H C VI N BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUY N KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ TI U LU N g n đây Sinh viên th c...
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
5 -
download
0
Transcript of H C VI N BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUY N KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ TI U LU N g n đây Sinh viên th c...
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀNKHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
----------
TIỂU LUẬNNhững thay đổi trong chính sách đối ngoạicủa Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương thời gian gần đây
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị QuếPGS.TS Phan Văn Rân
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Hồng HạnhLớp: Quan hệ quốc tế K31
Hà Nội – 2014
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.........................................1
II. NỘI DUNG .....................................3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
MỸ Ở KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG............ 3
1.1 Tình hình mới của nước Mỹ ....................3
1.2 Những khó khăn trên con đường thực hiện chiến
lược toàn cầu của Mỹ..............................5
1.2.1 Mất thế độc quyền vũ khí hạt nhân...... 5
1.2.2 Sự lớn mạnh của các trung tâm quyền lực
trên thế giới................................ 5
1.2.3 Sự suy giảm và phụ thuộc của nền kinh tế
Mỹ............................................5
1.2.4 Các thách thức an ninh phi truyền thống.
..............................................6
1.2.5 Suy giảm ý chí và khả năng lãnh đạo thế
giới. ........................................7
1.3 Tiềm năng phát triển to lớn của khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương............................. 7
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ Ở KHU VỰC
CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY..... 10
2.1 Mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương........................ 10
2.1.1 Mục tiêu xuyên suốt trong chính sách đối
ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh. .......10
2.1.2 Mục tiêu của Mỹ tại khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. .................................12
2.2 Nội dung sự chuyển hướng trong chính sách đối
ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương trong thời gian gần đây................... 14
2.2.1 Tổng thống G.Bush (1989 – 1993). ......14
2.2.2 Tổng thống B.Clinton (1993 – 2001).....14
2.2.3 Tổng thống G. W. Bush (2001 – 2009)....15
2.2.4 Tổng thống Barrack Obama...............17
2.3 Hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ
đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. .......22
2.4 Lợi ích của Mỹ từ sự chuyển hướng trong chính
sách đối ngoại đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương........................................... 24
2.5 Sự triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ đối
với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương............ 26
2.5.1 Đối với một số cường quốc trong khu vực
.............................................26
2.5.2 Với khu vực Đông Nam Á.................31
2.5.3 Một số thách thức trong việc triển khai
chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương. ...................32
III KẾT LUẬN.................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................. 35
I. MỞ ĐẦU.
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới có
những thay đổi căn bản và toàn diện. Chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô sụp đổ, kéo theo nó là sự chấm dứt
của thế trận hai cực Xô – Mỹ. Những biến chuyển mới
của tình hình thế giới cũng làm nảy sinh những nguy
cơ phức tạp và khó lường, buộc các quốc gia phải
điều chính chính sách đối ngoại của họ cho phù hợp
với tình hình mới của thế giới hiện đại. Duy trì
một môi trường hoà bình ổn định trong môi trường
quốc tế mới và tìm kiếm vị trí có lợi trong đó đang
là mục tiêu chiến lược của hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Được đánh giá là siêu cường duy nhất còn lại
sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nước Mỹ đã và
đang lao vào những cuộc chạy đua nhằm hiện thực hoá
giấc mơ bá chủ thế giới. Nhưng bên cạnh những cơ
hội được mang đến từ vị thế hàng đầu thế giới, Mỹ
trong thực tế cũng đang phải đối mặt với không ít
thách thức và trở ngại. Đó là các thách thức về an
ninh, nguy cơ khủng bố, khủng hoảng kinh tế - tài
chính, sự trỗi dậy của các quốc gia phương Đông như
Trung Quốc, Nhật Bản,… cũng đang đe doạ vị trí siêu
cường của nước Mỹ. Thực tế là sau vụ khủng hoảng
kinh tế - tài chính thế giới năm 2008 bắt nguồn từ
nước Mỹ, nền kinh tế Mỹ đã có những suy giảm đáng
kể về tốc độ tăng trưởng. Và khi một lĩnh vực đầu
tầu là kinh tế bị suy giảm, các lĩnh vực khác cũng
bị ảnh hưởng ở một mức độ nhất định nào đó. Vì thế,
giấc mơ Mỹ liệu có thể được hiện thực hoá hay
không vẫn đang là câu hỏi chưa có đáp án rõ ràng
đối với không chỉ người Mỹ mà còn cả những chủ thể
chính trị khác trên thế giới. Để tiến gần hơn đến
giấc mơ này và phù hợp hơn với tình hình mới, tiếp
tục triển khai và giành thắng lợi trong chiến lược
toàn cầu của mình, Mỹ đã có những điều chỉnh chiến
lược quan trọng.
Trong sự điều chỉnh đó, khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương vẫn là điểm đến quan trọng của Mỹ. Từ
trong quá khứ, Châu Á – Thái Bình Dương đã được
biết đến như là một trung tâm kinh tế - văn hoá
hàng đầu thế giới với các nhà nước phong kiến hùng
mạnh như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ…Với
đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên phong phú và tiềm
năng phát triển to lớn, khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương trong thế giới hiện đại tiếp tục trở thành
trọng tâm địa chính trị của thế giới và không thể
nằm ngoài các mối quan tâm của Mỹ. Trong nhiều năm
trở lại đây, Mỹ xác định khu vực châu Á - Thái Bình
Dương như một công cụ phục vụ nền kinh tế Mỹ trong
tương lai, là công cụ hỗ trợ đắc lực để Mỹ khôi
phục nền kinh tế đang trên đà suy giảm từ sau cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 2008.Mỹ xác
định tương lai của chính trị sẽ được quyết định ở
châu Á chứ không phải ở Iraq hay Afghanistan –
những “điểm nóng” mà Mỹ dành nhiều tâm huyết trong
những năm đầu thế kỷ XXI. Chính vì thế, Mỹ trong
nhiều thập niên tới sẽ tăng cường đầu tư về ngoại
giao, kinh tế, chiến lược và các mặt khác tại châu
Á – Thái Bình Dương. Sự triển khai các chiến lược
của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã được
một số lãnh đạo Nhà Trắng như B.Clinton, G.W.Bush
quan tâm thực hiện. Nhưng dưới thời Tổng thống
Obama, sự chuyể hướng này mới được thể hiện rõ ràng
hơn với chiến lược “chuyển trục” định hướng Châu Á
– Thái Bình Dương . Chiến lược này của Tổng thống
B.Obama đang được gấp rút thực hiện và bước đầu đã
mang đến nhiều thay đổi về tình hình kinh tế -
chính trị cho nhiều nước trong khu vực.
Xét trên nhiều góc độ, sự điều chỉnh trong
chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương đã mang đến những thay đổi to lớn
cho khu vực này và tác động mạnh mẽ đến hệ thống
quan hệ quốc tế mới. Bởi vậy, việc nghiên cứu những
thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
khu vực này là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
II. NỘI DUNGCHƯƠNG I.
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ
Ở KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG.
1.1 Tình hình mới của nước Mỹ
Thế và lực của Mỹ là yếu tố quan trọng hàng đầu
chi phối chính sách đối ngoại của Mỹ. Từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, với động lực chính là cuộc
cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, cùng với
nguồn lợi to lớn đến từ việc buôn bán vũ khí trong
chiến tranh, Mỹ trở thành siêu cường kinh tế số một
thế giới.
GDP năm 2000 đạt 9.996,2 tỷ USD, lớn gần gấp
đôi so với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là
Nhật Bản 4.619,8 Tỷ, và gấp 10 lần so với nền
kinh tế đang trỗi dậy của Trung
Quốc 1.070,7 tỷ tính theo cân bằng sức
mua (PPP). Hơn nữa, thời kỳ đầu sau chiến tranh
lạnh lại chứng kiến một thời kỳ phát triển dài
lâu trong lịch sử của nước Mỹ. Khoảng cách giữa
Mỹ với các đối thủ cạnh tranh khác như Nhật Bản
và EU có sự chênh lệch đáng kể. tử năm 1990 đến
năm 1998, kinh tế Mỹ tăng đến 27%, gần như gấp
đôi sơ với con số 15% của EU và 9% của Nhật Bản.
Mỹ đã có khả năng duy trì được vị trí siêu cường
của mình trong nhiều thập kỷ. Mắc dù nền kinh tế
thế giới đang đứng trước rất nhiều khó khăn,
nhưng nền kinh tế Mỹ đang có những dấu hiệu phục
hồi và nền kinh tế Mỹ được đánh giá là sẽ tiếp
tục thống trị thế giới, Kim ngạch xuất khẩu của cảnăm 2012 đạt giá trị 2.200 tỉ USD, tăng gần 40% so
với năm 2009, Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Mỹ trong những năm sau khủng hoảng đạt
mức 736 tỉ USD, tương đương 15% tổng lượng vốn FDI
của toàn thế giới, theo số liệu thống kê của US
Trust. Sản lượng sản xuất hàng hóa của Mỹ có tổngtrị giá là 1.900 tỉ USD trong năm 2012, tăng 27% so
với năm 2009. Số lượng nhân công trong lĩnh vực này
cũng đã tăng thêm 500.000 người kể từ năm 2010. Mỹ
cũng là nước đi đầu trong lĩnh vực tài chính –
tiền tệ và đồng Đô – la Mỹ chiếm hơn 60% giao dịch
thương mại toàn cầu (theo báo cáo tài chính của Mỹ năm 2013
– BBC News).
Sức mạnh quân sự của Mỹ đứng đầu trên thế
giới. Năm 2014, chính quyền Mỹ đã chi đến 526,8 tỷUSD cho Quân đội (theo Reuters đưa tin). Con số này
chiếm đến hơn 40% tổng chi cho quân sự của toàn thế
giới. Chính nhờ nguồn kinh phí khổng lồ này, quân
đội Mỹ đang sở hữu số lượng các trang bị mạnh và
tiên tiến nhất thế giới.
Về nhân sự, trong tổng dân số hơn 300 triệu
người, Mỹ có hơn 144 triệu người trong độ tuổi quân
dịch. Mỗi năm có khoảng 4,2 triệu người Mỹ bước vào
tuổi quân dịch. Quân số thường trực của quân đội Mỹ
là 1,47 triệu người trong khi quân số dự bị là 1,46
triệu với 453.000 đơn vị hoạt động bán quân sự.
