ để tự đánh giá tình trạng của trẻ. Giáo viên
mầm non sẽ thông báo lại kết quả tự đánh giá trẻ tại lớp tới cha mẹ và gia đình.
- Nếu có bất cứ dấu hiệu nào bất thường, cha mẹ cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để
kiểm tra. Cơ sở y tế đầu tiên có thể là trạm y tế xã, phường. Tại đó cán bộ y tế sẽ
tiến hành đánh giá trẻ bằng bộ công cụ M-CHAT 23 với trẻ trên 16 tháng. Hoặc cha
mẹ có thể đến Bệnh viện đa khoa Tỉnh hoặc Bệnh viện Tỉnh để được cán bộ y tế
chuyên sâu kiểm tra lại.
Qua những vai trò trên, chúng ta có thể thấy trong quá trình phát hiện, chẩn
đoán và can thiệp sớm, cha mẹ, giáo viên mầm non và cán bộ y tế đều đóng vai trò
rất quan trọng đối với trẻ tự kỷ. Tuy nhiên giữa các nhóm này luôn cần có sự phối
hợp, chung sức, hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ và tính
hiệu quả trong suốt quá trình mà trẻ tự kỷ là trung tâm. Sự phối hợp giữa các nhóm
không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ tự kỷ mà còn mang lại lợi ích cho mỗi thành viên
210
trong nhóm cũng như toàn bộ nhóm về sàng lọc phát hiện, chẩn đoán chính xác mà
còn là khả năng tự giáo dục, tự quản ly cũng như tạo được niềm tin chung trong can
thiệp sớm cho trẻ tự kỷ.
Phát hiện và can thiệp sớm, vì tương lai của trẻ tự kỷ!