Post on 18-Mar-2023
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
284
DOI:10.22144/ctu.jvn.2021.195
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA NGHỀ LƯỚI KÉO
Ở VÙNG BIỂN ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đặng Thị Phượng1*, Nguyễn Thanh Long1 và Huỳnh Việt Khải2 1Khoa Thủy sản, Trương Đai hoc Cân Thơ 2Khoa Kinh tế, Trương Đai hoc Cân Thơ *Ngươi chịu trách nhiệm về bài viết: Đặng Thị Phượng (email: thiphuong@ctu.edu.vn)
Thông tin chung: Ngày nhận bài: 22/06/2021
Ngày nhận bài sửa: 31/07/2021
Ngày duyệt đăng: 25/12/2021
Title:
Analysis of the technical
efficiency of the trawl net in the
East Sea of the Mekong Delta
Từ khóa:
Hiệu quả kỹ thuật, lưới kéo, tài
chinh
Keywords:
Finance, technical efficiency,
trawl-net
ABSTRACT
This study is to estimated the technical efficiency of the trawl net in the
East Sea of the Mekong Delta using the approach of the translog
stochastic frontier production function model. Data were collected
through interviewing 60 vessels in Soc Trang and Bac Lieu provinces. The
results showed that the average fishing production of the trawl net was
643 kg/trip and 18.9 tons/year with the time for each trip was about 4
days. The total cost for trawl net was 316 million VND/year and income
was 608 million VND/year. The average technical efficiency of trawling
was 86.3%. Captain-related factors such as experience, education, and
age; vessel age, and production capital have an impact on the technical
efficiency of the trawl net. To improve the technical efficiency of the trawl
net industry, it is necessary to focus on training the captains, upgrading
and exchanging large ships, and linking the market channels for the
consumption of caught fishery products.
TÓM TẮT
Bài viết ước lượng hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo ở vùng biển Đông
Đồng bằng sông Cửu Long bằng mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên
dang translog. Số liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 60
ngư dân của nghề lưới kéo ở tỉnh Sóc Trăng và Bac Liêu. Kết quả cho
thấy sản lượng thủy sản khai thác của nghề lưới kéo bình quân là 643
kg/chuyến biển và 18,9 tấn/năm với thơi gian cho mỗi chuyến biển là
khoảng 4 ngày. Tổng chi phi cho nghề lưới kéo là 316 triệu đồng/năm và
doanh thu là 608 triệu đồng/năm. Mức hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới
kéo trung bình là 86,3%. Các yếu tố liên quan đến thuyền trưởng như kinh
nghiệm, trình độ hoc vấn và tuổi; tuổi của tàu và nguồn vốn sản xuất có
tác động đến hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo. Để cải thiện hiệu quả
kỹ thuật của nghề lưới kéo cân chú trong việc đào tao ngươi thuyền
trưởng, nâng cấp, hoán đổi tàu lớn và liên kết kênh thị trương tiêu thụ sản
phẩm thủy sản khai thác.
1. GIỚI THIỆU
Hoạt động khai thác thủy sản ở Việt Nam có vai
trò góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế, với
sản lượng thủy sản khai thác từ 3,1 triệu tấn và giá
trị xuất khẩu là 2,2 tỷ USD trong năm 2015 (Hiệp
hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, 2018)
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
285
và tăng đến 3,8 triệu tấn, mang lại giá trị xuất khẩu
là 3,2 tỷ USD trong năm 2019 (Hiệp hội Chế biến
và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, 2020). Ngoài ra,
khai thác thủy sản đã tạo ra một nguồn thực phẩm
lớn cho tiêu thụ trong nước và tạo việc làm trực tiếp
và gián tiếp cho cộng đồng dân cư vùng ven biển.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng có dân
số 17,8 triệu người, chiếm 18,8% tổng dân số của cả
nước (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2020) với hơn
70% dân số sống ở vùng nông thôn và vùng ven
biển. ĐBSCL có sản lượng thủy sản khai thác thủy
sản chiếm khoảng 40% tổng sản lượng thủy sản khai
thác của Việt Nam và trong đó sự đóng góp từ sản
lượng hải sản là 26,4% (Tổng cục Thống kê Việt
Nam, 2020), vì vậy cộng đồng dân cư ở vùng này
phụ thuộc rất lớn vào tài nguyên thiên nhiên, trong
đó có hoạt động khai thác hải sản.
