Hoa văn họa tiết trên trang phục người Hmong
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
5 -
download
0
Transcript of Hoa văn họa tiết trên trang phục người Hmong
Trêng ®¹i häc s ph¹m hµ néi
KHOA VIỆT NAM HỌC
----------
TIỂU LUẬNMÔN: NHÂN HỌC ĐẠI CƯƠNG VÀ
CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
ĐỀ BÀI:HOA VĂN HỌA TIẾT TRÊN TRANG PHỤC
DÂN TỘC HMÔNG
Giảng viên : TS. Nguyễn Văn Thắng
Sinh viên :Lâm Thị Thanh Xuân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................1
I. Lý do chọn đề tài...............................1
II. Lịch sử vấn đề.................................2
III. Mục đích nghiên cứu...........................4
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................5
V. Phương pháp nghiên cứu..........................5
VI. Bố cục.........................................6
PHẦN NỘI DUNG......................................7
Chương I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC
NGƯỜI VÀ TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC HMÔNG..............7
1.1 Khái quát về dân tộc Hmông.....................7
1.1.1 Lịch sử dân tộc Hmông....................7
1.1.2 Tên gọi và phân nhóm.....................8
1.1.3 Địa bàn cư trú...........................9
1.2 Khái quát về trang phục dân tộc Hmông..........9
Chương II. HỌA TIẾT HOA VĂN TRÊN TRANG PHỤC CỦA DÂN
TỘC HMÔNG.........................................13
2.1 Sự ra đời của hoa văn trên trang phục.........13
2.2 Kỹ thuật tạo hình hoa văn trên trang phục.....15
2.2.1 Kỹ thuật thêu...........................15
2.2.2 Kỹ thuật vẽ mầu in sáp ong..............16
2.2.3 Kỹ thuật ghép vải.......................16
2.2.4 kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc.......17
2.3 Bố cục đồ án và màu sắc hoa văn...............17
2.3.1 Bố cục..................................17
2.3.2 Màu sắc.................................18
2.4 Hệ thống các môtíp hoa văn trên trang phục người
Hmông.............................................19
2.4.1 Hoa văn hình học........................20
2.4.2 Hệ thống hoa văn hiện thực..............21
Chương III. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG HOA VĂN
HỌA TIẾT TRÊN TRANG PHỤC DÂN TỘC HMÔNG............24
3.1 Thể hiện quan điểm thẩm mỹ....................24
3.2 Phản ánh nhận thức và đời sống tâm linh của
người Hmông.......................................25
3.3 Sự giao thoa văn hóa tộc người qua hoa văn....26
KẾT LUẬN..........................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................31
PHỤ LỤC...........................................32
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Thông thường người ta tìm hiểu dân tộc là một
cộng đồng người sinh sống trên một vùng đất nào đó
thì có những đặc trưng chung về kinh tế, tiếng nói,
văn hóa, tâm lý, trong đó văn hoá, tiếng nói là cái
nổi rõ, dễ nhận biết hơn cả.
Nói tới văn hóa dân tộc là nói tới một lĩnh vực
vô cùng phong phú và đa dạng từ miếng ăn, quần áo
mặc, nếp nhà ở, cách thức làm ăn, đi lại, vui chơi,
ca hát, hội hè, thơ cúng, tang ma, cưới xin…Người ta
vẫn thường hay nói đến bản lĩnh và bản sắc dân tộc.
Bản lĩnh tức là sức sống vươn lên của dân tộc trước
những thác thức của lịch sử, còn bản sắc là cái biểu
hiện muôn màu muôn vẻ ra bên ngoài, thể hiện ra
thành sắc thái, đặc trưng, dáng vẻ riêng, phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác.
Lẽ dĩ nhiên bản sắc văn hóa được biểu hiện ra
mọi khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần của
con người, tuy nhiên tùy vào từng lĩnh vực văn hóa
mà bản sắc dân tộc thể hiện ra bên trong hay bên
ngoài. Trong trường kì lịch sử do tiếp xúc văn hóa
với các dân tộc láng giềng, văn hóa có nhiều thay
đổi giữ lại những đặc sắc riêng của mình, ngược lại
1
có lĩnh vực văn hóa lại bảo lưu khá bền chặt, có lúc
có nơi hầu như nguyên vẹn. Có thể nói trong văn hóa
dân tộc, trang phục, đặc biệt là hệ thống hoa văn
họa tiết trên trang phục là cái mà ở đó bản sắc dân
tộc biểu hiện rõ rệt, thường xuyên và lâu bền nhất,
kết tinh nhiều giá trị riêng của dân tộc.
Người Hmông là một trong số những dân tộc thiểu
số có dân số đông ở miền Bắc Việt Nam. Người Hmông
cư trú chủ yếu trên những vùng núi có độ cao trên
dưới 1000m. Trải qua quá trình thiên di hàng trăm
năm tới định cư ở vùng núi phía tây Bắc Việt Nam
người Hmông đã xác lập cho mình một diện mạo kinh tế
– văn hóa – xã hội khá rõ nét. Cùng với 53 dân tộc
anh em, người Hmông luôn luôn là một phần của khối
thống nhất đại đoàn kết dân tộc góp phần làm đa dạng
hơn nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đã từ lâu người
Hmông trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học trong đó có dân tộc học và không chỉ có các
nhà khoa học Việt Nam mà các nhà khoa học thế giới
cũng rất quan tâm đến dân tộc này.
Văn hóa Hmông là tồng thể những giá trị vật
chất và tinh thần mà họ sáng tạo ra trong tiến trình
lịch sử của mình. Trong văn hóa Hmông, hệ thống hoa
văn họa tiết trang trí trên trang phục là một trong
2
những yếu tố cơ bản, bởi nó có vai trò không thể
thiếu được trong việc tăng giá trị thẩm mỹ của bộ
trang phục, thể hiện sự đặc sắc trong trang phục các
dân tộc mà còn là biểu hiện của nếp sống tộc người,
thể hiện trình độ lao động thủ công truyền thống và
quan niệm về thẩm mỹ. Ngoài ra nó còn là cơ sở để
nhận biết, giúp ta phân biệt dễ dàng giữa tộc người
này với tộc người khác.
Vì vậy có thể coi hoa văn họa tiết trang trí
trên trang phục là nguồn tư liệu quan trọng trong
nghiên cứu dân tộc học. Đó cũng là lý do khiến tác
giả chọn đề tài này. Tác giả muốn đi sâu vào khám
phá hệ thống hoa văn họa tiết trên trang phục người
Hmông để có cái nhìn cụ thể hơn về trình độ lao động
thủ công của người dân tộc Hmông thông qua các kỹ
thuật tạo hình, các cách bố trí đồ án trang trí, về
quan điểm thẩm mỹ của họ qua hệ thống phân loại các
nhóm họa tiết và khám phá những giá trị ẩn chứa
trong đó.
II. Lịch sử vấn đề
Về việc nghiên cứu đời sống văn hóa của các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam thì đã có nhiều công trình
nghiên cứu lớn và nhỏ được tiến hành, nhiều bài báo
giới thiệu khái quát nhất những đặc trưng cơ bản của
3
các dân tộc đã được viết, nhiều cuốn phim tư liệu
cũng đã được sản xuất để giới thiệu về các dân tộc
thiểu số – những mảnh ghép văn hóa của đất nước hình
chữ S ven bờ Thái Bình Dương – tới đồng bào cả nước,
tới bạn bè thế giới và phục vụ cho việc bảo tồn,
nghiên cứu, lưu trữ.
Về việc nghiên cứu chuyên sâu đời sống văn hóa
của người Hmông nói chung đã có nhiều công trình
nghiên cứu được tiến hành, nhiều bài báo đã được
viết, nhiều báo cáo khoa học, luận án thực hiện
thành công. Ví dụ như một số tác phẩm sau:
1) Cuốn “Văn hóa H’Mông” của Trần Hữu Sơn,
nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1996. Đây là một
công trình nghiên cứu chuyên sâu về đời sống văn hóa
tinh thần của đồng bào Mông ở tỉnh Lào Cai. Tác phẩm
dựng lại toàn cảnh những hoạt động trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Mông ở đây và rút ra
những đặc điểm về cuộc sống của họ.
2) Cuốn “Văn hóa dân gian Lào Cai”, của Trần Hữu
Sơn, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1997. Đây là
cuốn sách viết về những giá trị văn hóa dân gian của
các dân tộc thiểu số sinh sống tại trên địa bàn tỉnh
Lào Cai, trong đó có dân tôc Mông.
4
3) Cuốn “Lễ hội cổ truyền Lào Cai” của Trần Hữu
Sơn, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1997 nói về
các lễ hội cổ truyền có ở Lào Cai của các tộc người,
trong đó có lễ hội Gầu Tào rất đặc sắc và nổi tiếng
của dân tộc Mông.
4) Cuốn “Dân tộc Mông ở Việt Nam” của Hoàng Nam
và Cư Hòa Vân, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm
1994. Đây là cuốn sách viết khá đầy đủ về các vấn
đề: lịch sử di cư, tên gọi, địa bàn cư tú, phân
nhóm, sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Mông
ở Việt Nam.
