THAM KHẢO VỀ FDI

29
THAM KHẢO VỀ FDI Toàn cảnh vốn FDI vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2014 (NDH) Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, trong 6 tháng đầu năm 2014, tổng vốn đăng ký (cấp mới và tăng thêm) đạt 6,85 tỷ USD, giảm 35,3% so với cùng kỳ năm 2013; tổng vốn thực hiện đạt 5,75 tỷ USD, giảm 0,9%. Tính đến ngày 20/6/2014, cả nước có 656 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2013, trong khi có 219 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư, giảm 33,4%.

Transcript of THAM KHẢO VỀ FDI

THAM KHẢO VỀ FDI

Toàn cảnh vốn FDI vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2014

(NDH) Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, trong 6 tháng đầunăm 2014, tổng vốn đăng ký (cấp mới và tăng thêm) đạt 6,85 tỷ USD, giảm 35,3% so với cùng kỳ năm 2013; tổng vốn thực hiện đạt 5,75 tỷ USD, giảm 0,9%.

Tính đến ngày 20/6/2014, cả nước có 656 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2013, trong khi có 219 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư, giảm 33,4%.

Tổng vốn đăng ký cấp mới trong 6 tháng đạt 4,86 tỷ USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm 2013; trong khi vốn đăng ký tăng thêm đạt suýt soát 2 tỷ USD, giảm 63%.

Trong 6 tháng, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 17 lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều sự quan tâm nhất với 326 dự án đầu tư đăng ký mới và 168 lượt dự án tăng vốn. Tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,8 tỷ USD.

Có 41 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm, trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,55 tỷ USD.

Trong nửa đầu của năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 42 tỉnh và thành phố, trong đó Tp.HCM là địa phương thuhút nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất.

Xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2013, còn nhập khẩu củakhu vực này tăng 11,6%.

Doanh nghiệp FDI chiếm 2/3 tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam

Báo cáo mới nhất của Bộ Công Thương khẳng định, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn đang đóng góp lớn vào thành tích xuất khẩu (XK) tháng 7 và 7 tháng đầu năm của Việt Nam.

Cụ thể, tháng 7/2014, Kim ngạch xuất khẩu (KNXK) khu vực FDI đạt 7,5 tỷ USD, chiếm 60,8% KNXK toàn ngành. Tính chung trong 7 tháng đầu năm, khu vực FDI đạt KNXK 55,8 tỷ USD, chiếm 66,8%so với tổng KNXK. Các DN có vốn ngoại ngày càng đóng góp lớn vào thành tích XK, trong khi các DN trong nước chỉ chiếm phần nhỏ còn lại.

So sánh cán cân thương mại XNK của khu vực DN FDI, trong 7 tháng đầu năm, khối DN này vẫn đạt thành tích xuất siêu. Các DN FDI nhập khẩu (NK) trong 7 tháng đầu năm là 46,05 tỷ USD, chiếm hơn 56% so với tổng KNNK. So giá trị kim ngạch xuất khẩuvới nhập khẩu, khu vực này vẫn thặng dư thương mại khoảng 9,75tỷ USD và đạt thành tích xuất siêu.

Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, các DN FDI hiện vẫn là đầu tầu trong gia tăng XK của Việt Nam trong thời gian qua. Các DN FDIxuất khẩu nhiều nhưng nhập khẩu cũng lớn, khiến cho chúng ta đạt giá trị gia tăng không cao, chỉ chênh lệch 1,25 tỷ USD. Các ngành trọng điểm XK là: chế biến nông lâm thủy sản, chế tạo lắp ráp, dệt may, da giầy vẫn nhận được sự đầu tư lớn của

các DN nước ngoài khi Việt Nam ngày càng có lợi thế về nhân công, thị trường và cơ chế thương mại song phương mở rộng.

Tuy nhiên, hiện thực trên cũng cho thấy trong rất nhiều năm, XK của Việt Nam vẫn phụ thuộc phần lớn vào khối DN ngoại. Các DN FDI thường XK nhiều nhưng cũng NK lắm, khiến thặng dư cán cân thương mại đạt thấp. Đây là nguyên nhân khiến cho hàng hóacủa Việt Nam XK nhiều nhưng giá trị gia tăng không cao do chúng ta phải nhập nguyên phụ liệu nhiều từ các nước khác đặc biệt là hai ngành trọng điểm XK hiện nay là: điện thoại, điện tử, dệt may.

"Đẩy nhanh hơn nữa cuộc cải cách kinh tế bằng công khai và minh bạch"

Các dự báo quốc tế gần đây đều dè dặt trong việc nhận định khảnăng phục hồi kinh tế thế giới do còn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, nhất là khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và ở nhiều nước khác, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nợ của Hy Lạp lên tới 153% GDP, của Anh là 88%, Hoa Kỳ 107%, Bồ Đào Nha 112%, Ireland 113%, Ý 123%, Nhật Bản 236%. Khủng hoảng nợ công tác động đến các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Brazin, Ấn Độ, Nga và các khu vực. Giáo sư Ferguson, người từng được Tạp chí Time chọn là 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất hành tinh cho rằng, “các khoản nợ chính thức này chỉ bao gồm trái phiếu chính phủ chứ không bao gồm những khoản còn lớn hơn là những chương trình phúc lợi xã hội quốc gia”.

Mặc dù vậy, UNCTAD đưa ra dự báo khá lạc quan về FDI toàn cầu năm 2012 đạt 1,6-2,0 nghìn tỷ USD, tăng 25% so với năm 2011. Sáu tháng đầu 2012, nền kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại

với GDP chỉ tăng 4,38%, thấp hơn 1,25 điểm % so với cùng kỳ năm trước, nhiều doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng đình trệ, trong khi phần lớn doanh nghiệp FDI vẩn duy trì sản xuất, kinh doanh, một bộ phận còn mở rộng quy mô, nổi bật là tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, vốn FDI thực hiện vẫn tăng tuy không nhiều, nhưng vốn FDI đăng ký giảm sút so với cùng kỳ 2011. Theo số liệu củaTổng cục thống kê, từ 1/1 đến ngày 20/6/2012 vốn đăng ký của 452 dự án FDI mới được cấp phép là 4762.1 triệu USD, vốn tăng thêm của 12 dự án FDI đang hoạt động là 1621,9 triệu USD, tổng cộng là 6384 triệu USD bằng 72,3% cùng kỳ 2011. Trong tổng vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm thì công nghiệp chế biến, chế tạođạt 4021 triệu USD chiếm gần 70%. Dẫn đầu là Bình Dương với sốvốn đăng ký là 1437,2 triệu USD chiếm 30,2%, tiếp đó là Hải Phòng 875,1 triệu USD chiếm 18,4%; Đồng Nai 631,5 triệu USD chiếm 13,3% tổng vốn đăng ký của cả nước. Nhật Bản với 3536,6 triệu USD chiếm 74,3%, tiếp đó là Hồng Công (TQ) với 406,7 triệu USD chiếm 8,5%; Hàn Quốc với 272,9 triệu USD chiếm 5,7%,Singapore với 146,7 triệu USD chiếm 3,1%, Hà Lan với 106,1 triệu USD chiếm 2,2% tổng vốn đăng ký. Cần lưu ý rằng, vốn FDIđăng ký trong 6 tháng đầu 2012 biểu hiện dòng chảy của FDI thếgiới vào nước ta giảm sút sau khi đạt được đỉnh điểm vào năm 2008 với 68 tỷ USD (đã được điều chỉnh so với con số đã công bố là 72 tỷ USD ), do vậy cần tìm nguyên nhân từ các nhân tố gắn với môi trường đầu tư để có giải pháp ngăn chặn tình trạnggiảm sút, khôi phục mức tăng trưởng trong nửa cuối năm 2012 vànhững năm tiếp theo. Tuy vậy, vốn FDI đăng ký chỉ là tiềm năng, không nên lấy làm cơ sở dữ liệu để phân tích thực trạng và động thái của hoạt động FDI. Chẳng hạn vốn FDI đăng ký của các dự án bất động sản lớn hơn rất nhiều so với vốn FDI thực hiện, bởi vì nhà đầu tư nước ngoài chỉ bỏ một lượng vốn giải phóng mặt bằng, xây dựng một phần hạ tầng kỷ thuật rồi bán chongười mua là nhà đầu tư thứ cấp, người cần nhà ở theo phương thức đặt hàng hoặc góp vốn, vì vậy nhiều lắm họ chỉ chuyển từ nước ngoài vào nước ta 20-25% vốn đăng ký. Vốn FDI thực hiện là 5,4 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, là tiêu chíđể đánh giá thực trạng, tác động và vấn đề đặt ra đối với hoạtđộng đầu tư nước ngoài. Trong tổng vốn đầu tư xã hội của sáu tháng đầu 2012 là 431,7 nghìn tỷ đồng thì vốn đầu tư nước ngoài là 110 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,5%. Đó là tỷ lệ tương đốihợp lý, bởi vì mặc dù nguồn lực trong nước đã gia tăng đáng kểtừ đầu thế kỷ XXI, nhưng nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn

để đáp ứng yêu cầu xây dựng hạ tầng kỷ thuật và xã hội, tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng hiện đại, nên cùng với việc khai thác tối đa nguồn vốn đang còn khá dồi dào trong dân cư thì cần coi trọng thu hút và nâng cấp vốn nước ngoài bao gồm ODA, đầu tư gián tiếp và nhất là FDI. Điểm sáng của FDI là thương mại quốc tế. mặc dù tốc đọ tăng trưởng kinh tế chậm lại nhưng kim ngạch xuất khẩu vẩn tăng 22,2%; đó là tốc độ khá ấn tượng. Khác với sáu tháng đầu năm 2011 khi yếu tố tăng giá đã tác động mạnh đến kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thì sáu tháng vừa qua chủ yếu là tăng lượng hàng xuất khẩu; trong đó các doanh nghiệp FDI góp phần quan trọng với 32,6 tỷ USD, tăng 37,3% và chiếm tỷ trọng 61,5% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 6,8 điểm % so với cùng kỳ 2011; trong khi kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước là 20,5 tỷ USD, tăng4% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục đà tăng trưởng nhanh kimngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng công nghiệp chế tạo của năm 2011, 6 tháng đầu 2012 kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng công nghệ cao tăng trưởng rất nhanh, điện thoại và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD tăng 129,8%, điện tử, máy tính và linh kiện đạt3,4 tỷ USD tăng 84,9%, máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 2,7 tỷ USD tăng 43,5%, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,2 tỷ USD, tăng 55,9%. Những mặt hàng này chủ yếu do các doanh nghiệp FDI chế tạo. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sáu tháng đầu2012 đạt 53,8 tỷ USD, tăng 6,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,8 tỷ USD giảm 8,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28 tỷ USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước.Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu sáu tháng năm nay chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước; đó là mức tăng thấp nhất kể từ 2009 là những năm suy thoái kinh tế. Nhập siêu của cả nước là 658 triệu USD, bằng 1,3% kim ngạch xuất khẩu; giảm rõ rệt so với 6,7 tỷ USD, chiếm 15,7% cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý là trong khi nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 5,3 tỷ USD bằng 25,8% kim ngạch xuất khẩu; thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại xuất siêu 4,6 tỷ USD,bằng 14,1% kim ngạch xuất khẩu. Đối với việc giảm nhập siêu trong sáu tháng vừa qua cần được trao đổi để có được nhận địnhđúng một hiện tượng mới trong thương mại quốc tế của nước ta, không nên đơn giản cho rằng, chỉ vì kinh tế trong nước giảm tốc độ tăng trưởng nên nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, máy móc và phụ tùng đương nhiên giảm sút. Số liệu thống kê các mặt hàng nhập khẩu của sáu tháng đầu 2012 đã chứng minhnhận định đó đúng đối với một số ngành như hoá chất đạt 1,4 tỷ