Các tỉnh ven biển thuộc ĐBSCL, trong đó có tỉnh
Sóc Trăng và Bạc Liêu là những tỉnh phát triển mạnh
về hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản. Nghề
lưới kéo và lưới rê là hai loại nghề khai thác phổ
biến, chiếm 60,9% tổng lượng tàu của vùng. Nghề
lưới kéo là nghề khai thác thủy sản chiếm tỷ trọng
cao nhất, với 40,9% số lượng tàu thuyền khai thác
của vùng. Quy mô khai thác thủy sản ở ĐBSCL là
quy mô nhỏ và khai thác ven bờ, chiếm khoảng
53,3% số tàu đánh cá. Ngoài ra, thu nhập của hộ ngư
dân khai thác được tích lũy chính từ hoạt động khai
thác thủy sản với hơn 80% tổng thu nhập của hộ
(Huỳnh Văn Hiền và ctv., 2019). Trong khi đó, định
hướng quy hoạch phát triển ngành thủy sản cho thấy
lĩnh vực khai thác thủy sản được đặt ra là tổ chức lại
sản xuất trong khai thác hải sản phù hợp với từng
nhóm nghề và ngư trường, trong đó nghề lưới kéo
ven bờ được khuyến khích hạn chế phát triển và
không cho đóng mới cũng như khuyến khích các tàu
lưới kéo ven bờ khai thác kém hiệu quả chuyển đổi
nghề, đặc biệt phát triển khai thác xa bờ. Để có cơ
sở sắp xếp và phát triển nghề khai thác thủy sản phù
hợp với chính sách và điều kiện của ngư dân, việc
cung cấp thông tin và tính toán hiệu quả hoạt động
khai thác thủy sản, đặc biệt là hiệu quả kỹ thuật của
nghề lưới kéo ven bờ là cần thiết.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu sử dụng số liệu được thu thập bằng
cách phỏng vấn trực tiếp các hộ ngư dân làm nghề
lưới kéo có chiều dài tàu từ 12 m đến dưới 15 m ở
hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng (đại diện cho vùng
biển Đông ĐBSCL) từ tháng 01 đến tháng 12 năm
2020. Vùng khai thác thủy sản của tàu lưới kéo có
chiều dài từ 12 m đến dưới 15 m là vùng lộng. Các
tàu khai thác được chọn phỏng vấn một cách ngẫu
nhiên dựa vào danh sách tàu lưới kéo có chiều dài từ
12 m đến dưới 15 m được cung cấp từ Chi cục Thủy
sản tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng. Tổng số quan sát là
60 tàu, trong đó tỉnh Bạc Liêu là 30 tàu và tỉnh Sóc
Trăng là 30 tàu. Trong quá trình phỏng vấn, các cán
bộ địa phương hướng dẫn tìm các hộ đã được chọn
ngẫu nhiên để phỏng vấn. Các số liệu về khía cạnh
kỹ thuật và tài chính được ghi nhận ở năm 2019.
2.2. Phương pháp phân tích số liệu
Hiệu quả kỹ thuật là trình độ kỹ thuật của người
sản xuất trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào trong
quá trình sản xuất để đạt năng suất hoặc sản lượng
tối đa với các yếu tố đầu vào hiện có, hoặc đạt lượng
đầu vào tối thiểu với năng suất hoặc sản lượng hiện
có (Coelli et al., 2005). Mô hình ước lượng hiệu quả
kỹ thuật trong nông nghiệp có nhiều dạng, trong đó
mô hình phân tích biên ngẫu nhiên được các nhà
nghiên cứu trong hoạt động khai thác thủy sản ứng
dụng phổ biến. Dạng hàm sản xuất có dạng tổng quát
(1) như sau (Coelli et al., 2005):
y = exp β0 +=
n
1i
ilnx i+ ½
==
n
k
ik
n
i 1
ki
1
lnxlnx (1)
Thông qua định nghĩa và mô hình ước lượng về
hiệu quả kỹ thuật cho thấy yếu tố đầu ra được đo
lường với yếu tố sản lượng, nhưng trong hoạt động
khai thác thủy sản thường được sử dụng giá trị thay
thế cho yếu tố lượng do đặc thù của nghề khai thác
thủy sản. Các nghiên trước đây như Herrero et al.
(2006); Jamnia et al. (2014); Kompas et al. (2004);
Pascoe and Coglan (2002); Sharma and Leung
(1999); Tingley et al. (2005); Truong et al. (2011) đã
sử dụng đầu ra (y) là doanh thu, thay cho đầu ra là
sản lượng, mặc dù giá trị này có thể chịu tác động
của giá cả. Nguyên nhân là một số nghề khai thác
thủy sản (ví dụ nghề lưới kéo) là nghề khai thác
được rất nhiều loài, kích cỡ khác nhau. Giá bán có
rất nhiều mức với ứng từng loài và kích cỡ khác
nhau. Chính vì vậy, doanh thu của tàu được dùng để
ước lượng hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo ở
vùng biển Đông ĐBSCL.
Mô hình nghiên cứu thực nghiệm để ước lượng
hiệu quả kỹ thuật của tàu lưới kéo vùng biển Đông
ĐBSCL có dạng hàm Translog như sau:
ln Yi = β0 + β1lnX1 + β2lnX2 + β3lnX3 + ½
β4(lnX1)2+ ½ β5(lnX2)2 + ½ β6 (lnX3)2 + β7lnX1*lnX2 +
β8lnX1*lnX3 +β9lnX2*lnX3 + νj – uj (2)
Trong đó: Yi là doanh thu tính trong một năm
(triệu đồng/năm); β0 là hệ số chặn của hàm sản xuất
biên ngẫu nhiên; β1,2,...9 là hệ số tương quan thứ i ứng
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
286
với biến độc lập là: X1: số ngày khai thác
(ngày/năm); X2: lao động trên tàu (người); và X3:
Chiều dài ngư cụ (m); νj – uj là sai số hỗn hợp của mô
hình.
Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến phi hiệu
quả kỹ thuật được viết dưới dạng sau:
uj = δ0 + =
6
1i
iji + ωj (3)
Trong đó: uj là phi hiệu quả kỹ thuật của tàu khai
thác nghề lưới kéo; Z1, 2,…6 là các đặc điểm về tàu
khai thác và nhân lực khai thác, cụ thể là Z1: kinh
nghiệm khai thác (năm); Z2: trình độ học vấn của
thuyền trưởng (lớp); Z3: công suất máy tàu (CV); Z4:
tuổi thuyền trưởng (năm); Z5: Tuổi của tàu (năm);
Z6: nguồn vốn (1- Có vay vốn; 0- Không).