Về lục quân, lực lượng Lục quân Mỹ có 29.920
đơn vị vũ khí và hơn 5.000 pháo mặt đất. Về không
quân, lực lượng Không quân Mỹ có hơn 18.000 máy bay
các loại, 5.000 máy bay trực thăng và 15.000 sân
bay. Về hải quân, lực lượng Hải quân Mỹ có tổng số
khoảng 1.600 tàu với 10 cảng chính. Trong số các
tàu hải quân, đáng chú ý nhất là Mỹ có đến 11 tàu
sân bay (đứng đầu thế giới về số lượng). Ngoài ra,
Hải quân Mỹ còn có 75 tàu ngầm, 50 tàu khu trục
lớn, 92 tàu khu trục cỡ nhỏ, 100 tàu tuần tra ven
biển, 28 tàu phá mìn và 38 tàu đổ bộ. Kho vũ khí
hạt nhân của Mỹ lớn nhất thế giới, Mỹ cũng là
nước lãnh đạo các liên minh quân sự xuyên Đại Tây
Dương, NATO và qua đó duy trì sự phụ thuộc của
các nước Tây Âu vào Mỹ về mặt chính trị quân sự (
theo VOA News).
Sức sáng tạo khoa học kỹ thuật của mỹ chiếm 4
0,6% của tổng chi phí toàn cầu là 652,7 tỷ USD.
Chi phí cho nghiên cứu và phát triển khoa học
công nghệ của các tập đoàn, công ty của Mỹ lên
tới 200 tỷ USD, nhiều hơn ngân sách của toàn bộ
các nước còn lại trên thế giới. Bằng phát minh
khoa học của Mỹ chiếm hơn 60% toàn bộ bằng phát
minh khoa học trên thế giới. Mỹ đi đầu ở 20 trong
tổng số 29 ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn
trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
tin học. Mỹ nắm giữ vai trò chủ đạo trong các
thiết chế tài chính thương mại thế giới như IMF,
WTO, WB,… Như vậy, xét về tổng thể, Mỹ đang là
siêu cường số 1 thế giới trong các lĩnh vực kinh
tế, quân sự, khoa học – công nghệ,… ( Theo VOA
News).
1.2Những khó khăn trên con đường thực hiện
chiến lược toàn cầu của Mỹ.
1.2.1 Mất thế độc quyền vũ khí hạt nhân.
Năm 1950, Nga chế tạo thành công bom nguyên
tử, như vật nước Mỹ không còn ở thế độc quyền vũ
khí nguyên tử, kho vũ khí hạt nhân của Nga vẫn
đang đứng ở vị trí thứ 2 thế giới, cho dù mối đe
doạ hạt nhân từ Nga đã giảm đi đáng kể. Kho vũ
khí hạt nhân của Nga mặc dù đã giảm đi đáng kể
nhưng vẫn còn đủ sức tiêu diệt mười lần nước Mỹ.
Ngoài ra, trên thế giới hiện vẫn có những cường
quốc hạt nhân khác như Iran, Triều Tiên,…
1.2.2 Sự lớn mạnh của các trung tâm quyền lực trên thế
giới:
Các trung tâm quyền lực khác trên thế giới
như Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp hiện đang vươn lên
mạnh mẽ, đe doạ vị trí siêu cường của Mỹ. Các
siêu cường đó hiện nay đã mạnh lên tương đối sơ
với Mỹ và thách thức vịt trí số 1 thế giới của Mỹ
trong tương lai. Tổng thu nhập quốc nội của Mỹ
hiện chiếm khoảng 30% GDP, toàn cầu, sức mạnh
kinh tế của Mỹ cũng không còn áp đảo như trước.
Những trung tâm kinh tế - tài chính như EU, Nhật
Bản đã nổi lên cạnh tranh gay gắt. (báo cáo tài chính
Mỹ đầu năm 2014 – BBC News).
1.2.3 Sự suy giảm và phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ.
Sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau trong kỷ nguyên
toàn cầu hoá không mang tính chất một chiều. Sự
thịnh vượng kinh tế Mỹ phụ thuộc vào một phần vào
buôn bán, đầu tư với các nước khác trên thế giới.
Lợi ích kinh tế của Mỹ trong quan hệ buôn bán với
các nước khác đòi hỏi Mỹ cũng phải tính đến lợi
ích của các đối tác khác chứ không thể chỉ áp
đặt những điều kiện của mình. Nhất là ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương, nơi mà Mỹ có những
đối tác kinh tế quan trọng như ASEAN, Trung
Quốc, Nhật Bản,…Mỹ đang phải gánh trên lưng một nền kinh tế bị
mất đi hàng trăm ngàn công ăn việc làm, các ngân
hàng chồng chất các khoản nợ xấu vì những khoản vay
với thế chấp dưới tiêu chuẩn, hàng triệu người mất
nhà cửa, và công nghiệp ô-tô đứng bên bờ vực sụp
đổ.
Sự tụt dốc của nền kinh tế này bắt đầu vào ngày
15.9.2008 với việc Ngân hàng Lehman Brothers phá
sản, tiếp theo là các bước cứu nguy cho các tập
đoàn tài chính được xem là quá lớn không thể để cho
sụp đổ. Và từ đó dẫn đến tình trạng suy thoái
nghiêm trọng nhất kể từ cuộc đại suy thoái kinh tế
(1930). Tổng thống Obama dành phần lớn nhiệm kỳ đầu
của ông để thực hiện chương trình kích thích kinh
tế được Quốc hội thông qua và chương trình cứu nguy
ngành công nghiệp ô tô đang bên bờ phá sản. Và kết
quả, ông đã giúp nền kinh tế dần hồi phục trở lại.
Hàng ngàn người đã tìm được công việc…
Hiện nay, các khoản nợ quốc gia của Mỹ đang
phình to, sắp vượt mức cho phép 17.400 tỷ USD, mỗi
người dân Mỹ đang phải gánh chịu khoản nợ hơn
52.000USD. Riêng nợ công của Mỹ tính đến đầu tháng
4.2013 là 11.959 tỷ USD, chiếm 73% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), cao nhất trong lịch sử ngoại trừ
thời điểm năm 1945. Theo dự báo của CBO, nếu không
có biện pháp khắc phục, đến năm 2038 tổng khoản nợ
quốc gia của Mỹ sẽ chiếm 100% GDP. (theo BBC News).
1.2.4 Các thách thức an ninh phi truyền thống.
Những mối đe doạ không cân xứng là một trong
những thách thức và hạn chế to lớn đơi với sức
mạnh của Mỹ. Sự biểu dương sức mạnh của Mỹ trong
cuộc chiến tranh vùng vịnh năm 1 991, cuộc công
kích Kosovo năm 1999 và cuộc chiến tranh
Afghannistan là những thông điệp mạnh mẽ về sự
“vô địch” của Mỹ trong cuộc chiến tranh thông
thường, chính vì vậy, kẻ thù của Mỹ sẽ sử dụng
những phương tiện phi truyền thống như khủng bố,
đe doạ hạt nhân, vũ khí hoá học hay phá hoại môi
trường, đây là mối đe doạ không cân xứng với Mỹ.
1.2.5 Suy giảm ý chí và khả năng lãnh đạo thế giới.
Tuy là siêu cường duy nhất còn lại sa
u khi Liên Xô sụp đổ nhưng nước Mỹ hiện nay
không còn đủ ý chí và khả năng lãnh đạo thế giới
theo kiểu bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, chống
lại bất cứ kẻ thù nào và bảo vệ bất cứ người bạn
nào. Nói một cách khác, sự thiếu nhất chí trong
nội bộ của Mỹ về vai trò của Mỹ trong một thế
giới mới với những thách thức đa dạng và phức tạp
là một trong những hạn chế cơ bản đối với khả
năng thiết lập bản quyền của Mỹ trên toàn thế
giới. Henry Kissinger cho rằng mâu thuẫn giứa ba
cách tiếp cận khác biệt của ba thế hệ khác nhau
là nguyên nhân sâu xa của những khác biệt như
vậy. Nước Mỹ đã không đưa ra một chiến lược đối
ngoại gắn liền với nhất quán trong thời kỹ sau
chiến tranh lạnh. Thế hệ của các cựu binh trong
chiến tranh lạnh nhìn thế giới với lăng kính của
chủ nghĩa hiện thực mà cân bằng quyền lực là khái
niệm chủ đạo và đối phó với các mối đe doạ tiềm
tàng là nhiệm vụ hàng đầu của chính sách đối
ngoại của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
và trên toàn thế giới nói chung.
1.3 Tiềm năng phát triển to lớn của khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.Khái niệm khu vực Châu Á – Thái Bình Dương xuất
hiện lần đầu tiên vào năm 1943 trong tài liệu của
quân đội Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương trong thế
chiện thứ 2 tại khu vực này. Từ đó, thuật ngữ này
được biết đến và sử dụng rộng rãi hơn. Quan niệm về
khu vực gắn liền với những biến động chính trị nên
có phạm vi rộng hẹp khác nhau. Do quan niệm khác
nhau nên có những cách hiểu khác nhau về khu vực
này. Các nhà khoa học Nga có một số quan niệm về
khu vực này như sau:
- Quan niệm thứ nhất, khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương là khu vực lãnh thổ ở Đông Bắc Á, Đông
Nam Á , Trung Á, Tây Á, Nam Á, Bắc Mỹ và Nam Thái
Bình Dương.
- Quan niệm thứ 2 cho rằng, CA – TBD trùng với
khu vực Bắc Thái Bình Dương bao gồm các nước và
vùng lãnh thổ: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mỹ, Canada, Đài Loan và Mông Cổ.
- Quan niệm thứ 3 cho rằng khu vực CA – TBD là
vùng biển phía Đông lãnh thổ nước Nga, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Mông Cổ và
Philippin.
Các quan niệm trên của các nhà khoa học Nga là
phù hợp với lợi ích của Nga. Trên phạm vi thế giới,
khu vực CA –TBD được hiểu theo các nghĩa:
- Nghĩa rộng: CA – TBD là khu vực bao gồm tất
cả các nước Châu Á, các nước và vùng lãnh thổ ở
trên và ven bờ Thái Bình Dương (khoảng 80 nước và
vùng lãnh thổ với diện tích khoảng 44 triệu km2 và
dân số chiếm khoảng 68% dân số thế giới.
- Nghĩa hẹp: CA –TBD gồm các nước, vùng lãnh
thổ có nền kinh tế phát triển năng động từ thập
niên 80 của thế kỷ XX đến nay, chủ yếu là các
nước Đông Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Đông Nam Á,…
- Quan niệm của khu vực CA – TBD của Việt Nam
được trình bày trong Nghị quyết TW VIII, khoá VII.
