ĐẠI CƯƠNG VỀ DƯỢC LIỆU - Cao Đẳng Y Tế Ninh Bình

286
GIỚI THIỆU HỌC PHẦN DƯỢC LIỆU Đối tượng: Cao đẳng Dược - Số tín chỉ: 4 (3/1) - Số tiết: 75 tiết + Lý thuyết: 45 tiết + Thực hành: 30 tiết + Tự học: 105 giờ - Thời điểm thực hiện: Học kỳ III MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1. Trình bày được về nguồn gốc, thành phần hoá học, vi phẫu, tác dụng và công dụng của dược liệu. 2. Trình bày được cách nhận biết một số dược liệu thường dùng trong ngành dược. 3. Tự thực hiện được các bước chế biến dược liệu theo đúng phương pháp, phân biệt chính xác các dược liệu 4. Hướng dẫn sử dược liệu đảm bảo an toàn, hợp lý. 5. Sinh viên có được kỹ năng đọc, nghiên cứu tài liệu, thuyết trình và phân tích vấn đề 6. Nhận biết được nguồn gốc, đặc điểm thực vật, công dụng, cách dùng và liều lượng các dược liệu . 7. Trung thực, khách quan, có tinh thần học tập vươn lên; 8. Nghiêm túc trong việc nhận biết, hướng dẫn sử dụng và chế biến một số dược liệu thường dùng trong ngành dược. 9. Thận trọng, tỷ mỉ, chính xác trong quá trình kiểm nghiệm dược liệu theo phương pháp vi phẫu và hóa học NỘI DUNG HỌC PHẦN Phần lý thuyết. STT Nội dung Trang 1 Đại cương về dược liệu 3 2 Dược liệu chứa những hợp chất Anthranoid 19 3 Dược liệu chứa Coumarin, tanin 32 4 Dược liệu chứa chất nhựa, chất béo 40 5 Dược liệu chứa Carbonhydrat 54 6 Dược liệu chứa Glycosid tim 68 7 Dược liệu chứa Saponin 80 8 Dược liệu chứa Flavonoid 96 9 Dược liệu chứa Alcaloid 113 10 Dược liệu chứa tinh dầu 182 Tổng 209 1

Transcript of ĐẠI CƯƠNG VỀ DƯỢC LIỆU - Cao Đẳng Y Tế Ninh Bình

GIỚI THIỆU HỌC PHẦN

DƯỢC LIỆUĐối tượng: Cao đẳng Dược

- Số tín chỉ: 4 (3/1)- Số tiết: 75 tiết

+ Lý thuyết: 45 tiết+ Thực hành: 30 tiết+ Tự học: 105 giờ

- Thời điểm thực hiện: Học kỳ III

MỤC TIÊU HỌC PHẦN1. Trình bày được về nguồn gốc, thành phần hoá học, vi phẫu, tác dụng và công

dụng của dược liệu.2. Trình bày được cách nhận biết một số dược liệu thường dùng trong ngành

dược.3. Tự thực hiện được các bước chế biến dược liệu theo đúng phương pháp,

phân biệt chính xác các dược liệu 4. Hướng dẫn sử dược liệu đảm bảo an toàn, hợp lý.5. Sinh viên có được kỹ năng đọc, nghiên cứu tài liệu, thuyết trình và phân tích

vấn đề6. Nhận biết được nguồn gốc, đặc điểm thực vật, công dụng, cách dùng và liều

lượng các dược liệu .7. Trung thực, khách quan, có tinh thần học tập vươn lên;8. Nghiêm túc trong việc nhận biết, hướng dẫn sử dụng và chế biến một số dược

liệu thường dùng trong ngành dược.9. Thận trọng, tỷ mỉ, chính xác trong quá trình kiểm nghiệm dược liệu theo

phương pháp vi phẫu và hóa học

NỘI DUNG HỌC PHẦN

Phần lý thuyết.STT Nội dung Trang

1 Đại cương về dược liệu 32 Dược liệu chứa những hợp chất Anthranoid 193 Dược liệu chứa Coumarin, tanin 324 Dược liệu chứa chất nhựa, chất béo 405 Dược liệu chứa Carbonhydrat 546 Dược liệu chứa Glycosid tim 687 Dược liệu chứa Saponin 808 Dược liệu chứa Flavonoid 969 Dược liệu chứa Alcaloid 113

10 Dược liệu chứa tinh dầu 182Tổng 209

1

Phần thực hành

STT Nội dung Trang

1 Xác định độ ẩm trong dược liệu và kiểm nghiệm hạt tinh bột 210

2 Kiểm nghiệm dược liệu bằng phương pháp vi học 215

3 Kiểm nghiệm ích mẫu bằng phương pháp vi học 235

4 Kiểm nghiệm Cam thảo bắc bằng phương pháp vi học 237

5 Kiểm nghiệm chất béo trong dược liệu 239

6 Nhận thức dược liệu chứa Carbonhydrat 244

7 Nhận thức dược liệu chứa Glycosid tim 252

8 Thực địa vườn 1 271

9 Nhận thức dược liệu chứa chất nhựa, chất béo, tinh dầu 273

10 Kiểm nghiệm dược liệu theo tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam 283

11 Thực địa vườn 2 285

12 Định tính Alcaloid trong dược liệu 287

13 Kiểm nghiệm tinh dầu trong dược liệu 290

14 Nhận thức dược liệu chứa Alcaloid 294

Tổng

ĐÁNH GIÁ- Hình thức thi: Vấn đáp- Thang điểm: 10+ Điểm chuyên cần: 10%+ Điểm thường xuyên: 03 bài kiểm tra trọng số 20%+ Điểm thi KT học phần: 01 bài thi trọng số 70%Cách tính điểm: - Điểm học phần = 10% điểm chuyên cần+ 20% điểm kiểm tra định kỳ+ 70%

điểm thi hết học phần

2

CHƯƠNG I

ĐẠI CƯƠNG VỀ DƯỢC LIỆU

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa, lịch sử của nền y học thế giới và trong nước,

gắn với môn học.

2. Trình bày được vị trí của dược liệu trong nghành Y tế và trong nền kinh tế

quốc dân.

3. Phân tích được kỹ thuật thu hái, phơi sấy, chế biến, bảo quản dược liệu

4. Áp dụng được các phương pháp đánh giá để đánh giá một số dược liệu .

NỘI DUNG

I. MỞ ĐẦU

1. Định nghĩa môn học

Dược liệu học là môn học nghiên cứu về sinh học và hoá học những nguyên

liệu dùng làm thuốc có nguồn gốc thực vật và động vật.

Nội dung môn học sẽ cung cấp cho sinh viên những kiến thức bao gồm nguồn

gốc, thành phần hoá học, vi phẫu, tác dụng và công dụng của dược liệu; chủ yếu là xác

định được, chất lượng và hướng dẫn sử dụng dược liệu.

Dược liệu dùng có thể là tất cả các bộ phận của cây, con hoặc chỉ một vài bộ

phận. Những chất chiết ra từ cây con như tinh dầu, dầu mỡ, nhựa, sáp cũng thuộc

phạm vi dược liệu; theo quan niệm hiện nay thì môn dược liệu không chỉ nghiên cứu

nguyên liệu thô mà nghiên cứu cả những tinh chất chiết ra từ dược liệu.

Ví dụ: Hoa hoè và Rutin; Ba gạc và Reserpin.

Là một trong những môn học chuyên môn, môn dược liệu có liên quan đến

những môn học khác như: thực vật, hoá hữu cơ, hoá phân tích, dược lý, do đó học sinh

cần nắm chắc kiến thức của các môn học trên khi học môn dược liệu.

2. Lịch sử môn dược liệu

Vào thời kỳ tiền sử, con người phải kiếm cây cỏ và động vật hoang dại để làm

thức ăn, qua chọn lọc và thử thách, con người dần dần xác định được thực vật, động

vật nào ăn được hoặc không ăn được; tác dụng chữa bệnh của một số thực vật hoặc

động vật cũng được tình cờ phát hiện rồi kinh nghiệm được tích luỹ dần.

Theo tài liệu cổ cho biết khoảng 5000 năm trước công nguyên (TCN) người

Babilon đã biết tác dụng của nhiều cây, con làm thuốc. Theo tài liệu tìm được trong

3

ngôi mộ cổ ướp xác viết vào năm 1550 TCN thì người Ai cập thời đại xưa đã có trình

độ cao về ướp xác và biết dùng nhiều cây và con dùng làm thuốc.

Tên tuổi của một số thầy thuốc Hy lạp cổ được lịch sử ghi lại.

Hippocrat (460-370 TCN) được coi là tổ sư của nghành y dược, ngoài công

trình giải phẫu sinh lý, ông còn biết sử dụng hơn 200 cây thuốc. Lời tuyên thệ

“Hippocrat” ngày nay phản ánh sự quý trọng đối với người thầy thuốc Hy lạp đó.

Aristot (384-370 TCN) và học trò của ông là Theophrat (370-287 TCN) đều là

các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng những tài liệu này được ứng dụng nhiều trong lĩnh

vực nghiên cứu động vật - thực vật.

Dioscorid một nhà nghiên cứu về dược liệu sống vào thế kỷ thứ nhất trước công

nguyên đã viết tập sách “Dược liệu học” vào năm 78 TCN, ông đã mô tả hàng ngàn

cây có tác dụng chữa bệnh, trong đó có nhiều cây còn sử dụng cho y học hiện đại ngày

nay.

Còn có rất nhiều những người khác sống ở thời đó đến nay vẫn được tôn trọng

coi là bậc tiền bối của nghành dược học.

Với nền y học phương Đông, phải kể đến nền y học Trung Quốc, vào thời kỳ

Hoàng đế (2637 TCN) đã có sách nói về phương pháp chữa bệnh theo nguyên lý đông

phương đó là cuốn “Nội kinh”. Tuy vậy, phải đến năm 1596 cuốn sách mới thực sự

được công nhận có giá trị khoa học đó là “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân

biên soạn (1518 – 1593).

Dân tộc Việt Nam cũng có lịch sử về y dược học lâu đời, vào khoảng 4000 năm

TCN, thần nông * đã dạy cho dân sử dụng các loại ngũ cốc, thực phẩm và biết phân

biệt các loại cây cỏ có tác dụng chữa bệnh.

(* Thần nông của người Việt cổ dạy dân trồng lúa nước (ông là vị thần của cư

dân phương Nam) là tổ tiên của vua Hùng. Thần nông sinh ra Đế Minh, Đế Minh sinh

ra Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân

sinh ra Vua Hùng.)

Vào thời kỳ Hồng Bàng (2879 TCN), Tổ tiên ta đã biết kết hợp một số dược

liệu (vỏ lựu, ngũ bội tử, cánh kiến) để nhuộm răng, đã có tập tục nhai trầu (Trầu, cau,

vôi) để bảo vệ răng và da dẻ hồng hào, biết uống chè vối cho dễ tiêu, dùng gừng hành,

tỏi để làm gia vị và phòng bệnh.

Dưới thời Nam Việt Giao chỉ, nhiều vị thuốc đã được phát hiện: Cau, Ý dĩ,

Long nhãn, vải, gừng, quế, trầm hương, sử quân tử, cánh kiến, mật ong, sừng tê giác.

Dưới thời Bắc thuộc, (207 TCN đến 905 TCN) người Trung Quốc đô hộ thường bắt

cống nạp các loại thuốc quý hiếm đem về nước họ và cũng trong thời kỳ này ta giao

lưu với Trung Quốc.4

Dưới triều Ngô – Đinh – Lê – Lý, ta đã có nhiều thầy thuốc chuyên nghiệp chữa

bệnh cho dân và trong triều đình đã có tổ chức Thái y Viện , để chăm lo sức khoẻ cho

hoàng gia các vị danh y có tiếng vào đời Lý là Từ Đạo Hạnh - Nguyễn Minh Không.

Đến thế kỷ thứ 14 dưới đời nhà Trần (1225-1399) nền y dược học nước ta mới

được phát triển. Có mở khoa thi tuyển lựa lương y, viện Thái y tổ chức đi thu thập cây

thuốc và trồng thuốc. Dưới đây là những danh y có nhiều cống hiến cho sự nghiệp bảo

vệ sức khoẻ nhân dân và xây dựng nền y dược học Việt nam.

Dưới triều Trần Anh Tông (1293-1313) có Phạm Công Bàu ngoài nhiệm vụ ở

viện Thái y về nhà còn chữa bệnh cho dân đã cứu sống được cho rất nhiều người, ông

đề cao tinh thần trách nhiệm với tính mạng người bệnh, không phân biệt sang hèn;

bệnh nguy chữa trước, tận tuỵ phục vụ bệnh nhân, không quản ngại khó khăn ông đã

để lại tấm gương sang cho nền y học nước nhà.

Dưới đời Trần Dụ Tông (1391) có Chu Văn An là một danh nho nổi tiếng đồng

thời cũng là một vị danh y. Ông biên soạn cuốn “Y học yếu giải tập chú di biên” thâu

tóm các nguyên nhân của bệnh, phân tích cơ chế bệnh lý với phương pháp chẩn đoán

và biện chứng luận trị, trong đó có ý thức tổ chức, lập bệnh án và phổ biến kinh

nghiệm. Sau khi tổng kết chữa khỏi trên 700 bệnh nhân, ông là người nghiên cứu để

xây dựng cơ bản cho nền y học của nước ta.

Tuệ Tĩnh, tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở Huyện Cẩm Giàng, Tỉnh Hải Dương.

Theo DS Trương Xuân Nam thì ông sinh vào năm 1330 mồ côi cha mẹ lúc 6 tuổi được

các nhà sư nuôi cho ăn học (ở chùa Hắc Triều) Năm 22 tuổi ông thi đậu Thái học (tiến

sĩ) không ra làm quan, ông ở chùa đi tu với mục đích làm từ thiện và chữa bệnh giúp

dân. Năm 1385, ông bị bắt đi sang sứ nhà Minh ở Trung Quốc, ông chữa bệnh cho

Tống Vương Phi ( vợ vua Minh) khỏi bệnh sản hậu nên được phong là đại y thiền sư.

Ông mất ở Trung Quốc không rõ năm nào. Khi còn ở trong nước, Tuệ Tĩnh nghiên cứu

cây cỏ Việt nam, sưu tầm những bài thuốc giản dị thường dùng trong dân gian, kết hợp

kinh nghiệm trị bệnh của Trung y xây dựng sự nghiệp có tính dân tộc sáng tạo trong

thời kỳ thuốc bắc thịnh hành, ông để lại hai tác phẩm có giá trị là “Hồng nghĩa giác tự

y thư” và “Nam dược thần hiệu”.

Tư tưởng chỉ đạo của Tuệ Tĩnh về đường hướng y học là “Nam dược trị nam

nhân” nghĩa là Dùng thuốc Nam chữa bệnh cho người Nam Việt.

Tóm lại, Tuệ Tĩnh là một đại danh y đã mở đường xây dựng nền y dược học

dân tộc của nước ta.

Dưới thời nhà Minh đô hộ (1400-1427) có chủ trương đồng hoá dân tộc ta nên

thời kỳ này không có trước tác y học.

Những thế kỷ sau lại có nhiều danh y xuất hiện,5

Thể kỷ 15 có Phan Phù Tiên, Nguyễn Trực.

Thế kỷ 16 có Hoàng Đơn Hoà

Thế kỷ 17 có Lê Đức Vọng, Nguyễn Đạo An, Bùi Công Chính, Lý Công Tuân.

Thế kỷ 18 có Nguyễn Quỳnh, Ngô Lâm Đáp, Trịnh Đình Ngạn,, Hải Thượng

Lãn Ông trong đó Hải Thượng Lãn Ông là một đại danh y của nước ta.

Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) tên thực là Lê Hữu Trác sinh ra tại thôn Vân

Xá, lạng Liên Xá, Phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương. Ông là một người nổi tiếng là

học giỏi thông minh văn thơ lỗi lạc. Song sống dưới thời vua Lê chúa Trịnh, ông chán

ghét chiến tranh, viện cớ về Hương Sơn nuôi mẹ. Vốn là người thông minh học rộng,

đọc sách thuốc ông thấy say mê và thấy làm nghề y là thiết thực lợi cho mình và giúp

ích cho đời nên ông quyết chí học nghề thuốc. Sau mấy chục năm đúc kết kinh nghiệm

thực tiễn nghiên cứu sâu rộng kinh điển trung y kết hợp với y học cổ truyền dân tộc,

ông biên soạn trong 26 năm bộ sách thuốc Việt Nam “Hải Thượng y tôn tâm lĩnh” 28

tập gồm 66 quyển. Trước tác của ông được dùng để dạy y học và còn dùng phục vụ

chữa bệnh cho người dân đương thời. Ông đã phát huy chủ trương “Thuốc Nam chữa

bệnh cho người Nam” của Tuệ Tĩnh; sưu tầm nhiều vị thuốc mới phổ biến cho nhân

dân để mọi người tự chữa bệnh thông thường với cây nhà lá vườn sẵn có.

Hải Thượng Lãn Ông đã trở thành nhà y học nổi tiếng của dân tộc ta. Nêu cao

đạo đức của người thầy thuốc soi sáng cho y học nước nhà với quan điểm nhân đạo và

thực tế đã được nhân dân coi là “Đại y tôn của Việt Nam”.

Dưới thời Tây Sơn (1788-1802) vì chiến tranh liên miên, tình hình y dược học

ít được đổi mới, nổi lên có tiến sĩ Nguyễn Gia Phan biên soạn cuốn “ Liệu dịch

phương pháp toàn tập”.

Danh y Nguyễn Quang Tuân biên soạn cuốn “La khê phương dược” gồm 13

cuốn và cuốn “Kim ngọc quyển” viết bằng chữ Nôm ghi nhiều phương thuốc gia

truyền.

Dưới triều Nguyễn, có Trần Nguyệt Phương viết cuốn “Nam Bang thảo mộc”,

trong đó viết nhiều cây thuốc sử dụng theo kinh nghiệm.

Dưới thời Pháp thuộc (1885-1945) thực dân Pháp tổ chức nền y tế theo lối Tây

y thay thế Đông y, tuy vậy thời kỳ này có nhiều tập sách có giá trị.

Ngoài tác giả người Việt, các tác giả người Pháp cũng có biên soạn một số sách

viết về cây thuốc ở Đông Dương như: A. petolot biên soạn cuốn “Những cây thuốc của

Campuchia, Lào và Việt Nam”.

Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến nay Đảng và nhà nước ta rất quan tâm

đến việc kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại đã có nhiều thành tựu cống

hiến cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Quân và dân ta đã tận dụng6

nguồn dược liệu sẵn có ở địa phương để bào chế thuốc men tự túc đáp ứng nhu cầu

phòng và chữa bệnh. Nhiều tài liệu về cây thuốc được biên soạn, điển hình là cuốn

“Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” do giáo sư tiến sĩ Đỗ Tất Lợi biên soạn hiện

nay đã tái bản lần thứ 10 có giá trị trong nước và cả nước ngoài, hiện đã có ấn bản

bằng tiếng Anh. Do có công đóng góp cho ngành Y tế, năm 1997 GS.TS Đỗ Tất Lợi

đã được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

Nhiều tổ chức y dược học cổ truyền được thành lập như : Viện nghiên cứu

Đông y, viện y dược học dân tộc, viện dược liệu Việt Nam, hội đông y Việt

Nam....Nhiều chỉ thị, nghị quyết của Nhà nước nói về phương châm kết hợp y học cổ

truyền với y học hiện đại, trên cơ sở đó thúc đẩy y học cổ truyền và ngành dược hiện

đại không ngừng phát triển như ngày nay.

3. Vị trí của dược liệu trong ngành y tế và nền kinh tế quốc dân

Thuốc phòng bệnh và chữa bệnh hầu hết được điều chế từ 2 nguồn: dược liệu

và hoá dược. Riêng dược thảo theo thống kê của tổ chức y tế thế giới con số lên đến

20.000 loài, không chỉ các nước Á đông mà các nước phương Tây cũng tiêu thụ số

lượng lớn dược liệu. Ở các nước phát triển, 1/4 số thuốc kê trong đơn đều có chứa hoạt

chất từ thảo mộc. Trong những năm gần đây, xu hướng trên thế giới dùng thuốc thảo

mộc tự nhiên (không tách hoạt chất) ngày càng nhiều. Chỉ tính riêng thị trường châu

Âu cũng lên tới 2,3 tỷ USD. Nhiều biệt dược Đông dược của Trung Quốc được tiêu

thụ mạnh ở các nước châu Âu, gần đây nước ta cũng có một số mặt hàng Đông dược

xuất khẩu có tín nhiệm ở thị trường nước ngoài.

Dược liệu là nguồn cung cấp nguyên liệu cho việc bán tổng hợp một số hoá

dược. Chỉ riêng nhu cầu bán tổng hợp các thuốc steroid hàng năm thế giới cần khoảng

100.000 tấn củ mài có chứa diosgenin.

Nhiều hoạt chất quan trọng như: Quinin, morphin, emetin, strychnin... đều phải

chiết ra từ dược liệu mà chưa thể đi bằng con đường tổng hợp.

Dược liệu còn mở đường cho hoá dược phát triển. Ví dụ: Ephedrin là hoạt chất

có trong cây ma hoàng. Dược liệu này đã được sử dụng cách đây 4000 năm, y học hiện

đại mới biết cách đây vài thế kỷ, bắt chước thiên nhiên, hoá dược đi bằng con đường

tổng hợp để có ephedrin.

Hiện nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu các chất có cấu trúc mới từ dược liệu

rồi từ đó bán tổng hợp các dẫn chất có tác dụng điều trị hiệu quả hơn. Ví dụ: Từ năm

1950 đến 1980, sau khi thử tác dụng chống ung thư của 40.000 loài thảo mộc người ta

đã phân lập được một số hoạt chất có tác dụng chữa ung thư.

Đối với nước ta, dược liệu có một vị trí quan trọng. Nước ta nằm trong vùng

nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 250C, độ ẩm cao tạo điều kiện cho cây cối7

phát triển. Rừng chiếm 2/30 diện tích, hệ thực vật phong phú , đa dạng. Nước ta có

khoảng 20.000 loài trong đó có trên 1000 loài làm thuốc. Có một số vùng có độ cao

trên 1000m như Sapa- Đà Lạt, Tam Đảo...nên thuận lợi cho việc di nhập một số cây

như: Actiso, dương địa hoàng. Bờ biển nước ta dài trên 3200 km chạy dài từ Bắc vào

Nam nên có nhiều hải sản quý dùng làm thuốc. Nếu biết tận dụng khai thác, nghiên

cứu nuôi trồng một cách hợp lý sẽ có nhiều đóng góp cho ngành dược và phát triển

kinh tế nước nhà.

Về kinh tế, Nhà nước xếp cây thuốc vào loại cây công nghiệp cao cấp cần được

phát triển. Hàng năm, các công ty dược liệu cấp I và cấp II, gần đây cả các công ty tư

nhân đã khai thác nhiều mặt hàng có giá trị để sử dụng trong nước và xuất khẩu như:

hoa hoè, quế, sa nhân, dừa cạn, các loại tinh dầu như: tinh dầu hồi, tinh dầu tràm, tinh

dầu bạc hà, tinh dầu sả...

Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác phát triển, nuôi trồng và khai thác

dược liệu thể hiện qua báo cáo chính trị của Ban chấp hành TƯ Đảng “ một nhiệm vụ

cấp bách là khai thác mọi khả năng sẵn có trong nước nhằm tạo cho được các nguồn

dược liệu, tích cực xây dựng công nghiệp dược phẩm và sản xuất thiết bị y tế tạo mọi

điều kiện để sớm khắc phục tình trạng thiếu thuốc kể cả con đường xuất để nhập”

Qua đó càng thấy rõ vai trò quan trọng của dược liệu trong ngành y tế và nền y

tế quốc dân

II.THU HÁI, CHẾ BIẾN VÀ BẢO QUẢN DƯỢC LIỆU

1. Thu hái dược liệu

Dược liệu có chất lượng tốt hay xấu chủ yếu là do hàm lượng hoạt chất chứa

trong dược liệu nhiều hay ít. Hoạt chất của dược liệu thay đổi bởi nhiều yếu tố như:

trồng trọt, thu hái, phơi sấy, bảo quản, đặc biệt là vấn đề thu hái. Nếu thu hái đúng

nguyên tắc thì hàm lượng hoạt chất có trong dược liệu đạt mức tối đa. Trong mỗi dược

liệu có thể có nhiều hoạt chất khác nhau, hàm lượng của mỗi hoạt chất có thể tuỳ theo

mùa, theo chu kỳ phát triển của cây. Nếu ta thu hoạch đúng thời gian thì sẽ nhận được

dược liệu có chứa hoạt chất tối đa. Ví dụ: Bạc hà, hàm lượng tinh dầu (Menthol) đạt

tối đa lúc cây bắt đầu ra hoa, thu hoạch lúc trời nắng

Với cây canhkina, hàm lượng alkaloid trong vỏ cây tăng theo thời gian phát

triển của cây và đạt tối đa vào năm thứ 7.

Sau đây là nguyên tắc chung quy định thời kỳ thu hoạch cho từng bộ phận của

cây.

1.1. Rễ và thân rễ: nên thu hoạch vào thời kỳ mùa thu hoặc mùa đông. Lúc đó, rễ và

thân rễ chứa nhiều hoạt chất nhất. Song cũng có trường hợp đặc biệt như rễ bồ công

8

anh cần thu hái vào giữa mùa hè vì lúc đó ở rễ mới có nhiều hoạt chất cần cho việc

chữa bệnh.

Rễ và thân rễ nói chung có thể đào vào lúc ẩm ướt vì sau đó vẫn phải rửa sạch

đất cát trước khi phơi sấy hoặc chế biến.

1.2. Vỏ cây: thường thu hoạch vào mùa xuân, thời kỳ này nhựa cây hoạt động mạnh,

nhiều hoạt chất, vỏ dễ bóc. Đôi khi có thể thu hái vào mùa thu khi cây sắp tàn lụi.

1.3. Lá và ngọn cây: Thường thu hái cho thời kỳ cây quang hợp mạnh nhất, đặc biệt là

thời kỳ cây bắt đầu ra hoa, không nên hái khi quả và hạt đã chín.

1.4. Hoa: Phải hái lúc trời nắng ráo, hái trước hoặc đúng lúc ra hoa, thụ phấn; trừ vài

trường hợp như hoa hoè hoặc đinh hương (hái khi chưa nở hoa, còn ở trạng thái nụ)

1.5. Quả: Thu hoạch tuỳ theo từng loại, có loại hái khi quả đã già như tiểu hồi, sà

sàng; có khi hái trước khi quả chín như quả mở, hồ tiêu; cũng có khi hái quả còn xanh

thì hoạt chất nhiều, khi chín thì hoạt chất thấp.

1.6. Hạt: Thu hái khi quả chín già. Riêng đối với loại quả tự mở khi chín, thì thu hái

vào thời điểm quả bắt đầu chín.

1.7. Thân cây: Thu hái khi cây bắt đầu ra hoa, cắt từ phía dưới lá tươi cuối cùng của

các bộ phận của cây trên mặt đất như thân, nhánh mang lá hoa (bỏ phần thân, nhánh

không còn lá, gốc rễ.

Trên đây là một số nguyên tắc chung, tuy nhiên người làm công tác dược liệu

cần chú ý theo dõi sự thay đổi hàm lượng của hoạt chất, định thời gian thu hoạch để

được kết quả tốt nhất.

2. Ổn định dược liệu

Dược liệu có nguồn gốc thảo mộc thường chứa nhiều enzym như: enzym thuỷ

phân cắt các dây nối osid, enzym oxy hoá, enzym trùng hợp hoá… Người ta đã phân

lập được hàng trăm enzym khác nhau. Bản chất của enzym là protein hoặc có phần cơ

bản là protein. Tuy vậy, cấu trúc của chúng chưa được biết đầy đủ. Có thể nói enzym

là những chất xúc tác hữu cơ của các phản ứng xảy ra trong các tế bào thực vật và

động vật. Enzym tồn tại trong dược thảo sau khi thu hái sẽ hoạt động mạnh ở nhiệt độ

25oC đến 50oC, với độ ẩm thích hợp; chúng tác động lên các hoạt chất có tác dụng

chữa bệnh để chuyển thành các sản phẩm ít hoặc không có tác dụng chữa bệnh.

Với phương pháp làm khô sẽ trình bày sau đây hoặc làm lạnh hoặc nghiền dược

liệu tươi với các hoá chất như amoni sulfat, natri clorid thường chỉ ức chế enzym.

Chúng sẽ hoạt động trở lại khi có điều kiện thích hợp. Để phá huỷ enzym, làm cho

chúng không hoạt động trở lại người ta đề ra các phương pháp gọi là phương pháp ổn

định.

9

2.1 . Phương pháp phá hủy enzym bằng cồn sôi:

Cách làm như sau: Cắt nhỏ dược liệu tươi thả từng ít một vào cồn 95o đang sôi.

Lượng cồn dùng thường gấp 5 lần lượng dược liệu. Sau khi đã cho hết dược liệu lắp

ống sinh hàn đứng và giữ cho cồn sôi 30-40 phút, để nguội gạn lấy cồn. Dược liệu đem

giã nhỏ và chiết kiệt lần 2. Như vậy ta có một dung dịch cồn hoặc cao sau khi bốc hơi

cồn chứa các hoạt chất của cây tươi.

2.2 . Phương pháp dùng nhiệt ẩm:

- Hơi cồn:

Dùng nồi hấp cho vào ít cồn 95o xếp dược liệu trên các vỉ chồng lên nhau, vỉ

dưới cùng nằm trên mặt cồn, vỉ trên cùng được đậy bằng nón kín sao cho cồn khi đọng

lại không nhỏ lên dược liệu. Đậy nồi vòi thoát để ngỏ. Đun nhanh và dẫn hơi cồn ra xa

lửa bằng một ống dẫn. Sau khi đã xả hết không khí, đóng vòi lại làm tăng áp suất và

giữ vài phút ở 1,25 atmophe. Để nguội mở nồi lấy dược liệu ra làm khô. Phương pháp

này cho ta dược liệu có màu sắc đẹp, thành phần hoá học giống dược liệu tươi.

- Hơi nước:

Cách tiến hành như trên nhưng thay cồn bằng hơi nước và giữ ở nhiệt độ 105-

110oC trong vài phút. Phương pháp này hay dùng với dược liệu dày, cứng như rễ, vỏ,

thân, hạt; nhưng có nhược điểm tinh bột biến thành hồ, protein bị đông lại do đó sau

khi làm khô dược liệu có trạng thái sừng làm cho việc chiết xuất hoạt chất khó khăn.

2.3 . Phương pháp dùng nhiệt khô:

Phương pháp này được sử dụng từ lâu để chế biến chè xanh bằng cách sao để

phá huỷ enzym, ngược lại muốn chế chè đen thì để cho enzym hoạt động. Ở quy mô

công nghiệp, người ta ổn định bằng cách thổi một luồng gió nóng 80-110oC có khi còn

nóng đến 300oC trong một thời gian ngắn đi qua dược liệu. Phương pháp này không

hoàn hảo vì trong môi trường khô enzym khó bị phân huỷ. Ngoài ra vì do làm nóng

nhanh nên tạo ra xung quanh dược liệu một lớp mỏng khô phía ngoài làm cho việc làm

khô dược liệu bị khó khăn, hơn nữa một vài chất trong dược liệu cũng bị biến đổi như

protein bị vón, tinh dầu bị bay hơi, đường bị caramen.

Đó là một số phương pháp chính để phá huỷ enzym đảm bảo cho hoạt chất trong

dược liệu sau khi làm khô được giữ nguyên vẹn như khi còn tươi.

Tuy nhiên cũng có trường hợp người ta cứ để enzym tồn tại hoạt động để làm

tăng lượng hoạt chất mong muốn để chữa bệnh. Ví dụ: muốn làm tăng lượng diosgenin

trong nguyên liệu người ta ủ nguyên liệu tươi trong nước.

3. Làm khô dược liệu

Làm khô dược liệu nhằm mục đích để bảo quản dược liệu khỏi bị nhiễm nấm

mốc, nhiễm vi khuẩn, khỏi bị tác động của enzym, hạn chế các biến đổi hoá học có thể10

xảy ra trong dược liệu, như: thuỷ phân, oxy hoá, đồng phân hóa, trùng hợp hóa... Dược

liệu khô sẽ dễ xay nghiền và vận chuyển thuận lợi. Làm khô liên quan đến 2 yếu tố là

nhiệt độ và thông hơi. Tuỳ theo yêu cầu của mỗi dược liệu mà nhiệt độ và thời gian

phơi sấy được khống chế.

3.1 . Phơi: Có hai cách phơi:

- Phơi dưới ánh nắng mặt trời: thông thường dược liệu được trải trên các tấm

liếp đặt cao khỏi mặt đất vừa để tránh lẫn đất cát vừa để thoáng khí cả 2 mặt. Trong

quá trình phơi thường xuyên đảo, thời gian phơi có thể kéo dài từ vài giờ đến vài ngày

tuỳ theo lượng nước chứa trong dược liệu và tuỳ theo thời tiết.

Cách phơi này đơn giản ít tốn kém nhưng có một số nhược điểm như bị động

bởi thời tiết, nhiễm bụi, thu hút ruồi nhặng với dược liệu có đường, một số hoạt chất

trong dược liệu có thể bị biến đổi bởi tia tử ngoại

- Phơi trong bóng râm: Dược liệu trải mỏng trên các liếp hoặc buộc thành bó

nhỏ rồi treo hay vắt theo hình chữ X trên các sợi dây thép. Việc làm khô được để

trong nhà xung quanh không có vách. Phơi trong râm thường áp dụng với dược liệu là

hoa để bảo vệ màu sắc hoặc các dược liệu chứa tinh dầu.

3.2. Sấy: là biện pháp tuy tốn kém song có lợi ở chỗ không bị động bởi thời tiết, rút

ngắn thời gian làm khô, bảo vệ dược liệu khỏi bị ảnh hưởng bởi tia tử ngoại, làm khô

nhanh làm giảm tác động của enzym tới hoạt chất có trong dược liệu.

Khác với phơi, sấy phải thực hiện trong buồng kín có lỗ thông hơi, nhiệt độ của

lò sấy có thể điều chỉnh thay đổi từ 30-80oC lúc khởi đầu không nên để nhiệt độ quá

cao vì sẽ tạo ra lớp mỏng khô bao ngoài dược liệu ngăn cản sự bốc hơi nước của lớp

bên trong. Điều kiện thông hơi thường dùng quạt hút cũng phải theo dõi để vừa đủ đẩy

hết không khí bão hoà hơi nước khỏ buồng sấy, đối với các loại củ, rễ hoặc thân rễ

thường thái mỏng hay đập dập để dễ khô.

Hiện nay với dược liệu người ta hay thiết kế buồng sấy kiểu hầm thông: thiết bị

cung cấp nhiệt được đặt ở một đầu buồng sấy và ở dưới thấp, quạt gió hút ở đầu đối

diện và phía trên cao. Trong hầm thông có các đường ray để các xe mang các khay sấy

chứa dược liệu di chuyển dễ dàng. Các khay xếp chồng lên nhau có khoảng cách ở

giữa vừa đủ để không khí lưu thông dễ dàng. Lúc bắt đầu sấy người ta đặt xe ở đầu lối

vao đối diện với nguồn cung cấp nhiệt sau đó đẩy xe thứ 1 lên rồi xe thứ 2 và cứ tiếp

tục tiến hành như vậy. Điều chỉnh nhiệt độ và để thời gian khi xe tới gần lò nhiệt thì

dược liệu đã khô và cho ra khỏi lò sấy.

3.3. Làm khô trong tủ sấy ở áp suất giảm:

Dược liệu được đặt trong tủ sấy có cửa đóng kín có nhiệt kế để theo dõi nhiệt

độ và đồng hồ đo áp suất. Tủ được nối với máy hút chân không. Nhờ sấy ở điều kiện11

áp suất giảm nên thời gian sấy nhanh và có thể sấy ở nhiệt độ thấp (25-40oC) Phương

pháp này không thực hiện được với khối lượng dược liệu lớn, thường dùng làm khô

một số cao thuốc hoặc sấy dược liệu quý mà hoạt chất dễ bị hỏng bởi nhiệt độ.

3.4. Đông khô:

Đây là phương pháp làm khô bằng cách cho tinh thể nước đá thăng hoa. Muốn

vậy trước hết cho nguyên liệu được làm lạnh thật nhanh ở nhiệt độ rất thấp (-80oC) để

nước chứa bên trong nguyên liệu kết tinh nhanh ở dạng tinh thể nhỏ. Nguyên liệu được

giữ ở nhiệt độ thấp trong quá trình đông khô và được đặt trong buồng kín có nối với

máy hút chân không. Nước ở thể rắn trong nguyên liệu sẽ thăng hoa trong điều kiện áp

suất rất giảm (10-5mmHg). Với phương pháp đông khô nguyên liệu có thể làm khô

tuyệt đối, các hoạt chất không bị bay hơi cũng được bảo vệ nguyên vẹn, các enzym bị

ức chế nhưng có thể hoạt động trở lại ở điều kiện bình thường, cấu trúc của các mô

cũng không bị biến đổi. Phương pháp đông khô thường chỉ dùng để làm khô một số

dược liệu quý như nọc rắn, sữa ong chúa hoặc trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu

dược liệu chứa những chất dễ bị biến đổi.

4. Chọn lựa đóng gói và bảo quản dược liệu

4.1. Chọn lựa:

Việc chọn lựa mặc dầu đã được thực hiện trong quá trình thu hái. Tuy nhiên sau

khi sấy khô nhất thiết phải chọn lại dược liệu trước khi đóng gói đưa ra thị trường để

đảm bảo dược liệu đạt tiêu chuẩn quy định. Một số quy định thường được đề ra là:

- Tạp chất bao gồm các tạp chất hữu cơ (Rơm, rác, vật lạ khác...) hoặc vô cơ

(đất, cát...)

- Các bộ phận khác không phải bộ phận quy định được dùng (lá lẫn với cành, rễ

lẫn với thân....)

- Màu sắc, mùi vị

- Tỷ lệ vụn nát

- Nhiều mối mọt

Công việc chọn lựa chủ yếu bằng tay, có thể dùng dụng cụ hoặc máy móc đơn

giản như rây có các cỡ mắt khác nhau, quạt gió...

4.2. Đóng gói:

Mục đích của đóng gói là bảo vệ dược liệu về mọi mặt trong thời gian vận

chuyển hay bảo quản.

Khi đóng gói cần theo đúng tiêu chuẩn về loại bao bì, kích thước, khối lượng,

hình dáng. Phải có nhãn ghi rõ: Tên dược liệu, khối lượng nguyên, khối lượng cả bì,

nơi sản xuất, số kiểm soát. Nếu đóng gói nhỏ có thể dùng ngay thì trên nhãn ghi rõ cả

công dụng, cách dùng, liều dùng, hạn dùng.12

4.3. Bảo quản:

Bảo quản dược liệu nhằm giữ hình thức và phẩm chất của dược liệu không bị

giảm sút.

Trong thời gian bảo quản, dược liệu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Nhiệt độ,

ánh sáng, độ ẩm, đặc biệt ẩm ướt là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng dược

liệu. Nếu dược liệu dễ hút ẩm phải đựng trong bao bì bằng nhựa tổng hợp hay bằng

sắt, đáy có để chất hút ẩm.

Muốn bảo vệ dược liệu tốt phải xây dựng kho chứa đúng quy cách. Xây dựng

bằng nguyên liệu chống cháy, kho phải mát, thoáng gió, khô ráo (có hệ thống thông

gió) giữa các giá phải có lối đi lại. Các dược liệu xếp theo từng khu vực để dễ tìm, dễ

kiểm soát. Dược liệu độc như cà độc dược, ô đầu, mã tiền... và các dược liệu có tinh

dầu như: hồi, quế, bạc hà... phải để riêng, định kỳ theo dõi nấm mốc, sâu bọ.

Khi dược liệu bị nấm mốc thì phải xử lý như rửa, lau nước hoặc lau cồn rồi

phơi sấy lại. Nếu nhiễm nặng thì loại bỏ.

Nếu dược liệu bị sâu mọt thì phương pháp tốt nhất là sấy ở 65oC. Dược liệu với

số lượng ít và dễ bị sâu mọt thường đựng trong hộp hay thùng sắt kín và nhỏ xuống

đáy thùng một vài giọt chloroform.

III. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ DƯỢC LIỆU

Đánh giá một dược liệu nghĩa là: Xác định dược liệu đó có đúng tiêu chuẩn quy

định không. Khi đánh giá dựa vào tiêu chuẩn nhà nước ghi trong Dược điển hoặc tiêu

chuẩn nghành.

Tiêu chuẩn của một dược liệu được quy định: đặc điểm bên ngoài, đặc điểm vi

học, thành phẩm và hàm lượng hoạt chất, tỷ lệ hoạt chất, độ tro, độ ẩm. Những tiêu

chuẩn đó được đề ra để đảm bảo chất lượng của dược liệu và có căn cứ để giao dịch

trên thị trường.

Có thể xếp các phương pháp đánh giá như sau:

1. Cảm quan

Phương pháp cảm quan là dùng giác quan của con người để đánh giá như nhìn

bên ngoài về hình dáng, kích thước, màu sắc, đối với một vài dược liệu phải bẻ ra để

quan sát bên trong. Mùi là đặc điểm của nhiều dược liệu chứa tinh dầu, nhựa. Vị có thể

ngọt như cam thảo, cỏ ngọt, long nhãn. Chua với dược liệu chứa acid hữu cơ. Đắng

với dược liệu chứa alcaloid, glycosid. Cay như ớt, gừng, hạt tiêu....

2. Sử dụng kính hiển vi

Phương pháp này bao gồm soi vi phẫu và soi bột. Đây là phương pháp hay

dùng nhất để kiểm nghiệm dược liệu. Trong một vài trường hợp, phương pháp này lợi

hơn phương pháp hoá học. Ví dụ: phân biệt các loại tinh bột. Một vài mảnh lá trúc đào13

trong dạ dày tử thi được xác định dễ dàng bằng soi vi phẫu hơn là làm phản ứng tìm

oleandrosid.

Dùng kính hiển vi không chỉ xác định sự giả mạo mà còn có thể ước lượng tỷ lệ

chất giả mạo căn cứ vào số lượng các đặc điểm nào đó của màu dược liệu so sánh với

màu đối chứng.

3. Phương pháp hoá học

Phần lớn các dược liệu đều có thành phần hoạt chất xác định, các hoạt chất này

có thể cho các phản ứng màu đặc trưng. Người ta dựa vào đó để định tính và định

lượng. Đôi khi người ta dựa vào thành phần hoá học không phải là hoạt chất chữa bệnh

nhưng lại đặc trưng cho dược liệu đó để đánh giá. ( Ta tìm hiểu trong các chương cụ

thể về sau)

4. Phương pháp vật lý

Trong nhiều trường hợp có thể phát hiện bị pha lẫn hay giả mạo bằng cách soi

mặt cắt dược liệu hay bột dược liệu dưới đèn phân tích tử ngoại. Có khi trước khi soi,

nhỏ lên bột dược liệu một vài loại thuốc thử (kiềm, acid...) Một số cao dược liệu cũng

cho màu sắc khác nhau các hoạt chất cũng vậy.

Ví dụ: Aconitin (lơ sáng), Berberin (vàng), Emetin (đỏ cam)...

Trong dung dịch oxy acid ngay dưới ánh sáng thường và rất rõ dưới ánh sáng tử

ngoại.

Việc ứng dụng các hằng số vật lý để đánh giá thường hay tiến hành đối với tinh

dầu, dầu béo và các hoạt chất.

Tỷ trọng: (đặc biệt với tinh dầu và dầu béo)

Vi dụ: Tỷ trọng tinh dầu bạc hà ở 20oC là 0.890-0.922. Tỷ trọng của mật ong ở

20oC là không dưới 1.380.

Góc quay cực riêng:

Đối với chất lỏng như tinh dầu, dầu béo thì: [α]D25 =

Đối với hoạt chất rắn: [α]D25 =

α = góc quay cực đo được

l = bề dày lớp chất tính bằng decimet

d = tỉ trọng chất

c = nồng độ phần trăm của chất trong dung dịch

đo góc quay cực và tỷ trọng ở cùng nhiệt độ ví dụ ở đây là 25oC.14

ld

α

ld

l x c

α x 100

Chỉ số khúc xạ:

đặc biệt với tinh dầu và dầu béo.

Ví dụ: chỉ số khúc xạ của tinh dầu hương nhu trắng ở 20oC = 1.510 – 1.528

Nhiệt độ đông đặc: Với tinh dầu và dầu béo.

Ví dụ: nhiệt độ đông đặc của tinh dầu hồi phải trên +15oC.

Nhiệt độ nóng chảy:

Với sáp ong hoặc alcaloid, glycosid....

Ví dụ: nhiệt độ nóng chảy của sáp ong vàng là 62 – 66oC.

5. Xác định độ ẩm

Mỗi dược liệu thường được quy định một giới hạn độ ẩm nhất định: như Dược

điển II tập 3 quy định độ ẩm của lá thanh cao hoa vàng không quá 13%, quá độ ẩm đó

thì dược liệu dễ bị mốc. Song với việc định lượng hoạt chất cũng cần phải xác định độ

ẩm để quy hàm lượng so với dược liệu khô tuyệt đối.

Có thể xác định độ ẩm bằng cách sau:

- Sấy trong tủ sấy ở áp suất bình thường

- Sấy trong tủ sấy ở áp suất giảm (có máy hút chân không)

- Làm khô trong bình hút ẩm với những chất hút nước mạnh như acid sulfuric

đậm đặc và áp suất giảm có máy hút chân không.

Hai cách sau thường áp dụng với dược liệu quý dễ bị hỏng bởi nhiệt độ và ta

cần thu hồi như sữa ong chúa, nọc rắn.

Với dược liệu chứa tinh dầu thì xác định độ ẩm bằng phương pháp cất lôi cuốn

đẳng phí, nghĩa là lôi cuốn nước bằng cách cất với một dung môi hữu cơ không trộn

lẫn được với nước nhưng lại cho với nước một hỗn hợp đẳng phí có nhiệt độ sôi ổn

định. Sau khi ngưng tụ và để nguội, nước được tách ra và đọc thể tích. Dung môi hữu

cơ có thể dùng là xylen, toluen...

6. Định lượng tro

Tro toàn phần:

Tro toàn phần là khối lượng cắn còn lại sau khi nung cháy hoàn toàn một dược

liệu. Để có thể so sánh được kết quả cần tiến hành trong điều kiện nhất định.

Ví dụ: Trong chén nung bằng sứ đường kính 35mm, sơ bộ đã đem nung đỏ, để

nguội và cân bì, đặt mẫu dược liệu đã cắt hoặc tán nhỏ (1-5gram) đã cân chính xác;

lúc đầu đốt nhẹ rồi tăng dần nhiệt độ để dược liệu cháy hết, cần theo dõi và điều chỉnh

nhiệt độ để tránh than không bị thoát ra khỏi miệng chén, đốt xong cho chén vào lò

nung ở nhiệt độ 500oC cho đến khi thu được khối lượng không đổi. Để tránh các dược

liệu hoá gỗ tạo than khó đốt cháy, có thể ngừng nung rồi làm ẩm bằng nước cất hoặc

15

acid nitric đậm đặc rồi đem nung lại. Sau khi tro không còn màu đen, người ta để

nguội trong bình hút ẩm rồi đem cân khối lượng.

Tro không tan trong acid hydrocloric:

Thêm vào tro toàn phần 5ml HCl 10% đậy chén nung bằng một mặt kính đồng

hồ và đem đun cách thuỷ trong 10 phút. Dùng 5ml nước cất rửa mặt kính đồng hồ.

Dùng nước rửa này pha loãng dung dịch còn lại trong chén, lọc dung dịch qua giấy

lọc không tro, Rửa cắn và giấy lọc bằng nước cất nóng cho đến khi nước rửa không

còn phản ứng của ion cloid nữa, chuyển giấy lọc có chứa cắn vào chén nung ở trên

sấy khô, đốt rồi nung ở nhiệt độ 500oC cho đến khối lượng không đổi. Trừ trường hợp

đặc biệt như mộc tặc cho biểu thị chủ yếu là các cấu tạo bởi silicoxyd, do dược liệu

không làm sạch kĩ.

Tro sulfat:

Tro sulfat là tro còn lại khi nhỏ acid sulfuric lên dược liệu và đem nung.

Phương pháp này cho kết quả ổn định hơn phương pháp tro toàn phần vì các carbonat

và oxyd được chuyển thành sulfat.

7. Phương pháp sắc ký

Đây là phương pháp rất hữu hiệu áp dụng để định tính, định lượng và chiết tách

các thành phần hoá học của dược liệu. Về cơ sở lý thuyết sắc ký sinh viên đã học ở

môn phân tích ở đây chỉ nhắc lại một số sắc ký hay áp dụng cho dược liệu là: sắc ký

cột, sắc ký giấy, sắc ký lớp mỏng và sắc ký khí.

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Môn học dược liệu ra đời từ khi nào? Ai được coi là ông tổ ngành dược Việt Nam?

2. Dược liệu có vai trò như thế nào đối với nền kinh tế quốc dân? Chúng ta nên có định

hướng như thế nào đối với sự phát triển dược liệu trong giai đoạn hiện nay?

3. Vì sao phải thu hái, chế biến, bảo quản dược liệu? Có những cách thu hái, chế biến

và bảo quản dược liệu nào?

4. Tại sao phải đánh giá dược liệu? Có những phương pháp đánh giá dược liệu nào?

Trả lời các câu sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (…):

5. Dược liệu học là môn học nghiên cứu về …. và ….. những nguyên liệu dùng làm

thuốc có nguồn gốc từ động vật và thực vật.

6. Kể tên bốn phương pháp đánh giá dược liệu:

A. …

B. …

16

C. …

D. …

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) và

chữ B (cho câu sai):

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp

mà bạn lựa chọn:

14. Ai được coi là ông tổ của ngành dược cổ đại:

A. Tuệ Tĩnh

B. A. Petolot

C. Hippocrat

D. Hải Thượng Lãn Ông

15. Ai được nhân dân Việt Nam coi là “Đại y tôn của Việt Nam”:

A. Hải Thượng Lãn Ông

B. Tuệ Tĩnh

C. Đỗ Tất Lợi

D. Chu Văn An

16. Ephedrin được chiết xuất ra từ cây:

A. Dương địa hoàng

B. Ma hoàng

C. Cúc hoa vàng

D. Sừng dê hoa vàng

17. Bộ phận nào của cây được thu hái vào mùa xuân:

A. Quả

B. Thân rễ

C. Rễ

17

7. Người Ai Cập thời đại xưa đã có trình độ cao về ướp xác từ năm

1550 trước công nguyên.

8. Morphin được chiết suất ra từ dược liệu mà chưa thể đi bằng con

đường tổng hợp.

9. Rễ cây được thu hoạch vào thời kỳ thu hoặc đông.

10. Thân rễ được thu hoạch vào thời kỳ mùa xuân.

11. Rễ cây Bồ công anh được thu hái vào mùa thu.

12. Hoa sau khi thu hoạch phải phơi ngay dưới trời nắng để hoa

không bị thâm.

13. Để chế biến chè xanh người ta phải sao để cho Enzym hoạt động.

A – B

A – B

A – B

A – B

A – B

A – B

A – B

D. Vỏ cây

18. Thân cây thu hái vào thời kỳ:

A. Cây bắt đầu ra hoa

B. Khi quả chín

C. Lúc cây rụng lá

D. Cây bắt đầu nảy lộc

19. Phương pháp làm khô bằng cách cho tinh thể nước đá thăng hoa là:

A. Phơi

B. Làm khô trong tủ ở áp suất giảm

C. Sấy

D. Đông khô

20. Để ổn định dược liệu, người ta dùng:

A. 2 phương pháp

B. 3 phương pháp

C. 4 phương pháp

D. 5 phương pháp

18

CHƯƠNG II

DƯỢC LIỆU CHỨA NHỮNG HỢP CHẤT

ANTHRANOID

MỤC TIÊU

1. Trình bày được tính chất, đặc điểm cấu trúc của 3 nhóm anthranoid: nhóm

phẩm nhuộm, nhóm nhuận tẩy, nhóm dimer.

2. Trình bày được tính chất của anthranoid và định tính được anthranoid trong

dược liệu.

3. Trình bày được nguyên tắc chiết xuất anthranoid từ dược liệu, tác dụng sinh

học và công dụng của anthranoid.

4. Trình bày được nguồn gốc, thành phần hóa học, công dụng chính của các

dược liệu chứa anthranoid và hướng dẫn sử dụng được các dược liệu chứa

anthranoid..

NỘI DUNG

1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ANTHRANOID

Những hợp chất anthranoid nằm trong nhóm lớn hydroxyquinon. Những hợp

chất quinon cũng là những sắc tố, được tìm thấy chủ yếu trong ngành nấm, địa y, thực

vật bậc cao nhưng cũng còn tìm thấy trong động vật.

Căn cứ vào số vòng thơm đính thêm vào nhân quinon mà người ta sắp xếp

thành benzoquinon, naphtoquinon, anthraquinon và naphtacenquinon hay còn gọi là

anthracyclinon (4 vòng). Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến nhóm anthraquinon hay

anthranoid. Khi tồn tại dưới dạng glycosid thì được gọi là anthraglycosid hay

anthracenosid. Cũng như các loại glycosid khác, anthraglycosid khi bị thuỷ phân thì

giải phóng ra phần aglycon và phần đường. Phần aglycon là dẫn chất 9, 10-

anthracendion. Vì trong tự nhiên hầu như chưa gặp các dẫn chất 1,2 hoặc 1,4-

anthracendion nên khi nói đến các dẫn chất anthraquinon trong tự nhiên thì người ta

hiểu rằng đó là những dẫn chất 9,10-anthracendion.

2. PHÂN NHÓM

2.1. Nhóm phẩm nhuộm

Những dẫn chất thuộc nhóm này có màu từ đỏ cam đến tía; trong cấu trúc có 2

nhóm OH kế cận ở vị trí và và hay gặp trong một số chi thuộc họ Cà phê -

Rubiaceae. Ví dụ: alizarin = 1,2- dihydroxy anthraquinon; acid ruberythric = 2-

primeverosid của alizarin; Purpurin = 1,2,4- trihydroxyanthraquinon.

19

Alizarin Purpurin

2.2. Nhóm nhuận tẩy

Những dẫn chất thuộc nhóm này thường có 2 nhóm OH đính ở vị trí 1,8 và ở vị

trí 3 thường là nhóm CH3, CH2OH, CHO hoặc COOH nên còn được gọi là nhóm

oxymethyl-anthraquinon. Người ta hay gặp các dẫn chất có cùng cấu trúc, chỉ khác

nhau ở mức độ oxy hoá ở C3, trong cùng một loài. Ví dụ trong đại hoàng, chút chít,

thảo quyết minh thì có mặt cả 3 chất chrysophanol, aloe emodin, rhein.

Những dẫn chất anthranoid khi ở trong thực vật có thể tồn tại dưới dạng oxy

hoá (anthraquinon) hoặc dạng khử (anthron, anthranol). Nếu khử một trong 2 nhóm

chức aceton của anthraquinon sẽ cho dẫn chất anthron hoặc đồng phân hổ biến của

chất này là anthranol (dạng enol). Nếu khử tiếp thì dẫn đến dẫn chất dihydroanthranol.

Dạng khử có tác dụng xổ mạnh nhưng hay gây đau bụng, vì vậy một số dược

liệu chứa anthranoid phải để một năm sau khi thu hái mới dùng để dạng khử chuyển

thành dạng oxy hoá.

20

Chrysophanol: R=CH3

Aloe emodin R=CH2OHRhein R=COOH

2.3. Nhóm dimer:

Một số dẫn chất anthranoid dimer do 2 phân tử ở

dạng anthron bị oxy hoá rồi trùng hợp với nhau tạo

thành dianthron hoặc tiếp đến các dẫn chất

dehydrodianthron ví dụ sự tạo thành hypericin là chất có

trong cây Hypericum perforatum, có tác dụng kháng

khuẩn dùng chữa viêm dạ dày, ruột, răng, miệng.

Một số ví dụ khác là các chất: ararobinol (có trong

cốt khí muồng và trong các loài Rumex spp.), sennosid

A,B,C (có trong phan tả diệp) hoặc rheidin A, B, C (có

trong đại hoàng).

Khi tạo thành dimer nếu 2 nửa phân tử giống nhau thì gọi là homodianthron ví

dụ arabinol, sennosid A, B; nếu 2 phân tử không giống nhau thì gọi là heterodianthron

ví dụ sennosid C, rheidin A.

Trong khi chi Cassia người ta còn gặp một số dimer dạng dianthraquinon như

cassianin, cassiamin.

3. TÍNH CHẤT VÀ ĐỊNH TÍNH (chủ yếu nhóm nhuận tẩy)

- Những dẫn chất anthraquinon đều có màu từ vàng, vàng cam đến đỏ.

21

Sennosid A, B

hypericin

Cassianin

- Dễ thăng hoa nên có thể lợi dụng tính chất này để định tính bằng cách làm vi

thăng hoa anthraquinon trên lam kính rồi soi tinh thể qua kính hiển vi, sẽ thấy hình

kim màu vàng.

- Ở thể glycosid dễ tan trong nước, còn thể tự do (aglycon) thì tan trong ether,

chloroform và một số dung môi hữu cơ khác.

- OH ở vị trí α thì có tính acid yếu hơn ở vị trí β do tạo dây nối hydro với

nhóm carbonyl nên các dẫn chất chỉ có OH α thì chỉ tan được trong dung dịch NaOH.

Các dẫn chất có OH β nhưng không có nhóm COOH trong phân tử thì tan được trong

dung dịch NaOH và carbonat. Các dẫn chất có nhóm COOH thì tan trong dung dịch

NaOH, carbonat, và cả hydrocarbonat.