Mô hình (2) và (3) được ước lượng đồng thời
bằng phương pháp ước lượng cực đại (MLE –
maximum likelihood estimation) để tìm ra các hệ số
ước lượng của các mô hình. Phần mềm FRONTIER
4.1 được sử dụng để ước lượng hiệu quả kỹ thuật
trong sản xuất. Hệ số hiệu quả kỹ thuật theo mô hình
phân tích biên ngẫu nhiên nằm trong khoảng từ 0
đến bằng 1. Nếu hệ số này bằng 1 có nghĩa là hộ sản
xuất đạt được hiệu quả kỹ thuật tối ưu, nhỏ hơn 1 có
nghĩa là hộ sản xuất chưa đạt được hiệu quả kỹ thuật
tối ưu. Hệ số hiệu quả kỹ thuật được ước lượng từ
sự khác nhau giữa lượng đầu ra thực sự và đầu ra
tính toán
−
ii YY . Hiệu quả kỹ thuật được tính theo
công thức:
TEi = Mức đầu ra thực tế của tàu i (Yi) / Mức đầu
ra tối đa của tàu i (Yi*) (4)
Kiểm định giả thuyết đối với mô hình sản xuất
biên ngẫu nhiên và mô hình phi hiệu quả sản xuất
được tổng hợp ở Bảng 1.
Bảng 1. Kiểm định giả thuyết lựa chọn mô hình và phi hiệu quả kỹ thuật
Kiểm định LR Bậc tự do Giá trị phân phối χ2 Kết luận
H0: β4 = β5 = …= δ9 = 0 29,4426 6 16,812*** Bác bỏ H0
H0: ϒ = δ0 = δ1 = …= δ6 = 0 24,3326 10 23,209*** Bác bỏ H0
H0: δ1 = δ2= ….. = δ6 = 0 24,3326 6 16,812*** Bác bỏ H0
Chú thich: ***, **, và * biểu diễn các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%; LR: Likelihood ratio
Công thức chung tính giá trị kiểm định LR
(likelihood ratio) = −2[(𝐿(𝐻0) − 𝐿(𝐻1)], với L(H0) và
L(H1) là các giá trị log-likelihood của mô hình đối
chiếu (H0) và mô hình nghiên cứu (H1) tương ứng.
Thứ nhất là giả thuyết mô hình Cobb-Douglas được
lựa chọn (β4 = β5 = …= δ9 = 0). Thứ hai là kiểm định
giả thuyết không có kém hiệu quả kỹ thuật và các
yếu tố ảnh hưởng đến phi hiệu quả (ϒ = δ0 = δ1 =
…= δ6 = 0 và δ1 = δ2= … = δ6 = 0). Kết quả Bảng 1
cho thấy các giả thuyết H0 được bác bỏ, tức là doanh
thu nghề lưới kéo chịu tác động bởi yếu tố thời tiết,
môi trường và sự quản lý của con người.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm khai thác thủy sản của nghề
lưới kéo
3.1.1. Đặc điểm lao động trên tàu khai thác
Thuyền trưởng tàu cá là người có quyết định cao
nhất trên tàu, điều kiển tàu đến ngư trường khai thác,
quyết định thả lưới, thu lưới, điều khiển ngư cụ khai
thác, máy móc trên tàu (Nguyễn Trọng Tuy và ctv.,
2011). Bảng 2 cho thấy thuyền trưởng ở nghề lưới
kéo có độ tuổi khá lớn, số năm kinh nghiệm của họ
trong khai thác thủy sản tương đối cao (20,3 năm).
Phần lớn các thuyền trưởng tham gia lao động trên
biển có học vấn không cao, tập trung ở mức tiểu học
(58,3%), kế đến là trung học cơ sở (30%) và trung
học phổ thông (10%). Điều này cho thấy các thuyền
trưởng có thể hạn chế trong việc học tập và ứng dụng
công nghệ hiện đại vào hoạt động khai thác thủy sản.
Số lượng lao động trên một tàu khai thác thủy
sản nghề lưới kéo không cao, khoảng 2 đến 5 người
trên một tàu, chủ yếu lao động là nam vì do đặc điểm
và tính chất công việc trên biển, đòi hỏi người lao
động phải có sức khỏe, mới có thể lao động trên tàu
và ứng phó các tình huống trên biển. Lực lượng lao
động trên tàu chủ yếu là lao động từ gia đình với
khoảng 60% trong tổng số lao động trên tàu và số
lao động còn lại được thuê mướn tại địa phương (1,4
người/tàu). Điều này cho thấy nghề lưới kéo ven bờ
đã góp phần tạo công ăn việc làm cho các thành viên
trong gia đình của chủ tàu và người dân địa phương,
đây cũng là nghề giúp người dân ven biển tham gia
lao động tăng thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, tình
trạng thiếu lao động trong khai thác thủy sản là vấn
đề được các chủ tàu quan tâm, do sự phát triển của
các khu và cụm công nghiệp ven biển nên đã thu hút
nhiều lao động làm thiếu hụt lao động trong nghề
khai thác thủy sản. Đôi khi có nhiều lao động tạm
ứng tiền lương trước, đến khi tàu đi khai thác thì các
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
287
lao động này bỏ việc, không chịu tham gia. Việc này
gây rất nhiều khó khăn cho tàu khai thác thủy sản vì
thiếu lao động nên không thể ra khơi đánh cá hoặc
hoạt động với hiệu quả không cao.
Bảng 2. Lao động trên tàu của nghề lưới kéo
Thông tin Trung bình (n=60) Độ lệch chuẩn Dao động
Tuổi của thuyền trưởng (năm) 43,6 7,8 27,0 - 66,0
Kinh nghiệm khai thác (năm) 20,3 7,4 4,0 - 39,0
Trình độ học vấn (lớp) 5,4 2,7 0,0 - 11,0
Tổng lao động trên tàu (người) 3,7 0,82 2,0 - 5,0
Số lao động thuê (người) 1,4 0,83 0,0 - 4,0
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2020)
3.1.2. Thông số tàu và ngư cụ khai thác
Tàu lưới kéo có chiều dài thân tàu trung bình
12,9 m với trọng tải của tàu tương đối nhỏ, bình
quân là 8,1 tấn và công suất máy tàu là 58,9 CV.