Về cơ bản chúng ta hiểu khu vực này là “vùng lòng
chảo Thái Bình Dương”. Tại một số diễn đàn,chúng ta
cũng nhấn mạnh vai trò của Ấn Độ nên khu vực này là
lòng chảo Thái Bình Dương cộng thêm Nam Á. Khu vực
này có ba quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới
là Nga, Mỹ, Canada, bốn trong số những quốc gia
đông dân nhất thế giới là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ,
Việt Nam, ba cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới
là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Về chính trị, khu vực
tập trung ba trong số năm Ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an LHQ là Mỹ, Nga, Trung Quốc, bảy trên
mười cường quốc quân sự hàng đầu thế giới. Về quy
mô kinh tế, tính riêng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của 21 nền kinh tế thành viên Diễn đàn hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) chiếm 54% tổng
GDP thế giới, tổng lượng hàng hóa và dịch vụ thương
mại chiếm tới 44% thế giới. Bước vào thế kỷ 21 đến
nay, châu Á - Thái Bình Dương luôn là khu vực tăng
trưởng nhanh nhất thế giới. Theo thống kê, giai
đoạn 2007 - 2012, mặc dù tăng trưởng kinh tế toàn
cầu đi xuống, tổng lượng kinh tế của các quốc gia
mới nổi ở khu vực này lại tăng thêm gần 50%, tỷ
trọng trong nền kinh tế thế giới cũng gia tăng (theo
báo cáo tài chính tổng hợp của APEC năm 2012).
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có vị trí địa
lý chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú và tiềm năng phát triển to lớn. Vì vậy, trong
tương lai, khu vực này được dự đoán sẽ tiếp tục trở
thành trọng tâm địa – chính trị của thế giới. Trong
đó, khu vực Đông Nam Á nổi lên là một trục chiến
lược và là địa bàn cạnh tranh của nhiều cường quốc
trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,…
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt là
ASEAN) với 11 nước thành viên, tổng dân số vào
khoảng hơn 600 triệu người và tổng thu nhập quốc
nội là 2.310 tỷ USD là điểm thu hút hàng đầu đối
với các cường quốc và các trung tâm kinh tế - chính
trị lớn của thế giới. Hiện tại, các nước ASEAN đang
triển khai nhiều nỗ lực nhằm xây dựng Cộng đồng
chung ASEAN vào năm 2015, đây là một hạt nhân của
các tiến trình hợp tác xây dựng môi trường hoà
bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
Các đối tác lớn của ASEAN như Trung Quốc, Nhật
Bản, Mỹ, Ấn Độ, Nga, EU,… hiện đều đang thực hiện
chiến lược hướng về khu vực này với những quy mô và
cường độ khác nhau.
Tiềm năng phát triển to lớn của khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương thúc đẩy Mỹ thực hiện các chính
sách hướng về khu vực này.
CHƯƠNG II
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ Ở KHU VỰC CHÂU Á –
THÁI BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
II.1Mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2.1.1 Mục tiêu xuyên suốt trong chính sách đối
ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, có thể thấy
mục tiêu đối ngoại chiến lược bao trùm của Mỹ là
tập trung củng cố vị trí siêu số 1 thế giới của Mỹ,
thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo.
Trong trật tự này, các giá trị của Mỹ được phổ
biến, ngăn chặn không cho bất kỳ quốc gia nào nổi
lên đe doạ vị trí số 1 của Mỹ. Mục tiêu chiến lược
dài hạn này được cụ thể hoá trong ba mục tiêu cơ
bản là: tăng cường an ninh, củng cố thịnh vượng
kinh tế và thúc đẩy dân chủ dân quyền. Những mục
tiêu này tiếp tục chi phối chính sách đối ngoại của
Mỹ trong từng thời kỳ và đối với từng quốc gia, khu
vực. Đó chính là những nguyên tắc cơ bản định
hình chính sách đối ngoại của Mỹ trong nửa thế kỷ
qua và những nguyên tắc này tiếp tục là cốt lõi
cho chính sách đối ngoại của Mỹ sau này.Sau sự kiện cuộc khủng bố tấn công nước Mỹ ngày
11/09/2001, chúng ta có thể nhận thấy những thay
đổi nhất định trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Sự
kiện này đã làm thay đổi trọng tâm trong chính sách
đối ngoại của chính quyền Geogre.W.Bush. Đáp lại
các vụ tấn công ngày 11-9, chính quyền Bush đã tiến
hành ngay một “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố”.
Cuộc chiến không chỉ nhắm đến lực lượng Al Qaeda mà
còn tập trung vào nguy cơ khủng bố toàn cầu nói
chung. Cuộc chiến không chỉ hướng mục tiêu đến các
chủ thể phi quốc gia nguy hiểm mà còn là các chế độ
có ý định nuôi dưỡng hoặc viện trợ cho chúng. Để
lấy được những thông tin có thể làm bằng chứng, Mỹ
đã tìm cách giam cầm, buộc đầu hàng và trong một số
trường hợp đã tra tấn tù binh. Hầu hết các chính
sách bao gồm đánh phủ đầu (ngăn chặn), đơn phương,
tạo uy thế quân sự, dân chủ hóa, tự do hóa thương
mại, tăng trưởng kinh tế, tăng cường liên kết đồng
minh và quan hệ đối tác giữa các cường quốc – đã
được vạch ra trong Chiến lược an ninh quốc gia năm
2002 của chính quyền Bush.
Ngày 11-9 đã “kích động” chính quyền Bush và
buộc nó phải thay đổi trọng tâm của mình. Lo ngại
đã dẫn đến hành động, điều thường thấy trong quyền
lực của Mỹ, một “niềm tự hào” trong thể chế và giá
trị quốc gia, tính trách nhiệm trước sự an toàn của
công chúng, cảm giác tội lỗi khi để đất nước bị tấn
công. Trước ngày đó, vị trí đứng đầu và an ninh của
Mỹ được xem là lẽ dĩ nhiên phải thế. Nhưng sau sự
kiện 11-9, Washington đã nhận thấy vấn đề của việc
bảo vệ nước Mỹ, ủng hộ đồng minh, giám sát một nền
kinh tế thế giới mở và truyền bá thể chế nước Mỹ.
Cuộc chiến chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược hàng đầu của Mỹ. Đối với Mỹ ở khíacạnh nào đó, chống khủng bố đã thay thế cho mụctiêu “chống cộng” thời kỳ chiến tranh lạnh và trởthành ngọn cờ tập hợp lực lượng, và danh giớiphận định bạn thù của Mỹ.Học thuyết Bush “hoặc các bạn đứng về phía chúng tôi, hoặc đứng về phía bọn khủng bố” là lời tuyênbố mạnh mẽ nhất về chính sách của Mỹ đối với cácnước trên thế giới trong cuộc chiến chống khủng
bố. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng trọng tâmtrong chiến lược đối ngoại của Mỹ trong một thờigian ngắn tới là cuộc chiến chống khủng bố. Mụctiêu này sẽ chi phối và xác định những ưu tiêntrong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ thể hiện sự kế thừa hơn là sự thay đổi mục tiêu cơ bản thenchốt nhất trong chính sách an ninh, đối ngoại củaMỹ. Những mục tiêu cốt lõi cho chính sách đốingoại của Mỹ như duy trì vị trí cường quốc số 1thế giới, thiết lập một trật tự thế giơi do Mỹlãnh đạo. Ngăn chặn không để cho bất kỳ một cườngquốc thù địch nào nổi lên đe doạ vị trí và vaitrò của Mỹ.
2.1.2 Mục tiêu của Mỹ tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương.
Tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, Mỹ đang
huy động nhiều nguồn lực để thúc đẩy các mục tiêucủa Washington trong khu vực. Về cơ bản, những mục
tiêu này bao gồm việc giành được những lợi ích về
nhiều mặt tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Thứ
nhất có thể thấy lợi ích quan trọng của Mỹ về kinh
tế. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực kinh tế
năng động với các cường quốc kinh tế hàng đầu thế
giới như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,… ASEAN
cũng là khu vực kinh tế năng động với mức tăng
trưởng cao trên 6% mỗi năm. Thực hiện các chính
sách đối ngoại với khu vực này nhằm tạo ra những cơ
hội để Mỹ giải quyết những khó khăn về kinh tế mà
nước này đang gặp phải từ sau cuộc khủng hoảng kinh
tế - tài chính. Về chính trị, sự trỗi dậy của Trung
Quốc và sự lớn mạnh của các cường quốc như Nga và
Nhật Bản đang đe doạ vị trí số 1 thế giới của Mỹ.
Các cường quốc này đều đang thực hiện chính sách
hướng về Châu Á – Thái Bình Dương với cường độ khẩn
trương nhằm tranh dành ảnh hưởng về chính trị, kinh
tế. Để kiềm chế ảnh hưởng của các cường quốc khác
tại khu vực giàu tiềm năng này, Mỹ bắt buộc phải
thi hành các chính sách ngoại giao hướng tới khu
vực và đây là yếu tố thúc đẩy cạnh tranh giữa các
siêu cường thế giới.
Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế mới cũng buộc các
quốc gia phải hợp tác lại với nhau vì mục đích
chung. Xu thế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh đo đó trở
thành xu hướng lớn ở khu vực này trong nhiều năm
vừa qua. Có thể thấy hai xu thế vận hành trong xu
hướng này như sau:
Một là, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn ảm
đạm, xu hướng "gác lại" tranh chấp và bất đồng,
cùng bắt tay hợp tác về kinh tế đang trở thành xu
hướng chính trong mối quan hệ giữa các nước muốn
gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích ở khu vực.
Tiêu biểu cho xu thế này là các cặp quan hệ Mỹ -
Trung Quốc, Ấn Độ - Trung Quốc, Trung Quốc- Nhật
Bản - Hàn Quốc. Về cặp quan hệ Mỹ - Trung Quốc,
trong năm 2013, mặc dù nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới có dấu hiệu suy giảm hơn trước, nhưng Trung
Quốc vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 7,5%. Trong
khi đó, nền kinh tế đầu tàu thế giới có dấu hiệu
phục hồi khả quan và được nhận định đã lấy lại động
lực tăng trưởng trong nửa cuối năm nay. Hai đầu tàu
kinh tế cùng ổn định và có bước tăng trưởng sẽ có
lợi cho sự phát triển của mỗi nước và đóng góp vào
sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu đang "ì
ạch" hiện nay. Trong bối cảnh đó, hợp tác Trung
Quốc - Mỹ hướng tới xây dựng "quan hệ cường quốc
kiểu mới" giữa hai nước ngày càng trở nên quan
trọng. Các nhà phân tích cho rằng, suy cho cùng,
quan hệ Mỹ - Trung Quốc đang và sẽ là sự đan xen
giữa cạnh tranh và hợp tác.
Một điển hình khác của xu thế thứ nhất, đó là
việc Trung Quốc tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không
(ADIZ) trên biển Hoa Đông chồng lấn vùng chủ quyền
của cả hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc khiến không
chỉ hai nước này phản đối dữ dội, mà còn khiến dư
luận quốc tế hết sức quan ngại về những bất đồng có
thể tiếp diễn theo chiều hướng xấu hơn xung quanh
vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển đông giữa
Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực. Tuy
nhiên, bất chấp những căng thẳng về tranh chấp lãnh
hải, lãnh thổ và các vấn đề do lịch sử để lại, cả
ba nước đã bắt tay đàm phán về Hiệp định tự do
thương mại (FTA) ba bên.