USD tăng 7,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 1,5 tỷ USDtăng 3%; vải đạt 3,4 tỷ USD bằng 100%; chất dẻo đạt 2,3 tỷ USD giảm 1,7%; thép đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, việc giảm nhập siêu có nguyên nhân từ chủ trương hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng không được khuyến khích cộng thêm việc giảm nhu cầu tiêu dùng trong nước, điển hình là ôtô đạt 1 tỷ USD, giảm 34,1%, trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 285 triệu USD, giảm 54,7% so với cùng kỳ 2011, đồng thời đã xuất hiện tín hiệu tích cực là cơ cấu hàng nhập khẩu của sáu tháng đầu 2012 có sự thay đổi so với cùng kỳnăm trước, tỷ trọng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng từ27,8% lên 32,9%, nguyên, nhiên vật liệu giảm từ 64,8% xuống 60,6%; hàng tiêu dùng giảm từ 7,4% xuống 6,5%. Nhập siêu chủ yếu là từ thị trường Trung Quốc, trong khi kim ngạch xuất khẩuhàng hóa là 6,3 tỷ USD tăng 31,9%, thì kim ngạch nhập khẩu là 13,2 tỷ USD, tăng 16,9%, nhập siêu 6,9 tỷ USD. Đây là nút thắtchính trong việc giải mã tình trạng xuất siêu, cần được nghiêncứu và đưa ra giải pháp nhanh và đồng bộ như đẩy nhanh công nghiệp phụ trợ, điều chỉnh chính sách thị trường để vừa mở rộng xuất khẩu, vừa thực hiện tốt chủ trương “người Việt Nam ưu tien dùng hàng Việt Nam“...,để từ thực trạng thương mại quốc tế của sáu tháng đầu năm 2012 khi xuất hiện khả năng cân bằng xuất nhập khẩu sớm hơn dự kiến vào năm 2015, tiến tới xuất siêu với mức tăng nhanh dần, cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như du lịch, dịch vụ…cân bằng vững chắc tài khoản thanh toán vãng lai, gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia,góp phần bảo đảm ổn định tích cực kinh tế vĩ mô. Hoạt động FDI trong sáu tháng đầu 2012 đã được dư luận quan tâm nhất là vấn đề chuyển giá thông qua hai phương thức: chuyển giá lãi và chuyển giá lỗ. Chuyển giá lãi được thực hiệnkhi doanh nghiệp FDI xin chuyển đổi thành công ty cổ phần, mộtsố doanh nghiệp đã định giá không chính xác tài sản, báo cáo tăng lợi nhuận khi niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán để tăng giá trị cổ phiếu. Chuyển giá lỗ bằng cách nâng cao giá trị tài sản góp vốn, nâng giá mua bán nguyên vật liệu, bán thành phẩm với công ty mẹ hoặc  công ty liên kết, cung ứng dịch vụ, phí quản lí, phí bản quyền, phí hỗ trợ kỹ thuật, lợi tức tiền vay, bảo lãnh, tiền lương, chi phí quảng cáo…Thanh tra 575 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ 2005 đến 2009 đã cho kết quả giảm lỗ hơn 4.000 tỷ đồng và truy thu thuế hơn 212 tỷ đồng, trong đó 43 doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá, đã xử phạt 37 doanh nghiệp truy thu thuế và phạt 27 tỷ đồng. Đây

không phải là hiện tượng nhất thời mà bắt nguồn từ kinh tế thịtrường với “ lòng tham không bao giờ là đủ”, do vậy không chỉ xử lý một số doanh nghiệp đã bị phát hiện mà quan trọng hơn làđiều chỉnh bằng pháp luật và giám sát, kiểm tra của cơ quan nhà nước để giảm thiểu tình trạng chuyển giá.

-II-

Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, nước ta đang đứng trước cơ hội mới trong đó có hoạt động FDI với một số nhân tố chủ yếu là:

1) ASEAN đang tiến gần đến Cộng đồng kinh tế, trong đó có thị trường chung về hàng hóa và dịch vụ, khu vực đầu tư chung;

2) Từ 2010 với Hiệp định đối tác chiến lược với Nhật Bản, quanhệ giữa hai nước đã có bước phát triển tốt đẹp cả về chính trịvà kinh tế. Nhật Bản là nước đứng đầu về ODA và FDI của Việt Nam, đang hợp tác đầu tư vào công nghệ cao, dịch vụ hiện đại và công nghiệp phụ trợ;

3) Việt Nam và EU đã tiến thêm một bước phát triển mới được đánh dấu bằng Hiệp định đối tác toàn diện vừa được ký kết và đang tiến tới FTA có lợi cho thương mại hai chiều do giảm miễnthuế quan và cho đầu tư từ các nước thành viên EU vào Việt Nam;

4) Quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ tiếp tục được cải thiện. thương mại hai chiều giữa Việt Nam với Mỹ gia tăng nhanh chóng, nhiềuphái đoàn các nhà đầu tư từ những bang của Mỹ đến Việt Nam tìmkiếm cơ hội đầu tư, trong khi theo kết quả cuộc khảo sát trực tuyến do Công ty tư vấn Boston Consulting  thực hiện tháng 2/2012 trên 106 công ty Mỹ tại Trung Quốc, thì “37% công ty códoanh thu hàng năm trên 1 tỷ USD đang lên kế hoạch hoặc cân nhắc việc dời sản xuất về Mỹ. Tỷ lệ này đối với các công ty códoanh thu thường niên từ 10 tỷ USD trở lên là 48%. Nguyên nhânphổ biến mà các doanh nghiệp này đưa ra là chi phí lao động (57%), chất lượng sản phẩm (41%), điều kiện kinh doanh (29%) và khả năng tiếp cận khách hàng (28%). Gần hai phần ba số doanh nghiệp đã trả lời rằng: làm ăn tại Trung Quốc tốn kém hơn kế hoạch trên giấy rất nhiều”.