Chính vì vậy, tàu thích hợp cho chuyến biển ngắn và
khai thác vùng lộng. Tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế của hộ ngư dân mà việc đầu tư tàu khai thác lúc
ban đầu có thể là tàu mới hoặc là tàu đã qua sử dụng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngư dân có số năm sở
hữu tàu hiện có hay còn gọi là tuổi của tàu là khoảng
7,5 năm, cao nhất là 15 năm và gần nhất là 3 năm.
Bảng 3. Đặc điểm tàu và ngư cụ khai thác của nghề lưới kéo
Thông tin Trung bình (n=60) Độ lệch chuẩn Dao động
1. Tàu khai thác Chiều dài tàu (m) 12,9 0,8 12,0 – 14,9
Công suất của máy tàu (CV) 58,9 20,8 27,0 – 97,0
Tải trọng của tàu (tấn) 8,1 3,6 3,5 – 18,0
Tuổi của tàu (năm) 7,5 2,4 3,0 – 15,0
2. Ngư cụ (lưới)
Chiều dài của lưới (m) 23,9 6,4 10,0 – 35,0
Kích thước mắt lưới ở đụt (mm) 24,9 4,9 15,0 – 40,0
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2020)
Nghề lưới kéo có chiều dài ngư cụ (lưới) trung
bình 23,9 m và lưới được sửa chữa thường xuyên do
dễ bị rách. Kích thước mắt lưới có ảnh hưởng đến
kích cỡ hải sản khai thác và tác động rất lớn đến
nguồn lợi hải sản. Quy định kích thước mắt lưới ở
bộ phận tập trung cá của Thông tư 19/2018 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với nghề
lưới kéo có chiều dài lớn nhất từ 12 m đến dưới 15
m là 34 mm. So với quy định thì kích thước mắt lưới
nghề lưới kéo ở vùng biển Đông ĐBSCL (24,9 mm)
nhỏ hơn quy định, đây cũng là một trong những
nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
nguồn lợi thủy sản.
3.1.3. Sản lượng thủy sản khai thác
Nghề lưới kéo có thể khai thác quanh năm, ngoại
trừ thời gian có thời tiết xấu và sửa chữa tàu. Kết
quả nghiên cứu cho thấy thời gian khai thác của
nghề lưới kéo trong một năm trung bình 8,4
tháng/năm. Số chuyến ra khơi đánh bắt hải sản của
ngư dân làm nghề lưới kéo trung bình 3,9
chuyến/tháng và mỗi chuyến biển kéo dài khoảng
4,2 ngày/chuyến.
Sản lượng khai thác của nghề lưới kéo đạt trung
bình 643 kg/chuyến, tương ứng tổng sản lượng khai
thác bình quân trên một năm là 18,9 tấn/năm và năng
suất khai thác thủy sản được tính trên công suất máy
tàu ở là 352 kg/CV/năm. So với 7 năm trước đó, sản
lượng và năng suất hải sản khai thác từ lưới kéo ở
vùng biển Đông thấp hơn so với mặt bằng chung của
nghề lưới kéo quy mô nhỏ ở toàn vùng ĐBSCL,
khoảng 25,6% về sản lượng và 33,6% về năng suất
khai thác (Nguyễn Trung Vẹn và ctv., 2013).
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
288
Bảng 4. Thời gian và sản lượng thủy sản khai thác
Thông tin
Trung
bình
(n=60)
Độ
lệch
chuẩn
Dao động
Số ngày khai thác cho một chuyến biển (ngày/chuyến) 4,2 1,4 2 - 10
Số chuyến biển khai thác trong tháng (chuyến/tháng) 3,9 1,5 2 - 10
Số tháng khai thác trong năm (tháng) 8,4 2,0 4 - 12
Sản lượng khai thác cho một chuyến biển (kg/chuyến) 642,8 282,0 72 – 1.750
Tổng sản lượng khai thác trong năm (kg/năm) 18.896,4 8.182,4 5.760 – 45.700,2
Tổng số ngày khai thác trong năm (ngày/năm) 125,4 45,7 48 - 240
Tổng số chuyến khai thác trong năm (chuyến/năm) 31,8 14,8 8 - 120
Tỷ lệ cá tạp (%) 28,5 11,8 15,7 - 60
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2020)
3.2. Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo
Chi phí hoạt động khai thác của nghề lưới kéo cho
một chuyến biển gồm có chi phí cố định và chi phí
biến đổi. Chi phí khấu hao là các khoản chi từ chi
mua vỏ tàu, máy tàu, ngư cụ (lưới) và các thiết bị hỗ
trợ khai thác (máy định vị, máy đàm thoại) được tính
cho một năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí
khấu hao hằng năm trung bình là 34,2 triệu
đồng/năm, trong đó chi mua vỏ tàu và máy tàu khai
thác chiếm khoảng 54%, kế đến là chi phí chi cho
ngư cụ với 41,1%. Chi phí biến đổi của nghề lưới
kéo chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí hoạt động
khai thác với trung bình là 88,4%. Trong cơ cấu chi
phí biến đổi của nghề lưới kéo, chi phí nhiên liệu
(dầu, nhớt) chiếm tỷ lệ cao nhất với chiếm 52% so
với tổng chi phí biến đổi của một chuyến biển, kế
đến là tiền nhân công thuê (24%), lương thực thực
phẩm (12%) và phần còn lại chi cho việc mua các
nguyên liệu bảo quản sản phẩm khai thác như nước
đá và các khoản cần thiết khác (Hình 1). Kết quả cho
thấy sự tương đồng so với nghiên cứu của Sinh and
Long (2011) là khoản chi phí nhiên liệu chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng cơ cấu chi phí hoạt động
khai thác thủy sản (66,6%). Điều này nói lên hoạt
động khai thác thủy sản chịu chi phối lớn bởi yếu tố
nhiên liệu và lực lượng lao động khai thác. Sự thay
đổi tăng hoặc giảm giá nhiên liệu đầu vào, đặc biệt
là xăng và dầu tác động rất lớn đến hoạt động sản
xuất của ngư dân ở vùng biển Đông ĐBSCL.