- Dẫn chất oxyanthraquinon mà có ít nhất một nhóm OH α thì cho màu với Mg

acetat trong cồn, ngoài ra màu đậm nhạt còn phụ thuộc vào các nhóm OH khác, nếu là

dẫn chất 1,2- dihydroxy thì cho màu tím, 1,4-dihydroxy thì cho màu tía, còn 1,6 và 1,8

màu đỏ cam.

- Dẫn chất có 1,4- dihydroxy sẽ có huỳnh quang trong dung dịch acid acetic.

Ngoài ra các dẫn chất này còn cho màu xanh dương rõ với H2SO4.

- Các dẫn chất thuộc nhóm nhuận tẩy khi ở trong dung dịch kiềm tạo phenolat

có màu đỏ và dưới ánh sáng U.V (365nm) cho huỳnh quang tím hoặc đỏ nâu. Dựa vào

tính chất này để định tính (phản ứng Borntraeger): lấy một ít bột dược liệu cho vào

ống nghiệm, thêm dung dịch H2SO4 25%, đun nhẹ để thuỷ phân glycosid (nếu có) ra

dạng aglycon. Đối với một số dẫn chất anthranol ví dụ barbaloin

4. CHIẾT XUẤT

Muốn chiết xuất glycosid, dùng cồn ethylic hoặc cồn methylic hoặc hỗn hợp

cồn - nước. Muốn chiết phần aglycon, thuỷ phân bằng acid sau đó chiết bằng ether

hoặc chloroform.

5. TÁC DỤNG SINH LÝ VÀ CÔNG DỤNG

Các dẫn chất anthraglycosid, chủ yếu là các β-glucosid dễ hoà tan trong nước,

không bị hấp thụ cũng như bị thuỷ phân ở ruột non. Khi đến ruột già, dưới tác dụng

của β-glucosidase của hệ vi khuẩn ở ruột thì các glycoside bị thuỷ phân và các dẫn

chất anthraquinon bị khử tạo thành dạng anthron và anthranol là dạng có tác dụng tẩy

xổ, do đó có thể giải thích lý do tác dụng đến chậm sau khi uống thuốc. Dạng genin thì

bị hấp thu ở ruột non nên không có tác dụng.

Do tác dụng làm tăng nhu động ruột nên với liều nhỏ các dẫn chất 1,8-

dihydroxyanthraquinon dưới dạng heterosid giúp cho sự tiêu hoá được dễ dàng, liều

vừa nhuận, liều cao xổ. Thuốc tác dụng chậm, 10 giờ sau khi uống mới có tác dụng. Vì

còn có tác dụng lên cơ nhẵn của bàng quang và tử cung nên dùng phải thận trọng đối

với người có thai, viêm bàng quang và tử cung. Bài tiết qua sữa nên cần chú ý đối với

các bà mẹ có con bú, bài tiết qua nước tiểu nên nước tiểu có thể có màu hồng.

22

Hình 2.1. Cây Phan tả diệp - Cassiaangustifolia, họ Vang - Caesalpiniaceae

Các dẫn chất anthraglycosid còn có tác dụng thông mật.

Hỗn hợp các dẫn chất anthraquinon có trong rễ cây Rubra tinctoria L. có tác

dụng thông tiểu và có khả năng tống sỏi thận.

Chrysophanol có tác dụng kháng nấm dùng để trị nấm, hắc lào, lang ben.

6. CÁC DƯỢC LIỆU CHỨA ANTHRANOID THUỘC CHI CASSIA

6.1. Phan tả diệp

Folium Sennae

Phan tả diệp là lá phơi hay sấy khô của cây

phan tả diệp lá hẹp Cassia angustifolia Vahl hay cây

Phan tả diệp lá nhọn Cassia acutifolia Delile, đều

thuộc họ Vang Caesalpiniaceae)

* Đặc điểm thực vật:

Phan tả diệp Cassi angustifoliaVahl. Là một

cây nhỏ cao chừng 1m. Lá kép lông chim chẵn, thường

gồm 5-8 đôi lá chét, cuống ngắn, phiến lá

chét về phía cuống hơi không đối xứng. Hoa

mọc thành chùm ở kẽ lá, gồm 6-14 hoa, cánh

hoa màu vàng, nhị 10. Quả đậu hình túi, dài 4-6cm, rộng 1-17cm, khi còn non có lông

trắng mềm, về sau rụng đi, trong quả có 4-7 hạt.

* Phân bố, thu hái và chế biến:

Những cây Phan tả diệp mọc hoang và được trồng ở các nước nhiệt đới châu

Phi, Ấn Độ. Ngoài việc sử dụng lá người ta còn dùng cả quả.

* Thành phần hoá học:

Hoạt chất chính của phan tả diệp là anthraglycosid với tỉ lệ từ 1-1,5%. Thành

phần chủ yếu của anthraglycosid là xenozit A và xenozid B tức là chất dihydro direin

anthron glycosid. Ngoài ra còn có aloe, emodin tự do và rein.

*. Công dụng

Tuỳ theo liều mà có tác dụng nhuận hoặc tẩy. Nếu uống thì có tác dụng sau 10-

12 giờ, nếu thụt thì có tác dụng nhanh. Tác dụng chủ yếu là gây co bóp ruột già, ngoài

ra còn tác dụng lên cơ trơn của bàng quang và tử cung nên phải thận trọng đối với

người có thai, viêm tử cung, viêm bàng quang. Liều: giúp tiêu hoá 1-2g lá, nhuận 3-4g,

tẩy xổ 5-7g.

23

Hình 2.3. Dược liệu thảo quyếtminh

Hình 2.2. Cây thảo quyếtminh – Cassia tora , họ Vang

– Caesalpiniaceae.

6.2. Thảo quyết minh

Semen Cassia torae

Thảo quyết minh là hạt phơi khô của cây thảo quyết minh – Cassia tora L., họ Vang –

Caesalpiniaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Thảo quyết minh là một cây nhỏ cao 30-90cm,

mọc hoang ở nhiều nơi nước ta, Campuchia, Lào, miền

nam Trung Quốc. Lá kép lông chim chẵn gồm 3-4 đôi

lá chét. Lá kèm hình sợi dài 1cm sớm rụng. Lá chét

hình trứng ngược, phía đỉnh lá nở rộng dài 3-4 cm,

rộng 12-25mm. Hoa mọc từ kẽ lá, tràng màu vàng có

1-3 chiếc. Quả loại đậu hình trụ dài 12-14cm, rộng

4mm, trong có chứa khoảng vài chục hạt.

* Bộ phận dùng:

Chủ yếu là hạt đã già. Hạt hình trụ, hai đầu vát

chéo, dài 5-7mm, rộng 1,5-2,5mm. Mặt ngoài màu nâu

lục bóng. Hai bên nổi lên thành 2 đường gờ, khi ngâm

vào nước thì vỏ hạt thường rách theo hai gờ này. Hạt

cứng, mặt cắt ngang màu vàng nhạt, không mùi, vị hơi

đắng, nhớt. Lá chét cũng được dùng nhưng ít.

* Thành phần hoá học :

Trong hạt thảo quyết minh có anthraglycosid. Khi thủy phân sẽ cho emodin và

glucoza. Ngoài ra còn có rein, crysophanola.

Những chất khác gồm có chất nhầy, chất protit, chất béo

và sắc tố.

* Công dụng:

Trong đông y, hạt thảo quyết minh dùng

uống để chữa đau mắt đỏ, mắt mờ, chảy nhiều

nước mắt, quáng gà. Còn dùng sống để chữa nhức

đầu, mất ngủ, làm thuốc giải nhiệt bổ thận. Ngày

dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc giã dập sao

kỹ rồi pha như pha trà.

6.3. Cốt khí muồng

Semen Cassiae occidentalis

Cốt khí muồng là hạt phơi khô của cây cốt khí muồng, còn có tên gọi khác là

vọng giang nam, muồng lá khế, dương giác đậu - Cassia occidentalis L., họ Vang –

Caesalpiniaceae.

24

Hình 2.4. Cây Cốt khí muồng -Cassia occidentalis, họ Vang –

Caesalpiniaceae.

Hình 2.5. Cây muồng trâu– Cassia alata, họ Vang –

Caesalpiniaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây mọc dại ở các bãi hoang, nhỏ, cao 1-2m,

sống một năm hoặc nhiều năm. Cây nhẵn, lá mọc so le.

Lá kép lông chim chẵn gồm 4-5 đôi lá chét. Toàn lá

dài 20cm hoặc hơn. Gốc lá kép có một tuyến lớn màu

nâu đen. Lá chét dài 4-9c m, đỉnh nhọn, lá kèm hình

sợi sớm rụng. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hay đầu

cành. Cánh hoa màu vàng. Quả loại đậu dài 6-15cm,

rộng 5-7mm, dẹt, hơi cong và hơi thắt lại giữa các hạt.

Hạt dẹt dài 6mm, rộng 4mm. Vỏ hạt cứng nhẵn bóng.

* Thành phần hoá học:

Hạt có: physcion, emodin, 1,8- đihdroxy- 2-

methyl anthraquinon, 1,4,5- trihydroxy 7- methoxy

anthraquinon, physicion glucosid, ararobinol. Chất

nhầy trong hạt cốt khí muồng thuộc loại galactomannan. Trong hạt còn có N-

methylmorpholin.

Lá có rất ít anthranoid. Hai flavonoid đã được phân lập từ lá: matteucinol-

7rhamnosid và jacedin- 7- rhamnosid.

Hoa có: Physicion, emodin, physcion glucosid.

Rễ có: chrysophanol, physcion, emodin, islandicin, helminthosporin. Ngoài ra

còn có một dẫn chất xanthon là cassiolin và phytosterol.

* Công dụng

Y học dân tộc cổ truyền dùng hạt với tác dụng nhuận, giúp tiêu hoá, chữa táo

bón mãn tính, chữa tê thấp. Ngoài ra còn dùng như thảo quyết minh để chữa đau mắt.

Ở Ấn Độ hạt được rang lên uống có tác dụng thông tiểu, chữa ho và chữa co giật của

trẻ em. Ở Ai Cập người ta dùng hạt rang lên xay trộn với cà phê với tỉ lệ 1: 1.

Y học cổ truyền còn dùng lá làm thuốc hạ nhiệt và rễ làm thuốc bổ và lợi tiểu.

6.4. Muồng trâu

Folium Cassiae alatae

Dược liệu là lá chét cây muồng trâu – Cassia alata L.,

họ Vang – Caesalpiniaceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố:

Cây nhỏ cao 1,5m có khi đến 3m, thân gỗ mềm có

đường kính 10-12cm hoặc hơn. Lá kép lông chim chẵn, dài

30-40cm, có 8-14 đôi lá chét. Lá chét hình trứng, gốc và

đỉnh lá đều tròn. Đôi lá chét đầu tiên (phía cuống) nhỏ nhất

và cách đôi lá chét thứ hai một quãng xa hơn so với khoảng

25

Hình 2.6a. Dược liệu đại hoàng

Hình 2.6b. Cây Ðại hoàng -Rheum palmatum L. hoặc Rheum

officinale

cách giữa các đôi lá chét sau. Cụm hoa mọc thành bông dày đặc nhiều hoa, hoa màu

vàng sẫm. Quả loại đậu, dài 8-16cm, rộng 15-17mm, có hai cánh suốt theo chiều dọc

của quả. Quả có tới 60 hạt. Muồng trâu mọc hoang và được trồng ở một số nơi miền

Trung và miền Nam nước ta.

* Thành phần hoá học:

Trong lá, quả và rễ đều có chứa các dẫn chất anthranoid. Trong lá có các chất

đã được phân lập và xác định: chrysophanol, aloe modin, rhein, emodin.

Ngoài thành phần anthranoid trong muồng trâu còn có kaempferol là một

flavonoid và sitosterol.

* Tác dụng và công dụng:

Lá có tác dụng nhuận tẩy. Nhân dân ta thường dùng lá để chữa hắc lào bằng

cách giã nát rồi xát vào nơi bị nấm.

6.5. Đại hoàng

Rhizoma Rhei

Dược liệu là thân rễ đã cạo vỏ và phơi hay sấy khô của cây Ðại hoàng - Rheum

palmatum L. hoặc Rheum officinale Baillon hoặc giống lai

của hai loài trên, họ Rau răm – Polygonaceae.

*Đặc điểm thực vật

Cây thuộc thảo lớn, sống dai nhờ thân rễ to. Lá mọc

thành cụm từ thân rễ, có kích thước lớn, có cuống dài, có bẹ

chìa, phiến lá hình tim rộng 30 - 40cm, phân thành 5 đến 7

thùy chính, các thùy này cũng có thể phân lần thứ hai hoặc

đôi khi lần thứ ba. Lá của Rheum palmatum thì có

những thùy sâu hơn R.officinale. Gân lá nổi mặt

dưới, thường màu đỏ nhạt. Từ năm thứ 3 -4 thì xuất

hiện 1 thân mọc lên cao 1 -2m mang một số lá nhỏ. Phần

ngọn thân là chùm hoa hình chùy mang nhiều hoa. Bao

hoa gồm 6 bộ phận màu trắng, xanh nhạt, hoặc đỏ nhạt, 9

nhị.

* Thành phần hoá học

Thành phần hoạt chất trong Đại hoàng chủ yếu là

các dẫn chất anthranoid, tồn tại ở các dạng khác nhau:

- Anthraquinon tự do gồm có: chrysophanol (1,8-

dihydroxy-3-methylanthracene-9,10-dione), emodin,

physcion, aloe emodin (1,8-dihydroxy-3-

26

(hydroxymethyl)anthracene-9,10-dione) và rhein (4,5-dihydroxy-9,10-dioxo-9,10-

dihydroanthracene-2-carboxylic acid).

- Các glucosid của anthraquinon. Chiếm khoảng 60 - 70 % của toàn phần hoạt

chất và gồm các glucosid của các aglycon nói ở trên.

- Các glucosid của các anthranol và anthron tương ứng với những aglycon nói

trên. Những dẫn chất này dễ bị oxy hóa thành các dẫn chất anthraquinon.

- Các dẫn chất dimer dianthron tồn tại trong cây dưới dạng mono và diglucosid.

Ví dụ: sennidin A, B, C .

- Các heterodianthron carboxylic như rheidin A, B, C, các heterodianthron không

có nhóm carboxyl như palmidin A (= heterodianthron của emodin và aloe emodin),

palmidin B (= heterodianthron của aloe emodin và chrysophanol) và palmidin C (=

heterodianthron của rheum emodin và chrysophanol).

- Trong đại hoàng còn có deshydrodianthron như dirhein.

- Thành phần thứ hai đáng chú ý là tanin (khoảng 5% - 12%) chủ yếu thuộc nhóm

pyrocatechic và một phần thuộc nhóm pyrogallic. Các chất này dễ tan trong cồn.

Ngoài ra trong đại hoàng còn có nhiều chất vô cơ (nhiều calci oxalat). Tinh bột, pectin;

một chất nhựa ít được nghiên cứu cũng có tác dụng tẩy xổ.

* Tác dụng và công dụng

Các dẫn chất anthranoid trong Ðại hoàng có tác dụng làm tăng nhu động ruột;

với liều thấp có tác dụng nhuận tràng, liều cao làm thuốc tẩy nhẹ dùng cho người đầy

bụng, đại tiện bí. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Các chế phẩm có Đại hoàng tác dụng cả lên cơ trơn của bàng quang và tử cung

do đó phụ nữ có thai hoặc người bị viêm bàng quang không nên dùng. Do có tác dụng

phụ là gây sung huyết nên không dùng cho người bị trĩ.

Vì đại hoàng có chứa nhiều calci oxalat nên không dùng lâu cho người bị sỏi

thận oxalic.

6.6. Cốt khí củ( Radix Polygoni cuspidate)

Dược liệu là rễ phơi khô của cây cốt khí củ - Polygonum cuspidatum Sieb. Et

Zucc., họ Rau răm – Polygonaceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố:

Cây cỏ sống lâu năm, cao 0,5-1m. Trên thân và cành thường có những đốm tím

hồng. Lá mọc so le, cuống ngắn, bông và có màu hồng. Phiến lá hình trứng rộng, mặt

trên xanh thẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, dài 5-12cm, rộng 3,5-8cm, đỉnh lá có mũi

nhọn. Bẹ chìa ngắn. Hoa mọc thành chùm ở nách lá. Hoa nhỏ màu trắng. Quả 3 cạnh

màu nâu dỏ. Mọc hoang ở một số vùng miền núi.

27

Hình 2.7. Cây cốt khí củ -Polygonum cuspidatum, họRau răm – Polygonaceae.

Hình 2.8. Cây Hà thủ ô đỏ -Fallopia multiflora, họ Rau răm –

Polygonaceae.

* Bộ phận dùng và chế biến:

Rễ có đường kính trên 2cm, vỏ nâu, thịt vàng, lõi gỗ màu nâu sẫm. Thu hoạch

tháng 10-12. Đào rễ, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, thái phiến, dày 0,2-0,4cm phơi hay sấy

khô.

* Thành phần hoá học:

Rễ chứa các dẫn chất anthranoid ở dạng tự do và

dạng kết hợp glycoside hàm lượng 0,1-0,5%, gồm:

chrysophanol, emodin, physcion, emodin 8-β-glucosid.

Ngoài các dẫn chất anthranoid, rễ cốt khí củ còn có

polydatin là một stilben glucosid khi thuỷ phân cho

resveratrol. Trong rễ còn có tannin.

Cành, lá có một ít các dẫn chất anthranoid. Trong lá

có các flavonoid: quercetin, isoquercetin, reynoutrin,

avicularin, hyperin. Ngoài ra còn có các acid hữu cơ.

* Tác dụng và công dụng:

Dược liệu có tác dụng nhuận tẩy, có tác dụng

làm hạ đường huyết và cholesterol, có tác dụng kháng

khuẩn trên một số loại vi khuẩn như Staphylococcus

aureus, E.coli, Mycobacterium tuberculosis. Dược

liệu có thể gây nôn, gây tiêu chảy, khó tiêu hoá; cũng

có trường hợp gây tổn hại gan và suy giảm hô hấp

nhưng hiếm.

Trong y học cổ truyền dược liệu ít được dùng

làm thuốc nhuận tẩy mà dùng để chữa viêm gan, vàng

da, chữa tê thấp đau nhức gân xương, viêm phế quản

mãn tính. ùng ngoài để trị bỏng, rửa âm hộ khi bị lở

loét.

6.7. Hà thủ ô đỏ ( Radix Polygoni multiflori)

Rễ củ phơi hay sấy khô của cây Hà thủ ô đỏ -

Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson = Polygonum

multiflorum Thunb.), họ Rau răm - Polygonaceae.

* Đặc điểm thực vật

Dây leo, sống nhiều năm, thân mọc xoắn vào nhau, mặt ngoài thân có màu xanh

tía, mặt thân nhẵn không có lông. Lá mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình tim hẹp,

dài 4-8cm, rộng 2,5-5cm, đầu nhọn, phía cuống hình tim, hoặc hình mũi tên, mép

nguyên hoặc hơi lượn sóng, cả hai mặt đều nhẵn và không có lông. Lá kèm mỏng màu

28

nâu nhạt ôm lấy thân. Hoa mọc thành chùm nhiều nhánh, hoa nhỏ, đường kính 2mm,

có cuống ngắn 1-3mm. Cánh hoa màu trắng. Nhị 8 với 3 nhị hơi dài hơn.

Bầu hình 3 cạnh, vòi ngắn gồm 3 cái rời nhau. Mùa hoa vào tháng 10, mùa quả vào

tháng 11.

* Bộ phận dùngRễ củ ( radix Polygoni multiflori ) thu hoạch vào mùa thu, chế biến, phơi hoặc

sấy khô, độ ẩm không quá 13%, tro toàn phần không quá 3%, độ cao tan trong ethanol30o ít nhất là 20%.

Hà thủ ô đỏ được chế theo nhiều cách, nhưng thường chế bằng cách ngâm vớinước vo gạo 24h, rửa sạch, đổ ngập nước đậu đen (1kg đậu đen cho 20 lít nước đunthật nhừ, lấy nước đậu nấu với 10kg Hà thủ ô), đun cách thuỷ 12h liền, vớt ra phơinắng, khi khô lại tẩm rồi phơi khô, tiếp tục làm như vậy đến hết nước đậu.

* Thành phần hoá học

Thành phần hoá học chính của củ Hà thủ ô đỏ là

Tanin và các dẫn chất anthranoid như acid chrysophanic, emodin, physcion,

chrysophanol anthron, rhaponticosid, 2,3,5,4' tetrahydroxystilben 2-O- β-D glucosid.

* Tác dụng và công dụng

Y học cổ truyền dùng Hà thủ ô đỏ làm thuốc bổ gan thận, bổ máu. Thuốc dùng

cho những người có râu tóc bạc sớm, lưng gối đau mỏi, di tinh...

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Anthranoid là gì?

2. Công thức cấu tạo chung và phân nhóm anthranoid?

3. Có những phương pháp nào đề định tính Anthranoid?

4. Có những phương pháp nào để chiết xuất anthranoid từ dược liệu ?

5. Kể tên các dược liệu có chứa anthranoid có trong bài học và trình bày cụ thể về một

trong các dược liệu về: tên khoa học, đặc điểm thực vật, bộ phận dùng, thành phần hóa

học, công dụng và cách dùng?

6. Anthranoid có những tác dụng nào và có bao nhiêu phân nhóm?

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (….)

7. Những hợp chất Anthranoid nằm trong nhóm lớn ……

8. Những hợp chất quinon cũng là những sắc tố được tìm thấy chủ yếu trong

ngành……

9. Anthranoid khi bị thủy phân thì giải phóng ra phần ….. và …..

10. Những dẫn chất trong nhóm phẩm nhuộm có màu từ ….đến ….

11. Những dẫn chất trong nhóm nhuận tẩy có 2 nhóm OH đính ở vị trí ….

29

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp

mà bạn lựa chọn.

12. Để chiết xuất glycosid người ta dùng:

A. Cồn ethylic

B. Cồn methylic

C. Hỗn hợp cồn nước

D. Cả 3 đáp án trên

13. Các thuốc anthraglycosid được bài tiết qua nước tiểu nên nước tiểu có màu:

A. Vàng

B. Hồng

C. Trắng

D. Nâu

14. Quả của cây Phan tả diệp thuộc loại quả:

A. Quả loại cải

B. Quả loại đại

C. Quả loại đậu

D. Quả nang

15. Bộ phận dùng của cây Thảo quyết minh:

A. Hạt

B. Lá

C. Rễ

D. Thân

16. Bộ phận dùng của cây Muồng trâu:

A. Hạt

B. Lá chét

C. Vỏ quả

D. Rễ

17. Cây Cốt khí củ thuộc họ:

A. Họ Trúc đào

B. Họ Gừng

C. Họ Cà phê

D. Họ Rau răm

18. Hà thủ ô đỏ được chế với nước đậu đen theo tỉ lệ:

A. 1,0 kg đậu đen – 20 lít nước – 10kg hà thủ ô.

B. 1,0 kg đậu đen – 10 lít nước – 10kg hà thủ ô.

C. 1.0 kg đậu đen – 20 lít nước – 5,0kg hà thủ ô.30

D. 1,0 kg đậu đen – 1,0 lít nước – 1,0kg hà thủ ô.

Phân biệt đúng/ sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) và

chữ B (cho câu sai).

31

19. Các thuốc anthraglycosid nên thận trọng đối với phụ nữ mang

thai.

20. Cây Muồng trâu có tác dụng chữa hắc lào.

21. Trong dược liệu Đại hoàng có Chrysophanol.

22. Người bị sỏi thận oxalic có thể dùng đại hoàng để điều trị.

A – B

A – B

A – B

A – B

CHƯƠNG III

DƯỢC LIÊU CHỨA COUMARIN, TANIN

MỤC TIÊU

1. Trình bày được cấu trúc, tác dụng và công dụng của coumarin.

2. Trình bày được các dược liệu chứa coumarin đã được đưa vào giáo trình,

chú trọng bạch chỉ, tiền hồ, sài đất, mù u và hướng dẫn sử dụng được các dược liệu

trên.

3. Trình bày được định nghĩa, tác dụng và công dụng của tanin.

4. Trình bày được các dược liệu tanin có trong giáo trình và hướng dẫn sử

dụng được các dược liệu trên.

NỘI DUNG

I. DƯỢC LIÊU CHỨA COUMARIN

1. Khái niệm chung về coumarin

Coumarin là những dẫn chất α-pyron có cấu trúc C6-C3

Benzo α-pyron là chất coumarin đơn giản nhất tồn tại trong thực vật. Chất này có

mùi thơm dễ chịu, được dùng làm hương liệu. Trong kỹ nghệ, benzo α-pyron được

tổng hợp từ aldehyd salicylic, anhydrid acetic và natri acetat.

Cho đến nay người ta đã biết hơn 200 chất coumarin khác nhau. Có thể phân

coumarin thành các nhóm sau:

Nhóm 1: Coumarin đơn giản

Nhóm 2: Furanocoumarin (=furocoumarin)

Nhóm 3: Pyranocoumarin.

32

2. Sự phân bố trong tự nhiên

Coumarin có mặt trong nhiều họ thực vật. Dưới đây là một số họ cùng với một

số chi:

Apocynaceae (Nerium)

Apiaceae (Angelica, Coriandrum, Daucus, Ferula, Pimpinella, Selinum….)

Araliaceae (Eleutherococcus)

Asteraceae(Artemisia, Eupatorium, Helianthus)

Euphorbiaceae (Euphorbia)

Fabaceae (Melilotus, Glycyrrhyza)

Lamiaceae (Mentha, Salvia)

Loganiaceae (Gelsemium)

Malvaceae( Althea)

Oleaceae (Fraxinus)

Rosaceae (Crataegus, Prunus)

Rubiaceae (Randia)

3. Tác dụng và công dụng

Tác dụng đáng chú ý của các dẫn chất coumarin là chống co thắt, làm giãn nở

động mạch vành mà cơ chế tác dụng tương tự như papaverin.

Tác dụng như vitamin P (làm bền và bảo vệ thành mạch), ví dụ: bergapten,

aesculin, fraxin.

Tác dụng chữa bệnh bạch biến hay bệnh lang trắng và bệnh vẩy nến, ví dụ:

psoralen, angelicin, xanthotoxin, imperatoxin.

Tác dụng kháng khuẩn, ví dụ: novobiocin.

4. Tác dược liệu chứa coumarin

4.1. Bạch chỉ

Radix Angelicae dahuricae

Dược liệu là rễ phơi khô của cây Bạch chỉ - Angelica dahurica Benth.et

Hook.f., họ Hoa tán – Apiaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thuộc thảo, thân rỗng, mặt ngoài màu tím

hồng, phần dưới của thân nhẵn, phần trên chỗ gần

cụm hoa thì có lông ngắn. Nếu để cây phát triển thì

có thể cao đến 2m. Lá ở gốc to, có bẹ ôm lấy thân,

phiến lá 2-3 lần xẻ lông chim, thuỳ hình trứng, mép

có răng cưa. Cụm hoa tán kép.

* Thành phần hoá học:

33

Hình 3.1. Cây Bạchchỉ - Angelica dahurica., họ

Hoa tán – Apiaceae.

Hình 3.2. Cây Sài đất -Wedelia calendulacea Less., họ

Cúc – Asteraceae.

Ngoài tinh dầu, trong rễ củ có các dẫn chất coumarin: Scopoletin, bergapten…

* Tác dụng và công dụng:

Bạch chỉ có tác dụng làm hạ sốt, giảm đau. Liều nhỏ làm tă ng huyết áp, mạch

chậm, hơi thở kéo dài, liều cao có thể gây co giật, tê liệt toàn thân khi thí nghiệm súc

vật. Bạch chỉ có tác dụng làm giãn động mạch vành. Tác dụng kháng khuẩn đối với

một số vi khuẩn: Escherichia coli, Shigella dysenteriae, Salmonella typhi.

Trong đông y dùng để chữa cảm sốt, nhức đầu, đặc biệt vùng trán, ngạt mũi do

bị lạnh. Chữa đau nhức răng, bị thương tích viêm tấy. Chữa khí hư ở phụ nữ.

Ngày dùng 5-10g.

4.2. Sài đất

Herba Wedeliae

Dược liệu là bộ phận trên mặt đất của cây Sài đất -

Wedelia calendulacea Less., họ Cúc – Asteraceae.

* Đặc điểm thực vật:

Sài đất là một loài cỏ sống dai, mọc bò. Thân lan

tới đâu thì mọc rễ ở đấy, có thể cao hơn 50cm. Thân và

lá có lông ráp. Lá gần như không có cuống, mọc đối,

hình bầu dục thon, hai đầu hơi nhọn, có lông cứng ở cả 2

mặt. Mép có răng cưa to và nông. Lá tươi vò có mùi như

trám và để lại màu xanh đen ở tay, lá có thể ăn như rau

húng nên nhân dân có nơi còn gọi là húng trám. Cụm

hoa hình đầu màu vàng, có cuống dài 5-10cm mọc ở

kẽ lá hoặc đầu cành. Cây sài đất trước đây mọc

hoang, hiện nay được trồng tại nhiều nơi, trồng bằng

những mẩu thân, rất dễ sống.

* Thành phần hoá học:

Cây chứa một ít tinh dầu, nhiều muối vô cơ, có vị mặn.

* Tác dụng và công dụng:

Invitro thấy tác dụng kháng khuẩn của sài đất thấp nhưng thực tế trên lâm sàng

thấy có tác dụng chữa khỏi những bệnh viêm nhiễm.

Wedelolacton có tác dụng estrogen.

Cây không có độc tính.

Sài đất dùng để chữa những bệnh viêm nhiễm như viêm tuyến sữa, viêm bàng

quang, viêm tai mũi họng, mụn nhọt, lở loét, phòng và chữa rôm sẩy.

Dùng tươi: 100g rửa sạch, giã hoặc xay, ép lấy nước uống, bã dùng đắp nơi

sưng đau, có nơi còn dùng nấu canh ăn để chữa bệnh.

Có thể chế thành siro một mình sài đất hoặc phối hợp với kim ngân.

II. DƯỢC LIỆU CHỨA TANIN

34

1. Khái niệm chung về tanin

Từ “Tanin” được dùng đầu tiên vào năm1796 để chỉ những chất có mặt trong

dịch chiết từ thực vật có khả năng kết hợp với protein của da sống động vật làm cho da

biến thành da thuộc không thối và bền. Do đó, tanin được định nghĩa là những hợp

chất polyphenol có trong thực vật có vị chát được phát hiện dương tính với “thí

nghiệm thuộc da” và được định lượng dựa vào mức độ hấp phụ trên bột da sống chuẩn.

Cơ chế thuộc da được giải thích do tanin có nhiều nhóm OH phenol, tạo nhiều dây

nối đôi hydro với các mạch polypeptide của protein. Nếu phân tử tanin càng lớn thì sự

kết hợp với protein càng chặt. Phân tử lượng tanin phần lớn nằm trong khoảng 500-

5000.

Dây nối hydro giữa tanin và protein

2. Tác dụng và công dụng

- Ở trong cây, tanin tham gia vào quá trình trao đổi chất, các quá trình oxy hoá

khử.

- Là những chất đa phenol, tanin có tính kháng khuẩn nên có vai trò bảo vệ cho

cây.

- Dung dịch tanin kết hợp với protein, tạo thành màng trên niêm mạc ứng dụng

làm thuốc săn da. Tanin còn có tác dụng kháng khuẩn nên dùng làm thuốc súc miệng

khi niêm mạc miệng, họng bị viêm loét, hoặc chỗ loét khi nằm lâu. Tanin có thể dùng

trong để chữa viêm ruột, chữa tiêu chảy.

- Tanin kết tủa với kim loại nặng và với alkaloid nên dùng chữa ngộ độc đường

tiêu hoá.

- Tanin có tác dụng làm đông máu nên dùng đắp lên vết thương để cầm máu,

chữa trĩ, rò hậu môn.

- Khi đun chảy kiềm tanin thường thu được các chất sau:

35

Pyrocatechin Acid pyrocatechic Pyrogallol

Acid galic Phloroglucin

3. Các dược liệu chứa tanin

3.1. Ngũ bội tử

Galla

Có hai loại ngũ bội tử Âu và ngũ bội tử Á.

Ngũ bội tử Âu là tổ tạo nên của một loài côn trùng cánh màng – Cynips gallae

tinctoriae Olivier khi loài côn trùng này chích để đẻ trứng trên chồi cây sên –Quercuss

lusitanica Lamk. Var. infectoria Olivier. Trong quá trình phát triển của sâu non các

mô thực vật bao quanh sâu non cũng phát triển to dần tạo thành tổ sâu. Ngũ bội tử Á

do loài sâu Schlechtendalia chinensis Bell. tạo nên trên cây muối – Dhus chinensis

Mill. Cây muối là cây nhỏ cao 2-8 m. Lá kép

lông chim lẻ, mép lá chét có khía răng cưa, lá

có lông mềm, cuống lá hình trụ có cánh. Cây

muối mọc ở các tỉnh miền núi nước ta như: Hà

Giang, Cao Bằng, Lào Cai…

* Đặc điểm dược liệu:

Dược liệu có hình dạng không nhất

định, loại Âu thường là hình cầu có 1 cuống

ngắn, đường kính 10-25mm, thành dầy, chắc,

màu thay đổi: xám, xanh nâu, vàng nâu và

thường có 1 lỗ do sâu khi trưởng thành cắn để

chui ra. Loại Á thì to hơn, thành mỏng hơn, dễ vỡ vụn, màu xám hồng, bên ngoài có

lông tơ ngắn và rậm. Vị của hai loại đều rất chát.

* Thành phần hoá học:

Thành phần chính của ngũ bội tử là tanin, thuộc loại tanin gallic. Ngũ bội tử Âu

hàm lượng tanin từ 50-70%, ngoài ra còn có acid gallic 2-4%, acid ellagic, một ít tinh

bột và calci oxalat.

* Công dụng:

36

Hình 3.3. Ngũ bội tử

Dùng trong viêm ruột mãn tính, giải độc do ngộ độc bằng đường uống alcaloid,

kim loại nặng. Liều 2-3g thuốc sắc.

Dùng ngoài bôi để chữa nhiễm trùng da, vết thương chảy máu. Cách dùng để

chữa trẻ em loét miệng trong đông y: phèn chua cho vào ruột ngũ tử, đem nướng rồi

nghiền thành bột mịn để bôi.

Ngũ bội tử là nguyên liệu để chế biến tanin tinh khiết, chế mực viết.

3.2. Ổi

Rurio Psidii

Dược liệu là chồi kèm theo 2-4 lá đã

mở của cây Ổi – Psidium guyava L., họ

Sim – Myrtaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây cao 4-5m, cành non có 4 cạnh.

Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục. Lá non phủ

lông trắng nhạt, vị chát. Vỏ thân nhẵn, khi

già long ra từng mảng. Hoa trắng mọc riêng

lẻ 2-3 cái một ở kẽ lá, 4-5 lá đài, 4-5 cánh hoa, rất nhiều nhị, bầu dưới 5 ô. Quả hình

cầu khi xanh có vị chua và chát, chín có vị ngọt. Cây trồng lấy quả ăn. Ổi được trồng

khắp nơi ở nước ta.

* Thành phần hoá học:

Búp và lá non chứa tanin 8-9%. Trong lá còn có các flavonoid: quercetin,

leucocyanidin, avicularin, guajaverin. Ngoài ra còn có acid crataegolic, chất sáp…

Trong quả nhất là quả chưa chín cũng có tanin, flavonoid.

* Công dụng:

Dùng để chữa đi lỏng, lỵ. Trong kháng chiến chống Pháp cao búp ổi được dùng

có kết quả rất tốt. Có thể dùng nước sắc để rửa các vết loét, vết thương.

LƯỢNG GIÁ:Trả lời các câu hỏi sau:1. Coumarin và tanin là gì?

2. Coumarin và Tanin có cấu tạo hóa học như thế nào?

3. Coumarin và Tanin có những tác dụng và công dụng nào?

4. Trả lời vắn tắt các dược liệu chứa Coumarin và Tanin về: Tên khoa học, đặc điểm

thực vật, bộ phận dùng, công dụng, cách dùng, liều lượng?

37

Hình 3.4. Cây ổi - Psidium guyava L.,họ Sim – Myrtaceae.

Trả lời các câu sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (…):

5. Coumarin là những dẫn chất… có cấu trúc C6-C3

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) và

chữ B (cho câu sai):

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải phápmà bạn lựa chọn:11. Cây Sài đất thuộc họ:A. Họ Hoa tánB. Họ CúcC. Họ ĐậuD. Họ Kim ngân12. Để thuộc da động vật, người ta dùng:A. CoumarinB. TaninC. FlavonoidD. Anthranoid13. Khi bị tiêu chảy, người ta dùng cây thuốc nào sau đây :A. Cây Nhân sâmB. Cây Hà thủ ôC. Cây ỔiD. Cây Sài đất14. Nguồn gốc của vị Ngũ bội tử Á :A. Tổ sâu sống trên cây SenB. Tổ sâu sống trên cây MuốiC. Tổ sâu sống trên cây Dâu tằmD. Tổ sâu sống trên cây Nhãn15. Tên khoa học của cây Ổi:A. Psidium guyavaB. Chrysanthemum indicumC. Lactuca indicaD. Gardenia florida16. Cây Bạch chỉ thuộc họ nào trong các họ sau: A. ApiaceaeB. MoraceaeC. PapaveraceaeD. Fabaceae

38

6. Trong họ Fabaceae có chứa Coumarin

7. Trong họ Rubiaceae có chứa Coumarin

8. Nếu không có Papaverin để chống co thắt, có thể thay bằng Coumarin.

9. Bệnh nhân bị bệnh bạch biến, bệnh lang trắng được điều trị bằng

Coumarin.

10. Bạch chỉ có tác dụng hạ sốt, giảm đau.

A – B

A – B

A – B

A – B

A – B

CHƯƠNG IV

DƯỢC LIỆU CHỨA CHẤT NHỰA, CHẤT BEO

MỤC TIÊU 1. Phân loại được chất nhựa, mỗi loại cho 1 ví dụ điển hình.2. Trình bày được định nghĩa, phân loại lipid và định nghĩa được glycerid

(acylglycerol) và dầu mỡ.

39

3. Trình bày được tính chất lý học và hoá học, sự liên quan giữa tính chất vàcác chỉ số, ý nghĩa của các chỉ số hoá học.

4. Trình bày được công dụng dầu mỡ và trình bày một số dược liệu điển hình 5. Áp dụng được các phương pháp chế tạo dầu mỡ từ nguyên liệu thực vật và

động vật

NỘI DUNG

I. DƯỢC LIỆU CÓ CHỨA CHẤT NHỰA

1. Đại cương

1.1. Định nghĩaChất nhựa là những hợp chất vô định hình trắng đục hoặc trong suốt, cứng dày

đặc ở nhiệt độ bình thường, mềm khi đun nóng, không tan trong nước, tan trong alcol,tan ít hoặc nhiều trong các dung môi hữu cơ khác và không lôi cuốn được theo hơinước.

Về mặt hoá học, nhựa là một hỗn hợp nhiều chất, thường là kết quả của sự oxyhoá và trùng hiệp hoá các hợp chất terpenic trong cây.1.2. Phân loại1.2.1. Nhựa chính tên – là kết quả của sự oxy hoá và trùng hiệp hoá các hợp chấtterpenic trong cây.

Ví dụ: Colophan là phần đặc của nhựa thông, nhựa gaiac (là nhựa của câyGuaicum officinale, nguồn gốc Nam mỹ), nhữa gai dầu (Cannabis sativa)….1.2. 2. Nhựa dầu: Là hỗn hợp gồm nhựa và tinh dầu, trạng thái mềm hoặc lỏng. Ví dụ:Nhựa thông1.2.3. Bôm: Là loại nhựa dầu có chứa một lượng đáng kể acid benzoic và acidcinnamic. Ví dụ: Bôm Tolu, bôm Peru, cánh kiến trắng.1.2.4. Gluco - nhựa: Trong cấu tạo của nhựa có các dây nối liên kết với các đườngkhác nhau. Ví dụ: nhựa Jalap (Ipomoea purga) và một số cây khác thuộc họ Bìm bìm(Convalvulaceae).1.2. 5. Gôm nhựa: Là hỗn hợp giữa gôm và nhựa. Ví dụ: một số gôm nhựa họ Hoa tán(Apiaceae): A nguỳ (Ferula assa-foetida).1.3. Thành phần hoá học1.3.1. Alcol

- Alcol thơm: Alcol benzylic, alcol cinnamic, alcol coniferilic.- Alcol diterpenic.- Alcol triterpenic: α và β – amyrenol (amyrin).

1.3. 2. Aldehyd: Vanilin.1.3. 3. Acid:

- Acid thơm: Acid benzoic, cinamic. Có thể ở dạng tự do hoặc dạng este (Ví dụ:coniferyl benzoat).

- Acid diterpenic: Acid levo-pimaric, acid dex tro-pimaric.- Acid triterpenic.

1.3.4. Các thành phần khác- Tinh dầu (trong nhựa dầu)- Đường (gluco-nhựa)- Các hợp chất hydratcarbon (gôm nhựa)

1.4. Phân bố trong thiên nhiên- Nhựa có trong một số họ: Họ thông (Pinaceae); Họ cúc (Asteraceae); Họ Đậu

(Fabaceae); Họ Hoa tán (Apiaceae)…

40

- Đa số các họ, nhựa tập trung ở các ống tiết. Ngoài ra còn có ở lông tiết (Gaidầu), tế bào tiết (họ Bìm bìm).

- Đôi khi các bộ phận tiết không được hình thành trước, phải chích nhựa mớiđược chảy ra xung quanh vùng chấn thương: Cánh kiến trắng, bôm Tolu, bôm Peru.1.5. Chiết xuất nhựa

- Thông thường phải trích cây để lấy nhựa. Trích nông hay sâu tuỳ theo vị trícủa bộ phận tiết nhựa trong cây, thông thường thì trích đến tầng phát sinh libe-gỗ. Tuỳtheo mục đích khai thác có thể trích triệt để hoặc vừa trích vừa nuôi dưỡng cây.

- Cũng có thể nhựa tự chảy ra như một số gôm nhựa họ Hoa tán, hoặc do vếtsâu bọ đốt hoặc chỗ sâu bọ đốt và làm tổ (Cánh kiến đỏ).

- Có thể dùng dung môi để chiết nhựa. Tuỳ theo từng loại nhựa có thể dùngdung môi hữu cơ thích hợp.1.6. Công dụng

Trong ngành Dược:- Nhựa được dùng làm thuốc nhuận tẩy: Nhựa họ Bìm bìm (Convonvulaceae)- Chữa ho, sát khuẩn đường hô hấp, long đờm: Nhựa thông, cánh kiến trắng,

bôm Tolu.- Gây sung huyết ngoài da: Nhựa thông- Trị sán: Dương xỉ đực- Làm chất màu bao viên: Cánh kiến đỏ- Sản xuất đỏ carmin, là chất nhuộm tiêu bản thực vật: Cánh kiến đỏ- Bán tổng hợp camphor, terpin: Nhựa thôngTrong các ngành kỹ nghệ khác:- Kỹ nghệ sản xuất chất dẻo, verni, chất cách điện, kỹ nghệ sản xuất giấy.- Kỹ nghệ hương liệu và sản xuất nước hoa.

2. Các dược liệu có chứa chất nhựa

CÁNH KIẾN TRẮNG

Tên khoa học: Styrax sp.Họ Bồ đề - Styracaceae

VN có 4 loài: Styrax tonkinensis Pierre, Styrax benzoic Dryand, Styrax agrestisG. Don, Styrax annamensis Guill.

Loài Styrax tonkenensis có nhiều nhất ở VN, tiết ra nhiều nhựa nhất, đượcDược Điển VN I công nhận.Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây gỗ lớn cao 20m, vỏ xám, láng, cành tròn, màu nâu, mặt trước có lông nhẵn.Lá mọc đối có cuống, gân lá hình lông chim. Phiến lá hình trứng hay hình mác, mặttrên nhẵn, xanh nhạt, mặt dưới trắng cólông sao, có 5-7 đôi gân phụ, nổi rõ ở mặtdưới.

Hoa xếp thành ngù, mọc ở nách vàngọn, có mùi thơm nhẹ. Tràng hợp thànhống 5 thuỳ xếp lợp, có lông tơ vàng. Nhị10. Quả hình trứng có lông sao, phía dướimang đài tồn tại.

Ra hoa tháng 5-6. Quả chín tháng9-10.

41

Mọc trong rừng vùng trung du nhất là ở các nương rẫy các tỉnh Hoà Bình, LàoCai, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Sơn La, Nghệ An, Thanh Hoá,…Bộ phận dùng

Nhựa – BenzoinumNhựa thơm để khô lấy ở thân. Nhựa thu hoạch vào lúc cây 10 tuổi, đường kính 20-25cm. Nên chích nhựa vào lúc cây ra hoa. Các mạch nhựa được hính thành ở trongvùng gỗ mới ngay sau thượng tầng. Các ống nhựa được xếp song song, kéo dài dọc

thân cây. Hình 4.1. Cây cánh kiến trắngNhựa là những cục rời nhau, màu trắng, vàng nhạt hoặc đỏ nhạt, đục, dễ bẻ,

vạch móng tay được. Vết bẻ trông như sáp, màu trắng nhạt để lâu trở thành nâu. Cómùi vani đặc biệt. Vị dịu cay và hăng.

Nhựa gần như không tan trong nước, tan một phần trong ether, tan hoàn toàntrong cồn.

Chỉ số acid 140-170Chỉ số xà phòng hoá 220-240

Thành phần hoá học: Nhựa bồ đề gồm hơn50 hợp chất, trong đó:

Acid benzoic tự do 26,13%Acid cinnamic tự do 2,75%Vanilin 1,38%Benzyl benzoat 4,24%Cinnamyl cinnamat 1,81%Benzyl cinnamat 1,23%Alcol coniferilicAcid siaresinolic Hình 4.2. Nhựa cánh kiến trắng

Công dụngChữa ho, long đờm, chữa trứng hàn người lạnh toát.Uống 0,5-2g dưới dạng thuốc bột, thuốc sắc, siro.Dung dịch cánh kiến trắng trong cồn dùng làm thuốc xông chữa ho, khản cổ,

hoặc pha với nước bôi ngoài chữa vú nứt nẻ.Cánh kiến trắng còn dùng làm hương liệu.Bồ đề là cây công nghiệp dễ phát triển, mọc nhanh, có giá trị kinh tế, dùng

trong ngành gỗ dán, gỗ diêm, bột giấy, và làm nguyên liệu chế sợi nhân tạo.

CÁNH KIẾN ĐỎ

(Lacca)

Cánh kiến đỏ là chất nhựa tự nhiên do sau cánh kiến Laccifer lacca Kerr. thuộchọ Sâu cánh kiến (Lacciferidae) hút từ dịch vỏ cây tiết ra. Sâu cánh kiến thường chỉgặp ở Ấn Độ, Pakixtan, Miến điện, Srilanka, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, vàĐông Dương.

Nhu cầu thế giới lên tới 5 vạn tấn 1 năm.Vòng đời của sâu là 6 tháng, nên mỗi năm có 2 vụ thu hoạch: Vụ chiêm (tháng

4-5) và vụ mùa (tháng 9-10).Ở VN, có 241 cây có thể làm cây

chủ đối với sâu cánh kiến, mấy câychính là: Đậu thiều, Cọ phèn, Cọ khiết,Pia niếng, Sung, Đa, Nhãn, Vải, Táo.

42

Cánh kiến đỏ có nhiểu ở tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, NghệAn, Hà Tĩnh, Hậu Giang, Tây Ninh.

Sâu cánh kiến cho mấy sản phẩm: Nhựa hạt, nhựa vẩy, nhựa tẩy trắng.Hình 4.3. Cánh kiến đỏ

Thành phần hoá họcCánh kiến đỏ chứa:- Nhựa 4%: Gồm nhựa mềm tan trong ether (25%) và nhựa cứng không tan

trong ether (75%). Nhựa là hỗn hợp các poliester dẫn chất của các acid béo có nhómOH và các acid thuộc nhóm sesquiterpen.

- Các acid là acid aleuritic (22%),acid senlolic, acid jolaric, ….

- Chất màu (2-3%): Gồm các chấtđỏ tan trong nước là phức hợp của nhiềuloại acid laccaic, chất màu vàng khôngtan trong nước, erytrolaccin.

- Sáp (6,6%): Trong đó phần tantrong cồn nóng chiếm 80% và phần tantrong benzen chiếm 20%.

- Tạp chất: Xác sâu kiến, đất, cát. Hình 4.4. Nhựa cánh kiến đỏ

Công dụng và liều dùngCánh kiến đỏ là vị thuốc hạ sốt mà không làm ra mồ hôi, ngày dùng 4-6g. Cánh

kiến đỏ (dạng nhựa vẩy và nhựa hạt) dùng làm thuốc bao viên và dùng trong nha khoa(chống mòn răng và sâu răng).

Cánh kiến đỏ là nguyên liệu tổng hợp các chất dẻo, chất tạo màng (verni), chấtcách điện, keo dán và xi măng.

Acid aleuritic là nguyên liệu tổng hợp civeton, dihydrociveton dùng tronghương liệu.II. DƯỢC LIỆU CHỨA CHẤT BEO

1. Đại cương

1.1. Định nghĩa và phân loạiLipid hay chất béo là sản phẩm tự nhiên có trong động vật và thực vật, có thành

phần cấu tạo khác nhau, thường là este của acid béo với các alcol, có tính chất chunglà không tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ như benzen, ether, cloroform,… không bay hơi ở nhiệt độ thường và có độ nhớt cao.

Dựa vào thành phần alcol có thể xếp lipid thành các nhóm sau:* Alcol là glycerol hay glycerid1. Acyl glycerol hay glycerid2. Glycerophosphatid hay phospholipid3. Glycosyldiacylglycerol hay glycosyldiglycerid* Alcol là các hợp chất có phân tử lượng cao như alcol cetylic (C16H33OH),

alcol cerylic (C26H53OH), alcol myricylic (C30H61OH) gồm có:4. Cerid: Cerid là thành phần cấu tạo chính của sáp (sáp ong, lanolin)* Alcol là các hợp chất sterol, trong động vật có cholesterol trong thực vật hay

gặp stigmasthrol, ergosterol, gồm có:5. Sterid* Alcol là các hợp chất có chứa nhóm cyanur (CN) hay gặp trong hạt một số

cây thuộc họ Bồ hòn (Spindaceae):6. Cyanolipid.

43

Đôi khi lipid không phải là một ester giữa alcol và acid béo mả là một amidgiữa một amino alcol và acid béo.

7. SphingolipidTrong chương này, trình bày chủ yếu phần acylglycerol (glycerid) và phần dược

liệu có liên quan đến cerid. Các phần còn lại đã được giới thiệu trong chương lipid củahoá hữu cơ.1.2. Acylglycerol (Glycerid)a. Định nghĩa:

- Acylglycerol là ester của glycerol với các acid béo:

Trong đó 3 gốc acid béo R1, R2, R3 thường là khác nhau. Trong tự nhiên ít khithấy acylglycerol có cùng một loại acid béo. Ở vị trí 2 thường được ester hoá với acidbéo không no mạch ngắn (đến C18), ở vị trí 1 và 3 thường là các acid béo no, hoặckhông no có mạch dài hơn.

- Dầu mỡ là hỗn hợp của nhiều acylglycerol khác nhau. Hỗn hợp acylglycerolcủa đa số acid béo chưa no thường lỏng, ta có khái niệm “dầu”. Hỗn hợp acylglycerolcủa đa số acid béo no thường đặc ở nhiệt độ thường, ta có khái niệm “mỡ”. Dầu mỡ làdanh từ chung chỉ một số nhóm chất có cấu tạo acylglycerol, để phân biệt với tinh dầu.Ngoài ra trong dầu mỡ có các chất hoà tan như vitamin, tinh dầu, các chất màu vàsterol. Dầu mỡ động vật chứa cholesterol còn dầu mỡ thực vật thường có chứaphytosterol. Dựa vào đặc điểm này để phân biệt dầu mỡ động vật và thực vật.b. Nguồn gốc và phân phối thiên nhiên:

- Dầu mỡ là chất dự trữ của động vật và thực vật. Ở thực vật dầu mỡ thường tậptrung ở hạt, có đến 80% họ thực vật bậc cao trong hạt chứa dầu mỡ, đôi khi ở bào tử(Lycopot). Ở động vật dầu mỡ thường tập trung ở các mô dưới da, ở các cơ quan nộitạng và vùng thận.

- Trong thiên nhiên dầu mỡ kết hợp với các albumin của thực vật tạo thành mộtnhũ dịch lỏng. Nhũ dịch này dễ bị phá vỡ và giải phóng cho dầu mỡ tự do. Vì vậy tacó thể dung các lực cơ học như ép để lấy dầu mỡ. Khi ở trong tế bào thực vật thì dù làdầu hay là mỡ đều ở thể lỏng, còn khi ra ngoài có thể ở thể lỏng hoặc đặc (bơ cacao,bơ hạt sòi).

- Dầu mỡ thường có nhiều ở một số họ thực vật, ví dụ họ Thầu dầu (hạt Ba đậu,hạt sòi), họ Thuốc phiện (hạt thuốc phiện), họ Đậu (lạc, đậu tương),…

- Tỷ lệ dầu mỡ trong thực vật khá cao, thông thường 40-50%. Có thể đến 70%như trong hạt vừng, hạt thuốc phiện.

- Điều kiện khí hậu cũng rất ảnh hưởng đến cấu tạo dầu mỡ. Cùng 1 cây, nếutrồng ở nơi có khí hậu lạnh, dầu sẽ có cấu tạo nhiều acid béo chưa no hơn là trồng nơicó khí hậu nóng. Mặt khác ở vùng nhiệt đới thường có những cây cho dầu mỡ đặc nhưcây dừa, cây cacao,…c. Thành phần cấu tạo

Sự khác nhau về cấu tạo của acid béo quyết định các tính chất khác nhau giữacác loại dầu mỡ. Có thể phân chia các acid béo thành các nhóm sau:

a. Acid béo no:Các acid béo no có công thức chung: CH3(CH2)nCOOH. Trước đây người ta cho

rằng n bao giờ cũng là số chẵn. Hiện nay nhờ các phương pháp phân tích hiện đại,44

người ta đã phát hiện trong dầu mỡ tự nhiên có cả các acid béo no có số carbon lẻ. Cácacid béo này chiềm tỷ lệ 1% so với tổng số các acid béo. Trong dầu mỡ tự nhiên, cácacid béo no có từ 4 carbon (acid butyric) đến 26 carbon (acid hexacosanoic). Các acidbéo no có số carbon từ C8 đến C18 chiếm hơn 50% tổng số các acid béo, từ C4 đến C8 vàtừ C20 đến C26 chiếm 10% tổng số các acid béo trong tự nhiên.

Các acid béo no đó là: Acid butyric (C4), Acid caproic (C6), acid caprylic (C8),acid capric (C10), acid lauric (C12), acid myristic (C14), acid palmitic (C16), acid stearic(C18), acid arachidic (C20), acid behenic (C22), acid lignoseric (C24), acid hexacosanoic(C26)

b. Acid béo chưa noTrong dầu mỡ thực vật, acid béo chưa no chiếm một tỷ lệ lớn hơn các acid béo

no. Hay gặp nhất là các acid 16, 18 carbon. Có thể gặp các acid có 1 dây nối đôi hoặcnhiều dây nối đôi.

Các acid béo chưa no hay gặp nhất trong dầu mỡ thực vật là: Acid oleic, acidlinoleic và acid linolenic. Một số acid béo chưa no có nhiều dây nối đôi hay gặp trongdầu cá: như Acid arachidonic, acid clupadonic.

Do có nhiều dây nối đôi trong phân tử, cho nên các acid béo chưa no có thể tạođồng phân cis và trans. Trong thiên nhiên chủ yếu là các đồng phân cis; đồng thờitrans rất ít gặp trong dầu mỡ tự nhiên, chỉ gặp khi phân huỷ dầu mỡ ở nhiệt độ cao cóchất xúc tác kèm theo.

c. Acid béo alcolGặp trong dầu thầu dầu: Acid ricinoleic 18 carbon, 1 dây nối đôi và nhóm OH ở

C12.

d. Acid béo vòng 5 cạnh – acid cyclopentenic:Những acid béo này hay gặp trong dầu đại phong tử, có công thức chung là:

n =10 (acid hydrocarpic)

n =12 (acid chaulmoogric)n =14 (acid hormelic)

d. Tính chất:* Tính chất vật lý

- Nhiệt độ nóng chảy phụ thuộc vào cấu tạo của dầu mỡ. Các acid béo no cónhiệt độ nóng chảy cao hơn các acid béo chưa no. Trong các acid béo chưa no, nhiệtđộ nóng chảy còn phụ thuộc vào số lượng các dây nối đôi, và cấu tạo không gian(đồng phân cis và trans) của các acid béo. Acid béo không no càng có nhiều dây nốiđôi trong phân tử, thì nhiệt độ nóng chảy càng thấp. Đồng phân cis có nhiệt độ nóngchảy thấp hơn acid béo có đồng phân trans. Ví dụ acid oleic có nhiệt độ nóng chảy là130C và đồng phân trans của nó là acid elaidic có nhiệt độ nóng chảy là 51,50C.

Acid oleic (cis) Acid elaidic (trans)

45

Các acid béo vòng có nhiệt độ chảy cao hơn các acid béo khác có cùng sốcarbon.

Người ta thường lấy trạng thái dầu mỡ ở nhiệt độ thường (150C) để quy định.Nói chung mỡ thường đặc và dầu thường lỏng ở nhiệt độ này.

- Về độ tan, dầu mỡ không tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ nhưbenzene, cloroform, ether dầu hoả, ít tan trong cồn, trừ dầu có cấu tạo các acid béoalcol (dầu thầu dầu).