Nếu biết tranh thủ cơ hội bằng hệ thống giải pháp thích hợp với từng đối tác trên đây thì sẽ thu hút thêm FDI có chất lượng cao hơn để góp phần sớm khôi phục tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm đã đạt được 7,5- 8% theo hướng bền vững. Nước ta cũngđang đối mặt với những vấn đề nổi cộm về môi trường đầu tư, trong đó có nguyên nhân từ tình trang suy thoái kinh tế, nhưngnguyên nhân chủ yếu là chậm trể, kéo dài trong việc khắc phục những yếu kém về quản lý kinh tế vĩ mô đã được phát hiện từ nhiều năm.Theo khảo sát của được Ngân hàng Hong Kong Thượng Hải (HSBC) thì “chỉ số PMI ngành sản xuất tiếp tục sụt giảm, từ 48,3 điểm trong tháng 5/2012 xuống còn 46,6 điểm trong tháng 6, cho thấy điều kiện kinh doanh của lĩnh vực sản xuất tiếp tục sa sút. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp, cũng là tháng PMI giảm nhanh nhất kể từ khi cuộc khảo sát được bắt đầu tiến hành vào tháng 4 năm 2011”. UNIDO, Tổng cục Thống kê và Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch & Đầu tư) vừa hoàn thành “Báo cáo sơ bộ về Đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp Việt Nam 2010” dựa trên điều tra gần 1.500 doanh nghiệp (57% là doanh nghiệp FDI) cho thấy các doanh nghiệp FDI có tỷ suất lợi nhuận trước thuế khoảng 7,6% (mức trung bình trong vòng 3 năm qua) trong khi con số kỳ vọng của doanh nghiệp FDI là 9%. Chỉ có 8% doanhnghiệp FDI cho biết có ý định mở rộng đầu tư trong vòng 3 năm tới. Con số tương ứng với doanh nghiệp trong nước là 30%. Khẳng định việc nâng cao thu nhập cho cán bộ, công nhân viên là cần thiết nhưng UNIDO khuyến cáo cơ quan quản lý cần có biện pháp để việc tăng lương đi kèm với chất lượng và năng suất lao động. Theo báo cáo khảo sát lần thứ 7 về đánh giá củacác doanh nghiệp châu Âu hàng quý do Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu (EuroCham) vừa công bố cho biết, “phản hồi của doanh nghiệp đánh giá tình hình kinh doanh hiện tại “không tốt” tăng 10% lên đến 29%, cao hơn mức 19% của quý trước. Trong khi đó, không một doanh nghiệp nào phản hồi tình hình kinh doanh hiện tại của họ là “xuất sắc”. Giám đốc điều hành EuroCham Paul Jewell nhận xét, “Sự bất ổn của nền kinh tếvĩ mô, tỉ lệ lạm phát cao, tham nhũng và các thủ tục hành chính vẫn tiếp diễn. Các nhà đầu tư châu Âu đang ngày càng tìmkiếm các điểm đến đầu tư khác trong ASEAN. Do đó, Việt Nam cầnphải nỗ lực hơn nữa để duy trì sức cạnh tranh trong khu vực. Các tiến trình có thể nhìn thấy được hướng đến một hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU sẽ là bước đi đúng đắn và giúp khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư”. Những ý kiến đa chiều của đại diện các tổ chức quốc tế, nhà đầu tư có thể chưa phản

ánh đầy đủ những tiến bộ trong điều hành kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính mà Chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện, tuy vậy, đó cũng là sự cảnh báo cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách về việc đẩy nhanh hơn nữa cuộc cải cách kinh tế bằng công khai và minh bạch hệ thống chính sách, luật pháp, được “ nhà nước dịch vụ” điều hành  với các thủ tụchành chính đơn giản, có hiệu năng, với cơ cấu bộ máy tinh giảndo đội ngũ công chức có lương tâm nghề nghiệp, có năng lực chuyên môn giỏi.

Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoan 2000-2013 (08:47 07/07/2014)

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12 năm 1987, trở thành khuôn khổ luật pháp cơ bản đầu tiên cụthể hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng lên nhanh chóng. Đến nay khu vực nàyđã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có vai trò đáng kể thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và góp phần giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.Một số kết quả sản xuất kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp FDI giai đoạn 2000-2013:1. Doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh cả về số lượng, quy mô và kết quả sản xuất kinh doanhKhu vực FDI tăng trưởng ổn định ở hầu hết các lĩnh vực. Tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc thời điểm 31/12/2013 là 9093 doanh nghiệp, gấp 6 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 16%. Trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là 7543 doanh nghiệp (chiếm 83% toàn bộ doanh nghiệp FDI) gấp 8,8 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 20%. Doanh nghiệp liên doanh là 1550 doanh nghiệp (chiếm 17% số doanh nghiệp FDI) gấp 2,3 lần năm 2000, bình quân giai

đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng 6,7%. Số doanh nghiệp FDI đang hoạt động thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng hiện chiếm tỷlệ cao nhất với 73% (riêng ngành công nghiệp chiếm 66,4%). Tiếp đến là khu vực dịch vụ với 25,7%. Trong khi số doanh nghiệp FDI hoạt động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ có 123 doanh nghiệp, chiếm 1,4%.Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI tại thời điểm 31/12/2013 trên 3,2 triệu người, gấp gần 8 lần năm 2000, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 92% (năm 2000là 70,2%), doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài chiếm 8% (năm 2000 là 29,8%), bình quân mỗi năm thu hút thêm 216,5 nghìn lao động, góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm của nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng hiện thu hút laođộng khu vực FDI đạt tỷ lệ cao nhất với 91% (riêng ngành côngnghiệp 90,2%).Tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thời điểm 31/12/2013 là 3411 nghìn tỷ đồng, gấp 14,2 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013tăng 22,4%/năm. Trong đó vốn FDI đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 55,2% (riêng công nghiệp là 54,1%); tiếp đến là khu vực dịch vụ 44,5% và khu vực nông, lâm nghiệpvà thủy sản 0,3%.Doanh thu thuần năm 2013 của khu vực doanh nghiệp FDI là 3138nghìn tỷ đồng, gấp 19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 25,3%/năm. Theo khu vực, công nghiệp và xây dựng có số doanh thu FDI cao nhất với 81,5%, tiếp đến là khu vực dịch vụ 18,2% và thấp nhất là khu vực nông, lâm nghiệp vàthủy sản 0,3%.Lợi nhuận trước thuế năm 2013 của khu vực FDI đạt 248 nghìn tỷ đồng, gấp 11,5 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 15,4%/năm.Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của khu vực này năm 2013 là 214,3 nghìn tỷ đồng, gấp 9 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 18,1%/năm.2. Doanh nghiệp FDI tăng nhanh về qui mô và kết quả SXKD nhưng tỷ trọng chiếm trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp giai đoạn 2000-2013 thay đổi không nhiềuCác chỉ tiêu cơ bản của khu vực FDI có tỷ trọng năm 2013 giảmso với năm 2000 gồm: số doanh nghiệp giảm từ 3,6% năm 2000 xuống 2,2%; nguồn vốn giảm từ 21,8% xuống 16,2%; lợi nhuận giảm từ 52,4% xuống 45,4%; thuế và các khoản nộp ngân sách