5) Sách ảnh “Người H’Mông ở Việt Nam” do Vũ
Quốc Khánh chủ biên, nhà xuất bản Thông Tấn, năm
2005. Sách được thực hiện theo sự đặt hàng của Nhà
nước, là cuốn sách công phu được thực hiện bởi sự
hợp tác của nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nhiếp
ảnh chuyên nghiệp. Bên cạnh các bức ảnh khổ lớn,
cuốn sách còn trình bày khá rõ ràng và súc tích về
đời sống vật chất của đồng bào Hmông.
Ngoài ra còn một số tư liệu khác như cuốn “Lịch
sử người Mèo”, hay như luận án thạc sĩ khoa học
chuyên ngành lịch sử của Lê Huy Phú thuộc trường Đại
học Sư phạm Hà Nội viết về người Mông ở Sapa.
5
Tuy nhiên, trong các tác phẩm “Dân tộc H Mông ở
Việt Nam” của các giả Cư Hoàng Vân, Hoàng Nam; “Văn
hóa H’Mông” của Trần Hữu Sơn, trang phục chỉ được
nhắc đến như mộ phần rất nhỏ dùng để phân biệt dân
tộc này với dân tộc khác. Gần đây trong tác phẩm
“Văn hóa dân gian Lào Cai” tác giả Trần Hữu Sơn đã
dành một phần để giới thiệu về cách trang trí trên
trang phục của người Hmông ở Lào Cai tuy chưa nhiều
và chưa đi vào chi tiết nhưng cũng khái quát nên
được một số nét giá trị văn hóa trong trang phục
người Hmông. Các bài viết của các tác giả Nguyễn Tất
Thắng, Quách Thị Oanh, trên tạp trí dân tộc cũng
bước đầu giới thiệu về dệt may, đưa ra những nhận
xét về chức năng xã hội của trang phục người Hmông.
Và tất cả các công trình nghiên cứu này chưa hề
nhắc đến hệ thống hoa văn họa tiết trang trí trên
trang phục người Hmông một cách độc lập, chưa mang
tính chất chuyên khảo nghiên cứu đi sâu vào hệ thống
họa tiết hoa văn trên trang phục của người Hmông,
trong khi họa tiết hoa văn trên trang phục không chỉ
có tư cách là một yếu tố văn hóa vật chất mà còn là
thành quả văn hóa của dân tộc chưa được nghiên cứu
đúng mức. Đó là một công việc khó khăn lâu dài song
6
cũng là một mục đích muốn đạt được của bài tiểu luận
này.
III. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống các môtip hoa văn họa tiết trên vải là
một phương diện thể hiện vẻ đẹp đặc sắc của bộ trang
phục dân tộc Hmông. Nó không chỉ mang giá trị thẩm
mỹ mà còn phản ánh sinh động đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào Mông. Nó hàm chứa các tín
hiệu văn hóa đặc thù của dân tộc. Cùng với đó, việc
tạo nên các hoa văn họa tiết đó cũng là cả một nghệ
thuật.
Bởi vậy, nghiên cứu tìm hiểu hoa văn họa tiết
trên vải dân tộc Hmông sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
nghệ thuật tạo hình truyền thống của đồng bào. Đồng
thời sẽ giúp ta hiểu được quan điểm thẩm mỹ của họ
và giải mã được các tín hiệu văn hóa đã được thể
hiện khéo léo trên mặt vải của tộc người tiêu biểu
nhất trong nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao.
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hệ thống hoa văn họa tiết
trên trang phục của đồng bào dân tộc Hmông.
7
Phạm vi nghiên cứu: những hoa văn họa tiết chủ
đạo trên các loại trang phục của họ, và chung cho
các nhóm người Hmông.
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp liên ngành: Dựa trên những kiến thức,
thành tựu nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực
khác nhau để có cái nhìn toàn diện về dân tộc Hmông
với các đặc trưng văn hóa của họ. Từ đó, có được sự
lý giải cho các mã văn hóa được giấu bên trong các
họa tiết, chi tiết hoa văn trang trí trên vải.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích là sự chia
cắt đối tượng nghiên cứu thành các bộ phận, các yếu
tố nhỏ hơn để khảo sát, tìm hiểu kỹ về nó. Tổng hợp
là từ kết quả nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận mà
khái quát lại để tìm ra bản chất chung, tìm ra quy
luật vận động của đối tượng.
Trong bài tiểu luận này, phương pháp trên được
áp dụng để phân tích và tổng hợp các kiến thức mà
tài liệu cung cấp, nhằm chọn được các kiến thức đúng
nhất về tộc người này. Đồng thời phương pháp này
cũng được dùng để phân tích các giá trị của hoa văn
họa tiết trên vải của dân tộc Hmông.
Phương pháp thống kê – so sánh: Thống kê là phương
pháp định lượng, tìm hiểu, điều tra bằng các con số
8
cụ thể. Còn so sánh là sự đối chiếu giữa các phương
diện chung cho cả hai đối tượng để xét xem chúng
giống nhau hay mâu thuẫn và giống nhau hoặc mâu
thuẫn ở mức độ nào.
Ở đây, phương pháp này được sử dụng để đưa thống
kê đưa ra các loại bố cục, các loại màu sắc được sử
dụng và các mẫu hoa văn họa tiết tiêu biểu nhất, chủ
đạo nhất. Cùng với điều đó, tiến hành so sánh hoa
văn họa tiết trên trang phục của dân tộc Hmông với
các dân tộc khác để thấy sự khác biệt và nét đặc sắc
riêng của đồng bào. Đồng thời có thể chỉ ra sự giao
lưu văn hóa giữa các tộc người qua những điểm tương
đồng nhất định về họa tiết hoa văn trên trang phục.
Phương pháp quan sát thực tế: Phương pháp này được
thực hiện bằng cách quan sát các hiện vật trưng bày
trong một số bảo tàng để có cái nhìn chân thực nhất
đối với đối tượng nghiên cứu.
VI. Bố cục
A.Phần mở đầu
B.Phần nội dung
Chương I. Giới thiệu khái quát về đặc điểm tộc
người và trang phục của dân tộc Hmông.
Chương II. Họa tiết, hoa văn trên trang phục của
dân tộc Hmông.
9
Chương III. Ý nghĩa và giá trị của hệ thống hoa
văn họa tiết trên trang phục dân tộc Hmông.
C. Kết luận
10
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN
TỘC NGƯỜI VÀ TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC HMÔNG
1.1 Khái quát về dân tộc Hmông
1.1.1 Lịch sử dân tộc Hmông
Dân tộc Hmông là một dân tộc có dân số khá đông
(trên 9 triệu người), thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông –
Dao, cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới
trong đó đông nhất là ở Trung Quốc với khoảng trên
7,5 triệu người. Ở Lào là khoảng 25 vạn, ở Thái Lan
khoảng 15 vạn và ở nước ta là hơn 1 triệu người.
Trong vài thập niên gàn đây, người Hmông còn có mặt
ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ, Canada,
Australia...
Ở Việt Nam, người Hmông nằm trong nhóm các dân
tộc nói ngôn ngữ Hmông – Dao (gồm ba dân tộc là
Hmông, Dao và Pà Thẻn)
Về nguồn gốc dân tộc thì người Hmông hiện nay ở
Việt Nam đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Theo một số
tài liệu và truyền thuyết của dân tộc Hmông, cũng
như theo các nhà dân tộc học thì phần lớn những
người Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư
vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Quý Châu, Quảng
11
Tây và Vân Nam Trung Quốc sang. Riêng nhóm Hmông ở
Thanh Hóa và Nghệ An đi cư vào Việt Nam qua Lào.
Người Hmông tới Việt Nam bằng nhiều con đường
khác nhau và chia làm nhiều đợt, trong đó có ba đợt
chính.
Đợt thứ nhất là khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù,
Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn,
Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Thời gian là vào khoảng
cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh của lịch sử
Trung Quốc, khoảng thời gian đúng với những năm có
phong trào người Miêu (tên gọi của người Mông ở
Trung Quốc) ở Quý Châu chống lại chính sách “Cải tổ
quy lưu” và bị thất bại cách đây hơn 300 năm. Đây
cũng là nhóm người
Hmông di cư vào nước ta sớm nhất.
Đợt thứ hai có khoảng hơn 100 hộ trong đó có
những hộ thuộc các họ Vàng, Lý cũng di cư vào khu
vực Đòng Văn. Một số nhóm khác ít hơn thuộc các họ
Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma
Cai, Bắc Hà – Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ khác
vào khu vực Tây Bắc. Thời gian là cách đây hơn 200
năm.
Đợt thứ ba là đợt có số lượng người di cư vào
nước ta đông nhất, khoảng hơn 10.000 người. Phần lớn
12
họ từ Quý Châu, Vân Nam Trung Quốc sang, chủ yếu vào
Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang. Thời gian của đợt di cư
này tương đương với thời kỳ diễn ra phong trào “Thái
Bình thiên quốc” chống lại nhà Mãn Thanh từ năm 1840
tới năm 1868.
Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi
mới năm 1986, tình hình di chuyển của người Hmông
vào Việt Nam luôn gia tăng theo hai hướng Bắc – Nam,
Tây – Đông làm cho số địa phương có người Hmông sinh
sống tăng lên đáng kể.
1.1.2 Tên gọi và phân nhóm
Về tên gọi của dân tộc, thì ở Việt Nam, ngôn ngữ
dân gian quen gọi là người Mèo hay người H’Mông.
Nhưng trên nhiều tài liệu nghiên cứu, các nhà dân
tộc học và nghiên cứu về dân tộc này đều gọi họ là
dân tộc Hmông hoặc là dân tộc Mông. Bản thân họ tự
nhận mình là dân tộc Mông (nghĩa là người).
Các nhóm người Hmông chính ở nước ta:
* Mông Hoa (Mông Lềnh)
* Mông Đen (Mông Đú hoặc Mông Đu)
* Mông Xanh (Mông Súa hoặc Mông Dua)
* Mông Đỏ (Mông Si)
Dấu hiệu để phân biệt các nhóm người Hmông là
trang phục của họ
13
nhưng chỉ có trang phục nữ mới có chức năng này,
trang phục nam hầu như có mô típ giống nhau.
1.1.3 Địa bàn cư trú
Về địa bàn cư trú và phân bố dân cư: dân tộc
Hmông nói chung thì thường cư trú ở độ cao từ 800
đến 1500m so với mực nước biển. Phân bố chủ yếu ở
hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn
khá rộng, dọc theo biên giới Việt – Trung và Việt –
Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Trong đó tập trung chủ
yếu ở các tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc VN như Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...Do tập quán du
mục nên một số người Hmông trong những năm 1980,
1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở
một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.
Người Hmông ở miền bắc Việt Nam cư trú đông nhất
là ở Hà Giang, tiếp đến là Điện Biên, Sơn La, Yên
Bái, và ít nhất là ở Hòa Bình. Địa bàn cư trú của họ
là các dãy núi cao nhất nước ta. Độ cao trung bình
của các làng người Hmông cư trú là từ 900 – 1600m.
Đây là vùng đất cao nhất, hiểm trở nhất. Độ chia cắt
sâu, chia cắt ngang từ lớn đến rất lớn. Độ dốc từ
15o đến 25o, vùng Tây Hoàng Liên Sơn có độ dốc lớn
14
hơn 25o. Khí hậu mang tính chất nhiệt đới ẩm gió
mùa. Do ảnh hương của gió mùa đông bắc và độ cao địa
hình nên khí hậu lạnh. Địa hình phức tạp và khí hậu
khắc nghiệt đã gây nhiều khó khăn cho đời sống văn
hóa của đồng bào.
1.2 Khái quát về trang phục dân tộc Hmông
Đồng bào Hmông đã cư trú ở nước ta từ lâu đời,
sinh sống chủ yếu trên các rẻo cao thuộc khu vực
miền núi Tây Bắc và Đông Bắc, gồm các tỉnh Hà Giang,
Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái,
Điện Biên, Sơn La và Nghệ An. So với các dân tộc
khác, người Hmông còn giữ nguyên được nhiều phong
tục tập quán, vật dụng cổ truyền độc đáo, một trong
đó là việc dệt vải, thêu may các bộ trang phục dân
tộc đặc sắc, rực rỡ nhất vùng. Đối với người Hmông,
trang phục là cái mặc, cũng là của cải gia truyền,
ai nấy đều phải bảo tồn và phát huy sao cho ngày
càng đẹp càng quý, phản ánh được rõ nét truyền thống
văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, cá tính và sự giàu có
của tộc người.
Từ xưa đến nay, trang phục nam nữ Hmông đều do
phụ nữ Hmông làm. Bảy, tám tuổi, các bé gái đã được
bà và mẹ dạy dệt vải, thêu, may các kiểu hoa văn
truyền thống, để tới khi lấy chồng (vào tuổi 15-18,
15
tuổi trưởng thành theo cách tính Hmông) sẽ may được
8 đến 15 chiếc váy làm của hồi môn.
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh
tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và
trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông
độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang
phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách
tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật
nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu
váy rộng và đẹp.
Nam giới Hmông mặc trang phục cổ truyền tương tự
nữ giới song giản tiện và mộc mạc hơn. Đó là một cái
áo đen (vào dịp lễ Tết là áo trắng, xanh, thêu hoa)
có dạng chữ T thân hẹp, hoặc lơ lửng ngang sườn hoặc
dài quá thắt lưng, cổ áo thêu hoa, ve áo song song
đính khoảng năm hàng khuy vải nằm ngang giữa hai
thân, cũng có khi là hai vạt vắt chéo và đơm khuy
nách. Ống tay rộng, chia làm hai phần, tùy nhóm
người mà ống tay liền dải đồng chất, đồng màu hoặc
gắn các mảnh vải, miếng thêu có màu sắc, chất liệu
khác nhau. Với nam giới Hmông Đen, thân và tay áo
thường có một màu tím than. Với nam giới Hmông Hoa
thì ống tay chia thành nhiều lớp vẽ thêu như đen nối
xanh, đen nối đỏ, vàng nằm liền kề hoặc cách quãng.
16
Với nam giới Hmông Đỏ có thêm viền cổ và nẹp áo
thêu. Ngoài ra, họ cũng đội mũ gồm các loại mũ quả
dưa tám miếng màu đen hoặc thêu, đính các vòng họa
tiết xung quanh mũ hay trên đỉnh đính cắc bạc; mũ
lưỡi trai ngắn sát đầu và mũ bốn vành khi lạnh để
xuôi, khi nóng gập lên gọn ghẽ trên đầu. Vào hội,
khi tham gia biểu diễn nghệ thuật họ vấn khăn buộc
sau gáy. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng
so với các tộc ngườ khác trong khu vực.
Người Hmông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục
nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Trang phục cổ
truyền của người phụ nữ Hmông gồm: khăn, áo, váy,
tạp dề che phía trước váy, sau váy, thắt lưng, xà
cạp…Nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc
áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không
khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang
trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa
tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang
trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên
nền chàm). Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách
phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa
ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và
trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc.
17
Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp,
rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn
nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông
(Hoa, Xanh, Đỏ, Đen... ). Đó là các loại váy trắng,
váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy
được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được
thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang
theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân
là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ
nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam
giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm
đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ
thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội
khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao
gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Có thể nói hoa văn, họa tiết là yếu tố quan
trọng nhất tạo nên vẻ đẹp
trang phục Hmông. Nghệ thuật tạo hình dân gian của
người Hmông thể hiện
ở trang phục, đồ dùng sinh hoạt, tranh cắt giấy…
Nhưng trang trí trên vải có vị trí quan trọng nhất
trong nghệ thuật tạo hình dân gian, điển hình là
trang trí trên trang phục người Hmông. Mọi hoa văn ở
đây đều hết sức mộc mạc, bắt nguồn từ các câu chuyện
18
cổ, thơ ca về cội nguồn dân tộc, phong cảnh thiên
nhiên nơi người Hmông sinh sống, các loại cây trồng,
vật nuôi và sản phẩm nông nghiệp quen thuộc. Thường
thấy các họa tiết dưới dạng ô nằm ngang với đường
viền là hình vuông, chữ thập, đinh, công cách quãng
kết hợp với hình quả trám, tam giác, tròn, xoáy đơn,
xoáy kép (dấu móc hoặc chữ S), răng cưa, đường cong,
đường lượn sóng... Bên trong là các hình ngôi sao
năm cánh - sáu cánh- tám cánh, hoa bí, hoa tỏi, hoa
cà, hoa mận, hoa đào, hoa sen, mạng nhện, cánh bướm,
vảy cá, lá ngải cứu, cành tùng, búp tre, lưỡi câu,
núi sông, đuôi rồng, con ốc, con rắn, sừng dê...
Những họa tiết này đều có màu sắc tươi sáng, nhất là
màu đỏ vừa tạo cảm giác ấm áp, hưng phấn cho người
mặc khi đi giữa rừng, trên núi cao, vực thẳm trong
điều kiện khí hậu lạnh lẽo vừa khiến người Hmông dù
là Hmông Đen hay Xanh, Hoa, Đỏ đều nổi bật trước đám
đông và choáng ngợp mọi không gian, môi trường cho
dù trên nương rẫy, giữa buổi chợ hay lễ hội.
Tiểu kết: Hệ thống họa tiết hoa văn trang trí trên
trang phục dân tộc người Hmông hàm chứa nhiều ý
nghĩa và giá trị đặc sắc. Nó không chỉ góp phần quan
trọng làm nên vẻ đẹp của bộ trang phục mà còn thể
hiện cả đời sống vật chất và tinh thần của người
19
Hmông. Đó là một nguồn tư liệu quý giá trong việc
nghiên cứu dân tộc học và đáng được chúng ta quan
tâm, tìm hiểu.