Hai là, một số cặp quan hệ được củng cố chặt chẽ
hơn vì ngày càng có chung lợi ích chiến lược.Tiêu
biểu là cặp quan hệ Nga -Trung Quốc, Mỹ- Nhật Bản,
Ấn ĐộNhật Bản và "bộ ba" Trung Quốc, Nga và Ấn Độ.
Quan hệ giữa Nga và Trung Quốc phát triển mạnh mẽ
trong bối cảnh Mỹ thực hiện chiến lược xoay trục
sang châu Á. Theo các chuyên gia, nhà lãnh đạo Tập
Cận Bình và Tổng thống Pu - Tin nhận thấy rõ nước
họ có những lợi ích chiến lược chung nhiều hơn sau
khi Oa-sinh-tơn thúc đẩy Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) và Thỏa thuận Đối tác thương
mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP) trong hai
năm qua.
Các mục tiêu chiến lược của Mỹ đã được vạch ra
khi thực hiện chính sách đối ngoại hướng về khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương, tuy nhiêu, trước sự lớn
mạnh của các cường quốc trong khu vực, sự hình
thành của xu hướng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa
các cường quốc muốn gia tăng ảnh hưởng ở khu vực
này thì việc hiện thực hoá những mục tiêu của Mỹ có
thể gặp không ít trở ngại. Việc này đòi hỏi Mỹ phải
xử lý một cách thích hợp quan hệ với Trung Quốc khi
triển khai các chiến lược đối với Châu Á – Thái
Bình Dương.
2.2 Nội dung sự chuyển hướng trong chính sách
đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương trong thời gian gần đây.
2.2.1 Tổng thống G.Bush (1989 – 1993).
Bước vào năm 1989, tình hình thế giới có nhiều
biến chuyển phức tạp với việc chiến tranh lạnh giữa
Liên Xô và Mỹ kết thúc, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
lâm vào khủng hoảng và đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Trong bối cảnh đó, G.Bush trở thành Tổng thống Hoa
Kỳ, G.Bush đã có những ưu tiên trong chính sách đối
ngoại, thể hiện trong Bản báo cáo chiến lược về an
ninh quốc gia mới tháng 3 -1999, khẳng định mục
tiêu chiến lược của Mỹ là “vượt trên ngăn chặn”,
tìm kiếm sự hoà hợp của Liên Xô vào hệ thống quốc
tế với tư cách là một thành viên có tính chất xây
dựng, tham gia ngày càng tích cực vào các lĩnh vực
hợp tác quốc tế và đặt cơ sở cho một mối quan hệ
sâu sắc hơn,thúc đẩy tự do dân chủ và cải cách
chính trị - văn hoá ở Liên Xô, từng bước xoá bỏ chế
độ xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản. Sau
chiến tranh vùng vịnh năm 1991, Mỹ tiếp tục điều
chỉnh chính sách đối ngoại, hướng tới thiết lập
“trật tự thế giới mới” với ý đồ sử dụng Hội đồng
bảo an Liên Hợp Quốc là cơ sở pháp lý cho vị trí
lãnh đạo của Mỹ. Tuy nhiên, sự thất cử của tổng
thống G.Bush đã mở đường cho sự thay đổi trong
chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống
B.Clinton.
2.2.2 Tổng thống B.Clinton (1993 – 2001)
Sau khi đắc cử Tổng thống vào năm 1992,Tổng
thống B.Clinton triển khai chiến lược “Cam kết và
Mở rộng” gồm 4 nội dung:
1. Củng cố cộng đồng các nền dân chủ và thị
trường, trong đó Mỹ là hạt nhân.
2. Khuyến khích và củng cố các nền dân chủ
mới và các nền kinh tế thị trường.
3. Chống lại xâm lược và ủng hộ giải phóng
tại các nước thù địch với dân chủ thị trường
4. Theo đuổi các mục tiêu nhân đạo, cung cấp
viện trợ và giúp dân chủ và thị trường.
Để thực hiện bốn nội dung này, chính quyển của
Tổng thống B.Clinton xác định ba trụ cột lớn trong
chính sách đối ngoại là kinh tế, an ninh quân sự và
thúc đẩy dân chủ nhân quyền, cụ thể là:
1. Phục hồi và phát triển kinh tế Mỹ, giành
lại vị trí lãnh đạo của Mỹ là ưu tiên cao nhất của
chính quyền B.Clinton. Nội dung cơ bản của chính
sách đối ngoại là củng cố nền kinh tế Mỹ, thúc đẩy
tự do hoá thương mại toàn cầu và khu vực.
2. Một nền an ninh quân sự vững mạnh để có
thể đối phó với những thách thức trong một môi
trường an ninh mới là trụ cột thứ hai trong chiến
lược của Mỹ.
3. Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền là một
trong những trọng tâm chiến lược của Tổng thống
Clinton. Nó không chỉ đơn thuần là áp đặt nền dân
chủ kiểu Mỹ, các giá trị Mỹ và can thiệp sâu vào
công việc nội bộ của nước khác. Nó còn là ngọn cờ
tập hợp lực lượng của Mỹ sau khi ngọn cờ “chống
cộng sản” không còn tác dụng. Nó vừa là mục tiêu,
vừa là công cụ để Mỹ tập hợp lực lượng.
2.2.3 Tổng thống G. W. Bush (2001 – 2009)
Đầu tháng 1 – 2001, G.W.Bush đắc cử và trở
thành Tổng thống Mỹ. Kể từ đó, tổng thống Mỹ tiến
hành điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng đối
ngoại theo hướng đơn phương giải quyết các vấn đề
quốc tế theo quan điểm của Mỹ. Sự điều chỉnh này
của Tổng thống Bush bắt đầu sau vụ khủng bố tấn
công nước Mỹ vào 11/9/2001. Tuy vậy những mục tiêu
cơ bản và then chốt của Mỹ vẫn được duy trì. Sau sự
kiện vụ khủng bố vào ngày 11/9/2001, cuộc chiến
chống khủng bố trở thành ưu tiên hàng đầu trong
chính sách đối ngoại của nước Mỹ. Đối với Mỹ,
chống khủng bố trở thành mục tiêu thay thế cho
chiến lược “chống cộng sản” thời kỳ chiến tranh
lạnh và trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của
Mỹ và ranh giới phân biệt bạn thù. Sự kiện ngày
11/09 đã trở thành kim chỉ nam cho chính sách đối
ngoại mới của Mỹ. Mục tiêu của Mỹ trong một tương
lai gần sẽ là chống khủng bố. Theo đó,các mục
tiêu khác trong chính sách đối ngoại của Mỹ sẽ bị
chi phối bởi mục tiêu chống khủng bố này trên
từng khía cạnh, từng vấn đề, từng khu vực và đối
tượng cụ thể.
Chính quyền G.W.Bush có một số điều chỉnh chiến
lược cụ thể đối với các nước có vị trí chiến lược
trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ:
Thứ nhất, chính sách của Mỹ đối với các đối thủ
tiềm năng của Mỹ như Nga và Trung Quốc chịu sự tác
động trực tiếp của chống khủng bố. Trước ngày 11/9,
sự lớn mạnh của Nga và Trung Quốc là mối đe doạ
hàng đầu của Mỹ, sau ngày 11/9, vị trí đó được thay
thế bởi chủ nghĩa khủng bố. Đối với Nga vàTrung
Quốc là hai nước có vai trò quan trọng trong cuộc
chiến chống khủng bố, thái độ của Mỹ đối với hai
nước này trở nên mềm mỏng và nhấn mạnh hợp tác hơn.
Thứ hai, ở nhiệm kỳ của Tổng thống Bush, khu vực
CA – TBD vẫn chưa dành được nhiều sự quan tâm từ
phía Mỹ. Mỹ hướng nhiều hơn đến khu vực Trung Á,
cuộc chiến chống khủng bố đã tạo ra cho Mỹ cơ hội
thuận lợi để can thiệp vào khu vực Trung Á, nơi có
vị trí chiến lược then chốt và trữ lượng giàu mỏ
lớn. Các nước trong khu vực này hầu như đều là
những nước nghèo, yếu kém cả về chính trị, kinh tế,
quân sự,…nên đã nhanh chóng hợp tác với Mỹ để nhận
được sự viện trợ của Mỹ. Do vị trí chiến lược của
Trung Á nên mặc dù tuyên bố tạm thời có mặt nhưng
Mỹ đã không rút quân khỏi khu vực này.
Thứ ba, điều chỉnh chính sách đối với Nam Á. Với
chiến dịch chống khủng bố và vai trò của Pakixtan
trong cuộc chiến chống khủng bố nên Mỹ từ chỗ ưu
tiên hơn với Ấn Độ đã chuyển sang cân bằng giữa Ấn
Độ và Pakixtan. Một mặt, Mỹ tiếp tục chính sách
xích lại gần Ấn Độ và càng coi trọng Ấn Độ hơn sau
ngày 11/9. Mặt khác lại gia tăng vai trò của
Pakixtan. Đây là lần đầu tiên sau nhiều thập niên
Mỹ có quan hệ cân bằng với hai quốc gia thù địch ở
Nam Á.
Thứ tư, Mỹ cũng đã bắt đầu chú ý đến khu vực CA– TBD, tiêu biểu là khu vực Đông Nam Á. Vị trí củaMỹ ở khu vực Đông Nam Á đã tăng lên đáng kể từ sauvụ khủng bố ngày 11/9. Lợi dụng cuộc chiến chốngkhủng bố, Mỹ đã tăng cường sự có mặt của mình tạikhu vực này. Sau Afghanistan, Mỹ đã chọn Philipinlà địa điểm để triển khai giai đoạn tiếp theo củacuộc chiến chống khủng bố. Mỹ đồng thời cũng chú ýđến Inđônêsia và có thể sẽ lại viện trợ quân sựcho nước này đề thực hiện chiến lược chống khủngbố và tăng cường can thiệp ở Đông Nam Á.
Như vậy, có thể thấy, trong hai nhiệm kỳ của
tổng thống G.W.Bush, nước Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện
các chính sách đối ngoại nhằm theo đuổi mục tiêu bá
chủ thế giới, loạ bỏ các trở ngại ngăn cản sự vươn
lên của Mỹ.
2.2.4 Tổng thống Barrack ObamaTổng thống Obama trở thành Tổng thống thứ 44
cuả Mỹ sau khi đắc của vào năm 2009. Sau khi nhậmchức, chính quyền của Tổng thống Obama đứng trướcnhiều thách thức đến từ một nền kinh tế khủng hoảngvà những di sản nặng nề khác cả về đối nội và đốingoại do chính quyền tiền nhiệm để lại. Liên quanđến lĩnh vực đối ngoại, Mỹ sẽ kết hợp khéo léo giữa
quân sự và ngoại giao và chỉ sử dụng quân sự nhưmột liệu pháp cuối cùng. Trong quan hệ quốc tế,ngoại giao và thuyết phục sẽ đi tiên phong vớiphương châm thêm bạn, bớt thù. Mục tiêu của chínhsách đối ngoại đó là:
1. Bảo vệ an ninh cho đất nước, dân tộc và
đồng minh.
