Van minh Ả Rập
Transcript of Van minh Ả Rập
Bài thu hoạch thực tế nhóm IIVăn minh Ả Rập - Islam giáo và thánh đường
ở Việt Nam
(thánh đường Musjid Jasmia Al Musulman, 66
Đông Du, Quận 1)
Danh sách thành viên MSSV Mức độ đóng gópVõ Sĩ Minh Kỳ (Nhóm
trưởng)
Nguyễn Thị Hiếu
Nguyễn Thị Ngọc Tiền
Lê Thuý Vi
Nguyễn Tấn Hùng Em
Thái Thị Thanh Trang
Nguyễn Thị Trúc Hân
31303
31303
31303
31303615
31303
31303
31303
31303
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
Nguyễn Thị Khánh An
Nguyễn Thị Vân Anh
Nguyễn Hùng Cường
31303
31303
100%
100%
Sơ lược về nền văn minh Ả RậpẢ Rập là bán đảo lớn nhất thế giới ở Tây Á, diện tích lớn
hơn ¼ Châu Âu. Tuy vậy, trên cả bán đảo chỉ có vùng Yemen ở
phía Tây Nam có nguồn nước phong phú, đất đai có thể trồng
trọt được. Hơn nữa, nhờ nằm trên con đường buôn bán giữa Tây
Á và Bắc Phi, nên Yemen có điều kiện phát triển về thương
nghiệp. Vì vậy, từ thế kỉ VI TCN, ở đây đã thành lập được
nhiều nhà nước cổ đại. Tương truyền vào khoảng 2743 năm TCN,
Ả Rập đã buôn bán thông thương với Ai Cập và Ấn Độ. Theo
Will Durant, “Bán đảo Ả Rập[…]chiều dài nhất được 2200 cây số[…]chỗ rộng
nhất được 2000 cây số”, “Về địa chất, bán đảo[…] nối tiếp sa mạc Sahara, là một
phần cái đai cát đi ngang qua Ba Tư tới tận sa mạc Gobi”. Có lẽ vì thế mà
nó mang tên “Ả Rập”. Vì từ “Arabe” trong ngôn ngữ của họ
nghĩa là “khô khan”. “Về địa lý, nó là một cao nguyên mênh mông thình lình
dựng đứng lên tới 3000 thước ở cách Hồng Hải năm chục cây số[…]hạ thấp về
phía Đông[…]bốn phía là cát trải ta khắp mấy trăm cây số[…] Bốn mươi năm
tuyết đổ một lần[…] Ban đêm có thể lạnh tới 0 C[...] Ban ngày nắng cháy da. ◦ ”
Ngoài Yemen, vùng Hejaz nằm dọc bờ biển đỏ, phía Tây bán đảo
cuãng tương đối phát triển. Vùng này từ xưa là cây cầu nối
liền việc buôn bán giữa Địa Trung Hải với phương Đông. Vì
thế, ở đây từ sớm đã xuất hiện một số thành phố, trong đó
quan trọng nhất là Mecca và Yathrip.
Ả
Rập và một trong những pháo đài còn đến ngày nay
Đến đầu thế kỉ VII, cư dân các thành phố này vẫn đang sống
thành từng thành thị, bộ lạc, không thống nhất về chính trị.
Mỗi bộ lạc lại thờ và mang tên một ông tổ riêng mà họ coi mình
là hậu duệ của ông tổ đó. Chẳng hạn, tộc Banu – Ghassan cho
rằng họ là hậu duệ của Ghassan. Tuy nhiên, trong các bộ lạc
đó, sự phân hoá giai cấp đã hết sức rõ rệt. Tầng lớp quý tộc
đã trở thành những kẻ có nhiều đặc quyền và của cải.
Trung tâm Mecca có đền Kaaba nghĩa là kiến trúc vuông, có lẽ
bắt nguồn từ từ “Cube” – “ Khối lập phương” thờ rất nhiều những
ngẫu tượng thần linh của các bộ tộcvào thời tiền hồi giáo. Khi
Hồi giáo lên ngôi thì nơi này trở thành một thánh địa nổi
tiếng và chỉ còn tôn thờ Ala mà thôi. Theo Hồi giáo chính
thống thì điện được xây dựng lại khoảng 10 lần và đền Kaaba
hiện tại là được xây ở lần thứ 10 do các thủ lĩnh hồi giáo
(sau Môhamet ) xây dựng giữa những năm 681 đến 696. Điện dựng
ở gần trung tâm một khu có tường và trụ quan (portique) bao
quanh, khu đó gọi là Masjid Al - Haram. Trong đền có 1 phiến
đá đen linh thiêng khoảng 20cm được thờ cúng, được coi là biểu
tượng thờ cúng chung của các bộ lạc. Hằng năm có hàng ngàn tín
đồ hồi giáo trở về hành hương nơi vùng đất linh thiêng này.