- Độ sôi của dầu mỡ cao, thường trên 3000C.- Tỷ trọng nhỏ hơn 1. Dầu thầu dầu có tỷ trọng cao nhất.- Chỉ số khúc xạ vào khoảng 1,4690-1,4771.- Độ nhớt của dầu mỡ cao, từ 0,40 đến 0,92 Poadơ trong đó dầu thầu dầu có độ

nhớt cao nhất.- Năng suất quay cực nói chung là thấp trừ dầu mỡ có cấu tạo bởi các acid có

chứa oxy và các acid béo vòng (vì có carbon bất đối xứng) ví dụ: dầu thầu dầu, đạiphong tử.* Tính chất hoá học

- Ở nhiệt độ cao dầu mỡ bị phân huỷ. Trong sự phân huỷ này glycerol sẽ mất 2phân tử nước để tạo thành aldehyd alylic hay acrolein có mùi khét:

- Dầu mỡ rất dễ bị thuỷ phân để cho glycerol và các acid béo qua các giai đoạntrung gian là diacylglycerol và monoacylglycerol. Tác nhân thuỷ phân là enzyme(lipase), môi trường acid hoặc ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao.

- Dầu mỡ rất dễ bị xà phòng hoá để cho glycerol và các muối kiềm của acid béotan trong nước.

- Có thể hydrogen hoá dầu để tạo thành mỡ.- Có thể halogen hoá dầu mỡ. Ví dụ: gắn iod vào dầu thuốc phiện để cho hợp

chất lipiodol làm chất cản quang.- Dầu mỡ ôi khét. Dầu mỡ rất dễ bị oxy hoá, sự oxy hoá thường xảy ra ở các

acid béo. Quá trình oxy hoá xảy ra tuỳ theo từng mức độ. Trong điều kiện bảo quảnkhông tốt thì quá trình oxy hoá xảy ra đồng thời với quá trình thuỷ phân, kết quả cuốicùng của sự oxy hoá là các acid béo bị cắt nhỏ và oxy hoá thành các hợp chất aldehyd,rồi thành các acid có mùi khó chịu, ta thường gọi là dầu mỡ bị ôi khét.

Đối với các acid béo chưa no, ngay trong điều kiện nhiệt độ bình thường, độ ẩmvà có tác nhân oxy hoá của oxy không khí, từ mạch nối đôi của các acid béo sẽ bị oxyhoá tạo thành hợp chất peroxyd. Hợp chất này không bền vững sẽ bị cắt đôi thành cáchợp chất aldehyd có mạch ngắn. Các aldehyd này lại tiếp tục oxy hoá tạo thành cácacid.

Đối với các acid béo no, thường xảy ra hiện tượng β-oxy hoá. Do tác dụng củamột số enzym ở vi sinh vật, carbon ở vị trí β (so với nhóm carboxy) dễ bị oxy hoá đểtạo thành các cetoacid. Hợp chất này dễ bị cắt đôi phân tử rồi tiếp tục oxy hoá để tạothành các hợp chất acid có phân tử nhỏ hơn.f. Chế tạo dầu mỡ* Chế tạo dầu mỡ thực vật:

Để chế tạo dầu mỡ nguồn gốc thực vật có thể dùng các phương pháp: Ép, chiếtbằng dung môi hữu cơ và phương pháp kết hợp.

46

+ Phương pháp ép: Có 2 loại: ép nóng và ép nguội. Đa số đều được điều chếbằng phương pháp ép nóng. Một số theo yêu cầu sử dụng thì mới điều chế bằngphương pháp ép nguội (ví dụ Dầu thầu dầu). Nguyên liệu trước hết cần phải được loạibỏ các tạp chất như đất đá, mảnh kim loại… và loại vỏ. Để tăng độ xốp khi ép, ngườita thường để lại 15% vỏ hạt. Nghiền nhỏ nguyên liệu và đóng thành bánh. Nếu épnóng phải qua giai đoạn đồ nguyên liệu rồi cho vào máy ép. Bã còn lại sau khi ép (gọilà khô dầu) sẽ được xay nhỏ và sử lý như trên để ép lại lần thứ 2. Dầu ép lần thứ nhấtcó phẩm chất tốt thường được dung trong kỹ nghệ thực phẩm, trong ngành Dược. Dầuép lần thứ hai phẩm chất xấu hơn, thường dùng trong kỹ nghệ xà phòng…

Dầu sau khi ép phải lọc bỏ cặn bã, ly tâm để loại nước. Nếu dùng trong thựcphẩm và ngành Dược phải trung hoà các acid tự do.

+ Phương pháp dùng dung môi: Dung môi thường dùng là benzene, aceton,ether dầu hoả… Phương pháp này lấy kiệt được dầu, nhưng đòi hỏi phải có thiết bị kỹthuật tinh chế tốt, nhất là đối với dầu mỡ dùng trong thực phẩm và trong ngành Dược.

+ Phương pháp kết hợp: Kết hợp cả hai phương pháp ép và dung môi. Đầu tiênchế bằng phương pháp ép dùng trong thực phẩm và ngành Dược, bã sau khi ép đượcchiết kiệt bằng dung môi hữu cơ. Dầu này dùng trong kỹ nghệ xà phòng và các ngànhkỹ nghệ khác.* Chế tạo dầu mỡ động vật

Nguyên liệu nguồn gốc động vật đòi hỏi phải có thiết bị bảo quản tốt. Vì khácvới nguyên liệu nguồn gốc thực vật, loại nguyên liệu này rất dễ bị thiu thối. Trước khiđưa vào chế tạo, nguyên liệu cần phải bảo quản trong các phòng lạnh, khô và được xửlý qua các giai đoạn làm sạch (loại máu, thịt, gân, và các phần còn dính với mỡ)nghiền nhỏ và loại bớt nước, rồi áp dụng các phương pháp làm nóng chảy khác nhauđể điều chế.

* Phương pháp làm nóng chảy ướt: Dùng hơi nước hoặc nước nóng đun vớinguyên liệu. Sau một thời gian mỡ nổi lên trên, để lắng và chiết lấy lớp mỡ ở trên.

* Phương pháp làm nóng chảy khô: Thường dung các ống dẫn hơi nước haynước nòng dẫn vào trong các thùng đựng nguyên liệu. Các ống dẫn hơi này có thểquay được, để đảm bảo nhiệt độ trong thùng luôn luôn đồng đều. Dùng nước có thểđiều chỉnh được nhiệt độ và được áp dụng để điều chế dầu mỡ cần nóng chảy ở nhiệtđộ thấp.

Để điều chế dầu gan cá, có thể áp dụng các phương pháp đã nêu ở trên. Ganphải được lấy từ cá còn tươi, loại bỏ mật và các tạp chất khác rồi đưa vào chế biếnngay. Sau đó để lắng ở nhiệt độ thấp (-50C) để loại bỏ tạp chất.

g. Công dụng của dầu mỡ:Dầu mỡ trước hết là nguồn thức ăn giàu năng lượng. Ngoài ra còn được dùng

trong kỹ nghệ xà phòng, kỹ nghệ sơn, kỹ nghệ chất dẻo… Nhu cầu về dầu mỡ ngàymột tăng. Năm 1935-1939 toàn thế giới sản xuất 22 triệu tấn dầu thực vật và mỡ độngvật, đến năm 1970 là 43 triệu tấn, trong đó dầu thực vật chiếm trên 60%. Một số dầuthực vật đang nghiên cứu đưa vào sử dụng để làm dầu ăn dùng trong kỹ nghệ như dầuhạt cao su, dầu hạt gấc…

Trong y học, dầu mỡ cũng có một số tác dụng nhất định. Dầu mỡ có tác đụngbảo da và niêm mạc, hạn chế sự thoát hơi nước của da, làm mềm da, làm chóng lên danon trong các vết thương, vết bỏng,…

Dầu chứa các acid béo không no có nhiều dây nối đôi như các acid linoleic,linolenic và arachidonic được dùng trong điều trị. Những acid béo này còn được gọi là

47

vitamin F. Đó là những acid béo rất cần thiết cho cơ thể, chỉ đưa vào bằng nguồn thứcăn, cơ thể không tự tổng hợp được. Các acid béo này có cấu tạo của glycerophosphatidcủa các màng tế bào thành mạch và là những chất xây dựng nên cấu tạo của các hợpchất prostaglandin. Khi thiếu các acid béo này thường hay xảy ra rối loạn các biến đổibệnh lý về da.

Một số dầu mỡ có tác dụng điều trị đặc biệt như dầu đại phong tử dùng để chữaphong và lao da, dầu thầu dầu, ba đậu dùng làm thuốc nhuận tẩy. Trong ngành Dượccòn dùng dầu mỡ làm dung môi pha chế thuốc tiêm, làm tá dược thuốc mỡ, thuốc đạn,thuốc cao dán,…

2. Các dược liệu có chất beo

THẦU DẦU

Tên khoa học: Ricinus communis L.Họ Thầu dầu – Euphorbiaceae

Đặc điểm thực vật và phân bốCây sống dai, có thể cao 5-6m, lá mọc so le có cuống dài. Lá kèm sớm rụng,

gân lá toả tròn. Phiến lá chia thành 5-7 thuỳ, khía răng cưa. Cụm hoa là chùm xim.Hoa đơn tính không cánh. Hoa đực ở phía dưới cụm hoa, hoa cái ở phía trên. Hoa đựccó 5 lá đài và nhiều nhị phân nhánh mang 1 ô củabao phấn. Hoa cái có 3 lá đài và 3 noãn. Bầu thượng3 ô, mỗi ô chứa 1 noãn, ngoài có gai mềm. Quả khô gồm có 3 ngăn vỏ cứng, trên mỗi ngăn cómột rãnh nông, khi chín nứt thành 6 mảnh. Hạt cómồng, vỏ bên ngoài cứng và có vân, nội nhũ chứanhiều dầu.

Thầu dầu mọc hoang và được trồng ở nhiềutỉnh: Cao bằng, Lạng sơn, Bắc giang, Vĩnh phú,Quãng nam, Đà nẵng. Ngoài ra còn mọc ở các nướcẤn độ, Châu mỹ, Châu phi. Hàng năm trên thế giớisản xuất khoảng 40 vạn tấn dầu thầu dầu.Trồng trọt và thu hoạch

Trồng bằng hạt vào tháng 12 và tháng 1. Thu hoạch vào tháng 4-5. Mỗi hakhoảng 375-750 kg hạt.Bộ phận dùng

Hạt thầu dầu – Semen Ricini; hạt hình bầu dục, có mồng, trông giống như conve chó. Hình 4.5. Thầu dầu

Lá thầu dầu – Folium Ricini; Dầu thầu dầu – Oleum Ricini. Thành phần hoá học

Hạt chứa 50% dầu, 26% protein trong đó ricin là một protein độc, 0,2% ricinin,ngoài ra còn có enzyme lipase, vitamin E…

Dầu thầu dầu là chất lỏng không màu hoặc màu hơi vàng, rất sánh, mùi đặcbiệt, vị khó chịu và buồn nôn, tan trong cồn tuyệt đối, tan khoảng 30% trong cồn 900,không tan trong ether dầu hoả. Thành phần cấu tạo của dầu gồm acylglycerol của acidricinoleic (90%), ngoài ra còn có các acid stearic, palmitic, oleic.Tác dụng, công dụng, liều dùng

Dầu thầu dầu có tác dụng nhuận tẩy là do acid ricinoleic. Khi vào cơ thểenzyme lipase thuỷ phân dầu giải phóng acid ricinoleic tự do, acid này kích thích nhuđộng ruột. Liều dùng nhuận tràng 2-10g dầu, tẩy 10-30g dầu trong 1 ngày.

48

Hình 4.5: Cây Thầu dầu

Cracking dầu thầu dầu thu được acid undecilenic và oenanthol. Acidundecilenic dùng làm thuốc trị nấm ngoài da, oenanthol được dùng trong kỹ nghệhương liệu để tổng hợp các chất thơm.

Dầu thầu dầu còn dùng để chế xà phòng, dùng làm dầu bôi trơn cho các độngcơ máy bay, dầu phanh, dùng làm chất phá bọt trong các nồi hơi, nồi cất tinh dầu.

Hạt thầu dầu giã nhỏ chế thành thuốc cao dán để chữa viêm hạch cổ, viêmtuyến vú. Thuốc cao dán gồm nhân hạt thầu dầu kết hợp với ngũ bội tử theo tỷ lệ:98:2, dán vào huỵêt bách hội có thể chữa sa dạ dày.

Theo kinh nghiệm Y học cổ truyền, lá tươi giã đắp vào gan bàn chân để chữasót rau, hoặc đem lăn vào trước ngực và sau lưng để chữa bệnh sởi không mọc. Còndùng diệt bọ gậy.

ĐẠI PHONG TỬ

Tên khoa học: Hydnocarpus anthelmintica Pier.Họ Mùng quân – Flacourtiaceae.

Đặc điểm thực vật và phân bốCây đại phong tử hay còn gọi là chùm bao lớn, thuộc loại cây to, có thể cao đến

20-30cm, lá nguyên dài, non thì mềm, màu hồng, già thì khô và dai. Hoa màu hồng,đơn tính cùng gốc, mọc ở kẽ lá, có khi có cả hoa đơn tính.

Quả to bằng quả bưởi, hình cầu, vỏ dày chứanhiều hạt có cạnh, nội nhũ có chứa dầu.

Mọc hoang ở rừng rậm khá phổ biến ở nướcta, nhiều nhất là rừng miền trung, ngoài ra còn đượctrồng làm bóng mát ở các thành phố (Hà Nội), Cònmọc ở Lào, Campuchia, Ấn Độ, Miến Điện, TháiLan…Bộ phận dùng

- Hạt – Semen Hydnocarpin. Khi quả chín(tháng 8-9) hái về đập vỡ lấy hạt, loại bỏ tạp chấtphơi khô hoặc sấy khô để ép dầu. Hình 4.6. Đại phong tử

- Dầu đại phong tử - Oleum Hydnocarpin hoặc Oleum Chaulmoograe được điềuchế bằng phương pháp ép hay chiết bằng dung môi hữu cơ hạt đại phong tử và một sốhạt cây khác thuộc họ Mùng quân – Flacourtiaceae. Thành phần hoá học

Trong hạt có chứa chất béo, tỷ lệ 40-50% (so với nhân hạt)Thành phần cấu tạo của dầu Đại phong tử gồm acylglycerol của acid béo không

no: Acid oleic, acid linolenic và chủ yếu là các acid béo vòng (90%).Ở nhiệt độ thường dầu đại phong tử ở thể đặc, hoặc nửa lỏng nửa đặc, có màu

trắng ngà, mùi và vị khó chịu.Ngoài ra còn có các glycerophosphatid và các glycolipid.Lá đại phong tử có chứa khoảng 2,4% chất béo.Thành phần hoá học chủ yếu là acid linolenic (khoảng 50% tổng số acid béo),

acid linoleic, oleic, palmitic và các acid cyclopentenic…Công dụng

Dầu đại phong tử có tác dụng diệt vi khuẩn lao và trực khuẩn phong. Nênthường dùng bôi ngoài da dưới dạng thuốc dầu hoặc thuốc mỡ để chữa phong, lao davà các bệnh ngoài da khác.

49

Nhân dân thường dùng phối hợp với một số vị thuốc khác để chữa vết loét dobệnh phong và một số bệnh ngoài da.

CA CAO

Butyrum cacaoTên khoa học: Theobroma cacao L.

Họ Trôm – Sterculiaceae.

Đặc điểm thực vật và phân bốCây trồng cao khoảng 5-6m, nếu để mọc tự nhiên có thể cao hơn nữa. Lá đơn

nguyên, dài 20-25cm. Hoa nhỏ mọc trên thân cây hay trên cành to, màu trắng hay đỏnhạt. Quả to hình thoi, ngoài mặt sần sùi có 10 rãnh dọc. Hạt hình trứng bên ngoài cólớp cơm trắng hay vàng nhạt dính chặt vào hạt, vị chua.

Nguồn gốc cây cacao ở Nam mỹ. Hiện nay được trồng nhiều ở Châu phi (Gana,Nigeria) và Nam mỹ (Brazin). Hằng năm thế giới thu hoạch hơn 1 triệu tấn hạt. Ở VNtrước đây trồng cacao, và hiện nay ở Phong Điềntỉnh Hậu Giang và ở Quảng Nam đang được pháttriển trồng cả 2 giống Cacao criollo và forastero.

Giống criollo cho chất lượng cacao tốt nhấtnhưng đòi hỏi chăm bón công phu, giống farasterocho cây mọc khoẻ, 4/5 sản lượng Cacao trên thếgiới do giống này cung cấp.Trồng trọt và thu hoạch

Trồng bằng hạt mới của những quả thật chín,gieo trong vườn ươm. Khi cây cao 20-30cm thìtrồng đại trà. Hình 4.7. Cacao

Năm thứ 3 cây ra hoa và cho quả, nhưng phải từ năm thứ 5 mới cho nhiều quả.Cây cacao hầu như cho quả quanh năm, nhưng mùa thu hoạch chính vào khoảng tháng5 và tháng 10.

Mỗi cây cho khoảng 1 đến 4 kg hạt mỗi năm.Bộ phận dùng và chế biến

- Hạt cacao- Bơ CacaoHạt cacao tươi không có mùi thơm, vị chát và đắng. Trước khi sử dụng phải cho

hạt lên men từ 2-8 ngày trong các thùng gỗ. Trong quá trình lên men, hạt mất khả năngnảy mầm, các chất đắng bị phân huỷ và các hợp chất có mùi thơm xuất hiện. Sau đólàm sạch hạt và sấy khô. Để điều chế bột cacao hoặc socola, người ta còn rang hạt từ10-45 phút ở nhiệt độ 70-1400C, sau đó loại vỏ, ép nóng lấy bơ. Bột còn lại, nếu muốnchế thành socola phải thêm đường sữa, gia vị và một ít bơ cacao.Thành phần hoá học

- Hạt sau khi loại vỏ có chứa 50-60% mỡ gọi là bơ cacao, 1-4% theobromin,khoảng 0,2% cafein, 10-15% tinh bột và 5% tannin và các hợp chất đa phenol:catechin, leucoantoxyanidin, epicatechin; và các hợp chất flavonoid.

- Vỏ hạt, chiếm 10-14% khối lượng hạt, có chứa các chất vô cơ, một ít chất béovà khoảng 0,01% theobromin. Sau quá trình lên men, theobromin tăng lên đến 1,5%.

Bơ caocao có nhiệt độ nóng chảy 32-350C, màu trắng ngà, mùi dễ chịu, chỉ sốxà phòng 180-200, chỉ số iod 32-40. Thành phần cấu tạo gồm các acylglycerol của cácacid béo như acid palmitic, acid stearic,…

50

Công dụngBơ Cacao được dùng trong ngành Dược làm tá dược thuốc đạn, thuốc mỡ, thuốc

viên. Bột cacao làm thơm thuốc, làm cho thuốc có mùi vị dễ uống. Hạt cacao còn làmnguyên liệu để điều chế theobromin.

Hạt cacao được tiêu thụ nhiều nhất trong kỹ nghệ thực phẩm và bánh kẹo đểđiều chế bột cacao, socola

LƯỢNG GIÁ:Trả lời các câu hỏi sau:1. Trình bày được định nghĩa, phân loại, tác dụng của chất nhựa, chất béo

2. Trình bày được các dược liệu chứa chất nhựa, chất béo

3. Để chế tạo được dầu mỡ có nguồn gốc từ thực vật, anh chị áp dụng những phươngpháp nào?4. Dựa vào vai trò của dầu mỡ, anh chị cho biết ứng dụng dầu mỡ trong ngành Dượcvà đời sống.Trả lời các câu sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (…): 5. Chất nhựa là những hợp chất ... hình trắng đục hoặc trong suốt, dày cứng đặc ở nhiệtđộ thường.6. Bôm – nhựa dầu có chứa một lượng đáng kể ... và ....7. Trong thiên nhiên dầu mỡ kết hợp với ... của thực vật tạo thành một nhũ dịch lỏng.

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) vàchữ B (cho câu sai):

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải phápmà bạn lựa chọn:

10. Sau khi oxy hóa và trùng hiệp hóa các hợp chất terpenic trong cây, ta thu được:A. BômB. Nhựa chính tênC. Gôm nhựaD. Nhựa dầu11. CH3(CH2)nCOOH là công thức của:A. Acid béo noB. Acid chưa noC. Acid béo alcolD. Acid béo vòng 5 cạnh12. Dầu mỡ khi đun ở nhiệt độ cao có mùi khét:A. Phân hủyB. Thủy phânC. Xà phòng hóaD. Hydrogen hóa13. Để chế tạo dầu mỡ nguồn gốc thực vật, có thể dùng ..... phương pháp:A. 4B. 3

51

8. Vị thuốc có tác dụng hạ sốt mà không ra mồ hôi là cánh kiến đỏ.

9. Acylglycorol là ester của glycerol với các acid béo.

A – B

A – B

C. 5D.214. Khi da bị khô và nứt nẻ, người ta thường bôi:A. Dầu, mỡB. NhựaC. TaninD. Tinh dầu15. Dầu đại phong tử dùng để :A. Chữa bệnh phong và lao daB. Chữa bệnh hắc làoC. Có tác dụng nhuận, tẩyD. Điều chế thuốc đạn16. Tác dụng của dầu thầu dầu:A. Hạn chế sự thoát hơi nướcB. Kích thích tiêu hóaC. Làm mềm daD. Nhuận, tẩy17. Socola được chế tạo từ:A. Hạt Cà phêB. Hạt Đại phong tửC. Hạt CacaoD. Hạt Điều

CHƯƠNG V

DƯỢC LIỆU CHỨA CARBONHYDRAT

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa về: Carbonhydrat, tinh bột, cellulose và các dẫn

chất gôm, chất nhầy và pectin.

2. Áp dụng được một số phương pháp để nhận biết và đánh giá dược liệu chứa

carbonhydrat.

52

3. Áp dụng được các kiến thức đã học để nhận biết, miêu tả các dược liệu chứa

tinh bột, chú trọng dược liệu: Cát căn, sen, ý dĩ.

NÔI DUNG

Carbonhydrat là những thành phần rất quan trọng của thực vật, nó là nơi tích trữ

năng lượng từ ánh sáng mặt trời qua quá trình quang hợp; là nguồn nuôi sống loài

người là loài vật, khi nghiên cứu những đường đơn giản người ta thấy cấu tạo của

đường tương ứng với công thức Cn(H2O)n nên gọi là carbonhydrat.

Ví dụ: glucose C6H12O6 tương ứng là C6(H2O)6

Về sau khi nghiên cứu kỹ người ta thấy có một số loại đường không thể viết

được công thức chung Cn(H2O)n.Ví dụ: methylpentose: CH3(CHOH)4COH hoặc có

một số chất tuy không phải carbonhydrat mà lại viết được theo công thức trên.Ví dụ:

Acid lactic: CH3-CHOH-COOH có thể viết thành: C3(H2O)3. Do vậy, hội nghị danh

pháp quốc tế có đề nghị gọi là glucid, tuy vậy từ carbonhydrat vẫn còn thông dụng.

Có thể định nghĩa carbonhydrat hay glucid là những nhóm hợp chất hữu cơ

gồm những monosaccharid, những dẫn chất và những sản phẩm ngưng tụ của chúng.

Monosaccharid là những chất polyhydroxyaldehyd (aldose) và polyhydroxyceton

(cetose) có thể tồn tại dưới dạng mạch hở và dạng mạch vòng bán acetal.

Những sản phẩm ngưng tụ tức là oligosaccharid.

Carbonydrat có thể chia thành 3 nhóm là: monosaccharid, oligosaccharid và

polysaccharid.

Hiện nay, ta chỉ đề cập đến phần polysacchrid.

TINH BỘT

Tinh bột là sản phẩm quang hợp của cây xanh. Ở trong tế bào thực vật, hạt lạp

không màu là nơi tạo ra tinh bột, các glucid hoà tan kéo đến hạt lạp không màu và

được để dành dưới dạng tinh bột. Tinh bột được giữ lại trong các bộ phận của cây như:

củ, rễ, quả, hạt, thân với hàm lượng từ 2-70%. Trong lá thường không quá 2%.

Tinh bột ở dạng hạt, kích thước và hình dáng khác nhau, không tan trong nước

lạnh, đun với nước thì tinh bột dần dần bị hồ hoá và độ nhớt của dung dịch tăng lên,

Trong quá trình hoạt động của cây, tinh bột dưới tác động của enzym có sẵn trong cây

bị cắt nhỏ thành đường đơn giản hoà tan được trong nước và được chuyển đến các bộ

phận khác nhau của cây

1. Cấu trúc hóa học của tinh bột

Tinh bột được cấu tạo bởi 2 loại: polysaccharid được gọi là amylose và

amylopectin.

53

2. Sự thủy phân của tinh bột

Khi thuỷ phân tinh bột bằng acid thì sản phẩm cuối cùng là glucose.

c6H12O6 (C6H10O5)n + n H2O (1+n) (C6H12O6)

Sự thuỷ phân qua các chặng: dextrin, erythrodextrin, achrodextrin, maltose,

glucose.

Amylopectin khó bị thuỷ phân hơn amylose.

Ngoài sự thuỷ phân tinh bột bằng acid, trong thực vật, tinh bột còn bị thuỷ

phân bằng các enzym cắt nhỏ tinh bột thành những đường đơn giản ở dạng hoà tan và

được chuyển đến các bộ phận khác nhau của cây.

3. Hình dạng của tinh bột.

tinh bột tồn tại ở trong cây dưới dạng hạt có hình dạng và kích thước khác nhau.

Đây là đặc điểm giúp cho việc kiểm nghiệm dược liệu có tinh bột. Tuỳ theo loài cây

và độ trưởng thành của cây mà hình dạng, kích thước thay đổi. Về hình dạng có thể là

hình cầu, hình trứng, hình nhiều góc...Về kích thước đường kính có thể từ 1-100μm.

Soi kính hiển vi thường thấy hạt tinh bột có cấu tạo bởi nhiều lớp đồng tâm sắp xếp

chung quanh một điểm gọi là rốn hạt, các lớp này tạo nên là do hạt tinh bột lớn dần

bằng cách tăng thêm các lớp ở bên ngoài. Các lớp này khác nhau ở chỉ số chiết quang

và hàm lượng nước.

Các hình ảnh :

Hình 5.1. Tinh bột khoai tâyHình 5.2. Tinh bột hoàng tinh

Hình 5.4.Tinh bột đậu

54

Hình 5.3. Tinh bột ý dĩ

Hình 5.5. Tinh bột sắn

Hình 5.6. Tinh bột mỳ

HÌnh 5.7.Tinh bột hoài sơn Hình 5.8.TInh bột sen

55

Hình 5.9.Tinh bột sắn dây

Hình 5.10.Tinh bột gạo

Hình 5.11.Tinh bột ngô

Trong nước lạnh, hình dạng tinh bột không thay đổi, khi nâng dần nhiệt độ lên

thì tinh bột chuyển qua 3 giai đoạn, giai đoạn đầu tinh bột ngậm ít nước; nếu làm mất

nước tinh bột trở lại hình dạng ban đầu; nếu nâng cao nhiệt độ (60-85oC) thì hạt tinh

bột nở ra nhanh chóng. Tinh bột ngậm nhiều phân tử nước hơn, các dây nối hydro bị

đứt, hạt tinh bột không thể trở lại hình dạng ban đầu; nếu nâng cao nhiệt độ lớn hơn

nữa thì tinh bột chuyển thành hồ tinh bột.

Các loại hạt tinh bột hay gặp:

+ Hạt tinh bột hình trứng và hình thận.

- Tinh bột Khoai tây chế từ củ khoai tây thường hình trứng rốn ở đầu hẹp các

vân đồng tâm dễ nhận; thỉnh thoảng có hạt kép 2 hoặc 3. Kích thước trung bình 50µm

nhưng có hạt lớn hơn đến 80-100µm.

- Tinh bột Hoàng tinh: hạt hình trứng kích thước 30-60µm.

- Tinh bột Sen: (chế từ hạt cây Sen) hạt tinh bột hình trứng hay hình thận, rốn

hạt hình que, kích thước hạt từ 3-25µm.

- Tinh bột Sắn: (chế từ củ cây Sắn) hạt hình cầu, một đầu hơi lõm trông như cái

chuông, rốn hạt hình sao, kích thước 3-35µm.

56

- Tinh bột Đậu: chế từ hạt của nhiều loại đậu, hạt hình trứng hay hình thận, rốn

hạt dài và phân nhánh, kích thước trung bình 35µm.

- Tinh bột Hoài sơn: chế từ củ của cây Củ mài. Hạt hình trứng hay hình thận.

Rốn hạt dài kích thước trung bình 40µm.

+ Hạt hình nhiều góc:

- Tinh bột mỳ: chế từ hạt cây Lúa mỳ.Kích thước hạt lớn 30μm, hạt bé 6-

7μm. Tuỳ theo góc nhìn mà thấy hạt hình tròn hoặc hình thấu kính lồi hai

mặt. Rốn hạt là một điểm ở giữa hạt

- Tinh bột gạo: chế từ hạt cây lúa, hạt nhiều góc, nhỏ kích thước từ 4-6μm

thường được kết thành đám rốn hạt không rõ.

- Tinh bột ngô (bắp): chế từ hạt cây ngô, hạt nhiều góc, rốn hạt ở giữa rất rõ,

kích thước 15-30μm.

4. Chế tinh bột

Chúng ta cần phân biệt bột với tinh bột. Bột mỳ, bột gạo khác hẳn với tinh bột

mỳ, tinh bột gạo. Muốn có bột mỳ ta chỉ cần nghiền hạt lúa mỳ sau khi đã loại vỏ,

nhưng muốn có tinh bột mỳ ta phải qua chế biến. Thành phần của bột mỳ thì ngoài

glucid còn có protein, lipid, muối khoáng, vitamin. Còn tinh bột thành phần chủ yếu là

glucid.

Nguyên tắc chung để chế biến tinh bột gồm các giai đoạn:

1, Làm nhỏ nguyên liệu để giải phóng tinh bột ra khỏi tế bào

2, Nhào với nước lọc qua rây hoặc qua vải lấy phần dưới rây

3, Cho lên men

4, Rửa với nước rồi phơi khô.

* Chế tinh bột mỳ: Muốn có tinh bột mỳ thì nhào bột mỳ dưới dòng nước, nước

cuốn tinh bột đi để lại gluten là một khối nhão, dính, tức là phần protein. Hứng nước

vào thùng, tinh bột lắng xuống và còn lẫn một ít gluten, người ta cho lên men để phân

huỷ gluten bằng cách trộn với một ít nước cũ, sau khi lên men loại bỏ lớp nước bên

trên, rửa thêm một vài lần bằng nước rồi đem sấy hoặc phơi khô.

* Chế tinh bột gạo: Ngâm gạo hay tấm với nước vôi trong 7 ngày, vớt gạo ra

cho ráo nước rồi đem xay. Trong lúc xay có thêm nước, nước bột xay đem lọc 2 lần,

lần đầu qua rây thưa, lần sau qua rây mắt mau hơn. Tinh bột qua rây còn lẫn một ít

protein. Cần ngâm thêm nước vôi rồi sau đó rửa bằng nước lã gạn lấy tinh bột rồi phơi

khô.

5. Định tính và định lượng:

57

* Để định tính tinh bột chỉ cần cho tác dụng với dung dịch iod trong nước. Tinh

bột sẽ có màu xanh tím. Có thể định tính thẳng trên vi phẫu để xác định các tổ chức

chứa tinh bột. Đây là phản ứng đặc trưng.

Ngược lại, có dùng dung dịch hồ tinh bột để phát hiện iod với nồng độ 2x10-6,

sự có mặt của cồn, tanin, acid nitric, chlo sẽ cản trở phản ứng.

* Định lượng bằng phương pháp thuỷ phân acid:

- Thuỷ phân trực tiếp: Nguyên liệu (2,5-3g) được rửa kỹ bằng nước cất nguội,

sau đó thuỷ phân trong vài giờ bằng 200ml nước và 20ml HCl làm nguội và trung tính

bằng NaOH. Thêm nước đến một thể tích xác định, lấy phần chính xác rồi định lượng

glucose tạo thành và suy ra lượng tinh bột.

Khối lượng glucose thu được x 0,9 = khối lượng tinh bột

Phương pháp này chỉ ứng dụng cho những nguyên liệu chứa chủ yếu tinh bột.

Vì các pentosan, galactan và một số polysaccharid khác cũng bị thuỷ phân cùng tinh

bột và cho sai số lớn hơn.

- Thuỷ phân bằng enzym rồi tiếp theo bằng acid: Nguyên tắc của phương pháp

là dùng dịch chiết mạch nha (chứa các enzym thuỷ phân tinh bột) cho các dung dịch

lên nguyên liệu để chuyển tinh bột thành đường hoà tan. Sau đó dùng acid để thuỷ

phân tiếp. Glucoza tạo thành sẽ được định lượng bằng một trong những phương pháp

được chấp nhận.

* Phương pháp không thuỷ phân để định lượng tinh bột:

- Phương pháp tạo phức với iod: Khi cho dung dịch tinh bột tác dụng với iod

tạo phức có màu có thể dùng để định lượng. Người ta dùng Acid perchloric để hoà tan

tinh bột rồi cho tác dụng với iod, đo màu so sánh với mẫu tinh bột tinh chế. Phương

pháp này không cần thiết phải loại đường.

* Kiểm tra chất lượng: Dược điển Việt nam III tập 3 quy định kiểm tra tạp

chất, kim loại nặng, arsenic giới hạn acid.

6. Công dụng

Tinh bột là thành phần chính trong lương thực. Nguyên liệu có nhiều tinh bột là

các hạt ngũ cốc, các loại củ, đôi khi có trong thân cây (như cây báng)

Hiện nay, nguồn để chế tinh bột dùng trong nước và xuất khẩu là tinh bột sắn là

chủ yếu. Năm 1995, tại Tây Ninh đã xuất khẩu 28000 tấn.

Trong ngành Dược, tinh bột được dùng làm tá dược viên nén. Để cho dễ tiêu

hoá, người ta có thể chế từ loại tinh bột đã được rang lên tinh bột đã thuỷ phân một

58

phần. Tinh bột còn là nguyên liệu sản xuất glucose, cồn ethylic,

monosodin...glutamat, bánh kẹo.

7. Những dược liệu cụ thể

CÁT CĂN

(radix puerariae)

Cát căn là dược liệu được chế từ củ sắn dây –

Pueraria thomsonii Benth., họ Đậu – Fabaceae.

* Đặc điểm thực vật: Là loại dây leo dài có khi đến

10m, lá kép gồm 3 lá chét, cuống lá chét giữa dài, cuống lá

chét 2 bên ngắn, lá chét có thể phân thành 2-3 thùy. Về mùa

hạ trổ hoa màu xanh, hoa hình cánh bướm mọc thành chùm

ở kẽ lá, quả loại đậu có nhiều lông, củ dài to, nặng có khi

đến 20kg, nhiều xơ.

Muốn trồng người ta đào hố sâu 50cm đổ rác và mùn

rồi lấp đất xốp lên, đến tháng 1-2 giấm cành vào hố, có

nhiều vùng chuyên trồng để chế tinh bột như tỉnh Tây Ninh

mỗi năm sản xuất khoảng 20 tấn tinh bột.

* Bộ phận dùng và chế biến:

Rễ củ thu hoạch từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Để chế vị cát căn thì đào củ,

rửa sạch cạo lớp vỏ bên ngoài, cắt khúc dài 10-15cm. Nếu củ to thì bổ dọc để có

những thanh dày khoảng 1cm. Rồi đem xông diêm sinh, đưa phơi hoặc sấy khô, loại

trắng ít xơ là loại tốt.

Muốn chế tinh bột sắn dây thì cạo bỏ vỏ ngoài, đem giã nhỏ hoặc mài trên tấm

sắt tây đục lỗ thủng hoặc xay bằng máy, cho thêm nước rồi nhào lọc qua rây thưa, loại

bã sau đó lọc lại một lần nữa qua rây dày hơn để lắng gạn lấy tinh bột, đem phơi hoặc

sấy khô.

* Đặc điểm vi học: Trên vi phẫu cắt ngang thấy có đám sợi trong phần mô mềm

vỏ. Trong phần libe và xung quanh mạch gõ. Tron gvi phẫu cắt dọc thấy các tế bào

kèm theo sợi mang tinh thể, hạt tinh bột hình cầu họăc hình chuông có kích thước từ 2-

20μm.

* Thành phần hoá học:

Rễ các loài Pueraria đều chứa tinh bột tỷ lệ 12-15% ( loại tươi). Ngoài ra còn có

các chất flavonoid thuộc nhóm isoflavonoid (puerarin, daidzin, daizein)

Hoa của một số loài pueraria được biết có irisolidon-7-O- glucosid và tectoridin

* Tác dụng và công dụng:

59

Hình 5.12. Cát căn

Puerarin hoạt chất của cát căn được hấp thu hoàn toàn qua ruột khi theo dõi trên

những người tình nguyện bằng đường uống sau khi hấp thu Puerarin liên kết với

albumin của huyết tương (42%) được phân bố chủ yếu trong gan và thận được thải trừ

sau khi chuyển hoá trong gan chỉ 10% liều hấp thu, thải trừ qua nước tiểu ở dạng

không bị biến đổi.

Daizein là chất có tác dụng giống estrogen giống như stilboestrol.

Theo y học cổ truyền, cát căn là vị thuốc chữa sốt nhức đầu, khát nước, kiết lỵ,

ban sởi nó đã được ghi vào dược điển Việt nam. Tinh bột sắn dây pha với nước thêm

đường uống để giải khát.

Nghiên cứu gần đây cho thấy nếu bị bệnh mạch vành cho uống cát căn hoặc

tiêm puerarin thì bệnh nhân giảm nhẹ cơn đau. Thuốc làm giãn động mạch vành, hạ

huyết áp, tiêu hao oxy của cơ tim giảm, năng lực của cơ tim được nâng cao.

Hoa cuả cây sắn dây gọi là cát hoa để làm thuốc giã rượu.

MẠCH NHA

Fructus Hordei germinatus

Mạch nha là hạt (về phương diện thực vật gọi là quả) nẩy mầm phơi khô của

cây đại mạch – Hordeium vulgar L., họ Lúa – Poaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Đại mạch là cây ngũ cốc mọc hàng năm. Mỗi

năm thế giới sản xuất khoảng 100 triệu tấn. Muốn chế

biến thành dược liệu người ta cho hạt nẩy mầm, khi một

số mầm bắt đầu xanh thì đem phơi nắng cho khô. Thứ

chưa nẩy mầm thì không dùng.

* Thành phần hoá học: Giống như ngũ cốc khác,

tinh bột là thành phần chính, các thành phần khác là

protein, lipid, vitamin, chất khoáng. Trong đại mạch khi

nẩy mầm thì giàu các enzym. Dưới tác dụng của enzym,

tinh bột chuyển thành dextrin và maltose, saccharose thì

chuyển thành đường nghịch đảo.

Protein chuyển thành pepton.

Polypeptid thành aminoacid

Do vậy, mạch nha là một thức ăn rất dễ tiêu cho người ốm và trẻ em.

Trong mầm hạt đại mạch còn chứa một lượng nhỏ alcaloid gồm 2 chất là

hordemin và granin.

60

Hình 5.13. Mạch nha

* Tác dụng và công dụng: do có enzym nên mạch nha có tác dụng giúp tiêu

hoá, dùng để chữa các trường hợp ăn uống kém tiêu, thuốc lợi sữa, trẻ em đau bụng đi

ngoài, lỵ viêm ruột.

Hordein có tác dụng giống như giao cảm nhẹ, hơi tăng huyết áp, cường tim, ít

độc có tác dụng ức chế sự co bóp ruột, được dùng chữa đi ngoài liều 0,25-1g.

Ý DĨ

Semen Coicis

Dược liệu là hạt của cây ý dĩ còn gọi là bobo –

Coix lachryma jobi L var. yuer, họ Lúa – Poaceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố: Là cây thảo

sống hàng năm, cao chừng 1-1,5m. Thân nhẵn bóng có

vạch dọc. Thân có phân nhánh, các mấu phía dưới có

thể có rễ phụ, cây mọc thành bụi, lá hình mác dài 10-

40cm, rộng 1,5-3cm gân dọc nổi rõ, gân giữa to. Hoa

đơn tính cùng gốc mọc ở kẽ lá thành bông, hoa đực

mọc phía trên, hoa cái phía dưới, hoa đực có 3 nhị; quả

có mày cứng bao bọc, cây mọc hoang ở nơi ẩm mát,

trồng nhiều ở Thanh Hoá, Nghệ An, Sông bé và vùng

Tây Nguyên.

* Bộ phận dùng và chế biến: Hạt hình trứng dài

5-8mm đường kính 2-5 mm. Mặt ngoài màu trắng đục, đôi khi còn sót lại màng vỏ

chưa loại hết. Mặt trong có rãnh hình máng, chất cứng không có mùi, vị ngọt và hơi

thơm, chứa nhiều tinh bột thu hoạch tháng 12 - tháng 1, cắt về đập lấy quả (thường

gọi là hạt) phơi khô, loại bỏ quả lép, xay, xát lấy hạt. Dược liệu rất dễ bị sâu mọt, cần

để nơi khô ráo.

* Thành phần hoá học: Tinh bột là cơ bản; ngoài ra còn có 2 chất có hoạt tính

chống ung thư từ hạt.

Coixenolid: là chất lỏng sánh màu vàng nhạt, tan trong dung môi hữu cơ, khó

tan trong nước đem khử cho tetrahydrocoixenolid chất này cũng có tác dụng chống

ung thư.

- monolinolein chất này cũng có tác dụng chống ung thư được chiết ra từ hạt

bằng methanol.

Trong lá và rễ có chất chống viêm đó là benzoxazolon do có tác dụng ức chế

giải phóng histamin.

Thử tinh khiết: Dược điển Việt nam quy định độ ẩm không quá 12% tro toàn

phần không quá 2%, tạp chất hữu cơ không quá 1,5%61

Hình 5.14. Ý dĩ

* Công dụng: Trong y học cổ truyền, ý dĩ được dùng làm thuốc giúp tiêu hoá,

chữa tiêu chảy do chức phận tiêu hoá kém, viêm ruột, lỵ, làm thuốc thông tiểu trong

trường hợp phù, tiểu tiện ít. Ngoài ra còn dùng chữa viêm khớp, làm thuốc bồi dưỡng

cơ thể, bổ phổi.

Ngày dùng 10-30g dạng thuốc sắc, hoàn tán với các vị thuốc khác.

SEN

Nelumbo

Dược liệu gồm nhiều bộ phận của cây Sen - Nelumbo nucifera Gaerrit, họ Sen -

Nelumbonaceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố: Cây được trồng ở vùng ao đầm có nhiều ở

đồng bằng. Thân rễ hình trụ mọc trong bùn, gọi là ngó sen dùng làm thực phẩm, lá

mọc lên khỏi mặt nước, cuống lá dài có gai nhỏ, phiến lá hình đĩa to, đường kính 40-

70cm có gân toả tròn. Hoa to, gồm nhiều cánh hoa trắng - đỏ hồng, đều, lưỡng tính,

nhiều nhị, bao phấn 2 ô nở ra bởi kẽ dọc, trung đới dài ra mọc thành phần trụ màu

trắng gọi là hạt gạo, phần này có hương thơm dùng

để ướp chè. Lá noãn nhiều và rời nhau, đựng trong

một đế hoa loe hình nón ngược, vòi ngắn, núm nhụy

chỉ nhô lên khỏi đế hoa, mỗi lá noãn sinh ra một quả,

trong đựng một hạt, hạt không có nội nhũ, hai lá

mầm nạc dày bao bọc bởi một màng mỏng, chồi

mầm (tâm sen) mang 4 lá non gập vào trong có diệp

lục.

* Bộ phận dùng và chế biến:

Hạt sen (Semen Nelumbinis) là hạt còn màng

lụa hồng bên ngoài, phơi khô được gọi là liên nhục.

Quả sen (Fructus Nelumbinis) là quả già

phơi khô còn gọi là liên thạch.

Tâm sen (Enibryo Nelumbinis) là chồi mầm phơi khô được gọi là liên tâm.

Tua sen (Stamen Nelumbinis) là nhị hoa còn gọi là liên tu.

Lá sen ( Folium Nelumbinis), hái vào mùa hè và mùa thu còn gọi là liên diệp.

Ngoài ra, người ta còn dùng gương sen là đế hoa, gọi là liên phòng, ngó sen là

thân rễ gọi là liên ngẫu.

* Thành phần hoá học:

Hạt có thành phần chính là tinh bột. Hạt tinh bột hình trứng, rốn hạt hình vạch

kích thước từ 3-25m.

62

Hình 5.15. Sen

Lá có nhiều alcaloid đã được phân lập và xác định cấu trúc: Nuciferin, anonain

roemerin... ngoài alcaloid ra, lá còn có các flavonoid: quercetin, isoquercitrin...

Tâm sen có các alcaloid: Liensinin, isoliensinin, neferin, lotusin...

Gương sen có quercetin, liensinin, isoliensinin...

* Công dụng:

Hạt sen thường dùng nấu chè ăn hoặc làm mứt sen; y học cổ truyền dùng hạt

sen làm thuốc bổ tỳ; thuốc chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ, di tinh, đi tiểu lỏng

ngày dùng 30g.

Tâm sen làm thuốc an thần, chữa mất ngủ, ngày dùng 5g.

Lá sen có tác dụng như tâm sen, ngoài ra, còn dùng làm thuốc cầm máu, ngày

dùng 20g.

Gương sen, tua sen dùng làm thuốc cầm máu, chữa di mộng tinh.

HOÀI SƠN

Rhizoma Dioscorae persimilis

Hoài sơn là thân rễ đã chế biến của cây Củ mài - Dioscorea persimilis Prain et

BurKill, họ Củ mài - Dioscoreaeceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố:

Dây leo cuốn sang phải. Thân rễ phình to lên thành

củ ăn sâu xuống đất khó đào, củ hình chày, dài có thể đến

1m, có nhiều rễ con, mặt ngoài có màu xám nâu, bên

trong có bột màu trắng, phần trên mặt đất ở kẽ lá thỉnh

thoảng có những củ con nhỏ, củ này có thể đem trồng

được, lá mọc đối, đôi khi mọc so le, lá đơn, nhẵn, hình

tim, đầu nhọn, có 5-7 gân chính. Hoa mọc thành bông,

trục bông khúc khỉu mang nhiều hoa. Hoa đực và hoa cái

khác gốc. Bao hoa 6, dài bằng nhau, nhị 6, hoa cái mọc

thành bông, quả nang có 3 cánh. Cây mọc hoang ở

rừng, nhân dân vẫn đào lấy củ ăn. Hiện nay được trồng ở nhiều nơi, nhân giống bằng

củ. Thu hoạch từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.

* Bộ phận dùng và chế biến:

Thân rễ đào về rửa sạch, gọt vỏ ngâm với nước phèn chua 2-4h vớt ra cho vào

lò sấy diêm sinh đến khi củ mềm mang ra phơi hoặc sấy cho se; đem gọt và làm thành

trụ tròn, tiếp tục sấy diêm sinh 1 ngày 1 đêm nữa rồi đem phơi hay sấy ở nhiệt độ

60oC cho đến khi độ ẩm không quá 10%. Sau khi chế biến, hoài sơn có hình trụ tròn

dài 8-20cm, đường kính 1-3cm, mặt ngoài trắng hay ngà vàng, vết bẻ có nhiều bột,

không có xơ, rắn chắc, không mùi vị, ta đã chế biến được hoài sơn và đã xuất khẩu.63

Hình 5.16. Hoài sơn

Hình 5.17. Trạch tả

* Thành phần hoá học: Hiện nay mới biết thành phần chủ yếu là tinh bột và

chất nhựa.

* Kiểm nghiệm: Soi bột thấy có nhiều hạt tinh bột hình trứng hay hình thận, rốn

hạt dài, có vân đồng tâm, kích thước trung bình 40m. Tinh thể calcioxalat hình kim,

mảnh mô mềm gồm các tế bào thành mỏng, chứa tinh bột. Mảng mạch mạng.

* Công dụng: Trong y học cổ truyền dùng làm thuốc bổ tỳ, bổ thận, lỵ mãn

tính, đái đường, đái đêm, di tinh, mồ hôi trộm, chóng mặt, hoa mắt, đau lưng. Ngày

dùng 12-24g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, hoài sơn đã được ghi vào Dược điển

Việt Nam.

TRẠCH TẢ

Rhizoma Alismatis

Dược liệu là thân rễ gọt vỏ phơi hay sấy khô của cây Trạch tả - Alisma

plantago aquatica L., họ Trạch tả - Alismataceae.

* Đặc điểm thực vật và phân bố:

Cây thảo cao khoảng 0,6-1m, lá mọc thành cụm

ở gốc, phiến lá hình trứng đỉnh nhọn, hoa hợp thành

tán, đều, lưỡng tính, có 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa

màu trắng, 6 nhị, nhiều lá noãn rời nhau xếp xoắn ốc,

quả phức, thân rễ trắng hình cầu hay hình con quay.

Trạch tả mọc hoang ở ruộng lầy Lào cai, Thái

nguyên, Bắc cạn. Ngoài ra còn trồng bằng hạt ở nhiều

nơi: Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng, Nam Hà.

* Thu hái và chế biến:

Ở cây không để làm giống thì bấm bỏ hoa cho

to củ. Mỗi năm thu hoạch hai vụ, vụ tháng 6 và vụ

tháng 12, nhổ cả cây cắt bỏ thân lá, gọt sạch rễ con sấy

khô. Loại đường kính trên 3cm khô, chắc màu trắng ngà, nhiều bột không mối mọt là

loại tốt.

* Bột: màu trắng ngà, mùi hơi thơm,, vị hơi ngọt, soi kính hiển vi thấy nhiều

hạt tinh bột hình trứng hay hình cầu có hạt kép 2-3 mảng mô mềm gồm tế bào tròn

chứa tinh bột, mảng mạch.

* Thành phần hoá học: Tinh bột chiếm 23% các dẫn chất tritepenoid: Alisol A,

Alisol B, Alisol A monoacetat, Alisol B monoacetat, Alisol C...

* Tác dụng và công dụng: Thí nghiệm trên lâm sàng cho thấy trạch tả tăng thải

Na, Cl và urê trong nước tiểu, làm hạ cholesterol của huyết tương, bảo vệ chức năng

gan.64

trong đông y, Trạch tả được dùng làm thuốc lợi tiểu. Trong trường hợp tiểu tiện

ít, nhiễm trùng đường tiết niệu gây đau buốt, chức phận của thận kém mà gây phù.

Trạch tả còn dùng hạ cholesterol và lipid máu.

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Kể tên các phương pháp định lượng và trình bày về các loại hạt tinh bột hay gặp

2. Trình bày về cách chế tinh bột mỳ và tinh bột gạo. Trình bày công dụng của tinh

bột.

3. Kiểm nghiệm hạt tinh bột Hoài sơn và trình bày về tên khoa học, cách chế biến,thành phần hóa học và công dụng của cây Hoài sơn.4. Áp dụng những kiến thức đã học, anh chị hãy xây dựng quy trình nhận biết, thu hái,

phới xấy dược liệu Cát căn.

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) vàchữ B (cho câu sai):

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải phápmà bạn lựa chọn:

11. Tinh bột được tạo ra từ:A. Lạp màu

B. Lạp không màu

C. Lạp lục

12. Cát căn là dược liệu được chế biến từ:

A. Củ Đậu

B. Củ Sắn dây

C. Củ Thiên hoa phấn

D. Củ Bạch chỉ

13. Các hạt tinh bột sau có hình trứng và hình thận, TRỪ:

A. Khoai tây

65

5. Trong ngành dược, tinh bột dùng để làm tá dược thuốc viên.

6. Vị Cát hoa (hoa sắn dây) có tác dụng giã rượu

7. Tinh bột mỳ được chế tạo từ cây Lúa, hạt nhiều góc, được kết thành

đám rốn.

8. Tinh bột ngô, hạt nhiều góc, rốn hạt ở giữa rất rõ.

9. Tinh bột là tên gọi khác của bột

10. Để định tính tinh bột chỉ cần cho tác dụng với dung dịch iod trong

nước

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

B. Sen

C. Đậu

D. Gạo

14. Liên ngẫu là bộ phận nào của cây Sen:

A. Tua sen

B. Ngó sen

C. Gương sen

D. Lá sen

15. Thiên hoài được mọc ra từ:

A. Kẽ lá

B. Từ lá

C. Từ thân

D. Từ gốc

16. Trong cây Ý dĩ, thành phần hóa học chính là:

A. Tinh dầu

B. Tinh bột

C. Chất chống viêm

D. Chất chống ung thư.

CHƯƠNG 6

DƯỢC LIỆU CHỨA GLYCOSID TIM

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa, tính chất và đặc điểm của glycosid tim

2. Trình bày được các nội dung về nguồn gốc, thành phần hóa học, công dụng

của các dược liệu chứa glycosid tim

3. Áp dụng được những kiến thức đã học để nhận biết, phơi sấy, chiết xuất các

dược liệu chứa glycosid tim.

4. Áp dụng được các kiến thức để phân tích công dụng và ứng dụng của các

dược liệu chứa glycosid tim.

66

NỘI DUNG

1. ĐỊNH NGHĨA

Glycosid tim là những glycosid steroid có tác dụng đặc biệt lên tim. Ở liều điều

trị có tác dụng cường tim, làm chậm nhịp tim và điều hoà nhịp tim. Nếu quá liều thì

gây nôn làm chảy nước bọt, mờ mắt, tiêu chảy, yếu các cơ, loạn nhịp tim, nhĩ thất phân

ly, ngoại tâm thu, giảm sức co bóp của tim và cuối cùng làm ngừng tim ở thời kỳ tâm

thu trên tim ếch và tâm trương trên tim động vật máu nóng.

Glycosid tim còn có tên gọi là glycosid digitalic vì glycosid của lá cây digital

(Digitalis) được dùng đầu tiên trên lâm sàng để chữa bệnh tim.

2. PHÂN BỐ TRONG THỰC VẬT

Người ta tìm thấy glycosid tim có trong các họ thực vật: apocynaceae,

Asclepiadaceae, Moraceae, ranunculaceae….

Glycosid tim có trong mọi bộ phận của cây: lá, hoa, vỏ thân, rễ, thân rễ, dò,

nhựa mủ.

3. CẤU TRÚC HOÁ HỌC

Glycosid tim cũng như các glycosid khác, cấu trúc hoá học gồm hai phần:

Aglycon và phần đường.

3.1. Phần aglycon

Phần aglycon gồm 2 phần: một nhân hydrocarbon (nhân steran) và một mạch

nhánh là vòng lacton.

Nhân hydrocarbon: đây là nhân steran hay 10,13-dimethyl

cyclopentanoperhydrophenanthren. Đính vào nhân này có các nhóm chức có oxy.

Trước khi xét các nhóm chức gần vào nhân steran cần nhắc lại rằng: đối với

công thức chiếu trên mặt phẳng người ta quy ước nếu dây nối hướng về phía trước

trang giấy là hướng β ký hiệu bằng nét gạch liền(-), còn hướng về sau là hướng α thì

ký hiệu bằng một nét gián đoạn (---).

Ở c-3 có nhóm OH, hầu hết các chất có trong cây đều hướng β, trừ một vài

trường hợp ví dụ carpogenin, carpogenol, epidigitoxigenin thì hướng α.

67

Uzarigenin

Ở C-14 của hầu hết các glycosid tim có tác dụng đều có nhóm OH hướng β.

Một vài chất không có nhóm OH này ví dụ neriantin trong lá trúc đào.

Sự oxy hoá còn có thể xảy ra thêm ở các vị trí như 1, 5, 11, 12, 16, 19. Mức độ

oxy hoá ở C-19 có thể là CH2OH, CHO, COOH. Chất G.Strophanthidin có đến 6 OH

trong phần aglycon (Strophanthus). Nhóm OH có thể bị acyl hoá ví dụ oleandrigenin

(cây trúc đào). Có trường hợp các nhóm OH gần nhau tương tác với nhau để tạo nhóm

chức epoxy, ví dụ adynerin (xem bài trúc đào). Nhóm OH ở C-11 có thể tác dụng với

COOH ở C-19 để tạo thành vòng lacton.

Xét về sự nối các vòng của khung hydrocarbon: phần lớn đều có 2 vòng a và B

cis, B và C trans, C và D cis ví dụ digitoxigenin được biểu diễn theo công thức trong

mặt phẳng và công thức lập thể dưới đây:

Digitoxigenin

Một số ít thì A và B có nối vòng trans còn các vòng tiếp theo không thay đổi.

Ví dụ uzarigenin là aglycon của uzarin có trong “Uzara” một dược liệu thuộc chi

Gomphocarpus, họ Asclepiadaceae có ở Nam Phi.

Vòng lacton: Phần aglycon của glycosid tim

ngoài khung hydrocarbon nói trên thì đặc biệt còn có một vòng lacton nối vào vị trí C-

17 của khung. Vòng lacton này coi là mạch nhánh. Hầu hết các chất có tác dụng sinh

68

học đều có vòng lacton ở hướng β. Có hai loại vòng lacton: Một vòng lacton có 4

carbon có một nối đôi ở vị trí α-β. Những aglycon nào có vòng lacton này thì có 23

carbon và được xếp vào nhóm “cardenolid”. Loại thứ hai có vòng lacton có 5 carbon

vào có 2 nối đôi. (vòng α-pyron hay coumalin), những aglycon nào có vòng lacton này

thì có 24 carbon và được xếp vào nhóm “bufadienolid”. Các glycosid tim thường gặp

loại cardenolid, một số ít thuộc loại bufadienolid ví dụ scillaren A có trong cây hành

biển (Urginea maritima L.), hellebrin có trong cây Helleborus niger L.

3.2. Phần đường

Phần đường nối vào OH ở C-3 của aglycon. Hiện nay đã biết khoảng 40 loại

đường khác nhau. Ngoài những loại đường thông thương như D-glucose, L-rhamnose,

D-xylose, D-frucose có gặp trong những nhóm glycosid khác, còn lại là những đường

gặp trong glycosid tim. trong những đường này, đáng chú ý là những đường 2, 6-

desoxy. Dưới đây là ví dụ về đường 2,6-desoxy thường gặp:

Những đường này có những đặc tính sau: dễ bị thuỷ phân, cho phản ứng màu

với thuốc thử Keller-Kiliani, thuốc thử xanhthydrol.