Hình 1. Cơ cấu chi phí biến đổi của nghề lưới kéo
Chi phí hoạt động khai thác của nghề lưới kéo ở
vùng biển Đông ĐBSCL là 316 triệu đồng/năm,
tương ứng mỗi chuyến biển ngư dân cần 10,7 triệu
đồng/chuyến. Tổng doanh thu đạt trung bình 608
triệu đồng/năm. Doanh thu có dao động lớn (198 –
1.507 triệu đồng/năm) vì phụ thuộc vào quy mô và
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
289
thời gian khai thác của tàu. Nghề lưới kéo có lợi
nhuận trung bình là 292 triệu đồng/năm và tỷ suất
lợi nhuận là 1,0 lần. Kết quả nghiên cứu trước đây
cho thấy thu nhập từ hoạt động khai thác thủy sản
đã góp phần nâng cao đời sống của ngư dân vùng
ven biển. Thu nhập từ nghề lưới kéo quy mô nhỏ ở
ĐBSCL mang lại 124 triệu đồng/năm (Sinh and
Long, 2011) và thu nhập từ nghề lưới kéo ven bờ ở
tỉnh Bạc Liêu bình quân là 510 triệu đồng/năm
(Hồng Văn Thưởng và ctv., 2014). Thực tế cho thấy
hoạt động khai thác thủy sản là một trong những
hoạt động sản xuất mang lại nguồn thu nhập cho ngư
dân vùng ven biển. Theo Huỳnh Văn Hiền và ctv.
(2019), nghề lưới kéo vùng ven biển ĐBSCL đã
đóng góp khoảng 86,7% thu nhập của các hộ khai
thác thủy sản vùng ven biển. Thu nhập của ngư dân
chịu ảnh hưởng lớn từ sự suy giảm nguồn lợi thủy
sản, điều kiện thời tiết và giá cả tiêu thụ sản phẩm
thủy sản khai thác. Tỷ suất lợi nhuận (tỷ số giữa tổng
lợi nhuận với tổng chi phí hoạt động khai thác) bình
quân của nghề lưới kéo dao động từ 0,96 lần.
Bảng 5. Chi phí, doanh thu và lợi nhuận của nghề lưới kéo
Thông tin Trung bình (n=60) Độ lệch chuẩn Dao động
Tổng chi phí (triệu đồng/năm) 316,2 128,1 111,1 - 717,3
Tổng doanh thu (triệu đồng/năm) 607,8 251,9 197,5 – 1.507
Tổng lợi nhuận (triệu đồng/năm) 291,6 172,7 27,9 – 850,3
Tỷ suất lợi nhuận (lần) 0,96 0,52 0,14 – 2,13
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2020)
Sản phẩm thủy sản khai thác từ tàu lưới kéo ở
vùng biển Đông ĐBSCL được bán trực tiếp cho các
vựa và thương lái thu mua (100%). Những nghiên
cứu trước đây cho thấy sản phẩm thủy sản khai thác
ở ĐBSCL chủ yếu được bán trực tiếp cho các vựa
và thương lái thu mua và một phần nhỏ bán cho các
tàu thu mua hải sản trên biển (Nguyễn Trọng Tuy và
ctv., 2011; Nguyễn Trung Vẹn và ctv., 2013), riêng
sản phẩm thủy sản khai thác từ các tàu lưới kéo ven
bờ chỉ bán cho các vựa thu mua. Điều này cho thấy
các vựa và thương lái thu mua có vai trò rất lớn trong
việc tiêu thụ sản phẩm thủy sản khai thác.
3.3. Hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo
3.3.1. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật của nghề
lưới kéo
Kết quả ước lượng hàm sản xuất và các yếu tố
ảnh hưởng đến phi hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới
kéo vùng biển Đông ĐBSCL được thể hiện Bảng 6.
Doanh thu mang về từ khai thác thác thủy sản trong
năm của nghề lưới kéo chịu sự tác động chủ yếu từ
số ngày khai thác và chiều dài của ngư cụ, trong khi
lực lượng lao động trên tàu có tác động đến doanh
thu nhưng chưa đủ mạnh.
Số ngày khai thác cho một chuyến biển của nghề
lưới kéo có hệ số ước lượng có ý nghĩa về mặt thống
kê ở mức ý nghĩa 10% và có tương qua âm với tổng
doanh thu. Điều này đã thể hiện phần nào là thời
gian cho chuyến biển dài hay ngắn có ảnh hưởng rất
lớn đến thu nhập của ngư dân nghề lưới kéo với điều
kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả nghiên cứu
này có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Sharma and Leung (1999) ở nghề câu đường và
Pascoe et al. (2001) ở nghề lưới kéo. Điều này có
thể giải thích là (1) ảnh hưởng từ nguồn lợi thủy sản
ven bờ, tức thời gian cho chuyến biển càng dài ở
nghề lưới kéo, đồng nghĩa chi phí hoạt động khai
thác càng tăng thì sản lượng khai thác, đặc biệt là
loài có kích cỡ nhỏ và giá trị thấp (cá tạp) có xu
hướng tăng; (2) chất lượng sản phẩm thủy sản, là khi
thời gian trên biển càng dài thì chất lượng sản phẩm
có xu hướng giảm do cách thức bảo quản của ngư
dân chủ yếu là ướp nước đá và muối, trong khi các
ngư dân bán chủ yếu sản phẩm khai thác ngay tại
cảng cho các vựa và thương lái.