Dân cư Ả Rập vốn gốc Semites, hậu duệ của họ đến khoảng thế kỉ
thứ VII gọi là người Bedouins. 5/6 dân cư của Ả Rập bấy giờ là
người Bedouins và đa số họ là dân du mục. Will Durant từng
viết: “Người Bedouins cho rằng sa mạc là của họ, nếu đi qua đi qua đó mà
không nộp tiền mãi lộ thì là kẻ ngoại nhân xâm nhập, như thế họ có ăn cắp của
những người đó thì chỉ là một cách thu thuế lương thiện mà thôi. Họ khinh bỉ thị
trấn vì ở đó phải tuân theo luật lệ, phải buôn bán, chứ không thể ăn cướp được; sa
mạc tuy tàn nhẫn mà họ lại yêu vì họ được tự do. Khả ái mà lại khát khao, rộng rãi
mà lại hà tiện, bất lương mà lại trung tín, người Bedouins dù nghèo đói tới đâu
cũng vậy, hiên ngang nhìn đời, tự hào về dòng máu không pha của mình, vui vẻ
mang dòng họ của mình.” Người Hi Lạp lại gọi tất cả dân chúng
trên bán đảo là “Sarakenoi” (Sarassin) có lẽ bắt nguồn từ một từ
trong ngôn ngữ Ả Rập là “Sharkiyum” (Phương Đông).
Nhà nước Ả Rập mãi đến thế kỉ VII mới được thành lập. Qúa
trình thành lập gắn liền với đạo Hồi (Islam hay Ixlam giáo) do
Môhamet (còn đọc là Muhamat) truyền bá. Theo ghi chép để lại
của cháu trai Môhamet thì ông có vẻ ngoài “trung bình, không cao,
không thấp. Nước da trắng hồng hồng, mái tóc đẹp, dầy và láng, rũ xuống hai vai.
Râu rậm dài tới ngực… Nét mặt thật hiền từ, tới nỗi ai đã thấy một lần rồi thì không
thể rời được nữa…Trước mặt Người, mọi người đều quên hết những nỗi đau khổ,
rầu rĩ của mình”.
Môhamet xuất thân từ một bộ lạc có thế lực ở Mecca nhưng sinh
ra trong cảnh khốn cùng . Năm 610, ông bắt đầu truyền bá đạo
Hồi. Năm 222, bị tầng lớp quý tộc Mecca hãm hại, ông cùng tín
đồ chạy sang Yathrip. Năm này, năm diễn ra sự kiện tháo chạy
(Hitjira) được coi là năm đầu tiên của kỉ nguyên Hồi giáo.
Yathrip sau cũng được đổi tên thành Medina (thành phố của nhà tiên
tri). Năm 630, Môhamet chiếm lại Mecca, từ đó thành này trở
thánh thánh địa của Hồi giáo. Năm 632, Môhamet mất, từ đó thì
các người kế thừa được gọi là “Calife” - người kế thừa của nhà
tiên tri, thay mặt thiên sứ - tức vừa là vua, vừa là giáo chủ
Hồi giáo. Các đời Calife đều thực thi chính sách xâm lược để
truyền bá Hồi giáo ra bên ngoài.
Đến thế kỉ X, đế quốc Ả Rập không duy trì được sự thống nhất
nữa, thế lực ngày càng suy yếu. Năm 1258, Bagda bị Mông Cổ
chiếm, đế quốc Ả Rập rơi vào diệt vong.
Tương truyền, chính Môhamet là người đã khuyến khích phát
triển giáo dục, học thuật, tri thức. Ông nói: “Kẻ nào từ biệt gia đình
để đi tìm hiểu thêm, mở mang tri thức, là kẻ đó đang đi trên con đường của Thượng
đế…và mực của nhà bác học còn linh thiêng hơn cả máu của người tử vì đạo.” Đó
là một trong những nguyên nhân cho sự phát triển rực rỡ của
nền văn minh Ả Rập. Là một trong những nền văn minh lớn của
thế giới, tuy bị diệt vong nhưng đế quốc Ả Rập vẫn để lại
những dấu ấn đậm nét của nó trong văn hoá thế giới như những
mốc son của một thời hoàng kim chói lọi. Điển hình như: văn
học, chữ viết, nghệ thuật, toán học, thiên văn… nhưng dấu ấn
lớn nhất của Ả Rập về văn hoá với thế giới còn trường tồn với
thời gian vẫn là Hồi Giáo (Islam).
ĐẠO HỒI (ISLAM GIÁO)
Đạo Hồi theo tiếng Ảrập là Islam nghĩa là "phục tùng", về sau
dân tộc Hồi ở Trung Quốc theo tôn giáo này nên ta quen gọi là
Đạo Hồi.
