KHẢO SÁT KHẢ NĂNG NUÔI CẤY PHÔI CÂY CÓC ĐỎ ...
-
Upload
khangminh22 -
Category
Documents
-
view
2 -
download
0
Transcript of KHẢO SÁT KHẢ NĂNG NUÔI CẤY PHÔI CÂY CÓC ĐỎ ...
299
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 17, Số 4A; 2017: 299-310 DOI: 10.15625/1859-3097/17/4A/13231
http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG NUÔI CẤY PHÔI CÂY CÓC ĐỎ
(Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845) IN VITRO
Nguyễn Nhật Nhƣ Thủy
1*, Lê Thị Thủy Tiên
2, Nguyễn Xuân Hòa
1,
Nguyễn Xuân Vỵ1, Nguyễn Trung Hiếu
1
1Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
*E-mail: [email protected]
Ngày nhận bài: 20-9-2017
TÓM TẮT: Cóc đỏ (Lumnitzera littorea) là loài cây ngập mặn quý hiếm và bị đe dọa tiệt
chủng. Tỷ lệ nảy mầm thấp là nguyên nhân chính khiến việc tái sinh tự nhiên loài này kém. Với
mục tiêu tạo cơ sở khoa học xây dựng quy trình nhân giống nhanh bằng kỹ thuật nuôi cấy phôi,
nghiên cứu xác định điều kiện môi trường phù hợp cho sự nảy mầm của phôi cây cóc đỏ được thực
hiện. Phôi được khử trùng bề mặt. Tiếp đó, sự phát triển của phôi in vitro được khảo sát lần lượt qua
điều kiện môi trường nuôi cấy: (1) Môi trường khoáng và vitamin (MS, ½ MS, WPM); (2) Môi
trường khoáng bổ sung sucrose với 3 nồng độ (20, 30 và 40 g/l); và (3) Môi trường khoáng bổ sung
sucrose và chất điều hòa sinh trưởng thực vật GA3, IAA, BA riêng lẻ ở các nồng độ khác nhau (0,5;
1,0; 1,5; 2,0 mg/l) hoặc tổ hợp IAA (0,5; 1,0; 2,0; 3,0 mg/l) với BA 0,5 mg/l. Kết quả thí nghiệm
trước là tiền đề của thí nghiệm sau. Các thí nghiệm này được duy trì ở điều kiện tối, nhiệt độ 25 ±
2oC, pH môi trường 5,8 trong vòng 14 ngày. Kết quả khảo sát ở thí nghiệm đầu tiên về ảnh hưởng
của môi trường khoáng và vitamin đến sự phát triển phôi cho thấy phôi cóc đỏ đạt nảy mầm cao
nhất (50%) tại môi trường MS. Thứ hai, sự gia tăng nồng độ sucrose bổ sung vào môi trường MS
làm giảm khả năng phát triển phôi. Thứ ba, sự bổ sung riêng lẻ từng chất điều hòa sinh trưởng vào
môi trường MS có tác dụng khác nhau đối với sự phát triển phôi cóc đỏ. GA3 ở 2 nồng độ cao
(1,5 mg/l và 2,0 mg/l) hoặc BA ở nồng độ thấp (1 mg/l) có khả năng cải thiện tỷ lệ nảy mầm. Trong
khi đó, IAA không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi cóc đỏ một cách rõ rệt. Sự bổ sung kết hợp
IAA/BA giúp tăng tỷ lệ nảy mầm. Thành phần môi trường nuôi cấy phôi cho hiệu quả nảy mầm cao
nhất là môi trường khoáng và vitamin MS, có bổ sung sucrose 20 g/l, kết hợp IAA 0,5 mg/l và BA
0,5 mg/l với tỷ lệ nảy mầm của phôi đạt 88,89% sau 14 ngày nuôi cấy. Cuối cùng, sau 3 tháng tiếp
tục nuôi cấy in vitro, các cây cóc đỏ con thu được vẫn đạt tỷ lệ sống 100%, chiều cao trung bình đạt
2,103 ± 0,159 cm, tốc độ tăng trưởng 0,453 ± 0,081 cm/tháng và đã có 1 lá thật. Như vậy, kỹ thuật
nuôi cấy phôi in vitro giúp cải thiện khả năng nảy mầm của phôi cây cóc đỏ.
Từ khóa: Lumnitzera littorea, nuôi cấy phôi, IAA, BA, GA3.
MỞ ĐẦU
Cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack) Voigt.
1845) là loài cây ngập mặn thật sự (true
mangrove). Cóc đỏ có vai trò quan trọng đối
với ổn định môi trường và phát triển kinh tế -
xã hội ở vùng ven bờ [1]. Gỗ cóc đỏ rất có giá
trị vì chúng rất bền chắc, đẹp và có mùi thơm.
Hoa cóc đỏ màu đỏ, đẹp nên có giá trị trong
nghệ thuật, trang trí [2]. Ngoài ra, các hợp chất
từ dịch chiết lá cóc đỏ có khả năng kháng
khuẩn [3]. Trên thế giới, loài cóc đỏ phân bố rất
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
300
ít ở vùng Đông Phi, Bắc Australia, Polynesia và
Đông Nam Á [1, 4]. Những tác động của con
người và thiên nhiên đã làm cho những quần
thể loài này bị cô lập và phân mảnh, điều này
có thể dẫn đến giảm khả năng sinh sản hoặc tồn
tại của chúng. Do bị đe dọa tuyệt chủng cao,
loài cóc đỏ đã được đưa vào sách đỏ cần được
bảo tồn ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam [1, 5]. Trong gần 10 năm qua, các
nhà khoa học Việt Nam đã có những công bố
liên quan đến khả năng tái sinh tự nhiên của
loài cóc đỏ. Độ hữu thụ của hạt phấn cóc đỏ ở
Thừa Thiên-Huế rất thấp, chỉ đạt khoảng 9,85%
[6]. Nghiên cứu về hiện tượng học sinh sản của
loài này ở vịnh Cam Ranh cho thấy chỉ có
52,67% trái không bị sâu [7]. Tỷ lệ nảy mầm
của hạt cóc đỏ chỉ đạt 2% sau 3 tháng gieo [8].