20
Chương II. HỌA TIẾT HOA VĂN TRÊN TRANG PHỤC CỦA
DÂN TỘC HMÔNG
2.1 Sự ra đời của hoa văn trên trang phục
Theo lời kể của Thào A Thề, 45 tuổi, bản Lả
Khắt, xã Nậm Khắt huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái,
nhóm Hmông Hoa – phó bí thư đảng ủy xã, phó trưởng
họ Thào (dựa theo “Truyện cổ Mèo” của Doãn Thanh,
nhà xuất bản Văn học năm 1963) thì cách lý giải vì
sao có hoa văn trên vải của họ rất thú vị. Họ cho
rằng hoa văn trên váy của người phụ nữ chính là chữ
viết của dân tộc mình. Truyển kể rằng, xưa kia khi
người Hmông còn sống ở Trung Quốc, họ cũng có chữ
viết riêng của dân tộc mình như người Kinh bây giờ.
Sau vì muốn chiếm đất và đồng hóa người Hmông nên
người Hán đã cho quân xâm lược, đốt sách vở và cấm
người Hmông đọc chữ. Người Hmông muốn ghi lại lịch
sử của mình cũng không được. Đang lúc chạy lên núi
trốn sự truy lùng của người Hán, vua của người Hmông
lúc bấy giờ đã gặp một người phụ nữ Hmông vẫn đang
cặm cụi ngồi mải miết thêu bên suối, không hề để ý
quân Hán đang đuổi tới. Vua đã chợt nghĩ ra phương
thức giữ lại chữ viết của dân tộc mình bằng việc
thêu lên váy người phụ nữ. Nhưng thêu thì lâu, nên
khi nhìn thấy một tổ ong bên đường, vua đã lấy sáp
21
ong và vẽ vào váy người phụ nữ. Từ đó, người Hmông
biết thêu và in hoa văn bằng sáp ong. Song do người
phụ nữ kia không biết chữ nên không biết ý nghĩa của
chúng. Dù là truyền thuyết, song câu truyện trên đã
phản ánh được một phần lịch sử đau thương của người
Hmông và quan trọng hơn cả là nó đã cho chúng ta một
thông tin thú vị về nguồn gốc sự xuất hiện của hệ
thống hoa văn họa tiết trên trang phục của dân tộc
họ.
Trang phục của người Hmông, đặc biệt là trang
phục của người phụ nữ không qua kỹ thuật cắt, khâu
làm tôn rõ đường nét cơ thể như trang phục người phụ
nữ Thái mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở các mootip và
trang trí màu sắc hoa văn. Phụ nữ Hmông là chủ nhân
của nghệ thuật tạo hình trên nền trang phục. Cả cuộc
đời người phụ nữ gắn bó với công việc thêu, dệt vải
và in hoa văn. Em bé Hmông mới 9 – 10 tuổi đã được
các bà các mẹ, các chị tập cho thêu thùa:
Lớn lên anh theo cha đi cày nương.
Theo anh đi vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm, in hoa trên váy mới.
Đến tuổi trưởng thành các thiếu nữ Hmông không
tiếc thời gian, làm đêm, làm ngày thêu bộ váy áo
22
cưới. Tập quán của người Hmông đánh giá tài năng, vẻ
đẹp của người phụ nữ qua khả năng thêu thùa, qua bộ
trang phục trong lễ cưới. Tục ngữ Hmông có câu Muốn
biết người tốt xem gác bếp, muốn xem người đẹp xem quần áo. Và
nghề dệt vải, thêu hoa văn là thước đo giá trị của
người phụ nữ:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh chưa biết cầm kim là hư.
Cô gái đẹp được quan niệm là cô gái phải thêu
thùa khéo léo như trôn
ốc. Người giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao,
coi trọng. Những đêm trăng thanh gió mát hay bên bếp
lửa hồng, từng tốp các cô gái quây quần bên nhau học
thêm, truyền dạy kinh nghiệm in sáp, tạo mẫu, ghép
vải mới…Các hình thức giúp đỡ truyền nghề này góp
phần cho nghệ thuật thêu, ghép hoa văn phát triển.
Trước khi đi làm dâu, các cô gái được mẹ tặng cho bộ
váy áo như của hồi môn. Khi về nhà chồng, các cô gái
phải chuẩn bị bộ váy áo tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Váy
thêu đẹp trở thành tài sản của người phụ nữ. Khi đã
thành người vợ, người mẹ, người phụ nữ Hmông vẫn
tiếp tục thêu in nhiều mẫu hoa văn, lo cho chồng con
mặc đẹp. Hạnh phúc của mỗi gia đình được phản ánh
23
trong bức tranh sinh hoạt: người vợ ngồi thêu, người
chồng thổi
kèn, tận tình giúp đỡ người vợ trong công việc thêu
thùa:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh ngồi thổi sáo, múa kèn
Em in hoa mới không có sáp, anh ra chợ kiếm
Em thêu hoa mới, không biết đường anh cầm que vạch
giúp.
Người vợ trở thành người mẹ lại có nghĩa vụ dạy
con cái mình học thêu. Đồng thời, con dâu lại được
mẹ chồng, hay thậm chí là cả các chị chồng nhiệt
tình dạy bảo cách thêu thùa, in sáp ong. Vừa kế thừa
nghệ thuật thêu, trang trí hoa văn của nhà mẹ đẻ, cô
dâu lại vừa tiếp thu nghệ thuật trang trí hoa văn
của gia đình nhà chồng. Khi trở về già, người phụ nữ
vẫn lo cho mình cả một bộ váy đẹp để về với tổ tiên.
Cứ như vậy, nghệ thuật in thêu hoa văn được bảo lưu,
trao truyền nhiều thê hệ, bản sắc văn hóa riêng của
dân tộc luôn phát triển. Dòng đời người phụ nữ qua
đi, dòng hoa văn cứ chảy trôi mãi theo bàn tay tài
năng của họ. Qua bàn tay của họ – những người phụ nữ
Hmông, nghệ thuật tạo hình trên nền trang phục xuất
24
hiện với những nét độc đáo cả về mặt bố cục, màu
sắc.
2.2 Kỹ thuật tạo hình hoa văn trên trang phục
Để tạo được hệ thống hoa văn họa tiết sống động
trên trang phục, người Hmông sử dụng 4 kỹ thuật tạo
hình chính là kỹ thuật thêu, kỹ thuật in sáp ong, kỹ
thuật ghép vải và kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc.
2.2.1 Kỹ thuật thêu
Kỹ thuật thêu của của người Hmông có hai cách
thêu lát và thêu chéo mũi. Hai cách thêu này làm cho
việc tạo nét mềm mại chủ động, phóng khoáng, không
bị gò bó trong kỹ thuật thêu luồn sợi, mầu, dựa theo
thớ vải ngang, dọc mà các dân tộc khác thường làm.
Người phụ nữ Hmông thêu hoa văn không cần mẫu. Chỉ
dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi
vừa bền màu. Đặc biệt sắc màu óng nuột của tơ tằm
làm vẻ đẹp của hoa văn thêm mượt mà. Phụ nữ Hmông có
cái nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng, hoàn toàn
dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn. Người thêu đã thuộc
sẵn màu hoa mình thích, họ không cần nhìn mẫu mà vẫn
thêu được những môtip đẹp. Trước khi thêu, họ phải
tính toán tỷ mỷ, đếm từng sợi chỉ, nhớ từng kích
thước hoa văn trong toàn bộ mảng trang trí. Vì vậy,
ngay từ khâu dệt, người Hmông dệt tấm vải nền theo
25
một kỹ thuật sao cho các sợi chỉ không quá xít, dành
các khoảng nhỏ thuận lợi cho việc đếm sợi, bố cục
hoa văn. Kỹ thuật thêu hoa văn rất phức tạp vì thêu
ở mặt trái của vải nhưng hình mẫu lại nổi lên ở mặt
phải, đòi hỏi người phụ nữ kiên trì, cẩn thận vì sơ
ý nhầm một mũi kim, mũi thêu đã sai lệch, làm cho
mảng trang trí không toàn vẹn.
2.2.2 Kỹ thuật vẽ mầu in sáp ong
Công cụ dùng vẽ mẫu in sáp là dar drangtaz (loại
bút vẽ bằng đồng). Có ba loại bút vẽ khác nhau: loại
nét nhỏ dùng để tỉa tót hoa văn là đarnrơ ư, loại
nét to vẽ đường thẳng đường diềm là đarchang zsang
z, loại dùng vẽ hình tròn, hoa văn con ốc là đarzes
kưr. Cách in hoa văn bằng sáp khá đơn giản. Sau khi
nấu chảy sáp ong, nhúng bút lông vào sáp, vẽ hoa văn
lên vải lanh trắng. Vẽ xong đem vải đã in sáp đi
nhuộm chàm. Sau nhiều lần ngâm nhuộm, vải đã sấm màu
thì đem vải nhúng vào nước sôi, sáp ong tan ra để
lại những hình hoa văn màu xanh lơ. Có nơi dùng
khuôn in sáp ong, các khuôn này làm bằng giấy do
người Hmông tự chế tạo được bồi khá dày, trên khuôn
in được đục lỗ theo hình các hoa văn khác nhau rồi
đổ sáp ong lên khuôn. Và sau đó tiến hành nhuộm chàm
26
như cách in vẽ, nhưng cách này làm hạn chế sự sáng
tạo của nghệ nhân.