Đạo Hồi là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Đạo Hồi tôn thờ
duy nhất Ala. Tín đồ Hồi giáo tin rằng ngoài Ala không có vị
thượng đế nào khác. Tất cả những gì trên trời, dưới đất đều
thuộc về Ala. Ala đã dựng nên vòm trời mà không dùng cột, chế
ngự được mặt trời, mặt trăng, tạo ra mặt đất rồi đặt trên đó
đây là núi, kia là sông. Ala cũng sinh ra loài người và biết
linh hồn mỗi người ra sao. Ala có một số thiên thần giúp việc,
ghi chép những hành vi thiện ác của mỗi người và làm sứ giả.
Ala tồn tại ở mọi nơi, là tất cả cái vô hình cũng là tất cả
những cái hữu hình. Ala không sinh nên không diệt, là điều duy
nhất vĩnh hằng và tuyệt đối.
Còn Môhamet là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn
giáo nên chỉ là sứ giả của Ala và là tiên tri của tín đồ.
Muhamat cũng công nhận rằng trước ông có nhiều vị tiên tri như
Ađam, Nô-ê, Moise, Kitô... nhưng ông là vị tiên tri cuối cùng
và vĩ đại nhất.
Đạo Hồi cũng tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác,
nhất là của Đạo Do Thái như truyền thuyết về sáng tạo thế
giới, thiên đường, địa ngục, cuộc phán xét cuối cùng thiên
thần, quỷ Sa tăng... Đạo Hồi còn bắt chước một số nghi thức và
tục lệ của Đạo Do Thái như: trước khi cầu nguyện phải rửa mặt
và tay chân, khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mecca và
phải phủ phục trán chạm đất; cấm ăn thịt heo, thịt chó, thịt
các con vật chết vì bệnh, thịt đã cúng thần và cấm uống rượu.
Đạo Hồi chỉ có một điều quan trọng không giống các tôn giáo
khác là tuyệt đối không thờ ảnh tượng vì họ quan niệm rằng Ala
tỏa khắp mọi nơi, không có một hình tượng nào có thể thể hiện
được Ala. Bởi vậy trong thành thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng
chữ Ả Rập chứ không có tượng và tranh ảnh. Chỉ riêng trong đền
Kaaba ở Mecca có thờ một phiến đá đen từ xưa để lại mà thôi.
Về quan hệ gia đình, Đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê nhưng chỉ
cho lấy nhiều nhất là 4 vợ. Đàn ông Hồi giáo có thể lấy người
theo Đạo Do Thái hoặc Đạo Kitô làm vợ nhưng không được cưới
người theo đa thần giáo. Tuy cho lấy nhiều vợ nhưng Đạo Hồi
lại cấm việc lấy nàng hầu. Riêng Môhamet thì ngoại lệ: ông có
10 vợ và 2 nàng hầu.
Về nghĩa vụ của tín đồ, Đạo Hồi quy định:
1. Thừa nhận chỉ có Ala, không có vị thần nào khác, còn Muhamat là sứ giả của Ala
và là vị tiên tri cuối cùng
2. Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu
hàng tuần thì phải đến thánh thất làm lễ 1 lần.
3. Mỗi năm đến tháng, Ramađan phải trai giới 1 tháng, tháng Ra ma đan là tháng 9
lịch Hồi, nhưng vì Môhamet thay đổi âm lịch cũ, bỏ tháng nhuận nên tháng Ra ma
đan cứ lùi dần, không tương ứng với một thời gian cố định nào của dương lịch.
4. Phải nộp thuế cho Đạo. Số thuế ấy dùng để xây cất thánh thất, bù đắp các khoản
chi tiêu của chính quyền và bố thí cho người nghèo.
5. Trong suốt đời người, nếu có khả năng thì phải đi hành hương đến Kaaba, Mecca
một lần.
Kinh thánh của Đạo Hồi là kinh Koran, tiếng Ảrập viết là
"Kuran", nghĩa là "bài đọc", "bài giảng", trong đó ghi lại
những lời nói của Muhamat, nhưng theo tín đồ Hồi giáo, đó là
những lời phán bảo của thánh Ala.
Kinh Koran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do
đó, đối với người Ả Rập, kinh Koran ngoài những nguyên tắc tôn
giáo còn là một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học, mọi nguyên
tắc pháp luật và đạo đức. Lúc đầu, ở Ả Rập chưa có pháp luật
nào khác ngoài kinh Koran, về sau tuy đã đặt ra pháp luật
nhưng vẫn lấy giáo lí của kinh Koan làm nguyên tắc.
Tóm lại, "Hồi giáo là gì? ".Theo truyền thuyết, thiên thần,
Gabrien đã hỏi Môhamet như vậy. Môhamet đáp:
Hồi giáo là tin vào Ala và vị tiên tri của ngài, đọc những
kinh cầu nguyện đã chỉ định, bố thí cho người nghèo, nhịn ăn
vào tháng Ramađan và hành hương ở thánh địa Mecca.
Cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn và hành hương là 4 bổn phận của
Hồi giáo. Thêm lòng tin vào Ala và vị tiên tri nữa là thành
năm cái trụ cột của Hồi giáo.
Thời Môhamet, đạo Hồi chỉ mới truyền bá ở bán đảo Ả Rập. Sau
đó cùng với quá trình chinh phục của Ả Rập, đạo Hồi đã truyền
bá khắp Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Trong quá
trình ấy, Đạo Hồi đã chia làm hai giáo phái chính là: phái
Xumu và phái Shiite.
Ngày nay, đạo Hồi được truyền bá rộng rãi trên thế giới, đã
thành quốc giáo của 24 nước như: Indonesia, Malaysia,
Afganistan, Banglades, Pakixtan, Iran, Irac, các nước Ả Rập
Thổ Nhĩ Kì, Xiri, Ai Cập, Libi, Angiêri, Marốc... Là một trong
ba tôn giáo lớn nhất thế giới.
Ở Việt Nam, đạo Hồi cũng chiếm một phần không nhỏ trong đời
sống tin thần của người Việt. Hiện nay, ở Thành phố Hồ Chí
Minh có rất nhiều thánh đường Islam. Trong số đó, thánh đường
lớn nhất là Masjid Jamia Al Musulman toạ lạc tại số 66, Đông
Du, Quận 1. Đây là một địa danh nổi tiếng không chi với tín đồ
trong đạo mà còn với du khách trong và ngoài nước.
Thánh đường Masjid Jamia Al Musulman
Thánh đường là một trong những công trình kiến trúc lịch sử
lâu đời so với những thánh đường hiện có tại Việt Nam. Nó
không có vẻ tráng lệ, xa hoa của những thánh đường Islam khác
ở Ả Rập nhưng nó là một trong những thánh đường có tính lịch
sử mang đậm dấu ấn của bậc ông cha Muslim Ấn kiều xây dựng.
Thánh đường được xây vào năm 1935, từ ngay những ngày rối ren
nhất của đất nước.
Sultan Quaboos Grand
nhà thờ hồi giáo chính
của Oman - một trong
các vương quốc thuộc
tiểu A Rập thống nhất
thánh đường Masjid Jasmia Al Musulman
Phong cách kiến trúc này rất tinh xảo, tỉ mỉ trong từng hoạ
tiết trang hoàng dù không cầu kỳ hoa mĩ như các thánh đường
vùng Trung Cận Đông nhưng nó mang âm sắc riêng của kiến trúc
dân tộc… Khoàng sân trước thánh đường là một điểm nhấn đặc
biệt sáng sủa với những chậu cây cảnh, nhìn qua phía tay phải
là hồ nước dành cho các tín đồ nam lấy nước tẩy rửa (Wudu)
Khu vực lấy nước dành cho
nam tín đồ.
Nhìn vào bên trong ta
có thể thấy nét kiến
trúc nổi bật của các thánh đường hồi giáo. Nét kiến trúc - lập
phương, vuông và rộng rãi. Nơi cầu nguyện chia ra hai khu vực
chính cho nam tín đồ và nữ tín đồ. tường được viền gạch men
màu trắng dù không trang trí cầu kì lộng lẫy nhưng nó là một
không gian tràn ngập sự linh thiêng dành cho các tín đồ gửi
lòng mình về với đấng Ala tối cao.
Một nét đặc sắc nữa của kiến trúc thánh đường này là biểu
tượng hình một ngôi sao nằm trên mặt trăng khuyết. Ngay từ khi
bước vào, biểu tượng này đập thẳng vào mắt người nhìn. Theo
truyền thuyết của Islam giáo: để tìm ra chân lý Môhamet đã một mình
vào hang sâu nhịn ăn trong 30 ngày để tập trung suy ngẫm. Vào một đêm nọ, khi
ông đang nằm như thế thì thấy thiên thần Gabrien đến đưa 5 lời khải thị của Ala.
Đấy là đêm 21 hồi lịch, trên miệng hang nơi Môhamet nằm có một ngôi sao nằm
trên vành trăng khuyết. Do đó, để tưởng nhớ ngày khải thị đầu tiên
tất cả các kiến trúc Islam đều có biểu tượng này. Đây chỉ là
một biểu tượng chứ không phải là vật thờ vì Islam giáo chỉ tôn
thờ duy nhất mỗi Ala. Ở thánh đường Masjid Jasmia Al Musulman,
biểu tượng này có ở khắp nơi từ hàng rào, trên cổng, trên các
hoạ tiết lớn nhỏ… .
Do là thánh đường được người Ấn theo đạo Hồi thiết kế và
một kỹ sư người Pháp xây dựng nên kiến trúc thánh đường là một
sự pha trộn thú vị của văn hoá Đông Tây, vừa có nét Ả Rập lại
phảng phất nét kiến trúc Ấn Độ, lối xây dựng lại mang chút
phong cách Châu Âu và toàn cảnh lại hài hoà. Kiến trúc vừa
thanh nhã ở màu sắc, dáng điệu của những cột tháp cao lại vừa
có nét hoa lệ sắc sảo của những đường viền phong cách Ấn trên
các vòm mái. Những khung cửa pha trộn giữa kiểu cửa truyền
thống Ả Rập vừa có chút phong cách Pháp.