Trong một nghiên cứu khác, một số nhân tố
sinh thái tự nhiên như yếu tố mùa, chất hữu cơ
và pH đất cũng có ảnh hưởng đến khả năng tái
sinh tự nhiên của loài cóc đỏ [9]. Thêm vào đó,
cây con trong tự nhiên thường bị cua, còng cắn
đứt [8]. Vì vậy, khả năng tái sinh tự nhiên của
loài cóc đỏ rất kém, khiến cho công tác trồng
phục hồi các quần thể cóc đỏ gặp rất nhiều khó
khăn do thiếu nguồn giống.
Nuôi cấy phôi là kỹ thuật kích thích phôi
phát triển thành cây con trong điều kiện in
vitro. Kỹ thuật này tách kịp thời những phôi có
nguy cơ không hình thành cây con, thường gặp
ở những loài có phôi yếu hoặc loài lai. Trong
trường hợp nuôi cấy phôi yếu, nguyên nhân bắt
nguồn từ hạt có khả năng nảy mầm thấp do
thiếu dinh dưỡng hoặc yếu tố sinh lý, như hạt
của quả đầu mùa, quả hạch và nho chín sớm.
Tukey (1933) quan sát thấy một số giống sơ ri
ngọt chín sau 50 ngày nở hoa nhưng hạt của
chúng chứa phôi chưa phát triển hoàn thiện đều
không nảy mầm. Tuy nhiên, nếu những phôi
này được tách ra và nuôi cấy thì phôi có thể
phát triển thành cây nguyên vẹn. Kể từ đó nuôi
cấy phôi được thực hiện như là phương pháp
phổ biến ở lĩnh vực trồng cây ăn quả như bơ
(Skene & Barlass (1983), Torres và nnk.,
(1986)), đào, xuân đào và mận (Ramming
(1985)), nho (Gray và nnk., (1987), Tsolova,
(1990)), Pelargonium (Scemama & Raquin
(1990)) và Ornithogalum (Niederwieser và
nnk., (1990)) [10]. Đối với loài lai, Laibach
(1925) đã ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy phôi
nhằm phục dựng cây lai từ phép lai giữa Linum
perenne × L. austriacum. Mặc dù quả của cây
lai phát triển bình thường, nhưng hạt lại bị teo
và nhẹ hơn so với hạt bình thường. Những hạt
này không thể nảy mầm trong đất nhưng phôi
được tách ra từ hạt lại nảy mầm bình thường
trên miếng bông gòn thấm dung dịch sucrose.
Thành công này là viên gạch đầu tiên, mở ra
hướng đi mới cho hàng loạt những ứng dụng kỹ
thuật nuôi cấy phôi trong công tác phục dựng
cây lai của nhiều chi khác như Solanum
(Jorgensen (1928)), Oryza (Niles (1951)),
Phaseolus (Honma (1955)), Medicago
(Fridriksson & Bolton (1963)), Hordeum
(Kasha & Kao (1970), Bozorgipour & Snape
(1991)), Populus (Thakur & Khosla (1991),
Raquin và nnk., (1993)), Helianthus (Krauter &
Friedt (1990), Krauter và nnk., (1991))… [10].
Nuôi cấy phôi bao gồm những nghiên cứu về phá vỡ miên trạng hạt, kiểm tra khả năng sống của hạt, rút ngắn quy trình nuôi cấy một cách hiệu quả… Bài báo này lần đầu tiên nêu lên kết quả nghiên cứu về khả năng nuôi cấy phôi in vitro của một loài cây ngập mặn - Lumnitzera littorea. Từ đó, điều kiện và môi trường nuôi cấy phù hợp với phôi cây cóc đỏ đã được xác định, góp phần tạo nguồn nguyên liệu khởi đầu cho kỹ thuật vi nhân giống loài cây quý này.
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
Vật liệu
Trái Cóc đỏ (Lumnitzera littorea) được thu từ rừng ngập mặn tự nhiên ở khu vực vịnh Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa). Thời điểm thu trái vào tháng 6/2016. Ước tính thời gian ra hoa đến khi thu trái khoảng 60 ngày. Mẫu trái cóc đỏ được rửa sạch, hong khô trong mát và bảo quản trong túi nhựa PE ở nhiệt độ phòng. Trái được lột bỏ lớp vỏ xơ bên ngoài. Sử dụng kềm bấm nhỏ tách vỏ cứng làm đôi, thu hạt một cách cẩn thận, tránh làm tổn thương hạt. Hạt cóc đỏ có kích thước rất nhỏ với chiều dài chỉ khoảng 4 - 5 mm và đường kính khoảng 1 mm (hình 1), nên việc tách phôi từ hạt gặp khó khăn và phôi thu được rất dễ bị tổn thương. Do đó, để đảm
Khảo sát khả năng nuôi cấy phôi cây cóc đỏ…
301
bảo được sự toàn vẹn của phôi, hạt được sử dụng trực tiếp trong các thí nghiệm nuôi cấy
tiếp theo.
theo. 1
2 3
Hình 1. a) Trái Cóc đỏ; b) Trái Cóc đỏ chứa hạt; c) Hạt Cóc đỏ 4
2. Phƣơng pháp 5
2.1. Bố trí thí nghiệm 6
a b c
Hình 1. a) Trái cóc đỏ, b) Trái cóc đỏ chứa hạt, c) Hạt cóc đỏ
Phƣơng pháp
Bố trí thí nghiệm
Hiệu quả của khử trùng bề mặt hạt đến tính sống của phôi cóc đỏ
Thí nghiệm được bố trí thành 2 nghiệm thức gồm: Hạt được khử trùng bề mặt và hạt không được khử trùng bề mặt (đối chứng). Mỗi nghiệm thức gồm 45 hạt, lặp lại 3 lần.
Đối với nghiệm thức hạt được khử trùng, tiến trình khử trùng bề mặt hạt bằng hóa chất được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Cho hạt vào lắc trong nước cất tiệt trùng và vài giọt Tween 20 với thời gian 10 phút. Tiếp tục lắc hạt trong dung dịch Ethanol 70% (v/v) với thời gian 1 phút. Sau cùng hạt cóc đỏ được lắc trong dung dịch NaOCl 10% (v/v) khoảng 5 phút và rửa lại 6 lần bằng nước cất tiệt trùng. Đối với lô đối chứng, hạt sau khi tách từ trái không được khử trùng bề mặt.