Mạch đường có thể là monosaccharid hoặc oligosaccharid. Gitoxincellobiosid

trong digital tía có mạch đường với 5 đơn vị đường đơn:

69

Cardenolid Bufadienolid

H

CHO

H

L- oleandrose

HOH

H

OMe

CH3

OH

H

Gitoxincellobiosid = Gitoxigenin +(digitoxose)3 + (glucose)2

Người ta nhận thấy rằng các glucose bao giờ cũng ở phía cuối mạch (xa

aglycon).

4. LIÊN QUAN GIỮA CẤU TRÚC VÀ TÁC DỤNG

Phần quyết định tác dụng lên tim là phần Aglycon bao gồm nhân steroid và

vòng lacton chưa bão hoà, cả hai đều quan trọng.

Nếu giữ lại vòng lacton, thay nhân steroid bằng nhân benzene, naphtalen… thì

mất tác dụng.

Nếu vẫn giữ nguyên nhân steroid mà thay đổi vòng lacton như: bão hoà dây nối

đôi, mở vòng lacton, thay vòng lacton bằng vòng lactam thì mất tác dụng hoặc giảm đi

rất nhiều.

Sự hấp thu qua dạ dày, tá tràng, ruột non phụ thuộc vào số lượng nhóm Oh của

phần aglycon hay nói cách khác là phụ thuộc vào tính ái dầu của nó. Digitoxin dễ hấp

thu qua đường tiêu hoá và tái hấp thu qua thận và gan vì chỉ có một nhóm Oh tự do

trong phần aglycon. Digitoxin tích luỹ trong cơ thể. ouabain có 5 nhóm Oh tự do trong

phần aglycon, rất khó hấp thu qua đường tiêu hoá nên phải tiêm tĩnh mạch. Ouabain

thải trừ nhanh.

Nhóm OH ở vị trí 14 rất quan trọng, không có nhóm này thì tác dụng giảm đi

rất nhiều.

Cách nối vòng cũng ảnh hưởng. C/D nối vòng cis có tác dụng quyết định lên

tim. A/b trans giảm tác dụng gấp 10 lần so với dẫn chất cis tương ứng.

Nhóm OH ở C-3 hướng α thì giảm tác dụng đi nhiều. Qua quá trình chuyển hoá

trong cơ thể, OH β ở vị trí C-3 bị epime hoá sang OH α để thải ra ngoài.

Vòng lacton hướng α cũng giảm tác dụng.

Phần đường có ảnh hưởng đến tác dụng nhưng ít, chủ yếu là ảnh hưởng đến độ

hoà tan.

5. TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM

Glycosid tim là những chất kết tinh, không màu, vị đắng, tan trong nước, cồn,

không tan trong benzen, ether.

Glycosid nào có đường 2-desoxy thì rất dễ bị thuỷ phân khi đun với acid vô cơ

0,05N trong methanol 30phút, trong khi những glycosid khác trong điều kiện đó thì

không thuỷ phân được.

Glycosid dễ bị thuỷ phân bởi các enzym. Thường thì các enzym này có sẵn

trong cây, có khả năng cắt bớt các đơn vị đường cuối mạch (xa aglycon) để chuyển

thành các glycosid thứ cấp, ví dụ enzym digilanidase trong lá digital lông,

strophanthobiase trong hạt Strophanthus courmontii.

Vòng lacton 5 cạnh hoặc 6 cạnh rất dễ bị mở vòng bởi tác dụng của kiềm rồi tạo

thành các dẫn chất iso không có tác dụng.

70

Hình 6.1. Cây Trúc đào – Neriumoleander, họ Trúc đào -

Apocynaceae

6. BẢO QUẢN

Những dược liệu chứa glycosid tim sau khi đã ổn định, làm khô và để nơi ráo

cũng chỉ có giá trị sử dụng trong 1 năm. Những dạng bào chế có độ ẩm tối đa 3,5% có

thể bảo quản tới 5 năm.

7. CÁC DƯỢC LIỆU CHỨA GLYCOSID TIM

LÁ TRÚC ĐÀO

Folium Oleandri

Dược liệu là lá của cây Trúc đào – Nerium

oleander L. họ Trúc đào- Apocynaceae. Loài

Nerium odorum Soland. cũng được dùng.

* Đặc điểm thực vật:

Cây cao 3-4m, cành mọc đứng khi non có

màu xanh, khi già có màu nâu xám. Lá mọc vòng 3

lá một, nguyên, hình mũi mác, màu lục nhạt ở mặt

dưới, màu lục sẫm ở mặt trên. Lá tiền khai cuộn

ngoài.

Hoa màu hồng, có khi màu trắng xếp thành

ngù ở ngọn. Hoa đều lưỡng tính, có bao hoa và bộ nhị mẫu 5. Tràng hình cánh hợp,

hình phễu có phiến chia làm 5 thuỳ, tiền khai vặn. Chỉ nhị dính liền với tràng. Bao phấn

đính gốc. Quả cấu tạo bởi 2 đại. Khi nứt dọc, bên trong có hạt mang chùm lông màu

hung. Toàn cây có nhựa mủ trắng và độc.

* Thu hái:

Thu hái vào tháng 10, tháng11 hoặc vào tháng 4, hái những lá già dài trên

10cm. Hái về làm khô ngay ở nhiệt độ không quá 50oC

* Thành phần hoá học:

- Lá chứa hoạt chất chính là các glycosid tim, có 17 glycosid khác nhau.

Hàm lượng glycosid tim toàn phần trong lá là 0,5%. Gồm các glycosid sau: oleandrin

(Neriolin), Desacetyloleandrin, Neriantin, Adynerin.

Trong lá còn có các thành phần khác như: acid ursolic, các dẫn chất

flavonoid: rutosid và nicotiflorin.

Ngoài sử dụng lá, cây trúc đào có thể sử dụng các bộ phận sau:

- Vỏ cây có chứa 4 glycosid tim.

- Hạt chứa 26 glycosid.

* Chiết xuất Oleandrin:

Gồm 4 giai đoạn:

71

- Chiết: lá khô đem xay thô (2-5mm). Ngâm 5kg bột lá với 50 lít cồn

25oC trong 24 giờ. Gạn chừng 25-27 lít, ép bã lấy thêm được 18-20 lít nữa.

- Loại tạp: dồn các dịch chiết trên lại rồi thêm 1/2 lít dung dịch chì

acetat 30%. Sau đó thử xem đã hết tạp chưa bằng cách lọc một ít và thêm vào dịch lọc

một ít dung dịch chì acetat nếu còn tủa thì phải thêm chì acetat nữa. Để yên 1 đêm, gạn

lấy nước trong lại và rót dần vào đấy 2 lít dung dịch natri sulfat 15%, quấy đều, lọc,

thử xem đã hết chì acetat chưa, nếu còn phải thêm tiếp dung dịch natri sulfat.

- Bốc hơi dung môi: Cho dịch lọc vào nồi, bốc hơi ở áp suất giảm,

nhiệt độ từ 50-55oC. Cất cho đến khi còn 1/6 thể tích ban đầu, nghĩa là còn khoảng 8

lít, để nguội. Glycosid thô sẽ đọng lại ở đáy nồi (khoảng 48-50g)

- Tinh chế: Cho glycosid thô vào bình, thêm 200ml cồn 70oC, đặt vào

nước nóng cho tan hết rồi cho vào tủ lạnh trong vài ngày. Lọc lấy tinh thể, kết tinh lại

một vài lần sẽ thu được 5-6g Oleandrin tinh chế.

* Tác dụng và công dụng:

Neriolin và các chế phẩm lá trúc đào tác dụng như các chế phẩm của lá digital

nhưng tác dụng mạnh hơn và ít tích luỹ hơn.

- Neriolin làm chậm nhịp tim, kéo dài thời kỳ tâm trương. Tính chất

này đặc biệt có lợi đối với bệnh nhân bị hẹp van 2 lá vì kéo dài thời kỳ tâm trương

giúp cho máu có đủ thời giờ xuống tâm thất trái qua lỗ van 2 lá bị hẹp khiến cho lượng

máu phóng vào đại tuần hoàn trong mỗi chu chuyển tim lớn hơn, nâng cao được lưu

lượng và hiệu suất của tim.

- Tác dụng lên tim đến rất nhanh: chỉ sau vài giờ, có trường hợp chỉ

sau 15-20 phút bệnh nhân bớt khó thở, nhờ thế bệnh nhân rất phấn khởi tin tưởng ở

thuốc.

- Neriolin được loại ra khỏi cơ thể nhanh nên việc đổi thuốc không

phải chờ thuốc thải ra hết mà có thể thay ngày hôm sau.

- Ngoài ra còn có tác dụng thông tiểu, giảm hiện tượng phù.

* Dạng dùng:

Dung dịch1/5000 oleandrin;

Dạng viên có 0,0001-0,0002g oleandrin; liều dùng: 0,0002g/lần x 2 lần/ngày.

Đạng cao lỏng lá; liều dùng: một lần 0,1g - 24 giờ 0,5g

Bột lá; liều dùng: một lần 0,05g - 24 giờ 0,5g

HẠT THÔNG THIÊN

Semen Thevetiae

Dược liệu dùng là hạt của cây Thông thiên - Thevetia peruviana K. Schum họ

Trúc đào – Apocynaceae

72

a b

Hình 6.2. a. Cây Thông thiên- Thevetia netiifolia, họ Trúc đào – Apocynaceaeb. Dược liệu thông thiên

Glycosid

tim trong hạt

thông thiên là Thevetin.

* Đặc điểm thực vật:

Cây nhỡ, cao chừng 4-5m, thân nhẵn, trên cành mang nhiều sẹo lá đã rụng. Lá

hình mác, hẹp, dài 8-15cm, rộng 4-7mm, đơn, nguyên, nhẵn. Hoa màu vàng rất đẹp,

to, mọc thành xim ở gần ngọn. Quả rất đặc biệt, hạch hình 3 cạnh dài 3-5cm, dầy

chừng 2-2,5cm, hơi chia thành 4 múi, lúc chưa chín có màu xanh bóng, khi chín có

màu đen bóng nhưng nhăn lại và rất mềm.

Toàn cây có nhựa mủ trắng. Khi bẻ cành hay châm vào quả, ta thấy nhựa mủ

mới chảy ra có màu trắng, sau chuyển thành màu đen.

* Thành phần hóa học:

Trong hạt thông thiên có những chất sau đây:

- Chất dầu: 35-41% (phương pháp ép) hoặc 57% (phương pháp dùng dung

môi). Dầu có mùi thơm, gần như mùi hạnh nhân

- Một số chất heterozit, trong đó được biết rõ nhất là các chất tevetin và

neriifolin.

* Tác dụng và công dụng: Thevetin có tác dụng cường tim như các glycoside digitalic khác.

Vì dễ tan trong nước nên tác dụng nhanh và cũng bị bài tiết nhanh. Có tác dụng

kích thích cơ trơn của bàng quang và ruột, có tác dụng thông tiểu, liều cao gây đi lỏng.

Độ độc của thevetin kém hơn ouabain và digitalin.

Dùng trong những trường hợp kém tim, tim đập loạn nhịp, tim suy nhược sau

khi mổ hay sau khi mắc bệnh nhiễm trùng, đau van tim.

STROPHANTHUS

* Bộ phận dùng

Là hạt của nhiều loài strophanthus, chủ yếu là từ 3 loài sau: strophanthus

gratus, strophanthus kombe, strophanthus hispidus.

73

* Thành phần hoá học:

30% chất dầu; thành phần có tác dụng là các

glycosid tim thuộc nhóm cardenolid (hàm lượng từ

3-8%) trong đó có ouabain.

* Tác dụng:

Các chế phẩm từ hạt strophanthus đều là

thuốc có tác dụng lên tim theo quy tắc 3R. So với

digitalin thì ouabain có tác dụng thải trừ nhanh,

không tích luỹ, mức độ làm giảm nhịp không bằng

digitalin nhưng làm tăng biên độ. Nếu bằng

đường uống, ouabain hấp thu ở ruột kém

hơn digitalin.

* Công dụng:

Hạt strophanthus gratus dùng để chiết ouabain làm thuốc bổ trợ tim cấp tốc vì

tác dụng nhanh, dùng trong các trường hợp suy tim cấp tính, phù phổi cấp, mạch

nhanh từng cơn, thiểu năng tâm thất trái, đau thắt tim.

Hạt S. Kombe dung để chiết xuất K. Strophantin và dùng như ouabain.

Hạt S. Hispidus ít dùng.

SỪNG DÊ HOA VÀNG

Dược liệu dùng là hạt lấy từ cây sừng dê hoa vàng - Strophanthus divaricatus

Hook., họ Trúc đào – Apocynaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây nhỏ, cao độ 3m, có nhựa mủ trắng, cành và thân cây màu nâu đen, có nhiều

lỗ bì trắng nổi lên. Lá mọc đối, hình trứng dài 5-9cm, rộng 2,5-5 cm, gân lá gồm 6-8

đôi. Cuống lá dài 3-8mm, phía trên có lòng máng. Cụm hoa hình xim ở đầu cành. Đài

hoa màu xanh. Tràng hoa màu vàng hình phễu, bên trên chia làm 5 thuỳ, phần phụ rất

dài (đến 10cm). Bầu dưới, 2 ô. Quả gồm 2 đại, mỗi đại dài

10-15cm, rộng 3cm, đỉnh thót nhỏ lại. Hạt có phần lông

mịn. Cây này khá phổ biến, gặp ở các vùng trung du miền

Bắc nước ta. Theo tài liệu thì mọc ở nam Trung Quốc. Ta

đã khai thác để sử dụng.

* Thành phần hoá học :

Có 37% chất béo. Thành phần chính có tác dụng là

các glycosid tim, hàm lượng 9-16%.

* Tác dụng và công dụng :

74

Hình 6.3. Cây Strophanthus komberOliver., họ Trúc đào - Apocynaceae

Hình 6.4. Cây sừng dê hoavàng – Strophanthus

divaricatus, họ Trúc đào -Apocynaceae

Sau khi nghiên cứu tác dụng dược lý của hỗn hợp glycosid tim chiết từ S.

divaricatus ở Trung Quốc, các tác giả Trung Quốc đã

kết luận rằng hỗn hợp glycosid chiết được có hiệu quả

điều trị suy tim tương tự K. strophantin và hoạt lực xấp

xỉ bằng 2/3 K. strophantin. Trên cơ sở đó, hỗn hợp

glycosid tim từ hạt sừng dê hoa vàng đã được chính

thức đưa vào Dược điển Trung Quốc năm 1963 với tên Divasid.

Năm 1967 Viện Dược liệu đã nghiên cứu tác dụng dược lý của D. strophantin

và kết luận rằng tác dụng của D.strophantin cơ bản giống G. strophantin và có hoạt lực

sinh vật xấp xỉ bằng 2/3 G. strophantin. Thuốc đã được áp dụng trên lâm sàng.

DƯƠNG ĐỊA HOÀNG

Dương địa hoàng có khoảng 28 loài và có khoảng 100 dẫn chất cardenolid trong

thành phần của hạt và lá. Có 2 loài quan trọng được dùng phổ biến: Dương địa hoàng

tía – Digitalis purpurea L. và Dương địa hoàng lông – Digitalis lanata Ehrh., họ Hoa

mõm sói – Scrophulariaceae.

DƯƠNG ĐỊA HOÀNG TÍA

Digitalis purpurea L., họ Hoa mõm sói – Scrophulariaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây thảo sống 2 năm hoặc lâu hơn. Năm đầu chỉ có 1 cụm lá ở gốc, năm 2 từ

cụm lá mọc lên thân cao 50 – 150 cm, phía ngọn mang hoa mọc thành chùm. Thân

mang lá mọc sole. Lá hình trái xoan, to (dài 30 cm, rộng 10 cm).

Lá có mặt trên màu xanh thẫm, mặt dưới xanh xám có nhiều lông. Chùm hoa

mọc một phía của trục, hoa chúc xuống. Tràng hợp hơi giống hình ngón tay (digitatus:

hình ngón tay), đầu miệng loe ra thành 4 thuỳ và tạo 2

môi không rõ nét. Mặt ngoài tràng hoa có màu đỏ tía,

họng có lông và có những điểm đỏ sẫm. Quả nang, hạt

nhỏ, nhiều, màu nâu nhạt.

Thu hái lá có thể tiến hành vào năm thứ nhất

(tháng 8-11), loại lá này cho hàm lượng glycosid cao.

75

Hình 6.6. Digital lông –Digitalis lanata, họ Hoa mõm

sói – Scrophulariaceae.

Nếu hái vào năm thứ hai thì hái trước khi ra hoa (tháng 5-7). Thu hái khi trời còn khô

ráo.

* Thành phần hoá học :

Hoạt chất chính là các glycosid tim thuộc nhóm cardenolid gồm có các thành

phần chính sau:

Ngoài ra còn có Saponosid là những glycosid có nhân steroid.

Dẫn chất anthraquinon (10 dẫn chất).

* Tác dụng và công dụng:

Tác dụng chủ yếu trên tim, bộ máy tuần hoàn và chức năng tiết niệu.

- Giảm tần số co bóp tim, giảm thời kỳ tâm thu, kéo dài thời kỳ tâm trương.

- Lưu lượng máu trong tuần hoàn tăng,

máu ở tĩnh mạch về tim dễ dàng.

- Tác dụng lợi niệu đặc biệt khi bị phù

do tim.

- Nhưng Digitoxin đào thải chậm do gắn với protein của huyết tương, gan, thận,

có thể tích lũy sau 20 ngày sau khi uống hoặc tiêm nên cẩn thận tránh ngộ độc.

- Dạng dùng: bột lá (1 g / 1 lần và 24 h), thuốc ngâm với nước (24h), hãm với

nước sôi (2h), cồn 1/10 (1,5 g cồn/1 lần và 6 g cồn/24h). dung dịch Digitalin 0,1 %

trong cồn, glycerin và nước.1 ml dd có 50 giọt và 1 mg Digitalin. X giọt/1 lần, XXV

giọt/ 24h.

DƯƠNG ĐỊA HOÀNG LÔNG

Digitalis lanata L., họ Hoa mõm sói Scrophulariaceae

* Đặc điểm thực vật :

Năm thứ 2 thân mọc cao 1 m, tím ở gốc, mang

hoa ở ngọn và hoa mọc mọi phía của trục. Đặc biệt trục

hoa, lá bắc, lá đài có rất nhiều lông (lanatus : phủ lông).

Tràng màu vàng kem, có các đường gân màu nâu xẫm.

Có 5 thùy không đều tạo 2 môi.

* Thành phần hóa học :

Glycosid tim trong lá digital lông 0,5 – 1 %. Gồm

nhiều Glycosid tim khác nhau:

- Glycosid sơ cấp : Lanatosid A, B, C (hay Digilanid

A, B, C).

76

Hình 6.5. Dương địa hoàng tía –Digitalis purpurea, họ Hoa mõm sói –

Scrophulariaceae.

- Phần aglycon : digitoxigenin và digoxigenin chiếm tỷ lệ nhiều nhất.

* Tác dụng

Lá digital lông độc hơn lá digital tía (gấp 4 lần). Lanatosid C và digoxin tác

dụng nhanh hơn và thải trừ nhanh hơn Digitoxin.

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Trình bày định nghĩa glycosid tim, kể tên 5 dược liệu chứa glycosid tim. Trình bày

cây Sừng dê hoa vàng về: tên khoa học, đặc điểm thực vật, bộ phận dùng.

2. Trình bày về 4 giai đoạn chiết xuất Oleandrin. Trình bày tên khoa học, thành phần

hóa học, tác dụng và công dụng của cây Thông thiên

3. áp dụng những kiến thức đã học, anh chị hãy xây dựng quy trình chiết xuất

Oleandrin từ lá cây Trúc đào.

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) vàchữ B (cho câu sai):

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (...):

8. Kể tên 4 dược liệu chứa glycosid tim:A. ...........B.............C..............D..............9. Glycosid tim là những ......... có tác dụng đặc biệt trên tim.10. Khi thủy phân glycosid tim cho hai phần .......... và................Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải phápmà bạn lựa chọn:11. Để chiết xuất Oleandrin trong lá Trúc đào gồm:A. 2 giai đoạnB. 3 giai đoạnC. 4 giai đoạnD. 5 giai đoạn12. Glycosid tim trong hạt Thông thiên có tên là:A. OuabainB. OleandrinC. ThevetinD. Digitoxigenin

77

4. Glycosid tim có tác dụng cường tim, làm chậm, làm điều hòa nhịp tim.

5. Bệnh nhân bị suy tim, có nhịp tim chậm.

6. Uoabain được dùng để uống.

7. Cây Sừng dê hoa vàng có quả là quả hai đại.

A - B

A - B

A - B

A - B

13. Tên khoa học của cây Sừng dê hoa vàng:A. Strophantus divaricatusB. Polygonum multiflorumC. Thevetia neriifoliaD. Nerium oleander14. Cây Thông thiên thuộc họ:A. Họ Thầu dầuB. Họ Trúc đàoC. Họ Hoa tánD. Họ Ngũ gia bì

78

CHƯƠNG 7

ĐẠI CƯƠNG VỀ SAPONIN

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa, cấu trúc hoá học của saponin.

2. Trình bày được tác dụng và công dụng của Saponin.

3. Phân tích được thành phần hóa học của các dược liệu chứa Saponin đã được

đưa vào giáo trình, chú trọng : cam thảo, Viễn chí, Cát cánh, Ngưu tất, Nhân sâm,

Tam thất, Mạch môn

4. Áp dụng được các kiến thức đã học để phân tích công dụng và ứng dụng của

các dược liệu chứa saponin.

NỘI DUNG

1. ĐỊNH NGHĨA

Saponin còn gọi là saponosid do chữ Latin sapo = xà phòng (vì tạo bọt như xà

phòng), là một nhóm glycosid lớn, gặp rộng rãi trong thực vật. Người ta cũng phân lập

được Saponin trong động vật như hải sâm, cá sao.

Saponin có một số tính chất đặc biệt :

- Làm giảm sức căng bề mặt, tạo bọt nhiều khi lắc với nước, có tác dụng nhũ

hoá và tẩy sạch.

- Làm vỡ hồng cầu ngay ở những nồng độ rất loãng.

- Độc với cá vì saponin làm tăng tính thấm của biểu mô đường hô hấp nên làm

mất các chất điện giải cần thiết, ngoài ra có tác dụng diệt các loài thân mềm như giun,

sán, ốc sên.

- Kích ứng niêm mạc gây hắt hơi, đỏ mắt, có tác dụng long đờm, lợi tiểu ; liều

cao gây nôn mửa, đi lỏng.

- Có thể tạo phức với cholesterol hoặc với chất 3-β-hydroxysteroid khác.

tuy vậy một vài tính chất trên không thể hiện ở một vài saponin. Ví dụ :

sarsaparillosid thì không có tính chất phá huyết cũng như tính tạo phức với cholesterol.

Saponin đa số có vị đắng trừ một số như glycyrrhizin có trong cam thảo bắc,

abrusosid trong cam thảo dây, oslandin trong cây Polypodium vulgare có vị ngọt.

Saponin tan trong nước, alcol, rất ít tan trong aceton, ether, hexan do đó người

ta dùng 3 dung môi này để tủa saponin. Saponin có thể bị tủa bởi chì acetat, bari

hydroxyd, ammoni sulfat.

2. TÁC DỤNG VÀ CÔNG DỤNG

Saponin có tác dụng long đờm, chữa ho. Saponin là hoạt chất chính trong các

dược liệu chữa ho như viễn chí, cát cánh, cam thảo, thiên môn, mạch môn....

79

Hình 7.1. Cây Cam thảo

– Glycyrrhiza uralensis Fisher,

họ Đậu – Fabaceae.

Một số dược liệu chứa saponin có tác dụng thông tiểu như rau má, tỳ giải...

Saponin có mặt trong một số vị thuốc bổ như nhân sâm, tam thất và một số cây

thuộc họ nhân sâm khác.

Saponin làm tăng tính thấm của tế bào : Sự có mặt của saponin sẽ làm cho các

hoạt động chất khác dễ hòa tan và hấp thu, ví dụ trường hợp digitonin trong lá Digital.

Một số saponin có tác dụng chống viêm. Một số có tác dụng kháng khuẩn,

kháng nấm, ức chế virus.

Một số có tác dụng chống ung thư trên thực nghiệm.

Nhiều saponin có tác dụng diệt các loài thân mềm (nhuyễn thể)

Sapogenin steroid dùng làm nguyên liệu để bán tổng hợp các thuốc steroid.

Digitonin dùng để định lượng cholesterol.

Một số nguyên liệu có chứa saponin dung để pha nước gội đầu, giặt len dạ, tơ

lụa.

3. SỰ PHÂN BỐ TRONG THỰC VẬT

Saponin steroid thường gặp trong các cây một lá mầm. Các họ hay gặp là:

Amaryllidaceae, Dioscoreaceae, Liliaceae,… Đáng chú ý nhất là một số loài thuộc chi

Dioscorea L., Agave L., Yucca L.

Saponin triterpenoid thường gặp trong cây hai lá mầm thuộc các họ như:

Acanthaceae, Amaranthaceae, Araliaceae, Campanulaceae, Fabaceae, Polygalaceae,

Rubiaceae.

Trong cây, saponin thường tích luỹ ở những bộ phận khác nhau: tích luỹ ở quả

như bồ kết, bồ hòn; rễ như cam thảo, viễn chí, cát cánh; lá như dứa Mỹ…

4. CÁC DƯỢC LiỆU CHỨA SAPOnIN

CAM ThẢO

(Radix Glycyrrhizae)

Chi Glycyrrhiza có nhiều loài và thứ khác nhau.

Dược điển Việt Nam quy định dùng 2 loài:

Glycyrrhiza glabra L. và Glycyrrhiza uralensis Fisher,

họ Đậu – Fabaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây nhỏ mọc nhiều năm, có một hệ thống rễ và

thân ngầm rất phát triển. Thân ngầm dưới đất có thể

đâm ngang đến 2 m. Từ thân ngầm này lại mọc lên

các thân cây khác. Thân cây mọc đứng cao 0.5-

1.5m. Thân yếu, lá kép lông chim lẻ, có 9-17 lá

chét hình trứng. Hoa hình bướm màu tím nhạt; loài

80

Hình 7.2. Dược liệu cam thảo

glabra có cụm hoa dày hơn loài uralensis. Quả loại đậu, loài glabra nhẵn và thẳng,

loài uralensis thì quả cong và có lông cứng.

* Trồng tỉa và chế biến:

Thường được trồng bằng các đoạn thân ngầm có 2-3 mầm vào mùa xuân. Đất

phải tốt và phải bón phân. Sau 3-4 năm thì thu hoạch vào cuối thu. ba năm đầu có thể

trồng xen các hoa màu khác. Rễ và thân ngầm đào lên, rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ con,

ủ đống làm cho màu trở nên vàng. Rễ và thân ngầm thường được cắt thành đoạn dài

16-30 cm, đường kính 5-20 mm, bó thành từng bó. Dược liệu mặt ngoài có lớp vỏ màu

nâu, vết bẻ có xơ, màu vàng, dễ xé theo chiều dọc. Vị rất ngọt, hơi khé cổ.

* Thành phần hoá học:

Glycyrrhizin là một saponin thuộc nhóm olean,

hàm lượng từ 10-14% trong dược liệu khô, chỉ có trong

bộ phận ở dưới mặt đất, có vị rất ngọt (ngọt gấp 60 lần

đường saccharose). Đây là saponin quan trọng nhất của

rễ cam thảo. Glycyrrhizin tinh khiết ở dạng bột kết tinh

trắng dễ tan trong nước nóng, cồn loãng, không tan

trong ether và chloroform,. Glycyrrhizin ở trong cây

dưới dạng muối Mg và Ca của acid glycyrrhizic (còn

gọi là acid glycyrrhizinic)

Các flavonoid là nhóm hoạt chất quan trọng thứ

hai có trong rễ cam thảo với hàm lượng 3-4%. Có 27 chất đã được biết đến, quan trọng

nhất là hai chất liquiritin (hay liquiritirosid) và isoliquiritin (hay isoliquiritirosid).

Những hoạt chất estrogen steroid: phần này tan trong ether dầu hoả.

Những dẫn chất coumarin: umbelliferon, herniarin, liqcoumarin

Trong rễ cam thảo còn có 20-25% tinh bột, 3-10% glucose và saccharose.

Toàn bộ các chất chiết được bằng nước có thể đến 40%.

Phần trên mặt đất của cây cam thảo cũng đã xác định được các flavonoid:

pinocembrin, prumetin, isomucronulatol, prunetin, isomucrolactol.

* Tác dụng:

- Dịch chiết cam thảo có tác dụng chống loét dạ dày.

- Dịch chiết cam thảo có tác dụng chống co thắt. (Tác dụng chống co thắt và

tác dụng bảo vệ chống loét dạ dày chủ yếu là do các thành phần flavonoid.)

- Tác dụng long đờm do các saponin.

- Tác dụng tương tự cortison do glycyrrhizin giữ nước trong cơ thể kèm

theo tích các ion Na+ và Cl- và tăng thải iôn K+, giảm lượng nước tiểu, tăng huyết áp.

Nếu dùng cam thảo một thời gian lâu thì có hiện tượng phù. Trong một số trường hợp

thí nghiệm trên súc vật cho thấy tác dụng chống viêm bằng 1/5 hydrocortison.

Glycyrrhizin làm giảm những tổ chức hạt tạo thành xung quanh viên bông cấy dưới da

81

của chuột cống trắng hoặc làm giảm độ sưng của chân chuột sau khi tiêm formol. Acid

liquiritic cũng có tác dụng chống viêm, chống loét và làm chóng lành sẹo.

- Tác dụng ức chế enzym monoaminoxydase (MAO) của hai chất

liquiritigenin và isoliquiritigenin cũng được phát hiện.

- Thí nghiệm trên súc vật cho thấy cam thảo có khả năng giảm độc của

morphin, cocain, strychnin, atropin, chloralhydrat, giải độc các độc tố của bạch cầu,

uốn ván.

- Nghiên cứu gần đây còn cho thấy cam thảo có tác dụng nâng cao khả năng

miễn dịch của cơ thể.

* Công dụng:

- Thuốc chữa ho.

- Thuốc chữa loét dạ dày và ruột, uống 10-14 ngày, nghỉ vài ngày để tránh

hiện tượng phù, thường hay phối hợp với bismuth nitrat kiềm, magnesium carbonat,

calci carbonat, bột vỏ Rhamnus (hoặc đại hoàng)

- Acid glycyrrhetic được dùng làm thuốc chống viêm tại chỗ.

- Trong bào chế khoa, cam thảo dùng làm tá dược điều vị để làm mất các vị

khó uống trong các chế phẩm.

- Vì có tác dụng chống co thắt, cam thảo được phối hợp làm trà nhuận tràng.

- Cam thảo còn được dùng làm mứt, nước uống, làm thơm thuốc lá.

* Các dạng bào chế:

- Cao mềm, cao lỏng, cao khô. Trong quá trình chiết bằng nước để làm cao,

người ta cho thêm ammoniac để dễ hoà tan các hoạt chất.

- Cam thảo còn được dùng dưới dạng siro.

- Cam thảo là vị thuốc được gặp trong nhiều đơn thuốc cổ truyền dưới dạng

thuốc sắc.

- Cam thảo kết hợp với ô mai, gừng dưới dạng mứt “ô mai cam thảo” để

ngậm chữa ho.

- Thuốc mỡ có acid glycyrrhetic dùng để chống viêm, chữa một số bệnh

eczema.

VIỄN CHÍ

Radix Polygalae

Viễn chí là vỏ rễ phơi khô của một số loài thuộc chi Polygala. Dược điển Việt

nam in lần thứ nhất và Dược điển Trung Quốc quy định hai loài: Viễn chí lá nhỏ -

Polygala tenuifolia Willd. hoặc viễn chí Sibêri – Polygala sibirica L. , Dược điển

nhiều nước khác thì quy định loài Polygala senega L. , họ Viễn chí – Polygalaceae.

82

Hình 7.3. Dược liệu viễn chí

* Đặc điểm thực vật:

Viễn chí thuộc loài cây nhỏ, sống dai. Từ

gốc mọc lên nhiều thân nhỏ. Thân loài viễn chí

lá nhỏ nhẵn còn loài Sibêri thì có lông tơ ngắn.

Lá mọc so le, không có cuống. Loài viễn chí lá

nhỏ phiến lá hẹp, nhọn còn loài Sibêri phiến

rộng hơn, hình mác. Cụm hoa chùm. Đài không

đều còn lại trên quả, 5 lá đài có hai lá bên phát

triển thành cánh; 3 cánh hoa màu xanh dính lại

thành ống không đều; 8 nhị dính liền thành một

bó. Bầu trên, 2 ô. Quả nang.

Loài viễn chí lá nhỏ mọc ở đông Sibêri, xung quanh hồ Baican, loài Sibêri và

một số vùng khác như Ucraina, Capca. Ở Trung Quốc loài Sibêri có ở cả miền Nam và

Bắc, loài viễn chí lá nhỏ có ở miền đông bắc và bắc. Hiện nay, ta vẫn phải nhập viễn

chí của Trung Quốc.

* Bộ phận dùng:

Rễ hình trụ hơi cong queo, dài 10-15cm, đường kính 0.3-0.8 cm. Mặt ngoài

màu xám nâu nhạt, có những nếp nhăn ngang và dọc. Lớp vỏ dày dễ tách khỏi lớp gỗ.

Lớp vỏ màu nâu nhạt, lớp gỗ màu ngà vàng. Vị đắng nồng.

* Thành phần hoá học:

Rễ của 3 loài trên đều có chứa saponin.

Ngoài ra có thêm một số thành phần khác như: chất kiềm hữu cơ, đường…

* Tác dụng

Uống với liều thích hợp saponin có trong dược liệu sẽ kích thích sự bài tiết

niêm dịch ở khí quản, có tác dụng chữa ho, long đờm, kích thích sự bài tiết nước bọt,

bài tiết các tuyến ở da và thông tiểu. Viễn chí có tác dụng tiêu viêm ngoài ra còn có tác

dụng an thần, nâng cao trí lực.

* Công dụng và dạng dung:

- Thuốc có tác dụng chữa ho. Liều dùng mỗi lần 2 gram, ngày 6g dưới dạng

thuốc sắc. Nếu cao lỏng thì dùng mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 0,5-2ml.

- Có thể chế dưới dạng siro: Rễ viễn chí tác nhỏ 10g, nước cất 150ml.

- Hãm viễn chí với nước sôi trong 8 giờ. Gạn, lọc rồi thêm đường theo tỷ lệ siro

pha nguội.

- Trong y học cổ truyền, viễn chí được chế biến dưới hai dạng:

+ Chích viễn chí: viễn chí đã được đun với nước cam thảo đến cạn rồi phơi khô.

(1kg viễn chí cần 60g cam thảo)

+ Mật viễn chí: viễn chí được sao với mật ong (1kg viễn chí cần 200g mật ong)

83

Hình 7.4. Cây cát cánh - Plantycodongrandiflorum, họ Hoa chuông –

Campanulaceae.

- Ngoài công dụng chữa ho, trong y học cổ truyền còn sử dụng viễn chí phối

hợp với các vị thuốc khác để điều trị suy nhược, hay quên, sợ hãi.

CÁT CÁNH

Radix Platycodon

Dược liệu là rễ của cây cát cánh – Plantycodon grandiflorum, họ Hoa chuông –

Campanulaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thảo sống dai. Thân cao 50-80 cm. Lá gần như không có cuống mọc đối

hoặc vòng 3-4 chiếc, phiến lá hình trứng dài 3-6cm, rộng 1-2.5cm, mép lá có răng cưa

to. Lá phía ngọn nhỏ, có khi mọc so le. Hoa mọc riêng lẻ hoặc thành chùm thưa. Đài

màu xanh hình chuông rộng. Tràng hình chuông màu lơ nhạt. Quả hình trứng ngược.

Mọc hoang và trồng ở Trung Quốc, Liên Xô cũ. Hiện nay, ta còn phải nhập.

* Bộ phận dùng:

Rễ củ đào vào mùa đông ở những cây được 3-4

năm, rửa sạch đất cát phơi hay sấy khô. Rễ hình trụ,

phía dưới thon nhỏ lại, dài 15-20cm, đường kính 1-

2cm, thường ít phân nhánh. Phía trên còn sót lại gốc

của thân. Mặt ngoài màu trắng ngà, có những vết nhăn

ngang, dọc và vết sẹo của rễ con. Vết bẻ không phẳng,

màu trắng. Vị hơi ngọt, sau đắng. Loại rễ to, dài, đều,

chắc, màu trắng vị đắng là tốt.

* Thành phần hoá học:

Hoạt chất chính là các saponin triterpenoid

nhóm olean. Sau khi thuỷ phân đã thu được các

sapogenin: acid platycogenic A, B, C,

platycodigenin và acid polygalasic.

Ngoài ra, trong cát cánh còn có inulin.

* Tác dụng:

Saponin của Cát cánh có tác dụng phá huyết mạnh, có tác dụng long đờm và

tiêu đờm, làm hạ cholesterol máu. Dược liệu còn có tác dụng hạ đường huyết, làm dịu

thần kinh và giảm sốt. Có trường hợp bệnh nhân bị nôn sau khi uống thuốc. Cần thận

trọng trong trường hợp bệnh nhân bị loét dạ dày, ruột.

* Công dụng:

Chữa ho có đờm.

Trong y học dân tộc cổ truyền có đơn thuốc của Trọng Cảnh (xem bài Cam

thảo)

84

Hình 7.5. Cây ngưu tất -Achyranthes bidentata, họ Rau dền

– Amaranthaceae.

NGƯU TẤT

Radix Achyranthes bidentatae

Dược liệu là rễ đã chế biến của cây ngưu tất – Achyranthes bidentata Blume. ,

họ Rau dền – Amaranthaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây thuộc thảo, cao khoảng 1m. Thân mảnh, lá mọc đối, hình trứng, đầu nhọn,

mép nguyên dài 5-12cm, rộng 2-5cm. Cụm hoa là bông ở đầu cành hay kẽ lá. Hoa mọc

hướng lên nhưng khi biến thành quả sẽ mọc quặp xuống.

Quả nang, lá bắc còn lại và nhọn thành gai cho nên

vướng phải có thể mắc vào quần áo.

* Thành phần hoá học :

Rễ có các saponin, khi thuỷ phân cho các

sapogenin là acid oleanolic. Ngoài ra còn có ecdysteron

và inokosteron.

* Tác dụng và công dụng :

+ Rễ ngưu tất đã được GS Đoàn Thị Nhu và cộng

sự chứng minh có tác dụng hạ cholesterol máu và có tác

dụng hạ huyết áp. Viện Dược liệu (Bộ Ytế VN) đã sản

xuất cao toàn phần bào chế dưới dạng viên đem thử tại

viện Bảo vệ sức khoẻ người có tuổi do GS Phạm Khuê

và cộng sự đã đi đến kết luận sau :

- Ngưu tất có tác dụng làm giảm

cholesterol máu trên 65% số bệnh nhân có

cholesterol máu cao được điều trị.

- Ngưu tất có tác dụng làm giảm tỷ lệ β/α lipoprotein máu ở 82% số bệnh

nhân có tỉ lệ β/α lipoprotein máu cao điều trị.

- Trong đông y, vị ngưu tất được dùng phối hợp với một số dược liệu khác

để chữa chứng mất kinh, đẻ khó. Ngoài ra còn dùng để chữa bệnh thấp khớp, đau lưng,

bí tiểu tiện.

Chú thích :

Ở nước ta, còn có cây cỏ xước – Achyranthes aspera L., mọc hoang, nếu cây

được trồng và chăm bón thì cũng cho rễ mềm và cũng có thể dùng được như ngưu tất.

Cây này khác cây trên ở chỗ lá có khía răng, lá to hơn và bông dài hơn.

85

Hình 7.6. Cây Ngũ gia bì chânchim - Schefflera octophylla, họ

Nhân sâm – Araliaceae

NGŨ GIA BÌ CHÂN CHIM

Cortex Schefflerae octophyllae

Dược liệu là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây Ngũ gia bì chân chim hay gọi tắt

là cây chân chim – Schefflera octophylla Harms., họ Nhân sâm – Araliaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây cao 2-8m, có lá mọc so le, lá kép hình chân vịt

với 6-8 lá chét có dáng như chân chim, do đó mà có tên gọi.

Cuống lá dài 6-30cm. Lá chét nguyên, hình trứng thuôn dài,

đầu nhọn dài 7-20cm, rộng 3-6cm. Cuống lá chét ngắn 1.5-

3cm. Cụm hoa chùm tán. Hoa nhỏ màu trắng, số cánh hoa

và nhị bằng nhau, thường là 5. Bao phấn 2 ô, bầu hạ có 5-6

ô. Quả hình cầu, đường kính 3-4mm, khi chín có màu tím

sẫm đen, trong chứa 6-8 hạt. Cây mọc hoang ở các rừng cây

bụi hoặc đồi hoang.

* Chế biến :

Bóc vỏ để có chiều dài khoảng 20cm, rộng 5cm,

cạo sơ qua để bỏ bớt lớp vỏ thô ở ngoài, phơi trong

râm, ủ lá chuối 7 ngày, thỉnh thoảng đảo cho đều để

nổi mùi thơm rồi lấy ra phơi hoặc sấy nhẹ cho khô.

* Thành phần hoá học

Vỏ thân :

- Tinh dầu (0,8%)

- Các saponin nhóm usan và olean.

Lá:

- Tinh dầu

- Các saponin chủ yếu thuộc nhóm lupan.

* Định tính:

- Lấy 2g bột dược liệu, cho vào bình nón, thêm 10ml cồn 90o, đun sôi, lắc, lọc.

Lấy 2ml dịch lọc cho vào ống nghiệm, thêm 5 giọt anhydrid acetic, thêm từ từ theo

thành ống 3 giọt acid sulfuric đậm đặc, lớp phân cách giữa hai lớp dung dịch có màu

nâu đỏ.

- Lấy ít bột dược liệu cho vào ống nghiệm, thêm nước, lắc, có bọt bền sau 10

phút.

* Công dụng:

Trong y học cổ truyền, dùng làm thuốc thông tiểu, chữa phù thũng, chữa phong

thấp. Thuốc bổ, giúp cho sự tiêu hoá.

86

Hình 7.7. Cây nhân sâm - Panaxginseng, họ Nhân sâm -

Araliaceae.

NHÂN SÂM

Radix Ginseng.

Rễ củ chế biến của cây nhân sâm –

Panax ginseng C.A.Mey., họ Nhân sâm –

Araliaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây nhỏ, cao 30-50cm có thể sống trên

50 năm. Cây mang ở ngọn một vòng 4-5 lá.

Cuống lá dài. Lá kép chân vịt. Lá lúc đầu có 3

lá chét về sau có 5 lá chét; hai lá chét ngoài nhỏ

hơn các lá chét ở giữa. Mép lá có răng cưa. Cây

trồng thì ra ho a vào năm thứ 3 vào mùa hạ; từ

điểm giữa của vòng lá nhô lên một trục cao

chừng 10cm mang hoa màu trắng nhạt nhóm

họp thành tán đơn. Hoa đều 5 cánh, lá đài 5

răng, 5 nhị. Quả hạch màu đỏ gần hình cầu. Rễ

củ thường to bằng ngón tay phân thành nhiều

nhánh nom như hình người nên có tên là nhân

sâm. Đôi khi có những củ sâm có kích thước rất

lớn nặng đến 300-400g.

* Chế biến:

Trong y học dân tộc cổ truyền, người ta phân biệt hai loại chính: hồng sâm và

bạch sâm.

Hồng sâm: chọn củ mẫm to, nặng trên 37g, rửa sạch đất cát, cho vào nồi

chưng chín trong khoảng 2 giờ, sau đó sấy hoặc phơi khô. Sau khi chế biến thì tinh bột

có trong rễ bị chín và khi khô thì thể chất trong suốt nửa như sừng, có màu hồng mùi

thơm, vị ngọt hơi đắng. “Thân” sâm hình thoi hoặc gần như hình trụ, phần trên và

phần dưới hơi thót lại.

Phần “đầu” tức là cổ rễ, đôi khi nom rõ vết sẹo của thân. Rễ đôi khi phân nhánh

nom như cánh tay, phần dưới có 2 hoặc 3 nhánh nom như chân. Củ càng to càng giá

trị.

Bạch sâm (hoặc đường sâm): Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng

sâm thì chế bạch sâm. Sau khi rửa sạch đất cát thì nhúng vào nước sôi vài phút, sau đó

tẩm đường vài ngày rồi phơi hoặc sấy ở nhiệt độ không quá 60o. Dược liệu sau khi chế

biến thì mặt ngoài màu trắng ngà, mềm, thường có tinh thể đường bám bên ngoài, mặt

bẻ màu trắng ngà và xốp, mùi thơm, vị ngọt.

87

* Thành phần hóa học:

Thành phần chính là các saponin triterpenoid tretracyclic nhóm dammaran gọi

chung là ginsenosid.

Trong lá cũng có chứa saponin với aglycon là acid oleanolic.

Các thành phần khác: tinh dầu 0,05-0,25%, vit B1, B2, các phytosterol 0,029%,

glycan.

* Công dụng:

Nhân sâm được dùng từ lâu đời ở các nước Á đông và đã được đưa vào Dược

điển một số nước. Cao nhân sâm là thành phẩm chính của biệt dược “Pharmaton” SA

Lugano.

Dùng sâm trong trường hợp suy nhược cơ thể sau khi ốm nặng, làm việc quá

sức và mệt mỏi, liệt dương, lãnh dục, ăn không ngon, suy yếu đường tiêu hoá. Sâm có

tác dụng chống lão hoá, chống stress, chữa xơ vữa động mạch, bệnh tiểu đường, lipid

máu cao, gan nhiễm mỡ.

Dùng nhân sâm thì nâng cao khả năng lao động bằng trí óc, khả năng tập trung

tư tưởng và tăng trí nhớ, tăng cường miễn dịch đặc hiệu của hệ thống đề kháng của cơ

thể.

Cách dùng: dùng dưới dạng cồn thuốc, nước chưng cách thuỷ, thuốc bột dập

viên. Ngày dùng 2-6g. Hiện nay, trên thị trường thông dụng là loại trà tan.

Lá cũng sử dụng chứ không bỏ đi.

TAM THẤT

Radix Notoginseng

Rễ củ phơi khô của cây tam thất – Panax notoginseng F.H.Chen, họ Nhân sâm

– Araliaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thảo, sống nhiều năm, cao khoảng 0,5m. Thân đơn, lá kép hình chân vịt,

cuống lá dài, mỗi lá thường có 3-5 lá chét, mép lá có khía răng cưa nhỏ, trên gân

chính rải rác có gân cứng thành gai. Cụm hoa tán đơn, hoa màu xanh nhạt. Quả khi

chín màu đỏ. Hạt hình cầu.

* Đặc điểm dược liệu:

Dược liệu sau khi chế biến có hình dạng thay đổi, thường hình con quay hay

hình củ cà rốt dài 2-6 cm, đường kính 1-4cm. Mặt ngoài màu nâu xám hoặc màu vàng

xám, có những vết nhăn dọc gián đoạn và vết sẹo còn lại của rễ nhánh. Phần trên xung

quanh vết sẹo của thân có những u nhỏ lồi ra. Thể chất cứng chắc, vị thoạt đầu hơi

đắng sau hơi ngọt.

88

Hình 7.8. Cây tam thất - Panaxnotoginseng, họ Nhân sâm –

Araliaceae.

* Thành phần hóa học:

Thành phần hoá học chính của tam thất là các

saponin thuộc nhóm dammaran.

Các bộ phận khác của cây như rễ con, lá, hoa

đều có saponin nhóm dammaran.

* Tác dụng và công dụng:

Trong đông y, tam thất được coi là vị thuốc có

tác dụng làm mất sự ứ huyết, tác dụng cầm máu,

giảm viêm, giảm đau.

Dùng chữa trị các trường hợp: ho ra máu, nôn

ra máu, chảy máu cam, đại tiện ra máu, tử cung xuất

huyết, chấn thương.

Ngoài ra, tam thất cũng được coi là một vị

thuốc bổ như nhân sâm, rất hay được dùng cho

phụ nữ sau khi sinh nở.

Phụ nữ đang mang thai không nên dùng.

Hiện nay, ngưởi ta biết khoảng 14 loài Panax mọc hoang. Ở nước ta có phát

hiện một số loài thuộc chi Panax mọc hoang ở Sapa, Kontum và Quảng nam. Loài ở

Kontum và Quảng nam (địa phận núi Ngọc Linh) đã được các nhà khoa học Việt Nam

và Liên Xô cũ xác định là một loài Panax mới đặt tên là Panax vietnamensis Ha et

Grushv. Loài này đặc biệt có thân rễ nhiều đốt mang sẹo của những gốc thân mọc

hoang hàng năm lụi đi. Chiều dài và đường kính thân rễ thay đổi tuỳ theo độ tuổi của

cây, thường dài 25cm, đường kính 1-3,5cm với cây khoảng 20 năm tuổi. Thân rễ cũng

có mang nhiều rễ phụ. Tận cùng của thân rễ có một rễ củ nhỏ mang nhiều rễ con.

Đặc điểm về mặt thực vật được phân biệt với các loại Panax khác ở chỗ loài

này phần lớn là bầu 1 ô, một vòi nhuỵ, thỉnh thoảng cũng có trường hợp 2 ô nhưng

không có 3 ô hoặc hơn. Trái hình thận và phần lớn chỉ chứa một hạt trong lúc các loài

khác thường có 2 hạt hoặc hơn.

Về mặt hoá học, theo Nguyễn Minh Đức (bộ môn Dược liệu Đại học Y dược

TP.HCM) trong luận án tiến sĩ bảo vệ tại Nhật 1994 cho thấy trong thân rễ có 23

saponin đã được biết.

+ Có nơi trong nước ta còn lấy rễ của một số cây thuộc họ Gừng: Stahlianthus

thorelii Gagnep. để làm giả cây tam thất, cần chú ý tránh nhầm lẫn và giả mạo.

+ Ở Liên Xô cũ có nghiên cứu một số cây thuộc các chi khác thuộc họ Nhân

sâm và thấy thân rễ một số cây sau cũng có tác dụng bổ tương tự như nhân sâm: Aralia

mandshurica Rupr. Et Maxim; Echinopanax elatum Nakai; Eleutherococus senticosus

Maxim. Cây Eleutherococus còn có tác dụng khích thích miễn dịch cơ thể.

89

+ Cây Ngũ gia bì hương (hay Ngũ gia bì gai) – Acanthopanax aculeatum Seem.

Cây có gai, lá có 3-5 lá chét, có mọc ở Lào cai, Lạng sơn... cũng được khai thác để chế

rượu bổ; bộ phận dùng là vỏ thân, vỏ rễ.

+ Một số cây thuốc khác mang tên sâm, cần chú ý phân biệt:

- Đảng sâm – Codonopsis tangshen Oliv., họ Hoa chuông –

Campanulaceae. Dây leo, bộ phận dùng là rễ củ. Trong y học dân tộc cổ truyền, đảng

sâm cũng được coi là vị thuốc bổ có mặt trong các bài thuốc như tứ quân, bát vị, thập

toàn đại bổ… Đảng sâm mà ta đang khai thác trong nước là rễ củ của Codonopsis

javanica (Blume) Hook.f.

- Đan sâm – Salvia miltiorrhiza Bunge., họ Hoa môi – Lamiaceae; cây này

đã di thực. Trong dân tộc cổ truyền dùng làm thuốc bổ máu cho phụ nữ, chữa rong

kinh, kinh nguyệt không đều.

- Huyền sâm – Scrophularia buergeriana Miq., họ Hoa mõm sói –

Scrophulariaceae (xem phần dược liệu chứa monoterpenoid glycosid)

- Sa sâm – Glehnia littoralis F.Schmidt; họ Hoa tán – Apiaceae. Ta thay thế

bằng cây sa sâm nam – Launea sarmentosa (Wild.) Sch. , họ cúc – Asteraceae. Mọc

phổ biến trên bãi cát ngoài bờ biển. Công dụng: chữa ho, sốt.

- Khổ sâm cho lá – Croton tonkinensis Gagnep., họ Thầu dầu –

Euphorbiaceae. Chữa lỵ, loét dạ dày tá tràng.

- Khổ sâm cho quả ( nha đảm tử, sầu đâu cứt chuột) – Brucea javanica

Merr., họ Thanh thất – Simarubaceae. Chữa lỵ, sốt rét, ung thư.

- Sâm đại hành (tỏi Lào) – Eletherin bulbosa (Mill.) Urb. (Eletherine

subaphylla Gagnep.), họ La đơn – Iridaceae. Bộ phận dùng là củ màu đỏ nom như củ

hành. Nhân dân ta dùng làm thuốc bổ máu, ngoài ra còn có tác dụng sát khuẩn dùng

chữa viêm họng hoặc bột rắc lên vết thương. (xem chương dược liệu có tác dụng

kháng khuẩn).

- Sâm bố chính (xem chương trình carbohydrat).

TỲ GIẢI

Rhizoma Dioscoreae

Bộ phận dùng là thân rễ của cây Tỳ giải (hay xuyên tỳ giải, phấn tỳ giải, tất giả)

– Dioscorea tokoro Makino., họ Củ nâu – Dioscoreaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây leo bằng thân quấn. Rễ củ sống dai dưới đất, phình to thành củ. Lá mọc so

le, hình tim, có 7-9-11 gân hình chân vịt nổi rõ. Cuống lá dài. Hoa đơn tính khác gốc,

đều nhỏ, màu xanh nhạt, mọc thành bong. Quả nang có cánh. Cây này mọc h oang ở

90

Hình 7.9. Cây Tỳ giải -Dioscorea tokoro, họ Củ nâu –

Dioscoreaceae

Hình 7.10. Cây Mạch môn -Ophiopogon japonicus, họ Hoàng

tinh – Convallariaceae.

các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam… là những tỉnh của Trung Quốc giáp với

biên giới miền Bắc nước ta.

* Thành phần hoá học:

Có chứa các sapogenin steroid trong đó có diosgenin.

* Công dụng:

Y học cổ truyền dùng tỳ giải làm thuốc lợi tiểu, chữa

viêm bàng quang mãn tính, viêm niệu đạo, chữa thấp khớp.

Dùng dưới dạng thuốc sắc. Ngày dùng 12-18g.

Có thể dùng để chiết diosgenin để làm nguyên liệu

bán tổng hợp các thuốc steroid.

MẠCH MÔN

Radix Ophiopogonis

Mạch môn là rễ củ phơi hay sấy khô của cây

mạch môn – Ophiopogon japonicus (L.f.) Ker.

Gawl., họ Hoàng tinh – Convallariaceae.

* Đặc điểm thực vật :

Cây thuộc thảo cao 1 0-40cm. Lá mọc từ gốc,

mặt trên màu xanh thẫm, mặt dưới trắng nhạt. Hoa

màu lơ nhạt mọc thành chùm, quả mọng màu tím. Rễ

chùm, trên rễ có những chỗ phình thành củ mẫm.

Cây được trồng ở một số tỉnh ở miền Bắc. Đôi khi

gặp mọc hoang.

* Thu hái, chế biến:

Rễ củ thu hoạch vào tháng 9-12 ở những

cây mọc được 2 năm, cắt bỏ rễ con, rửa sạch, củ

nhỏ để nguyên, củ to bổ đôi phơi hay sấy nhẹ cho khô tước bỏ lõi trước khi dùng.

Dược liệu hình thoi dài 2-7cm, rộng 0,2-0,8 cm. Vị ngọt hơi đắng.

91

Hình 7.11. Dượcliệu mạch môn

Hình 7.12. Cây Thiên môn -Asparagus cochinchinensis, họ

Thiên môn – Asparagaceae.

* Thành phần hoá học:

Trong mạch môn người ta mới thấy có chất

nhầy, chất đường.

* Công dụng:

Dùng làm thuốc chữa ho, long đờm.

THIÊN MÔN

Radix Asparagi cochinchinensis

Dược liệu là rễ củ phơi của cây thiên môn – Asparagus cochinchinensis (Lour.)

Merr., họ Thiên môn – Asparagaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Thiên môn là một loại cây leo, sống lâu năm. Dưới đất có rất nhiều rễ củ hình

thoi mẫm. Thân mang nhiều cành 3 cạnh, đầu nhọn, biến

dạng trông như lá, còn lá thì rất nhỏ trông như vẩy. Hoa

nhỏ màu trắng mọc vào mùa hạ. Quả mọng màu đỏ khi

chín.

Cây thiên môn có ở nhiều nơi như Thanh Hóa,

Quảng Ninh, Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn... các nước

khác như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản cũng có.

* Thu hái chế biến:

Rễ củ thu hái vào mùa đông ở những cây mọc

được 2 năm trở lên. Sau khi rửa sạch, cắt bỏ đầu và rễ

con, đem đồ qua hơi nước. Lúc còn nóng rút bỏ lõi, thái

mỏng rồi phơi hoặc sấy cho khô. Dược liệu có vị ngọt

hơi đắng.

* Thành phần hoá học:

Trong thiên môn đông có asparagin là một

acid amin. Ngoài ra còn có chất nhầy, tinh bột.

* Công dụng:

Thuốc dùng trong nhân dân làm thuốc chữa ho, lợi tiểu tiện và chữa sốt, thuốc bổ. Liều

dùng 10-15g một ngày dưới dạng thuốc sắc hoặc nấu thành cao.

92

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Trình bày định nghĩa saponin, kể tên 5 dược liệu chứa saponin. Trình bày tên khoa

học, đặc điểm thực vật, thu hái và chế biến cây Mạch môn.

2. Trình bày tính chất đặc biệt, tác dụng và công dụng của saponin.

3. Áp dụng những kiến thức đã học, anh chị hãy xây dựng quy trình chế biến Hồng

sâm và bạch sâm.

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) vàchữ B (cho câu sai):

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (...):

9. Kể tên 4 dược liệu chứa saponin:A. ...........B.............C..............D..............10. Saponin steroid thường gặp trong cây..... lá mầm.