2.2.3 Kỹ thuật ghép vải
Kỹ thuật này được người phụ nữ Hmông sử dụng để
tạo thành các băng dải, khoang vải màu khác nhau ở
cổ áo, ống tay, nẹp ngực và cả khoang dài gấu váy,
vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật ghép vải không
chỉ tạo ra các khoang mảng màu mà còn tạo ra các
đường nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở cổ áo người
Hmông xuất hiện nhiều kiểu hoa văn hình học được tạo
nên bằng kỹ thuật ghép vải. Các đường nét hoa văn
nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo cũng đều là ghép vải.
Vải ghép thường có gam màu nóng hoặc vải trắng làm
diềm nhỏ bao bọc cho các môtip hoặc tự tạo thành một
môtip riêng về hoa văn. Người Hmông sử dụng một số
miếng vải đỏ, vàng tiết diện nhỏ từ 0,5 – 1cm được
viền xung quanh vải nền tạo thành các hình xếp nếp
hoặc các đường viên môtíp chính. Người Hmông còn
sáng tạo nhiều kiểu ghép vải. Kiểu đơn giản nhất là
chọn miếng vải màu đỏ, vàng hình tam giác, hình
vuông, hình chữ nhật khâu lên gấu váy, mũi khâu giấu
ở đằng sau miếng ghép cùng với đệm lót và khâu gấp
mép lên. Kiểu phức tạp là ghép các miếng vải thành
nhiều lớp với nhiều màu sắc khác nhau. Việc ghép
27
những miếng vải này thường làm từng lớp, mỗi lớp là
một hoặc vài miếng vải cùng nhau, lớp dưới có diện
tích lớn hơn diện tích lớp trên.
2.2.4 kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc
Ở một số khăn của người làm Saman hoặc mũ áo của
những đứa trẻ cầu tự thấy xuất hiện hình thức ghép
gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt cườm…tạo
cho những chiếc khăn, mũ áo này có vẻ đẹp độc đáo,
rực rỡ nhưng mang tính biểu tượng. Mũ trẻ nhỏ Hmông
Hoa ở Mường Khương, trên đỉnh đầu có thêu hình mào
gà trống, theo quan niệm người Hmông thì gà trống là
biểu tượng của vị thần cửa chống ma ác vào nhà, bảo
vệ sức khỏe cho trẻ nhỏ. Những quả bông đỏ trên mũ,
những sợi tua nhiều màu sắc tượng trưng cho cầu vồng
ngăn thần rắn, ngăn những ma ở thể giới nước.
Các kỹ thuật tạo hình trên thường được người phụ
nữ Hmông khéo léo kết hợp với nhau tạo ra sự phong
phú về hoa văn. Bên cạnh các đường vải ghép đậm là
đường thêu thanh mảnh, tạo cảm giác hoa văn luôn
biến đổi liên tục. Kết hợp các biện pháp kỹ thuật
còn góp phần tạo hiệu quả về màu sắc. Màu xanh lơ
nhạt của vải in sáp trở thành màu trung gian, dung
hòa với các màu đậm của vải ghép, chỉ thêu. Nhờ vậy
28
mà màu sắc, đường nét môtíp của hoa văn có sự chuyển
động khá phong phú, vui mắt và sống động.
2.3 Bố cục đồ án và màu sắc hoa văn
2.3.1 Bố cục
Cũng như hoa văn nhiều dân tộc khác, hoa văn của
dân tộc Hmông có bố cục thành dải: dải ngang và dải
dọc. Mỗi dải hoa văn thường có bố cục ở giữa là
môtip hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, phía diềm các
vải là hoa văn thêu có tiết diện nhỏ, hẹp, bề ngang,
dọc. Dải ngang hoa văn xuất hiện trên thắt lung, đầu
tấm vải tạp dề, nằm trên ống tay áo. Trên nền chàm
của váy, dải ngang gấu váy rực rỡ hoa văn. Bố cục
dải dọc hoa văn in sáp ong chạy song song sát nhau
trên thân váy, hay chạy thành dọc trên tạp dề.
Tập trung các dải thành khối dày là đặc điểm của
bố cục thành dải trên nền trang phục của người
Hmông. Tạp dề ở phía trước và sau gồm nhiều dải dọc
chạy song song ken dày bên nhau tạo thành hai dải
lớn. Thắt lưng là dải ngang lớn. Gấu váy là dải
ngang khổ rộng 15 – 20cm gồm nhiều môtíp hoa văn
thêu ghép vải. Các môtip hoa văn không phân tán mà
kề sát bên nhau thành dải nhằm tôn thêm độ dày của
các khối hoa văn. Các dải tập trung thành mặt phẳng
lớn, các môtip hoa văn ở giữa có khổ lớn. Để tránh
29
tình trạng các hoa văn bị tan trên nền váy chàm,
chúng thường dược dồn lại, chồng xít thành dải để
trở thành một mảng lớn, vượt khỏi nền chàm, rực rỡ
trên nền vải dân tộc Hmông. Điểm đáng chú ý là các
băng dải này được kết hợp với nhau thành nhiều kiểu
khác nhau, có băng dải mỏng xen với dải dày, có băng
dải hoa văn nằm trên nền thêu, kề dải hoa văn ghép
vải.
Bên cạnh bố cục thành dải, một số trang trí của
người Hmông còn có bố cục thành ô. Ở đây các hình
hoa bốn cánh, tám cánh hoặc móc câu được đóng khung
trong các ô trang trí hình vuông, hình chữ nhật,
hình thoi. Các ô này được bố trí đan xen với các dải
hoa văn tạo nên sự phong phú đa dạng cho các đồ án
trang trí, không máy móc, đơn điệu mà luôn sống
động, góc nhìn luôn thay đổi.
2.3.2 Màu sắc
Màu sắc hoa văn trên vải phản ánh thẩm mỹ, tâm
lý, cá tính, ước vọng... trong cuộc sống của dân tộc
Hmông. Bảng màu của người Hmông gồm năm màu cơ bản:
chàm thẫm thành đen, đỏ, vàng, trắng, xanh lơ. Để
tạo màu chàm sẫm, người phụ nữ Hmông phải tiến hành
nhiều khâu từ luộc sợi lanh với nước tro, ngâm sợi
trong nước chàm và củ nâu nhiều lần tạo thành màu
30
chàm sẫm. Để thêm độ bóng, họ miết sáp ong vào vải
và mài lên đá. Màu chàm sẫm thường dùng làm nền cho
hoa văn trang trí. Đôi khi có ít diềm mỏng màu chàm
chạy song song với diềm trắng ở dải hoa văn chính,
Mục đích là để tôn dải hoa văn, tô đậm cho màu sắc
hoa văn thêm rực rỡ.
Màu đỏ là màu chủ đạo, vừa là màu nền trung gian
vừa tạo các môtíp chính làm nên sắc màu rự rỡ của
hoa văn trên vải trang phục. Thông thường, màu đỏ
đặt trên nền chàm sẫm gần như đen sẽ làm giảm bớt
sắc độ của đỏ, đỏ sẽ không tươi mà sẫm lại chìm vào
nền chàm. Nhưng màu đỏ của váy áo người Hmông Hoa,
Hmông Đỏ vẫn cứ rực lên. Màu đỏ trước đây được nhuộm
từ nước một loại vỏ cây thảo mộc hoặc nhuộm từ cánh
kiến, hiện nay thì chủ yếu là màu công nghiệp. Màu
vàng được nhuộm từ củ nghệ. Màu trắng là màu nguyên
bản của sợi lanh.
Bảng màu của người Hmông không rộng hơn bảng màu
của các dân tộc khác nhưng trang phục của người
Hmông vẫn gây cho người xem cảm giác đa sắc màu.
Phụ nữ Hmông không chỉ dùng màu đỏ làm môtíp hoa
văn mà còn làm màu nền cho các môtíp hoa văn. Màu đỏ
trở thành một thứ nền cho các môtíp hoa văn. Màu đỏ
trở thành một thứ nền trung gian đặt trên nền cơ bản
31
của màu chàm. Màu đỏ trung gian có tác dụng “ngăn
chặn” nền chàm hút mất môtíp hoa văn. Đồng thời các
dải hoa văn trên nền đỏ ấy lại có diện tích lớn tạo
thành các băng dải dày đậm “lấn át” chiếm chỗ nền
chàm. Cùng với đặc điểm của bố cục tập trung các dải
thành khối dày, màu đỏ cứ rực lên, loang rộng ra,
thu hẹp diện tích màu chàm. Chất rực rỡ của hoa văn
trên trang phục của dân tộc Hmông được tăng thêm nhờ
sự phối hợp màu đỏ với màu vàng tạo thành các gam
màu nóng được phát huy tối đa. Sự kết hợp này làm
cho họa tiết hoa văn trên trang phục người Hmông
sống động hơn và tạo hiệu ứng vui nhộn cho thị giác.