giảm từ 39,4% xuống 30,5%. Các chỉ tiêu có tỷ trọng tăng gồm:số lao động tăng từ 11,5% lên 25,4%; thu nhập của người lao động tăng từ 18,7% lên 27,7%; doanh thu thuần tăng từ 20% lên22%.3. Doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào khu vực công nghiệpvà xây dựngCông nghiệp và xây dựng là khu vực các doanh nghiệp FDI đầu tư nhiều nhất. Khu vực này năm 2013 chiếm tới 73% tổng số doanh nghiệp FDI; 91% số lao động; 80% thu nhập của người laođộng; 55,2% nguồn vốn; 81,5% doanh thu; 47,9% lợi nhuận và 81,3% nộp ngân sách nhà nước.4. Khu vực FDI là khu vực sản xuất kinh doanh năng động, ổn định và hiệu quả Chỉ số quay vòng vốn (tính bằng doanh thu trên vốn) của khu vực FDI cao hơn các khu vực còn lại, chỉ số này của khu vực FDI năm 2013 đạt 0,9 lần (năm 2000 là 0,7 lần), trong khi khuvực DN ngoài nhà nước là 0,7 lần và thấp nhất là các DNNN chỉcó 0,5 lần. Hiệu suất sinh lợi trên vốn và trên doanh thu củakhu vực FDI cao hơn nhiều so với các khu vực còn lại, cụ thể hiệu suất sinh lời trên vốn và trên doanh thu của khu vực FDInăm 2013 đạt 7,3% và 7,9% trong khi khu vực DNNN đạt 3,2% và 6%, thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước với 0,8% và 1,2%. Thu nhập bình quân một lao động một tháng năm 2013 đạt 6,6 triệu đồng, thấp hơn mức 9,6 triệu đồng của khu vực DNNN, nhưng cao hơn mức 5,1 triệu đồng của khu vực DN ngoài nhà nước.5. Quy mô đầu tư phát triển nhanh, khu vực FDI đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nướcMặc dù khu vực doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng không cao trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp về các chỉ tiêu như số doanh nghiệp, lao động, vốn và doanh thu, nhưng khu vực này lại chiếm tỷ trọng cao về lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013 các doanh nghiệp FDI chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn bộ khuvực doanh nghiệp.Do tăng trưởng nhanh hơn các khu vực kinh tế khác nên khu vựcFDI đóng góp tỷ trọng ngày càng vào GDP. Năm 1995 tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI chỉ đạt 6,3%, tăng lên 15,2% năm 2000 và 19,6% năm 2013.6. Một số hạn chế của các doanh nghiệp FDI

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực doanh nghiệp FDI thời gian qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giátrị gia tăng chưa cao, điển hình là các hoạt động lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong khi Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp FDI vào SXKD ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản rất thấp và có xu hướng giảm dần, năm 2000chiếm 0,6% tổng vốn FDI giảm xuống còn 0,3% năm 2013.Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiêntiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. Đồng thời với kỳ vọng pháttriển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các kỳ vọng trên hầu như cònkhá lâu mới đạt mục tiêu. Tỷ lệ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thời điểm 31/12/2013 chiếm 83% (còn lại 17% là DN liên doanh với nước ngoài), trong khi tỷ lệ này năm 2000 chỉ có 56% cho thấy mô hình liên doanh không hấp dẫn với các nhà đầutư nước ngoài, hoặc khi mới thành lập là liên doanh để tận dụng các điều kiện thuận lợi của các đối tác trong nước về đất, miễn giảm thuế, cơ sở hạ tầng và các ưu đãi khác, dần dần mua lại toàn bộ cổ phần để trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi phí nhân công thấp. Mặc dù đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được gần 30 năm, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khai thác dầu khí, gia công, lắp ráp với các trang thiết bị, dây chuyền công nghệ trung bình hoặc đã lạc hậu.Thứ ba, Việt Nam đã và đang áp dụng các qui định về môi trườngdành cho các nước đã và đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các doanh nghiệp FDI không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết khi đăng ký kinh doanh về đầu tư trang thiết bị và xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.Trong 30 năm đổi mới, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của nềnkinh tế nước ta và khu vực này vẫn tiếp tục có vai trò quan

trọng trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục rà soát môi trường đầu tư, tạo yếu tố minh bạch và ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài để Việt Nam tiếp tục là điểm đến của các nhà đầu tư.

Kinh tế Việt Nam ổn định với động lực chính từ FDI

Kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dự kiến, vốn FDI là điểm sáng đáng kể nhất trong tình hình vĩ mô 6 tháng đầu năm. Những đánh giá này từ phía các định chế tài chính quốc tế đang củng cố thêm niềm tin về đà hồi phục kinh tế ổn định.

Ngân hàng thế giới đánh giá, FDI lại chính là điểm sáng trong tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam 6 tháng đầu năm. Cách đây ít ngày, theo công bố của Bộ Kế hoạch Đầu tư, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và bổ sung tuy giảm đến 35,3%, nhưng vốn thực hiện chỉ giảm 0,9%, cho thấy hiệu quả giải ngân vẫn ổn định. Điểm đáng mừng là vốn FDI có những thay đổi tích cực về chất. Giảm mạnh ở bất động sản, thu hẹp chỉ còn 10% và chuyển dịch tích cực sang chế biến chế tạo với 70%, trong khi đây chính là lĩnhvực tạo tăng trưởng thực sự cho nền kinh tế. Những đánh giá này phần nào xua tan những lo ngại về tình hình dòng vốn FDI gặp trở ngại do căng thẳng tại Biển Đông và các vụ gây rối ở một số khu công nghiệp vừa qua. Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho biết: "6 tháng đầu năm, vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục ổn định. Việt

Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài và như chúng ta đã biết hoạt động xuất khẩu của khối này trong nửa đầu năm đóng góp đáng kể cho xuất khẩu nói chung của Việt Nam". Giá trị xuất khẩu khu vực FDI trong 6 tháng đầu năm đã tăng đến hơn 16% so với cùng kỳ năm 2013, đóng góp phần nhiều vào con số xuất siêu ghi nhận nửa đầu năm. Các định chế tài chính nước ngoài cũng đồng thời giữ nguyên dự báo tăng trưởng cho kinh tế Việt Nam trong cả năm 2014.

Thời gian qua, mặc dù có những căng thẳng với Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam không thay đổi mục tiêu tăng trưởng 5,8% cho cả năm của mình. Việc các định chế tài chính quốc tế tiếp tục tin tưởng, giữ nguyên dự đoán tăng trưởng càng củng cố hơnniềm tin nền kinh tế hoàn toàn có thể về đích 2014 với mục tiêu Chính phủ đặt ra. Ông Sandeep Mahajan, Chuyên gia Kinh tếtrưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng: "Việt Nam có thể làm nhiều hơn thế. Với môi trường chính sách như hiện tại,chúng tôi tin là Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 6% trong ngắn hạn". 6 tháng đầu năm, dù nhận định tình hình vĩ mô sẽ tiếp tục ổn định và được củng cố, nhưng các định chế nước ngoài đánh giá tốc độ hồi phục kinh tế còn chậm, chưa tương xứng tiềm năng. Sức cầu trong nước yếu đang là lý do cản trở chính, nhưng để giải bài toán tăng trưởng cần một cái nhìn tổng thể cho nền kinh tế. Ông Tomoyuki Kimura,Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á ADB tại Việt Nam cho biết: "Nhìn tổng thể, thách thức với kinh tế Việt Nam lúc này vẫn phải là đẩy nhanh tốc độ cơ cấu lại ở ba lĩnh vực chính: ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công". Đồng quan điểm với Giám đốc ADB, Ngân hàng Thế giới cũng khẳng định triển vọng dài hạn phụ thuộc vào việc Việt Nam có thể nhanh chóng giải quyết những vấn đề cơ cấu của nền kinh tế đến đâu. Như

vậy, tái cơ cấu, theo các tổ chức nước ngoài vẫn là yếu tố then chốt để thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Toàn cầu hoá và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khácbiệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó.

Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số khía cạnh về ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế đến quan hệ cạnh tranh.

 

1. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế

Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kình tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế (1). Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây. Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làmđiểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranhngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu

hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là ‘‘trò chơi’‘ hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực,những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động củathương mại và đầu tư quốc tế (2). Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi và phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập. Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liênlạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi íchmà họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển. Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là: sự ra đời của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế;sự xuất hiện liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt pháp lý… Ngày nay,bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành thắng lợi trên thị trường khu vục và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.

2 - Về một số vấn đề liên quan đến Việt Nam

Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 nêu rõ, phải ‘‘Chủ độnghội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển…Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chế lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ’‘(3). Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa qua (2001- 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sự cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp(4). Từ đó nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn là ‘‘phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại... Năm 2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với với việc thực hiện cam kết về lộ trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam á(AFTA) và phát triển các quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm trở thành thành viên của tổ chức này’‘(5). Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất, thì cho đến cuối năm 2003, Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế.

Một là, những vướng mắc về nhận thức.

Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sáchở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề nên hội nhậpnhư thế nào(6) Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng loạt vấn đềcụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại? Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp định đa phương, khu vực và song phương, thông quaviệc đơn phương tự do hóa, hay thông qua việc kết hợp các yếu

tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện pháp nào? v.v..

Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng cạnh tranh(7)

Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch (bao gồm kim ngạch xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người; tăng trưởng kimngạch xuất khẩu tính theo đầu người, thu nhập từ du lịch tính theo đầu người; tổng kim ngạch dịch vụ xuất khẩu): Tính đến giữa năm 2003, Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu chỉ ở mức trung bình yếu trong khu vực châu Á, với tỷ lệ khoảng 45% GDP. Trong khi đó tỷ lệ này củaThái Lan là 55%, Xin-ga-po là 152%, Ma-lai-xi-a là 114% và Trung Quốc là 22%. Năm 2001, Việt Nam nhập siêu 1,2 tỉ USD, bằng 8% xuất khẩu, năm 2002 là 3 tỉ USD, bằng 18% xuất khẩu; năm 2003 lên tới 4,5 tỉ USD (về số tuyệt đối là năm cao nhất từ trước đến nay, bằng 23% xuất khẩu và 11% GDP(8)

Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan đến các chỉ số: hoàn thành vốn gộp, tổng đầu tư cố định của tư nhân, tăng trưởng tổng đầutư trong nước, đầu tư nước ngoài thuần-tính theo tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội địa của Việt Nam đạt tỷ lệ 25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN (23 -24%), nhưng đầu tư nước ngoài (FĐI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở mức cao (năm 1995, một đồng tăng trưởng cần 3,4 đồng, năm 2001 cần trên 5 đồng, năm 2002 - 2003 giảm không đáng kể(9).

Về khu vực tài chính (liên quan đến các chỉ số: tiền và tiền tương đương được tính bằng % của GDP; tín dụng trong nước từ khu vựcngân hàng; tín dụng cấp cho khu vực tư nhân; đánh giá mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế; tổng tiết kiệm trong nước): Vàonăm 2000, Việt Nam được đánh giá là nước có tỷ lệ tiết kiệm cao, xếp hạng 49/147 nước. Tuy nhiên, khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vựctư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức79/127 nước. Cho đến cuối năm 2003, ‘‘tình hình tài chính - tiền tệ vẫn còn là yếu tố thiếu vững chắc, chứa đựng mầm mống

có thể gây mất cân đối kinh tế vĩ mô; nổi lên là: nguồn thu ngân sách chưa vững chắc, tỷ lệ thu nội địa còn thấp; trong hệthống tài chính - tín dụng, tỷ lệ nợ xấu tuy có giảm nhưng vẫncòn cao, nợ chưa thanh toán trong xây dựng cơ bản khá lớn, việc sử dụng tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn vượt quá giới hạn an toàn, lãi suất tín dụng quá cao so với khả năng sinh lời của các doanh nghiệp...’‘(10).

Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số: lạm phát, thâm hụt ngân sách, tổng thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu từ tư nhân hóa): Phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức26% - mức quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).

Về quy chế môi trường kinh doanh (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng doanh nghiệp mới thành lập; về xử phạt hành chính; chỉ số về nhận thức tham nhũng; chỉ số về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; về xử lý quan liêu của chính phủ; mức độ hoạt động của kinh tếngầm; chỉ số về tự do kinh tế): Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở cửa của nền kinh tế. Vào năm2001, chỉ số nhận thức về tham nhũng của Việt Nam ở mức 75/91 nước; chỉ số di sản về tự do kinh tế ở mức 144/149 nước. Tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 1l-2003) Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi), nhưng dư luận xã hội chorằng luật này chưa đáp ímg được các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanhcủa các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản,cơ chế bao cấp, ‘‘xin cho’‘ và các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh. Những hạn chế này cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng và tiêu cực vốn còn đang rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.

Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng; số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu dân; tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Cho đến

cuối năm 2003, vẫn chưa tạo được những cơ chế thiết thực để gắn kết khoa học - công nghệ với sản xuất, kinh doanh; chưa hình thành được thị trường khoa học - công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sảnphẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh vàsự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tốbao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ(11).

Về công nghệ thông tin và truyền thông (bao gồm các chỉ tiêu: số máy tính cá nhân trên 1000 người; số thuê bao In-tơ-nét; chi phí gọi điện thoại trong nước và quốc tế; xếp hạng về sự sẵn sàng trong kinh doanh điện tử...): Nếu so với trước đây, tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh; nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông tin và truyền thông, do chưasẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao...