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp

mà bạn lựa chọn

11. Glycyrrhizin là một saponin có trong dược liệu:

A. Viễn chí

B. Cát cánh

C. Ngưu tất

D. Cam thảo

12. Dịch chiết cam thảo có tác dụng chống loét dạ dày và chống co thắt là do:

A. Glycyrrhizin

B. Flavonoid

C. Coumarin

D. Strychnin

13. Công dụng của „ omai cam thảo“ :

A. Nhuận tràng

B. Lợi tiêu

93

4. Saponin theo tiếng Latin là xà phòng.

5. Saponin làm giảm sức căng bề mặt, tạo bọt khí nhiều khi lắc với nước.

6. Saponin bị tủa bởi chì acetat, amoni sulfat.

7. Cát cánh có vị hơi nhạt, sau đắng.

8. Bệnh nhân bị đau bụng do lạnh, bác sĩ kê đơn cho dùng nhân sâm.

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

C. Chữa ho

D. Chống co thắt

14. Bộ phận dùng của cây Ngưu tất:

A. Thân

B. Lá

C. Rễ

D. Hoa

15. Tên khoa học của cây Mạch môn:

A. Ophiopogon japonicus

B. Lactuca indica

C. Erythrina indica

D. Morus alba

94

FlavanChalcon

CHƯƠNG 8

DƯỢC LIÊU CHỨA FLAVONOID

MỤC TIÊU

1.Phân tích được các cấu trúc hoá học của flavonoid bao gồm khung của

flavonoid, phân loại flavonoid.

2. Trình bày tác dụng sinh học và công dụng của flavonoid

3. Phân tích được các dược liệu chứa flavonoid đã đưa vào giáo trình, chú

trọng: hoa hoè, các dược liệu cho rutin, diếp cá, núc nác, kim ngân, râu mèo, actiso,

hồng hoa, xạ can, dây mật, tô mộc

4. Áp dụng được các phương pháp đã học, nêu những ứng dụng của dược liệu

chứa flavonoid trong đời sống và trong nghành dược.

NỘI DUNG

Flavonoid là một nhóm hợp chất lớn thường gặp trong thực vật. Hơn một nửa rau

quả thường dùng có chứa flavonoid. Flavonoid cũng là thành phần hay gặp trong

dược liệu nguồn gốc thực vật.

1. CẤU TRÚC HOÁ HỌC

1.1. Khung của flavonoid

Người ta xếp vào nhóm flavonoid những chất

có cấu tạo khung kiểu C6-C3-C6 hay nói cách khác là

khung cơ bản gồm 2 vòng benzen a và B nối với

nhau qua một mạch 3 carbon.

Phần lớn các flavonoid có thể xem là các dẫn chất có gốc phenyl của các nhân

trên. Đánh số thứ tự bắt đầu từ dị vòng, số 1 từ dị tố oxy rồi tiếp đến vòng A, vòng B

đánh số phụ. trường hợp không có vòng C (nghĩa là mạch 3C hở) ví dụ trường hợp

chalcon thì đánh số bắt đầu từ vòng B, vòng A đánh số phụ.

1.2. Phân loại flavonoid

95

Sự phân loại các flavonoid dựa vào vị trí của gốc aryl (vòng B) và các mức độ

oxy hoá của mạch 3C. Người ta chia ra: Euflavonoid, isoflavonoid, neoflavonoid,

biflavonoid, triflavonoid, flavolignan.

Euflavonoid: là các flavonoid có gốc aryl ở vị trí C-4, bao gồm các

nhóm: anthocyanidin, flavan, flavan 3-ol, flavan 4-ol, flavan 3,4-diol,

flavanon, 3-hydroxy flavanon, favon, flavonol, dihydrochalcon, chalcon,

auron.

96

isoflavonoid: là các flavonoid có gốc aryl ở vị trí C-3. gồm nhiều

nhóm khác nhau: isoflavan, isoflav-3-ene, isoflavan-4-ol, isoflavanon, isoflavon,

rotenoid, pterocarpan, coumestan, 3-arylcoumarin, coumaronochromen,

coumaronochromon, dihydroisochalcon, homoisoflavon.

neoflavonoid: là các flavonoid có gốc aryl ở vị trí C-4. Gồm: 4-

arylchroman; 4-arylcoumarin; Dalbergion

97

Biflavonoid và triflavonoid: Biflavonoid là những Flavonoid dimer;

triflavonoid cấu tạo bởi 3 monomer flavonoid. Ở đây là những biflavonosid được tạo

thành từ flavon, flavanon, dihydroflavonol, chalcon, dihydrochalcon, auron, isoflavon.

Biflavon được cấu tạo từ 2 đơn vị flavon được biết đến đầu tiên là

Amentoflavon.

Ngoài biflavon còn có biflavanon, bidihydroflavonol, bidihydrochalcon,

biauron, biisoflavon….

2. SỰ PHÂN BỐ FLAVONOID TRONG THỰC VẬT

- Trong thực vật bậc thấp, flavonoid ít được gặp. Trong ngành rêu chỉ phát hiện

được rất ít chất. Trong dương xỉ số lượng flavonoid ít nhưng đều có mặt ở các nhóm

anthocyanin, flavanon, flavon, flavonol, chalcon, dihydrochalcon.

- Ngành hạt trần có khoảng 700 loài, 20 họ, số lượng flavonoid cũng không

nhiều nhưng cũng đủ các nhóm anthocyanidin, leucoanthocyanidin, flavanon, flavon,

flavonol, isoflavon. Nét đặc trưng của ngành hạt trần có khác thực vật bậc thấp và

ngành hạt kín ở chỗ sự hiện diện của nhiều dẫn chất biflavonoid.

- Flavonoid tập trung chủ yếu ở ngành hạt kín ở lớp 2 lá mầm. Có rất nhiều họ

chứa flavonoid và đủ các loại flavonoid. Tuy nhiên cũng có một vài nét đặc trưng cho

một số họ ví dụ họ Asteraceae là một họ lớn với 15000 loài, 1000 chi, có rất nhiều dẫn

chất thuộc các nhóm khác nhau; một số chi có nét đặc trưng riêng, ví dụ: trong các chi

Carthamus, Coreopsis, Cosmos, Dahlia thì hay gặp các dẫn chất chalcon và auron. Chi

Gymmosperma, Ageratum thì gặp các dẫn chất flavon và falvonol có nhiều nhóm thế

có oxy.

- Hàm lượng và cả thành phần flavonoid trong cây phụ thuộc vào nơi mọc. Cây

mọc ở vùng nhiệt đới và núi cao thì hàm lượng cao hơn ở nơi cây thiếu ánh sáng.

3. TÍNH CHẤT

Các dẫn chất flavon có màu vàng rất nhạt, có khi không màu (trường hợp các

nhóm OH đã methyl hoá), flavonol vàng nhạt đến vàng, chalcon và auron vàng đậm

đến đỏ cam. Các chất thuộc nhóm isoflavon, flavanon, isoflavanon, flavanonol, leuco-

98

anthocyanidin, flavan-3-ol do không có nối đôi liên hiệp giữa vòng B với nhóm

carbonyl nên không màu.

Các dẫn chất anthocyanidin thì màu thay đổi tuỳ theo pH của môi trường. Tuy

nhiên khi các flavonoid ở trong các bộ phận của cây thì còn phụ thuộc vào hỗn hợp với

các sắc tố khác.

Độ tan không giống nhau, thường flavonoid glycosid và flavonoid sulfat là

những hợp chất phân cực nên không tan hoặc ít tan trong dung môi hữu cơ, tan được

trong nước tốt nhất là cồn nước. Các aglycon flavonoid thì tan được trong dung môi

hữu cơ, không tan trong nước. Các dẫn chất flavonoid có nhóm 7-hydroxy thường dễ

tan trong dung dịch kiềm loãng.

4. TÁC DỤNG VÀ CÔNG DỤNG

+ Các dẫn chất flavonoid có khả năng dập tắt các gốc tự do như HO ., ROO..

Các gốc này sinh ra trong tế bào bởi nhiều nguyên nhân và khi sinh ra cạnh DNA thì

sẽ gây ra những ảnh hưởng nguy hại như gây biến dị, huỷ hoại tế bào, gây ung thư,

tăng nhanh sự lão hoá. Thí nghiệm cho thấy khả năng dập tắt của một số flavonoid

theo thứ tự: myricetin> quercetin> rhammetin> morin> diosmetin> naringenin>

apigenin> catechin> 5,7dihydroxy-3’,4’,5’trimethoxy flavon> robinin> kaempferol>

flavon.

+ Flavonoid tạo được phức với các ion kim loại mà chính các ion kim loại này

là xúc tác của nhiều phản ứng oxy hoá. Các flavonoid có 3,5,3’,4’ hydroxy có khả

năng liên kết tốt với các ion kim loại đó theo phức oxychromon, oxycarbonyl hoặc

3’,4’ orthodioxyphenol.

+ Thành phần của màng tế bào có các chất lipid dễ bị peroxyd hoá, tạo ra những

sản phẩm làm rối loạn sự trao đổi chất cũng dẫn đến sự huỷ hoại tế bào. Đưa các chất

chống oxy hoá như flavonoid vào cơ thể để bảo vệ tế bào thì có thể ngăn ngừa các

nguy cơ như xơ vữa động mạch, tai biến mạch, lão hóa, tổn thương do bức xạ, thoái

hoá gan…

+ Flavonoid cùng với acid ascorbic tham gia trong quá trình hoạt động của

enzyme oxy hóa - khử. Flavonoid còn ức chế tác động của hyaluronidase. Enzym này

làm tăng tính thấm của mao mạch. Khi enzyme này thừa thì gây hiện tượng xuất huyết

dưới da mà y học gọi là bệnh thiếu vit. P. Các chế phẩm chứa flavonoid chiết từ các

loài citrus như “Cemaflavone”, ”Circularine”…, flavonoid từ lá bạc hà (diosmin) như

“Daflon”, “Diosmil”, flavonoid từ hoa hòe (rutin) với nhiều biệt dược khác nhau đã

chứng minh tác dụng làm bền thành mạch, làm giảm tính “dòn” và tính thấm của mao

mạch. Tác dụng này hợp lực cùng với acid ascorbic. Flavonoid được dùng trong các

trường hợp rối loạn chức năng tĩnh mạch, tĩnh mạc bị suy yếu, giãn tĩnh mạch, trĩ,

chảy máu do đặt vòng trong phụ khoa, các bệnh trong nhãn khoa như sung huyết kết

99

mạc, rối loạn tuần hoàn võng mạc. Các dẫn chất anthocyanosid có tác dụng tái tạo tế

bào võng mạc và đã được chứng minh có tác dụng tăng thị lực vào ban đêm.

+ Flavonoid có tác dụng làm giảm tổn thương gan, bảo vệ được chức năng gan.

Dưới tác dụng của flavonoid ngưỡng ascorbic được ổn định đồng thời, lượng glycogen

trong gan tăng. Sự tích luỹ glycogen có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chức

năng chống độc gan.

Việc sử dụng một số dược liệu trong điều trị viêm gan, xơ gan, bảo vệ tế bào

gan rất hiệu quả như: cây actisô, cây silibum marianum, cây bụt dấm – Hibiscus

sabdariffa.

Tác dụng kích thích tiết mật thể hiện ở các chất thuộc nhóm flavanon, flavon,

flavonol và flavan-3-ol.

+ Flavonoid thể hiện tác dụng chống co thắt những tổ chức cơ nhẵn (túi mật,

ống dẫn mật, phế quản và một số tổ chức khác). Ví dụ apigenin có tác dụng giảm co

thắt phế quản gây ra bởi histamin, acetylcholin, seretonin.

+ Trên bộ máy tiết niệu, nhiều flavonoid thuộc nhóm flavon, flavanon, flavonol

thể hiện tác dụng thông tiểu rõ rệt. ví dụ: quercitrin trong lá diếp cá, flavonoid của cây

râu mèo đều có tác dụng thông tiểu.

+ Tác dụng chống loét của flavanon và chalcon glycosid của rễ cam thảo đã

được chứng minh chữa loét dạ dày.

+ Cao chiết từ lá cây bạch quả Ginko biloba chứa các dẫn chất 3-rutinosid của

kaempferol, quercetin, isorhammetin đã được một số hãng của Pháp bào chế thành biệt

dược ví dụ: “Ginkogink”, “Tanakan” có tác dụng tăng tuần hoàn máu trong động

mạch, tĩnh mạch và mao mạch. Thuốc dùng cho những người có biểu hiện lão suy: rối

loạn trí nhớ, khả năng làm việc bằng trí óc sút kém, mất tập trung tư tưởng, hay cáu

gắt.

+ Trên hệ thần kinh, một số C- flavon glycosid của hạt táo – Ziziphus vulgaris

var. spinosus có tác dụng an thần rõ rệt.

5. DƯỢC LIỆU CHỨA FLAVONOID

HOÈ HOA

Flos Scophorae

Dược liệu là nụ cây hoa hoè – Scophora japonica L.,

họ Đậu – Fabaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây nhỡ, cao 5-7m, có khi hơn. Thân cành luôn có

màu lục, nhẵn. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm 13 -

100

Hình 8.1. Cây hoa hoè– Scophora japonica L.,

họ Đậu – Fabaceae

17 lá chét hình trứng đỉnh nhọn, nguyên dài 3cm, rộng 1,5-2,5cm, mặt dưới hơi có

lông. Hoa nhỏ, màu vàng lục nhạt, mọc thành chùm ở đầu cành. Quả đậu không mở,

nhẵn, thắt lại giữa các hạt, đầu có mũi nhọn dài. Hạt hơi dẹt, màu nâu vàng bóng

* Đặc điểm phân bố:

Ở nước ta hoè được trồng ở một số tỉnh, nhiều nhất ở Thái Bình. Hoa hoè và rutin

không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu với khối lượng lớn.

Các nước như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản cũng

có trồng cây Hòe làm thuốc. Ở một số nước Châu Âu

cây Hoè chỉ trồng làm cảnh.

* Thành phần hóa học:

- Hoa hoè có nhiều thành phần chủ yếu là rutin (rutosid). Hàm lượng trong nụ hoa

có thể đạt đến 28%. Dược điển Việt nam quy định ít nhất là 20%. Rutin lần đầu tiên

được phân lập từ cây cửu lý hương - Ruta graveolens L. vào năm 1842 nên có tên là

rutin. Rutin còn gặp trong nhiều loài thực vật khác. Phần aglycon của rutin là quercetin

(=quercetol) thuộc nhóm flavonol; phần đường là rutinose (=6-O-a-L-

rhamnopyranosyl-b-D-glucopyranose). Chiết xuất rutin từ hoa hoè rất dễ, chỉ cần chiết

bằng nước nóng rồi để lạnh là có rutin tách ra, hoặc chiết bằng nước kiềm carbonat rồi

acid hoá. Tinh chế bằng cách hoà tan lại trong nước nóng hoặc cồn nóng.

Ngoài rutin trong hoa hoè còn có betulin là dẫn chất triterpenoid nhóm lupan,

sophoradiol là dẫn chất của nhóm olean.

- Lá chứa 6,6% flavonoid toàn phần trong đó có 4,7 % rutin.

- Vỏ quả chứa 10,5% flavonoid toàn phần trong đó có 4,3% là rutin,

sophoricosid, sophorabiosid và một số flavonoid khác.

- Các bộ phận khác như gỗ, thân, hạt đều có những flavonoid khác nhau đã được

phân lập và đã biết cấu trúc hoá học nhưng không có ý nghĩa thực tế

* Ðịnh tính rutin trong nụ Hoa Hoè (Flos Styphnolobii japonici)

Chiết xuất:

Cân 0,5g bột nụ hoa hoè rồi cho vào một ống

nghiệm lớn. Thêm 5 ml ethanol 90%. Ðun cách thuỷ

sôi trong vài phút. Lọc nóng. Dịch lọc được tiến hành

các phản ứng sau:

Tiến hành phản ứng:

101

* Phản ứng Cyanidin (phản ứng Shinoda)

Cho vào ống nghiệm nhỏ 1ml dịch chiết. Thêm một ít bột magnesi kim loại

(khoảng 10 mg). Giỏ từng giọt HCl đậm đặc (3-5 giọt). Ðể yên một vài phút, dung

dịch sẽ chuyển từ màu vàng sang màu đỏ.

* Phản ứng với kiềm

Cho vào ống nghiệm nhỏ 1 ml dịch chiết . Thêm vài giọt dung dịch NaOH 10%.

Sẽ thấy xuất hiện tủa vàng. Thêm 1 ml nước cất, tủa sẽ tan và màu vàng của dung dịch

sẽ được tăng thêm.

Giỏ một giọt dịch chiết lên giấy lọc. Hơ khô rồi để lên miệng lọ amoniac đặc đã được

mở nút, sẽ thấy màu vàng của vết dịch chiết được tăng lên.

- Phản ứng với FeCl3

Cho vào ống nghiệm nhỏ 1 ml dịch chiết. Thêm vài giọt dung dịch FeCl3 5%.

Sẽ xuất hiện tủa xanh đen.

- Phản ứng diazo hoá

Cho 1ml dịch chiết vào ống nghiệm, kiềm hoá bằng dung dịch kiềm (dung dịch

NaOH, KOH, Na2CO3 ), thêm vài giọt thuốc thử diazoni, lắc đều (có thể đun nóng trên

nồi cách thuỷ trong vài phút) xuất hiện màu đỏ.

Các phản ứng định tính có thể thực hiện trên khay sứ.

* Tác dụng và công dụng:

Rutin có hoạt tính vitamin P, có tác dụng làm bền và làm giảm tính thấm của mao

mạch, làm tăng sự bền vững của hồng cầu, rutin làm hạ thấp trương lực cơ nhẵn,

chống co thắt.

Rutin được dùng chủ yếu để đề phòng những biến cố của bệnh xơ vữa động

mạch, điều trị các trường hợp suy yếu tĩnh mạch, các trường hợp xuất huyết như chảy

máu cam, ho ra máu, tử cung xuất huyết, phân có máu. Rutin còn là thuốc chữa trĩ,

chống dị ứng, thấp khớp. Ngoài ra còn dùng trong các trường hợp tổn thương ngoài da

do bức xạ, làm cho vết thương chóng lành sẹo. Rutin rất độc, tuy nhiên không được

dùng trong trường hợp nghẽn mạch và máu có độ đông cao.

Dùng dưới dạng viên 2,02g. Có thể phối hợp với các thuốc khác như vitamin C

(ta có sản xuất viên Rutin-C) cholin, khellin, các alcaloid của dừa cạn, papaverin…

Người ta còn sản xuất loại rutin hòa tan trong nước (morpholylethyl rutosid, rutosid

natripropylsulfonat). Nhu cầu về rutin trên thế giới rất lớn chỉ riêng nước Pháp hàng

năm sản xuất hơn 10 tấn rutin mà vẫn chưa đáp ứng nhu cầu.

DIẾP CÁ

Herba Houttuyniae

102

Hình 8.2. Dược liệu hoè hoa

Hình 8.3. Cây diếp cá –Houttuynia cordata, họ Lá

dấp – Sausuraeae.

Dược liệu là toàn cây dùng tươi hay khô của cây diếp cá (còn có tên gọi là cây

ngư tinh thảo, lá dấp) – Houttuynia cordata Thunb., họ Lá dấp – Sausuraeae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thuộc thảo, thân ngầm, rễ mọc ở các đốt. Thân trên mặt đất mọc đứng cao

40 cm, có lông. Lá hình tim, mềm nhẵn, mặt dưới tím nhạt, khi vò có mùi tanh như cá

do đó có tên diếp cá hay ngư tinh thảo. Cụm hoa bông, màu vàng không có bao hoa, có

4 lá bắc trắng, tất cả nom như một cái hoa. Quả nang mở ở đỉnh. Cây mọc hoang ở

những nơi ẩm thấp. Ở miền Nam được trồng nhiều làm rau sống.

* Thành phần hóa học

- Các flavonoid: quercetrin, isoquercetrin

- Tinh dầu: Đây là thành phần làm cho dược

liệu có mùi đặc biệt. Thành phần chủ yếu của tinh dầu

là methylnonylceton. Laurylaldehid, caprylaldehid và

decanonyl acetaldehid. Chất sau cùng này là thành

phần chính nhưng không bền và dễ bị phân huỷ khi

chưng cất.

* Tác dụng và công dụng

- Tác dụng kháng nhiều loại virus đã được

nghiên cứu. Tinh dầu ức chế trực tiếp các virus sau:

virus gây bệnh herpes, virus gây cúm và HIV chủng 1

của người

- Diếp cá còn có tác dụng kháng viêm, thông tiểu. Tác dụng làm bền mao mạch

của quercetrin đã được chứng minh.

- Dược điển Trung Quốc chỉ định dùng lá diếp cả trong các trường hợp apxe

phổi, ho, khó thở, lỵ, nhiễm trùng đường tiểu tiện, mụn nhọt

Nhân dân ta có kinh nghiệm dùng lá diếp cá tươi để chữa đau mắt đỏ có tụ máu,

bệnh trĩ. Diếp cá làm thứ rau ăn thông thường ở miền Nam. Đây cũng là nguồn cung

cấp vitamin PP rất tốt cho cơ thể.

HOÀNG CẦM

Radix Scutellariae

Dược liệu là rễ cây hoàng cầm – Stecullaria baicalensis Georgi, họ Hoa môi-

Lamiaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thuộc thảo, sống nhiều năm, thân có 4 cạnh, lá mọc đối, dài 1,5-4cm, rộng

3-8mm, phiến lá hình mác hẹp, gần như không cuống, mép lá nguyên và có lông. Hoa

mọc hướng về một phía ở ngọn. Cứ ở mỗi nách lá có một hoa. Hoa hình môi, màu

103

Hình 8.4. Cây hoàng cầm –Stecullaria baicalensis, họ Hoa

môi- Lamiaceae.

xanh lơ. Cây đã được trồng thí nghiệm ở Sapa, chưa phát triển. Vị thuốc còn phải

nhập.

Thu hái: rễ, thu hái vào mùa xuân hoặc mùa thu, đào về bỏ rễ con, bỏ thân, lá,

phơi gần khô thì đập bỏ lớp vỏ ngoài rồi lại phơi khô.

* Đặc điểm dược liệu:

Dược liệu hình chuỳ, trên to dưới nhỏ, có vết tích của rễ con, có thớ vặn, dài 8-

20cm, đường kính 1-3cm, mặt ngoài màu

vàng thẫm, chất dòn dễ bẻ, mặt bẻ màu vàng,

giữa có lõi màu nâu hoặc những vụn mục màu

nâu đen.

*Thành phần hoá học:

Từ rễ hoàng cầm có nhiều hợp chất

flavonoid đã được phân lập và xác định cấu

trúc. Các chất quan trọng là baicalin,

baicalein, scutellarein, scutellarin, wogonin.

Ngoài thành phần flavonoid trong rễ

hoàng cầm còn có tanin thuộc nhóm

pyrocatechic (2-5%), nhựa.

Thân và lá cũng có flavonoid.

* Tác dụng và công dụng:

- Hoàng cầm có tác dụng hạ nhiệt

- Có tác dụng kháng khuẩn

- Làm giảm các triệu chứng của bệnh cao

huyết áp

- Tăng sức và làm chậm nhịp tim

- Làm giảm co thắt cơ trơn của ruột

- Có tác dụng an thần

- Trong y học cổ truyền dùng hoàng cầm để chữa cảm sốt, ho, lỵ, ỉa chảy, mắt đỏ

sưng đau, chảy máu cam, mụn nhọt, thai động không yên. Ngoài ra còn chữa viêm dạ

dày và ruột.

Dùng dưới hình thức thuốc sắc với liều 12g một ngày, người lớn có thể dùng 30-

50g một ngày.

- Baicalein cũng được chiết xuất và chuyển thành dạng ester phosphat (để tăng độ

hoà tan), dùng để chữa các bệnh dị ứng.

- Hoàng cầm cũng được dùng dưới dạng cồn thuốc (Tinctura Scutellariae) để

chữa bệnh cao huyết áp, nhức đầu, mất ngủ. Uống lâu không thấy có tác dụng phụ.

104

Hình 8.5. Cây kim ngân –Lonicera japonica, họ Kim

ngân – Caprifoliaceae.

KIM NGÂN HOA

Flos Lonicerae

Dược liệu là nụ hoa có lẫn một số hoa đã nở

của cây kim ngân – Lonicera japonica Thunb. hoặc

một số loài khác như L. dasystyla Rehd., L. cofusa

D.C., họ Kim ngân – Caprifoliaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Kim ngân là loại dây leo, thân to bằng chiếc

đũa dài tới 9-10m, có nhiều cành, lúc non màu xanh,

khi già màu đỏ nâu. Lá hình trứng, mọc đối, phiến lá

rộng 1,5-5cm, dài 3-8cm. Lá cây quanh năm xanh

tươi, mùa rét không rụng do đó còn có tên là nhẫn

đông. Hoa mọc thành xim ở kẽ lá. Hoa khi mới nở có

màu trắng, về sau chuyển thành màu vàng. Vì trên

cây cùng một lúc có hoa mới nở màu trắng lại có hoa

nở đã lâu màu vàng như vàng nên mới gọi là kim

ngân (kim là vàng; ngân là bạc). Quả mọng hình cầu

màu đen. Cây mọc hoang ở các miền rừng núi như Cao Bằng, Hoà Bình, Thanh Hoá,

Lào Cai… có thể trồng bằng cách dâm cành.

* Thành phần hóa học:

- Hoa và lá chứa flavonoid chất chính là luteolin-7-rutinosid.

- Một số chất carotenoid

- Acid chlorogenic và các đồng phân của nó.

- Lá có loganin và secologanin.

* Tác dụng và công dụng:

Tác dụng kháng khuẩn trên một số vi khuẩn thuộc chi Staphylococcus,

Streptococcus, Shigella, Salmonella và một số virus.

Tác dụng ngăn sự tích tụ mỡ ở bụng.

Được dùng chủ yếu để trị viêm nhiễm đường hô hấp trên như viêm amydan,

viêm họng, viêm thanh quản; viêm da, mụn nhọt, sưng vú, viêm ruột thừa; trị lỵ trực

trùng, viêm màng kết do siêu vi, cúm.

Liều dùng: 6-15g có thể đến 30g.

105

Hình 8.6. Cây actiso –Cynara scolymus L., họ Cúc

– Asteraceae.

* Ngoài sử dụng hoa, từ cây kim ngân còn sử dụng thân, cành và lá dùng làm

thuốc ta có vị thuốc kim ngân đằng hay kim ngân cuộn.

ACTISO

Folium Cynarae

Bộ phận dùng làm thuốc là lá của cây actiso –

Cynara scolymus L., họ Cúc – Asteraceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thảo lớn. Vào năm thứ nhất cây có một vòng

lá, lá to dài có thể hơn 1m rộng có thể hơn 50cm, lá xẻ

sâu thành nhiều thuỳ, màu trắng nhạt ở mặt dưới vì có

nhiều lông nhung, gân lá nổi rõ. Vào năm thứ 2 từ giữa

vòng lá có thân mọc lên cao đến 1,5m, phía trên có phân

cành. Thân mang lá không cuống, nhỏ hơn, hơi phân

thuỳ hoặc gần nguyên. Cụm hoa hình đầu to có đường

kính 6-15cm, được bao bọc bởi một bao chung lá bắc,

hình trứng, các lá bắc mẫm ở gốc, nhọn ở đỉnh. Đế hoa

nạc mang những hoa hình ống màu lơ. Lá bắc non dùng

làm thực phẩm. Quả đóng màu nâu sẫm, bên trên có mào

lông trắng óng. Cây actiso thích hợp ở vùng khí hậu mát,

ở nước ta hiện nay được trồng nhiều ở Lâm đồng, cây

cũng đã được trồng ở Sapa và thấy mọc rất khoẻ.

*Thành phần hóa học:

- Cynarin

- Flavonoid: luteolin, cynarosid, scolymosid, cynarotriosid.

- Các thành phần khác: chất nhầy, pectin, acid malic, các sterol, alcol triterpenic,

sapogenin, chất đắng.

* Tác dụng và công dụng:

Cây actiso đã được nhân dân châu Âu sử dụng từ lâu để chữa các bệnh sỏi bàng

quang, phù thũng, các bệnh về gan.

Tác dụng tăng tiết mật cũng đã được chứng minh.

Nhiều công trình đã làm sáng tỏ các tác dụng của actiso: phục hồi tế bào gan,

tăng chức năng chống chất độc của gan, phòng bệnh xơ vữa động mạch, làm hạ

cholesterol, thông tiểu.

106

Hình 8.7. Tang bạch bì

Hình 8.8. Tang diệp

Hoa tươi actiso dùng làm thực phẩm hoặc thái thành lát phơi khô sắc uống thay

trà. Rễ cũng được thái lát phơi khô và dùng như hoa.

CÁC VỊ THUỐC TỪ CÂY DÂU TẰM

Nhiều bộ phận của cây dâu tằm – Morus alba L., họ Dâu tằm – Moraceae, được

dùng làm thuốc.

* Đặc điểm thực vật và phân bố:

Cây nhỏ cao 2-3m, nếu trồng ở ruộng dâu do thường xuyên hái lá nhưng nếu để

cây phát triển lâu năm có thể cao 6-7m hoặc hơn. Lá hình trứng hay chia thuỳ, mọc so

le, có lá kèm. Mép lá khía răng. Hoa đơn tính cùng gốc; hoa đực mọc thành bông có 4

lá đài, 4 nhị; hoa cái cũng mọc thành bông và có 4 lá đài.

Quả phức, mọng nước, khi chín màu đỏ rồi chuyển sang

màu tím thẫm.

* Bộ phận dùng:

1. Vỏ rễ: Cortex Mori Radicis

(Dược liệu là tang bạch bì)

Đào rễ, rửa sạch, bóc lấy vỏ phơi khô. Khi dùng

cạo sạch lớp bần bên ngoài, thái nhỏ, tẩm mật, sao cho

đến khi hết dính tay.

Thành phần hoá học:

- Các flavonoid: mulberin (0,15%), mulberochromen (0.2%),

cyclymulberin, cyclomulberochromen.

- Acid betulinic và một số thành phần khác

Tác dụng và công dụng:

Dịch chiết nước của vỏ khi tiêm tĩnh mạch trên

thỏ thí nghiệm thấy có tác dụng hạ huyết áp rõ, tác

dụng này bị cản trở khi tiêm atropin. Dịch chiết ức chế

tim ếch và gây giãn mạch tai thỏ. Trên chuột có tác

dụng an thần.

Y học dân tộc cổ truyền dùng làm thuốc chữa

ho, hen suyễn, khó thở, thuốc thông tiểu.

Ngày dùng 6-12g, có thể dùng dưới dạng thuốc sắc.

2. Lá: Folium Mori

(Dược liệu là Tang diệp)

107

Hình 8.9. Tang chi

Hình 8.10. Tang thầm

Hái lá bánh tẻ phơi khô.

Thành phần hóa học:

- Các flavonoid: moracetin, quercitrin, isoquercitrin

- Coumarin: umbelliforom, scopoletin, scopolin.

- Các thành phần khác: carotenoid, trigonellin, adellin, aminoacid, acid hữu cơ.

Công dụng: Y học dân tộc cổ truyền dùng làm thuốc chữa đường hô hấp trên,

ho khan, chóng mặt, nhức đầu, viêm mắt, mắt mờ.

Ngày dùng 6-18g.

3. Cành: Caulis Mori

(Dược liệu là tang chi.)

Thành phần hóa học: Các flavonoid: - Morin,

dihydromorin, dihydrokaempferol, mulberin,

mulberochromen, cyclomulberochromen.

- Tetra hydroxy benzophenon, maclurin

- Acid betulinic.

Công dụng:

Y học cổ truyền dùng làm thuốc chữa

viêm khớp, tay chân tê bại.

4. Quả: Fructus Mori

(Dược liệu là tang thầm)

Hái quả chín đỏ, đồ chín, sấy khô.

Thành phần hoá học:

- Anthocyanidin glucosid là sắc tố làm cho quả có màu đỏ tím khi chín.

- Vitamin B1, B2, C, các loại đường.

Công dụng:

Y học dân tộc cổ truyền dùng làm thuốc bổ, chữa các trường hợp mắt mờ,

kém ngủ, chóng mặt, bí tiểu, đại tiện. Ngày dùng 12-20g.

HỒNG HOA

Flos Carthami

Bộ phận dùng là hoa của cây Hồng hoa – Carthamus

tinctorius L., họ Cúc – Asteraceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây thuộc thảo, cao 0.6-1m, mọc 2 năm. Thân có vạch

dọc. Lá mọc so le, không có cuống, mép lá có răng cưa thành

gai. Cụm hoa hình đầu họp thành ngù. Hoa màu đỏ, hoặc da

cam. Quả đóng có 5 cạnh lồi nhỏ.

108

Hình 8.11. cây Hồng hoa –Carthamus tinctorius L., họ

Cúc – Asteraceae.

Hình 8.12. Cây Tô mộc –Caesalpinia sappan L., họ Vang –

Caesalpiaceae.

* Thu hái và chế biến:

Đầu mùa hạ khi hoa đang nở, cánh hoa chuyển từ vàng sang đỏ thì hái về để nơi

thoáng gió trong râm hoặc nơi có ánh nắng cho khô.

Không nên phơi trực tiếp giữa nắng to để khỏi mất màu.

* Thành phần hoá học:

Hai sắc tố chính của hồng hoa là Carthamin và carthamon.

Lá hồng hoa chứa flavonoid khác: 7-glucosid của luteolin.

Quả chứa protein (15%) và lipid (30%). Dầu chứa hơn 90% acylglycerol của

các acid chưa no: oleic (13-15%), linoleic (75-70%) và một lượng nhỏ các acyl

glycerol của các acid no: palmatic và stearic. Ngoài ra trong quả còn chứa trachelosid

và 1 glycosid steroid.

* Công dụng:

Trong y học cổ truyền hồng hoa hay được dùng làm thuốc điều kinh, chữa bế

kinh, kinh nguyệt xấu. Chú ý phụ nữ có thai không được dùng.

Hồng hoa giúp cho tuần hoàn máu được lưu thông tốt, được dùng để trị chứng

huyết khối. Ngoài ra còn dùng điều trị chứng co thắt mạch vành, đau thắt ngực.

TÔ MỘC

Lignum Caesalpiniae

Dược liệu là gỗ phơi khô của cây gỗ vang (hay cây tô mộc) – Caesalpinia

sappan L., họ Vang – Caesalpiaceae.

* Đặc điểm thực vật:

Cây gỗ cao 7-10m, thân có gai. Lá kép lông chim, gồm 12 đôi lá chét; lá chét

mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Cánh hoa có lông, bầu có lông. Quả dẹt, nở về phía

đỉnh và nhô ra thành mỏ, có 4 hạt. Cây mọc hoang và được trồng một số nơi ở nước ta.

* Bộ phận dùng:

Gỗ lõi của những cây già, khi gỗ đã có

màu vàng đỏ. Người ta hạ cây và cưa thành khúc

dài 20cm rồi chẻ nhỏ thành thanh rộng 5-8cm dày

0,5cm. Gỗ dễ chẻ theo chiều dọc của thớ, không

mùi, vị hơi chát.

* thành phần hóa học:

- Brazilin là chất có tinh thể màu vàng.

- Ngoài ra còn có: sapanin, tanin, acid

gallic

* Tác dụng và công dụng:

109

Nhân dân dùng tô mộc làm thuốc săn da và cầm máu dùng trong các trường hợp

tử cung chảy máu, đẻ mà mất máu quá nhiều, choáng váng, hoa mắt.

Còn dùng chữa lỵ ra máu, chảy máu trong ruột, xích bạch đới.

Một số vùng nhân dân dùng tô mộc nấu với nước uống thay chè.

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Trình bày tên khoa học, đặc điểm thực vật, bộ phận dùng, thành phần hóa học chính,

công dụng, cách dùng của cây Kim ngân

2. Trình bày cách đánh số thứ tự trong công thức flavonoid? Phân biệt nhóm

flavonoid: Euflavonoid; isoflavonoid; lsoflavonoid

3. Vẽ khung cấu trúc hóa học của flavonoid. Hãy xây dựng quy trình chiết xuất và

định tính Rutin trong nụ hoa hòe.

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (...):

4. Nhóm flavonoid có cấu tạo khung kiểu ......

5. Các dẫn chất flavonoid có khả năng ..... các gốc tự do như OH , ROO-

6. Flavonoid cùng với ......tham gia trong quá trình hoạt động của enzym oxy hóa -khử

7. Các dẫn chất anthocyanosid có tác dụng tái tạo tế bào................

8. Kể tên 4 dược liệu chứa flavonoid:

A. ..........

B. .............

C. .............

D.................

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) vàchữ B (cho câu sai):

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp

mà bạn lựa chọn.

15. Quả đậu không mở, nhẵn, thắt lại giữa các hạt, đầu có mũi nhọn dài. Đó là quả của

cây:

110

9. Flavonoid có tác dụng làm giảm tổn thương gan, bảo vệ chức năng gan.

10. Hòe hoa sao vàng có tác dụng cầm máu.

11. Tinh dầu ức chế trực tiếp virus gây bệnh HIV chủng 1 ở người.

12. Hoàng cầm có thể dùng được cho phụ nữ có thai.

13. Kim ngân còn gọi là nhẫn đông.

14. Cây Hồng hoa dùng tốt cho phụ nữ có thai.

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A. Keo giậu

B. Đậu ván

C. Cam thảo

D. Hoe hòe

16. Trong nụ hoa hòe thành phần chủ yếu là:

A. Loratadin

B. Rutin

C. Rotun

D. Rotunda

17. Cây diếp cá có thành phần chủ yếu là:

A. Dầu mỡ

B. Tinh dầu

C. Saponin

D. Anthranoid

111

CHƯƠNG IX

DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa, cách đặt tên, tính chất chung, trạng thái thiên

nhiên của alcaloid trong dược liệu.

2. Phân tích được phương pháp chiết xuất phân lập alcaloid trong dược liệu.

3. Phân loại được alcaloid trong dược liệu theo cấu trúc hoá học.

4. Áp dụng được các kiến thức đã học để phân tích một số dược liệu chứa

alcaloid theo nội dung:

- Tên Việt Nam - tên khoa học của cây thuốc, họ thực vật.

- Đặc điểm thực vật và phân bố.

- Bộ phận dùng làm thuốc, thu hái và chế biến.

- Thành phần hoá học có trong dược liệu.

- Tác dụng và công dụng.

NỘI DUNG

I. ĐẠI CƯƠNG VỀ ALCALOID

1. Khái niệm về alcaloid

Đã từ lâu các nhà khoa học đã tìm thấy trong cây các hợp chất tự nhiên thường

là những acid hoặc những chất trung tính. Đến năm 1819, Dược sỹ Wilhelm Meissner

là người đầu tiên đưa ra khái niệm alcaloid và có định nghĩa alcaloid là những hợp

chất hữu cơ, có chứa nitơ có phản ứng kiềm và được lấy từ thực vật.

Sau này người ta đã tìm thấy alcaloid không những có trong thực vật mà còn có

trong động vật như Bufotenin, Serotonin... là những chất độc lấy từ loài cóc.

Ngoài tính kiềm, alcaloid còn có những đặc tính khác như hoạt tính sinh học

mạnh, có tác dụng với một số thuốc thử gọi là thuốc thử chung của alcaloid.

Trên cơ sở đó Pôlônôpski được định nghĩa: "alcaloid là những hợp chất hữu cơ chứa

nitơ, đa số có nhân dị vòng, có phản ứng kiềm thường gặp trong thực vật, đôi khi có

trong động vật, thường có dược lực tính mạnh và cho những phản ứng hoá học với một

số thuốc thử gọi là thuốc thử chung của alcaloid.

Tuy vậy cũng có một số chất được xếp vào alcaloid nhưng nitơ không ở dị vòng

mà ở mạch nhánh như ephedrin trong cây ma hoàng, capsaicin trong quả ớt….

Một số alcaloid không có phản ứng kiềm như colchicin trong hạt cây tỏi độc,

ricinin lấy từ hạt thầu dầu và có alcaloid có phản ứng acid yếu như arecaidin trong hạt

cau….

112

2. Danh pháp

Các alcaloid trong dược liệu thường có cấu tạo phức tạp nên không gọi tên theo

danh pháp hoá học mà thường gọi theo tên riêng tên của alcaloid luôn có đuôi in và

xuất phát từ tên chi hoặc tên loài của cây + in.

Ví dụ: Papaverin xuất phát từ papaver sonipherum.

Cocain xuất phát từ erythroxylum coca.

- Đôi khi dựa vào tác dụng của alcaloid đó.

Ví dụ: Emetin do từ emetos có nghĩa là gây nôn.

Có thể từ tên người + in.

Ví dụ: Nicotin do tên J. Nicot.

- Những alcaloid phụ tìm ra sau thường được gọi tên bằng cách thêm tiếp đầu

ngữ hoặc biến đổi vị ngữ của alcaloid chính (biến đổi in thành idin - anin - alin ...).

- Tiếp đầu ngữ nor diễn tả một chất mất một nhóm methyl.

Ví dụ: Ephedrin (C10H15ON).

Norephedrin (C9H13ON).

- Các đồng phân thường có tiếp đầu ngữ Psendo, iso, epi, allo, neo...

3. Phân bố trong thiên nhiên

+ Alcaloid có nhiều trong thực vật ngày nay người ta được biết trên 6000

alcaloid từ hơn 5000 loài hầu hết ở thực vật bậc cao.

Có những họ có tới 50% loài cây chứa alcaloid. Ví dụ: Alcaloid có trong Ma

hoàng…

Alcaloid cũng có trong một số loại nấm như nấm khoả mạch. Ở động vật đã tìm

thấy alcaloid ngày càng nhiều. Trong con cóc, da con kỳ nhông, da của một số loài ếch

độc...

+ Trong cây alcaloid thường tập trung ở một số bộ phận nhất định.

Ví dụ: Alcaloid có ở hạt: mã tiền, cà phê.

Alcaloid có ở quả như: quả ớt, hồ tiêu, thuốc phiện.

Alcaloid có ở lá: lá chè - thuốc lá, cô ca.

Alcaloid có ở hoa: cà độc dược.

Alcaloid có ở thân: ma hoàng.

Alcaloid có ở vỏ: canhkina, mức hoa trắng.

Alcaloid có ở rễ: ba gạc, lựu.

Alcaloid có ở củ: bình vôi, ô đầu, bách bộ.

+ Rất ít trường hợp trong cây chỉ có 1 alcaloid mà thường có hỗn hợp nhiều

alcaloid, alcaloid có hàm lượng cao gọi là alcaloid chính và ngược lại thì gọi là

alcaloid phụ.

Tuy nhiên, một alcaloid có thể gặp trong nhiều cây thuộc những họ khác nhau

như Ephedrin có trong cây ma hoàng (họ ma hoàng), ngoài ra còn có trong cây thanh

113

tùng (họ kim mao), cây ké đồng tiền (họ bông). Berberin có trong cây hoàng liên (họ

hoàng liên), cũng có trong cây hoàng bá (họ cam), cây vàng đắng (họ tiết dê).

+ Hàm lượng alcaloid trong cây thường thấp, trừ một số trường hợp như

canhkina hàm lượng alcaloid đạt từ 6-10%, trong nhựa cây thuốc phiện đạt 20-30%.

Một dược liệu có hàm lượng alcaloid là 1-3% được coi là khá cao.

Hàm lượng alcaloid trong cây phụ thuộc nhiều yếu tố như khí hậu, ánh sáng,

chất đất, phân bón, giống cây, bộ phận thu hái và thời kỳ thu hái, vì vậy mọi dược liệu

cần nghiên cứu cách trồng trọt, thu hái và bảo quản phù hợp để có hàm lượng hoạt chất

cao.

+ Trong cây alcaloid ít khi ở trạng thái tự do (dạng base) mà thường ở dạng

muối của các acid hữu cơ (đôi khi có ở dạng muối acid vô cơ), tan trong dịch tế bào. Ở

một số cây alcaloid kết hợp với tanin, hoặc kết hợp với acid đặc biệt của chính cây đó

như acid meconic trong thuốc phiện, acid tropic trong họ cà. Có một số ít trường hợp

alcaloid kết hợp với đường tạo ra dạng glycoalcaloid như salasonin trong cây cà lá

xẻ….

4. Sự tạo thành alcaloid trong cây

Hiện nay bằng phương pháp dùng các nguyên tử đánh dấu (đồng vị phóng xạ)

người ta đã chứng minh được alcaloid được tạo ra từ các acid amin.

Ngoài ra trong cấu trúc alcaloid còn có những hợp chất khác, như gốc acetat,

hemi... tham gia vào. Qua công trình nghiên cứu sinh tổng hợp các alcaloid đi từ tiền

chất là các acid amin rất phong phú.

Qua nghiên cứu các nhà khoa học cũng thấy nơi tạo ra alcaloid không phải luôn

là nơi tích tụ alcaloid, nhiều alcaloid được tạo ra ở rễ lại vận chuyển lên phần trên mặt

đất của cây sau khi thực hiện những biến đổi thứ cấp chúng được tích tụ ở lá quả hoặc

hạt. Người ta đã chứng minh alcaloid chính trong cây benladon là: L-hyoscyamin được

tạo ra ở rễ sau đó chuyển lên phần trên mặt đất khi cây 1 tuổi thân chứa nhiều alcaloid

hơn lá khi cây 2 tuổi thân hoá gỗ nhiều hơn lượng alcaloid giảm, hàm lượng alcaloid ở

phần ngọn đạt mức tối đa vào lúc cây ra hoa và giảm đi khi quả chín.

5. Tính chất chung của alcaloid

5.1. Lý tính

- Thể chất: phần lớn alcaloid trong thiên nhiên công thức cấu tạo có oxy nghĩa

là trong công thức có: C,H,N,O và ở nhiệt độ thường nó thường ở thể rắn, như

morphin (C17H19NO3), codein (C18H21NO3), quinin (C20H24N2O2).

Những alcaloid thành phần cấu tạo không có oxy thường ở thể lỏng.

Ví dụ: Nicotin (C10H14N2), spartein (C15H16N2).

Tuy nhiên có vài chất trong thành phần có oxy vẫn ở thể lỏng như arecolin

(C8H13NO2) và có vài chất không có oxy vẫn ở thể rắn như sempecvirin (C19H16N2).

114

Các alcaloid ở thể rắn thường kết tinh và có điểm chảy rõ ràng song cũng có

một số alcaloid không có điểm chảy vì bị phân huỷ bởi nhiệt độ trước khi chảy.

Những alcaloid ở thể lỏng có thể bay hơi được và thường vững bền, không bị

phân huỷ ở nhiệt độ sôi nên cất kéo được bằng hơi nước để lấy ra khỏi dược liệu.

- Mùi vị: đa số alcaloid không có mùi, có vị đắng và một số có vị cay như

Capsaicin,…

- Màu sắc: hầu hết các alcaloid đều không màu trừ một số ít có màu vàng như

berberin, palmatin…

- Độ tan: nói chung các alcaloid bazơ không tan trong nước, dễ tan trong dung

môi hữu cơ. Trái lại các muối alcaloid tan trong nước hầu như không tan trong dung

môi hữu cơ ít phân cực.

Có một số trường hợp ngoại lệ alcaloid base lại tan trong nước như nicotin,

spartein, cafein (tan 1/80 trong nước lạnh 1/2 trong nước sôi) một số alcaloid có chức

phenol như morphin tan trong dung dịch kiềm. Muối alcaloid như berberin citrat lại rất

ít tan trong nước.

Dựa vào độ tan khác nhau của alcaloid base và muối alcaloid người ta sử dụng

dung môi thích hợp để chiết suất và tinh chế alcaloid.

- Năng xuất quang cực: phần lớn alcaloid có khả năng quang cực (vì có cấu trúc

carbon không đối xứng) thường tả tuyền, một số hữu tuyền một số không có tác dụng

với ánh sáng phân cực (vì không có carbon không đối xứng)

Một số alcaloid là hồn hợp đồng phân tả và hữu tuyền (raxemic)

Năng xuất quang cực là hằng số giúp ta kiểm tra độ tinh khiết của alcaloid khi

có 2 dạng D và L. Thì alcaloid dạng L có tác dụng sinh lý mạnh hơn dạng D.

5.2. Hoá tính

Hầu hết các alcaloid đều có tính base yếu và một số ít có tính base mạnh làm

xanh giấy quỳ đỏ như nicotin, cá biệt có alcaloid không có phản ứng kiềm như

theobromin, có alcaloid có phản ứng acid yếu như arecaidin.

Do có tính base yếu nên có thể giải phóng alcaloid ra khỏi muối của nó bằng

kiềm trung bình và mạnh như NH4OH, MgO, NaOH ... Khi định lượng alcaloid bằng

phương pháp đo acid phải căn cứ vào độ kiềm để lựa chọn chỉ thị màu cho thích hợp.

- Tác dụng với các acid, alcaloid cho muối tương ứng.

- Alcaloid kết hợp với kim loại nặng (Hg, Bi, Pt) tạo muối phức.

- Các alcaloid cho phản ứng với một số thuốc thử gọi là thuốc thử chung của

alcaloid. Nhưng phản ứng chung này chia làm 2 loại.

a. Phản ứng tạo tủa

Có 2 nhóm thuốc thử tạo tủa với alcaloid

Nhóm thuốc thử thứ nhất tạo tủa ít tan trong nước

Có nhiều thuốc thử tạo tủa với alcaloid.

115

+ Thuốc thử Mayer (K2HgI4 - kalitetraiodmercurat) cho tủa trắng hay vàng nhạt

+ Thuốc thử Bouchardat (iodo - iodid) cho tủa nâu.

+ Thuốc thử Dragendorff (KBiI4 - kalitetraiodobismutat (III)) cho tủa vàng cam

đến đỏ.

Và còn nhiều loại thuốc thử khác.

Phản ứng tạo tủa rất nhạy với từng loại alcaloid khác nhau, có độ nhạy khác

nhau.

Ví dụ: thuốc thử Mayer xuất hiện tủa với morphin, khi pha loãng 1/2.700 song

với quinin ở độ pha loãng 1/125.000.

Trong phân tích alcaloid một số thuốc thử tạo tủa còn được dùng với mục đích

khác nhau như thuốc thử Dragendorff còn dùng phun hiện màu trong sắc ký giấy và

sắc ký lớp mỏng ...

Nhóm thuốc thử thứ 2 cho kết tủa ở dạng tinh thể.

+ Dung dịch vàng clorid

+ Dung dịch platin clorid

+ Dung dịch nước bão hoà acid picric

+ Acid picrolonic

+ Acid styphnic

Người ta đo điểm chảy của các hợp chất này để xác định các alcaloid.

b. Phản ứng tạo màu:

Có một số thuốc thử tác dụng với alcaloid cho màu khác nhau do đó dùng phản

ứng tạo màu để xác định alcaloid.

Phản ứng tạo tủa cho ta biết có alcaloid hay không, phản ứng tạo màu cho ta

biết có alcaloid gì trong đó.

Thuốc thử tạo màu thường là những hợp chất hữu cơ hoặc vô cơ hoà trong

H2SO4 đậm đặc.

Những thuốc thử tạo màu quan trọng là:

Acid sulfuric đậm đặc (d= 1,84)

Acid nitric đậm đặc (d= 1,4)

Thuốc thử Frohde (acid sulfonitric)

+ Thuốc thử Maquis (sulfoformol)

Trong dịch chiết có nhiều alcaloid còn lẫn tạp chất khác thì phản ứng lên màu

không thật rõ bằng các alcaloid tinh khiết. Do đó để kết luận chắc chắn người ta

thường dùng phản ứng màu kết hợp với phản ứng sắc ký lớp mỏng có alcaloid tinh

khiết làm chất chuẩn so sánh.

(Phần bảng phản ứng tạo màu của alcaloid với thuốc thử cụ thể ở trang sau)

116

Phản ứng màu của Alcaloid với thuốc thử tạo màu

Alcaloid H2SO4 đặc HNO3 đặcT.T Ecman

(erdman)T.T Frôt(frohde)

T.T mandelinT.T vadiki(wasisky)

T.T Mácki(marquis)

T.T Mecke(merke)

Hyoxyamin(atropin)

Không màu Không màu Không màu Không màu Không màuĐun nóng có màu đỏ tím

Không màu Không màu

Strychnin Không màu Vàng Không màu Không màuTím xanh sau chuyển -> đỏ

Không màu Không màu Không màu

Brucin KhôngĐỏ máu chuyển dần xang vàng

Vàng cam chuyển-> vàng

Đỏ sau vàng cam -> vàng

Vàng cam Không màu Không màu Vàng cam

Berberin Vàng Nâu đỏ Nâu Xanh nâuNâu chuyển -> nâu đỏ

Không Xanh Nâu xanh

Codein Không Nâu nhạtXanh bẩn chuyển -> nâu nhạt

Xanh Tím xanh bẩnĐun nóng nhẹ có màu đỏ sáng

Không màuXanh sau chuyển sang ngọc bích

Morphin KhôngVàng cam -> vàng

Nâu xỉn Tím đỏ TímĐun nóng nhẹ đỏ sáng

Tím đỏXanh sau -> xanhnâu

Papaverin Không màu Vàng nhạt Vàng nhạtXanh tím sau -> vàng

Xanh nâu sau ->xanh

Đun nóng nhẹ có màu vàng

Đỏ vàng chuyển-> vàng cam

Xanh nâu chuyển đỏ, đun nhẹ tím đen

Narcotin(= Noscapin)

Vàng bẩn, đunnóng -> tím

Vàng Đỏ cam -> đỏ Xanh nâu Nâu đỏĐun nóng có màu vàng

Tím chuyển nhanh -> vàng

Xanh -> đỏ

Cafein Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu

Colchicin Vàng Tím Vàng nâu -> vàng VàngXanh -> nâu -> vàng

Đun nóng nhẹ vàng cam

Vàng Vàng sáng

HydrastinKhông màu đun nóng -> tím

VàngVàng cam -> nâu,đun nóng -> đỏ nâu

Xanh Đỏ cam Không màu Vàng yến Vàng sáng

Quinin Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màu Không màuGhi chú: Bảng này đưa vào bài đại cương phần 5 tính chất chung của alcaloid.

117

6. Chiết xuất, tinh chế và phân lập

6.1. Chiết xuất

Chiết xuất alcaloid dựa vào tính chất chung sau:

- Alcaloid nói chung là những base yếu thường tồn tại trong cây dưới dạng muối

của acid hữu cơ hoặc vô cơ, đôi khi ở dạng kết hợp với tanin nên phải tán nhỏ dược liệu

để dễ thấm với dịch chiết và giải phóng alcaloid khỏi muối của nó bằng kiềm trung bình

hay kiềm mạnh.

- Hầu hết các alcaloid base không tan trong nước song dễ tan trong dung môi hữu

cơ ít phân cực (hydrocarbon thơm, cloroform, ether). Trái lại các muối alcaloid thường

tan trong nước, cồn và không tan trong các dung môi ít phân cực. Mặt khác còn tuỳ theo

tính chất của alcaloid như loại bay hơi hoặc không bay hơi mà dùng phương pháp chiết

xuất cho phù hợp. (Các phương pháp chiết xuất alcaloid có thể đọc thêm trong tài liệu

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, DĐVN II…)

6.2. Tinh chế và phân lập

Sau khi chiết xuất ít khi thu được alcaloid tinh khiết mà thường thu được hỗn hợp

các alcaloid có lẫn tạp chất.

Nếu chỉ có 1 alcaloid thô thì có thể tinh chế bằng cách chuyển nó nhiều lần từ dung

môi hữu cơ sang dung môi nước và ngược lại, cuối cùng làm bốc hơi dung môi ta được

một alcaloid tinh khiết.

Nếu hỗn hợp nhiều alcaloid, để tinh chế và phân lập riêng từng alcaloid trước đây

thường dùng phương pháp kết tinh phân đoạn bằng dung môi; ngày nay có thể sử dụng

thêm một số phương pháp khác: như phương pháp trao đổi ion, phương pháp sắc ký cột.

7. Định tính alcaloid

7.1. Định tính trên tiêu bản thực vật

Muốn xác định xem trên tiêu bản thực vật có alcaloid hay không và ở vị trí nào ta

thường dùng thuốc thử Bouchardat. Vì protid cũng có thể cho tủa với thuốc thử này, do

đó để kết luận chắc chắn người ta làm 2 tiêu bản; 1 tiêu bản ngay sau khi mới cắt, nhỏ 1

giọt thuốc thử Bouchardat đợi 1 lúc rồi soi trên kính hiển vi thấy kết tủa màu nâu.

- Tiêu bản thứ 2 đem ngâm vào rượu tartric đặt lên phiến kính rồi nhỏ 1 giọt thuốc

thử Bouchardat, để một lúc đem soi. Nếu tế bào có chứa alcaloid thì alcaloid được hoà tan

trong rượu và trên vi phẫu không quan sát thấy tủa nâu, trái lại nếu vẫn thấy tủa phải nghĩ

đến tủa của protid.

Có thể dùng phản ứng đặc hiệu để xác định alcaloid, song các thuốc thử có độ acid

cao dễ phá huỷ tế bào làm cho việc xác định vị trí alcaloid khó khăn.

7.2. Định tính trong dược liệu và trong các chế phẩm118

Muốn định tính phải chiết alcaloid và loại những chất kèm theo gây trở ngại cho

các phản ứng, sau đó làm phản ứng tạo tủa để xác định xem có alcaloid hay không.

Muốn xác định xem đó là alcaloid gì thì phải làm phản ứng tạo màu đặc hiệu, ngày

nay thường kết hợp với phương pháp sắc ký nhất là sắc ký lớp mỏng có alcaloid tinh khiết

làm chuẩn so sánh.

8. Định lượng alcaloid

Người ta có thể định lượng toàn bộ alcaloid hay chỉ một hoặc vài alcaloid là hoạt

chất trong dược liệu. Có nhiều phương pháp định lượng như phương pháp cân, phương

pháp đo acid, phương pháp so màu, phương pháp đo màu bằng quang phổ tử ngoại,

phương pháp cực phổ, phương pháp sinh vật.