2. Thúc đẩy phát triển kinh tế và chia sẻ sự
phồn vinh trong nước cũng như nước ngoài.
3. Tăng cường vị trí của Mỹ, lãnh đạo toàn
cầu bằng việc nêu gương. Theo phương châm Mỹ muốn
là bạn của tất cả các nước, coi Liên Hợp Quốc là tổ
chức quan trọng nhất và tiếp tục hợp tác chặt chẽ
với tổ chức này.
Như vậy, so với các Tổng thống trước đó, chính
sách đối ngoại của Tổng thống Obama có những điểm
khác nhưng nó vẫn không nằm ngoài mục tiêu phục hồi
và củng cố vị trí lãnh đạo thế giới của Mỹ trong
cộng đồng thế giới. Ngay sau khi lên nắm quyền,
tổng thống Obama đã nhanh chóng điều chỉnh chiến
lược đối ngoại theo hướng mềm dẻo, linh hoạt, thực
dụng, coi trọng chủ nghĩa đa phương và sức mạnh tập
thể. Chính quyền tổng thống Obama đã có những bước
đi cụ thể, thể hiện chủ nghĩa đa phương trong từng
sự kiện mà Mỹ can dự.
Tại nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, chính sách
của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
được thể hiện rõ nhất so với các đời tổng thống
trước đó. Không lâu sau khi lên cầm quyền, vào
tháng 11/2011, chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack
Obama lần đầu thông báo Chiến lược tái cam kết với
châu Á – Thái Bình Dương. Trên thực tế Washington
chưa bao giờ lãng quên khu vực này. Tuy nhiên,
trong thập kỷ qua, do mải tập trung tiềm lực vào
khu vực Trung Đông và Nam Á với 2 chiến trường
Afghanistan và Iraq, nên đến giờ đây, chính quyền
Mỹ mới nhận thấy rằng lợi ích của mình tại châu Á
Thái Bình Dương đang bị suy yếu, đặc biệt trong bối
cảnh tiềm lực kinh tế, chính trị và ảnh hưởng của
Trung Quốc không ngừng được mở rộng nhanh chóng
trong khu vực.
Sức mạnh toàn cầu của Mỹ dựa phần lớn vào khả
năng kiểm soát của nước này trên các đại dương và
châu Á Thái Bình Dương chính là sân chơi của các
quan hệ kinh tế và chính trị trong tương lai. Vì
vậy, ngay lập tức Chính quyền Obama đã đầu tư đáng
kể nguồn vốn chính trị vào châu Á kể từ sau thông
báo rầm rộ trở lại Thái Bình Dương từ hơn ba năm
trước.
Với Tổng thống Obama, người từng sống ở cả
Hawaii và Indonesia đã giúp ông thấm nhuần một thế
giới quan Thái Bình Dương. Việc rút quân khỏi Iraq
và Afghanistan càng cho ông cơ hội để tập trung
nguồn lực gia tăng ảnh hưởng ở khu vực chiến lược
này. Và chính quyền của ông Obama lập tức thực thi
một loạt biện pháp nhằm hiện thực hóa chiến lược
này.
Nội dung của chiến lược “chuyển trục” định
hướng Châu Á – Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống
Obama bao gồm việc chuyển thêm các nguồn lực kinh
tế và chính trị sang khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương, tăng cường các hoạt động ở Châu Á Thái bình
dương với những lực lượng được tái bố trí từ Iraq
và Afghanistan. Washington muốn sử dụng những nguồn
lực mới về ngoại giao và thương mại để góp phần
củng cố cho vị thế của một cường quốc Thái bình
dương. Ngoại trưởng Mỹ Kerry đã có những phát
biểu về chính sách này như sau: “Tôi muốn xác nhận
rằng mục tiêu tái cân bằng của Mỹ sang Châu Á Thái
Bình Dương tiếp tục là ưu tiên hàng đầu của chính
phủ của Tổng thống Obama. Mỗi ngày, dựa trên chỉ
thị của Tổng thống, chúng tôi đang huy động thêm
các nguồn lực ngoại giao, kinh tế và quân sự để góp
phần tăng tiến các mục tiêu mà chúng tôi chia sẻ
với các đối tác trên khắp khu vực." (theo
voatiengviet.com).Hai quan chức hàng đầu trong nội các
Mỹ là Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel và Bộ trưởng
Thương mại Penny Fritzker ngày 17/2 đã có bài viết
đăng trên "Nhật báo Phố Wall" với tựa đề "Mỹ luôn
cam kết với châu Á", trong đó khẳng định Washington
sẽ tiếp tục thúc đẩy thịnh vượng, hợp tác để đảm
bảo an ninh trong khu vực.
Hai vị bộ trưởng nhận định trong nhiều thập kỷ
qua, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã có sự phát
triển mạnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kinh
ngạc đã làm thay đổi bộ mặt của các quốc gia giáp
Thái Bình Dương và giúp hàng triệu người thoát khỏi
đói nghèo. Bộ Quốc phòng và Bộ Thương mại Mỹ đang
hợp tác chặt chẽ với các nước để giúp sự phát triển
đi theo đúng hướng. Các nỗ lực này là đặc biệt quan
trọng bởi khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang phải
đối mặt với những hận thù và tranh chấp lịch sử,
làm gia tăng căng thẳng, bất ổn và có nguy cơ tạo
ra một cuộc xung đột rộng lớn hơn.
Theo ông Chuck Hagel và bà Penny Fritzker, Mỹ
cần phải hành động để thúc đẩy việc đặt ra các
nguyên tắc chung và các quy tắc hợp lý cả trong
lĩnh vực an ninh và kinh tế. Trong lĩnh vực kinh tế
và thương mại, điều này đồng nghĩa với việc phải
kết thúc đàm phán về TPP với các nước trong khu
vực. Trong lĩnh vực an ninh, cần phải tạo ra một
không gian mà các lực lượng quân sự Mỹ có thể liên
lạc tốt hơn, vượt qua được các vấn đề khó khăn và
hợp tác trên cơ sở lợi ích chung. Mỹ đã bắt đầu làm
việc với các quốc gia trong khu vực, trong đó có
Trung Quốc, để thúc đẩy sự minh bạch và tạo ra
những quy tắc rõ ràng trong các lĩnh vực thiết yếu
như đi lại trên biển, trên không, vấn đề không
gian, an ninh mạng và Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên
ở Biển Đông. Đồng thời các quốc gia Thái Bình Dương
phải tiếp tục hợp tác với nhau khi xảy ra thảm họa
và Mỹ cần tiếp tục xây dựng các mối quan hệ hợp tác
về an ninh – quốc phòng. Điều này sẽ không chỉ giúp
đảm bảo an ninh mà còn giúp tạo ra các cơ hội kinh
tế mới cho cả Mỹ và các nước Châu Á – Thái Bình
Dương.
Như vậy, có thể thấy nội dung của chiến lược
“chuyển trục” định hướng khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương là nỗ lực theo đuổi các lợi ích kinh tế -
chính trị và an ninh quốc phòng. Trong đó, nhận
thực được sự vươn lên của khối ASEAN, Mỹ coi đây là
một trục chiến lược và đã có những can thiệp nhất
định vào vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển
Đông, cũng như ưu tiên hợp tác kinh tế đối với các
nước trong nhóm này.
Các yếu tố chi phối chiến lược “chuyển trục” này
có thể kể đến như sau:
Một là, tình hình tài chính không đáng lạc quan
của Mỹ với biểu hiện là một số cơ quan của Chính
phủ Mỹ đã phải tạm thời đóng cửa gần đây. Để đảo
ngược tình hình tài chính khó khăn này, chính quyền
Obama đang phải tiến hành một số bước cắt giảm chi
tiêu quân sự. Mặc dù điều này có thể tránh cho ngân
sách của Chính phủ Mỹ không bị thâm hụt quá cao
nhưng nó ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng hành động
của Mỹ trên thế giới, nhất là trong việc đối phó
với những cuộc khủng hoảng quốc tế. Bộ Quốc phòng
Mỹ sẽ phải cắt giảm chi phí hơn 1.000 tỷ USD trong
thập kỷ tới và chỉ trích việc cắt giảm chi tiêu
trên là "quá nhanh, quá nhiều, quá đột ngột và quá
vô trách nhiệm". Hơn nữa, do tình hình kinh tế khó
khăn, tỷ lệ ủng hộ chính sách đối ngoại của chính
quyền Mỹ cũng giảm, ảnh hưởng xấu đến sự ủng hộ của
xã hội để cho ông Obama tiếp tục thực thi chiến
lược "trở lại" châu Á-Thái Bình Dương.Một cuộc thăm
dò mới đây cho thấy, có tới 56% số người được hỏi
thất vọng với chính sách đối ngoại của chính quyền
Obama; 52% cho rằng Mỹ nên tập trung vào các vấn đề
trong nước trước; và lần đầu tiên trong gần 40 năm
qua, 53% cho rằng ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới
suy giảm trong thập kỷ qua.
Hai là, tình hình an ninh tại các khu vực khác
trên thế giới. Về cơ bản, chiến lược này khiến Mỹ
phải cơ cấu lại lực lượng. Nếu tình hình an ninh
xấu đi tại các khu vực khác, Mỹ sẽ không có lựa
chọn nào khác ngoài việc phải cắt giảm lực lượng,
ban đầu được sử dụng để tăng cường sức mạnh tại
châu Á. Từ khía cạnh này, chiến lược này còn phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
Ba là, thái độ của các nước châu Á đang hạn chếnhững chính sách của chính quyền Obama vốn đã gâyra những phản ứng tâm lý trái ngược tại các nướcchâu Á. Một mặt họ hoan nghênh sự can dự của Mỹtrong các vấn đề châu Á và coi Mỹ là đối trọng đểchống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc. Song mặtkhác, các nước châu Á cũng duy trì và phát triểnquan hệ tốt với Trung Quốc, không chỉ vì các lýdo kinh tế, mà còn cả vì các tính toán địa chiếnlược.
Bản thân Trung Quốc là một nước châu Á, vì thế,hầu hết các quốc gia châu Á đều rất miễn cưỡng khibuộc phải chọn đứng về bên nào giữa Mỹ và TrungQuốc. Hoạt động ngoại giao cân bằng là lựa chọn ưathích và tối ưu của họ. Kết quả là Mỹ sẽ không dễdàng đạt được các mục tiêu chiến lược của họ bằngcách tăng cường quan hệ với các nước châu Á.
Bốn là, tình hình phát triển của Trung Quốc đang
ảnh hưởng đến chiến lược này của Mỹ bởi những mục
tiêu rõ ràng của chiến lược này là nhằm chống lại
Trung Quốc, cho dù Mỹ có thừa nhận hay không. Tiến
trình phát triển của Trung Quốc cũng đang trở thành
một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng
đến chiến lược "trở lại" châu Á-Thái Bình Dương của
Mỹ.