Chiều dài của ngư cụ khai thác có tác động lớn
đến hiệu quả khai thác của nghề lưới kéo ở vùng
biển Đông ĐBSCL. Hệ số ước lượng của chiều dài
lưới có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức ý nghĩa 5%
và tương quan dương khi các yếu tố khác không đổi.
Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của
các nghiên cứu của Kompas et al. (2004), Truong et
al. (2011) trong hoạt động khai thác thủy sản là có
thể tăng chiều dài ngư cụ nhằm mang lại hiệu quả
khai thác cao hơn, thông qua kết hợp ngư cụ và sự
giúp đỡ nhân lực trên tàu cùng nghề, cũng góp phần
làm cho lao động khai thác làm việc tích cực và có
trách nhiệm hơn.
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
290
Bảng 6. Kết quả ước lượng hàm sản xuất và các yếu tố phi hiệu quả sản xuất
Thông tin Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định t
1. Hàm sản xuất
Hằng số 4,839 4,053 ***
lnngaykhaithac (X1) -0,972 -1,726 *
lnlaodong (X2) 0,109 0,111
lnluoi (X3) 2,076 2,276 **
LnX12 -0,108 -2,815 **
lnX22 -0,739 -2,353 **
lnX3 2 -0,903 -3,407 ***
lnX1 * lnX2 0,112 0,369
lnX1 * lnX3 0,578 2,934 ***
lnX2 * lnX3 0,446 0,914
2. Hàm phi hiệu quả
Hằng số -1,721 -2,117 **
Kinh nghiệm (năm) -0,057 -2,686 **
Học vấn của thuyền trưởng (lớp) 0,088 2,416 **
Tuổi thuyền trưởng (năm) 0,053 3,196 ***
Công suất (CV) -0,010 -1,483
Tuổi tàu (năm) 0,073 1,610 *
Nguồn vốn (1- có vay; 0- Không) -0,518 -2,253 **
σ2 0,081 2,880 **
ϒ 0,484 2,762 **
Chú thich: ***, **, * biểu diễn các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%
Hệ số ước lượng của yếu tố lao động trên tàu
không có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức ý nghĩa
10%, nghĩa là số lượng lao động trên tàu có tác động
thuận biến đến doanh thu của ngư dân nghề lưới kéo
ven bờ nhưng chưa đủ mạnh. Kirkley et al. (1995) và
Jamnia et al. (2013) cũng nhận định lực lượng lao
động trên tàu có tác động tích cực đến doanh thu của
ngư dân khai thác thủy sản. Nguyên nhân là nghề lưới
kéo ở vùng biển Đông ĐBSCL sử dụng lực lượng lao
động gia đình là chủ yếu, bởi nguồn lực này có trách
nhiệm với hoạt động sinh kế của họ. Bên cạnh đó, thu
nhập của một số lao động thuê mướn được trả công
lao động theo tỷ lệ phần doanh thu của chuyến biển,
góp phần nâng cao vai trò và trách nhiệm khai thác,
mang lại thu nhập cao.
Hình 2. Mức hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo vùng biển Đông ở ĐBSCL
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
291
Mức hiệu quả kỹ thuật của các tàu lưới kéo vùng
biển Đông ĐBSCL được thể hiện ở Hình 1. Mức
hiệu quả kỹ thuật của các tàu lưới kéo đạt trung bình
86,3 và sự chênh lệch mức hiệu quả giữa các tàu đạt
cao nhất và thấp nhất là khá lớn, dao động từ 47,9%
đến 97,9%. Trong đó, số tàu lưới kéo đạt mức hiệu
quả kỹ thuật cao hơn 90% chiếm tỷ lệ 60% số tàu
khai thác. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trước
đây là Herrero et al. (2006); Sharma and Leung
(1999) và Tingley et al. (2005) trong hoạt động khai
thác cũng xác định mức hiệu quả kỹ thuật dao động
từ 65 – 80%. Điều này cho thấy mức hiệu quả kỹ
thuật của tàu lưới kéo vùng biển Đông ĐBSCL đạt
ở mức cao, nhưng cần cải thiện thêm để đạt được
hiệu quả tối đa.
3.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ
thuật của nghề lưới kéo
Bảng 6 cho thấy đặc điểm của thuyền trưởng
(kinh nghiệm, học vấn và tuổi) có ảnh hưởng đến
hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo vùng biển Đông
ĐBSCL. Trình độ học vấn và tuổi của thuyền trưởng
có hệ số ước lượng có ý nghĩa về mặt thống kê ở
mức ý nghĩa 5% và 10% tương ứng và tương quan
nghịch biến với hiệu quả kỹ thuật. Tức là thuyền
trưởng có trình độ học vấn càng cao hoặc càng lớn
tuổi thì hiệu quả khai thác không cao. Trong khi đó,
yếu tố về kinh nghiệm khai thác có vai trò quyết định
đến hiệu quả khai thác, tức thuyền trưởng càng có
nhiều kinh nghiệm trong khai thác thì giúp nâng cao
hiệu quả khai thác hơn. Hệ số ước lượng của kinh
nghiệm khai thác của thuyền trưởng có ý nghĩa mặt
thống kê ở mức ý nghĩa 5%. Pascoe and Coglan
(2002) đánh giá sự kém hiệu quả kỹ thuật trong khai
thác thủy sản là do ít nhiều sự tác động của người
thuyền trưởng. Cụ thể là người thuyền trưởng có thể
gặp hạn chế sự quyết định nhanh trong điều kiện
nguồn lợi thủy sản thay đổi.