Nói chung các phương pháp gồm hai giai đoạn chính:

+ Lấy riêng alcaloid ra khỏi dược liệu: có thể làm theo nhiều cách khác nhau

nhưng việc chiết xuất phải có tính chất định lượng và đảm bảo ở từng giai đoạn là hoàn

toàn xong.

+ Định lượng tuỳ theo tính chất của alcaloid mà lựa chọn phương pháp cho thích

hợp.

Ví dụ: định lượng bằng phương pháp cân, phương pháp trung tính, phương pháp

môi trường khan, phương pháp so màu...

9. Cấu tạo hoá học và phân loại

Alcaloid là những base bậc 1, bậc 2, bậc 3, đôi khi là các amoni hydrat bậc 4. Hầu

hết có nitơ tham gia vào nhân dị vòng song cũng có alcaloid mà nitơ ở ngoài vòng.

Người ta thường diễn tả alcaloid được tạo nên từ acid amin và nitơ nằm trong dị

vòng là "alcaloid thật" và gọi những chất được tạo ra từ acid amin có nitơ ở mạch thẳng là

"proto alcaloid", còn "pseudo alcaloid " là những chất được tạo ra do sự ngưng tụ

amoniac với những hợp chất không có nitơ.

Alcaloid thường được phân loại tuỳ theo cấu trúc của nhân.

9.1. Alcaloid không có nhân dị vòng

Alcaloid thuộc nhóm này, có nitơ thuộc ở mạch thẳng còn gọi là "proto alcaloid"

như Ephedrin (C10H15NO) trong cây ma hoàng, colchicin (C22H23NO6) trong hạt tỏi độc,

capsaicin trong ớt.

119

Capsaicin

9.2. Alcaloid có nhân dị vòng

Các alcaloid loại này có thể có 1 vòng hay nhiều vòng. Nhờ sự tiến bộ của khoa

học việc xác định cấu trúc hoá học các năm gần đây cho phép ta hiểu biết thêm nhiều

alcaloid mới và việc phân loại chúng được bổ sung. Người ta chia nó ra làm nhiều nhóm.

a. Alcaloid là dẫn xuất của nhân pyrryol hoặc pyrrolidin.

Ví dụ: Hygrin (C8H15NO) trong lá coca.

Pyrrol Pyrrolidin Hygrin

b. Alcaloid là dẫn xuất của nhân pyridin hoặc piperidin.

Ví dụ: Nicotin (C10H14N2) trong thuốc lá.

Arecolin (C8H13NO2) trong hạt cau.

Arecaidin (C7H11NO2) trong hạt cau.

Pyridin Piperidin

c. Alcaloid là dẫn xuất của nhân Tropan (piperidin + N - Metylpyrolidin)

Tropan

Ví dụ: Scopolamin (C17H21NO4) trong cà độc dược.

120

Cocain (C17H21NO4) trong lá coca.

d. Alcaloid là dẫn xuất của nhân quinolin.

Quinolin

Ví dụ: Quinin (C20H24N2O2).

Quinidin (C20H24N2O2). Trong vỏ canh kina

Cinchonin (C19H22N2O2).

e. Alcaloid là dẫn xuất của nhân Isoquinolin.

Nhóm này có nhiều alcaloid được sử dụng trong điều trị có thể chia ra làm 9 phân

nhóm.

- Cấu trúc tetra hydro isoquinolin. (1)

Ví dụ: anhalinin (C12H17NO3) trong anhalininm lewinii.

- Cấu trúc benzyl isoquinolin. (2)

Ví dụ: papaverin trong nhựa thuốc phiện.

- Cấu trúc ptalid isoquinolin. (3)

Ví dụ: noscapin trong nhựa thuốc phiện.

- Cấu trúc proto berberin. (4)

Ví dụ: berberin trong cây hoàng liên.

- Cấu trúc protopin.(5)

Ví dụ: propin trong thuốc phiện.

- Cấu trúc aporphin. (6)

Ví dụ: roemerin trong củ bình vôi.

- Cấu trúc morphinan. (7)

Ví dụ: morphin, codein trong nhựa thuốc phiện.

- Cấu trúc Benzophenanthridin. (8)

Ví dụ: chelidonin trong chelidoniummafus.

- Cấu trúc emetin.

Ví dụ: emetin trong ipeca.

121

Cụ thể 9 nhóm điển hình:

Kiểu Tetrahydroisoquinolin Kiểu Benzylisoquinolin

Kiểu morphinan Kiểu ptalidin-isoquinolin

Kiểu protoberberin Kiểu protopin

Kiểu benzophenanthridin Kiểu aporphin

Kiểu Emetin

122

f. Alcaloid là dẫn xuất quinolizidin.

Quinolizidin

Ví dụ: spactein (C15H26N2) trong sarothamnus scoparius.

g. Alcaloid là dẫn xuất của nhân indol

Đây là nhóm rất quan trọng. Nhiều alcaloid trong nhóm này được sử dụng điều trị

và được chia thành 6 phân nhóm:

- Cấu trúc indolalkylamin.

Ví dụ: gramin, psilocybin.

- Cấu trúc physostigmin.

Ví dụ: physostigmin.

- Cấu trúc -carbolin.

Ví dụ: các alcaloid của Rauwvolfia.

- Cấu trúc Ergolin.

Ví dụ: alcaloid của nấm cựa khoả mạch.

- Cấu trúc strychnin.

Ví dụ: alcaloid ở chi Strychnos.

- Ngoài ra còn những alcaloid ở chi Catharanthus có nhân indol có cấu trúc phức

tạp.

Các kiểu cấu trúc cụ thể:

Kiểu indolalkylamin Kiểu physostigmin

Kiểu egolin Kiểu -carbolin

123

Kiểu strychnin

h.Alcaloid là dẫn xuất của nhân imidazol.

Imidazol

Ví dụ: pilocarpin (C11H16N2O2) trong pilocarpus jaboranidi.

j. Alcaloid là dẫn xuất của nhân purin (= imidazol + pirimidin)

Purin

Ví dụ: cafein [C5H2(CH3)N4O2] trong chè, cà phê.

k. Alcaloid là dẫn xuất của nhân quinazolin

Quinazolin

Ví dụ: - dichroin, - dichroin trong cây thường sơn

l. Alcaloid là dẫn xuất của nhân acridin

Acridin

Ví dụ: rutacridon, arborinin trong Ruta graveolens

124

m. Alcaloid là dẫn xuất của nhân pyrrolizidin

Pyrrolizidin

Ví dụ: indicin-N-oxyd trong cây Heliotropium indicum L.

9.3. Alcaloid có nhân steroid

Các alcaloid steroid có trong khung xyclopentanoperhydrophenantren và có 1

hoặc 2 nitơ trong mạch nhánh đã đóng vòng ở vị trí C-17 hoặc vị trí C-3 chúng là dẫn chất

của dãy cholestan (khung có 27C) hoặc là dẫn chất của dãy pregnan (khung có 21C, hiếm

có 22C hoặc 23C)

Hiện nay có trên 100 alcaloid - steroid có cấu trúc khác nhau thường tập trung ở họ

Cà (Solanaceae), họ Hành (Liliaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae)…

9.4. Alcaloid có cấu trúc terpen

Hiện nay người ta thấy ít alcaloid có cấu tạo monoterpen và sesquiterpen, cấu tạo

diterpen có nhiều hơn đặc biệt ở chi Aconitum (ví dụ: aconitin trong Ô đầu)

Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác như phân loại alcaloid theo họ thực

vật ... hoặc phân loại alcaloid theo nguồn gốc phát sinh sinh vật của alcaloid.

10. Tầm quan trọng của alcaloid trong dược liệu

Alcaloid là những chất có hoạt tính sinh học, có nhiều chất rất độc, tác dụng của

alcaloid thường khác nhau và tác dụng của dược liệu không phải bao giờ cũng giống như

các alcaloid tinh khiết được được phân lập.

Nhiều alcaloid có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương gây ức chế như morphin,

codein, reserpin hoặc gây kích thích như strychnin, cafein, lobelin.

Nhiều chất tác dụng lên hệ thần kinh giao cảm gây kích thích như ephedrin, làm

liệt giao cảm như ergotamin hoặc kích thích phó giao cảm như pilocarpin, eserin; có chất

gây liệt phó giao cảm như atropin, có chất phong bế hạch giao cảm như nicotin, spartein.

Trong alcaloid có chất gây tê tại chỗ như cocain, có chất làm giãn cơ trơn chống co

thắt như papaverin.

Có alcaloid làm tăng huyết áp như ephedrin, hydrastin, có chất làm hạ huyết áp

như reserpin của cây ba gạc.

Có alcaloid có tác dụng diệt kí sinh trùng như quinin đối với kí sinh trùng sốt rét,

emetin và conexin đối với amip dùng chữa lỵ amip; arecolin, isopelletierin dùng để trị

sán.

Trên thế giới hiện nay dùng nhiều thuốc tổng hợp song vẫn phải dùng đến alcaloid

lấy từ cây cỏ vì có chất chưa tổng hợp được và có nhiều chất tổng hợp được song giá125

thành quá đắt không phù hợp hoặc tác dụng của chất tổng hợp không hiệu quả bằng chất

lấy từ cây cỏ do đó alcaloid lấy từ thiên nhiên vẫn được sử dụng nhiều.

II. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID KHÔNG CÓ NHÂN DỊ VÒNG

MA HOÀNG

Có nhiều loài ma hoàng chủ yếu là loài thảo ma hoàng - Ephedra sinica stapf.

Mộc tắc ma hoàng Ephedra equisetina Bunge .

Trung gian ma hoàng Ephedra intermedia schrenk et C.A.Mayer đều thuộc họ ma

hoàng Ephedraceae.

Đặc điểm thực vật

- Thảo ma hoàng (Ephedra sinica Stapf.) còn gọi là xuyên ma hoàng.

Cây thảo, sống lâu năm cao 20-40cm. Thân hoá gỗ, hình trụ, ít phân nhánh, có

nhiều đốt, mỗi đốt đài 2,5-3cm, trên có nhiều rãnh nhỏ (18-20 rãnh) lá mọc đối, ít khi mọc

vòng 3 lá một, lá mỏng dài 3-4mm, mọc dính với nhau ở phía dưới, đầu lá nhọn và cong.

Lá thường thoái hoá thành vảy.

Hoa đực, hoa cái khác cành, cành hoa đực nhiều hoa hơn 4-5 đôi.

Quả thịt, khi chín có màu đỏ

Trong có 2 hạt, hạt hơi thò ra ngoài. Nở hoa vào tháng 5, quả khi chín vào tháng 7.

- Mộc tặc ma hoàng (Ephedra eqnuisetina Bunge.) còn gọi là Mộc ma hoàng, hay

Sơn ma hoàng, cũng là loại cây nhỏ, thân hoá gỗ,

mọc thẳng đứng, cao tới 2 mét cành nhỏ phân nhánh

nhiều, màu xanh xám, đốt ngắn hơn có 13-14 rãnh

dọc thường chỉ dài 1-3cm. Lá hình tam giác ngắn 1-

2mm, đầu lá không cuộn lại.

Hoa đực và hoa cái khác cành. Quả thịt hình

cầu. Hạt không thò ra như thảo ma hoàng.

- Trung gian ma hoàng (Ephedra intermedia

Schrenk. et C. A. Mayer.)

Cây nhỏ có đốt dài 2-6cm có 18-28 rãnh dọc,

lá dài 2-3mm ngọn lá nhọn.

Phân bố và trồng hái

Ma hoàng chưa thấy mọc hoang và trồng ở

nước ta, thường mọc ở châu Âu, châu Á và châu Mĩ, Hình 9.1. Ma hoàng

châu Phi.

126

Ở châu Á ma hoàng có nhiều hoạt chất hơn nên được thế giới công nhận dùng làm

thuốc có nhiều nhất ở Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Ephedrin là hoạt chất của ma hoàng

được tổng hợp song tác dụng kém hơn ephedrin chiết từ cây ma hoàng.

Hiện nay nhu cầu dùng ephedrin ngày một cao cho nên ngoài việc thu hồi cây mọc

hoang người ta còn trồng ở nhiều nơi (thường trồng bằng hạt). Ma hoàng thường thu hái

vào mùa thu (hoạt chất trong cây thường cao hơn các mùa khác), khi thu hái bỏ các mấu

và quả.

Bộ phận dùng và chế biến

Dùng bộ phận trên mặt đất của cây (Herba Ephedra), đôi khi dùng cả rễ (Radix

Ephedra), gọi là ma hoàng căn, thu hái vào mùa thu, đem phơi cho khô.

Thân hình trụ, dẹt, dài 5-25cm đường kính 1-3mm, đôi khi phân nhánh, mặt ngoài

màu vàng lục đến vàng bẩn có nhiều rãnh dọc, chia thành đốt rõ rệt, mỗi mấu mang 1-3 lá

mọc cách, mọc đối hoặc mọc vòng.

Gióng dài 2-6cm giòn, dễ gãy, vết gãy hơi có xơ, giữa có màu đỏ nâu, mùi nhẹ vị

hơi đắng.

Thành phần hoá học

Trong ma hoàng thành phần chủ yếu của alcaloid là L-Ephedrin ngoài ra còn có D-

Ephedrin và một số alcaloid khác.

Hàm lượng alcaloid phụ thuộc vào loài, tuổi của cây và thời gian thu hái.

Ngoài alcaloid, ma hoàng còn có tanin, flavonoid, tinh dầu, acid hữu cơ.

Công dụng và liều lượng

Trong y học cổ truyền dùng ma hoàng chữa bệnh: sốt không ra mồ hôi, viêm phế

quản, viêm phổi, hen suyễn, ho có nhiều đờm, viêm thận và có tác dụng lợi tiểu.

Liều 5-10g dạng thuốc sắc và phối hợp với thuốc khác.

Tây y dùng Ephedrin ở dạng muối hydroclorid hay sulfat dùng riêng hay phối hợp

với Aspirin, cafein, papaverin.

Dùng chữa hen liều tối đa 0,05g Ephedrin hydroclorid trong 1 lần 0,15g trong 24

giờ, dạng viên 0,01g/viên.

Chữa sổ mũi dùng dung dịch 1-3% Ephedrin hydroclorid hoà trong nước làm thuốc

nhỏ mũi, mỗi lần nhỏ 1-2g.

Chú ý: ma hoàng không dùng cho người đau tim, người ra mồ hôi nhiều, cẩn thận

với người cao huyết áp.

Ngoài ra rễ ma hoàng dùng để giảm mồ hôi với người ra mồ hôi trộm.

Ephedrin có thể bán tổng hợp thành methamphetamin là chất gây kích thích mạnh

thần kinh trung ương gây nghiện và bị cấm.

127

ỚT

Capsicum annum L.

họ Cà - Solanaceae

Đặc điểm thực vật

Cây nhỡ thuộc thảo, mọc hàng năm ở vùng ôn đới, sống lâu năm. Phần thân phía

dưới hoá gỗ ở vùng nhiệt đới. Cây có nhiều cành nhẵn. Lá mọc so le, đầu nhọn. Hoa màu

trắng mọc đơn độc ở kẽ lá ra hoa gần như quanh năm, song nhiều nhất vào tháng 5 đến

tháng 6. Quả mọc rủ xuống hoặc quay lên trời (chỉ thiên).

Hình dáng quả thay đổi có thể tròn, có thể dài, khi chín có màu đỏ, màu vàng hay

tím. Trong chứa nhiều hạt dẹt trắng.

Phân bố và trồng hái

Ớt được trồng khắp mọi nơi ở nước ta. Trên thế giới nhiều nước trồng để xuất khẩu

như Nhật, Ấn Độ, Nam Phi, Ý, Pháp...

Bộ phận dùng và chế biến

- Quả (Fructus Capsaici) dùng tươi hoặc phơi sấy khô.

- Lá thường dùng tươi.

Thành phần hoá học

Trong quả ớt có 0,04 - 1,5% dẫn chất Benzylamin vị cay trong đó thành phần

chính là: capsaixin (chiếm 70%), phần lớn tập trung ở biểu bì giá noãn.

Khi tán bột giá noãn nhỏ 1 giọt nước lên rồi soi kính sẽ thấy các tinh thể hình

vuông của capsaixin vị rất cay.

Ngoài ra còn có một số chất khác như:

- Dihydro capsaixin (khoảng 20%).

- Nordihydro capsaixin (7%).

- Homocapsaixin, homodihydro capsaixin.

Các chất carotenoid: chất chính là capsanthin

có màu đỏ, ngoài ra còn có: capsorubin, lutein, và

caroten.

Capsicosid là một saponin có tác dụng kháng

khuẩn.

Vitamin C tỷ lệ 0,8 - 1,8% trong ớt của ta

(theo bộ môn Dược liệu định lượng năm 1957).

Chất đường có tới 7%.

Hình 9.2. Ớt

Ngoài ra còn có Acid hữu cơ như Acid citric, acid malic...

Tác dụng dược lý128

Chất có tác dụng trong ớt là capsaicin có tác dụng tại chỗ trên niêm mạc và trên da

cảm giác nóng mạnh, có thể tăng đến cảm giác cháy rát, nó gây đỏ mà không phồng da.

Cảm giác nóng xảy ra do kích thích đặc hiệu của sự tiếp nhận và còn do tụ máu ở trên da

bệnh nhân.

Bột ớt gây hắt hơi rất mạnh, nhất là khi đốt khói ớt.

Công dụng

Ngoài công dụng làm gia vị ớt còn dùng làm thuốc giúp tiêu hoá, ăn ngon, chóng

tiêu.

Ớt hoặc capsaixin dùng ngoài làm giảm đau các bệnh đau khớp, đau dây thần kinh

dùng dưới dạng cồn, băng dán, thuốc mỡ; dùng riêng hoặc phối hợp với thuốc khác.

- Liều dùng:

Dùng trong 0,1 - 0,3g bột hoặc 0,05 - 0,5g cồn ớt chia 3 lần uống trong ngày.

Dùng ngoài tuỳ theo chỗ đau.

- Lá ớt dùng tươi chữa mụn nhọt, rắn rết cắn.

TỎI ĐỘC

Colchicum antumnale L.

họ Hành - Liliaceae

Đặc điểm thực vật

Tỏi độc là cây thân thảo, sống lâu năm, do một dò to mầm dài 3-4cm, đường kính

2-3cm mọc sâu dưới đất, ngoài có phủ các vảy

màu nâu là gốc những lá cũ khô đi.

Từ dò mọc lên cán hoa với 3-4 hoa, nở vào

mùa thu, hoa có hình ống dài, cao vượt trên mặt

đất khoảng 10-15cm, phần ống loe thành hình

chuông với 6 cánh hình bầu dục, màu tím hồng

nhạt, có 6 nhị, 3 nhị trong ngắn.

Lá to dài đầu lá hẹp, nhọn.

Quả nang.

Phân bố, trồng hái

Tỏi độc mọc hoang trên đồng cỏ nam châu

Âu, có một số nước trồng như Rumani, Hungari.

Có thể trồng bằng hạt hay bằng dò.

Hình 9.3. Tỏi độc

129

Bộ phận dùng và thành phần hoá học và chế biến

Hạt chín (Semen Colchini), khi quả chín có màu nâu người ta cắt về phơi khô, quả

sẽ cho hạt rơi ra ngoài, lấy riêng hạt phơi thật khô.

Trong hạt tỏi độc có chứa alcaloid chính là: colchicin (0,2-0,6%) tập trung ở tế bào

vỏ hạt. Hiện nay đã phân lập trên 20 alcaloid phụ trong đó có demecolcin là chất có phản

ứng kiềm.

Trong hạt còn có dầu béo (17%), acidbenzoic, phytosterol, đường (5%) tanin. Trong

dò tỏi độc còn có tinh bột, đường, gôm, tanin, nhựa, hàm lượng alcaloid trong dò thấp hơn

trong hạt dưới 0,2%.

Tác dụng và công dụng

Colchicin là chất rất độc với động vật máu nóng (gây ỉa chảy, hạ huyết áp, liệt thần

kinh trung ương) xuất hiện sau vài giờ.

Liều chết với colchicin là 0,02 5g hạt, 50g cồn hạt 1/10, chết do ngạt thở.

Trong điều trị: dùng colchicin chữa gút (bệnh thống phong), đặc biệt trong trường

hợp cấp tính. Có thể nó tham gia vào sự biến đổi chất có nhân purin ngăn cản hoặc loại

trừ tích luỹ acid uric ở khớp xương.

Liều dùng 0,5mg x 4 lần/ 24 giờ (dùng kéo dài tối đa 3 ngày trong 1 đợt điều trị).

Do có tác dụng với hiện tượng phân bào nên colchicin dùng chữa bệnh bạch cầu và

bệnh lymphô bào ác tính. Demecolcin ít độc hơn colchicin 30-40 lần nên người ta hay

dùng hơn.

Tỏi độc được dùng dưới dạng cồn hạt 1/10 với liều 1,5g/lần, 3g/24 giờ.

Cao cồn nước với liều 0,05g/lần, 0,2g/24 giờ để chữa thống phong. Khi dùng thấy

hiện tượng ỉa lỏng phải ngừng thuốc. Thường 1 đợt điều trị dùng 4-5 ngày; không nên

dùng lâu sợ bị ngộ độc.

ÍCH MẪU

Ở nước ta hiện nay có 2 loại ích mẫu:

- Leonurus artemisia (Lour) S.Y.Hu.

- Leonurus sibiricus L.

họ Hoa môi - Lamiaceae

Đặc điểm thực vật

Leonurus artemisia là cây thảo, sống hàng năm hay 2 năm, cao 0,5-1m. Thân có

thiết diện vuông, mọc đứng, có nhiều rãnh dọc và lông mịn, ruột xốp.

Lá mọc đối; lá gốc gần như tròn, có răng cưa nông, hai mặt có lông mềm như

nhung; lá ở giữa dài xẻ sâu thành thuỳ hẹp, không đều, các thuỳ có răng cưa nhọn; lá ở

ngọn ngắn ít xẻ hoặc nguyên.130

Cụm hoa mọc thành vòng dày đặc ở kẽ lá đường kính 2-2,5cm, đài hoa dài 5-6mm

hình chuông, có 5 răng nhọn có lông, tràng hoa dài 1cm có màu trắng hồng hay tím hồng

mặt ngoài có lông, môi trên hình trứng, hơi cong, môi dưới dài bằng môi trên song hơi

hẹp, chia 3 thuỳ, có 4 nhị đính vào giữa ống tràng.

Quả bế, có 3 cạnh khi chín màu sẫm.

Ra hoa vào tháng 3 đến tháng 5, quả chín vào tháng 6 đến tháng 7.

- Leonurus sibiricus L.

Loài này có đặc điểm khác loài trên là cây nhỏ

hơn, cao 0,2 - 0,8m phiến lá giữa xẻ rất sâu, sát tận gân

lá, lá ở ngọn xẻ 3 thuỳ, thuỳ giữa lại xẻ 3 thuỳ nữa.

Cụm hoa có đường kính 3-3,5cm; hoa có môi

dưới hơi ngắn bằng 3/4 môi trên.

Phân bố, trồng trọt

Ở Việt Nam ích mẫu mọc hoang trên những vùng

đất ẩm ven sông, chủ yếu ở đồng bằng trung du Bắc Bộ.

Vùng núi thấp cũng có ích mẫu song ở độ cao 1500m trở

lên gần như không gặp.

Trồng bằng cách gieo hạt vào tháng 10 trên luống

rộng 1m, cao 20-25cm, mật độ 25-30cm một cây. Ích

Hình 9.4. Ích mẫu

mẫu ưa sáng và ẩm. Cây sinh trưởng nhanh trong mùa hè và lụi vào khoảng giữa thu, cây

có khả năng tái sinh mạnh khi cây bị cắt sát gốc.

Bộ phận dùng, thu hái

Dùng phần trên mặt đất có nhiều lá (Herba Leonuri) gọi là ích mẫu thảo. Ích mẫu

thu hoạch vào mùa hè, khi hoa chớm nở cắt cây về rũ sạch đất cát phơi sấy khô.

Quả ích mẫu (Fructus Leonuri) thường gọi là hạt, hay sung uý tử. Quả (sung uý tử)

thu hái vào mùa thu khi quả chín, cắt cả cây phơi khô đập và rũ lấy quả (thường gọi là

hạt), quả màu nâu bóng dài 1-2mm.

Thành phần hoá học

Trong lá cây ích mẫu có chứa alcaloid (leonurinin, leonuridin, leonuri), tanin, chất

đắng, saponin, flavonoid (rutin), tinh dầu. (Những chất trên chủ yếu có trong cây

Leonurus sibiricus).

Tác dụng và công dụng

131

Ích mẫu đã được sử dụng làm thuốc từ lâu đời nhất là với phụ nữ sau khi sinh,

chữa rong huyết, tử cung co hồi không tốt, rối loạn kinh nguyệt, khí hư bạch đới quá

nhiều. Ngoài ra ích mẫu còn dùng chữa cao huyết áp, viêm thận và làm thuốc bổ huyết.

Quả ích mẫu dùng làm thuốc thông tiểu, chữa phù thũng, suy thận, mắt mờ.

Liều dùng: ích mẫu thảo 10-12g/ngày, dạng thuốc sắc hoặc cao thuốc.

Quả ích mẫu dùng 6-12g/ngày dạng thuốc sắc.

III. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN PIRIDIN VÀ PIPERIDIN

HỒ TIÊU

Piper nigrum L. họ Hồ tiêu - Piperaceae

Tên khác còn gọi là hạt tiêu, hay cổ nguyệt

Đặc điểm thực vật

Hồ tiêu là loại cây leo, thân dài, nhẵn bám vào các cây tựa bằng rễ, lá mọc cách,

giống lá trầu không song dài và thuôn hơn.

Có 2 loại nhánh, một loại mang quả và

một loại nhánh dinh dưỡng, cả 2 loại nhánh đều

xuất phát từ kẽ lá, cụm hoa hình đuôi sóc mọc

đối với lá, khi chín rụng cả chùm.

Quả hình cầu nhỏ, có 20-30 quả trên 1

chùm, lúc đầu màu xanh lục sau có màu đỏ khi

chín màu vàng.

Phân bố, trồng hái, chế biến

Hồ tiêu trồng ở vùng nhiệt đới, nơi cung

cấp nhiều hồ tiêu là ấn Độ, Indonesia, Malayxia,

Campuchia, Braxin.

Việt Nam trồng nhiều ở Phú Quốc, Minh

Hải, Kiên Giang, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hàng

năm Việt Nam xuất khẩu 4.000-5.000 tấn.

Có 2 loại hồ tiêu đen và hồ tiêu trắng.

Muốn có hồ tiêu đen, thu hái lúc thấy có

1 vài quả đỏ hay vàng trên chùm quả có nghĩa

Hình 9.5. Hồ tiêu

là đa số còn xanh. Quả non chưa có sọ khi phơi khô sẽ giòn dễ vỡ vụn còn quả già

khi phơi khô sẽ dăn deo lại có màu đen do đó gọi là hồ tiêu đen.132

Muốn có hồ tiêu trắng phải hái lúc quả thật chín, loại vỏ ngoài bằng cách chà xát

loại hết vỏ đen rồi phơi khô. Loại này có màu trắng ngà, ít nhăn nheo hơn, ít thơm (vì lớp

vỏ ngoài chứa nhiều tinh dầu đã bị loại), song cay hơn.

Bộ phận dùng

- Quả xanh còn vỏ ngoài:

Hồ tiêu đen (Fructus Piperis).

- Quả chín đã loại vỏ ngoài:

Hồ tiêu sọ (hồ tiêu trắng) (Fructus Piperis).

Hồ tiêu đen là quả mọng khô hình cầu, đường kính 4-5mm, màu đen nhạt hay xám

thẫm, nhăn nheo, có sẹo cuống, trên có điểm hơi nổi vết tích của vòi đã rụng.

Hồ tiêu sọ trông ít nhăn nheo hơn màu trắng ngà, cắt dọc thấy lớp vỏ trong và hạt.

Thành phần hoá học

Trong hồ tiêu có:

- Tinh dầu: 1,2-3,5% trong hồ tiêu đen, 1,2-2,5% trong hồ tiêu trắng màu vàng nhạt

hay lục nhạt, có mùi thơm. Thành phần chính của tinh dầu là và pinen, sabinen.

- Alcaloid 2-5% trong đó chủ yếu là:

Piperin (chiếm 90-95%) có vị cay.

Piperin khi thuỷ phân cho piperidin và acid piperic (C12H10O4).

Chavicin là đồng phân (dạng cis-cis) của piperin cũng có vị cay khi thuỷ phân cũng

cho piperidin và acid chavicic (C12H10O4).

Ngoài ra còn 1 lượng nhỏ các chất piperettin, piperylin, piperolein A, B ít cay hơn.

- Trong hồ tiêu còn có cubelin không có vị cay, chất béo và tinh bột.

Tác dụng và công dụng

Hồ tiêu với liều nhỏ có tác dụng tăng dịch vị, dịch tuỵ, kích thích tiêu hoá, làm ăn

ngon; liều cao kích thích niêm mạc dạ dày, gây xung huyết và viêm cục bộ gây sốt, viêm

đường tiết niệu, đái ra máu.

Ngoài công dụng làm gia vị, hồ tiêu làm thuốc kích thích tiêu hoá, giảm đau (chữa

đau răng), chữa đau bụng, ỉa lỏng, cảm lạnh.

Ngày dùng 1-3g dưới dạng bột hay thuốc viên thường phối hợp với thuốc khác.

Hồ tiêu còn có tác dụng sát khuẩn, diệt ký sinh trùng do đó còn dùng hồ tiêu bảo

quản quần áo len, dạ.

LỰU

Punica granatum L. họ Lựu - Punicaceae

Lựu còn gọi là thạch lựu, bạch lựu, tháp lựu133

Đặc điểm thực vật

Cây lựu thân gỗ, cao chừng 3-4m. Cây nhỏ, cành mềm, có khi có gai. Lá dài, nhỏ,

đơn, nguyên, cuống ngắn, mọc đối hoặc so le.

Hoa hình cái loa 5 cánh màu đỏ, hoặc trắng; mọc riêng rẽ hoặc thành xim có 3 hoa,

hoa có cuống ngắn, đế hoa hình chuông mang 4-8 lá đài màu đỏ, cánh hoa bằng số lá đài,

xếp xen kẽ nhau.

Bộ nhị gồm nhiều nhị rời.

Bộ nhuỵ gồm 8-9 lá noãn dính liền với đế hoa.

Hoa nở vào mùa hè. Quả hình cầu, đầu quả còn 4-5 lá đài tồn tại, vỏ dày chín có

màu vàng đỏ lốm đốm.

Trong quả có 8 ngăn xếp thành 2 tầng, tầng trên 5 ngăn, tầng dưới 3 ngăn, các

ngăn phân cách bởi các màng mỏng trong có nhiều hạt hình 5 cạnh màu trắng hồng.

Phân bố, trồng trọt, thu hái

Lựu có nguồn gốc ở các nước Nam châu á, được trồng khắp nơi nhất là nước có

khí hậu ấm, trồng làm cảnh và lấy quả ăn.

Lựu trồng bằng cách giâm cành, bón

phân khác nhau cũng làm cho tỷ lệ alcaloid

trong cây thay đổi.

Thu hoạch vỏ quả vào mùa hạ.

Vỏ thân và vỏ rễ thu hoạch quanh năm.

Bộ phận dùng, chế biến và bảo quản

- Vỏ rễ, vỏ thân

- Vỏ quả

Quả dùng để ăn.

- Vỏ rễ: đào rễ rửa sạch bóc lấy vỏ bỏ

lõi, phơi sấy khô.

- Vỏ thân: bóc lấy vỏ đem phơi sấy khô.

- Vỏ quả: khi còn tươi, bỏ màng trong

thái mỏng phơi sấy khô.

Thành phần hoá học Hình 9.6. Lựu

Vỏ rễ, vỏ thân và cành của cây lựu chứa 0,3-0,7% alcaloid toàn phần chủ yếu là:

psendo pelletierin.

Các alcaloid phụ là: N-metylisopelletierin và isopelletierin ở nhiệt độ thường ở thể

lỏng.

134

Ở phần gỗ có ít alcaloid, ở lá non không có alcaloid như trong vỏ mà chỉ có những

dẫn chất piperidin không bền vững.

Tất cả các bộ phận của cây lựu đều có tanin các chất tritecpin tự do và một số ít các

chất sterin.

Công dụng và liều dùng

Dùng làm thuốc chữa sán (phụ nữ có thai và trẻ em không nên dùng). Có thể dùng

vỏ rễ, vỏ thân, hoặc alcaloid đã chiết ra dưới dạng tinh khiết, vì alcaloid tinh khiết độc

nên dùng dạng nước sắc dược liệu do alcaloid kết hợp với tanin thành hợp chất ít tan tác

dụng với sán trong ruột ít làm mệt cơ thể, tuy vậy uống nước sắc dược liệu hơi khó uống,

dùng vỏ tươi tốt hơn vỏ khô.

Ngày dùng 20-60g dạng thuốc sắc.

Dùng tươi sắc vỏ rễ, vỏ thân ngậm chữa đau răng. Nước sắc vỏ quả chữa lỵ, bạch

đới, chữa kinh nguyệt quá nhiều ngày dùng 15-30g.

Dùng nước sắc vỏ quả ngậm chữa amidan.

CAU

Areca catechu L. họ Cau - Arecaceae

Đặc điểm thực vật, phân bố, trồng trọt

Cau là cây có thân mọc thẳng, cao 10-20m, đường kính 10-15cm, thân cột mang 1

bó lá ở trên ngọn, các lá rụng để lại vết ở trên thân.

Lá xẻ lông chim, có bẹ to.

Trong cụm hoa, hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới, hoa đực nhỏ màu trắng, thơm, hoa

cái to hơn. Quả hạch hình trứng.

Cau được trồng ở nhiều nước vùng nhiệt đới, có nhiều ở vùng nhiệt đới châu Á và

Đông Phi.

Người ta thường trồng cau lấy quả ăn trầu.

Nước ta cau cũng được trồng ở khắp nơi nhất là các tỉnh gần biển.

Cau trồng bằng hạt, thường 4-5 năm mới có quả.

Bộ phận dùng, chế biến và bảo quản

Dùng hạt và vỏ quả.

Hạt (Semen Arecae) còn gọi là binh lang, tân lang.

Vỏ quả còn gọi là đại phúc bì.

Khi quả chín lấy hạt và vỏ quả phơi hoặc sấy khô.

135

Chế biến

Hái quả thật già, bóc lấy riêng hạt và vỏ phơi

hoặc sấy khô. Khi dùng đem hạt khô ngâm

nước 2-3 ngày cho mềm mỗi ngày thay nước

1 lần (không ngâm vào dụng cụ bằng sắt) vớt

ra để ráo nước, thái miếng mỏng đem phơi,

sấy ở nhiệt độ 40-50oC tới độ ẩm dưới 10%.

Còn vỏ thì đem rửa sạch, ngâm nước 1 đêm

cho mềm rồi xé tơi phơi hoặc sấy khô tới

độ ẩm 13%; có thể tẩm rượu sao hoặc nấu

thành cao đặc.

Thành phần hoá học

Trong hạt có 15% tanin, 13-14%dầu

béo, các chất đường.

Hoạt chất chính là alcaloid (0,15-0,67%) ở

dạng kết hợp với tanin.

Alcaloid chính là arecolin (0,07-0,50%).

Alcaloid phụ là arecaidin, guvacin, guvacolin, arecolidin và isoguvacin.

Công dụng và liều dùng

Hạt cau dùng làm thuốc chữa sán dây, thường phối hợp với hạt bí ngô. Qua nghiên

cứu thấy nước sắc hạt cau có tác dụng làm tê liệt sán dây (chỉ có tác dụng làm tê liệt mạnh

ở phần đầu), trái lại hạt bí ngô có tác dụng chủ yếu làm tê liệt khúc giữa và khúc đuôi con

sán cho nên có thể dùng như sau:

Sáng sớm lúc đói ăn 60-120g hạt bí ngô (cả vỏ) hoặc 40-100g (đã bóc vỏ) 2 giờ

sau uống nước sắc hạt cau. (trẻ em dưới 10 tuổi uống 30g, phụ nữ 50-60g, người lớn 80g).

Nửa giờ sau uống 1 liều thuốc tẩy (Magnesi Sulfat 30g) nằm nghỉ đợi thật buồn đi

ngoài, sau đó ngâm hậu môn vào chậu nước ấm.

Người ta còn phối hợp hạt cau với thường sơn để chữa sốt rét.

Vỏ quả cau (đại phúc bì) y học cổ truyền dùng chữa thuỷ thũng, bụng báng nước,

tiểu tiện khó.

Ngày 6-12g, dạng thuốc sắc.

Hình 9.7. Cau

136

THUỐC LÁ

Nicotiana tabacum L. họ Cà - Solanaceae

Đặc điểm thực vật

Cây thuộc thảo, sống hàng năm. Thân đứng cao 0,6-1,5m; phần gốc hoá gỗ. Lá

hình bầu dục hơi thon, mọc so le, không có cuống,

một mẩu lá phía dưới ôm vào thân, lá phía trên bé

hơn hình lưỡi mác. Thân và lá có nhiều lông.

Hoa tập hợp thành chùm ở ngọn, đài có lông,

tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Đài và

tràng đều là cánh, tràng dài gấp 4-5 lần đài, phía

dưới hình ống nhỏ phía trên loe rộng.

Quả nang 2 ô có đài tồn tại bọc ở ngoài, trong

chứa các hạt nhỏ.

Bộ phận dùng và thành phần hoá học

Bộ phận dùng là lá (Folium Nicotianae).

Trong lá có alcaloid chính là Nicotin là chất

lỏng sánh, bay hơi được, mùi hắc vị nóng cay, dạng

tinh khiết không có màu, để ra ánh sáng và không

khí có màu vàng nâu.

Nicotin tan trong nước, tan trong dung môi

hữu cơ . Hình 9.8. Thuốc lá

Các alcaloid phụ: nor-nicotin, nicotyrin, anabasin...

Một số chủng thuốc lá có nor nicotin, hoặc anabasin là alcaloid chính.

Ngoài ra còn có một số chất khác như kiềm bay hơi (pyridin, N-Metyl pyrolidin),

glycocid (khoảng 40%), protein (12%), lipid (5%), các acid hữu cơ (15-20%), các hợp

chất đa phenol (có vai trò quan trọng trong màu sắc, hương vị của thuốc lá), tinh dầu,

muối vô cơ và các men.

Tác dụng và công dụng

Liều nhỏ nicotin có tác dụng kích thích thần kinh thực vật, nhưng liều cao gây liệt.

Với liều 50-100mg nicotin làm chết người lớn do ngạt thở.

Nicotin vào cơ thể bị phân huỷ nhanh, nhất là với người nghiện. Những người

nghiện thường xuất hiện một số bệnh mãn tính về đường hô hấp, hút thuốc lá là nguyên

nhân chủ yếu gây ung thư phổi.

137

Thuốc lá và thuốc lào ít dùng làm thuốc cho người. Trong nhân dân thường dùng

đắp lên chỗ đứt tay, đứt chân để cầm máu, với gia súc dùng làm thuốc pha với nước để

chữa ghẻ, chấy rận, bọ chó, tránh bôi vào chỗ da bị trầy xước vì dễ gây ngộ độc.

Lượng thuốc lá thu hoạch chủ yếu để phục vụ nhu cầu hút thuốc. Mặc dù thuốc lá

có hại song việc tiêu thụ trên thế giới ngày một tăng. Hiện nay nhiều nước ngoài việc giáo

dục vận động không hút thuốc, đã có biện pháp pháp lý để hạn chế hút thuốc nhất là với

thiếu niên.

Nicotin lấy từ thuốc lá hoặc dư phẩm của công nghiệp thuốc lá có chứa nicotin

dùng làm thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng.

Nicotin còn là nguyên liệu chế acid nicotinnic tự do, làm thuốc dãn mạch ngoại biên và

chống tăng lipid huyết.

IV.DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN TROPAN

BENLADON

Atropa belladona L. họ Cà - Solanaceae

Đặc điểm thực vật

Cây benladon là cây sống nhiều năm, thuộc thảo cao 1-1,5m, phần trên có lông Lá

nguyên, hình bầu dục, mọc so le, ở phần ngọn lại mọc đối, lá có mùi khó chịu buồn nôn,

vị đắng.

Hoa đơn mọc ở kẽ lá, cánh hợp, bầu trên, có 5 nhị. Quả thịt, lúc đầu có màu xanh,

sau chín có màu tím đen.

Phân bố, trồng hái

Cây này có nguồn gốc ở Nam và Trung Âu, ngày nay được trồng ở nhiều nơi trên

thế giới, nhiều ở Nga, Anh, Pháp, Mỹ, ấn Độ.

Trồng bằng hạt (cũng có thể trồng bằng rễ), mỗi cây cách nhau 0,3m, trên những

luống cách nhau 0,8m. Ánh sáng và phân bón ảnh hưởng tới alcaloid hình thành trong

cây.

Thu hái lá khi cây sắp ra hoa vào tháng 6, tháng 7, lúc đó hàm lượng hoạt chất cao

nhất. Thường cắt cả cây (để lại gốc cách mặt đất 4-5cm cho nẩy chồi) rồi mới hái riêng lá

đem về phơi hoặc sấy ngay ở nhiệt độ 450C trong 24-48 giờ.

Thu hoạch rễ của cây 2 năm và không hái lá năm trước để có hàm lượng hoạt chất

cao. Đào rễ lúc cây ra hoa, rửa sạch đất cát, cắt đoạn ngắn phơi hay sấy ở nhiệt độ thấp.

138

Hái quả chín đem phơi ngay đến khi quả

thật khô đen, sát lấy hạt, nếu dùng hạt làm

giống có thể để nguyên quả khi nào gieo mới

lấy hạt ra.

Bộ phận dùng

Lá phơi khô (Folium Belladonnae).

Rễ (Radix Belladonnae).

Quả và hạt (Fructus et semen

Belladonnae).

Thành phần hoá học

Trong lá chứa 0,2-1,2%; ở rễ có 0,45-

0,85%; ở hoa có 0,5%; ở quả có 0,65%; ở hạt

có 0,80% alcaloid.

Alcaloid chính và là chất có tác dụng

dược lý mạnh là L-hyoscyamin. Trong quá

trình Hình 9.9. Benladon

chế biến dược liệu, alcaloid này chuyển một phần sang dạng raxemic là Atropin (P, L-

hyoscyamin).

Ngoài ra còn một lượng nhỏ L-scopolamin và các vết atropamin (apotropin),

Benladomin, Tropin...

Các chất kiềm không bay hơi như: N-Metylpyrrolin, N-Metylpyrolidin.

Có glucosid là scopoletin khi thuỷ phân cho glucose và scopoletin.

Scopolin và Scopoletin cho huỳnh quang xanh đậm trong môi trường Amoniac

dùng để phân biệt dịch chiết hoặc rượu thuốc của dược liệu khác không cho huỳnh quang.

Có nhiều muối vô cơ nên tỷ lệ tro rất cao (tới 15%) gồm muối clorid và nitrat nên

dễ hút nước, do đó cao benladon cần bảo quản cẩn thận.

Ngoài ra trong lá và rễ còn chứa tanin (khoảng 10%) và acid hữu cơ.

Tác dụng và công dụng

Atropin làm liệt phó giao cảm, ảnh hưởng đến hoạt động các tuyến và cơ trơn làm

giảm bài tiết nước bọt, mồ hôi, dịch vị... có khi ngừng hẳn, làm giảm co bóp dạ dày, ruột,

phế quản, làm tim đập nhanh, làm giãn đồng tử.

Liều nhỏ kích thích thần kinh trung ương, gây sảng khoái, ảo giác và mê sảng.

Liều cao gây liệt.

Ngoài ra Atropin còn có tác dụng chống nôn (L-hyoscyamin có tác dụng mạnh hơn

Atropin vì Atropin có 1/2 là D-hyoscyamin). Điều đó cho thấy dịch chiết dược liệu chứa

139

L-hyoscyamin nhiều hơn D-hyoscyamin nên có tác dụng mạnh hơn lượng Atropin tinh

khiết tương ứng.

Dược liệu cũng như Atropin được dùng làm thuốc giảm đau do làm giảm co thắt

cơ trơn (trong bệnh dạ dày, mật, co cứng do bí đại tiện và hen phế quản), trong bệnh dạ

dày do thừa dịch vị acid; thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử, làm thuốc chống nôn, làm giảm

bài tiết nước bọt khi phẫu thuật và dùng trong bệnh Parkinson (bệnh liệt rung).

Ngoài ra còn sử dụng dịch chiết rễ cây benladon để chữa bệnh Parkinson.

Dạng dùng và liều dùng

Bột lá liều tối đa 0,15g mỗi lần 0,50g trong 24 giờ.

Cao liều tối đa 0,03g/lần; 0,10g/24 giờ.

Cồn liều tối đa 1,5g/lần; 5g/24 giờ.

CÀ ĐỘC DƯỢC

Datura metel L. họ Cà - Solanaceae

Cà độc dược còn có tên khác là cà dược, cà diên, mạn đà la

Đặc điểm thực vật

Cà độc dược là cây thuộc thảo, mọc hàng

năm, cao 1-1,5m; toàn thân hầu như nhẵn, cành non

và các bộ phận non có lông tơ ngắn.

Lá đơn mọc cách, ở gần ngọn mọc đối hay

mọc vòng, phiến lá hình trứng dài 9-16cm, rộng 4-

9cm, gốc lá lệch, ngọn lá nhọn, mép lá ít khi nguyên

thường lượn sóng hoặc hơi sẻ 3-4 răng cưa, mặt lá

lúc non có nhiều lông sau rụng dần.

Hoa to mọc riêng lẻ ở kẽ lá, cuống hoa dài 1-

2cm, đài hoa hình ống có gân nổi lên rõ rệt, dài 5-

8cm, rộng 1,5-2cm. Khi hoa héo một phần còn lại

trưởng thành cùng quả giống như hình cái mâm.

tràng to hình phễu, có màu trắng hoặc tím.

Hình 9.10. Cà độc dược

Quả hình cầu mặt ngoài có gai đường kính chừng 3cm, quả non màu xanh, khi già

màu nâu, có nhiều hạt trứng dẹt, dài 3-5mm, dày 1mm, cạnh có vân nổi.

Phân bố, trồng hái

140

Cây mọc hoang và được trồng ở khắp Việt Nam, Cămpuchia, Lào, ấn Độ, Trung

Quốc... để làm cảnh và làm thuốc. Cây mọc ở nơi đất hoang ẩm, nhiều mùn. Nước ta có

nhiều ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An, Thái Bình, Ninh Thuận...

Thu hái lá lúc cây sắp ra hoa và đang ra hoa (từ tháng 5 - 6 đến hết tháng 9 - 10)

hoa hái vào tháng 8 - 9 - 10.

Hạt lấy từ quả chín già ngả màu nâu.

Bộ phận dùng, chế biến

Lá (Folium daturae metelis) phơi hay sấy khô (hay dùng nhất).

Hoa (Flos Daturae metelis) phơi hay sấy khô.

Hạt (Semen Daturae metelis) phơi hay sấy khô.

Vi phẫu lá

- Biểu bì có nhiều lông che chở lấm chấm như có cát, lông tiết ít hơn, có đầu đa

bào, chân đơn bào.

Trong phiến lá phía trên có 2 hàng mô dậu, phía dưới là mô khuyết, lớp mô dày ở

mặt trên và mặt dưới gân lá.

Bó libe gỗ hình cung ở giữa gân lá, libe bao quanh gỗ.

Tinh thể calcioxalat hình cầu gai rải rác trong thịt lá.

- Bột lá:

Có màu lục hay lục nâu. Soi kính hiển vi thấy:

+Mảnh biểu bì có lỗ khí, lông che chở đa bào, lông tiết đầu đa bào chân đơn bào,

tinh thể calcioxalat hình cầu gai, mảnh mạch và mô giận.

+ Chế biến: sau khi phơi sấy khô, tán bột có thể chế cao lỏng hay dạng cồn có khi

làm thuốc thang sắc uống.

Thành phần hoá học

Hầu hết các bộ phận của cây đều chứa alcaloid, trong đó alcaloid chính là:

L.scopolamin (=hyoscin), ngoài ra còn có hyoscyamin, atropin, norhyoscyamin. Hàm

lượng alcaloid toàn phần trong lá 0,1-0,6%; rễ 0,1-0,2%; hạt 0,2-0,5%; quả 0,12%; hoa

0,25-0,60%.

Ngoài alcaloid trong lá, rễ còn có flavonoid, saponin, coumarin, tanin, trong hạt

còn có chất béo.

Tác dụng và công dụng

Cà độc dược là vị thuốc độc đã được biết từ lâu, tác dụng gần giống Benladon.

Scopolamin có tác dụng ức chế hệ cơ trơn và các tuyến tiết như Atropin, song có

khác là tác dụng ngoại biên kém hơn như làm giãn đồng tử trong thời gian ngắn hơn, tác

dụng ức chế thần kinh trung ương rõ rệt hơn. Vì vậy người ta thường dùng Scopolamin

141

trong gây mê, dùng trong khoa thần kinh chữa động kinh, chữa co giật trong bệnh

Parkinson.

Cà độc dược dùng chữa ho, hen suyễn. Làm thuốc giảm đau trong các trường hợp

viêm loét dạ dày, hành tá tràng, đau quặn ruột hoặc các cơn đau thắt khác, làm thuốc

chống say sóng, buồn nôn khi đi tàu xe, máy bay; ngoài ra còn dùng chữa đau cơ, tê thấp

cước khí.

Dùng ngoài đắp vào mụn nhọt giảm đau nhức.

Dạng dùng và liều lượng

Bột lá dùng cho người lớn 0,1g/lần; 0,2-0,3g/24 giờ.

- Cao lỏng 1/1: 0,1g/lần; 0,2-0,3g/24 giờ.

- Cao mềm: 0,01g/lần, 0,03g/24 giờ.

- Cồn 1/10: 0,5g/lần; 1-2g/24 giờ.

Hoa hoặc lá cà độc dược thái nhỏ phơi khô cuốn vào giấy hút như thuốc lá ngày

hút 1-1,5g trước khi lên cơn hen.

Những người cơ thể suy yếu, bệnh nhãn áp cao không nên dùng.

Chú ý ngoài cây cà độc dược ở nước ta còn có một số loại di thực khác như:

Datura innoxia Mill. và Datura Stramonium L. (cần tham khảo thêm).

V. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN QUINOLIZIDIN VÀ NHÂN

QUINOLIN

CANHKINA

Có nhiều loài canh kina như: Cinchona succirubra Pavon. (canhkina đỏ)

Cinchona calisaya Weddell. (canhkina vàng)

Cinchona ledgeriana Moeus. (canh kina lá thon)

Và nhiều loài lai tạp khác. Đều thuộc họ Cà phê - Rubiaceae

Đặc điểm thực vật

Các loài canhkina đều có đặc điểm chung về

mặt hình thái thực vật như: cây gỗ cao 10-25m, có

cây cao đến 30m. Lá mọc đối có cuống với lá kèm

thường rụng sớm; phiến lá nguyên, hình trứng, gân lá

hình lông chim. Một số loài ở gốc gân chính và gân

phụ có túi nhỏ mang lông, lá có màu xanh lục hoặc

đỏ nhạt.

Hoa màu hồng hoặc vàng tuỳ theo loài mọc

thành chùm, xim ở đầu cành. Hoa đều lưỡng tính; có

142

5 lá đài, 5 cánh hoa liền, có lông, 5 nhị đính trên ống tràng, bầu dưới 2 ngăn chứa nhiều

noãn.

Quả nang, thuôn dài, cắt vách mở từ dưới lên trên, có nhiều hạt nhỏ dẹt, có cánh

mỏng. Mùa hoa tháng 2-4, mùa quả tháng 5-10. Hình 9.11.

Canhkina

Phân bố, trồng hái và chế biến

Canh kina có nguồn gốc ở vùng Nam Mỹ ở độ cao 1000-3500m, ngày nay được

trồng ở vùng này và nhiều nước có khí hậu nhiệt đới đặc biệt là Indonexia, Ấn Độ, Việt

Nam, Mehico, Cônggô, Ghinê...

Trồng bằng hạt gieo trong vườn ươm, khi cây 1 năm tuổi có thể đánh trồng.

Tỷ lệ alcaloid trong vỏ cây tăng dần cho đến năm thứ 5 rồi giảm dần xuống.

Người ta thường chờ cho cây 8-10 tuổi mới thu hái vì có khối lượng vỏ nhiều, dày,

dễ bóc. Tuy vậy cũng hái vỏ của cây 3-4 tuổi. Khi cần chặt tỉa bớt để chúng khỏi mọc

chen vào nhau. Có 2 phương pháp khai thác vỏ:

- Đào cây để hái cả cành, cả rễ, cả thân lấy vỏ. Ngày nay hay dùng phương pháp

này vì lượng vỏ rễ nhiều (1/3-2/3 lượng vỏ của toàn cây). Ở Giava (Indonexia) người ta

thường đào cây 10 tuổi, ở nơi này canhkina thường trồng thành 10 khu vực rồi trồng lại

như vậy sẽ luôn có cây khai thác đúng 10 tuổi.

- Chặt phần trên để bóc vỏ thân và vỏ cành, gốc còn lại mọc lên không cần phải

trồng cây mới (phương pháp này ít dùng). Nhưng ở Ấn Độ còn khai thác những cây 7-8

tuổi trồng ở sườn núi dốc, không đào rễ vì gây lở đất.

Sau khi chặt hay đào cây người ta khía dọc hoặc ngang vỏ, dùng dao nâng từng

mảng vỏ lên có khi bóc được những mảnh vỏ dài tới 1m, rộng 8-15cm. Vỏ tươi chứa 50-

70% nước, đem làm khô dần dưới ánh sáng mặt trời rồi đem sấy ở nhiệt độ không quá

700C (nếu quá 700C lượng alcaloid giảm).

Bộ phận dùng

Vỏ thân, vỏ cành và vỏ rễ phơi sấy khô (Cortex Cinchonae).

Thành phần hoá học

Vỏ canhkina có hàm lượng alcaloid cao (4-12%).

Hiện nay đã phân lập được khoảng 30 alcaloid khác nhau chia làm 2 nhóm:

1. Nhóm cinchonin (alcaloid có nhân ruban) gồm nhiều alcaloid, trong đó có

alcaloid chính là L-Quinin (5-7%), D-Quinin (0,1-0,3%), D-Cinchonin (0,2-0,4%), L-

Cinchonin (0,2-0,4%) và một số alcaloid có lượng nhỏ khác.

Quinin và quinidin cũng như cinchonin và cinchonidin là những đồng phân được

phân biệt về cấu hình ở C8 và C9.

143

2. Nhóm cinchonamin (alcaloid có nhân indol) có alcaloid phụ là: cinchonamin,

cinchophyllin quinanin.

Ngoài ra trong vỏ canh kina còn có:

- Acid quinic (5-8%).

- Acid quinotanic (2-3%), chất này bị oxy hoá cho phlobaphen gọi là chất đỏ

canhkina.

- Glycosid đắng có cấu trúc triterpen (2%).

- Ngoài ra còn có nhựa, sitosterin, tinh bột và khoảng 4% chất vô cơ.

Công dụng và liều dùng

Vỏ canhkina dùng làm thuốc hạ sốt, chữa sốt rét, thuốc bổ dùng dạng bột, cao, cồn,

sirô, rượu thuốc.

Liều lượng hàng ngày: dạng bột 5-10g, cồn 2-15g, sirô 20-100g.

Ngoài ra bột canhkina còn dùng rắc lên vết thương vết loét.

Vỏ canhkina làm nguyên liệu chiết quinin và các alcaloid khác.

- Quinin dùng làm thuốc điều trị sốt rét. Liều cho người lớn 1-1,5g/ngày dùng làm

nhiều lần, mỗi lần 0,5g; tổng liều 10-15g. Liều cho trẻ em tuỳ theo độ tuổi.

Dạng dùng viên 0,25g và 0,5g hoặc ống tiêm 0,10g và 0,25g quinin basic HCl.

- Quinin hydroclorid hoặc sulfat viên nén 0,15g; 0,25g và ống tiêm 2ml = 0,5g và

0,25g; ống tiêm 5ml = 0,05g (quinoserum).

- Quinidin dùng chữa bệnh loạn nhịp tim và rối loạn chức năng tim dễ kích thích

như đánh trống ngực, ngoại tâm thu, lo sợ. Dạng dùng: viên nén 250mg quinidin bisulfat

ngày 2 lần x 2 viên.

VI. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN ISOQUINOLIN

IPECA

Cephaelis ipecacuanha (Bort.) A.Rich.

Họ Cà phê - Rubiaceae

Đặc điểm thực vật

Ipeca là cây thảo, cao 20-40cm, sống lâu

năm, cây luôn luôn xanh. Rễ gồm nhiều đốt

ngắn, hợp thành vòng như nhẫn quanh lõi rễ.

Lá mọc đối, phiến lá bầu dục, lúc đầu có

lông sau nhẵn, có 2 lá kèm đính với nhau thành

bẹ ở giữa 2 cuống lá.

Hoa màu trắng.

Quả hình trứng, chín có màu tím sẫm.

Bộ phận dùng Hình 9.12. Ipeca144

Rễ đã phơi hoặc sấy khô. Dược liệu là những mẩu rễ nhỏ, ngằn nghèo dài 6-12cm,

đường kính 3-4mm, mặt ngoài xùi thành từng ngấn, màu xám đỏ, mùi đặc biệt, buồn nôn,

vị hắc đắng.

Thành phần hoá học

Hàm lượng alcaloid của Rio Ipecacuanha (ipeca của Braxin) khoảng 2-6%, phần

lớn tập trung ở phía ngoài vỏ.

Alcaloid chính là emetin (chiếm 2/3 tổng số alcaloid) và cephelin (gần 1/3), còn 1

lượng nhỏ là psychotrin, O-metylpsychotrin, emetamin, protoemetin, Ipecosin.

