Baocao TN TCVL nhom2 sang
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
5 -
download
0
Transcript of Baocao TN TCVL nhom2 sang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TPHCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
MÔN TÍNH CHẤT VẬT LÝ TRONG THỰC PHẨM
BÁO CÁO THÍ NGHIỆM
THỰC HÀNH ĐO CẤU TRÚC
GVHD: Th.S Nguyễn Trung Hậu
Nhóm học viên thực hiện – Nhóm 2(Sáng)
Lê Vũ Ái Linh
Nguyễn Hoài Trân
Phạm Thị Hà Vân
Nguyễn Huy Lộc
Nguyễn Thị Thanh Thanh
Đặng Phương Thảo
Võ Văn Tân
Đỗ Thị Phước Hạnh
Huỳnh Thị Bích Hạnh
1. Giới thiệu
Kiểm tra các tính chất liên quan đến cấu trúc của
sản phẩm thực phẩm trong công nghiệp thực phẩm nhằm phát
triển những sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm. Độ mềm
của sản phẩm thịt và sản phẩm họ đậu cũng như độ giòn
của sản phẩm khoai tây và táo là đối tựong nghiên cứu
của nhiều phòng thí nghiệm đo cấu trúc của sản phẩm thực
phẩm. Độ tươi của bánh nướng như bánh mì, bánh quy, bánh
cracker rất quan trọng đối với người tiêu dùng và có thể
xác định được bằng các thiết bị kiểm tra cấu trúc sản
phẩm thực phẩm. Nhiều tính chất về độ cứng của sản phẩm
thực phẩm được tìm thấy là sự kết hợp giữa độ giòn, cứng
và độ dai tạo nên sản phẩm thành công. Những phương pháp
đóng gói mới và giảm ảnh hưởng của lực tĩnh điện tăng
cải thiện thời gian bảo quản của sản phẩm và các nhà
khoa học cần đo một cách cẩn thận những ảnh hưởng của
những vấn đề như thế.
Cá, tôm đông lạnh và những sản phẩm thực phẩm khác
yêu cầu chế biến cẩn thận và các nhà công nghệ tìm ra
các tham số tối ưu thông qua việc kiểm tra sự thay đổi
đó. Kem và sản phẩm dạng paste phải có độ nhớt thích hợp
mới có thể tiến hành thí nghiệm trên máy kiểm tra cấu
trúc.
Các nhà công nghệ thực phẩm khắp thế giới dùng
những thiết bị lưu biến để đo tính chất cấu trúc của
thực phẩm như độ giòn, độ dai, độ chín, độ dính, tính dễ
vỡ, độ nhớt và độ mềm. Những tính chất này có thể phân
biệt khách quan những sản phẩm mới.
2. Cấu trúc thực phẩm
Sự cảm nhận cấu trúc thực phẩm bắt đầu với kết cấu
của nguyên liệu thực phẩm (ví dụ các phân tử hoặc vi cấu
trúc được sắp xếp theo kiểu hình học như thế nào). Khi
kết cấu này được cho vào miệng hoặc cảm nhận bằng tay,
nó sẽ thay đổi như: giảm kích thước, tăng ẩm do sự tiết
nước bọt. Kết cấu của thực phẩm qua quá trình nhai sẽ
tạo ra những kích thích được dây thần kinh truyền về não
và hình thành sự nhận biết về cấu trúc. Những nhận biết
này kết hợp sự ghi nhớ đã hình thành nên một ý niệm về
cấu trúc thực phẩm đối với người tiêu dùng. Những nhận
biết đó cũng có thể được chuyển thành sự đánh giá cường
độ của một thuộc tính cấu trúc nào đó, thông thường được
đánh giá bởi hội đồng cảm quan.
Cấu trúc của thực phẩm được nhận biết đầu tiên qua
thị giác. Ở những cái nhìn đầu tiên, con người đã hình
thành một sự dự đoán về cảm nhận cấu trúc của thực phẩm
khi nó ở trong miệng hoặc khi chạm tay. Việc đánh giá
thuộc tính cấu trúc này thường phụ thuộc nhiều vào kinh
nghiệm ăn uống. Nếu sự dự đoán này không đúng, thực phẩm
có thể bị từ chối. Những thuộc tính cấu trúc có thể được
đánh giá qua thị giác là: độ bóng, sự gồ ghề trên bề
mặt….