Liên quan đến đặc điểm của tàu và ngư cụ, hệ số
ước lượng của công suất máy tàu có tương quan
nghịch biến với phi hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới
kéo, nghĩa là khi tăng công suất máy tàu thì giúp
phần kém hiệu quả kỹ thuật giảm, tức là càng nâng
cấp công suất máy tàu sẽ giúp doanh thu khai thác
của ngư dân nghề lưới kéo được cải thiện, với điều
kiện các yếu tố khác không đổi. Thực tế, nghề lưới
kéo là nghề khai thác di dộng và đánh bắt chủ yếu
các loài cá ở tầng đáy và gần đáy, tàu cần sức kéo
lớn nên công suất máy tàu là một trong những yếu
tố có ảnh hưởng hiệu quả khai thác. Tàu có công suất
máy lớn giúp cho ngư dân có thể di chuyển nhanh
và đánh bắt cá được ở vùng nước sâu. Kompas et al.
(2004) và Truong et al. (2011) nhấn mạnh công suất
máy tàu càng lớn thì hiệu quả khai thác càng tăng.
Hơn nữa là tuổi của tàu có ảnh hưởng nghịch biến
với hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo và có ý
nghĩa về mặt thống kê ở mức ý nghĩa 10%. Pascoe
& Coglan (2002) cũng tìm ra sự khác nhau hiệu quả
khai thác thủy sản là do tuổi của tàu khai thác bên
cạnh yếu tố công nghệ và lực lượng lao động trên
tàu. Điều này có thể giải thích là tàu cũ có thể gặp
vấn đề trang thiết bị, kích cỡ tàu, tiêu tốn nhiên liệu,
thời gian và chi phí sửa chữa. Cho nên, tuổi của tàu
có xu hướng tăng thì hiệu quả khai thác có chiều
hướng giảm.
Nguồn vốn vay được sử dụng trong hoạt động
khai thác có thể từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu
từ nguồn vốn vay và nguồn vốn tự có (vốn tích lũy,
người thân, các vựa thu mua). Kết quả ước lượng
cho thấy vốn khai thác của ngư dân nghề lưới kéo từ
nguồn vốn vay có hiệu quả hơn và có ý nghĩa về mặt
thống kê ở mức ý nghĩa 5%. Nguyên nhân là khả
năng tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức cung cấp
vốn là rất hạn chế do cần nhiều tài sản thế chấp đảm
bảo tiền vay. Chính điều này, ngư dân khai thác phải
ứng vốn từ các cơ sở vựa và thương lái thu khi mà
nguồn vốn tích lũy của họ không đảm bảo cho
chuyến ra biển. Điều này làm ngư dân không quyết
định được giá bán nên doanh thu giảm.
Nhìn chung, kết quả ước lượng hiệu quả kỹ thuật
cho thấy ngư dân nghề lưới kéo ở vùng biển Đông
ĐBSCL có tiềm năng cải thiện hiệu quả khai thác,
mặc dù có đến 60% số tàu khai thác kết hợp các yếu
tố đầu vào trong khai thác gần đạt hiệu quả kỹ thuật
tốt nhất. Ngư dân nghề lưới kéo vùng biển Đông
ĐBSCL có thể đầu tư nâng cấp công suất máy tàu
kết hợp với đánh bắt theo nhóm đội nhằm hỗ trợ khai
thác có hiệu quả. Đối với các ngư dân có điều kiện
đầu tư tàu mới hoặc tàu lớn hơn để khai thác vùng
xa bờ mang lại hiệu quả tốt hơn, phù hợp với chính
sách phát triển của ngành là khuyến kích ngư dân
chuyển đổi để khai thác thủy sản vùng xa bờ. Mặt
khác, ngư dân có thể nâng cao thu nhập từ việc tiêu
thụ sản phẩm khai thác tại cảng thông qua phát triển
kênh thị trường. Ngư dân có thể điều chỉnh hoạt
động đánh bắt và phương thức đánh bắt phù hợp như
khai thác có tính chọn lọc các loài cá có giá trị hoặc
kích cỡ lớn, với việc tạo ra các sản phẩm thủy sản
có giá trị gia tăng thay cho việc bán sản phẩm tươi
sống. Điều đáng ngại là hoạt động khai thác thủy sản
không chỉ phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết
và nguồn lợi thủy sản, mà còn phụ thuộc vào việc
tiêu thụ sản phẩm thủy vì phần lớn việc tiêu thụ này
phụ thuộc vào nhóm trung gian. Sản phẩm thủy sản
được bán trực tiếp cho các vựa và thương lái thu mua
và họ ít quyết định được giá cả.
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
292
4. KẾT LUẬN
Sản lượng thủy sản khai thác tàu lưới kéo là 643
kg/chuyến biển và 18,9 tấn/năm và năng suất khai
thác là 352 kg/CV/năm. Chi phí hoạt động khai thác
là 316 triệu đồng/năm với thu nhập mang về 608
triệu đồng/năm, lợi nhuận là 292 triệu đồng/năm và
tỷ suất lợi nhuận là 1,00 lần.
Mức hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo vùng
biển Đông ĐBSCL đạt mức khá cao (86,3%). Các
đặc điểm của thuyền trưởng, tàu khai thác và nguồn
vốn sản xuất là các yếu tố quan trọng có tác động
đến phi hiệu quả kỹ thuật trong khai thác thủy sản.
Thuyền trưởng tích lũy được nhiều kinh nghiệm
trong khai thác thủy sản thì có khuynh hướng hiệu
quả hơn so với người ít trải nghiệm, trong khi tuổi
và trình độ học vấn càng cao thì khai thác hải sản có
xu hướng không hiệu quả. Tàu khai thác mới có hiệu
quả hơn so với tàu cũ cũng như nguồn vốn vay có
hiệu quả cao hơn so với vốn tự có.