Bốn cột trụ cao mang ý nghĩa lớn đại diện cho con số
tuyệt vời của người Ả Rập, đồng thời cũng là Bốn phương của
thánh đường. Theo lời thầy quản lý ở thánh đường thì các thánh
đường đều có bốn cột trụ cao ở bốn phía là bởi ngày xưa có tục
lệ, khi đến giờ lễ thánh thì sẽ có người trèo lên những cột
trụ cao này, bắc loa thông báo cho chúng giáo dân toàn vùng
nghe mà đến hành lễ. Ngày nay, tuy không còn phải sử dụng
phương pháp này nữa nhưng lối kiến trúc này vẫn được giữ
nguyên nhằm thể hiện sự tôn trọng những tập tục cổ xưa và sự
sùng bái của giáo dân dành cho Ala tối cao.
Cột trụ như thế này có ở 4 phía
ở thánh đường, mang dáng dấp tao nhã
yêu kiều, đặc trưng của xứ sở “Ngàn lẻ
một đêm”.
Bốn cột trụ còn thể hiện 4 trụ lớn
trong Islam, 4 nguyên tắc chính, cầu
nguyện, nhịn ăn, bố thí và hành
hương.
Đây là phòng nguyện dành cho
nam ở thánh đường. Cánh cửa
giả chính giữa không phải là
vật thờ gì cả. Nó đại diện cho
con đường hướng tới quê hương
hồi giáo – thánh địa Mecca.
Theo truyền thống thì khi cầu
nguyện, người ta phải hướng tất cả về Ala, quay đầu về Mecca.
Và ở Việt Nam thì Mecca nằm phía Tây nên phải có cổng quay về
hướng Tây. Ở hai bên cổng giả có 2 biểu tượng - chữ Ả Rập, cái
bên phải là Ala, bên trái là Môhamet tất cả thánh đường hồi
giáo chính thống đều tuân theo quy tắc này, không sai lệch.
Thánh đường còn có tên khác là Masjid Catinat. Điểm khác
biệt so với các thánh đường khác cũng không chỉ về nguồn gốc,
kiến trúc mà còn cả về thành phần giáo dân. Do là một thánh
đường Islam quốc tế nên giáo dân bao gồm nhiều thành phần:
người Chăm, người Mã Lai, người Mỹ, người Ấn, người Việt,
người Ả Rập, người Úc… .
Tuy là một thánh đường lâu đời, hơn 83 năm nhưng nó vẫn
giữ cho mình một nét hoa lệ nhưng dơn giản nhẹ nhàng không lẫn
vào đâu được. Tại đây diễn ra những buổi Solah hằng ngày với
các bài giảng bằng tiếng Ả Rập và các thứ tiếng khác (tiếng Mã
Lai, tiếng Việt, tiếng Anh…). Đặc biệt là vào thứ sáu hàng
tuần thường diễn ra những buổi lễ lớn Solah Jum’at. Nơi đây đã
từng tiếp đón các Quốc vụ khanh, Tổng (phó) lãnh sự quán nước
ngoài cùng du
khách gần xa đến
tham quan và hành
lễ…
tiếp đón Quốc Vụ Khanh Ấn Độ.
Theo ghi chép để lại của thánh đường thì vào năm 1900 cộng
đồng Hồi giáo ở Sài Gòn
(lúc này chưa có người Việt) đang ngày một lớn với thành phần
là những thương gia Ấn Độ, Pakistan, Arab… đang có nhu cầu cấp
thiết về một nơi để sinh hoạt, hành lễ (Solah) hàng ngày và
tuân theo giáo điều Islam giáo. Lúc này một người Pháp đã tự
hiến phần đất của mình, các tín đồ tập trung lại và xây nên
thánh đường trên nền đất ấy với tên gọi Catinat (lấy tên đường
ngày ấy, tức đường Tự Do, ngày nay là đường Đồng Khởi). Đến
1935, dưới sự cai trị của bọn thực dân Pháp cộng đồng giáo dân
vẫn ngày một lớn mạnh. Lúc này, thánh đường cũ không còn đủ
sức chứa nữa nên đã cho xây lại chính thức với bản thiết kế
như ta thấy ngày nay.
Từ ngày ấy, thánh đường mang tên Masjid Jasmia Al Musulman đến
tận nay. Ban quản trị đa phần là người Ấn, sau năm 1975 phần
đông trong số họ về nước chỉ còn vài vị là ở lại tiếp tục điều
hành thánh đường. Tất cả mọi thành viên đều đã đóng góp hết
sức mình cho thánh đường, có thể kể tên các vị sau đây:
Mohamed Maideen, Raya, Haji Musa Bilal, Haji Musa Misky, Haji
Imam Yusuf… đến nay là ông Mohamad Amine.