Ngoài alcaloid còn có saponin, tanin và ít tinh dầu, dầu béo, aicd hữu cơ nhựa, chất

vô cơ và có khoảng 30-40% tinh bột.

Tác dụng và công dụng

Alcaloid của ipeca có tác dụng kích thích mạnh trên niêm mạc và da. Uống liều lớn

bột ipeca gây nôn, dùng liều nhỏ tăng phản xạ, kích thích niêm mạc dạ dày, phế quản tiết

dịch và long đờm do đó ipeca làm thuốc long đờm. Liều dùng 0,01-0,20g bột/ngày, dùng

riêng hoặc phối hợp.

Ipeca làm thuốc gây nôn cho trẻ em và người yếu, người già vì nó ít gây mệt hơn

các thuốc nôn khác; không dùng cho người đau tim và người bị xơ cứng mạch máu. Dùng

liều 1,5-2g bột với người lớn chia 2-3 lần uống cách nhau 10 phút, trẻ em dùng 0,10g cho

mỗi tuổi.

Emetin có tác dụng diệt ký sinh trùng lỵ Entamoeba hystolytica và E.coli gây

bệnh; do vậy dùng Emetin để chữa lỵ amíp.

Thường dùng dưới dạng Emetin hydroclorid tiêm dưới da hay tiêm bắp. Liều tối đa

0,08g/lần; 0,10g/24 giờ (mỗi ống 1ml = 0,04g).

Cần chú ý khi tán bột ipeca, bụi ipeca vào mắt dễ gây viêm mắt.

THUỐC PHIỆN

Papaver somniferum L. Họ Thuốc phiện - Papaveraceae

Tên khác: A phiến, A phù dung, cổ tử túc, anh túc

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thuốc phiện là cây thảo, sống hàng năm cao 0,7-1,5m ít phân nhánh, thân mọc

thẳng. Lá mọc cách, lá phía dưới có cuống ngắn, lá phía trên không cuống, mọc ôm vào

thân cây, mép có răng cưa, lá hình trứng dài 6-50cm, rộng 3,5-30cm, đầu trên nhọn, dưới

cuống tròn hay hơi hình tim, gân lá nổi rõ ở mặt dưới.

145

Hoa to đơn độc mọc ở đầu thân hay đầu cành có cuống dài 12-14cm, có 2 lá đài

màu xanh. Rụng sớm khi hoa nở, tràng có 4 cánh dài 5-7cm màu trắng hay tím hoặc hồng,

nhiều nhị bao quanh 1 bầu có một ngăn gần 15-20 lá noãn dính liền nhau thành hình cầu.

Quả nang hình cầu hoặc hình trứng dài 4-7cm, đường kính 3-6cm, ở đỉnh có núm,

cuống phình ra ở chỗ nối, chín có màu vàng xám, chứa nhiều hạt nhỏ (mỗi quả có 25.000-

30.000 hạt). Hạt hơi giống hình thận, dài 0,5-1mm). Trên mặt có vân hình mạng, màu

xám hay vàng nhạt hoặc xám đen.

Toàn thân cây có nhựa mủ màu trắng để lâu thành nâu đen.

Cây thuốc phiện được trồng từ lâu đời nguồn gốc có thể ở vùng Địa Trung Hải.

Căn cứ vào đặc điểm của hoa, quả, hạt và cây người ta chia thành các thứ sau:

- Thứ nhẵn, hoa tím, quả hình cầu rộng, hạt đen tím trồng ở Trung Á.

- Thứ trắng, hoa trắng, quả hình trứng, hạt trắng vàng nhạt trồng tại Ấn Độ và Iran.

- Thứ đen, hoa tím, quả hình cầu ở phía dưới, mở lỗ trên mép đầu nhuỵ hạt màu

xám trồng ở châu Âu.

- Thứ lông cứng, hoa tím, cuống hoa và lá phủ đầy lông cứng mọc bán hoang dại ở

Nam châu Âu.

Trong các thứ này, thứ trắng trồng để lấy nhựa, thứ đen để lấy dầu. Trên thực tế

người ta vẫn thích lấy nhựa từ quả chưa chín hoặc lấy dầu từ hạt quả chín già của 2 thứ

này. Ngày nay người ta lai giống tạo ra các loại có hàm lượng alcaloid cao và thu được

dầu của hạt.

Thuốc phiện được trồng ở nhiều nước khí hậu ôn đới và nhiệt đới, song vì cây gây

nghiện nên Chính phủ cấm trồng cây thuốc phiện tự do. Các nước trồng nhiều cây thuốc

phiện: Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Tư, Nga, Myanma, Lào.

Nước ta trước đây thuốc phiện trồng ở Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An, Hoà

Bình... hiện nay nhà nước cấm trồng và quản lý chặt chẽ vận động đồng bào trồng các cây

khác thay thế.

Bộ phận dùng

a. Nhựa thuốc phiện lấy từ quả chín (opium)

Quan sát bên ngoài bánh hình tròn hay hình

vuông có khi hình chữ nhật, mặt ngoài màu nâu đen

đôi khi còn xót những mảnh lá hay vỏ quả thuốc phiện.

Mặt cắt mịn lổn nhổn, khi còn mới thì mềm dẻo để lâu

thì cứng, giòn mùi đặc biệt, vị đắng.

b. Quả (Fructus papaveris)

Quả chưa lấy nhựa dùng cho công nghiệp chiết

xuất alcaloid có kèm theo đoạn cuống dài 10-12cm.

146

Hình 9.13. Thuốc phiện

Quả hái sau khi đã lấy nhựa (anh túc xác, cù túc xác).

Tuỳ theo thứ mà có hình dạng khác nhau, từ thành quả nang vào trong có 8-12

vách phân chia quả thành các ô không hoàn chỉnh mang hạt.

Quả thu hái trước khi chín hoàn toàn có màu vàng xám nhạt ở trạng thái khô quả

không có mùi, vị hơi đắng. Phải loại hạt trước khi đem dùng trong ngành Dược.

c. Hạt (Semen Papaveris)

Hình thận rất nhỏ trên mặt có hình mạng màu vàng nhạt, trắng hoặc xám, nâu, đen

tuỳ loại, nội nhũ có nhiều dầu và alơron, phôi rất nhỏ, hạt không có mùi vị dầu.

d. Lá

Đôi khi cũng dùng ngoài làm thuốc xoa bóp giảm đau.

Thành phần hoá học

Lá chỉ có vết alcaloid quả tỷ lệ alcaloid thay đổi tuỳ theo nơi.

Trong quả khô thường có 0,2-0,3% alcaloid toàn phần.

Ở quả khi đã lấy nhựa thì hàm lượng alcaloid còn lại rất ít.

Hạt không có alcaloid chứa 15% glucid, 20% protid, 40-50% dầu.

Nhựa thuốc phiện: hoạt chất là các alcaloid (20-30%) ở dạng muối (meconat,

lactat...). Hiện nay đã phân lập được 40 alcaloid người ta xếp thành nhiều nhóm theo cấu

tạo hoá học. Ví dụ: nhóm morphinan (Alcaloid chính là: morphin 6,8-20,8%, Codein 0,3-

3%, thebain 0,3-1%) và nhóm Besizyliso quinolin (Papaverin 0,8-1,5%).

Ngoài alcaloid trong nhựa thuốc phiện còn có:

- Các acid hữu cơ: trong đó có acidmeconic cho màu đỏ với muối sắt (III) phản

ứng này để định tính nhựa thuốc phiện.

- Nước (5-10%) chất vô cơ (5-6%) đường, chất nhày, pectin...

Công dụng và liều dùng

a. Quả

* Với quả chưa trích nhựa dùng để chiết xuất morphin đa phần morphin được

chuyển thành codein.

- Chế cao toàn phần để làm thuốc thay thế cho nhựa thuốc phiện.

- Dùng làm thuốc giảm đau.

* Quả đã trích nhựa (anh túc xác).

Làm thuốc chữa ho, tả, lỵ, đau bụng, giảm đau. Dùng 4-6g trong 24 giờ dạng thuốc

sắc hay hãm.

b. Hạt

147

Làm thực phẩm cho người hoặc gia cầm (chim), đa phần ép dầu để ăn, dùng trong

công nghiệp sơn và dùng trong ngành Dược.

Dầu thuốc phiện dùng chế dầu iod (lipiodol hoặc iodlipol) dùng làm thuốc cản

quang khi chiếu các xoang trong cơ thể, chế thuốc xoa bóp, thuốc mỡ..., bã dầu làm thức

ăn gia súc.

c. Nhựa thuốc phiện

Dùng làm thuốc giảm đau, thuốc ngủ, thuốc ho, chữa ỉa chảy.

Nhựa thường phối hợp với các vị thuốc dạng cao đơn hoàn tán hoặc ở các dạng:

- Bột thuốc phiện (10% morphin) uống liều 0,05g/lần và 0,20g/24 giờ.

- Cao thuốc phiện (1% morphin) (56 giọt = 1g) dùng 1-3g/24 giờ.

- Cồn thuốc phiện (1% morphin) (56 giọt = 1g) dùng 1-3g/24 giờ.

Nhựa thuốc phiện không được dùng liên tục quá 7 ngày; rất thận trọng khi dùng

cho người già và trẻ em.

Dùng để chiết xuất alcaloid, phần lớn là sản xuất nhựa thuốc phiện hợp pháp dùng

để chiết xuất morphin.

Morphin dùng làm thuốc giảm đau, chữa co giật, mê sảng động kinh. Thường dùng

dưới dạng morphin hydroclorid để tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Liều tối đa 0,02g/lần và

0,05g/24 giờ (1 ống 1ml = 0,01g).

Việc tiêu thụ morphin không nhiều còn phần lớn để chế dẫn chất như codein,

codetylin...

Codein dùng chữa ho, dùng dạng bột, viên, sirô... codetylin có tác dụng tương tự

codein.

Papaverin dùng làm thuốc giảm đau trong bệnh co thắt dạ dày, ruột, mật, co thắt tử

cung khi đẻ, đe doạ xẩy thai, co thắt mạch máu. Papaverin dùng trên thị trường đa số

dùng phương pháp tổng hợp.

d. Lá

Đôi khi dùng ngoài làm thuốc giảm đau.

Chú ý: Heroin là chế phẩm bán tổng hợp từ morphin, là chất ma tuý gây nghiện rất

mạnh. Dùng liều khoảng 0,06g có thể gây chết người sau khi tiêm.

BÌNH VÔI

Bình vôi là tên gọi của nhiều loài dây leo có rễ củ thuộc chi Stephania Họ tiết dê –

Menispermaceae. Tên khác: Bình vôi còn gọi là củ một, củ mối tròn, dây mối trơn, củ gà

ấp...

Đặc điểm thực vật

Loài Stephania glabra (Roxb) Meirs.148

Là loại thân leo phát triển từ củ, hình tròn, thường nằm ở khe đá, có củ có các nốt

sần, đôi khi có rãnh nhỏ ngang dọc. Nhựa từ thân và lá không mang màu.

Lá đơn, mọc so le, mép lá không có lông, cuống lá dài 6-25cm, gốc hơi phình lên

và cong, phiến lá hình tim, ngọn lá hơi nhọn thuôn mặt dưới xanh lợt, có 9-11 gân xếp toả

tròn do cuống lá dính vào 1/3 phiến lá tính từ gốc lá.

Cụm hoa đực dạng tán kép, cuống cụm hoa

dài 3-12cm, mỗi cuống cụm hoa gồm nhiều tán, mỗi

tán lại có nhiều tán cấp II, mỗi cuống tán cấp II mang

4 tán cấp III, kết thúc gồm 3 hoa với cuống của mỗi

hoa rất ngắn, hoa đực gồm 6 đài rời xếp thành 3 vòng

kích thước gần như bằng nhau, đài hình trứng hẹp.

Ba cánh hoa hình trứng màu xanh, khi còn trong nụ

và chuyển nâu vàng khi hoa nở. Bộ nhị hàn liền

thành 1 trụ với 6 bao phấn màu vàng nhạt xếp thành

vòng tròn. Khi hoa nở các bao phấn mở nắp ngang ra

xung quanh, hạt phấn nhỏ màu vàng.

Cụm hoa cái dạng xim, tán, cuống các bông

hoa ngắn xếp xít nhau thành dạng đầu nối đầu gồm

20-70 bông (sau cho 20-70 quả). Hoa cái bất đối

xứng, mỗi hoa có 1 lá đài hình elip, hai cánh hoa gần như

tròn, 1 đài và 2 cánh hoa xếp lệch về 1 phía của hoa.

Bầu hình trứng núm nhuỵ chia 4-5 thuỳ dạng gai nhỏ hầu như không có vòi nhuỵ.

Quả hạch hình trứng ngược, vỏ quả ngoài nhẵn lúc non màu xanh, chuyển sang

màu vàng rồi đỏ sẫm khi chín.

Hạt hình trứng ngược, cụt một đầu vỏ hạch cứng, chia nhiều vạch (17-20 vạch).

Mùa hoa tháng 2 - 4, mùa quả tháng 5 - 6.

Ngoài ra còn một số loài khác cũng có mọc ở nước ta.

Phân bố, trồng hái và chế biến

Các loài bình vôi ở nước ta phân bố khá rộng trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam

thường gặp ở các vùng núi đá vôi, một số thường chỉ mọc ở các vùng núi đất và biển.

Hiện nay ta đang thu hái củ bình vôi từ nguồn mọc hoang, khi thu về đem cạo sạch vỏ nâu

đen, thái lát mỏng đem phơi hoặc sấy khô, hoặc đem chiết lấy L-Tetrahydro palmatin.

Có thể trồng cây bằng hạt, thu hái quả chín, lấy hạt đem gieo, ngoài ươm cây giống

bằng hạt, có thể lấy các đoạn thân cây hoặc cắt phần đầu của củ đem trồng.

Bộ phận dùng và thành phần hoá học

Bộ phận dùng: củ (Tuber Stephaniae) đã cạo sạch vỏ nâu đen.

Hình 9.14. Bình vôi

149

- Trong củ bình vôi có alcaloid, các loài bình vôi ở nước ta đang khai thác có hàm

lượng alcaloid tuỳ theo loài và vùng khai thác.

Alcaloid chính là: L-Tetrahydro palmatin (=Rotundin). Có rất nhiều tài liệu và các

nhà nghiên cứu đã nghiên cứu và cho kết quả cụ thể (tham khảo thêm tài liệu).

Ngoài ra còn có một số alcaloid khác và một số chất khác như tinh bột đường và

acid hữu cơ.

Công dụng và liều dùng

Bình vôi đã được dùng từ lâu theo kinh nghiệm dân gian, bình vôi thái lát phơi khô

chữa mất ngủ, ho, hen, sốt, lỵ, đau bụng. Ngày uống 3-6g dạng thuốc sắc, có thể tán bột

ngâm rượu 400 với tỷ lệ 1 phần bột 5 phần rượu, uống 5-15ml rượu/ngày.

Bình vôi chủ yếu dùng làm nguyên liệu chiết xuất lấy L-Tetrahydro palmatin hoặc

cepharanthin tuỳ theo loài.

L-Tetrahydro palmatin (Rotudin) dùng làm thuốc trấn kinh, an thần dùng khi mất

ngủ, trạng thái căng thẳng thần kinh, một số trường hợp rối loạn tâm thần.

Liều dùng 0,05g-0,10g dưới dạng viên.

L-Tetrahydro palmatin hydroclorid hoặc sulfat mỗi viên 0,05g.

Ở Trung Quốc ngoài dạng viên 30-60mg rotudin còn có dạng tiêm. Rodutin sulfat

ống 2ml (60mg) làm thuốc giảm đau, an thần gây ngủ trong điều trị loét dạ dày hành tá

tràng, đau dây thần kinh, mất ngủ lo âu, căng thẳng thần kinh, hen co thắt phế quản.

Liều dùng 60-120mg có thể dùng tới 480mg/ngày. Dùng làm thuốc giảm đau gây

ngủ 30-90mg trước khi đi ngủ.

Cepharanthin ở Nhật dùng chữa lao phổi, lao da, chữa nhiễm độc do côn trùng hay

động vật cắn (rắn độc, cá độc, sâu độc), tăng khả năng miễn dịch khi điều trị ung thư.

HOÀNG LIÊN

Có nhiều loài hoàng liên chân gà như:

Coptis-chinensis Franch.Coptis teeta Wall.

Coptisteetoides C.Y.Cheng.

Và còn một số loài khác nữa.

Họ Hoàng Liên - Ranunculaceae.

Đặc điểm thực vật

Hoàng liên là cây thảo sống nhiều năm

cao 15-35cm, thân mọc thẳng phía trên phân

nhánh, có nhiều rễ nhỏ, lá mọc le mọc từ thân rễ

Hình 9.15. Hoàng liên chân gà150

lên, có cuống dài 6 - 12cm, phiến lá gồm 3-5 lá chét, mỗi lá chét lại chia thành nhiều thuỳ

mép có răng cưa.

Mùa xuân sinh trục dài 10-12cm trên chia thành 2 hoặc nhiều nhánh mang 3-8 hoa

có 5 lá đài màu vàng lục, cánh hoa hình mũi mác dài bằng 1/2 lá đài, có nhiều nhị dài gần

bằng cánh hoa có nhiều lá noãn với nhau. Quả đại có cuống trong chứa 7-8 hạt màu xám.

Nở hoa vào tháng 2-4, có quả tháng 3-6.

Bộ phận dùng

Thân rễ (Rhizoma Coptidis) là những mẩu cong queo dài 3cm trở lên, rộng 0,2 -

0,5cm, có nhiều đốt khúc khỉu và phân nhiều nhánh trông giống hình chân gà nên gọi là

hoàng liên chân gà. Mặt ngoài màu vàng nâu, mang vết tích của rễ phụ và của cuống lá.

Thân rễ cứng rắn, vết bẻ ngang phẳng, phần gỗ màu vàng tươi tia ruột có lỗ rách, phần vỏ

và ruột màu vàng đỏ cũng có khi rỗng, không mùi, vị rất đắng tồn tại lâu.

Thành phần hoá học

Thân rễ hoàng liên chứa nhiều Alcaloid (5-8%) chủ yếu là Berberin. Ngoài ra còn

có Worenin, Copticin, Palmatin, Fatrorizin, Magnoflorin

Ngoài Alcaloid trong rễ hoàng liên còn có tinh bột, acid hữu cơ như Acid ferulic...

Công dụng và liều dùng

Hoàng liên được dùng để điều trị các bệnh:

- Lỵ amip và lỵ trực khuẩn ngày dùng 3-6g chia làm 3 lần uống trong 7-15 ngày

dưới dạng thuốc sắc (có tài liệu chỉ nói Berberin chỉ chữa lỵ trực khuẩn).

- Chữa viêm dạ dày và ruột ngày dùng 3-4g dạng thuốc sắc hoặc cao lỏng.

- Chữa đau mắt đỏ (viêm kết mạc) dùng dung dịch hoàng liên nhỏ vào mắt loại 5-

30% hoặc rửa mắt bằng nước sắc hoàng liên.

- Viêm tai giữa có mủ dùng dung dịch Borat hoàng liên: hoàng liên 10g Acid boric

bột 3g thêm nước cất đun sôi 1 giờ. Lọc thêm nước cất cho đủ 10ml đem tiệt khuẩn rồi

nhỏ vào tai mỗi ngày 2-3 lần.

Ngoài ra hoàng liên còn chữa sốt nóng nhiều, vật vã, mất ngủ, chữa trĩ, thổ huyết,

chảy máu cam, chữa mụn nhọt có mủ nhiễm khuẩn. Người ta thường phối hợp với một số

vị khác.

Berberin chữa lỵ, ỉa chảy nhiễm khuẩn do tụ cầu, liên cầu ngày uống 0,2-0,4g

Berberin hydroclorid chia làm 2-3 lần.

THỔ HOÀNG LIÊN

Thalictrum foliolosum DC. họ Hoàng liên - Ranunculaceae.

Đặc điểm thực vật151

Thổ hoàng liên là cây thân cỏ, sống nhiều năm, thân không có lông, cao 1m phân

nhánh. Lá kép 3 lần lông chim, lá chét hình trứng hoặc gần tròn, mép có răng cưa tròn

thưa, gân lá gần như không nhô lên. Cụm hoa hình cờ, phân nhánh nhiều, cuống hoa nhỏ,

lá đài trắng hoặc vàng nhạt, hình trái xoan dài 3-4,5cm ; đường kính của hoa khoảng 7mm

đỉnh bao phấn có gai nhọn ngắn, chỉ nhị hình sợi tơ 4-6 lá noãn, núm nhuỵ hình dải mang

cánh hẹp. Quả hình thoi, hơi dẹt dài, độ 3mm, có 8 sườn dọc rõ.

Phân bố thu hái

Cây này có nhiều ở Trung Quốc, Việt Nam mọc nhiều ở Sơn La, Lai Châu. Cây

mọc trong rừng rậm và sườn núi có cây ở độ cao 1500m.

Thu hái vào mùa thu, đào rễ, rửa sạch, phơi sấy khô.

Bộ phận dùng

Thân rễ và rễ (Rhizoma et Radix Thalictri)

Phơi hay sấy khô những mẩu thân rễ cắt

đoạn dài 2- 4cm đường kính 0,2-0,5cm trên thân rễ

còn vết nhỏ sẹo của rễ nhỏ, mặt ngoài có màu nâu

sẫm, mang đoạn thân ngắn rỗng. Thân rễ rắn, cứng

bẻ gẫy bề mặt không phẳng, màu vàng tươi, vị

đắng.

Thành phần hoá học

Trong thổ hoàng liên có khoảng 0,35%

Berberin, 0,03% Palmatin, 0,02% Jatrorizin.

Công dụng và liều dùng

Ngày 3-6g chia làm 2-3 lần uống dưới dạng

thuốc bột hay viên. Dùng chữa đau mắt, mụn nhọt, chữa lỵ, ỉa chảy, trĩ, sốt.

VÀNG ĐẮNG

Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr. (= C. usitatum Pierre.)

họ Tiết dê - Menispermaceae

Tên khác còn gọi là cây mỏ vàng, hoàng đằng lá trắng, loong tơ rơn (tiếng Bana)

Đặc điểm thực vật

Vàng đắng là loại dây leo to có phân nhánh leo lên những cây gỗ, cao. Thân hình

trụ đường kính 1,5-10cm. Thân to màu vàng, thân già màu ngà xả xỉ có đoạn có chỗ u

phình to tròn và mắt (vết tích gốc lá). Cành non, lá non, cụm hoa và quả đều phủ một lớp

lông mềm. Lá đơn, nguyên, mọc so le, có cuống, đáy tròn hoặc lõm hình tim, đầu lá thuôn

nhọn, gân lá hình chân vịt, mặt trên lá màu xanh lục, mặt dưới có lông bạc trắng.

Hình 9.16. Thổ hoàng liên

152

Hoa màu trắng phớt tím, mọc thành chùm chuỳ ở thân đã rụng lá, cuống hoa rất

ngắn. Hoa đơn tính, hoa đực có 6 nhị, 3 nhị ngoài rời, 3 nhị trong có chỉ nhị hàn liền.

Hoa cái có 3 noãn.

Quả hạch hình cầu.

Mùa hoa và quả vào tháng 1 đến tháng 5.

Phân bố và thu hái chế biến

Cây mọc hoang ở miền đồng bằng Nam Bộ,

Nam Trung Bộ, Tây Nguyên còn có ở Lào và

Campuchia.

Thu hái gần như quanh năm. Hái về thái

mỏng, phơi sấy khô.

Bộ phận dùng

Thân và rễ (Caulis et Radix Coscinii).

Đoạn thân hình trụ, đường kính 1,5-6cm, dài

ngắn khác nhau, mặt ngoài màu vàng có vết bạc

loang lổ, có đoạn có bướu phình to tròn có vết lõm

cũng tròn do vết tích của cành non và cuống lá, có

vết khía và nứt dọc nhỏ đôi chỗ bong mất lớp bần.

Rễ hình trụ, màu vàng thẫm, không có bướu. Hình 9.17. Vàng đắng

Mặt cắt ngang có lớp vỏ mỏng màu nâu nhạt, phần gỗ màu vàng có tia tuỷ hình

nan hoa bánh xe, lỗ chỗ có nhiều chấm nhỏ (mạch lỗ). Không mùi, vị đắng.

Thành phần hoá học

Trong thân và rễ vàng đắng có berberin (1,5-3%) ngoài ra còn có ít palmatin,

fatrorizin.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân dùng thân và rễ cây làm thuốc hạ nhiệt, chữa sốt rét, chữa lỵ, ỉa chảy,

đau mắt dùng dạng thuốc bột hay thuốc viên ngày uống 4-6g.

Dùng làm nguyên liệu để chiết berberin.

Berberinclohydrat dạng muối dùng chữa lỵ, ỉa chảy, đau mắt ngày uống 0,02-0,2g

dưới dạng thuốc viên.

Người ta còn dùng chữa bệnh gan mật, vàng da, ăn uống không tiêu, hoặc pha

thành dung dịch 0,5-1% dùng để nhỏ mắt chữa đau mắt hay để rửa mắt.

153

HOÀNG LIÊN GAI

Berberis wallichiana DC.

họ Hoàng liên gai - Berberidaceae

Đặc điểm thực vật

Cây mọc thành bụi cao 2-3m có cành vươn dài, vỏ thân màu vàng xám nhạt, mỗi

đốt dưới chùm lá có gai 3 nhánh dài 1-1,5cm. Lá

mọc thành chùm 3-5 lá, có thể tới 8 lá ở một đốt

cuống lá ngắn 0,5-1cm, phiến lá nguyên, hình mác

hẹp có răng cưa to cứng dài 4-7cm, rộng 1-1,5cm,

mặt trên màu xanh lục nhạt, mặt dưới màu vàng

xám.

Hoa màu vàng mọc thành chùm ở kẽ lá.

Quả mọng hình trái xoan dài độ 1cm,

đường kính 3-4mm, khi chín có màu tím đen,

trong chứa 3-4 hạt đen.

Mùa hoa tháng 5-7, mùa quả tháng 10 đến

tháng 2 năm sau.

Phân bố, bộ phận dùng, trồng hái và chế biến Hình 9.18. Hoàng liên gai

Cây hoàng liên gai mọc hoang ở Lào Cai (Sa Pa).

Dùng thân và rễ cây, thu hái về cắt ngắn, thái mỏng đem phơi hay sấy khô.Trồng

bằng hạt cây mọc và phát triển tốt ở vùng núi cao (1500-2500m) khí hậu mát, 2-3 năm sau

có thể thu hoạch.

Thành phần hoá học

Thân và rễ hoàng liên gai đều có berberin (3-4%).

Công dụng và liều dùng

Dùng làm nguyên liệu chế biến berberin.

Dùng làm thuốc chữa lỵ, ỉa chảy, ăn uống kém tiêu, dùng dưới dạng thuốc sắc, mỗi

ngày uống 4-6g, có thể uống dưới dạng bột. Ngoài ra người ta còn ngâm rượu chữa những

triệu chứng của huyết áp cao như hoa mắt, nhức đầu, chóng mặt, ngậm chữa đau răng.

HOÀNG BÁ

Có 2 loại hoàng bá:

Phellodendron amurense Rupr. (còn gọi là hoàng nguyệt, quan hoàng bá).

Cây xuyên hoàng bá: Phellodendron chinense Schneider. (còn gọi là hoàng bì thụ).154

Họ Cam - Rutaceae.

Đặc điểm thực vật

Hoàng bá là cây gỗ to, cao 10-25m, đường kính thân tới 50cm. Cành rất phát triển,

vỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt, lớp bần dày, mềm, có đường rạch dọc lung tung, vỏ

trong màu vàng tươi.

Lá kép lông chim, mọc đối, có 5-13 lá

chét hình trứng dài 5-12cm, rộng 3-4,5cm,

mép có răng cưa nhỏ, mặt trên màu lục xám,

mặt dưới màu xanh nhạt phần gốc của gân

giữa mang lông che chở mềm.

Hoa nhỏ màu vàng lục hoặc vàng nhạt,

mẫu 5, hoa đơn tính khác gốc.

Quả mọng, hình cầu, khi chín có mầu

tím đen có mùi thơm đặc biệt.

Mùa hoa vào tháng 5-7, mùa quả vào

tháng 9-11.

Xuyên hoàng bá cây nhỏ thấp hơn, vỏ

màu xám mỏng, không có bần dày, có 7-15 lá

chét, mặt dưới lá có lông mềm dài và dặm.

Phân bố trồng hái và chế biến Hình 9.19. Hoàng bá

Hoàng bá có nhiều ở Trung Quốc và ở Nga. Mấy năm gần đây ta đã di thực trồng

thí điểm thành công. Cây mọc tốt và khoẻ đang có hướng phát triển.

Hoàng bá ưa khí hậu mát, chịu rét, thích nghi với đất màu, yêu cầu phân bón cao.

Trồng bằng hạt.

Hái vỏ cây đã trồng trên 10 năm, vào mùa hạ. Bóc vỏ, cạo sạch lớp bần, cắt miếng

phơi khô.

Bộ phận dùng

Vỏ thân (Cotex Phellodendri) vị hoàng bá hiện nay còn phải nhập về thương phẩm

có 2 loại:

a. Quan hoàng bá (Phellodendron amurense Ruprecht.)

Dược liệu là những mảng vỏ đã loại lớp bần, dày 1,5-4mm, mặt ngoài màu vàng

lục có vết rách dọc bần còn sót lại, hơi đàn hồi, màu xanh vàng; mặt trong màu vàng xám,

cứng vết bẻ có xơ màu vàng tươi, mùi hơi thơm, vị rất đắng

b. Xuyên hoàng bá (Phellodendron chinense Schneider.)

155

Dược liệu là những mảnh dày, mặt ngoài vàng nâu nhạt, có rãnh dọc, có nốt sần

tím nâu, hình thoi giữa các vết rạch dọc. Phần còn sót không có tính đàn hồi mặt trong

vàng bẩn hơi óng ánh.

Thành phần hoá học

- Trong vỏ quan hoàng bá có chừng 1,6% berberin; có lượng nhỏ phellodendrin

(C20H23O4N+), magnoflorin (C20H24O4N+), Jatrorzin (C20H20O4N+), palmatin (C21H2CO4N+),

candixin (C11H18ON+), menisperin (C21H26O4N).

Ngoài ra trong quan hoàng bá còn có chất có tinh thể không chứa nitơ.

Obakullacton (C26H30O8), obakunon (C26H30O7) và một số chất khác.

- Trong vỏ xuyên hoàng bá: Chứa khoảng 3% berberin.

Công dụng và liều dùng

Hoàng bá dùng chữa lỵ, ỉa chảy, hoàng đản do viêm ống mật, viêm đường tiết niệu,

đái đục, trĩ, đau mắt, viêm tai, di tinh, khí hư, sốt, ra mồ hôi trộm

Ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Dùng ngoài để rửa mắt, đắp chữa mụn nhọt vết thương

Dùng làm nguyên liệu chiết berberin.

HOÀNG ĐẰNG

Có hai loại hoàng đằng: Fibraurea recisa Pierre. và Fibraurea tincioria Lour.

họ Tiết dê - Menispermaceae

Đặc điểm thực vật

a. Cây Fibraurea recisa là loại dây leo to, thân rất cứng, hình trụ, lá mọc so le,

cứng nhẵn; phiến lá hình 3 cạnh dài, phía dưới tròn, ba gân chính nổi rõ, cuống dài có 2

nốt phình lên 1 ở dưới 1 ở trên. Hoa mọc thành chuỳ 2-3 lần phân nhánh, dài 30-40 cm ở

kẽ lá đã rụng, hoa vàng lục, đơn tính khác gốc. Hoa đực có 3 nhị tự do, chỉ nhị dài bằng

bao phấn.

Quả hạch hình trái xoan, khi chín có màu vàng, chứa 1 hạt dày hơi dẹt. Mùa hoa,

quả từ tháng 3 - tháng 7.

b. Cây Fibraurea tincioria khác cây trên ở chỗ lá nhọn, cụm hoa ngắn hơn, chỉ

phân nhánh 2 lần, hoa đơn tính khác gốc. Hoa đực có 6 nhị tự do, chỉ nhị dài hơn bao

phấn. Quả hạch hình trái xoan khi chín màu vàng. Mùa quả tháng 5-7.

156

Phân bố thu hái và chế biến

Mọc hoang khắp các vùng núi nước ta

suốt từ Bắc đến Nam, có nhiều ở Nghệ An trở

vào.

Mùa thu hoạch gần như quanh năm.

Thường lấy thân và rễ cắt đoạn ngắn 15-30cm,

phơi hay sấy khô.

Bộ phận dùng

Thân và rễ đoạn hình trụ thẳng hay cong

queo dài 10-30 cm, đường kính 1-2 cm (có khi

tới 10 cm).

Mặt ngoài màu vàng xám có nhiều vân

dọc có sẹo của cuống lá hay rễ con, chất cứng

dai khó bẻ gẫy. Mặt cắt ngang màu vàng tươi,

gồm 3 phần; vỏ mỏng, gỗ có nhiều tia toả thành

hình nan hoa bánh xe, tuỷ hẹp vị đắng.

Hình 9.20. Hoàng đằng

Thành phần hoá học

Hoạt chất trong hoàng đằng là alcaloid trong đó alcaloid chính là palmatin (1-2%)

ngoài ra còn có một ít Jatrorizin và columbamin

Công dụng, cách dùng liều dùng

Làm nguyên liệu chiết palmatin.

Dùng làm thuốc chữa đau mắt, sốt rét, lỵ, bệnh về gan, chữa viêm ruột, ỉa chảy và

dùng làm thuốc bổ đắng. Ngày dùng 0,20-0,40g

Làm thuốc bổ đắng; dùng 4-12g dưới dạng thuốc sắc chữa viêm ruột, ỉa chảy, lỵ.

Palmatin clohydrat chiết từ hoàng đằng chữa ỉa chảy, lỵ dùng dưới dạng viên.

Người lớn uống 5-10 viên/ ngày (viên 0,02g) trẻ em dùng viên 0,005g tuỳ theo tuổi

để uống.

1 tuổi uống 2-4 viên/ ngày.

2 tuổi uống 3-6 viên/ ngày.

4 tuổi uống 5-10 viên/ ngày.

Uống 2-3 lần trong này.

Có thể dùng palmatin để điều chế Tetrahydro-palmatin là chất có tác dụng an thần.

157

10. VÔNG NEM

Erythrina orientalis (L.) Murr.

họ Đậu - Fabaceae

Tên khác: Hải đồng, Thích đồng.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thân gỗ, cao tới 10m. Thân và cành có gai ngắn, hình nón, cây phân nhánh

nhiều. Lá mọc so le, có 3 lá chét hình tam giác, mép lá nguyên, lá chét ở giữa to hơn lá

chét 2 bên và có chiều rộng lớn hơn chiều dài, lá rụng vào mùa khô.

Hoa màu đỏ tươi, mọc thành chùm dày; đài hình mo, rách dọc tới gốc, tràng hoa

xếp theo kiểu tiền khai cờ, cánh cờ to dài 4-9 cm, rộng 2-3 cm, cánh thìa tự do. Có 10 nhị

liền nhau, 1 nhị dời, xếp thành 2 vòng, chỉ nhị màu tím đỏ, bao phấn màu vàng, đỉnh lưng

có xẻ rãnh. Nhuỵ dài hơn nhị, có núm nhuỵ.

Cây rất ít quả mặc dù rất nhiều hoa. Quả loại đậu, thắt lại ở giữa các hạt, mỗi quả

4-8 hạt. Hạt hình thận màu nâu hay màu đỏ.

- Cây vông nem mọc hoang hay được trồng ở khắp nơi trong đất nước ta, cây mọc

nhiều ở vùng nhiệt đới châu Á, châu Mĩ, châu Phi.

- Cây mọc tự nhiên hoặc trồng bằng dâm cành. Cây phát triển tốt ở ven biển, ven

sông.

Bộ phận dùng thu hái và chế biến

- Lá(Folium Erythrinae) thu hoạch lá vào mùa xuân - hạ dùng tươi hay khô.

- Vỏ thân (Cortex Erythrinae) khi dùng cạo sạch lớp bần khô bên ngoài rửa sạch

thái mỏng.

Thành phần hoá học

Lá, vỏ, thân và hạt đều chứa alcaloid. Hàm lượng alcaloid toàn phần trong lá 0,10-

0,16%, vỏ thân 0,06-0,09%, hạt 2%.

Trong lá vỏ thân có erysotrin, erysodin, erysovin, erysonin, erythranin, erysopin,

erythrinin, erythralin.

Trong hạt có erythralin, hypaphorin.

Ngoài ra trong lá và vỏ thân còn có saponin, flavonoid, tanin; hạt còn có chất béo

và các acid hữu cơ.

Tác dụng và công dụng

Alcaloid toàn phần trong lá vông nem ít độc. Dung dịch alcaloid toàn phần 2% có

tác dụng ức chế một số vi khuẩn Ecoli, Bacilluscerens, Staphylococensanrens.

Nhân dân dùng lá vòng nem sắc uống hoặc luộc ăn chữa mất ngủ, dịu thần kinh,

chữa suy nhược thần kinh, kém ăn, mất ngủ ngày dùng 8-10g.158

Cao lá vông (kết hợp với cao lá sen, rotundin hoặc củ bình vôi, lạc tiên, lá dâu,

long nhãn) làm thuốc an thần, trấn kinh; chữa mất ngủ, thần kinh suy nhược.

Ngoài ra còn dùng lá rã nát hơ nóng đắp chữa trĩ ngoại, bột lá rắc lên vết thương

chống nhiễm khuẩn.

VII. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN INDOL

MÃ TIỀN

Có nhiều loại Mã tiền trong đó có cây Mã tiền Strychnos nux- vomica L.

Và một số loài Mã tiền khác có chứa strychnin thuộc họ Mã tiền - Loganiaceae.

Đặc điểm thực vật

Cây Strychnos nux-vomica L. là cây gỗ, thân đứng cao 5-12m, vỏ màu nâu xám có

lỗ bì, cành non có gai. Lá mọc đối hình trứng đầu nhọn, mặt trên xanh bóng, có 5 gân

hình cung nổi rõ ở mặt dưới. Cụm hoa ngù mọc ở đầu cành. Hoa nhỏ, hình ống, màu vàng

nhạt, có 5 cánh hoa dính liền thành một ống dài 1-1,2 cm, 5 nhị dính phía trên ống tràng.

Bầu hình trứng, nhẵn. Quả thịt hình cầu đường kính 3-5cm, vỏ nhẵn bóng, khi chín có

màu vàng cam, chứa 1-5 hạt hình đĩa dẹt, như chiếc khuy áo, một mặt lồi, một mặt lõm,

có lông mượt, màu xám bạc đường kính 2-2,5 cm. Mùa hoa tháng 3-4. Mùa quả tháng 5-

8.

Ngoài cây Mã tiền, nước ta còn một số loài Mã tiền dây leo khác.

Bộ phận dùng

Hạt (Semen Strychni) đã phơi hoặc sấy khô.

Hạt hình đĩa dẹt mép hơi lồi lên, đường kính

1,2-2,5cm, dày 4-8mm, một số hạt hơi méo mó,

không đều, màu xám nhạt mặt bóng do có một số

lông tơ mượt tới giữa mọc toả ra xung quanh, giữa

một mặt có một số lỗ lồi nhỏ (rốn) từ rốn có một

đường hơi lồi (sống noãn). Hạt gần như chỉ cấu tạo

bởi nội nhũ sừng rất cứng, cây mầm rất nhỏ năm

trong khoảng giữa nội nhũ, không mùi, vị rất đắng.

Thành phần hoá học

Hoạt chất trong hạt mã tiền Strychnos nux-

vomica L. là alcaloid (2-5%) trong đó (50%) là

strychnin, phần còn lại là brucin còn khoảng 2-3%

là các alcaloid phụ khác như α-colubrin, β-

colubrin, vomicin, novacin, pseudo strychnin. Hình. 9.21. Ma Tiền

159

Ngoài alcaloid trong hạt còn có chất béo (4-5%), acid igasuric, acid loganic,

stigmasterin, cycloarterol và một glycosid là loganin có nhiều trong cơm quả.

Trong lá có khoảng 2% trong vỏ thân có trên 8% alcaloid nhưng chủ yếu là brucin.

- Hạt mã tiền dùng làm thuốc phải chứa 1,2% strychin (DĐVN II).

Công dụng và liều lượng

Mã tiền được dùng làm nguyên liệu để chiết xuất strychnin.

Strychnin dùng dưới dạng muối sulfat để chữa tê liệt dây thần kinh, suy nhược cơ

năng, liệt dương, làm thuốc kích thích hành tuỷ, trong trường hợp giải phẫu não, giải độc

thuốc ngủ barbituric.

- Liều dùng: uống 0,001g/lần 0,003g/24h dưới dạng dung dịch siro, potio hoặc

tiêm dưới da 0,001g/ lần-0,002g/24h.

- Mã tiền chưa chế biến thường chỉ dùng ngoài làm thuốc xoa bóp chữa nhức mỏi

tay chân do thấp khớp, đau dây thần kinh dùng dạng cồn thuốc, dùng riêng hoặc phối hợp

với ô đầu phủ tử.

- Mã tiền đã chế biến theo y học cổ truyền được dùng chữa đau nhức, sưng khớp,

tiêu hoá kém, suy nhược thần kinh, bại liệt, liệt nửa người, chó dại cắn.

Liều uống tối đa 0,10g/ lần - 0,3g/ 24h dùng riêng hoặc phối hợp với những vị

thuốc khác. Trẻ em dưới 3 tuổi không được dùng, từ 3 tuổi trở lên dùng 0,005g cho mỗi

tuổi.

Viên hydan có mã tiền chế, hy thiêm, ngũ gia bì dùng chữa thấp khớp.

2. HOÀNG NÀN

Strychnos wallichiana Stend. ex. DC. (=Strychnos gaulthierana Pierre.)

họ Mã tiền - Loganiaceae.

Tên khác còn gọi là vỏ dãn, vỏ noãn, mã tiền lá quế.

Đặc điểm thực vật

Hoàng nàn là cây leo đơn độc hoặc phân nhánh,

cành có tua cuốn và móc cứng như sừng. Vỏ thân xám có

nốt sần sùi màu nâu đỏ, lá mọc đối nhau có 3 gân nhô lên

ở mặt chính dưới lá.

Hoa không cuống, mọc thành chuỳ dạng ngù ở đầu cành,

phủ lông màu hung nâu. Quả mọng hình cầu, đường kính

4-5 cm vỏ quả cứng dễ vỡ, hạt nhiều, hình cúc áo có lông

mượt vàng ánh bạc dày 18mm.

Hình 9.22. Hoàng nàn160

Phân bố, thu hái, chế biến

Hoàng nàn thường mọc ở một số tỉnh miền bắc, thường bóc vỏ thân vỏ cành phơi

sấy khô.

- Chế biến:

Ngâm vỏ vào nước 12-24h cạo hết lớp vàng bên ngoài rồi ngâm nước vo gạo 3 ngày đêm

(mỗi ngày thay nước một lần) rửa sạch, trước khi dùng đem sao qua, nghiền tán

thành bột (có thể trước khi tán bột tẩm với dầu vừng sao qua).

Bộ phận dùng

Vỏ cây: miếng cuộn tròn dài 10-15cm rộng 2-3cm, dày 1,5-2mm. Mặt ngoài sần

sùi, màu nâu xám, có đốm trắng vàng hay vàng thẫm, mặt trong nhẵn, màu nâu đen, có

đường vân dọc, vị đắng.

Thành phần hoá học

Trong vỏ hoàng nàn có strychnin, brucin. Hàm lượng alcaloid toàn phần tới 5,23%

(trong đó brucin 2,81% strychnin 2,37-2,43%), ngoài ra còn có nhiều nhựa.

Công dụng và liều dùng

Hoàng nàn là vị thuốc rất độc do đó khi dùng phải chế biến để giảm độc.

Hoàng nàn chế được dùng chữa chó dại cắn, chữa phong, ghẻ và một số bệnh

ngoài da khó chữa.

Trong một số đơn thuốc chữa thấp khớp có người dùng vị hoàng nàn chế liều tối

đa 0,1g/ lần 0,40g/ 24h.

Một vài nơi còn dùng hoàng nàn chế làm thuốc cường dương, kích thích sinh dục

nữ.

CÂY LÁ NGÓN

Gelsenium elegans Benth. họ Mã tiền - Loganiaceae.

Tên khác cỏ ngón, đoạn trường thảo, hồ mạn đằng, câu

vẫn, thuốc rút ruột, ngón vàng.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây lá ngón là loại cây mọc leo, thân và cành

không có lông, trên thân hơi có khía dọc. Lá mọc đối hình

trứng, hay hơi hình mác mép nguyên, nhẵn dài 7-12cm

rộng 2,5-5,5cm. Hoa mọc thành xim ở đầu cành hay kẽ lá,

cánh hoa màu vàng.

Mùa hoa vào tháng 6-8-10.

Quả nang dài, màu nâu, dài 1cm rộng, 0,5cm. Hạt

nhỏ quanh mép có rìa mỏng, màu nâu nhạt, hình thận. Hình 9.23. Cây lá ngón

161

Mọc hoang phổ biến ở miền rừng núi nước ta, nó còn mọc ở một số nước vùng

nhiệt đới châu Á và bắc Mỹ.

Thành phần hoá học

Các tác giả Trung Quốc chiết từ rễ cây lá ngón các alcaloid kumin, kuminin,

kuminicin, kuminidin trong đó kumin là alcaloid chính.

Kuminicin là chất có tác dụng chủ yếu và rất độc. Ngoài ra còn có một số alcaloid

khác. Ở Việt Nam có tác giả (F.guichard năm 1936) đã chiết được kumin từ lá, vỏ thân, rễ

và có cả trong quả và hạt. Ngoài ra còn một chất có huỳnh quang dưới đèn tử ngoại không

tan trong acid xác nhận là chất thuộc nhóm esculetin.

Tác dụng và công dụng

Các alcaloid của cây lá ngón có độc tính rất mạnh, nhân dân ta không dùng cây này

làm thuốc nhưng cần biết để tránh lấy nhầm vào những cây thuốc khác, gây độc chết

người.

Ngộ độc: nôn mửa, hôn mê, giãn đồng tử, ngạt hô hấp, các cơ bị mềm nhũn, đau

bụng dữ dội, chảy máu dạ dày ruột.

Cấp cứu: phải lập tức sử dụng phương pháp tổng hợp lúc đầu rửa dạ dày, duy trì

nhiệt độ hô hấp nhân tạo, dùng thuốc kích thích đồng thời tuỳ hiện tượng mà sử trí cho

thích hợp.

BA GẠC

Ở Việt Nam có nhiều loại ba gạc, đều thuộc họ Trúc đào - Apocynaceae.

Chủ yếu là loại ba gạc Việt Nam, ba gạc ấn Độ, ba gạc 4 lá, ba gạc Cu Ba, ba gạc lá to, ba

gạc lá nhỏ.

Đặc điểm thực vật

Với ba gạc Việt Nam (Rauvolfia verticillata) là cây nhỏ cao 1-1,5m, cành non dẹt

lá mọc vòng 3-4 lá, có khi mọc đối, phiến lá hình mác dài.

Hoa trắng mọc thành xim dạng tán kép, đài 5 ống hình chuông rất ngắn, tràng 5

ống hơi cong, ở họng có lông, nhị 5 đính trên ống tràng, đĩa mật hình nhẫn ngắn. Bầu có 2

lá noãn rõ. Quả hạch 2 khi chín có màu đỏ tươi (đặc điểm của các loại ba gạc khác tham

khảo thêm những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam hoặc dược liệu tập 2 đại học Dược Hà

Nội).

162

Phân bố trồng hái và chế biến

Ba gạc Việt Nam mọc hoang ở nhiều vùng núi Việt Nam (chủ yếu là các tỉnh phía

bắc từ Thanh Hoá trở ra)

Ba gạc 4 lá mới phát hiện mọc hoang ở Phú

Thọ.

Ba gạc lá to mọc ở Miền Trung, Lâm đồng,

Quảng Nam, Đà Nẵng, Gia Lai, Đắc Lắc.

Ba gạc lá nhỏ mọc ở Phú Quốc, An Giang,

Bình Định.

Ba gạc Ấn Độ, Cu Ba là cây di thực, gần đây

phát hiện ba gạc Ấn Độ mọc ở Đắc Lắc.

- Ba gạc trồng bằng hạt cũng có thể trồng

bằng thân hay rễ, trồng càng lâu năm càng to song

thường trồng 1-2 năm thì thu hoạch.

Có thể thu hoạch quanh năm, song tốt nhất

vào mùa thu đông, đào rễ về rửa sạch đất cát phơi

hay sấy khô, chú ý bảo vệ lớp vỏ vì lớp vỏ chứa nhiều hoạt chất nhất.

Bộ phận dùng

Rễ (Radix Rauvolfiae) rễ hình trụ thường cong queo, ít phân nhánh dài 40cm,

đường kính 1-2 cm, phía trên có khi còn sót lại một đoạn gốc khoảng 2-3 cm, mặt ngoài

màu vàng nâu nhạt, có những đường nứt dọc. Vỏ mềm mỏng có chỗ bị bong ra để lộ gỗ

rất mịn. Gỗ cứng chắc khó bẻ gãy, không mùi vị đắng.

Thành phần hoá học

Hoạt chất trong rễ ba gạc là alcaloid tập trung ở vỏ rễ.

- Ba gạc Việt Nam có chứa 0,9-2,2% alcaloid toàn phần trong vỏ rễ (trong đó có

reserrpin, ajmalicin, serpentin). Lá chứa 0,72-1,69% alcaloid toàn phần.

- Ba gạc ấn Độ có chứa 3,3% alcaloid toàn phần trong vỏ rễ 0,27%; ở lõi rễ 0,97%

ở thân và lá. Trong đó có reserpin 0,04%, ajmalin 0,5%.

- Ba gạc 4 lá: chứa 1-1,5% alcaloid toàn phần trong rễ (90% alcaloid tập trung ở vỏ

rễ). Cây trồng ở vỏ rễ chứa 3,28-5,65% alcaloid toàn phần. Rễ có reserpin 0,2%, ajmalin,

rauvanin và alstonin. Lá chứa 1% alcaloid toàn phần.

- Ba gạc lá to: vỏ rễ chứa 1,5-2% alcaloid toàn phần, trong đó có reserpin và

jamalin.

- Ba gạc lá nhỏ: vỏ rễ chứa 3,5-3,8% alcaloid toàn phần, trong đó có reserpin.

- Ba gạc Cu Ba: rễ có 1,5-2% alcaloid toàn phần, trong đó có reserpin 0,05%,

rescinnamin, deserpin.

Hình 9.24. Ba gạc lá to

163

Công dụng

Rễ ba gạc làm nguyên liệu chiết xuất reserpin, ajmalin, alcaloid toàn phần hoặc

nấu cao hay dùng bột rễ làm thuốc.

Reserpin dùng để điều trị cao huyết áp với liều 0,1-1,5mg/ ngày; dạng viên nén

0,1mg-0,25mg-0,5mg; thuốc tiêm 5mg/2ml.

Liều dùng cho bệnh nhân tâm thần cao hơn, dùng 5mg/kg thể trọng. Song hiện nay

rất ít dùng cho bệnh nhân tâm thần vì đã có dẫn chất phenothiazin thay thế.

- Alcaloid toàn phần của ba gạc Ấn Độ viên ranviloid (2mg alcaloid toàn phần/1

viên) dùng chữa cao huyết áp với liều 2-4mg/ ngày.

- Viên raucaxin ở ba gạc Cu Ba 2mg alcaloid toàn phần/1 viên.

- Cao lỏng chế từ ba gạc Việt Nam chứa 1,5% alcaloid toàn phần liều trung bình

mỗi ngày 30-60 giọt.

- Viên raucaxin chế từ bột rễ ba gạc ấn Độ (50-100mg) ngày dùng 200-400mg.

Không nên dùng reserpin và các chế phẩm từ ba gạc trong các trường hợp loét dạ

dày tá tràng, nhồi máu cơ tim, hen suyễn...

Ajmalin được dùng điều trị nhịp tim có dạng viên 50mg, ống tiêm 2ml, uống mỗi

lần 1-2 viên uống 3 lần trong ngày.

Ranbasin viên nén hay viên bọc đường 1-5mg và 10mg, ống tiêm 10mg/3ml dùng

trong trường hợp tai biến mạch máu não, rối loạn tâm thần, do chứng suy n o ở người�

già, viêm động mạch chi dưới ngày uống 3 lần x 1-2 viên vào bữa ăn, tiêm tĩnh mạch

chậm 1-2 ống/ ngày.

DỪA CẠN

Catharanthus roseus (L) G. Don.

họ Trúc đào - Apocynaceae

Tên khác: trường xuân hoa, dừa tây, bông dừa, hải đăng

Đặc điểm thực vật

Dừa cạn là cây thảo sống nhiều năm cao 40-80cm,

cành thẳng đứng. Lá mọc đối thuôn dài, đầu hơi nhọn,

cuống hẹp, không có nhựa mủ.

Hoa trắng hoặc hồng mọc riêng lẻ ở kẽ lá. Đài hợp

thành ống ngắn, tràng hợp hình đinh, phiến có 5 thuỳ, 5 nhị

đính trên tràng, 2 lá noãn hợp với nhau ở vòi. Quả gồm 2

Hình 9.25. Dừa cạn

164

đại, mọc thẳng đứng hơi ngả sang 2 bên trong có 12-20 hạt có những mụn nổi thành hàng

dọc. Mùa hoa, quả gần như quanh năm.

Phân bố và trồng hái

Dừa cạn có nguồn gốc ở đảo Madagasca, mọc hoang và được trồng ở nhiều nước

nhiệt đới và ôn đới.

- Ở nước ta dừa cạn mọc hoang và được trồng để làm cảnh ở nhiều tỉnh. Mọc nhiều

ở các tỉnh ven biển, từ Quảng Bình đến Kiên Giang.

Trồng bằng hạt

Bộ phận dùng

Thu hái cành mang lá (Folium Catharanthi) và hoa về phơi sấy khô.

Ngoài ra còn dùng cả rễ

Thành phần hoá học

Hàm lượng alcaloid toàn phần trong lá 0,37-1,15%, thân 0,46%, rễ chính 0,7 -

2,4%, rễ phụ 0,9 - 3,7%, hoa 0,14- 0,84%, vỏ quả 1,14%, hạt 0,18%, có tối đa trên 70

alcaloid được tìm thấy ở dừa cạn. Theo cấu tạo hoá học người ta chia ra làm 3 nhóm

chính:

a. Nhóm alcaloid có nhân indol

Gồm có perivin, peviridin, perosin, cathantin, cavicin, ajmalicin.

b. Nhóm alcaloid có nhân indolin

Gồm có vindolin, ajmalin, lochnericin, lochneridin, lochrovin.

c. Nhóm alcaloid có 2 vòng indol hoặc 1 vòng indol và 1 vòng indolin. Trong

nhóm này có những alcaloid có tác dụng chữa bệnh ung thư như vinblastin có hàm lượng

rất thấp 0,005% - 0,015%, trong lá có vincristin 0,003 - 0,005% và leurosin và leurosidin.

Tác dụng và công dụng

Cao lỏng dừa cạn có tác dụng hạ huyết áp, an thần gây ngủ và có độc tính nhẹ.

- Vinblastin và vincristin có tác dụng chống ung thư đặc biệt chống bệnh bạch cầu

trên mô hình thực nghiệm, hai alcaloid này tuy độc tính có khác nhau chút ít nhưng đều

được dùng để điều trị bênh ung thư biểu mô, đặc biệt đối với bệnh limpho hạt, bệnh bạch

cầu.

Vinblastin sulfat lọ bột đông khô pha tiêm tĩnh mạch 10mg. Vincristin sulfat lọ bột

để pha tiêm tĩnh mạch 1mg.

- Ngoài ra dược liệu dùng chữa bế kinh, huyết áp cao, chữa tiêu hoá kém và lỵ.

Ngày dùng 8-12g dạng thuốc sắc.

Vinca (3mg alcaloid toàn phần/1viên) uống 2-3 viên x 2 lần trong ngày chữa bệnh

cao huyết áp.

Rễ dừa cạn dùng làm nguyên liệu chiết xuất ajmalicin.

165

LẠC TIÊN

Có nhiều loài lạc tiên điển hình là cây lạc tiên Passiflora foetida L.

họ Lạc tiên - Passifloraceae.

Ngoài ra còn có một vài cây khác cũng gọi là lạc tiên cũng dùng làm thuốc.

Tên khác hồng tiên, dây nhân lồng, lồng đèn.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Passiflora foetida L. là cây mọc leo, thân mềm, mang nhiều lông thưa và mềm. Lá

mọc cách, có nhiều lông dính, phiến lá có 3 thuỳ, thuỳ giữa lớn hơn hai thuỳ bên, mép có

răng cưa nhỏ, cuống lá không có tuyến mật, có lá kèm nhỏ. Tua cuốn và hoa mọc ở kẽ lá.

Hoa mọc riêng lẻ, to, đều, lưỡng tính, có tổng bao gồm 3 lá bắc dời nhau, chia thành

những sợi nhỏ như sợi tóc về sau tồn tại ở gốc quả, ở gốc tràng có 2 vòng phần phụ hình

sợi màu tím, 5 nhị, đài hợp, 5 răng, 5 cánh, bầu thường, nhẵn một ô, đỉnh noãn bên mang

3 vòi, nhị và nhuỵ đặt ở trên một cuống nhị, nhuỵ. Quả mọng, hình trứng, khi chín có màu

vàng nhiều hạt có áo hạt thơm ăn được.

Ngoài ra còn một số loài khác cũng được dùng để làm thuốc giống như loài

Passiflora foetida L.

Bộ phận dùng chế biến

Quả chín để ăn và làm nước giải khát.

Phần trên mặt đất của cây (Herba Passiflorae)

thu hái quanh năm, hái về phơi sấy khô, có thể nấu cao

hay pha cồn thuốc (1/5) với cồn 60o

Thành phần hoá học

Có 0,09% alcaloid toàn phần gồm harman,

harmin, harmol, harmalol, harmalin.