Kết quả nghiên cứu này cung cấp thông tin cơ
bản về hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo nhưng
vẫn còn một số đặc điểm về trữ lượng nguồn lợi thủy
sản, mùa vụ và công nghệ của thiết bị sử dụng trên
tàu chưa được quan tâm. Mặt khác, sự quản lý nghề
cá mang tính ổn định và phát triển khi hiệu quả kỹ
thuật, hiệu quả phân phối và hiệu quả kinh tế được
xem xét. Các nghiên cứu tiếp theo phân tích đầy đủ
hơn là cần thiết, giúp việc quản lý nghề cá ven bờ
ngày càng phát triển ổn định và phù hợp với chính
sách phát triển của ngành.
LỜI CẢM TẠ
Đề tài này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp
Trường Đại học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn
vay ODA từ chính phủ Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Coelli, T.J., Tao, D.S.P., O’Donnell, C.J., & Battese,
G.E. (2005). An introduction to efficiency and
productivity Analysis second edition. Springer
Science & Business Media.
Herrero, I., Pascoe, S., & Mardle, S. (2006). Mix
efficiency in a multi-species fisheries. Journal of
Productivity Analysis, 25(3), 231-241.
https://doi.org/10.1007/s11123-006-7641-9
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
[VASEP] (2020, 05/10). Xuất khẩu thủy sản năm
2019. http://vasep.com.vn/Tin-
Tuc/1200_58730/Xuat-khau-thuy-san-nam-2019-
can-dich-voi-86-ty-USD.htm
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
[VASEP]. (2018). Báo cáo ngành hải sản khai
thác Việt Nam năm 2008 đến 2017. 47 trang.
Hồng Văn Thưởng, Hà Phước Hùng & Hồng Thị Hải
Yến. (2014). Hiện trạng khai thác và quản lý
nguồn lợi hải sản ở tỉnh Bạc Liêu. Tap chi Khoa
hoc Trương Đai hoc Cân Thơ, 30, 37-44.
Huỳnh Văn Hiền, Đặng Thị Phượng & Trần Đắc
Định. (2019). Khía cạnh kinh tế - xã hội của các
nghề khai thác thủy sản vùng cửa sông Cửu
Long. Tap chi Khoa hoc Công nghệ Nông nghiệp
Việt Nam, 8(105), 122-128.
Jamnia, A.R., Mazloumzadeh, S.M., & Keikha, A.A.
(2014). Estimate the technical efficiency of
fishing vessels operating in Chabahar region,
Southern Iran. Journal of the Saudi Society of
Agricultural Sciences, 14(1), 26-32.
https://doi.org/10.1016/j.jssas.2013.04.005
Kirkley, J.E., Sqires, D., & Strand, I.E.S. (1995).
Assessing technical efficiency in commercial
fisheries: The Mid-Atlantic sea scallop Fishery.
American Journal of Agricultural Economics,
77(3), 686-697. https://doi.org/10.2307/1243235
Kompas, T., Che, T.N., & Grafton, R.Q. (2004).
Technical efficiency effects of input controls:
evidence from Australis’s banana prawn fishery.
Applied Economics, 36(15), 1631-1641.
http://dx.doi.org/10.1080/0003684042000218561
Nguyễn Trọng Tuy, Lê Xuân Sinh & Đặng Thị
Phượng. (2011, tháng 12 ngày 16). Thực trang
và một số giải pháp trong khai thác và bảo vệ
nguồn lợi hải sản ở tỉnh Tiền Giang [Báo cáo
tóm tắt]. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản toàn
quốc, Trường Đại học Nông Lâm, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Trung Vẹn, Lê Xuân Sinh & Đặng Thị
Phượng. (2013, tháng 6 ngày 6 -7). Phân tich
hiệu quả khai thác hải sản ở Đồng bằng sông
Cửu Long [Báo cáo tóm tắt]. Hội nghị Khoa học
trẻ ngành thủy sản toàn quốc lần thứ IV, Trường
Đại học Nông Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh.
Pascoe, S., & Coglan, L. (2002). The contribution of
unmeasurable inputs to fisheries production: An
analysis of technical efficiency of fishing vessels
in the English Channel. American Journal of
Agricultural Economics, 84(3), 588-597.
https://doi.org/10.1111/1467-8276.00321
Pascoe, S., Andersen, J.L., & Wild, J.W.D. (2001).
The impact of management regulation on the
technical efficiency of vessels in the Dutch beam
trawl fishery. European review of Agricultural
Economics, 28(2), 187-
206. https://doi.org/10.1093/erae/28.2.187
Sharma, K.R., & Leung, P. (1999). Technical
efficiency of the longline fishery in Hawaii: an
application of a stochastic production frontier.
Marine Resource Economics, 13(4), 259-274.
https://doi.org/10.1086/mre.13.4.42629241
Sinh, L.X., & Long, N.T. (2011). Status and
perception of coastal small-scale trawling fishers
Tap chi Khoa hoc Trương Đai hoc Cân Thơ Tập 57, Số 6D (2021): 284-293
293
in the Mekong Delta of Vietnam. International
Journal of Fisheries and Aquaculture, 3(2), 26-34.
Tingley, D., Pascoe, S., & Coglan, L. (2005). Factors
affecting technical efficiecy in fisheries:
stochastic production frontier versus data
envelopment analysis approaches. Fisheries
Research, 73(3), 363-376.
https://doi.org/10.1016/j.fishres.2005.01.008
Tổng cục Thống kê (2020). Số liệu thống kê.
https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke/
Truong, N.X., Vassdal, T., Ngoc, Q.T.K., Anh,
N.T.K., & Thuy, P.T.T. (2011). Technical
efficiency of Gillnet fishery in Da Nang,
Vietnam: Application of stochastic production
frontier. Fish for the People, 9(1), 26-39.