Như mọi thánh đường khác, Masjid Jasmia Al Musulman tuân theo
tôn chỉ của Islam một cách nghiêm ngặt nhưng với nhiều nét
riêng, mang những tầng ý nghĩa khác. Đây là một trong những
phần được in trong sách tìm hiểu về Islam cho những người mới
nhập môn ở thánh đường:
1. Allah
Sự hiểu biết và tin tưởng Allah tạo thành căn bản lý tưởng của
đạo Islam. Allah là đấng Tạo Hóa, Đấng Kiến Trúc Sư Trưởng của
thế giới vạn vật, Đấng xuất Xứ, Căn Nguyên và Đấng Cung Ứng
tất cả mọi vật trong cuộc sống con người và vạn vật. Bởi Allah
quá vĩ đại nên con người chỉ có thể biết Allah hiện có ở mọi
thời đại; Quyền lực của Allah có ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Con người cần phải tin vào Allah cụ thể cần biết rõ và tin
những diều sau:Allah là một, không có đối tác, không có con
cái, không do ai sinh ra. Allah được tất cả cầu xin, không có
khởi đầu, không có cuối cùng, và không có gì ngang bằng Allah
được.Allah là Đấng Khoan Dung, Đấng Xót Thương, Đấng Dẫn Dắt
chân chánh, Đấng Công Bằng và Tối Cao, Đấng Tạo Hóa và Chuyên
Chú, Đấng Tiên Khởi và Dấng Cuối Cùng, Đấng Thông Suốt, Đấng
Chứng Kiến và Vinh Danh, Đấng Toàn Năng Và Hùng Mạnh.Allah là
Đấng Yêu Thương, Đấng Cung Ứng, Đấng Độ Lượng và Nhân Từ, Đấng
Giàu Có và Độc Lập, Đấng Thứ Tha và Khoan Dung, Đấng Kiên Trì
và Lượng Định, Dấng Duy Nhất và Đấng Bảo Vệ, Đấng Phán Xử Và
Hòa Bình.
2. Ý nghĩa của Islam
Từ Islam xuất phát từ căn ngữ A-Rập. Trong sự vật có nghĩa
là hòa bình thanh khiết, thuần phục và vâng mệnh. Trong tôn
giáo có nghĩa là thuần phục vào ý chí của Thượng Đế. Tuân theo
Thiên luật tức luật của Thượng Đế.
Trước đây, các tác giả phương Tây đã gọi đạo Islam theo từ
tiếng Anh là “MOHAMMADISM”, còn các tín đồ Islam là
“MOHAMMADAN”. Người Muslim đã phản đối việc này. Bởi sử dụng
từ MOHAMMADAN, người bên ngoài đạo dễ hiểu làm người Muslim là
những người tôn thờ MUHAMMAD. Còn ở Việt Nam, đạo Islam từ
trước thường được gọi là Đạo Hồi – Hồi Giáo, cho nên có một
thời, một số người cứ hiểu lầm đạo Islam là đạo của Hồi Quốc,
tức nước Pakistan ngày nay. Chính vì vậy cần xác định rõ, tên
chánh thức trong cộng đồng gọi đạo là ISLAM và các tín đồ
Islam gọi là MUSLIM.
Người Muslim chỉ tôn thờ một thượng Đế duy nhất là Allah.
Trong lịch sử, Nabi Muhammad vẫn là con người, duy có những
phẩm chất đạo đức tối hảo, sống một cuộc sống gương mẩu của
con người, đã được Allah lựa chọn và ủy thác sứ mệnh chỉ dạy
cho nhân loại lời phán truyền của Allah. Cho nên người Muslim
không bao giờ ton thờ Muhammad hay bất kỳ con người nào khác.
Người Muslim tin rằng Muhammad là là vị Nabi cuối cùng, nhưng
không phải là duy nhất. Trước Muhammad co rất nhiều Nabi thuộc
dân tộc, các thế hệ khác nhau, ở các thời điểmkhác nhau, kể cả
Nabi IBRAHIM, Nabi ISMA’LL, Nabi MUSA, Nabi ‘ISA (Giê Su),
Nabi MUHAMMAD, v.v… Điều quan trọng là người Muslim tin các
Nabi này và không kì thị Vị nào cả.
ỨNG DỤNG ĐỨC TIN – CÁC QUY ĐỊNH
1. Dâng lễ nguyện
a.Mục tiêu:
Tăng cường niềm tin vào Sự Hiện Tồn và Đức Tốt
Lành của Thượng Đế và chuyển niềm tin này đi vào nơi
sâu kín nhất của lòng thành con người.
Làm sống lại niềm tin này và làm cho nó mang
tính xây dựng trong dòng đời.