2.3 Hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Chiến lược “chuyển trục” hay “tái cân bằng” của
Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang
được tích cực thực hiện và trong thời gian ngắn tới
sẽ dành nhiều ưu tiên cho các lĩnh vực hợp tác về
kinh tế, an ninh và môi trường, đồng thời tăng
cường hợp tác với các đồng minh tại khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương.
Mỹ đang đặt trọng tâm vào các vấn đề phát triển
kinh tế, năng lượng, giao lưu nhân dân và giáo dục,
bởi vì sự thịnh vượng và hòa bình ở châu Á-Thái
Bình Dương đồng nghĩa với việc mang lại cơ hội cho
tất cả người Mỹ và tất cả các nước trong khu vực.
Về lĩnh vực kinh tế, Mỹ tin tưởng chắc chắn
rằng việc đầu tư thời gian, sức lực, chia sẻ trí
tuệ và vật chất tại châu Á-Thái Bình Dương là sự
đầu tư thông minh. Hiện tại Washington đang nỗ lực
thực thi các sáng kiến, bao gồm Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), để hỗ trợ sự tăng
trưởng và tạo việc làm trong khu vực. Trong đó, Mỹ
dành sự ưu tiên đặc biệt cho khu vực Đông Nam Á
(ASEAN). Chiến lược xoay trục của Mỹ liên quan việc
nước này sẽ trao quyền cho ASEAN góp phần xây dựng
một cấu trúc kinh tế khu vực, duy trì sự thịnh
vượng chung. Tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN
và Mỹ đạt 198,8 tỷ USD năm 2011, đưa Mỹ trở thành
đối tác thương mại lớn thứ tư của ASEAN và trong
cùng kỳ Mỹ cũng là nhà đầu tư lớn thứ ba trong
ASEAN với tổng vốn đầu tư hơn 5,8 tỷ USD. Đã có
không ít hoài nghi về cam kết "chuyển trục" sang
châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ khi Tổng thống Mỹ
B.Ô-ba-ma vắng mặt tại Hội nghị cấp cao (HNCC) APEC
diễn ra tại In-đô-nê-xi-a và HNCC Đông Á (EAS) diễn
ra tại Bru-nây đầu tháng 10 vừa qua. Tuy nhiên,
bằng các chuyến thăm "thế chỗ" của Phó Tổng thống
G.Bai-đơn và hàng loạt chuyến thăm khác của giới
chức Mỹ tới khu vực này cũng như thông qua các
hành động cụ thể, Oa-sinh-tơn muốn khẳng định Mỹ
vẫn quyết tâm tăng cường và củng cố vai trò lớn
hơn tại khu vực châu Á.
Mỹ cũng đang hợp tác với các đối tác quan
trọng, nhất là Trung Quốc về các giải pháp kiểm
soát môi trường và những cách thức giải quyết khí
thải gây hiệu ứng nhà kính. Hiện nay, biến đổi khí
hậu không chỉ là vấn đề của riêng nước Mỹ mà còn là
vấn đề toàn cầu của tất cả các quốc gia. Đối với
những nước lớn và dân số đông như Mỹ và Trung Quốc,
ô nhiễm môi trường là thách thức không nhỏ. Sự hợp
tác giữa Mỹ và Trung Quốc trong vấn đề này cũng
nhằm giảm bớt những căng thẳng xung quanh vấn đề
biển Đông trong thời gian qua.
Trong lĩnh vực an ninh, Mỹ đang nỗ lực hiện đại
hóa các mối quan hệ đồng minh và đảm bảo có thể hợp
tác liên tục với các đối tác nhằm ứng phó với các
cuộc khủng hoảng và những vụ việc bất ngờ. Mỹ rất
lo ngại trước những diễn biến gần đây trên biển Hoa
Đông cũng như trên biển Đông, đặc biệt là các hành
động đơn phương, mang tính khiêu khích, và những
đòi hỏi chủ quyền không mang tính ngoại giao và
không có cơ sở pháp lý. Kiểu hành động đó làm dấy
lên những quan ngại về sự tôn trọng luật pháp và
các mục tiêu lâu dài của một số nước trong khu
vực.Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Russel nhấn mạnh, là một
cường quốc hàng đầu trên thế giới, Washington có
lợi ích rất lớn trong việc đảm bảo châu Á-Thái Bình
Dương vẫn là một khu vực mở, một khu vực thịnh
vượng và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Việc duy trì một chế độ hàng hải mở dựa trên
luật pháp đã có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển, ổn định và tăng trưởng kinh tế ấn tượng
của khu vực. Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc duy
trì tự do hàng hải, hoạt động thương mại hợp pháp
không bị cản trở, và trong việc tôn trọng luật pháp
quốc tế và hòa bình trên biển. Mỹ đang thực thi một
lập trường kiên quyết đó là tất cả các tuyên bố chủ
quyền biển đảo phải phù hợp với luật pháp quốc tế.
Đối với việc Trung Quốc tuyên bố thiết lập Khu vực
nhận diện phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông và
có thể còn mở rộng sang cả Biển Đông, ông Russel
khẳng định, Mỹ không công nhận Khu vực ADIZ. Những
tuyên bố của phía Trung Quốc không làm thay đổi
phương thức hoạt động của Chính phủ Mỹ hoặc cách
thức Mỹ tiến hành các chiến dịch quân sự trong khu
vực. Mỹ vẫn xem đó là hành động không phù hợp với
sự ổn định khu vực và chỉ làm gia tăng những căng
thẳng vào thời điểm lẽ ra những căng thẳng đó cần
được giảm bớt. Mỹ xem đây là một động thái làm gia
tăng, chứ không làm giảm nguy cơ tính toán sai lầm,
nguy cơ đối đầu quân sự hoặc nguy cơ xảy các vụ
việc bất ngờ. Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh:
“Hành động đó cản trở sự tự do lưu thông trên không
phận quốc tế và dấy lên những quan ngại về ý định
và cách thức giải quyết căng thẳng của Trung Quốc
với các nước láng giềng, nhất là vào một thời điểm
nhạy cảm và các khu vực nhạy cảm”. Để giảm bớt
căng thẳng, Mỹ hối thúc Trung Quốc không thực
hiện vùng nhận dạng phòng không, và không lập lại
điều đó ở các khu vực nhạy cảm khác, đặc biệt là
tại Biển Đông”. Đồng thời Ngoại trưởng Mỹ kêu gọi
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc giải quyết những
căng thẳng nảy sinh gần đây và tìm cách hợp tác
để xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt. Ông nhấn
mạnh mọi căng thẳng nên được giải quyết và cần
được giải quyết hòa bình bởi tất cả các bên liên
quan.
2.4 Lợi ích của Mỹ từ sự chuyển hướng trong
chính sách đối ngoại đối với khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương.
Thực hiện chiến lược “xoay trục” định hướng
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ đã thu được
những lợi ích nhất định cả về kinh tế lẫn chính
trị.
Về kinh tế, Mỹ xác định khu vực châu Á - Thái
Bình Dương như một công cụ phục vụ nền kinh tế Mỹ
trong tương lai, do đó chiến lược xoay trục của Mỹ
liên quan việc nước này sẽ trao quyền cho ASEAN góp
phần xây dựng một cấu trúc kinh tế khu vực, duy trì
sự thịnh vượng chung. Tổng kim ngạch thương mại
giữa ASEAN và Mỹ đạt 198,8 tỷ USD năm 2013, đưa Mỹ
trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của ASEAN
và trong cùng kỳ Mỹ cũng là nhà đầu tư lớn thứ ba
trong ASEAN với tổng vốn đầu tư hơn 5,8 tỷ USD (theo
báo Nhân Dân điện tử).Đã có không ít hoài nghi về cam
kết "chuyển trục" sang châu Á - Thái Bình Dương của
Mỹ khi Tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma vắng mặt tại Hội
nghị cấp cao (HNCC) APEC diễn ra tại In-đô-nê-xi-a
và HNCC Đông Á (EAS) diễn ra tại Bru-nây đầu tháng
10 vừa qua. Tuy nhiên, bằng các chuyến thăm "thế
chỗ" của Phó Tổng thống G.Bai-đơn và hàng loạt
chuyến thăm khác của giới chức Mỹ tới khu vực này
cũng như thông qua các hành động cụ thể, Oa-sinh-
tơn muốn khẳng định Mỹ vẫn quyết tâm tăng cường và
củng cố vai trò lớn hơn tại khu vực châu Á.
Trong năm 2013, mặc dù nền kinh tế lớn thứ hai
thế giới có dấu hiệu suy giảm hơn trước, nhưng
Trung Quốc lạc quan vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng
GDP 7,5%. Trong khi đó, nền kinh tế đầu tàu thế
giới có dấu hiệu phục hồi khả quan và được nhận
định đã lấy lại động lực tăng trưởng trong nửa cuối
năm nay. Hai đầu tàu kinh tế cùng ổn định và có
bước tăng trưởng sẽ có lợi cho sự phát triển của
mỗi nước và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế toàn cầu đang "ì ạch" hiện nay.
Về chính trị, trong bối cảnh vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh giữa Mỹ và các cường quốc tại Châu Á – Thái
Bình Dương, tiêu biểu là Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,
… Hợp tác Trung Quốc - Mỹ hướng tới xây dựng "quan
hệ cường quốc kiểu mới" giữa hai nước ngày càng trở
nên quan trọng. Các nhà phân tích cho rằng, suy cho
cùng, quan hệ Mỹ - Trung Quốc đang và sẽ là sự đan
xen giữa cạnh tranh và hợp tác. Quan hệ đồng minh
truyền thống Mỹ - Nhật Bản cũng tiếp tục được củng
cố. Tại Hội nghị tham vấn an ninh "2+2" giữa Bộ
trưởng Ngoại giao - Quốc phòng Mỹ-Nhật Bản diễn ra
ở Thủ đô Tô-ki-ô đầu tháng 10 vừa qua nhằm tăng
cường quan hệ giữa các nước đồng minh truyền thống,
hai bên đã đề ra những bước đi cụ thể: xác định rõ
đối tượng tác chiến, củng cố thế trận phòng thủ và
nâng cao hiệu quả răn đe chiến lược... Đây là một
trong sáu định hướng quan trọng nhất trong chiến
lược "xoay trục" của Mỹ, được dư luận đặc biệt
quan tâm. Quan hệ giữa Ấn Độ và Nhật Bản ngày nay
đã vượt ra ngoài mối quan hệ song phương thông
thường bởi hai nước đã liên kết trở thành đối tác
toàn cầu thật sự của nhau với các lợi ích chiến
lược chung. Hai nước có chung tầm nhìn về thúc
đẩy hòa bình, ổn định và mong muốn xây dựng một
châu Á mới mang lại nhiều cơ hội và triển vọng.