Tiếp đó, trắc nghiệm tính sống của phôi cây cóc đỏ ở cả 2 nghiệm thức nhằm đánh giá hiệu quả của khử trùng đến tính sống của phôi. Mô phôi chết có thể được phát hiện bằng triphenyl tetrazolium chloride (TTC, C19H15ClN4). Hợp chất không màu này bị khử tạo thành màu đỏ formazan bởi các tế bào còn sống [11]. Đối với phôi cóc đỏ, chúng tôi thực hiện trắc nghiệm tính sống bằng cách ngâm hạt cắt dọc với dung dịch TTC 1% trong tối. Thời gian ngâm 24 giờ [11]. Sự sống của phôi ở 2 nghiệm thức được ghi nhận khi có sự xuất hiện màu đỏ trên hạt.
Cuối cùng, phôi của nghiệm thức khử trùng bề mặt được nuôi cấy trên môi trường MS
(Murashige và Skoog (1962)) để đánh giá tỷ lệ phôi bị tạp nhiễm. Điều kiện nuôi cấy được duy trì ở điều kiện tối hoàn toàn và nhiệt độ là 25 ± 2oC trong vòng 14 ngày. Tỷ lệ phôi bị tạp nhiễm được ghi nhận khi có sự phát triển của vi sinh vật. Thí nghiệm gồm 45 phôi, lặp lại 3 lần.
Ảnh hưởng của môi trường khoáng đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ
Trước hết, chúng tôi thử nghiệm nuôi cấy phôi trên 3 loại môi trường khác nhau gồm ½ MS, MS và WPM nhằm xác định môi trường khoáng và vitamin phù hợp với sự phát triển phôi cóc đỏ. Môi trường khoáng được thử nghiệm gồm 3 môi trường: MS, ½ MS và WPM (Lloyd và McCown (1981)) bổ sung agar 0,8%. pH môi trường được điều chỉnh ở mức 5,8 bằng NaOH 1N và HCl 1N trước khi hấp tiệt trùng ở nhiệt độ 121oC, 1 atm trong thời gian 15 phút. Phôi Cóc đỏ được nuôi cấy trong ống nghiệm ở điều kiện tối hoàn toàn và nhiệt độ 25 ± 2oC. Mỗi nghiệm thức gồm 36 phôi, được lặp lại 3 lần. Thời gian thí nghiệm kéo dài 14 ngày. Đánh giá tỷ lệ nảy mầm của phôi cóc đỏ. Sự nảy mầm được ghi nhận khi có sự xuất hiện của rễ mầm, lá mầm. Kết quả môi trường khoáng phù hợp cho sự phát triển phôi được sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo.
Ảnh hưởng của nồng độ sucrose đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ
Môi trường khoáng MS phù hợp với phôi cóc đỏ đã xác định ở thí nghiệm trên được bổ sung sucrose làm nguồn cung cấp cacbon với các nồng độ 20, 30 và 40 g/l. Mỗi nghiệm thức gồm 36 phôi, được lặp lại 3 lần. Thời gian thí
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
302
nghiệm kéo dài 14 ngày. Đánh giá tỷ lệ nảy mầm của phôi cóc đỏ. Môi trường MS bổ sung sucrose ở nồng độ phù hợp sẽ được sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo.
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng thực
vật đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ
Phôi cóc đỏ được nuôi cấy trên môi trường
MS bổ sung sucrose 20 g/l và các chất điều hòa
sinh trưởng khác nhau gồm GA3 (0,5; 1,0; 1,5;
2,0 mg/l) hoặc IAA (0,5; 1,0; 1,5; 2,0 mg/l)
hoặc BA (0,5; 1,0; 1,5; 2,0 mg/l) một cách
riêng lẻ. Riêng đối với 4 nghiệm thức kết hợp
auxin và cytokinin theo các tỷ lệ nồng độ khác
nhau, BA 0,5 mg/l được bổ sung kết hợp với
IAA với 4 nồng độ khác nhau 0,5; 1,0; 2,0 và
3,0 mg/l. Mỗi nghiệm thức gồm 36 phôi, được
lặp lại 3 lần. Thời gian thí nghiệm kéo dài 14
ngày. Đánh giá tỷ lệ nảy mầm của phôi cóc đỏ.
Khảo sát sự tăng trưởng của cây con cóc đỏ in
vitro
Nhằm khảo sát sự tăng trưởng của cây cóc
đỏ in vitro, cây con nảy mầm từ môi trường MS
bổ sung sucrose 20 g/l và kết hợp IAA 0,5 mg/l
với BA 0,5 mg/l (tối ưu dựa trên các thí nghiệm
trước) với đầy đủ rễ mầm ngắn, trụ hạ diệp và 2
lá mầm được cấy chuyền sang môi trường MS
bổ sung agar 0,8%. Điều kiện nuôi cấy cây con
được duy trì ở nhiệt độ 30 ± 2oC, ánh sáng
2.500 ± 100 lux và pH môi trường 5,8 trong
thời gian 3 tháng. Thí nghiệm gồm 30 cây con,
lặp lại 3 lần. Theo dõi và đo đạc tỷ lệ sống, sự
phát triển chiều cao, số lượng lá… của cây con.
Đo đạc các thông số và xử lý số liệu
Ở thí nghiệm đánh giá hiệu quả của khử
trùng bề mặt hạt đến tính sống của phôi cóc
đỏ, tỷ lệ phôi sống được xác định theo công
thức sau:
Tỷ lệ phôi sống (%) = (Số hạt hiện
màu đỏ/tổng số hạt ngâm) × 100
Hàng ngày quan sát và ghi nhận thời điểm
hình thành chồi và rễ từ phôi cóc đỏ ở từng
nghiệm thức. Ở các thí nghiệm khảo sát ảnh
hưởng môi trường khoáng, nồng độ sucrose và
chất điều hòa sinh trưởng thực vật đến sự phát
triển phôi cây cóc đỏ, tỷ lệ nảy mầm của phôi
cóc đỏ (%) sau 14 ngày nuôi cấy được xác định
theo công thức sau:
Tỷ lệ nảy mầm của phôi (%) = (Số phôi
hình thành rễ mầm, lá mầm/tổng số phôi
nuôi cấy) × 100
Ở thí nghiệm khảo sát tăng trưởng của cây
con cóc đỏ, sự tăng trưởng của cây con được
đánh giá theo các thông số sau:
Tỷ lệ sống (%) = (Số cây sống khi kết thúc thí
nghiệm/tổng số cây ban đầu)*100
Chiều cao của cây con (l, cm) được đo
bằng thước bên ngoài ống nghiệm, đo khoảng
cách từ cô rễ đến ngọn cây
Tốc độ tăng trưởng (cm/tháng) = chiều cao
cây tháng sau - chiều cao cây tháng trước
Các số liệu thu nhận được thống kê bằng
phần mềm MSTATC. Phân tích số liệu
ANOVA một chiều với bài kiểm định trắc
nghiệm phân hạng LSD (Least Significant
Difference) hoặc Duncan.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hiệu quả của khử trùng bề mặt hạt đến tính
sống của phôi cóc đỏ
Sau 24 giờ ngâm với TTC 1% trong tối,
phôi cóc đỏ bị nhuộm đỏ chứng minh tính sống
của phôi (hình 2). Kết quả trắc nghiệm tính
sống của phôi cóc đỏ được khử trùng đạt
73,33%. Trong khi đó tại nghiệm thức phôi
không được khử trùng (đối chứng), tỷ lệ phôi
sống trung bình đạt khoảng 84,44% (bảng 1).