Giúp con người nhận rõ các ước vọng tự nhiên và
theo bản năng của con người về với tính vĩ đại và đạo
lý cao dày, về với tính ưu việt và tăng trưởng đạo
đức.
Gội sạch lòng thành và phát triển tâm trí, cấy
trồng lương tri và làm cho linh hồn được khuây khỏa.
Nuôi dưỡng các yếu tố tốt lành và đoan chính
trong con người, và hủy diệt tội ác và các khuynh
hướng thô tục.
b. Ý nghĩa của lễ nguyện
Một bài học trong kỷ luật và trong lực ý chí
Một thực hành trong sự tôn sùng Thượng Đế và phát
hiện không thay đổi Đức Tốt Lành của Thượng Đế
Một hạt giống của sự nuôi trồng tâm linh và tính vững
chai trong đạo lý
Một kim chỉ nam đi đến lối sống chánh trực nhất
Một sự che chở chống lại sự thiếu đoan chính và tội
ác, chống lại thiên lệch sai trái và lầm lạc
Một sự thể hiện bình đẳng dích thực, một sự đoàn kết
vững chắc và tình huynh đệ
Một sự biểu lộ nhận biết và ghi ơn Thượng Đế
Một hành trình đi vào an bình và ổn dịnh nội tâm
Một nguồn phong phú tính kiên nhẫn và lòng can đảm
của hy vọng và tính ngưỡng
c. Các điều kiện cảu lễ nguyện
SHURUD (điều kiện) WAJIB: Lễ nguyện có tính bắt buộc
đối với tất cả các tính đồ
Trong tình trạng tỉnh táo và có trách nhiệm
Tương đối chính chắn và trong tuổi dậy thì
Phụ nữ không trong thời kỳ kinh nguyệt, và ở cử do
sanh đẻ
SHURUD SIHHAH: Lễ Nguyện chỉ có giá trị khi các yêu
cầu sau dược làm tròn
Thực hiện nghi thức tẩy uế
Toàn thân, y phục đang mặc và nền nhà dùng để dâng
lễ nguyện phải hoàn toàn sạch sẽ, thoát khỏi mọi
thứ dơ bẩn và ô uế
Ăn mặc thích hợp, che phủ các phần kín đáo của cơ
thể
Madhahab shafi’y đòi hỏi ý thức đã đi vào Waqtu tức
thời điểm dâng lễ. Riêng Madhahad Hanafy thì định
tâm, nguyện xác nhận ý chí dâng lễ.
Day mặt dúng hướng Qiblat, tức hướng Đền Ka’bat
tại Thánh Địa Makkah (A-Rạp Sau-Đi) còn gọi là
thánh địa Mecca.
d. Các loại lễ nguyện
Lễ nguyện Fardu có tính cưỡng bách cao, bao gồm 5 Lễ
Nguyện hàng ngày, Lễ nguyện tập thể vào trưa thứ 6,
lễ nguyện tang chế.
Sunnat Mu’akkadah và Ghayr Mu’akkadah bao gồm các lễ
nguyện đi kèm sau các lễ Nguyện Farrdu, và hai lễ
nguyện tập thể ‘Id
Lễ nguyện nhiệm ý Tatawwu’ bao gồm các lễ nguyện tự
nguyện vào bất cứ lúc nào trong ngày hoặc trong đêm
e. Các thời điểm dâng lễ
Lễ Nguyện Rạng Sáng : có thể cử hành bất cứ lúc nào
trong khoảng từ sau khi trời rạng sáng và trước khi
mặt trời mọc
Lễ Nguyện Ban Trưa: có thể cử hành bất kỳ lúc nào
trong khoảng thời gian sau khi mặt trời xế trưa cho
đến vào khoảng nửa đường để lặn
Lễ Nguyện Xế chiều: bắt đầu ngay khi hết hết hạn Lể
nguyện Ban Trưa và kéo dài cho dến trước khi mặt trời
lặn
Lễ nguyện Chạng Vạng Tối: bắt đầu ngay khi mặt trời
lặn và kéo dài dến khi ánh sáng đỏ rực ở chân trời
Tây biến mất
Lễ Nguyện Ban Tối : bắt đâu khi ánh sáng rực đỏ của
mặt trời lặn biến mất ở chân trời Tây cho dến khi một
ít lâu trước khi trời hừng sáng
f. Nghi thức tẩy thể (Wudu’)
Các bước thực hiện
Định tâm nguyện
Rửa tay đến cườm tay 3 lần
Xúc miệng với nước 3 lần
Tẩy sạch lỗ mũi với nước 3 lần bằng cách hít nước
vào
Rửa với cả hai tay nguyên gương mặt 3 lần từ trên
trán xuống cằm, từ lỗ ati này sang lỗ tay kia
Rửa cánh tay phải 3 lần đến cuối cùi trỏ, xong rửa
cánh tay trái
Lấy tay bum miếng nước vuốt len mái đầu
Vuốt hai vành tai
Rửa 2 chân dến mắt cá 3 lần, bắt dầu bằng chân
phải
Dọc kinh hoàn tất tẩy thể
Wajib Tartib (phải ý thức và làm đúng theo thứ tự
trên)
g. Kêu gọi Dâng Lễ: sau khi tẩy thể, có thể sẵng sàn Dâng Lễ.