Quan hệ "bộ ba" Trung Quốc, Nga và Ấn Độ cũng
được củng cố chặt chẽ hơn.
Cùng nằm ở hai châu lục, tiếp giáp ba đại
dương, chiếm 40% dân số thế giới và hơn 22% bề mặt
lục địa toàn cầu, cả ba nước vừa là những cường
quốc thế giới vừa là những nền kinh tế mới nổi.
Việc ba nước cùng thúc đẩy hợp tác không chỉ mang
lại lợi ích cho nhân dân ba nước, mà còn tiếp thêm
động lực mạnh mới cho kinh tế thế giới.
2.5 Sự triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ
đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, sự
triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ thể hiện ở
việc tiếp tục kế thừa chính sách của tổng thống
tiền nhiệm G.W.Bush là củng cố quan hệ đồng minh
chiến lược và đối tác truyền thống “Mỹ sẽ cùng các
nước này thúc đẩy lợi ích chung và giải quyết các
thách thức trong khu vực”. Đồng thời, chính sách
đối ngoại của Mỹ với CA – TBD dưới thời Tổng thống
Obama cũng có những điều chỉnh nhất định, đặc biệt
đối với các cường quốc lớn và các khu vực tiềm
năng.
2.5.1 Đối với một số cường quốc trong khu vực
Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ là hai quốc gia “xương
sống” trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực
này. Mỹ sẽ coi trọng và tiếp tục củng cố mối quan
hệ với Hàn Quốc, coi đây là “hòn đá tảng” cho việc
duy trì hoà bình và an ninh trên bán đảo Triều
Tiên. Thông qua việc thúc đẩy thương mại và phê
chuẩn Hiệp định thương mại Mỹ - Hàn, quan hệ hai
nước sẽ vươn lên tầm liên minh chiến lược toàn cầu.
Với Trung Quốc, từ lâu, Mỹ đã coi Trung Quốc là
một đối thủ cản trở sự vươn lên của Mỹ. Vì thế, mối
quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc từ lâu đã là mối quan
hệ căng thẳng ,”bằng mặt không bằng lòng”, thiếu
tin tưởng lẫn nhau. Sự vươn lên của Mỹ là thách
thức không nhỏ cho Mỹ, điều này ảnh hưởng tới chính
sách hiện nay của Mỹ là vừa muốn có sự tham gia của
Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế, lại vừa lo
ngại và có thêm các biện pháp đề phòng. Tiểu biểu
là trong vấn đề biển Đông, ngày 8/4/2014, Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã hội đàm và đề cập tới
cuộc tranh chấp lãnh thổ đang leo thang trong khu
vực. Ông Chuck Hagel cho rằng, Bắc Kinh không có
quyền đơn phương thiết lập một vùng nhận diện phòng
không (ADIZ) ở quần đảo tranh chấp mà không tham
vấn với các nước hữu quan và Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản
trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Trước đó,
Washington cũng từ chối công nhận ADIZ của Bắc Kinh
sau khi nước này yêu cầu máy bay các nước phải
thông báo lịch trình chuyến bay với Bộ Quốc phòng
Trung Quốc. Mỹ quan ngại việc thiết lập ADIZ có thể
châm ngòi cho một cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với
các nước hữu quan. Trong khi đó, ông Thường Vạn
Toàn nhấn mạnh, Trung Quốc không gây rắc rối với
Nhật Bản, nhưng Bắc Kinh sẵn sàng sử dụng quân sự
nếu cần để bảo vệ lãnh thổ; đồng thời cảnh báo, Mỹ
phải “liên tục cảnh giác” và “không nên dễ dãi ủng
hộ” Tokyo. Xuất phát từ thực tế này, chính quyền
tổng thống Obama có những khó khăn nhất định trong
việc vạch ra chiến lược đối với Trung Quốc. Để
giải quyết những thách thức đó, Mỹ đã buộc phải
thực hiện một chính sách mềm dẻo hơn đối với nước
này. Lãnh đạo hai nước trong một vài năm gần đây đã
có những chuyến viếng thăm lẫn nhau. Trong chuyến
công du đầu tiên tại cương vị mới, bà H.Clinton đã
có chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 2/2009. Cuối
năm đó, Tổng thống Obama cũng có chuyến thăm Trung
Quốc nhân dự hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN
(11/2009). Qua các chuyến thăm, quan hệ hai nước
“đã được thiết lập cơ sở vững chắc”, cam kết tăng
cường mạnh mẽ mối quan hệ mật thiết giữa hai bên.
Hai bên đã hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể khác
nhau như chống chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa khủng
bố, phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, kiểm soát
vũ trang và hoà bình ở Pakixtan và Afghanistan,
ngăn chặn Iran phổ biến vũ khí hật nhân, xây dựng
quan hệ đối tác để ứng dụng và phát triển những
công nghệ năng lượng sạch, giúp phát triển và ứng
dụng những công nghệ năng lượng sạch, thúc đấy tăng
trưởng kinh tế bền vững và đối phó với vấn đề biến
đối khí hậu, tăng cường hợp tác về an ninh, thúc
đẩy đàm phán 6 bên về vấn đề trên bán đảo Triều
Tiên và gìn giữ hòa bình quốc tế.
Trong quan hệ với Trung Quốc những năm qua,
có hai lĩnh vực được chính quyền tổng thống Obama
tập trung chú ý nhiều nhất. Lĩnh vực đầu tiên liên
quan đến sự tham gia của Trung Quốc đến các thể chế
quốc tế như LHQ,WTO, G20,… Theo quan điểm của chủ
nghĩa đa phương của Mỹ, việc lôi kéo chính
phủTrung Quốc vào những vấn đề này sẽ tranh thủ
được sự ủng hộ của họ vào những vấn đề quốc tế sâu
rộng hơn. Vấn đề thứ hai là vấn đề an ninh không
gian và an ninh mạng. Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton gần
đây bày tỏ Mỹ sẵn sàng tham gia tích cực hơn trong
việc xây dựng một bộ quy chuẩn cho không gian vũ
trụ. Chính quyền Obama cũng sẽ hợp tác với các nước
khác cùng quan tâm để giàng buộc chính phủ Trung
Quốc vào các chuẩn mực nhằm hạn chế tin tặc và gián
điệp bắt nguồn từ nước này. Tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, Mỹ chủ động hợp tác với Trung Quốc
chống cướp biển, chống vũ khí huỷ diệt hàng loạt,
tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc trong chính sách
đối với CHĐCN Triều Tiên (theo BBC News).
Như vậy có thể thấy được những thay đổi nhất
định trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
Trung Quốc dưới thời Tổng thống Obama. Trong nhiều
trường hợp, chính quyền của tống thống Obama đã
loại bỏ các vấn đề Mỹ thường áp dụng đối với Trung
Quốc như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo trong chính
sách đối với Trung Quốc trước đây. Theo đuổi chiến
lược “đối trọng và can dự”, chính quyền Mỹ và Trung
Quốc đã cùng triển khai trên một loạt các vấn đề,
tham gia nhiều cuộc đối thoại từ những vấn đề Châu
Á – Thái Bình Dương đến hỗ trợ nhân đạo và khắc
phục hậu quả thiên tai, an ninh hàng hải… Mặt khác,
Mỹ cũng đặc biệt quan tâm đến hoạt động của quân
đội Trung Quốc, không làm mất cân bằng trong cán
cân lực lượng giữa Trung Quốc và Đài Loan. Mỹ đặc
biệt lo ngại về sự hiện đại hoá của quân đội Trung
Quốc cũng như hoạt động của Trung Quốc trong không
gian vũ trụ, không gian ảo, trên các vùng biển như
Hoàng Hải và biển Đông. Vì thế, Mỹ tỏ rõ thiện chí
sẵn sàng đầu tư các nguồn lực để đối phó với Trung
Quốc.
Với Nhật Bản: Trong những năm cuối nhiệm kỳ của
tổng thống G.W.Bush, giữa Mỹ và Nhật Bản nảy sinh
bất đồng trong chính sách với CHĐCN Triều Tiên.
Nhật Bản cho rằng nước này phải có cam kết cụ thể
bằng văn bản trước khi Mỹ đưa nước này ra khỏi danh
sách các nước đã hỗ trợ cho khủng bố. Sự căng thẳng
giữa hai bên leo thang khi Mỹ nhất quyết đưa nước
này ra khỏi danh sách mà không cần đến một cam kết
nào. Điều này hoàn toàn trái ngược với cam kết của
Mỹ trước đó sẽ không đưa Triều Tiên ra khỏi danh
sách này nếu như không có một tiến bộ nào trong
việc công dân Nhật Bản bị bắt cóc (BBC News)
Trong hoàn cảnh đó, chính quyền của Tổng thống
Obama đã nỗ lực cải thiện mối quan hệ này bằng các
chuyến thăm đến Nhật Bản. Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton
khẳng định Nhật Bản vẫn là đồng minh quan trọng số
1 của Nhật Bản, quan hệ với Nhật tiếp tục là “hòn
đá tảng” trong quan hệ của Mỹ đối với khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương và trong các nỗ lực toàn cầu
của Mỹ. Trước xu thế muốn độc lập hơn trong đối nội
của Nhật Bản, tổng thống Obama tuyên bố chủ trương
“bình đẳng” trong quan hệ đồng minh và khẳng định
đây là nền tảng trong an ninh và thịnh vượng của
Nhật Bản và Mỹ. Mỹ cam kết sẽ tiếp tục bảo vệ Nhật
Bản, trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên,
Mỹ cam kết sẽ giải quyết triệt để, bao gồm cả vấn
đề người Nhật bị bắt cóc, ủng hộ Nhật Bản là thành
viên của hội đồng bảo an LHQ, tăng cường trao đổi
thông tin và phối hợp trong đàm phán 6 bên về vấn
đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, hợp tác giải
quyết các vấn đề an ninh, năng lượng, môi trường,
biến đổi khí hậu và các vấn đề toàn cầu khác.