Về kết cấu hạ tầng (bao gồm các chỉ số như đường đã được lát nhựa hoặc bê-tông hóa trên tổng số đường hiện có; số km2 đường đượclát tính bình quân theo đầu người; mật độ điện thoại cố định; mật độ điện thoại di động; tiêu thụ điện năng trên đầu người...): Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước; chỉ số về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 39/kwh (trong khi Ca-na-da là 17000 kwh/năm,Mỹ là 14000 kwh/năm, Trung Quốc và 926  Kwh/năm, Hồng Kông là 5700 kwh/năm, Nhật Bản là 8200 kwh/năm, Ma-lai-xi-a là 2800 kwh, Thái Lan là 1600 kwh, Xin-ga-po 8100 kwh, Cam-pu-chia 20 kwh).

Về nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển con người, tỷ lệ lao độngnữ, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ không được vào trung học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất xám ra nước ngoài): Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại

hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối bảng.

3. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình hình làdo Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ yếu vẫn là do nguyên nhân chủquan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết trong hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứngkịp nhu cầu hình thành và phát triển của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưađủ sức kiểm soát và ngăn chặn được các ‘‘thị trường ngầm’‘ gâynhiều tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng lợi ích và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những hình thái biến tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm khả năng phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc phục. Trong một số lĩnh vực, sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầuhết sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá quốc tế, dẫn đến làm tăng chi phí ‘‘đầu vào’‘ của các doanh nghiệp. Trong khi đó, chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn ‘‘đủng đỉnh’‘để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn không có hiệu quả. Cơ quan quản lýnhà nước các cấp nhìn chung vẫn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ qua hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của mình. Biểu hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực, chưa xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thốngnhất phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị

trường trong điều kiện toàn cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất lãng phí - nhất là đối vớiđất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân sách,...

Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.

Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế ViệtNam trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chủ yếu.

Trước hết, cần thống nhất nhận thức uy thế lớn nhất của nền kinh tế thí trường chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó. Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định phápluật minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.

Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh. Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và Nhà nước; đồng thời, hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ và hoàn thiện.

Ba là, có ‘‘công nghệ ‘‘ xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn mực hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Theođó, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với kinh tế và biện pháp hành chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác định rõ chủ thể thị trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt chẽ để bảo đảm các chủ thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện quan trọng hàng đầu đểduy trì cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời phải chú trọng tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với trật tự thị trường, thúc đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh và chống độc quyền - làm cho luật nàycủa Việt Nam ăn khớp với các quy tắc thống nhất của khu vực vàthế giới. Về các biện pháp kinh tế, cần bảo đảm nguyên tắc không mâuthuẫn với các biện pháp pháp chế, trên cơ sở đó xây dựng nhữngnguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng... để thúc đẩy cạnh tranh; đồng

thời, tất cả các chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh, như chính sách phát triển các ngành, chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách việc làm và tiền lương,... Về các biện pháp hành chính, cần chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các biện pháp pháp chế và các biện pháp kinh tế; trên cơ sở đó, xác định rõ chức năng và quyền hạn của các cơ quan chuyên trách và các chủ thể khác khi họ trực tiếp dùng quyền lực hànhchính để can thiệp, giám sát và quản lý các hành vi thị trườngcủa các doanh nghiệp. Các chức năng và quyền hạn đó đều phải được quy định rõ ràng trong luật hành chính và có những điều khoản tương ứng trong Luật Cạnh tranh.

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách cạnh tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức chuyên trách xây dựng luật và chính sách cạnh tranh. Trong quá trình này, cần chú trọng tínhquốc tế hóa của luật và chính sách cạnh tranh của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU,Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD...); đồng thời, đặc biệt lưu ý đến mối quanhệ giữa chính sách và Luật Cạnh tranh của Việt Nam với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO,...

Giới thiệu chung về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI:

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được hợp tác nghiên cứu và trợ giúp của Cơ quan hợp tác Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ US-Aid, đã xác định các chỉ số (indicators) để đánh giávà xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh, đó chính là chỉ số năng lực cạnhtranh cấp tỉnh PCI.PCI là từ viết tắt của cụm từ Tiếng Anh “Provincial Competitiveness Index”. Nó được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 gồm tám chỉ số thành phần, mỗi chỉ số thành phần lý giải sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh, thành phố của Việt Nam, theo đó đã có 47 tỉnh, thành phố của Việt Nam được xếp hạng và đánh giá. Lần thứ hai, năm 2006 hai lĩnh vực quan trọng của môi trường kinh doanh- Thiết chế pháp lý và Đào tạo lao động- được đưa vào xây dựng chỉ số PCI.Từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đều được đưa vào bảng xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường thêm.

 Năm 2009, phương pháp luận PCI được điều chỉnh để phản ánh kịp thời sự phát triển năng động của nền kinh tế và các thay đổi trong môi trường pháp lý tại Việt Nam. Sau khi loại bỏ chỉsố Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, hiện nay, PCI còn 9 chỉ số thành phần, theo đó, một tỉnh được đánh giá là thực hiện tốt tất cả 9 chỉ số thành phần này cần có: 1) Chi phí gia nhập thị trường thấp; 2) Doanh nghiệp dễ dàng Tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn định; 3) Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận công bằng các thông tin cần cho kinh doanh và các văn bản pháp luật cần thiết; 4) Thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính và thanh tra kiểm tra hạn chế nhất (Chi phí thời gian). 5) Chi phí không chính thức ở mức tối thiểu; 6) Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong; 7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, do khu vực nhà nước và tư nhân cungcấp; 8) Có chính sách đào tạo lao động tốt;  9) Hệ thống pháp luật và tư pháp để giải quyết tranh chấp công bằngvà hiệu quả.Phương pháp tiếp cận PCI có bốn đặc điểm đáng chú ý: Thứ nhất, chỉ số PCI khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng công tác điều hành bằng cách chuẩn hóa điểm số xung quanh các thực tiễn điều hành kinh tế tốt sẵn có tại Việt Nam mà không dựa trên các tiêu chuẩn điều hành kinh tế lý tưởng nhưngkhó đạt được, do đó đối với từng chỉ tiêu, có thể xác định được một tỉnh “ngôi sao” hoặc tỉnh đứng đầu của chỉ tiêu đó, và về lý thuyết bất kỳ tỉnh nào cũng có thể đạt được điểm số PCI tuyệt đối là 100 điểm bằng cách áp dụng các thực tiễn tốt sẵn có.Thứ hai, bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban đầu (các nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong mộttỉnh và gần như không thể thay đổi trong ngắn hạn như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô của thị trường và nguồn nhân lực), chỉ số PCI giúp xác định và hướng vào các thực tiễn điềuhành kinh tế tốt có thể đạt được ở cấp tỉnh.Thứ ba, bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết quả phát triển kinh tế, chỉ số PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn điều hành kinh tế tốt đối với thu hút đầu tư và tăng trưởng. Nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa thực tiễn điều hành kinh tế tốt với đánh giá của doanh nghiệp, và