Tuy nhiên, sự sai khác này không có ý nghĩa
thống kê (P = 0,0667). Vì vậy, hiệu quả của
khử trùng bề mặt không ảnh hưởng đến tính
sống của phôi cóc đỏ.
Trong khi đó, những nghiên cứu trước đây
cho thấy các nguyên nhân dẫn đến khả năng tái
sinh của loài cóc đỏ rất thấp là độ hữu thụ của
hạt phấn cóc đỏ chỉ đạt 9,85%, tỷ lệ trái không
bị sâu là 52,67% và tỷ lệ nảy mầm của hạt chỉ
đạt 2% [6, 9, 10]. Tỷ lệ phôi sống cao ở nghiên
Khảo sát khả năng nuôi cấy phôi cây cóc đỏ…
303
cứu này mở ra một hướng giải pháp tái sinh cho
loài cóc đỏ là phương pháp nuôi cấy phôi in
vitro để tạo ra nguồn cây giống hiệu quả.
Hơn nữa, đối với nuôi cấy mô thực vật nói chung và phôi nói riêng, một trong những yếu tố tác động đến sự thành công chính là quá trình khử trùng bề mặt mô. Sự khó khăn trong việc tạo mẫu khử trùng bắt nguồn từ sự cần
thiết tuyệt đối phải loại bỏ hoàn toàn các vi sinh vật bằng các hóa chất mà không làm chết tế bào trên mô thực vật [12]. Quan sát sự tạp nhiễm từ nghiệm thức phôi được khử trùng bề mặt cho thấy không phát hiện có sự tạp nhiễm từ phôi. Như vậy, quá trình khử trùng bề mặt phôi không ảnh hưởng đến tính sống của phôi cóc đỏ và đáp ứng yêu cầu cho các thử nghiệm nuôi cấy in vitro tiếp theo.
Hình 2. a) Kết quả thí nghiệm trắc nghiệm tính sống của phôi cóc đỏ, b) Hạt cóc đỏ nhuộm đỏ một phần
Bảng 1. Tỷ lệ phôi sống ở các nghiệm thức phôi có khử trùng và không khử trùng
Nghiệm thức Số phôi trắc nghiệm Tỷ lệ phôi sống trung bình (%)
Phôi có khử trùng bề mặt 45 73,33 ± 6,67
Phôi không khử trùng bề mặt (đối chứng) 45 84,44 ± 3,85
Prob. - 0,0667
Ảnh hƣởng của môi trƣờng khoáng đến sự
phát triển của phôi cây cóc đỏ
Sau 14 ngày nuôi cấy, hạt cóc đỏ ở cả ba
nghiệm thức đều nảy mầm. Quá trình nảy mầm
của hạt cóc đỏ nuôi cấy in vitro bắt đầu vào
khoảng ngày thứ 8, hạt trương nước, nứt vỏ và
trụ hạ diệp và rễ mầm xuất hiện (hình 3a, 3b).
Sau 10 đến 12 ngày, trụ hạ diệp kéo dài, xuất
hiện lá mầm màu trắng ngà (hình 3c). Từ ngày
16 đến ngày thứ 21, lá mầm chuyển sang màu
đỏ nhạt được trụ hạ diệp đưa lên cao (hình 3d).
Tuy nhiên, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ ở
mỗi nghiệm thức lại khác nhau (bảng 2). Phôi
cóc đỏ nuôi cấy trên môi trường khoáng MS
đạt tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ cao nhất,
khoảng 50%. Khi thành phần khoáng giảm
xuống một nửa, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ
giảm xuống còn 44,44% ở nghiệm thức ½ MS.
Cuối cùng, tỷ lệ này đạt thấp nhất, 38,89% ở
môi trường WPM. Nhưng sự sai khác của tỷ lệ
phôi hình thành chồi, rễ ở 3 nghiệm thức không
có ý nghĩa thống kê (P = 0,2961). Mặc dù vậy,
với tỷ lệ phôi hình chồi, rễ cao nhất, chúng tôi
quyết định lựa chọn sử dụng môi trường MS
làm môi trường khoáng cơ bản cho những thí
nghiệm tiếp theo.
a b
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
304
1
2
3 Hình 3. Sự nảy mầm của hạt Cóc đỏ: a) Hạt trương phồng; b) Hạt nứt vỏ, xuất hiện rễ mầm; 4
c) Xuất hiện lá mầm; d) Cây con 5
Tuy nhiên, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ ở mỗi nghiệm thức lại khác nhau (Bảng 2). Phôi Cóc 6
đỏ nuôi cấy trên môi trường khoáng MS đạt tỷ lệ phôi 7
a
b
c
Lá mầm
Trụ hạ diệp
Rễ
mầm
Vỏ hạt
d
Hình 3. Sự nảy mầm của hạt cóc đỏ: a) Hạt trương phồng, b) Hạt nứt vỏ, xuất hiện rễ mầm, c) Xuất hiện lá mầm, d) Cây con
Bảng 2. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm ở các nghiệm thức môi trường khoáng khác nhau
Nghiệm thức Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
½ MS 36 5,33 ± 0,58 44,44 ± 4,81
MS 36 6,00 ± 1,00 50,00 ± 8,33
WPM 36 4,67 ± 1,15 38,89 ± 9,62
Prob. - - 0,2961
Ảnh hƣởng của nồng độ sucrose đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ
Đường sucrose đóng vai trò là nguồn cung cấp cacbon và là chất tham gia tạo áp suất thẩm thấu. Khi tăng nồng độ sucrose (20, 30 và 40 g/l) bổ sung vào môi trường MS, khả năng phát triển phôi cóc đỏ giảm xuống (bảng 3). Cụ thể, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ cao nhất, đạt 52,78% ở nghiệm thức sucrose 20 g/l. Tỷ lệ này giảm xuống 33,33% khi nồng độ sucrose tăng lên 30 g/l và thấp nhất ở nghiệm thức
sucrose 40 g/l. Hơn nữa, hình thái cây mầm sau 14 ngày nuôi cấy ở cả ba nghiệm thức có sự tương đồng, đều có rễ mầm, trụ hạ diệp và hai lá mầm. So với đối chứng, kết quả trắc nghiệm phân hạng LSD cho thấy nồng độ sucrose cao (40 g/l) có khả năng ức chế sự phát triển phôi cóc đỏ và sucrose 20 g/l phù hợp với sự phát triển của phôi cóc đỏ. Vì vậy, môi trường MS bổ sung sucrose 20 g/l được sử dụng ở các thử nghiệm ảnh hưởng chất điều hòa sinh trưởng thực vật tiếp theo.