Mới đây nhất, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã có
chuyến công du tới một loạt các nước châu Á là Hàn
Quốc, Trung Quốc, Indonesia và Các tiểu vương quốc
Arab thống nhất (UAE) từ ngày 13-18/2/2014, nhưng
ông không đặt chân tới Nhật Bản. Trước việc Nhật
Bản không nằm trong danh sách những chặng dừng chân
của ông đặc biệt là trong bối cảnh tình hình khu
vực Đông Á đang căng thẳng đã khiến dư luận đặt ra
nhiều câu hỏi về các vấn đề liên quan đến quan hệ
Mỹ - Nhật. Ngay lập tức bác bỏ những hoài nghi về
vấn đề này, giới truyền thông Nhật bản đã trích dẫn
nội dung cuộc hội đàm giữa Ngoại trưởng Kerry và
Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida tại Washington
rằng: “Quan hệ Nhật - Mỹ đang rất tốt đẹp, nên
không cần phải khôi phục hay gây dựng lòng tin” và
đó là lý do ông Kerry không tới Nhật Bản vào thời
điểm này. Yosuke Isozaki, một cố vấn an ninh quốc
gia của Thủ tướng Abe khẳng định: “Liên minh Mỹ -
Nhật Bản vẫn là một liên minh quan trọng nhất, và
điều đó sẽ không thay đổi”. Ở chiều ngược lại
Washington cũng đã có nhữg phát biểu rõ ràng về mối
quan hệ với đồng minh Nhật Bản, một quan chức cấp
cao của Bộ Quốc phòng Mỹ nói: “Liên minh Mỹ - Nhật
là nền tảng của an ninh và thịnh vượng trong khu
vực. Chính phủ Mỹ cam kết sẽ tăng cường khối liên
minh này và duy trì nghĩa vụ của Mỹ trong hiệp ước
an ninh ký kết với Nhật Bản”.
Mới đây, hôm 9/2/2014, Ngoại trưởng Mỹ John
Kerry đã tuyên bố, Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản chống lại
cuộc tấn công, bao gồm cả các tranh chấp lãnh hải
với Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng gia tăng
giữa hai nước này. Trong cuộc gặp với Ngoại trưởng
Nhật Bản Fumio Kishida tại Washington, ông Kerry đã
tái khẳng định, Mỹ sẽ tôn trọng hiệp ước hai nước
đã ký hồi năm 1960, trong đó Mỹ cam kết sẽ bảo vệ
đồng minh châu Á của mình. Ông Kerry nói: "Điều đó
bao gồm cả vấn đề liên quan đến Hoa Đông". Như vậy,
theo như những gì mà Mỹ đang thể hiện, Nhật Bản vẫn
là nước đồng minh nhận được nhiều sự quan tâm nhất
của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. (theo
voa.vn – Thế giới – Quan sát).
2.5.2 Với khu vực Đông Nam Á:
Mỹ chủ động tăng cường quan hệ với tổ chức
này và tích cực tham gia các hoạt động ngoại giao
với khu vực này. ASEAN là điểm đến đầu tiên của
Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton sau khi nhận chức, bà đã
có chuyến thăm chính thức trụ sở của ASEAN tại
Giacacta, Inđônêsia , dự một số hội nghị của khu
vực này như ARF, PMC, ký thoả thuận chính thức tham
gia hiệp ước Thân thiện và Hợptác (TAC) với ASEAN.
Tháng 11/2009, tổng thống Obama chính thức tham dự
Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN lần đầu tiên tại
Xinggapo.
Đối với các nước thuộc tiểu vùng sông Mê kông
(Việt Nam, Lào, Thái Lan, Campuchia), Mỹ cũng đã có
những chú ý nhất định, đưa Lào và Campuchia ra khỏi
danh sách đen thương mại, mở đường cho hai nước này
được nhận một số khoản vay của Mỹ và đề nghị tổ
chức Hội nghị Ngoại trưởng đối với
các nước tiểu vùng sông Mêkông. Trong vấn đề
Mianma, Mỹ cũng đã chủ động giảm bớt căng thẳng,
tăng viện trợ và nới lỏng kinh tế.
Tại diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ngày 23/7/2010
tại Hà Nội, ngoại trưởng Mỹ đã tuyên bố rằng “Mỹ
phản đối việc sử dụng hoặc đe doạ dùng vũ lực của
bất cứ bên tuyên bố chủ quyền nào. Trong khi Mỹ
không tuyên bố đứng về bên nào trong vấn đề tranh
chấp ở biển Đông, tuy vậy ngoại trưởng Mỹ vẫn
khẳng định việc giải quyết các tranh chấp trên
biển Đông rất quan trọng đối với an ninh khu vực
và Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc bảo vệ tự do
lưu thông, việc tiếp cận các quyền liên quan đến
biển và việc tôn trọng luật pháp quốc tế trong
khu vực giàu tài nguyên này. Điều này gây ra
những phản ứng gay gắt của Trung Quốc và coi đó
là “một đòn tấn công đối với Trung Quốc”.
Tại Hội nghị ADMM+ , Mỹ đã tái khẳng định lập
trường của mình tại vấn đề biển Đông. Ông Rôbớt
Ghết, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Mỹ nêu rõ “quan điểm
của Mỹ về vấn đề an ninh hàng hải đã rõ ràng. Chúng
tôi có lợi ích về tự do hàng hải, phát triển kinh
tế và thương mại mà không bị cản trở và tôn trọng
luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế,…” . Thêm vào
đó, ông khẳng định, “ Các bên tranh chấp cần giải
quyết hoà bình, không sử dụng vũ lực hoặc cưỡng
chế, thông qua các quá trình hợp tác ngoại giao và
phù hợp với luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế”.
Trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ và chủ tịch Hồ
Cẩm Đào tháng 1 – 2011, quan điểm của Mỹ và Trung
Quốc về vấn đề biển Đông có sự điều chỉnh theo
hướng dịu đi do cả Mỹ và Trung Quốc đều có lợi ích
gắn bó với nhau.
Sự chú trọng hơn của Mỹ đến cơ chế hợp tác đa
phương trong khu vực cho thấy chính quyền Obama đã
coi đa phương là một trong những cách thức để khôi
phục và cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương nói chung.
2.5.3 Một số thách thức trong việc triển khai chính sách đối
ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Có nhiều yếu tố quyết định đến thành bại của
chính sách ngoại giao của Mỹ đối với khu vực này.
Nó xuất phát từ chính nước Mỹ và từ tình hình khu
vực.
Thứ nhất, nước Mỹ giờ không còn đủ sức mạnh để
theo đuổi một cuộc phiêu lưu mới. Ông Obama sẽ phải
cân nhắc khi vẫn muốn tăng cường ảnh hưởng ở châu Á
trong bối cảnh kinh tế Mỹ trầy trật. Trước mắt, nếu
không thỏa thuận được với những người Cộng hòa -
lực lượng vẫn kiểm soát Hạ viện trong nhiệm kỳ hai,
ông Obama sẽ không thể giúp nước Mỹ tránh được cú
sốc kinh tế khi thâm hụt ngân sách giảm mạnh nhưng
sức tăng trưởng kinh tế cũng giảm tới khoảng 4%
trong năm 2013. Tăng thuế và cắt giảm chi tiêu sẽ
bắt đầu được thực hiện từ năm sau và kinh tế Mỹ vẫn
còn nguy cơ suy thoái, ảnh hưởng tới kinh tế toàn
cầu. Trong bối cảnh đó, Washington không thể tiếp
tục đầu tư về kinh tế và quân sự tại châu Á - Thái
Bình Dương, nơi hoạt động trong các lĩnh vực này
đang diễn ra rất nhộn nhịp. Đó là chưa kể tới nỗi
lo Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn
nhất thế giới vào năm 2020, báo động sự chuyển dịch
chiến lược mà Mỹ không hề mong muốn.
Thứ hai, Mỹ phải cân bằng quan hệ với Trung Quốc
tại châu Á - Thái Bình Dương. Chính quyền Obama
nhiệm kỳ 2 sẽ phải duy trì sự cân bằng lực lượng
trong khu vực, ít nhất là khi chưa thể chắc chắn
về cách hành xử của Trung Quốc tại khu vực này.
Sự đan xen của yếu tố Trung Quốc trong các mối
quan hệ giữa Mỹ với nhiều đồng minh tại khu vực
cũng là một bài toán khó.
Thứ ba, Mỹ cần tiếp tục coi chính sách ở châu Á
- Thái Bình Dương là ưu tiên hàng đầu dù sẽ có
những thay đổi. Sự xáo trộn trước hết là ở Mỹ khi
Ngoại trưởng Hillary Clinton chắc chắn sẽ không tại
vị trong nhiệm kỳ 2 của chính quyền Obama cùng sự
ra đi của một số nhà ngoại giao kỳ cựu thấu hiểu
vấn đề châu Á. Các chính sách có thể bị điều chỉnh,
ưu tiên châu Á có thể bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Trong khi đó, nước Mỹ cũng sẽ phải tìm hiểu những
thay đổi ở Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản lần
thứ 18. Những câu hỏi đó sẽ là thách thức cho tham
vọng trở lại châu Á Thái Bình Dương của cường quốc
số một thế giới.
III. KẾT LUẬN.
Là siêu cường số 1 thế giới từ sau khi Chiến
tranh lạnh kết thúc, Mỹ có nhiều lợi thế trong việc
triển khai các chiến lược toàn cầu và theo đuổi mục
tiêu lãnh đạo thế giới. Đây là mục tiêu xuyên suốt
trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới các đời Tổng
thống, bất kể đó là ứng viên của Đảng Dân chủ hay
Đảng Cộng hoà.
Tiềm năng phát triển to lớn và vị trí quan
trọng chiến lược của khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương trong nhiều năm gần đây không thể không thu
hút sự chú ý của Mỹ trên con đường hiện thực hoá
giấc mơ bá chủ thế giới. Châu Á- Thái Bình Dương
vẫn hấp dẫn và đầy biến động, là nơi sản xuất hàng
hóa và dịch vụ lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là
thị trường tiềm năng nhất. Sự quan tâm của Mỹ đối
với khu vực này, đặc biệt dưới thời Tổng thống
Obama trong những năm gần đây là sự chuyển hướng
chiến lược hợp lý trong chính sách đối ngoại của
Mỹ. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố quyết định đến thành
bại của chính sách ngoại giao của Mỹ đối với khu
vực này. Nó xuất phát từ chính nước Mỹ và từ tình
hình khu vực.
Góc nhìn của nước Mỹ với thế giới và nhất là
quan điểm với khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã
được thể hiện rõ trong 4 năm cầm quyền đầu tiên của
Tổng thống Obama. Đắc cử nhiệm kỳ hai cũng có nghĩa
ông Obama sẽ có nhiều thời gian để thực hiện những
chính sách với khu vực quan trọng này theo lộ trình
đã định. Nhưng bối cảnh hiện tại đã thay đổi nhanh
chóng, đòi hỏi nước Mỹ phải tự xác định vị trí của
mình trên bản đồ của khu vực quan trọng này.
Việc triển khai chiến lược “chuyển trục” định
hướng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ còn
gặp không ít khó khăn nên sự thành công hay thất
bại của nó vẫn là chưa thể dự đoán trước. Tuy vậy,
chiến lược này đã có những ảnh hưởng nhất định đối
với đời sống quan hệ quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Obama –
PGS.TS Phan Văn Rân.
2. Chính sách đối ngoại của một số nước lớn – PGS.TS Phạm Minh
Sơn
3. BBC News.
4. VOA News.
5. http://www.voa.vn
6. http://voatiengviet.com
7. http://nguyentandung.org.vn
8. Báo Nhân Dân điện tử.