Lúc sắp bắt đầu, chiếu theo tập quán dược ghi chép lại
của Naibi Muhammad, cách làm tốt nhất là lên tiếng
chính thức kêu gọi cùng đến dâng lễ nguyện. Người kêu
gọi đứng quay mặt về hướng Qiblat, đưa cả hai tay lên
đến ngang tầm vai và phát ra những lời kêu gọi.
h.Đi vào lễ nguyện (Iqamat): sau khi nghe dứt lời gọi, mọi
người sẵn sàng dâng lễ và bắt đầu bằng một thông báo
bắt dầu lễ nguyện do một người đảm trách.
i.Cử hành lễ nguyện:
2. Nhịn chay
Một đặc tính duy nhất và tâm linh khác của Islam là định
chế quy định nhịn chay, tiếng A-Rập goi là Saumb, có
nghĩa là hoàn toàn kiêng ăn, uống, giao hợp, hút thuốc,
khởi đầu từ khi rạng sáng cho dến lúc chạng vạng tối,
trong toàn tháng Ramadan, tháng 9 niên lịch Islam.
a. Ý Nghĩa của việc nhịn chay
Chỉ dạy cho con người nguyên lý Tình Thương chân
thành
Trang bị cho con người với một ý thức của Hy Vọng và
quan niệm lạc quan về cuộc đời
Thấm nhuần đạo lý chân chánh của lòng mộ dạo chân
chính thực sự
Gieo trồng con người một lương tri cẩn mật và có căn
cơ
Truyền cho con con người dức tính Kiên Nhẫn và Lòng
Vị Tha
Là bài học thực sự trong sự Ôn Hòa và lực ý Chí
Cung ứng một Linh Hồn lành mạnh, Tâm trí trong sáng,
một cơ thể nhẹ nhàng
Chỉ ra phương cách mới trong lề lối tiết kiệm sáng
suốt, lập ngân sách chi thu có căn bản
Có khả năng thích ứng với biến dổi của cuộc sống hàng
ngày
Đặt người Muslim vào khuôn khổ, sống lành mạnh
b. Thời gian nhịn chay
Như đã ghi trên, việc nhịn chay bắt buộc của Islam dược
thực hiện vào tháng Ramadan, tức tháng 9 của niên lịch
Hijirah, là niên lịch dựa vào vận chuyển của mặt trăng.
Tuy nhiên, cung còn một số thời điểm khác, người Muslim
đặc biệt được khuyến cáo nhịn chay thêm vào những ngày
thứ thứ hai và thứ năm hàng tuần, một vài ngày mỗi
tháng.
c. Những ai phải nhịn chay?
Mạnh khỏe lành lặn về thể chất và tinh thần
Đúng tuổi, từ 14 tuổi trở lên
Có mặt tại nơi thường trú
Chắc chắn việc nhịn chay sẽ không gây ảnh hưởng tới
sức khỏe
Trong những trường hợp sau sẽ được nhịn chay:
Trẻ con dưới tuổi dậy thì
Người không thể chịu trách nhiệm về những hành vi của
bản thân
Quá già yếu dể thực hiện nghĩa vụ nhịn chay
Người đau ốm mà sức khỏe bị tác hại nghiêm trọng
Người đang đi xa nhà khoảng 50 dặm
Phụ nữ có thai, hoặc đang cho con bú
Phụ nữ đang có kinh, hoặc sanh đẻ (tối đa 60 ngày)
3. Bố thí (Zakat)
a. Ý nghĩa
Thanh lọc tài sản làm cho sự nghiệp càng ngày phồn
thị hơn, trường cửu và các nghiệp vụ lương thiện
Lọc trong tim của người bố thí khỏi ích kỷ, tham lam,
người nhận bố thí khỏi thèm muốn, ganh tỵ, khỏi căm
gét và bực bội.
Giảm nhẹ các khổ đau của người nghèo khó, an ủi nhiều
người dân kém may mắn, kêu gọi mọi nguời cùng góp sức
để cải biến xã hội
Gieo trồng trách nhiệm xã hội
Biểu hiện sống động tinh thần nhân đạo
b. Định xuất Zakat
Mỗi năm phải trích ra 2,5% tổng tài sản mỗi năm để bố
thí. Nếu không có tiền bố thí thì phải dùng công sức
của bản thân bổ sung vào, như: tham gia làm đường, chăm
sóc trẻ em khuyết tật, người già ốm đau…
c. Những người có tư cách nhận Zakat:
4. Hành hương Makkat hajj