Bảng 3. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm khi bổ sung sucrose ở các nồng độ khác nhau
Nồng độ sucrose Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
Sucrose 20 g/l 36 6,33 ± 0,58 52,78 ± 4,81a
Sucrose 30 g/l 36 4,00 ± 1,00 33,33 ± 8,33bc
Sucrose 40 g/l 36 3,67 ± 1,15 30,56 ± 12,73c
Đối chứng 36 6,00 ± 1,00 50,00 ± 8,33ab
Prob. - - 0,0345
Ghi chú: Các mẫu tự khác nhau biểu diễn mức độ sai biệt có ý nghĩa (theo cột) ở độ tin cậy 95%.
Khảo sát khả năng nuôi cấy phôi cây cóc đỏ…
305
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng thực vật đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ
Đối với nhóm chất điều hòa sinh trưởng gibberellin, GA3 được bổ sung vào môi trường nuôi cấy với 4 nồng độ khác nhau, gồm 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0 mg/l. Một điều thú vị chính là sự phát triển của phôi cóc đỏ ở các nghiệm thức môi trường bổ sung GA3 khác so với đối chứng. Phôi vẫn hình thành rễ mầm và lá mầm nhưng trụ hạ diệp kéo dài hơn. Hơn nữa, kết
quả khảo sát tỷ lệ phôi nảy mầm càng cho thấy tác dụng của GA3 một cách rõ rệt hơn. Sau 14 ngày nuôi cấy, tỷ lệ phôi nảy mầm cao lần lượt ở 2 nghiệm thức GA3 nồng độ cao 1,5 mg/l và 2,0 mg/l, cả hai tỷ lệ đều đạt trên 70%. Ngược lại, tỷ lệ này 2 nghiệm thức GA3 nồng độ 0,5 mg/l và 1,0 mg/l thấp hơn đáng kể, chỉ đạt lần lượt từ 27,78% đến 38,89%. Như vậy, so với đối chứng, môi trường bổ sung GA3 1,5 mg/l có khả năng cải thiện sự nảy mầm của phôi cóc đỏ (P < 0,01) (bảng 4).
Bảng 4. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm khi bổ sung GA3 ở các nồng độ khác nhau
Nồng độ GA3 Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
GA3 0,5 mg/l 36 3,33 ± 1,15 27,78 ± 9,62c
GA3 1,0 mg/l 36 4,67 ± 0,58 38,89 ± 4,81bc
GA3 1,5 mg/l 36 9,33 ± 1,15 77,78 ± 9,62a
GA3 2,0 mg/l 36 8,67 ± 0,58 72,22 ± 4,81a
Đối chứng 36 6,33 ± 0,58 52,78 ± 4,81b
Prob. - - 0,0000
Ghi chú: Các mẫu tự khác nhau biểu diễn mức độ sai biệt có ý nghĩa (theo cột) ở độ tin cậy 99%.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều
hòa sinh trưởng auxin IAA đến sự phát triển phôi cóc đỏ trong điều kiện thí nghiệm được trình bày ở bảng 5. Tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ thấp nhất (33,33%) ở 3 nghiệm thức tương ứng với nồng độ IAA từ 0,5 mg/l đến 1,5 mg/l. Trong khi, nghiệm thức IAA 2,0 mg/l cho tỷ lệ
nảy mầm cao hơn, đạt 47,22%. Nhìn chung, tỷ lệ nảy mầm của phôi cóc đỏ ở các nghiệm thức bổ sung auxin IAA thấp hơn đối chứng. Tuy nhiên, sự sai khác của tỷ lệ này giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê (P = 0,3394). Như vậy, IAA không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi cóc đỏ một cách rõ rệt.
Bảng 5. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm khi bổ sung IAA ở các nồng độ khác nhau
Nồng độ IAA Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
IAA 0,5 mg/l 36 4,00 ± 1,00 33,33 ± 8,33
IAA 1,0 mg/l 36 4,00 ± 1,73 33,33 ± 14,43
IAA 1,5 mg/l 36 4,00 ± 2,00 33,33 ± 16,67
IAA 2,0 mg/l 36 5,67 ± 2,52 47,22 ± 20,97
Đối chứng 36 6,33 ± 0,58 52,78 ± 4,81
Prob. - - 0,3394
Sự bổ sung BA có ảnh hưởng mạnh đến sự
nảy mầm của hạt cóc đỏ. BA được bổ sung vào môi trường nuôi cấy phôi cóc đỏ với 4 nồng độ khác nhau, từ 0,5 mg/l đến 2,0 mg/l. Trong thời gian nuôi cấy, tiến trình nảy mầm của hạt cóc đỏ ở nghiệm thức này khác so với các nghiệm thức trước. Đầu tiên, trụ hạ diệp gia tăng kích thước làm nứt vỏ hạt vào ngày thứ 6. Tiếp đó, vào ngày thứ 8, trụ hạ diệp kéo dài mang theo hai lá mầm xuất hiện. Cuối cùng, đến ngày thứ
14, rễ mầm mới nhú ra. Kết quả thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của các nồng độ BA khác nhau đến tỷ lệ hình thành chồi, rễ của phôi cóc đỏ được trình bày ở bảng 6. Cụ thể, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ cao nhất (86,11%) ở nghiệm thức tương ứng với nồng độ BA 1,0 mg/l. Tiếp đến, tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ vẫn duy trì ở mức cao, đạt khoảng 63,89% ở nghiệm thức BA 0,5 mg/l. Tuy nhiên, khi nồng độ BA tăng lên, tỷ lệ này giảm xuống đáng kể và thấp hơn
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
306
cả đối chứng (50%). Sự sai khác tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ giữa các nghiệm thức có ý nghĩa thống kê (P < 0,01). Như vậy, chất điều hòa
sinh trưởng BA ở nồng độ thấp (1 mg/l) có khả năng kích thích sự phát triển phôi cóc đỏ.