sự cải thiện phúc lợi của địa phương. Mối liên hệ cuối cùng này đặc biệt quan trọng vì nó cho thấy các chính sách và sáng kiến thân thiện với doanh nghiệp khuyến khích họ hoạt động theo hướng đem lại lợi ích cho cả chủ doanh nghiệp, người lao động và cộng đồng thông qua tạo thêm việc làm và tăng thu nhậpcho cả nền kinh tế. Thứ tư, các chỉ tiêu cấu thành chỉ số PCI được thiết kế theo hướng dễ hành động, đây là những chỉ tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh đưa ra các mục tiêu phấn đấu và theo dõi được tiến bộ trong thực hiện. Các chỉ tiêu này cũng rất thực chất vì được doanh nghiệp nhìn nhận là các chính sách then chốt đối với sự thành công của công việc kinh doanh.

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH THU HÚT FDI

Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang trở nên gay gắt hơn khi nền kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục.Tuy vậy, nạn thất nghiệp cao là vấn đề thời sự đối với các nước công nghiệp phát triển - nơi cung cấp hơn 50% vốn FDI toàn cầu - là chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch có xu hướng trở lại đãkhiến nguồn cung FDI toàn cầu chưa thể tăng nhiều.Như vậy trong khi nhiều nước ASEAN đã cải thiện môi trường đầutư tạo nên lực hấp dẫn đối với FDI thế giới, một số yếu tố củamôi trường đầu tư ở nước ta, nhất là hệ thống luật pháp và thủtục hành chính, vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng các nhà đầu tư lớn. Trong bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới (WB) về môi trường kinh doanh toàn cầu công bố ngày 29-10-2013, Việt Nam đứng thứ 99 trên 189 nền kinh tế. WB nhận định, thứ hạng của Việt Nam không thay đổi dù từ năm 2005 đến nay đã thực hiện 21cải cách, nhiều nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Theo nhận xét của nhiều chuyên gia, so với các nước trong khu vực, Việt Nam chậm hơn trong cải thiện môi trường kinh doanh, như Campuchia tăng 23 bậc. Indonesia và Philippines tăng 19 bậc trên bảng xếp hạng về môi trường kinh doanh toàn cầu.Kết quả được công bố tháng 3-2013 của Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI) qua khảo sát 8.053 doanh nghiệp dân doanh và 1.540 doanh nghiệp FDI, cho thấy cảm nhận của doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI khá tương đồng. Đó là những thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, thuế, đất đai, môi trường, xây dựng, hải quan... là những "nút thắt" cầnđược tháo gỡ để cải thiện môi trường đầu tư. Do vậy, vấn đề cấp thiết là các bộ, ngành, chính quyền tỉnh, thành phố phải

tự nhận biết những điểm yếu của công chức và bộ máy hành chínhđối với việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là thủ tục hànhchính; hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp FDI triển khai dự án và khắc phục khó khăn trong kinh doanh; xử lý nhanh và có kết quảnhững vấn đề nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp FDI kiến nghị. Quan tâm đến đánh giá môi trường đầu tư của các tổ chức quốc tế, xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, ý kiến của cáchiệp hội ngành nghề nước ngoài và trong nước tại các cuộc đối thoại là cần thiết. Nhưng chừng nào lãnh đạo bộ và UBND tỉnh, thành phố chưa coi trọng việc tự đánh giá năng lực của bộ máy và công chức sẽ không thể đề ra được giải pháp cơ bản để cải thiện môi trường đầu tư cả nước và từng địa phương. Nhà đầu tưnước ngoài đến nước ta bắt đầu từ cuộc gặp lãnh đạo UBND tỉnh,thành phố để trình bày ý tưởng dự án, sau đó gặp các sở, ngành. Cũng có trường hợp tiếp cận từ cơ quan đầu tư rồi mới đến lãnh đạo tỉnh, thành phố. Song nhiều trường hợp việc chấp nhận ý tưởng dự án khá nhanh và dễ dàng tùy thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư, chưa biết năng lực của nhà đầu tư có đáp ứng được quy mô của dự án không. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng lựa chọn đúng nhà đầu tư và dự án là nhân tố quyếtđịnh bảo đảm thành công. Do vậy cần thận trọng hơn trong các buổi tiếp xúc và không nên đưa ra cam kết khi chưa biết rõ ý đồ và tiềm lực của nhà đầu tư. Vấn đề đặt ra hiện nay là đổi mới đồng bộ và nhanh hơn công tác quản lý nhà nước đối với FDI. Bộ Kế hoạch - Đầu tư đang trong tiến trình sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, sẽ liên quan đến một sốquy định tại các luật khác. Do đó, chỉ đạo của Thủ tướng tại cuộc họp tổng kết 25 năm đầu tư nước ngoài "chính sách và luậtpháp mới phải tạo thuận lợi hơn và có lợi hơn cho nhà đầu tư và doanh nghiệp": Đổi mới cơ bản phương thức xúc tiến đầu tư, quan trọng nhất là quảng bá hình ảnh đất nước, địa phương, thông qua internet để cung cấp thông tin nhà đầu tư cần lựa chọn dự án, quyết định địa điểm đầu tư. Tiếp tục cải tiến côngtác thẩm định dự án FDI theo hướng giảm thiểu thủ tục, hồ sơ, chỉ giữ lại nội dung cần thiết để tính toán hiệu quả kinh tế -xã hội, bảo đảm lợi ích quốc gia, địa phương, giảm thiểu thời gian thẩm định, cấp phép để tạo điều kiện cho nhà đầu tư sớm đưa dự án vào kinh doanh. Để thu hút TNCs (công ty xuyên quốc gia) vào các dự án FDI có hàm lượng công nghệ cao, giá trị giatăng lớn, phải có cam kết rõ ràng về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Cần coi trọng hơn việc hỗ trợ nhà đầu tư, phân loại các dự án FDI để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và

tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện dự án và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đổi mới công tác thông tin hoạt động FDI để đảm bảo tính hệ thống, nhất quán, dễ tổnghợp, phân tích và được cập nhật. Coi trọng việc đúc rút kinh nghiệm, áp dụng rộng rãi mô hình và phương thức quản lý nhà nước có hiệu năng đã được thực tiễn kiểm chứng.