Việc đánh giá cấu trúc bằng xúc giác có thể thực
hiện trực tiếp bằng việc tiếp xúc, thao tác trên thực
phẩm với những ngón tay hoặc gián tiếp bằng cách chạm
vào thực phẩm thông qua dao, nĩa… . Các thuộc tính cấu
trúc có thể được đánh giá bằng tay gồm thuộc tính cơ học
(ví dụ lực ép), thuộc tính hình học (sờn, có sạn) và
thuộc tính ẩm (có dầu, ướt). Hầu hết những thuộc tính
cấu trúc này được cảm nhận khi có sự tiếp xúc giữa da và
bề mặt nguyên liệu. Sự di chuyển da qua bề mặt nguyên
liệu (ví dụ da của quả cam) tạo ra rung động trong da,
những rung động này được coi là cảm giác khi cảm nhận
cấu trúc bằng xúc giác. Môi cũng đóng vai trò quan trọng
trong cảm nhận cấu trúc bằng xúc giác. Chúng có cảm giác
đặc biệt để đánh giá sự gồ ghề trên bề mặt và những
thuộc tính cấu trúc khác của thực phẩm. Tuy nhiên, khi
đánh giá mức độ của một thuộc tính cấu trúc nào đó, việc
đánh giá được thực hiện trong miệng thì chính xác hơn
thực hiện bằng tay. Quá trình cảm nhận cấu trúc thực
phẩm trong miệng gồm 3 gian đoạn. Ban đầu là cảm nhận độ
cứng, khả năng để phá vỡ thực phẩm trong lần cắn đầu
tiên. Tiếp theo là sự cảm nhận độ nhai (chewiness), độ
dính nhớt trong quá trình nhai, sự ẩm ướt và béo ngậy
của thực phẩm, cùng với sự cảm nhận kích thước và thuộc
tính hình học của những mẫu thực phẩm riêng lẻ. Cuối
cùng là sự cảm nhận tốc độ phá vỡ thực phẩm trong quá
trình nhai, sự giải phóng, hấp thu ẩm hay bất kì sự bao
phủ của thực phẩm lên miệng hoặc lưỡi.
Ngoài việc cảm nhận cấu trúc bằng cách nhai hay
nhìn, tiếp xúc với thực phẩm thì nghe cũng đóng vai trò
rất quan trọng. Một thuộc tính vốn có của quá trình phá
vỡ các thực phẩm giòn là tạo ra âm thanh. Khi cắn các
thực phẩm khác nhau thì âm thanh phát ra cũng khác nhau.
Hai tiêu chuẩn cảm quan cơ bản để phân biệt những âm
thanh phát ra từ thực phẩm là độ lớn và tính liên tục
hay gián đoạn của âm thanh. Người thử có thể phân biệt
được giữa giòn “crisp” và giòn “crunch” bằng việc đánh
giá âm thanh phát ra.
3. Thiết bị sử dụng phân tích cấu trúc thực phẩm
Để phân tích cấu trúc ta có thể dùng các thiết bị
và phương pháp để đánh giá các đặc điểm cơ học của sản
phẩm. Các đặc điểm này được trình bày trên các đồ thị
sự thay đổi của lực theo biến dạng. Các đồ thị này sẽ
được phân tích để đưa ra các thông số mô tả kết cấu
thực phẩm một cách chính xác và được lặp lại.
Hình 1: Thiết bị đo cấu trúc Zwick – Roell (750N)
4. Phân tích cấu trúc TPA (TEXTURE PROFILE ANALYSIS)
4.1 Định nghĩa
Là phép đo mà trong đó ta xác định nhiều thông số:
độ cứng, độ đàn hồi, độ dai bán rắn, độ dai rắn, độ cố
kết. Đối với thực phẩm dạng lỏng ta cũng có thể dùng đo
độ nhớt, còn đối với sản phẩm dạng sệt ta đo được độ
dính, với một phép đo này ta có được nhiều thông số
cùng một lúc.
- Độ giòn (Fracturability hoặc brittleness): là lực
gây ra gãy vỡ đáng kể trong diện tích dương đầu
tiên (PA1).
- Độ cứng (hardness): là lực lớn nhất (PP1) trong lần
nén đầu tiên.
- Độ kết dính, độ liên kết, độ kết cấu
(cohesiveness): là tỉ số của diện tích dương trong
lần nén thứ hai trên diện tích dương trong lần nén
thứ nhất (PA2/PA1).
- Độ bám dính (adhesiveness): phần diện tích âm
trong lần cắn đầu tiên (NA1), đặc trưng cho công
cần thiết để rút mũi ép ra khỏi mẫu đo.
- Độ dai bán rắn (Gumminess: độ dai) = độ cứng x độ
kết dính.
- Độ dai rắn (Chewiness: độ nhai) = độ dai bán rắn x
độ đàn hồi.
4.2 Ý nghĩa
Test “ hai lần cắn” ( two-bite test) cung cấp các thông
số cấu trúc tương quan với các thông số đánh giá cảm
quan.
Hình 2: Đồ thị phân tích biến dạng kết cấu
Hình 3: Biến dạng kết cấu tiêu biểu của chu kỳ nén hai lần cắn
Hình 4: Biến dạng kết cấu tiêu biểu của chu kỳ nén hai lần cắn
5. Thực hành đo cấu trúc
5.1 Thí nghiệm cắt xúc xích
Điều kiện đo lực cắt:
- Hành trình dao cắt là 35 mm.