Bảng 6. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm khi bổ sung BA ở các nồng độ khác nhau
Nồng độ BA Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
BA 0,5 mg/l 36 7,67 ± 1,53 63,89 ± 12,73b
BA 1,0 mg/l 36 10,33 ± 0,58 86,11 ± 4,81a
BA 1,5 mg/l 36 4,00 ± 1,00 33,33 ± 8,33c
BA 2,0 mg/l 36 1,33 ± 0,58 11,11 ± 4,81d
Đối chứng 36 6,33 ± 0,58 52,78 ± 4,81bc
Prob. - - 0,0000
Ghi chú: Các mẫu tự khác nhau biểu diễn mức độ sai biệt có ý nghĩa (theo cột) ở độ tin cậy 99%.
Nhìn chung, phôi được nuôi cấy trên môi
trường bổ sung đồng thời IAA và BA phát sinh chồi và rễ đồng thời. Trong thí nghiệm này, BA được sử dụng ở nồng độ 0,5 mg/l kết hợp với IAA nồng độ biến thiên từ 0,5 - 3 mg/l. Kết quả thí nghiệm được trình bày ở bảng 7. Sau 14 ngày nuôi cấy trong ống nghiệm, phôi cóc đỏ hình thành chồi, rễ với tỷ lệ rất cao, đạt 88,89% và 86,11% lần lượt ở nghiệm thức IAA 0,5 mg/l + BA 0,5 mg/l và IAA 1,0 mg/l + BA 0,5 mg/l. Thế nhưng, khi tăng nồng độ IAA lên
đến 2,0 mg/l và 3,0 mg/l tương ứng với các nghiệm thức IAA 2,0 mg/l + BA 0,5 mg/l và IAA 3,0 mg/l + BA 0,5 mg/l, số lượng phôi hình thành chồi, rễ chỉ đạt xấp xỉ với đối chứng. Sự khác biệt của tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ giữa các nghiệm thức kết hợp bổ sung IAA và BA có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Vì vậy, tỷ lệ nồng độ IAA:BA thấp (1:1 và 2:1) tương ứng với mức IAA 0,5 mg/l + BA 0,5 mg/l và IAA 1,0 mg/l + BA 0,5 mg/l giúp tăng khả năng tăng trưởng của phôi.
Bảng 7. Tỷ lệ phôi cóc đỏ nảy mầm khi bổ sung kết hợp IAA và BA
theo các tỷ lệ nồng độ khác nhau
Tỷ lệ nồng độ IAA:BA Số hạt nuôi cấy Số phôi hình thành chồi, rễ Tỷ lệ phôi nảy mầm (%)
IAA 0,5 mg/l + BA 0,5 mg/l 36 10,67 ± 1,15 88,89 ± 9,62a
IAA 1,0 mg/l + BA 0,5 mg/l 36 10,33 ± 2,89 86,11 ± 24,06a
IAA 2,0 mg/l + BA 0,5 mg/l 36 6,00 ± 2,00 50,00 ± 16,67b
IAA 3,0 mg/l + BA 0,5 mg/l 36 6,67 ± 1,53 55,56 ± 12,73b
Đối chứng 36 6,33 ± 0,58 52,78 ± 4,81b
Prob. - - 0,0196
Ghi chú: Các mẫu tự khác nhau biểu diễn mức độ sai biệt có ý nghĩa (theo cột) ở độ tin cậy 95%.
Điều kiện đầu tiên để hạt nảy mầm là sự
trưởng thành của mọi thành phần cấu tạo của hạt: Vỏ, mô dự trữ và nhất là phôi phải hoàn toàn phân hóa về mặt hình thái. Tuy nhiên, trưởng thành không có nghĩa là có khả năng nảy mầm vì hạt có thể vào trạng thái ngủ, mọi hoạt động sống trong hạt ở mức tối thiểu. Và hạt có thể nảy mầm khi hấp thụ nước hoặc cần xử lý hay tín hiệu bổ sung để nảy mầm. Trạng thái ngủ của hạt được phân thành ngủ do vỏ và ngủ do phôi. Vỏ có thể gây ngủ cho hạt do vỏ quá cứng, không thấm nước và oxy hoặc bản thân vỏ chứa chất cản [13]. Trong trường hợp
của loài cóc đỏ, hạt được bảo vệ bởi lớp vỏ trái xơ và lớp vỏ hạt cứng. Vấn đề được khắc phục ở nghiên cứu này bằng cách tách bỏ lớp vỏ trái và vỏ hạt, tỷ lệ hạt nảy mầm đạt 50% so với 5% của trái khô đã xử lý với nước ấm [8].