2.4 Hệ thống các môtíp hoa văn trên trang phục
người Hmông
Sống ở trên những vùng núi cao, gần với thiên
nhiên nên hoa văn trên vải của dân tộc Hmông ẩn chứa
và chuyển tải hình ảnh thiên nhiên, cảnh quan sinh
hoạt trong cuộc sống lao động hàng ngày, bao gồm cả
thế giới động vật, thực vật, đồ vật và các hiện
tượng thiên nhiên. Tất cả đều được cách điệu và thể
hiện rất đẹp như các hiện tượng gió, mưa, sấm chớp,
các con vật khổng lồ, sự biến chuyển của mặt trời,
của thời tiết hay sự biến chuyển của không gian và
thời gian trong vũ trụ quan.
32
Hệ thống hoa tiết được chia làm hai loại: hoa
văn hình học và hoa văn hiện thực.
2.4.1 Hê thống hoa văn hình học
Hoa văn hình học đơn thuần phục vụ thẩm mỹ với
chức năng làm nền. Hoa văn hình học không chỉ trang
trí trên trang phục mà còn ở các đồ dùng khác của
dân tộc Hmông. Các môtíp cơ bản có:
+ Nhóm hoa văn hình núi (hình rẻ quạt): thường
trang trí làm nền và xen kẽ giữa các hình thoi, tam
giác, hình chong chóng trên thân váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình răng cưa: nhóm hoa văn này
thường là các
đường viền đóng khung trong các mảng hoa văn chính.
Đây là nhóm hoa
văn có tần số xuất hiện trên vải người Hmông.
+ Nhóm hoa văn chấm tròn nhỏ to khác nhau: nhóm
này thường xuất hiện trên thân váy của phụ nữ Hmông
Hoa, Hmông Đỏ in bằng sáp ong. Mô hình hoa văn của
nhóm này chạy theo từng chuỗi dài vòng quanh thân
váy, các chấm này cách đều nhau tạo thành những hoa
văn độc lập.
+ Nhóm hoa văn đường zíc zắc: thường được thêu,
in sáp ong viền mép xung quanh 1 ô trang trí trên
váy, áo, và chỗ tiếp giáp giữa các phần với nhau.
33
+ Nhóm hoa văn những đường gạch song song: nhóm
này nhìn chung đơn điệu, thường những đường gạch dài
thêu bằng chỉ màu, hay ghép bằng vải màu tạo thành
đường song song đóng khung cho mảng hoa văn chính
như hoa văn trên áo, váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình vuông: nếu ghép vải thì
thường là hai hình vuông lồng ghép với nhau tập
trung ở phần gấu váy và vai áo hoặc là những ô lớn
bao bọc các mảng in hoa văn sáp ong và thêu.
+ Nhóm hoa văn hình bát giác: bao quanh hình
những bông hoa hoặc tạo thành hình đồng tiền, đồng
tiền thủng.
+ Nhóm hoa văn hình tam giác: chủ yếu là hoa văn
ghép với hai màu đặc trưng là đỏ và vàng lồng lại
với nhau.
+ Nhóm hoa văn hình chong chóng: Nhóm này có
nhiều biến thể, có khi là hình chữ thập hoặc là hình
chong chóng. Môtíp hoa văn này được in sáp ong, thêu
chỉ màu trên áo, váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình xoắn ốc: là một trong những
nhóm hoa văn
quan trọng ở đồ án hoa văn trang trí trên vải dân
tộc Hmông. Hoa văn hình xoắn ốc đứng cặp đôi, cặp
bốn, có khi là môtíp hoa văn in sáp ở mảng chính
34
hoặc chạy xung quanh đóng khung cho môtíp hoa văn
chính.
+ Nhóm hoa văn hình chữ S: nhóm này thường được
trang trí trên
váy, tạp dề nhóm Hmông Hoa, Hmông Đỏ. Môtíp hoa văn
hình chữ S có khi là môtíp hoa văn chủ đạo của một
đồ án, có khi là đường diềm đóng khung cho hoa văn
chính.
Mười một nhóm hoa văn trên như những tín hiệu
tạo nên từ vựng nghệ thuật dân tộc Hmông.
Một đặc điểm dễ nhận thấy là các hoa văn hình
học thường có tác dụng làm nền cho các hoa văn
chính. Nó giống như cái khung của một bức tranh đẹp
làm nổi bật ý đồ chủ đạo của nghệ thuật tạo hình.
Bố cục hoa văn hình học còn có đặc điểm là sự
kết hợp của nhiều môtíp hoa văn thành các tổ hợp hoa
văn có tần số xuất hiện nhiều trên vải dân tộc
Hmông, nhất là trên váy, áo. Ví dụ tổ hợp môtíp hình
chữ S với răng cưa, tổ hợp hoa văn hình đồng tiền
xen giữa các đường gạch dài, môtíp hình quả trám xen
giữa môtíp đường thẳng song song.
2.4.2 Hệ thống hoa văn hiện thực
Nếu nhóm hoa văn hình học chỉ phục vụ cho nhu
cầu thẩm mĩ thì nhóm hoa văn hiện thực là phương
35
tiện giúp người Hmông chuyển tải tư duy và thể hiện
những suy nghĩ về cuộc sống của mình.
+ Nhóm hoa văn hình người: môtíp này không giống
như môtíp trên vải của dân tộc Dao hay các dân tộc
nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Trên vải, người Hmông chỉ
miêu tả cách điệu từng phần cơ thể con người như tai
người, bàn chân.
Hoa văn động – thực vật:
+ Hoa văn hình con bướm: nếu là in sáp ong thì
chỉ là 2 tam giác quay
đỉnh vào nhau, còn nếu là thêu thì đường nét uốn
cong theo dáng hình con bướm.
+ Hoa văn con ốc: có thể được bố trí thành các
hình xoáy ốc dọc hay ngang trên thân váy.
+ Hoa văn hình móng gà: loại này được trang trí
trên ống tay áo, tạp
dề của người phụ nữ Hmông. Giống như môtíp hình
người, hình gà trống cũng chỉ đừng ở các bộ phận như
móng gà, cựa gà, mào gà…
+ Hoa văn hình con cua: chạy thành từng băng
vòng quanh ống tay áo, cổ áo, tạp dề, hoa văn này
biểu tượng cho sấm chớp.
+ Hoa văn hình con ốc hay còn gọi là ốc rồng.
36
+Hoa văn hình con tằm: thường là hai hình vạch,
vạch chéo nhau giống như dấu X.
+ Hoa văn hình con kiến: hình lục giác có ba
chấm nhỏ
+ Hoa văn hình chó nằm ngủ: là những đường thẳng
vuông góc và những đường gấp khúc kết hợp lại với
nhau tạo thành hình gần giống với hình thoi, hoặc là
các ngoặc lớn hướng ra ngoài.
+ Hoa văn hình vết chân chó
+ Hoa văn hình móng trâu
+ Hoa văn hình lá cây: hình dáng các loại lá cây
trên trang phục của người Hmông rất phong phú và
nhiều loại đa dạng. Có khi chỉ là những tam giác
lồng vào nhau, có khi chỉ là những đường vạch chằng
chịt tùy theo từng loại lá.
+ Hoa văn hình hạt đậu tương: 3 điểm chấm tròn
nhỏ trong in sáp ong hoặc là 3 dấu X trong thêu.
+ Hoa văn hình hoa: bao gồm hoa cúc, hoa bầu,
hoa bí, hoa tỏi, hoa dâu da, hoa dưa – đều là những
loại hoa của những loại cây mà họ trồng được.
Hoa văn tự dạng là hoa văn sao tám cánh
Hoa văn công cụ: hoa văn hình cái cuốc, hình
chân ghế, hình bật lửa.
37
Ngoài ra còn có một số hình hoa văn khác như
hình chữ thập (+), chữ đinh ( ), chữ công được
chuyển biến vào trong trang trí một cách phong
phú và tài tình.
Tiểu kết: Có thể thấy hệ thống hoa văn họa tiết
trang trí của người Hmông rất đa dạng và phong phú.
Từ kỹ thuật tạo hình đến bố cục đồ án trang trí, lựa
chọn màu sắc đều rất công phu và tài tình. Hệ thống
hoa văn họa tiết trên trang phục của họ không chỉ
tạo ra sự đặc sắc, nổi bật cho trang phục của dân
tộc Hmông mà còn là biểu hiện của nếp sống tộc
người, thể hiện trình độ lao động thủ công truyền
thống và quan niệm về thẩm mỹ. Hệ thống hoa văn họa
tiết trên là vốn từ vựng nghệ thuật, là cánh cửa
giúp ta đi vào tìm hiểu được các mã văn hóa ẩn chứa
trong đó.