- Tốc độ dao cắt: 50mm/ phút
- Mẫu được đặt ở giữa của cây xúc xích.
- Do điều kiện thí nghiệm không cho phép nên: mẫuđược lặp lại hai lần.
Hình 5: Mô hình cắt xúc xích bằng lưỡi dao cắt Warner-bratzler
Kết quả - bàn luận
Hình 6: Sơ đồ thể hiện lực cắt xúc xích ở tốc độ 50 (mm/phút) được lặp lại
hai lần
Dựa vào đồ thị ta thấy:
Đo lần 1: cho kết quả lực cắt cao nhất là 3,49 N: tức
là ta cần một lực là 3,49 N để cắn đứt một cây xúc
xích.
Đo lần 2: cho kết quả lực cắt cao nhất: 3,19 N.
So sánh kết quả với tốc độ dao cắt 80 mm/phút
Hình 7: Sơ đồ thể hiện lực cắt xúc xích ở tốc độ 80 mm/phút được lặp lại
hai lần
Nhận xét:
Dựa vào đồ thị, ta thấy:
- Đo lần 1, cho kết quả lực cắt cao nhất là 3,44N,
tức là cần một lực 3,44N để cán đứt một cây xúc
xích.
- Đo lần 2, cho kết quả lực cắt cao nhất là 3,59N.
5.2 Thí nghiệm đo biến dạng cấu trúc TPA
Điều kiện thí nghiệm
Điều kiện đo
- Tốc độ 40 mm/phút
- Biến dạng 50% chiều cao thì đầu đo sẽ trở về vị trí
ban đầu, tiếp tục nén lần 2 (lý do chọn ở mức độ
này để tránh bị bể gãy ngay khi nén lần đầu).
Hình 8: Hình minh họa thí nghiệm đo cấu trúc TPA trên mẫu xúc xích
Kết quả và bàn luận
Hình 9: Đồ thị biểu diễn kết quả đo biến dạng cấu trúc TPA ở tốc độ 40
mm/phút của 2 nhóm mẫu xúc xích ở hai kích thước khác nhau
Bảng 1: Kết quả đo TPA của hai nhóm mẫu xúc xích
Nhận xét:
Độ cứng của xúc xích:
Chiều cao xúc xích 2 cm:
- Đo lần 1: lực nén cao nhất ở lần nén đầu tiên là
23.4 N, đo lần 2: là 23.2 N. So với chiểu cao 3 cm:
- Lực nén cao nhất ở lần nén đầu tiên là: 25,1 N,
đo lần 2: là 23,6 N. Mẫu đo được lặp lại cho kết quả
gần như tương đương với mẫu đo lần 1.
Độ đàn hồi:
Ở chiểu cao 2 cm: đo lần 1 cho kết quả gần 0,84 N. Có
nghĩa là mức độ hồi phục sau khi nén lần 1 = 0,84 x
chiều cao ban đầu.
Độ dai rắn, độ dai bán rắn, độ cấu kết:
- Độ chênh lệch ở hai lần đo của mẫu cao 2 cm chênhlệch gần như không cao.
Tuy nhiên, ở độ cao 3 cm thì chênh lệch giữa hai lần đolà khá lớn.
So sánh với tốc độ 80 mm/phút
Hình 10: Đồ thị biểu diễn kết quả đo biến dạng cấu trúc TPA ở tốc độ 80
mm/phút của 2 nhóm mẫu xúc xích ở hai kích thước khác nhau
Bảng 2: Kết quả đo TPA của 2 nhóm mẫu xúc xích
Sau kết quả đo ta rút ra được các yếu tố ảnh hưởng đo kết cấu:
- Nhiệt độ phòng tại lúc đo
- Nhiệt độ mẫu vật tại lúc đo
- Điều kiện đầu đo
- Tốc độ đâm đo
- Mức độ chịu lực của cảm biến
- Kích thước đầu đo
- Kiểu đầu đo
- Lực cao nhất mà ta áp dụng.
5.3 Đo lực đâm xuyên trên táo
- Dùng các đầu kim đâm xuyên qua các bề mặt để mô
phỏng động tác cắn trong miệng.
- Ứng dụng trong thí nghiệm theo dõi sự thay đổi về
độ cứng và độ giòn của sản phẩm táo.
Điều kiện đo
- Để vật ở trạng thái nghỉ, đâm xuyên 15mm, tốc độ đầu đo 50mm/phút
Hình 11: Đo độ đâm xuyên của quả táo
Kết quả và bàn luận
Hình 12: Đồ thị thể hiện lực đâm xuyên của quả táo
Bảng 3: Kết quả đo lực đâm xuyên của quả táo