Hơn nữa, trong rừng ngập mặn tự nhiên, trái cóc đỏ xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 8 [8]. Thời điểm trái chín và rụng vào mùa mưa, mực thủy triều lên cao không phù hợp cho sự nảy mầm của hạt. Ngoài lớp vỏ bảo vệ, hạt có thể ngủ cấp hai để chờ đến thời điểm điều kiện phù hợp vào mùa khô để nảy mầm. Theo Bùi Trang
Khảo sát khả năng nuôi cấy phôi cây cóc đỏ…
307
Việt (2016) [13], acid abscisic (ABA) là chất bảo vệ phôi tránh bị khô, cản nảy mầm sớm, cảm ứng và duy trì ở trạng thái ngủ cho phôi trưởng thành. Monier (1978) cho rằng bản thân phôi đã sẵn có những chất điều hòa sinh trưởng nội sinh. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp phôi phát triển chậm hoặc dị thường, môi trường nuôi cấy phôi cần được bổ sung chất điều hòa sinh trưởng ngoại sinh ở nồng độ thấp. Lúc này, sự phát triển của phôi được cải thiện [14]. Trong nghiên cứu này, ở điều kiện nuôi cấy in vitro, ba nhóm chất điều hòa sinh trưởng gibberellin, auxin và cytokinin đều tác động đến sự phát triển của phôi cóc đỏ một cách khác nhau. Vì ABA và GA đối kháng nên cân bằng GA/ABA quyết định con đường nảy mầm hay trưởng thành và mức độ ngủ của nhiều loại hạt. GA thường được dùng để thay thế ánh sáng hay lạnh để phá vỡ sự ngủ, kích thích hạt nảy mầm. Trong nghiên cứu này, GA3 nồng độ 1,5 mg/l và 2,0 mg/l đã có tác dụng cải thiện tỷ lệ nảy mầm của hạt cóc đỏ, tăng từ 50% (môi
trường không có GA3) lên đến trên 70%. Nảy mầm của hạt là quá trình phát triển được điều hòa bởi mạng lưới truyền tín hiệu phức tạp, tích hợp các tín hiệu môi trường vào các con đường truyền tín hiệu nội sinh. Trong khi ABA và GA được nghiên cứu rộng rãi, nhưng vai trò auxin và cytokinin chưa được biết nhiều trong sự nảy mầm của hạt. Trong điều kiện tăng trưởng bình thường, auxin không ảnh hưởng đến nảy mầm của hạt. Cytokinin kích thích tăng rộng tế bào. Cân bằng giữa auxin và cytokinin là một nhân tố kiểm soát phát triển thực vật vì auxin giúp tạo rễ trong khi cytokinin giúp tạo chồi. Từ kết quả so sánh tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ của cả 16 nghiệm thức với đối chứng, sự kết hợp giữa IAA 0,5 mg/l và BA 0,5 mg/l được xem là thích hợp nhất để bổ sung vào môi trường MS kết hợp với sucrose 20 g/l để nuôi cấy phôi cóc đỏ (hình 4). Điều này nhằm tạo cơ sở khoa học để xây dựng quy trình nhân giống nhanh loài cóc đỏ bằng kỹ thuật nuôi cấy phôi.
Hình 4. So sánh tỷ lệ phôi hình thành chồi, rễ giữa các nghiệm thức bổ sung chất điều hòa sinh trưởng. Trong đó, các cột màu xanh tương ứng với các nghiệm thức bổ chất điều hòa
sinh trưởng; cột màu trắng là đối chứng. Các mẫu tự trên cột khác nhau thể hiện sự sai khác ý nghĩa ở độ tin cậy 99% bằng trắc nghiệm phân hạng Duncan
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
308
So với phương pháp gieo ương từ quả khô, phương pháp nuôi cấy phôi in vitro đã rút ngắn được thời gian nảy mầm và cải thiện tỷ lệ nảy mầm của hạt cóc đỏ. Cụ thể, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hòa và nnk., (2013) cho thấy quả cóc đỏ được xử lý bằng nước ấm có tỷ lệ nảy mầm đạt khoảng 5% sau 3 tháng [8]. Trong khi đó, phôi cóc đỏ nuôi cấy trên môi trường bổ sung GA3 1,5 mg/l hay kết hợp IAA và BA với tỷ lệ nồng độ thấp (1:1 và 2:1) đều hình thành chồi, rễ với tỷ lệ từ 70 - 80% chỉ sau 14 ngày.
Sự tăng trƣởng của cây con cóc đỏ thu đƣợc in vitro
Trong suốt thời gian theo dõi, tỷ lệ sống
của cây cóc đỏ con trong ống nghiệm đạt 100% (bảng 8). Sau một tháng nuôi cấy, chiều cao trung bình của cây con chỉ đạt 1,187 ± 0,025 cm. Với tốc độ tăng trưởng 0,480 ± 0,044 cm/tháng, chiều cao trung bình cây con đạt 1,650 ± 0,078 cm ở tháng thứ hai. Cuối cùng, sau 3 tháng, các cây cóc đỏ con phát triển bên trong ống nghiệm đạt chiều cao trung bình 2,103 ± 0,159 cm và tốc độ tăng trưởng 0,453 ± 0,081 cm/tháng. Tuy nhiên, ở điều kiện in vitro, cây cóc đỏ con tăng trưởng chậm hơn so với điều kiện gieo ương trên thể nền đất. Sau 3 tháng, chiều cao của những cây nảy mầm từ hạt được xử lý bằng nước ấm đạt khoảng 7,37 cm, và tốc độ tăng trưởng ở mức 2,46 cm/tháng [8].
Bảng 8. Theo dõi tăng trưởng của cây cóc đỏ con in vitro
Ban đầu Sau 1 tháng Sau 2 tháng Sau 3 tháng
Tỷ lệ sống (%) 100 100 100 100
Chiều cao cây (cm) 0,707 ± 0,031 1,187 ± 0,025 1,650 ± 0,078 2,103 ± 0,159
Tốc độ tăng trưởng (cm/tháng) - 0,480 ± 0,044 0,463 ± 0,055 0,453 ± 0,081
Từ khi được nuôi cấy ở điều kiện có ánh
sáng, lá mầm của cây cóc đỏ con chuyển từ màu đỏ nhạt sang màu xanh. Ở tháng thứ nhất, 2 lá mầm vẫn còn khép vào nhau (hình 5a). Đến tháng tiếp theo, 2 lá mầm bắt đầu mở ra dần (hình 5b). Đến tháng thứ ba của quá trình
theo dõi, bên cạnh 2 lá mầm, 1 lá thật to hơn mọc ra từ ngọn cây (hình 5c). Thời điểm và tiến trình của cây con in vitro tương đồng với sự tăng trưởng của cây cóc đỏ con được gieo ươm trên nền đất trước đây [8].
đây [8]. 1
` 2
Hình 5. Cây Cóc đỏ con sau: a) 1 tháng; b) 2 tháng và c) 3 tháng 3
a b c
Hình 5. Cây cóc đỏ con sau: a) 1 tháng, b) 2 tháng và c) 3 tháng nuôi cấy
Khảo sát khả năng nuôi cấy phôi cây cóc đỏ…
309
Các thông số đo đạc về tỷ lệ sống, sự phát triển chiều cao và phát triển lá đều cho thấy cây cóc đỏ con thu được từ kỹ thuật nuôi cấy phôi in vitro vẫn trong tình trạng tăng trưởng tốt, đáp ứng yêu cầu trở thành nguồn nguyên liệu đầu vào cho những nghiên cứu vi nhân giống loài cây quý hiếm này.