38
Chương III. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG HOA VĂN
HỌA TIẾT TRÊN TRANG PHỤC DÂN TỘC HMÔNG
Phát hiện và giải mã tín hiệu hoa văn trên trang
phục không phải là một việc làm đơn giản. Đọc ngôn ngữ
hoa văn đã khó, nhưng tìm hiểu ý nghĩa hoa văn lại
càng khó hơn. Hoa văn trang trí trên trang phục là một
dấu hiệu thông tin đặc biệt, thể hiện quan niệm về cái
đẹp, phản ánh nhân sinh quan, vũ trụ quan…của mỗi dân
tộc, giúp ta phân biệt được tộc người này với tộc
người khác.
3.1 Thể hiện quan điểm thẩm mỹ
Sống trên những vùng núi cao, gần với thiên
nhiên, nên hoa văn trên vải của dân tộc Hmông ẩn
chứa và chuyển tải hình ảnh thiên nhiên và cảnh sinh
hoạt trong cuộc sống lao động hàng ngày, bao gồm cả
thế giới thực vật, động vật và đồ vật.
Người Hmông thường sống ở những rẻo núi cao,
nhiệt độ thường thấp, nhiều sương mù nên màu đỏ
tượng trưng cho sự ấm áp, sự no đủ, hạnh phúc và
khát vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trên tấm áo nền chàm sẫm hoa văn rực rỡ ở cổ áo,
nẹp ngực và ống tay, làm tôn thêm sắc hồng sáng của
khuôn mặt, làm duyên cho cổ tay tròn lẳn của con gái
39
Hmông. Áo không rộng, phía dưới thắt lại bằng thắt
lưng thêu hoa làm tôn thêm phần ngực nở nang và khỏe
mạnh. Mỗi khi người phụ nữ Hmông bước đi thì toàn bộ
những dải hoa văn ở ngực áo, ở thân và gấu váy
chuyển động nhịp nhàng uyển chuyển như sóng lượn, vẻ
đẹp con người lại càng thêm nổi bật giữa không gian
núi rừng vùng cao giá lạnh. Con người là điểm sáng
lớn, làm rạng cả một vùng không gian.
Trang phục người Hmông với hoa văn và màu sắc
nổi bật tạo cảm giác ấm áp sưởi ấm tình người. Vượt
khỏi màu sắc thiên nhiên, nó phản ánh lối sống giàu
bản lĩnh, phóng khoáng và ngoan cường ứng xử với
thiên
nhiên khắc nghiệt của người Hmông.
3.2 Phản ánh nhận thức và đời sống tâm linh của
người Hmông
Từ thời tiền sử, người Hmông cũng như các dân
tộc khác không thể giải thích được thế giới bao la
bằng tư duy khoa học. Trong cuộc sống, con người
phải dựa vào thiên nhiên như núi rừng, hang động để
tồn tại. Con người bị thiên nhiên chi phối. Đứng
trước vũ trụ bao la, trước các hiện tượng kỳ lạ diễn
ra hàng ngày không giải thích được như gió, mưa, sấm
40
chớp, các con vật khổng lồ…từ trong sâu thẳm, tâm
thức họ đã ghi lại, biểu hiện lại qua các môtíp hoa
văn trên vải của đồng bào.
Biểu tượng mặt trời với ngôi sao 8 cánh, 12 cánh
xuất hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Đó là dạng
vòng tròn, ở giữa có 8 hình tam giác ghép lại thành
4 cặp hoặc phức tạp hơn là nhiều môtíp sao 8 cánh
chồng chất trong một ô vuông theo từng lớp. Biểu
tượng mặt trời là sự thể hiện niềm kính trọng và tôn
thờ của cư dân nông nghiệp. Bởi mặt trời mang lại
không chỉ sự sống cho con người mà còn cho cả các
loại động thực vật. Với vị thế của những người dân
vùng cao thì sự xuất hiện của mặt trời giống như sự
đảm bảo cho sự sinh tồn của họ, giúp họ chống lại
cái lạnh và sự âm u của thời tiết, khung cảnh núi
rừng.
Người Hmông thành thục trong việc bố cục đồ án
trang trí hoa văn hình tròn, hoa văn hình xoáy trôn
ốc hay các biến thể của nó là hai hình xoáy trôn ốc
được bố trí đối xứng qua gương tạo thành hình móc
hoặc đối xứng qua trục xoay tạo thành hình chữ S.
Đây là những môtíp có đường cong, xoáy dứt khoát,
thanh thoát, nhịp nhàng, uyển chuyển và là biểu hiện
cho sự vận động biến chuyển của mặt trời, thời tiết,
41
không gian và thời gian trong vũ trụ quan cổ đại của
cư dân.
Biểu tượng sấm chớp được thể hiện trên đồ án
trang trí hoa văn hình rau dớn ở dưới gấu váy, đó là
hai hình tròn có chung một tiếp tuyến chéo.
Con rồng được người Hmông quan niệm là con vật
biểu trưng cho sự tốt đẹp, hạnh phúc. Hiện tượng mưa
cầu vồng gắn với việc cầu mưa, cầu mùa, mong no đủ,
hạnh phúc. Rồng liên quan đến con nước và liên quan
đến cư dân nông nghiệp ruộng nước.
Rồng ở người Hmông được gọi là rồng giun hay
rồng rắn, được khái quát hóa, hình tượng hóa trên
nền vải là những đường viền ghép vải, thêu chỉ màu
hình sóng nước hay đường thẳng đóng khung cho cả
mảng đồ án hoa văn hay từng môtíp hoa văn.
Rồng là con vật hư cấu, nhưng nó lại thể hiện
ước vọng của con người. Ở nhiều dạng, rồng là đường
zíc zắc ở giữa là các chấm biểu thị con mắt và có
các xoắn ốc là biểu hiện của mây mưa, biểu trưng cho
cư dân nông nghiệp ruộng nước.
Hình tượng thuộc lĩnh vực âm dương ở trên các
môtíp hoa văn trang trí của người Hmông là các bông
cúc. Những môtíp này phổ biến nhất vẫn là các hình
chữ thập, chữ X. Theo truyện cổ của người Hmông ở
42
Bắc Hà
(Lào Cai) thì các hình tượng này là sừng trâu, con
vật gắn với nhà nông, dùng trong hiến tế. Con trâu
là biểu tượng gắn với sự vận hành của mặt trăng,
biểu hiện cho âm dương đối đãi, cho sự phát sinh và
phát triển.
Người Hmông sống nặng nề về tâm linh, chấp nhận
đời sống không gian tâm linh đầy chất liên tưởng.
Người nông dân thời xa xưa vốn là cư dân nông nghiệp
nên cầu mưa thuận gió hòa là điều tất yếu. Vì vậy,
những hình tượng mặt trời, sấm chớp, con rồng…thường
được xuất hiện ở nhiều loại hình trang trí trên vải
người Hmông.
Có thể nói, hoa văn và cách trang trí hoa văn
trên trang phục người Hmông rất muôn hình muôn vẻ,
là kho tàng chứa đựng tri thức dân gian nghệ thuật
tạo hình. Hoa văn họa tiết không chỉ chứa đựng giá
trị nghệ thuật mà nó còn mang giá trị văn hóa, giá
trị lịch sử…của dân tộc Hmông.
3.3 Sự giao thoa văn hóa tộc người qua hoa văn
Hiện nay ở mỗi dân tộc, yếu tố văn hóa truyền
thống được bảo lưu ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên
trong quá trình phát triển của mình, các dân tộc
cũng có sự học hỏi lẫn nhau, sau đó biến đổi những
43
cái thu nhận được theo hướng phù hợp với đặc điểm
dân tộc mình tạo nên sự giao thao văn hóa đa dạng và
phong phú. So sánh với một số dân tộc anh em chúng
ta có thể thấy rõ nét khác biệt và nét chung trong
trang trí hoa văn trên vải của người Hmông.
Với hai dân tộc còn lại của nhóm Hmông – Dao là
người Dao và người Pà Thẻn. Hai tộc người này sống ở
lưng chừng núi hay còn gọi là rẻo giữa.
Hoa văn trên vải của người Hmông và người Dao có
những nét giống nhau, có sự gần gũi nhất định về
phong cách. Về mặt kỹ thuật trong các các quy trình
tạo hoa văn thì cả hai dân tộc đều sử dụng kỹ thuật
thêu, in sáp ong, ghép vải. Một đặc điểm chung của
bố cục hoa văn trên vải của cả hai tộc người là sự
kết hợp nhiều hoa văn chính, hoa văn phụ, tính lặp
lại trong ngoài, trước sau, trên dưới. Các hoa văn
thể hiện trên từng ô được lặp đi lặp lại theo hàng
lối. Bố cục theo dải ngang, dọc, tính cân đối, đối
xứng trên toàn bộ bố cục.