KẾT LUẬN
Những kết quả nghiên cứu cho thấy kỹ thuật nuôi cấy phôi in vitro giúp cải thiện khả năng nảy mầm của phôi cóc đỏ. Môi trường nuôi cấy MS bổ sung sucrose 20 g/l, GA3 (1,5 - 2,0 mg/l), hoặc BA 1,0 mg/l, hoặc kết hợp IAA (0,5 - 1,0 mg/l) với BA 0,5 mg/l phù hợp với sự phát triển của phôi cây cóc đỏ.
Lời cảm ơn: Bài báo sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài cơ sở “Nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng thực vật auxin và cytokinin đến sự phát triển của phôi cây cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845)” do kinh phí của Viện Hải dương học hỗ trợ. Nghiên cứu được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Công nghệ tế bào (Bộ môn Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh). Tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Su, G., Huang, Y., Tan, F., Ni, X., Tang, T., and Shi, S., 2007. Conservation genetics of Lumnitzera littorea (Combretaceae), an endangered mangrove, from the Indo-West Pacific. Marine Biology, 150(3), 321-328.
2. Rotaquio Jr, E. L., Nakagoshi, N., and Rotaquio, R. L., 2007. Species composition of mangrove forests in Aurora, Philippines: a special reference to the presence of Kandelia candel (L.) Druce. Journal of International Development and Cooperation, 13(1), 61-78.
3. Saad, S., Taher, M., Susanti, D., Qaralleh, H., and Rahim, N. A. B. A., 2011. Antimicrobial activity of mangrove plant (Lumnitzera littorea). Asian Pacific Journal of Tropical Medicine, 4(7), 523-525.
4. Wim, G., Stephan, W., Max, Z., and Liesbeth, S., 2006. Mangrove guidebook
for Southeast Asia. FAO and Wetland International, Wagenugen The Netherlands.
5. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường,
2007. Sách đỏ Việt Nam. Phần II. Thực
vật. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ, 609 tr.
6. Trần Quốc Dung và Nguyễn Khoa Lân,
2010. Xác định kích thước, số lượng và
chất lượng của hạt phấn Cóc đỏ
(Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845).
Tuyển tập “Phục hồi và quản lý hệ sinh thái
rừng ngập mặn trong bối cảnh biến đổi khí
hậu”. Pp. 275-279.
7. Nguyễn Xuân Hòa, Phạm Thị Lan, Nguyễn
Xuân Trường và Nguyễn Nhật Như Thủy,
2013. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái quần
thể cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack)
Voigt. 1845) ở vịnh Cam Ranh (tỉnh Khánh
Hòa). Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế “Biển Đông
2012”. Tập 1. Pp. 316-323.
8. Pham Van Quy and Vien Ngoc Nam, 2006.
Initial nursing of a rare mangrove species
(Lumnitzera littorea (Jack) Voigt) in Can
Gio district, Ho Chi Minh city. In Proc. The
role of mangrove and coral reef ecosystems
in natural disaster mitigation life
improvement, IUCN, MERD, Hanoi,
Vietnam. Pp. 365-370.
9. Quách Văn Toàn Em và Viên Ngọc Nam,
2010. Nghiên cứu một số nhân tố sinh thái
ảnh hưởng đến khả năng tái sinh tự nhiên
của cây cóc đỏ (Lumnitzera littorea (Jack)
Voigt.) ở khu dự trữ sinh quyển rừng ngập
mặn Cần Giờ. Tạp chí khoa học Trường
Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, 24(58),
87-95.
10. Sharma, D. R., Kaur, R., and Kumar, K.,
1996. Embryo rescue in plants-a review.
Euphytica, 89(3), 325-337.
11. Lakon, G., 1949. The topographical
tetrazolium method for determining the
germinating capacity of seeds. Plant
Physiology, 24(3), 389-394.
12. Dương Công Kiên, 2002. Nuôi cấy mô thực
vật. Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Nhật Như Thủy, Lê Thị Thủy Tiên,…
310
13. Bùi Trang Việt, 2016. Sinh lý Thực vật Đại cương. Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
14. Chin, H. F., Krishnapillay, B., and Alang, Z. C., 1988. Media for embryo culture of some tropical recalcitrant species. Pertanika, 11(3), 357-363.
CULTURE OF Lumnitzera littorea (Jack) Voigt. 1845 EMBRYOS
Nguyen Nhat Nhu Thuy
1, Le Thi Thuy Tien
2, Nguyen Xuan Hoa
1,
Nguyen Xuan Vy1, Nguyen Trung Hieu
1
1Institute of Oceanography, VAST 2Ho Chi Minh city University of Technology, Vietnam National University Ho Chi Minh city
ABSTRACT: Lumnitzera littorea is an endangered mangrove species. Poor germination is the
major cause for low regeneration of this species. With an objective to augment the species
population in the natural and allied habitats through embryo culture, the study focus on the suitable
medium for the germination of Lumnitzera littorea embryos. Initially, the embryos were sterilized.
Then the effects of (1) the mineral and vitamin medium (MS, ½ MS, WPM), (2) the MS medium
supplemented with sucrose at concentrations (20; 30; 40 g/l), (3) MS medium supplemented with
sucrose 20 g/l and phytohormones GA3, IAA, BA at concentrations (0.5; 1.0; 1.5; 2.0 mg/l)
individually or combination of IAA (0.5; 1.0; 2.0; 3.0 mg/l) with BA (0.5 mg/l) on the germination
of embryos were studied. Each experiment was based on the results of the previous one. The
cultures were in the dark condition, and at a temperature of 25 ± 2ºC for 14 days. In the influence of
mineral and vitamins medium, MS medium was the best result for germination Lumnitzera littorea
embryos (50%). Secondly, the increasing sucrose concentration decreased germination Lumnitzera
littorea embryos. Thirdly, among the phytohormones, the higher concentrations of GA3 (1.5 and 2.0
mg/l) or the lower concentration of BA (1 mg/l) proved more effective for the percentage of
germination Lumnitzera littorea embryos. However, IAA did not affect on germination
significantly. MS medium supplemented with 20 g/l sucrose and combination of 0.5 mg/l IAA with
0.5 mg/l BA showed the maximum percentage of germination Lumnitzera littorea embryos
(88.89%). After three months, the survival rate of Lumnitzera littorea seedlings remained 100%.
The average height of seedlings reached 2.103 ± 0.159 cm. The growth rate of seedlings was 0.453
± 0.081 cm/month. The seedling had 1 leave. The embryo culture improved the germination of
Lumnitzera littorea embryos.
Keywords: Lumnitzera littorea, embryo culture, IAA, BA, GA3.