Ngoài một số dạng hoa văn giống nhau thì ở người
Hmông không có dạng hoa văn hình cây thông, hình
răng bừa. Về các dạng hoa văn hiện thực trên vải
người Hmông, môtíp hình con ốc là tiêu biểu, có tính
phổ biến thì người Dao không có. Ngược lại, loại hoa
44
văn môtíp hình con chó, ấn Bàn Vương chỉ có trên vải
trang phục người Dao, còn người Hmông không thấy
xuất hiện. Hoa văn trang trí trên trang phục thầy
cúng rất hãn hữu ở người Hmông trong khi người Dao
lại vô cùng phong phú.
Với một số dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Kađai,
Tạng – Miến như
dân tộc Pu Péo, Cơ Lao, La Chí, Lô Lô, Phù Lá, cùng
cư trú lâu đời trên vùng núi cao Đông Bắc và Tây Bắc
Việt Nam. Trong các cư dân nhóm Tạng – Miến thì Lô
Lô và Phù Lá là có nghề dệt phát triển. Họ có quy
trình sản xuất vải thủ công cổ truyền khép kín nghĩa
là đồng bào tự lo nguyên liệu và có các công cụ phục
vụ việc làm ra vải.
Vải của họ khác người Hmông ở ngay từ khâu
nguyên liệu. Họ dệt vải từ bông chứ không phải từ
cây lanh. Cách tạo hoa văn họa tiết của người Lô Lô
và Phù Lá cũng không khác nhiều so với người Hmông,
song họ không sử dụng nhiều kỹ thuật in sáp ong và
đạt đến độ tinh xảo như người Hmông. Phong cách bố
cục hoa văn của họ về cơ bản cũng giống với bố cục
hoa văn của người Hmông đối với các băng ngang, dải
dọc, đối xứng. Nếu môtíp hình chong chóng chuyển
động, hình chữ thập là đặc trưng trong dạng trang
45
trí cơ bản của người Hmông thì môtíp hoa văn hình
tam giác lại là đặc trưng trong dạng trang trí của
người Lô Lô và Phù Lá.
Về màu sắc trang trí hoa văn của hai tộc người
Lô Lô và Phù Lá thì có phần kém sặc sỡ hơn với các
hoa văn của người Hmông. Bởi họ sư dụng nhiều gam
màu trung gian hơn như màu đỏ thường ngả sang màu
gạch non, hoa mười giờ, màu xanh nõn chuối.
Trong các cư dân nhóm ngôn ngữ Kađai thì Pu Péo
là tộc người có nghề dệt và trang trí hoa văn phát
triển hơn cả. Hoa văn của người Pu Péo chủ yếu là
hoa văn hình học. Cách tạo hoa văn chủ yếu của họ là
ghép vải màu và ghép kim loại. Nghệ thuật ghép vải
màu tạo hoa văn của người Pu Péo rất khéo léo và
tinh tế. Phải chăng kỹ thuật ghép vải màu trang trí
trên trang phục của người Hmông có sự giao thoa,
tiếp biến với kỹ thuật của người Pu Péo? Màu sắc hoa
văn trên vải người Pu Péo không rực rỡ như của người
Hmông nhưng sự hòa sắc đã đạt đến trình độ cao.
Còn với tộc người Tày, Thái thì ta lại thấy sự
khác nhau rất rõ nét về
cách bố cục đồ án trang trí. Nhóm người Hmông thiên
về trang trí hoa văn đậm đặc, đồ án trang trí thường
chiếm gần hết diện tích trang phục, chói chang về
46
màu sắc, phong phú về môtíp thì trang trí hoa văn
trên trang phục phụ nữ Tày, Thái lại vừa phải về tỷ
lệ đồ án và màu sắc.
Tiểu kết: Có thể nói, các mô típ hoa văn họa tiết
trên trang phục của người Hmông rất phong phũ và đa
dạng. Chúng không chỉ chứa đựng nhiều điều về lịch
sử, về đặc điểm nhận thức tư duy tộc người mà còn
hàm chứa cả sự giao thoa, tiếp biến văn hóa của các
dân tộc khác trong quá trình phát triển để tạo nên
một diện mạo riêng không lẫn vào đâu của hoa văn họa
tiết trang trí trên trang phục dân tộc Hmông.
KẾT LUẬN
Có thể thấy, văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam vô cùng đặc sắc và phong phú. Nền văn hóa đó có
nhiều cách để thể hiện ra bên ngoài, và một trong số
đó là thể hiện qua trang phục mà đặc biệt là qua hệ
thống họa tiết hoa văn trang trí.
Dân tộc Hmông – dân tộc tiêu biểu cho nhóm ngôn
ngữ Hmông – Dao ở nước ta, trải qua quá trình lịch
sử phát triển đã xây dựng được cho mình một nền văn
hóa đặc sắc. Tìm hiểu văn hóa người Hmông, nếu không
tìm hiểu về trang phục mà cụ thể hơn cả là họa tiết
hoa văn trang trí của họ thì sẽ là một thiếu sót
lớn. Bởi họa tiết hoa văn trang trí của người Hmông
47
có những đặc điểm riêng về kỹ thuật tạo hình lẫn màu
sắc và bố cục đồ án trang trí.
Họa tiết hoa văn trên trang phục của người Hmông
không chỉ tăng giá trị thẩm mỹ cho bộ trang phục,
thể hiện sự đặc sắc trong nét văn hóa của người
Hmông mà còn là biểu hiện của nếp sống tộc người,
thể hiện trình độ lao động thủ công truyền thống và
quan niệm về thẩm mỹ. Ngoài ra nó còn là cơ sở để
nhận biết, giúp ta phân biệt dễ dàng người Hmông với
các dân tộc khác. Nó còn hàm chứa cả một quá trình
giao lưu văn hóa giữa dân tộc Hmông với các tộc
người khác. Hệ thống hoa văn họa tiết trang trí trên
trang phục thực sự là một kho tư liệu quý quá cho
việc nghiên cứu dân tộc học và là nét bản sắc riêng
cần được lưu giữ và bảo tồn của không chỉ dân tộc
Hmông mà còn của tất cả các dân tộc khác.
Tuy nhiên, hiện nay, với sự phát triển không
ngừng của xã hội và sự xâm nhập mạnh mẽ của các
luồng văn hóa ngoại lai thì việc sử dụng vải có thêu
in hoa văn truyền thống và mặc trang phục truyền
thống của người Hmông đang có sự thay đổi, ít đi về
số lượng và biến đổi về quy trình tạo ra những sản
phẩm truyền thống đó. Điều đó đang đặt ra cho chúng
ta một vấn đề cần quan tâm là sự mất bản sắc của
48
trang phục dân tộc Hmông. Hệ quả của việc biến đổi
văn hóa là không hề nhỏ và có nhiều tác động tiêu
cực trong trường hợp này. Bởi vậy mà chúng ta cần có
sự quan tâm đúng đắn của các cơ quan ban ngành có
chức năng và những người làm công tác văn hóa, bảo
tồn di sản để giữ được nét truyền thống cho trang
phục của không chỉ dân tộc Hmông mà của cả các dân
tộc thiểu số khác ở Việt Nam. Chúng ta phải cố gắng
để giữ cho văn hóa Việt Nam có sự đa dạng trong
thống nhất.
49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Văn hóa H’Mông” của Trần Hữu Sơn, nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, năm 1996.
2. “Dân tộc Mông ở Việt Nam” của Hoàng Nam và Cư Hòa
Vân, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1994.
3. Sách ảnh “Người H’Mông ở Việt Nam” do Vũ Quốc
Khánh chủ biên, nhà xuất bản Thông Tấn, năm 2005.
4. Luận án thạc sĩ khoa học chuyên ngành lịch sử của
Lê Huy Phú thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội: “Tìm
hiểu về đời sống văn hóa của người Mông ở huyện
Sapa, Lào Cai”.
5. Lịch sử người Mèo.
6. “Văn hóa H’Mông với môi trường” của Phạm Quang
Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh, năm 1998.
7. “Hoa văn trên vải dân tộc Hmông” của Diêp Trung
Bình, nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 2005.
8. “Trang trí dân tộc thiểu số” của Hoàng Thị Mong,
Ma Thị Tiên, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1994.
9. “Trang phục cổ truyền của các dân tộc Việt Nam”
của Ngô Đức Thịnh, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm
2000.
10. Luận án thạc sĩ khoa học chuyên ngành dân tộc
học thuộc trường Đại học khoa học xã hội và nhân
50
văn: “Trang phục phụ nữ Hmông Hoa ở huyện Mù Căng
Chải, tỉnh Yên Bái.
11. Trang tin điện tử của Ủy ban dân tộc:
cema.gov.vn, Tạp chí Tuyên giáo số 10
51
Họa tiết hình móng trâu kết hợp họa tiết sọc ngang
và zíc zắc
Họa tiết hình chó nằm ngủ kết hợp họa tiết sọc ngang
và zíc zắc
Họa tiết hoa bí, đậu tương
58
Môtíp sọc ngang làm viền cho họa tiết ở giữa vớimôtíp quả chám
Kết hợp họa tiết chữ thập với các họa tiết nhỏ hơnvà viền là gạch sọc
Họa tiết vết chân chó
62