Ở lá và hoa có 1,5 - 2,1%, ở rễ cây có 0,2-

0,85% flavonoid trong đó có saponarin, saponaretin và

vitexin.

Ngoài ra còn dẫn xuất cumarin, saponin, các acid amin

các chất đường... Hình 9.26. Lạc tiên

Tác dụng và công dụng

Lạc tiên được dùng làm thuốc an thần chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, động

kinh, co giật.

Dùng dạng cao hay siro, thường phối hợp với các vị thuốc khác như lá vông, tâm

sen, lá dâu, long nhãn.166

VIII. MỘT SỐ DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN IMIDAZOL, NHÂN

QUINAZOLIN, NHÂN PURIN

PILOCARPUS

Có nhiều loài Pilocarpus thuộc họ Cam - Rutaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Pilocarpus là những cây nhỏ, nhẵn hoặc có ít lông, lá có cuống, lá đơn hay lá kép

lông chim, không có lá kèm, trong lá nhìn thấy nhiều điểm chấm, đó là các túi tiết rất lớn.

Hoa mọc thành chùm đơn hay kép, có khi thành bông. Pilocarpus mọc hoang ở

Braxin.

Bộ phận dùng

Lá (Folium Pilocarpi) hình dạng lá thay đổi tuỳ theo loài.

Trên thị trường buôn bán thường dùng hỗn

hợp các lá của nhiều loại trên.

Thành phần hoá học

Trong lá tươi hay sấy khô có 0,2 - 1%

pilocarpin (hàm lượng giảm xuống nhiều khi để

lâu).

Còn có: isopilocarpin là đồng phân không

gian của pilocarpin bất đối ở vòng lacton.

Ngoài ra còn có alcaloid phụ như

pilocarpidin và pilosin cũng như những đồng phân

không gian của 2 alcaloid này. Ngoài alcaloid còn

có tinh dầu, tanin, acid hữu cơ. Hình 9.27. Pilocarpus sp.

Tác dụng và công dụng

Ngày nay hầu như người ta chỉ sử dụng pilocarpin tinh khiết nên dược liệu thực tế

chỉ để chiết xuất pilocarpin.

Pilocarpin có tác dụng giống thần kinh phó giao cảm, làm tăng bài tiết các hạch,

nhất là mồ hôi và nước bọt, tăng hoạt động của cơ trơn và làm giảm nhãn áp.

Pilocarpin dùng trong bệnh thiên đầu thống (glôcôm) để làm giảm áp lực nhãn cầu.

Ngoài ra còn dùng trong các bệnh cần kích thích sự bài tiết hạch.

167

THƯỜNG SƠN

Dichroa febrifuga Lour.

Họ tú cầu (họ Thường Sơn) - Hydrangeaceae

Tên khác: Hoàng Thường Sơn, thực tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo

Đặc điểm thực vật

Thường Sơn là cây nhỡ cao 1-2m, thân rỗng dễ gẫy, vỏ ngoài nhẵn màu tím. Lá

mọc đối, hình mác hai đầu nhọn, mép lá có răng cưa, mặt trên xanh, mặt dưới và gân tím

đỏ. Hoa nhỏ, màu xanh hay hồng, đài hợp, nhiều nhị, hoa mọc thành chùm ở các kẽ lá hay

đầu cành. Quả mọng khi chín có màu xanh lam, đường kính 5mm, một ngăn chứa nhiều

hạt nhỏ hình quả lê dài dưới 1mm.

Phân bố thu hái, chế biến

Cây mọc hoang nhiều ở vùng núi Việt Nam.

Thu hoạch rễ vào tháng 8, tháng 10; đào rễ, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi sấy

khô có thể tẩm rượu 2-3 giờ, sao vàng hoặc chưng với rượu.

Thu hoạch lá: hái quanh năm song tốt nhất lúc cây sắp và đang ra hoa. Hái về rửa

sạch dùng tươi hoặc thái nhỏ phơi khô, đem sao vàng hay chưng với rượu, hoặc tước bỏ

hết sống lá, đồ chín phơi khô, khi dùng tẩm rượu

một đêm rồi sao qua.

Bộ phận dùng

Lá (Folium Dichroae).

Rễ (Radix Dichroae).

Lá hình mác có cuống, mép có răng cưa.

Rễ: hình trụ, cong queo, dài 10-30cm,

đường kính 1-2cm, mặt ngoài màu nâu hoặc màu

xám có vết dọc và vết của rễ con, có chỗ bị tróc ra

để lộ gỗ màu vàng nhạt, trên cùng còn vết gốc

thân.Rễ rắn chắc như xương nên còn gọi là kê cốt

Thường Sơn, mặt cắt ngang có màu vàng nhạt. Tia

gỗ hình nan hoa màu trắng. Trong rễ có tuỷ màu

trắng rỗng không mùi vị hơi đắng. Hình 9.28. Thường sơn

Thành phần hoá học

Trong lá có 0,2%, rễ có 0,1% alcaloid toàn phần.

Trong đó có , - dichroin (C16H19O13N3) và γ - dichroin có tác dụng chữa sốt rét.

168

Khi đun nóng -dichroin chuyển thành -dichroin. và -dichroin là những chất

không có tác dụng quang hoạt.

Ngoài ra còn có dichroidin (C18H25O3N3) 4-quinazolon C8H6ON2.

Ngoài alcaloid còn có umbeliferol (dichroin A) và dichroin B có độ chảy 179 -

1810C.

Tác dụng và công dụng

- dichroin (C16H19O13N3) và γ - dichroin có tác dụng chữa sốt rét mạnh hơn

quinin do đó được dùng để chữa sốt rét, sốt cách nhật. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc

sắc.

Dùng sống hay gây nôn cần tẩm rượu và sao.

Thường dùng Thường Sơn phối hợp với thuốc khác để chữa sốt rét.

CHÈ

Camellia sinensis (L.) D.Kuntze. Họ chè Theacea.

Tên khác: Thea chinensis Seem.

Đặc điểm thực vật

Chè là loại cây gỗ, mọc hoang có thể cao tới 20 mét đôi khi mọc thành rừng trên

núi đá cao. Trong khi trồng người ta thường cắt xén cho tiện hái nên cây chỉ cao 1,5 - 2m,

cây có nhiều cành ngay từ gốc, lá mọc so le không rụng, hoa to và trắng có mùi thơm,

mọc ở kẽ lá nhiều nhị.

Quả là một nang thường có 3 ngăn, quả

mở bằng lối cắt ngăn, hạt không có phôi nhũ, lá

mầm lớn có chứa dầu.

Phân bố thu hái và chế biến

Chè có nguồn gốc ở Trung Quốc, hiện

nay được trồng ở nhiều nước như Ấn Độ, Trung

Quốc, Srilanca...

Nước ta chè được trồng ở nhiều nơi suốt

từ Bắc đến miền Trung sát Nam Bộ.

Chè dùng làm thuốc thường hái vào mùa

xuân lấy búp lá non, vò rồi sao cho khô, giống

như cách chế chè hương pha nước uống của nhân

dân, cho nên có thể dùng chè hương hay chè

xanh dùng làm thuốc.

Bộ phận dùng

Lá và nụ hoa. Hình 9.29. Chè169

Thành phần hoá học

Trong búp chè gồm có:

- Nước 75 - 82%.

- Tanin dạng hỗn hợp catechin (30 - 35%).

- Alcaloid: cafein là alcaloid chính (2,5 - 4,5%). Ngoài ra còn có lượng nhỏ

theophylin (0,02 - 0,04%). Theobromin (0,05%), adenin và xanthin.

- Protein và acid amin: protein thường kết hợp với tanin. Trong chè người ta đã tìm

thấy có 17 acid amin, các acid amin kết hợp với đường và tanin tạo aldehyd có mùi thơm

của chè đen và chè xanh có dư vị tốt.

- Glucid và pectin.

- Flavonoid: camferol, quexitrin, mirxetin...

- Dầu thơm.

- Vitamin: A, B1, B2, PP, nhiều nhất là vitamin C.

- Ngoài ra còn có men và các muối vô cơ.

Trong nụ chè có cafein (2 - 2,5%), nước (10%), muối vô cơ và các men.

Công dụng

Chè dùng pha nước uống làm kích thích thần kinh trung ương, lợi tiểu, cầm ỉa chảy

nhẹ, chữa lỵ, dùng riêng hoặc phối hợp với một số vị khác.

Gần đây các nhà khoa học Nhật Bản cho biết chè có tác dụng chống phóng xạ.

CÀ PHÊ

Có nhiều loại cà phê:

- Cà phê chè: Coffea arabica L.

- Cà phê mít: Coffea exselsa Chev.

- Cà phê vối: Coffea robusta Chev.

họ Cà phê - Rubiaceae.

Đặc điểm thực vật và phân bố

Ở Việt Nam chủ yếu có 3 loài, cà phê chè, cà

phê mít, cà phê vối.

Cây cà phê sống lâu năm, thân gỗ, cao 3-5m

(cà phê chè) hoặc 10-15m (cà phê vối, mít). Vỏ thân

thường mốc trắng, cành chia làm 2 loại, các chồi

vượt và các cành ngang mọc từ các mắt của chồi

vượt, các cành tạo thành tầng quanh thân chính và

cành vượt.Hình 9.30. Cà phê170

Lá đơn, mọc đối, hình dạng khác nhau tuỳ theo loài, hình trứng hay lưỡi mác (cà

phê chè, cà phê vối) hình bầu dục (cà phê mít).

Hoa lưỡng tính, mọc đơn độc hay thành chùm.

Quả lúc non màu xanh, khi chín màu đỏ tím có lớp thịt quả bọc quanh hạt, mỗi quả

có 2 hạt dính vào nhau bởi mặt phẳng phía trong mặt ngoài hạt cong hình bầu dục Cà phê

có nguồn gốc ở Ethiopia ngày nay được trồng ở nhiều nước có khí hậu ẩm trên thế giới.

Nước ta cà phê được trồng ở vùng đồi núi trung du của các tỉnh miền Trung, miền Bắc và

được trồng nhiều ở Tây Nguyên.

Bộ phận dùng, thu hái, chế biến

Hạt và lá.

Thu hoạch cà phê bằng cách hái quả chín đang còn ở trên cây hoặc đôi khi quả

chín rụng rồi nhặt. Mùa hái cà phê từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, cà phê vối tháng 1 -

4, cà phê mít tháng 4 - 8, thu hoạch về phơi khô rồi giã cho chóc vỏ sảy sạch.

Hoặc hái về loại bớt thịt quả bằng cách sát dưới nước sau đó ủ cho lên men 2 - 3

ngày, rửa sạch, phơi khô, sát sảy cho hết lớp vỏ giấy ở hạt.

Khi rang cà phê phải rang cho chín tới giữa hạt mà ngoài vẫn không bị cháy, cắt

hạt thấy màu bên trong giống màu bên ngoài, cà phê rang rồi phải đậy kín.

- Lá hái về phơi trong râm đến khô.

Thành phần hoá học

Hạt cà phê chứa 0,3 - 2,5% cafein, có ít theobromin, theophellin.

Phần lớn alcaloid kết hợp với Acid clorgenic, ngoài ra còn có chất béo, protein,

trigonellin đường và chất vô cơ.

Công dụng và liều dùng

Cà phê sống giã nát ngâm rượu uống chữa tê thấp.

- Cà phê rang: pha nước uống có tác dụng kích thích thần kinh, trợ tim, lợi tiểu có

tác dụng giải độc thuốc phiện và say rượu.

- Ngoài ra còn dùng viên cà phê ngậm để làm tinh thần sảng khoái, minh mẫn,

chống buồn ngủ trong khi làm việc.

- Lá chữa phù thũng, ăn uống mau tiêu. Ngày uống 20 - 40g dạng thuốc sắc.

- Cafein có tác dụng trợ tim, lợi tiểu nhẹ dùng trong bệnh nhiễm khuẩn (viêm phổi

- thương hàn), ngất, phù thũng, chữa suy tim, kích thích thần kinh, đau dây thần kinh.

Người lớn uống 0,25 - 1,50g dạng viên, bột, potio, dung dịch, chia nhiều lần trong

ngày, có thể tiêm dưới da 0,25 - 1,50g/ngày.

Trẻ em 2 tuổi trở lên dùng 0,02 - 0,05g chia nhiều lần trong ngày.

171

IX. DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ CẤU TRÚC STEROID, CẤU TRÚC

DITERPEN VÀ CẤU TRÚC KHÁC

MỨC HOA TRẮNG

Holarrhena antidysenterica Wall.

họ Trúc đào - Apocynaceae.

Tên khác: Thừng mực lá to, cây sừng trâu, mộc hoa trắng.

Đặc điểm thực vật

Cây gỗ cao chừng 3-12m. Cành non nhẵn hoặc mang lông màu nâu đỏ, trên mặt có

nhiều bì khổng trắng. Lá mọc đối, gần như không cuống, nguyên, hình bầu dục đầu tù

hoặc nhọn, gốc tròn hay nhọn dài 12-15cm, rộng 4-8cm, mặt lá bóng màu xanh lục nhạt.

Hoa màu trắng, mọc thành ngù, xim ở kẽ lá hoặc ở đầu cành.

Quả đại mọc từng đôi cong trông như sừng

trâu. Mỗi đại màu nâu có vân dọc dài 15-30cm,

rộng 5-7mm. Nhiều hạt dài 1-2cm; rộng 0,2-

0,25cm màu nâu hạt đáy tròn đầu hơi hẹp, lõm một

mặt, trên mặt có đường màu trắng nhạt, chùm lông

của hạt màu hung hung dài 2-4,5cm. Toàn cây có

nhựa mủ.

Cây mọc hoang phổ biến ở các tỉnh miền núi

và trung du, nhiều nhất ở Đắc Lắc và Nghệ An.

Bộ phận dùng

Vỏ thân đã cạo lớp bần phơi hay sấy khô,

thu hái vào mùa khô.

Hạt.

Thành phần hoá học Hình 9.31. Mức hoa trắng

Vỏ thân chiếm 9,5% gồm 6,2% chất nhựa; 1,14% tanin và nhiều alcaloid. Hàm

lượng alcaloid thay đổi tuỳ theo sự phát triển của cây, cao nhất vào lúc cây 8 - 12 tuổi,

hàm lượng alcaloid toàn phần 0,22 - 4,2% trong vỏ. Hiện nay đã tìm được 45 alcaloid,

trong đó conessin là alcaloid chính và nhiều alcaloid phụ như: isoconessin, canarimin,

conimin, conamin, holarimin, holaremin, conkurchim, conessidin.

Chất conessin có tinh thể hình lăng trụ (kết tinh trong aceton), điểm chảy 1250C.

Hạt chứa: 36 - 40% dần béo, tanin, chất nhựa và alcaloid.

Tác dụng và công dụng

Conessin là hoạt chất chính của cây Mức hoa trắng, conessin ít độc.

172

Trên lâm sàng người ta dùng conessin hydroclorid hay hydrobromid chữa lỵ amip

hiệu lực như emetin song ít độc và tiện dùng hơn emetin, nó có tác dụng cả với kén amip,

còn emetin chỉ có tác dụng với amip không có tác dụng với kén amip. Hiện tượng không

chịu thuốc rất ít và không đáng kể.

Mức hoa trắng được dùng điều trị lỵ amip và chữa ỉa chảy dưới dạng cao lỏng, bột,

cồn thuốc, nước sắc vỏ thân hay hạt.

Liều dùng: 10g vỏ thân phơi khô hoặc 3-6g hạt trong ngày, cao lỏng uống 1-3g,

cồn hạt (1/5) uống 2-6g/ngày.

Vỏ thân dùng làm nguyên liệu chiết xuất alcaloid.

Viên holamin do Viện Dược liệu sản xuất là hỗn hợp nhiều alcaloid chiết từ vỏ cây

mức hoa trắng (có 30% conessin) dùng chữa lỵ amip.

CÀ LÁ XẺ

Solanum laciniatum Ait. họ Cà - Solanaceae

Cà lá xẻ còn gọi là cà Úc

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thuộc thảo sống nhiều năm cao 2 - 2,5m. Thân mọc đứng phần gốc hoá gỗ.

Khi cây cao 40 - 60cm thì phân cành màu xanh có sắc tím ở gốc. Lá có hình dạng và kích

thước rất khác nhau, lá phía dưới dài tới 35cm, có cuống, thường xẻ lông chim lẻ, lá phía

trên ngắn dần và bị xẻ ba, còn lá ở ngọn thì nhỏ. Thường nguyên hình mũi mác, lá nhẵn

mặt trên xanh xám, mặt dưới nhạt hơn.

Hoa to họp thành chùm, đài có 5 răng màu xanh, tràng hình bánh xe màu tím có

gân chính màu vàng nhạt, 5 nhị có bao phấn màu vàng. Bầu thượng 2 ô màu xanh, vòi

màu tím, núm tách đôi. Quả mọng, hình trứng dài 2 - 3cm. Hạt nhiều nhỏ, hình thận có

màu nâu. Toàn cây độc song thịt quả chín có thể ăn được.

Cây có nguồn gốc ở nước Tân Tây Lan. Nước ta đã di thực được cây này song

chưa phát triển trồng nhiều.

Bộ phận dùng và thành phần hoá học

Dùng phần trên mặt đất phơi hay sấy khô (Herba Solani laciniati).

Toàn cây chứa glyco alcaloid gần giống nhau là: solasonin và solamacgin khi thuỷ

phân cho cùng 1 aglycon là solasodin.

Solasonin thường gồm , và γ-solasonin có hàm lượng cao nhất là -solasonin.

Còn và γ-solasonin là glycosid cấp 2 do -solasonin thuỷ phân tạo ra, cũng có

thể tồn tại kèm theo với -solasonin. Trong cây, hàm lượng glyco alcaloid thay đổi tuỳ

theo bộ phận của cây.

Ngoài glyco alcaloid trong cây còn có khoảng 0,20% diosgenin 173

Công dụng

Cà lá xẻ được chiết xuất lấy solasodin dùng để bán tổng hợp các thuốc steroid.

Solasodin có tác dụng chống viêm nên cũng dùng để chữa thấp khớp.

Ô ĐẦU

Có nhiều loại ô đầu:

- Ô đầu Việt Nam: Aconitum fortunei Hemsl.

- Âu ô đầu: Aconitum napellus L.

- Ô đầu Trung Quốc: Aconitum chinensis

Paxt. và Aconitum carmichaeli Debx.

họ Hoàng liên - Ranunculaceae.

Đặc điểm thực vật

Cây ô đầu thuộc loại cỏ mọc hàng năm cao

chừng 0,6 - 1m, rễ phát triển thành củ có hình nón,

thân mọc thẳng đứng ít có cành.

Lá mọc so le, hình dáng và kích thước của lá

khác nhau chút ít tuỳ theo loài.

Hoa lưỡng tính, không đều, có màu xanh lơ

thẫm hay xanh tím, mọc thành chùm ở ngọn thân. Có

5 lá đài, trong đó có 1 cái khum thành hình mũ. Hình 9.32. Ô đầu

Quả có 5 đại mỏng, hạt có vảy.

Phân bố, trồng hái và chế biến

Âu ô đầu mọc ở châu Âu. Ô đầu Trung Quốc mọc hoang và trồng ở Trung Quốc.

Ô đầu Việt Nam mọc hoang và trồng ở vùng núi cao như Hà Giang, Lào Cai.

Ô đầu trồng bằng hạt hoặc bằng các củ con. Ô đầu trồng ở vùng khí hậu lạnh, ẩm,

đất hơi cao dễ thoát nước, cây ưa đất mùn, đất cát. Vào khoảng tháng 11 hàng năm thì thu

hoạch, lấy củ to làm thuốc, củ non để trồng. Có nơi trồng vào tháng 3, tháng 4; có nơi

trồng vào mùa đông.

Người ta thường thu hoạch khi trồng được 1 đến 2 năm, cắt bỏ rễ non, rửa sạch đất,

phơi hay sấy khô. Ở nước ta thu hái từ tháng 7 đến tháng 10 khi cây đang ra hoa, trồng

vào tháng 1-2.

- Chế biến: tuỳ theo cách chế biến mà có các vị khác nhau.

a. Sinh phụ tử: còn gọi là diêm phụ (phụ tử muối).

Chọn củ to, rửa sạch, cho vào vại, thêm Magie clorid, muối ăn và nước (cứ 100kg

phụ tử dùng 40kg magie clorid 30kg muối, 60 lít nước), ngâm 10 ngày lấy ra phơi khô, rồi174

lại cho vào vại ngâm, cứ ngày phơi tối ngâm, nước bao giờ cũng sâm sấp củ, thỉnh thoảng

thêm magie clorid, muối, nước để đảm bảo nồng độ ban đầu, cuối cùng vớt ra phơi nắng

để muối thấm vào đến giữa củ mặt ngoài thấy muối kết tinh trắng là được.

b. Hắc phụ tử (hắc phụ):

Lấy củ trung bình rửa sạch cho vào vại thêm magie clorid và muối (10kg phụ tử +

40kg magie clorid 20 lít nước) ngâm vài ngày, sau đó đun sôi 2 - 3 phút, lấy ra rửa sạch,

để cả vỏ thái thành miếng mỏng 5mm, ngâm magie clorid và nước lần nữa, sau đó thêm

đường đỏ và dầu hạt cải để tẩm và sao cho đến khi có màu sẫm như nước chè đặc sau đó

rửa nước cho đến hết vị cay tê đem phơi, sấy khô.

c. Bạch phụ tử (bạch phụ):

Lấy củ nhỏ rửa sạch, cho vào vại ngâm với magie clorid và nước vài ngày, sau đun

đến chín tới giữa củ, lấy ra bóc vỏ đen bỏ đi, thái miếng nhỏ chừng 3mm, rửa hết vị cay tê

hấp chín, phơi khô.

Bộ phận dùng

Củ mẹ (ô đầu).

Củ con (phụ tử).

Rễ củ ô đầu Việt Nam hình con quay dài 3-5cm, đường kính 1-2,5cm, phía trên củ

ô đầu có vết của thân cây, mặt ngoài màu nâu đen có nhiều nếp nhăn dọc và vết của rễ

con đã loại ra, cứng chắc, rắn và dai khó bẻ, vị nhạt sau hơi chát và hơi tê lưỡi.

Phụ tử có hình con quay dài 3,5-5cm, phía trên to đường kính 1,5-2,5cm, có vết

nối với củ mẹ, không có vết tích của thân cây, phía dưới thuôn nhỏ dần, mặt ngoài màu

nâu đen, có nhiều nếp nhăn dọc vòng quanh (có một số rễ nhánh lồi lên như cái bướu),

cứng chắc khó bẻ, vết cắt có màu nâu xám, vị nhạt sau hơi chát và hơi tê lưỡi.

Thành phần hoá học

Hoạt chất trong ô đầu phụ tử là alcaloid, hàm lượng thay đổi tuỳ theo loài và thời

kỳ thu hái.

Ô đầu Việt Nam với cây trồng ở Sa Pa-Lào Cai. Alcaloid toàn phần ở củ mẹ 0,36-

0,80%, củ con 0,78-1,17%.

Trong đó ô đầu Việt Nam có Aconitin, hypaconitin.

Ngoài alcaloid ô đầu phụ tử còn có Acid hữu cơ, tinh bột, đường, muối vô cơ...

Công dụng và liều dùng

Ô đầu phụ tử chưa chế biến dùng ngoài để xoa bóp khi đau nhức, mỏi tay chân,

đau khớp, bong gân dùng dạng cồn aconit 10% của bột (1g cồn thuốc = 57 giọt) hoặc thái

mỏng ngâm rượu để xoa bóp.

175

Có thể dùng trong để giảm đau, các bệnh đau dây thần kinh sinh ba, giảm viêm

trong các bệnh viêm thanh quản, phế quản, họng: dùng chữa ho. Ngày dùng 0,20-1,00g

(tức 10 giọt-57 giọt) cồn 10%, trẻ em 1-2 giọt cho mỗi tuổi trong 24 giờ.

Vì aconitin dễ bị thuỷ phân nên hàng năm phải thay cồn aconit 1 lần.

Ô đầu phụ tử là thuốc độc nên dùng phải thận trọng.

Phụ tử chế (diêm phụ, hắc phụ, bạch phụ) y học dân tộc coi là một vị thuốc hồi

dương, khử phong hàn, dùng chữa một số triệu chứng nguy cấp như truỵ tim mạch, ra

nhiều mồ hôi, chân tay giá lạnh. Ngày dùng 4 - 12g dạng thuốc sắc có khi dùng liều cao

hơn. Thường phối hợp với nhân sâm, can khương tuỳ theo kinh nghiệm của thầy thuốc.

Phụ tử chế được dùng trong bài thuốc bát vị hoàn.

BÁCH BỘ

Stemona tuberosa Lour. họ Bách bộ - Stemonaceae.

Tên khác: Dây ba mươi.

Đặc điểm thực vật

Bách bộ thuộc loại cây leo dài 6 - 8m. Thân nhỏ, nhẵn. Lá thường mọc đối có khi

vừa mọc đối, vừa mọc cách, có cuống, lá hình tim, trên mặt lá ngoài gân chính có 6-8 gân

phụ chảy dọc từ cuống đến đầu lá, có gân ngang nhỏ và rõ.

Hoa tự mọc ở kẽ lá gồm 1 - 2 hoa, màu vàng đỏ. Bao hoa gồm 4 phiến: 2 phiến

ngoài dài 4cm, rộng 5cm; 2 phiến trong rộng hơn. Có 4 nhị, tua ngắn.

Quả nang có 4 hạt.

Rễ củ màu vàng nhạt, mọc thành chùm 20-30

củ (có khi tới 100 củ) dài 10-25cm đường kính 2,5-

2cm.

Phân bố, thu hái và chế biến

Bách bộ mọc hoang nhiều vùng núi nước ta

(Hoà Bình, Phú Thọ...).

Trên thế giới có mọc ở Trung Quốc, Ấn Độ,

Nhật Bản, Châu Úc.

Mùa thu đông đào củ về rửa sạch, củ nhỏ để

nguyên, củ to bổ đôi đem phơi, sấy khô.

Bộ phận dùng

Rễ củ (Radix Stemonae).

Củ thường cong queo bổ đôi hay để nguyên

Hình 9.34. Bách bộ

176

dài 5cm trở lên, rộng trên 0,5cm, đầu trên hơi phình to, đầu dưới thuôn nhỏ, mặt

ngoài màu vàng nâu có nhiều nếp nhăn. Mặt cắt ngang mô mềm vỏ dày trụ giữa cứng, vị

đắng hơi ngọt.

Thành phần hoá học

Trong củ Bách bộ mọc ở Việt Nam có alcaloid (0,5-0,6%) trong đó alcaloid chính

là Tuberostemonin LG ngoài ra còn 8 vết hiện màu với thuốc thử Dragendorff trên sắc kí

lớp mỏng chưa phân lập được để xác định cấu trúc hoá học.

Ngoài ra trong rễ củ còn có glycosid (2,3%)

lipid (0,84%) protid (9,25%) và acid hữu cơ

Công dụng

- Bách bộ làm thuốc trị ho ngày uống 6-20g dưới dạng thuốc sắc, hoặc nấu thành

cao (thường dùng phối hợp với một số vị thuốc khác).

- Trị giun đũa: ngày uống 7-10g dạng thuốc sắc uống 5 ngày liền vào buổi sáng lúc

đói sau uống thuốc tẩy.

- Trị giun kim: Bách bộ tươi 40g (hoặc 20g bách bộ khô) đun với 200ml nước cô

còn 30ml thụt giữ 20 phút; điều trị liền trong 10-12 ngày

Ngoài ra bách bộ còn trừ chấy, rận, bọ chó... cho súc vật.

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời câu hỏi sau:

1. Trình bày được địnhg nghĩa, tên, tính chất chung, trạng thái thiên nhiên của Alcaloid

trong dược liệu.

2. Biết được một số phương pháp chiết suất, phân lập alcaloid trong dược liệu

3. Trình bày được phân loại alcaloid trong dược liệu theo cấu trúc hóa học

4. Trình bày được một số dược liệu chứa alcaloid

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách dùng từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (…):

5. Kể tên 4 dược liệu chứa alcaloid:

A. …………

B. ………....

C. ………….

D. …………..

6. Kể tên 4 dược liệu chiết xuất ra thuốc Berberin:

A. ……………

B. ……………..

177

C……………

D. …………

7. Alcaloid là những hợp chất hữu cơ, có chứa ….. và phản ứng…..

Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp

mà bạn lựa chọn:

8. Cây Tỏi độc có tác dụng chữa bệnh:

A. Tiêu chảy

B. Gút

C Hạ huyết áp

D. Liệt thần.

9. Thân có thiết diện vuông, mọc đứng, có nhiều rãnh dọc, cây mịn và xốp là dược liệu

nào:

A. Ba gạc

B. Thầu dầu tía

C. Ích mẫu

D. Sử quân

10. Sung úy tử là bộ phận:

A. Thân

B. Hoa

C. Lá

D. Hạt

11. Tên khoa học của cây Lựu:

A. Lactuca indica

B. Punica granatum

C. Areca catechu

D. Ophiopogon japonicus

12. Đại phúc bì có tác dụng:

A. Chữa phù thũng

B. Bụng báng nước

C. Tiểu tiện khó

D. Cả 3 đáp án trên

178

13. Thành phần chính trong hạt Mã tiền:

A. Strychnin

B. Camphor

C. Cafein

D. Niketamid

14. Công dụng chính của viên Vinca:

A. Chữa cao huyết áp

B. Chữa tụt huyết áp

C. Có tác dụng an thần

D. Có tác dụng chống co giật

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) và chữB (cho câu sai):

15. Người đầu tiên đưa ra khái niệm về alcaloid là dược sĩ Wilhelm

Meissner.

16. Nicotin có tính base mạnh làm xanh giấy quỳ đỏ.

17. Theobromin là alcaloid có phản ứng kiềm.

18. Ephedrin có thể bán tổng hợp thành methamphetamin gây nghiện.

19. Capsaicin trong quả Ớt có tinh thể hình vuông, vị ngọt.

20. Capsaicin trong quả ớt khi dính lên da sẽ làm phồng da.

21. Nicotin với liều dùng từ 50-100mg có thể làm chết người lớn.

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

179

CHƯƠNG X

DƯỢC LIỆU CHỨA TINH DẦU

MỤC TIÊU

1. Trình bày được định nghĩa tinh dầu và phân biệt được tinh dầu và chất thơm

tổng hợp, giữa tinh dầu và chất béo

2. Trình bày được nguồn gốc, phân bố, đặc điểm, tác dụng sinh học và công dụng

của những dược liệu chứa tinh dầu thường dùng.

3. Áp dụng để nhận biết tên và hàm lượng các phần chính trong dược liệu chứa

tinh dầu thường dùng.

NỘI DUNG

1. ĐẠI CƯƠNG

1.1. Định nghĩa

Tinh dầu là một hỗn hợp của nhiều thành phần, thường có mùi thơm, không tan

trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ, bay hơi được ở nhiệt độ thường và có thể điều

chế từ thảo mộc bằng phương pháp cất kéo hơi nước.

1.2. Thành phần hóa học

Về thành phần cấu tạo của tinh dầu khá phức tạp, có thể chia thành 4 nhóm chính:

1. Các dẫn chất của monoterpen.

2. Các dẫn chất của sesquiterpen.

3. Các dẫn chất có nhân thơm.

4. Các hợp chất có chứa N, S.

1.2.1. Một số ví dụ về các dẫn chất monoterpen.

* Các dẫn chất không chứa oxy:

Myrcen Limonen α-Terpinen

180

Các dẫn chất chứa oxy:

Menthol Menthon Camphor Linanol Citral a Citral b

1.2.2. Một số ví dụ về các dẫn chất sesquiterpen:

Zingiberen Curcumen

* Các hợp chất Azulen: Chamazulen

* Các sesquiterpenlacton: Artemisinin

1.2.3. Một số ví dụ về các dẫn chất có nhân thơm

Thymol Eugenol Vanilin

1.2.4. Một số ví dụ về các dẫn chất có chứa N và S: Methylantranilat

181

1.3. Tính chất lý hóa

* Thể chất: Đa số lỏng ở nhiệt độ thường, một số thành phần ở thể rắn: Methol,

camphor, vanilin,..

* Màu sắc: Không màu hoặc màu vàng nhạt. Do hiện tượng oxy hóa mày có thể

sẫm lại. Một số có màu đặc biệt: Các hợp chất azulen có màu xanh mực.

* Mùi: Đặc biệt, đa số có mùi thơm dễ chịu, một số có mùi hắc, khó chịu (tinh dầu

giun).

* Vị: cay, một số có vị ngọt: tinh dầu quyế, hồi.

* Bay hơi ở nhiệt độ thường.

* Tỷ trọng: đa số nhỏ hơn 1. Một số lớn hơn 1: Quế, đinh hương, hương nhu.

Tỷ lệ thành phần chính (aldehyd cinnamic, eugenol) quyết định tỷ trọng tinh dầu.

Nếu hàm lượng các thành phần chính thấp, những tinh dầu này có thể trở thành nhẹ hơn

nước.

* Độ tan: Không tan, hay đúng hơn ít tan trong nước, tan trong alcol và các dung

môi hữu cơ khác.

* Độ sôi: Phụ thuộc và thành phần cấu tạo, có thể dùng phương pháp cất phân đoạn

để tách riêng từng thành phần trong tinh dầu.

* Năng suất quay cực cao, tả tuyền hoặc hữu tuyền.

* Chỉ số khúc xạ: 1,450 – 1,560

* Rất dễ oxy hóa, sự oxy hóa thường xảy ra cùng với sự trùng hiệp hóa, tinh dầu sẽ

chuyển thành chất nhựa.

* Một số thành phần chính trong tinh dầu cho các phản ứng đặc hiệu của nhóm

chức, tạo thành các sản phẩm kết tinh hay cho màu, dựa vào đặc tính này để định

tính và định lượng các thành phần chính trong tinh dầu.

1.4. Trạng thái thiên nhiên và vai trò của tinh dầu đối với cây

1.4.1. Tinh dầu được phân bố rất rộng ở trong hệ thực vật.

Đặc biệt tập trung nhiều ở mốt số họ: Họ Hoa tán – Apiaceae, họ Cúc – Asterceae,

họ Hoa môi – Lamiaceae, họ Long não – Lauraceae....

Một số động vật cũng có tinh dầu: cà cuống, Hươu xạ...

1.4.2. Tinh dầu có trong tất cả các bộ phận của cây:

* Lá: Bạc hà, tràm, bạch đàn

* Bộ phận trên mặt đất: Bạc hà, Hương nhu...

* Hoa: hoa hồng, hoa nhài, hoa bưởi..

* Nụ hoa: đinh hương

* Quả: Sa nhân, thảo quả...

* Vỏ quả: Cam chanh....182

* Vỏ thân: Quế....

* Gỗ: Long não...

* Rễ: Thiên niên kiện...

* Thân rễ: Gừng, nghệ...

1.4.3. Tinh dầu được tạo thành trong các bộ phận tiết của cây:

* Tế bào tiết:

- Ở biểu bì cánh hoa: Hoa hồng

- Nằm sâu trong các mô: Quế, long não...

* Lông tiết: Họ Lamiaceae: Hương nhu

* Túi tiết: Họ Myrtaceae: Tràm, bạch đàn,...

* Ống tiết: Họ Apiaceae: Tiểu hồi, hạt mùi...

1.4.4. Hàm lượng tinh dầu thường dao động từ 0,1% đến 2%. Một số trường hợp trên 5%

như quả hồi (5-10%) và đinh hương (15-25%).

1.4.5. Trong cùng một cây thành phần hóa học tinh dầu ở trong các bộ phận khác nhau

có thể giống nhau về mặt định tính: tinh dầu vỏ và lá quế Cinnamomum cassia (đều là

aldehyd cinnamic) nhưng cũng rất khác nhau: tinh dầu vỏ và lá quế Cinnamomum

zeylanicum (vỏ: aldehyd cinnamic, lá: eugenol).

1.4.6. Vai trò tinh dầu trong cây:

Có nhiều tác giả cho rằng tinh dầu đóng vai trò quyến rũ côn trùng giúp cho sự thụ

phấn của hoa. Một số khác cho rằng tinh dầu bài tiết ra có nhiệm vụ bảo vệ cây, chống lại

sự xâm nhập của nấm và các vi sinh vật khác.

1.5. Chế tạo tinh dầu

Có 4 phương pháp được áp dụng để chế tạo tinh dầu:

1. Phương pháp cất kéo hơi nước: Dựa trên nguyên tắc một hỗn hợp 2 chất lỏng

bay hơi được không trộn lẫn vào nhau (nước và tinh dầu). Khi áp suất bão hoà bằng áp

suất khí quyển, hỗn hợp bắt đầu sôi và hơi nước kéo theo hơi tinh dầu. Hơi nước có thể

đưa từ bên ngoài do các nồi hơi cung cấp hoặc tự tạo trong nồi cất.

2. Phương pháp chiết xuất bằng dung môi: Phương pháp này hay dùng để chiết

xuất tinh dầu trong hoa hoặc để chiết xuất 1 thành phần nhất định nào đấy. Dung môi

thường dùng là: dung môi dễ bay hơi (ete dầu hoả, xăng công nghiệp,…) hoặc dung môi

không bay hơi (dầu béo hoặc dầu paraphin). Sau khi chiết, cất thu hồi dung môi dưới áp

lực giảm sẽ thu được tinh dầu có lẫn sáp và một số tạp chất khác. Thường dùng alcol để

chiết tinh dầu và loại alcol bằng phương pháp cất dưới áp lực giảm sẽ thu được tinh dầu.

3. Phương pháp ướp: dùng để chiết xuất tinh dầu trong hoa.

183

4. Phương pháp ép: Phương pháp này chỉ áp dụng để điều chế tinh dầu ở vỏ quả

các loài Citrus. Dịch ép có chứa nhiều pectin, sau khi ép phải lọc, li tâm và bảo quản tinh

dầu ở nhiệt độ thấp.

Nguyên tắc của sự lựa chọn trong sản xuất là: Yêu cầu về chất lượng trong sử

dụng, bản chất của dược liệu và giá thành. Phương pháp 1 được áp dụng rộng rãi nhất.

1.6. Tác dụng sinh học và ứng dụng của tinh dầu

Tinh dầu và các dược liệu chứa tinh dầu có một phạm vi sử dụng rất rộng lớn trong

đời sống hàng ngày của con người, trong nhiều ngành khác nhau.

1.6.1. Trong Y dược học

* Một số tinh dầu được dùng làm thuốc: Tác dụng của tinh dầu được thể hiện:

- Tác dụng trên đường tiêu hoá: Kích thước tiêu hoá, lợi mật, thông mật.

- Tác dụng kháng khuẩn và diệt khuẩn: Tác dụng trên đường hô hấp như tinh dầu

bạch đàn, bạc hà. Tác dụng trên đường tiết niệu như tinh dầu hoa cây Barosma betulina.

- Một số có tác dụng kích thích thần kinh trung ương: Dược liệu chứa tinh dầu giàu

anethol: Đại hồi…

- Một số có tác dụng diệt ký sinh trùng

* Trị giun: Tinh dầu giun, satonin.

* Trị sán: Thymol

* Diệt ký sinh trùng sốt rét: Artemisinin

- Rất nhiều tinh dầu có tác dụng chống viêm, làm lành vết thương, sinh cơ… khi sử

dụng ngoài da.

* Một số dược liệu vừa sử dụng dạng tinh dầu vừa sử dụng dạng dược liệu như

quế, hồi, đinh hương, tiểu hồi, bạc hà, hạt mùi, bạch đàn để dùng làm thuốc. Nhưng cũng

có những dược liệu chỉ sử dụng tinh dầu như: Long não, màng tang, húng quế,…

* Trong y học cổ truyền, các dược liệu chứa tinh dầu thường gặp trrong các nhóm

thuốc sau:

- Thuốc giải biểu, chữa cảm mạo phong hàn (tân ôn giải biểu) và cảm mạo phong

nhiệt (tân lương giải biểu). Nhóm tân ôn giải biểu gồm: Quế chi, sinh khương, kinh

giới… Nhóm tân lương giải biểu gồm: Cúc hoa, hoắc hương, bạc hà…

- Thuốc ôn lý trừ hàn, hồi dương cứu nghịch, có tác dụng thông kinh, hoạt lạc,

thông mạch, giảm đau, làm ấm cơ thể trong các trường hợp chân tay lạnh, hạ thân nhiệt,

đau bụng dữ dội, nôn mửa, truỵ tim mạch: Thảo quả, đại hồi, tiểu hồi, đinh hương, sa

nhân,…

- Thuốc phương hương khai khiếu: Có tác dụng kích thích, thông các giác quan,

khai khiếu trên cơ thể, trừ đờm thanh phế, khai thông hô hấp, trấn tâm để khôi phục lại

tuần hoàn: Xương bồ, xạ hương, cánh kiến trắng, mai hoa băng phiến…184

- Thuốc hành khí, có tác dụng làm cho khí huyết lưu thông, giải uất, giảm đau:

Hương phụ, trần bì, hậu phác, uất kim, sa nhân,…

- Thuốc hành huyết và bổ huyết: Xuyên khung, đương qui

- Thuốc trừ thấp: Độc hoạt, thiên niên kiện, hoắc hương, hậu phác,…

1.6.2. Ứng dụng trong các ngành kỹ nghệ khác

* Kỹ nghệ thực phẩm:

- Một lượng lớn dược liệu chứa tinh dầu được tiêu thụ trên thị trường thế giới dưới

dạng gia vị: Quế, hồi, đinh hương, hạt cải,…Tác dụng của những dược liệu này là bảo

quản thực phẩm, làm cho thực phẩm có mùi thơm, kích thích dây thần kinh vị giác giúp

ăn ngon miệng. Ngoài ra còn kích thích tiết dịch vị giúp cho sự tiêu hoá thức ăn dễ dàng.

- Một số tinh dầu và thành phần tinh dầu được dùng làm thơm bánh kẹo, các loại

mứt, đồ đóng hộp,…: vanilin, menthol, eucalytol…

- Một số dùng để pha chế rượu mùi: Tinh dầu hồi, tinh dầu đinh hương…

- Một số được dùng trong kỹ nghệ pha chế đồ uống: tinh dầu vỏ chanh, cam…

- Một số tinh dầu được dùng trong kỹ nghệ sản xuất chè, thuốc lá.

* Kỹ nghệ pha chế nước hoa, xà phòng, mỹ phẩm, các hương liệu khác:

Đây là một ngành công nghiệp lớn, sử dụng chủ yếu là nguồn tinh dầu trong thiên

hiên, ngoài ra còn có những chất thơm tổng hợp hoặc bán tổng hợp. Xu hướng ngày càng

sử dụng các hương liệu tự nhiên, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu phát hiện nguồn tài

nguyên tinh dầu nhằm thoả mãn yêu cầu của lĩnh vực này.

2. DƯỢC LIỆU CHỨA TINH DẦU CÓ THÀNH PHẦN CHÍNH LÀ CÁC DẪN

CHẤT MONOTERPEN

CHANH

Tên khoa học: Citrus limonia Osbeck

Họ Cam – Rutaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây nhỡ, lá mọc sole, mép có khía răng cưa. Hoa trắng mọc riêng lẻ hoặc thành

chùm 2-3 hoa. Quả hình cầu, vỏ quả mỏng, khi chín có màu vàng nhạt, vị chua.

Có nhiều chủng loại chanh:

+ Chanh giấy: Vỏ quả mỏng, được trồng phổ biến

+ Chanh tứ thời: Quả có núm, vỏ dày.

+ Chanh đào: Vỏ quả vàng đỏ, ruột đỏ, vị thơm.

185

+ Chanh được trồng ở nhiều nơi trên thế giới: Các vùng Địa Trung Hải, Bắc Phi,

Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á.

Theo thống kê của tổ chức FAO, năm 1988, sản lượng chanh trên toàn thế giới

khoảng 6 triệu tấn/năm. Ở Đông Nam Á, nước sản xuất nhiều nhất là Thái Lan (53,600

tấn/năm)

Trồng trọt và thu hái

Trồng bằng hạt hoặc chiết cành. Sau 3 năm có thể thu hoạch. Năng suất

24,000kg/ha (Thái Lan). Sau khi thu hoạch cần bảo quản quả tốt và vận chuyển tới nơi

tiêu thụ.

Bộ phận dùng

+ Dịch quả

+ Tinh dầu vỏ quả - Oleum Citri

+ Tinh dầu lá

Thành phần hoá học

Trong quả chanh có chứa:

+ Acid hữu cơ (acid citric)

+ Vitamin C

+ Các hợp chất Flavonoid (Citroflavonoid).

+ Pectin

+ Tinh dầu (0,5% trong vỏ quả)

Lá có chứa tinh dầu 0,09-0,11%

Tinh dầu vỏ chanh là chất màu vàng nhạt, mùi thơm đặc biệt của chanh, vị đắng.

Hàm lượng Citral 3-5%. Thành phần chủ yếu là limonen (90%).

Ở VN, Tinh dầu vỏ chanh được điều chế bằng phương pháp cất hoặc chiết bằng

dung môi.

Tinh dầu chanh VN có 28 thành phần: Trong đó có limonen (82%), citral (0,33%),

Tinh dầu lá chanh VN có chứa citral a (24,7%), citral b (6%), borneol (5%), linalol

(2,5%),…

Công dụng

Dịch quả chính là thứ nước uống mát, thông tiểu tiện, giúp tiêu hoá, có tác dụng

chữa bệnh Scorbut, là nguyên liệu để điều chế acid citric.

Vỏ quả là nguồn nguyên liệu sản xuất tinh dầu và các hợp chất flavonoid. Lá chanh

làm gia vị. Rễ chanh chữa ho.

Tinh dầu chanh làm thơm thuốc, dùng trong kỹ nghệ pha chế đồ uống, kỹ nghệ sản

xuất nước hoa và kỹ nghệ hương liệu.

Hình 10.1. Chanh

186

Tinh dầu lá chanh dùng trong kỹ nghệ sản xuất nước hoa,sản xuất mỹ phẩm.

QUÝT

Tên khoa học: Citrus sp.

Họ Cam – Rutaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Quýt có nhiều loài. Trong nông nghiệp và thương mại người ta phân thành 4 nhóm

theo cách sắp xếp của S. Wingle:

- Nhóm quýt thông thường, có nguồn gốc Philipin: C. reticulata Blanco, cây có gai

nhỏ, quả mọng hình cầu, đáy lõm, vỏ quả xốp khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ tươi,

loài này phát triển tốt ở vùng nhiệt đới.

- Nhóm quýt sanh, hay quýt “King”: C. nobilis Loureiro, có nguồn gốc ở Đông

Dương, quả to, vỏ dày.

- Nhóm quýt “Satsuma”: C. unshiu Marcovitch, có nguồn gốc Nhật Bản. Cây hầu

như không có gai, quả cỡ trung bình, khi chín có màu vàng da cam, không có hạt.

- Nhóm quýt Địa Trung Hải: C.deliciosa Tenore, có nguồn gốc Italia, lá có dạng

hình mác, quả cỡ trung bình, nhiều hạt.

Trồng trọt và thu hái

Quýt được trồng bằng phương pháp ghép mắt

hoặc chiết cành. Sản lượng hàng năm trên thế giới

khoảng 8 triệu tấn. Đứng đầu là Nhật Bản (48%), Tây

Ban Nha (16%). Thái Lan hàn năm sản xuất 561.000

tấn

Sản lượng quýt ở các nước Đông Nam Á là 5

tấn quả/ha. Các nơi khác trên thế giới là 25 tấn/ha, có

khi đạt đến 50 tấn/ha.

Ở VN, một số quýt được trồng phổ biến: Lý

Nhân (Hà Nam), quýt Bố Hạ (Bắc Giang),

quýt Hương Cần (Huế), quýt đường và quýt Xiêm

(phía Nam).

Bộ phận dùng

- Vỏ quả phơi khô gọi là Trần bì – Pericarpium citri deliciosae.

- Tinh dầu vỏ quả - Oleum Mandarinae

- Hạt

Hình 10.2. Quýt

187

Thành phần hoá học

Trong phần ăn được quả quýt có chứa nước 90%, protein 0,6%, lipid 0,4%, đườg

8,6%, vitaminC 0,42%.

Tinh dầu vỏ quýt là chất lỏng màu vàng đỏ có huỳnh quang xanh nhẹ. Huỳnh

quang sẽ xuất hiện rõ ràng nếu pha loãng tinh dầu trong alcol.

Thành phần chính tinh dầu vỏ quýt là limonen (>90%), methylanthranilat (1%).

Công dụng

Trần bì là vị thuốc thường dùng trong Y học cổ truyền, có tác dụng hành khí hoà

vị, dùng trong trường hợp đau bụng do lạnh, chữa ho, viêm phế quản mạn tính.

Hạt quýt dùng chữa đau ruột non, đau tinh hoàn, thoát vị bẹn.

Tinh dầu vỏ quýt được dùng trong kỹ nghệ thực phẩm và kỹ nghệ hương liệu.

THẢO QUẢ

Tên khoa học: Amomum aromaticum Roxb.

Họ Gừng – Zingiberaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, sống nhiều năm, cao 2-3 m. Thân rễ mọc ngang, có nhiều đốt. Lá to, dài,

mọc sole có bẹ ôm kín thân. Hoa to, màu đỏ nhạt, mọc thành bông ở gốc. Quả hình trứng,

cuống ngắn, màu đỏ sẫm, mọc dày đặc. Mỗi chùm quả có từ 40-50 quả. Hạt nhiều, có

cạnh, có mùi thơm đặc biệt.

Được trồng và mọc hoang ở vùng rừng núi cao, có khí hậu mát, độ ẩm cao ở các

tỉnh Lào Cai, Hà Giang.

Trên thế giới thảo quả được trồng ở Trung Quốc

(Vân Nam), Ấn Độ và các vùng phía Đông dãy

Himalaya. Ở Ấn Độ trồng và xuất khẩu loại quả tương

tự như thảo quả VN với tên “Cardamom” là quả của cây

Amomum sulbatum Roxb.

Trồng trọt và thu hái

Trồng bằng hạt hay bằng đoạn cắt từ thân rễ. Mỗi

đoạn cắt của thân rễ phải có 1 chồi non và 1 chồi già.

Trồng cách nhau 1,5-1,5m, vào mùa mưa, và tốt nhất là

trồng dưới tán cây khác. Trồng bằng hạt, gieo hạt trong

vườn ươm, sau đó trồng cây con đại trà. Sau 5 năm có

thể thu haọch (chậm hơn so với phương pháp trồng bằng

thân rễ). Cây có thể sống được 25 năm hoặc lâu hơn nữa.

Hình 10.3. Thảo quả

188

Thu hái vào tháng 10-11 và kéo dài đến tháng 2 (từ tháng 10 đến tháng giêng âm

lịch)

Hái quả xong phải phơi hoặc sấy khô ngay.

Nếu chăm sóc tốt 1ha có thể cho 100-400 kg quả khô

Bộ phận dùng

Quả chín đã phơi khô hoặc sấy khô

Quả có hình thuôn hoặc hơi tròn, dài 2-4 cm, đường kính 1,3-2,3 cm. Mặt ngoài

màu nâu đỏ hoặc màu xám, có vân sọc sần sùi. Quả có 3 ngăn, mỗi ngăn chứa 17-19 hạt.

Hạt khô rắn, hình đa giác không đều, ép sát nhau. Hạt có mùi thơm, vị cay tê.

Thành phần hoá học

Quả có chứa tinh dầu 1,40-1,47%

Thành phần hoá học chính của tinh dầu thảo quả là cineol (31-37%).

Công dụng

Thảo quả chủ yếu dùng làm gia vị trong kỹ nghệ chế biến bánh kẹo và thực phẩm.

Dùng làm thuốc chữa đau bụng, nôn mửa, giúp cho sự tiêu hoá, chữa hôi miệng.

Tinh dầu khi cất ra không có mùi đặc trưng của thảo quả nên có ít có ý nghĩa sử

dụng.

BẠC HÀ

Có 2 nhóm bạc hà giàu methol chính:

1. Nhóm bạc hà nguồn gốc châu Á được gọi tắt là bạc hà Á: Mentha arvensis L.

2. Nhóm bạc hà nguồn gốc châu Âu được gọi tắt là bạc hà Âu: Mentha piperita L.

BẠC HÀ Á

Tên khoa học: Mentha arvensis L.

Họ Hoa môi: Lamiaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, cao khoảng 0,20-0,70m. Thân vuông. Lá

mọc đối, chéo chữ thập, hình trái xoan có khía răng cưa.

Cụm hoa mọc vòng xung quanh kẽ lá. Hoa nhỏ, đài hình

chuông, tràng hình ống.

Bạc hà Á ở VN có 2 nguồn gốc:

1. Bạc hà bản địa: Mọc hoang ở các tỉnh Sơn La,

Lai Châu, Lào Cai. Cây có thể cao tới 1,50m. Thân màu

xanh, xanh lục hoặc tím. Loại này đưa về đồng bằng trồng

cho năng suất cây xanh cao, nhưng hiệu suất tinh dầu Hình 10.4 Bạc hà Á189

và hàm lượng methol trong tinh dầu thấp nên không có giá trị kinh tế.

2. Bạc hà di thực: Có nhiều chủng loại:

- Bạc hà 974

- Bạc hà 976

- Bạc hà Đài Loan

- Một số giống đang nghiên cứu TN-8 và TN-26.

Giống bạc hà 974 được trồng ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh Phía nam.

Những năm cuối thập kỷ 70, bạc hà được phát triển nhiều nhất. Trên thế giới, bạc hà Á

được trồng nhiều ở Nhật Bản, Trung Quốc, Braxin.

Trồng trọt và thu hoạch

- Trồng bạc hà bằng thân mềm

- Thời vụ trồng: Tháng 2-3

- Thu hoạch vào thời kỳ cây bắt đầu và đang ra hoa (khoảng 90 ngày sau khi

trồng). Có thể thu hoạch 2 lần (miền núi), 3 lần (đồng bằng), hoặc 5 lần (tỉnh phía Nam).

Bộ phận dùng

- Thân, cành có mang lá và hoa (Herba Menthae):

Đặc điểm vi học của bột dược liệu: Mảnh biểu bì có mang lỗ khí có 2 tế bào đi kèm đặt

vuông góc với khe của lỗ khí. Lông tiết đầu đa bào, chân đơn bào (hình bánh xe). Lông

che chở đa bào.

- Tinh dầu bạc hà (Oleum Menthae): Là chất lỏng không màu hoặc màu vàng nhạt,

mùi thơm đặc biệt, vị cay mát.

- Menthol tinh thể.

Thành phần hoá học

1. Tinh dầu: 0,5% trên dược liệu khô tuyệt đối (yêu cầu của DĐVNII 1994).

2. Flavonoid.

Thành phần hoá học chính của tinh dầu là L-menthol, thường là trên 70%. Ngoài ra

còn có menthol ester, menthon,… DĐVN II (1994) qui định hàm lượng menthol toàn

phần là 60%, trong đó menthol ester không được quá 9%.

Công dụng

Bạc hà Á được ghi trong DĐVN II (1994) và được dùng chủ yếu trong Y học cổ

truyền. Bạc hà được xếp vào nhóm tân lương giải biểu, có tác dụng phát tán phong nhiệt,

chữa cảm nóng không ra mồ hôi. Ngoài ra còn dùng để chữa các triệu chứng tiêu hoá

kém, thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác dưới dạng thuốc sắc.

Nói chung ở các nước khác trên thế giới, bạc hà Á được trồng chủ yếu là để cất lấy

tinh dầu.

190

Do hàm lượng menthol trong tinh dầu cao (trên 75%), bạc hà Á được coi là nguồn

nguyên liệu thiên nhiên để chiết xuất menthol.

Tinh dầu:

- Dùng chiết xuất menthol.

- Phần tinh dầu còn lại, còn đạt tiêu chuẩn Dược điển, dùng để chế dầu xoa bóp

- Men thol có tác dụng kháng khuẩn, chống co thắt, giảm đau, kích thích tiêu hoá,

chữa hôi miệng. Menthol được dùng trong nhiều ngành kỹ nghệ: Kỹ nghệ dược phẩm, kỹ

nghệ bánh kẹo, kỹ nghệ thực phẩm…

BẠC HÀ ÂU

Tên khoa học: Mentha piperita L.

Họ Hoa môi – Lamiaceae

Bạc hà Âu được trồng chủ yếu ở các nước châu

Âu. Giống được ưa chuộng là bạc hà Mitcham (Anh),

Milly và Maine et Loire (Pháp), Ở VN có di thực nhưng

chưa được phát triển.

Đặc điểm thực vật

Khác với bạc hà Á là hoa mọc thành nhiều vòng

thành bông ở ngọn cành.

Thành phần hoá học

- Tinh dầu: 1-3% (tính trên dược liệu khô tuyệt đối)

- Flavonoid

Thành phần hoá học chính của tinh dầu:

+ 40-60% menthol toàn phần.

+ 8-10% menthon

+ Lượng nhỏ menthofuran (1-2%)

Công dụng

Bạc hà Âu được ghi trong nhiều Dược điển các nước thuộc châu Âu. Dược liệu là

cành mang hoa còn tươi hoặc lá khô, có tác dụng kích thích tiêu hoá, chống co thắt, tác

dụng này là do tinh dầu. Flavonoid có tác dụng lợi mật. Dạng dùng: Thuốc hãm 5%,

thuốc sắc hoặc nước cất Bạc hà.

Tinh dầu bạc hà Âu có mùi thơm dịu, rất được ưa chuộng. Một số tác giả cho rằng

là do Bạc hà Âu có chứa menthofuran. Tinh dầu được dùng như là chất thơm trong kỹ

nghệ Dược phẩm, kỹ nghệ sản xuất rượu và bánh kẹo. Tinh dầu không dùng để chiết xuất

Hình 10.5. Bạc hà âu

191

menthol.

LONG NÃO

Tên khoa học: Cinnamomum camphora (L.) Nees et Eberm.

Họ Long não – Lauraceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây gỗ, cao đến 15m, vỏ thân dày nứt nẻ.

Tán lá rộng. Lá mọc sole có cuống dài, ở kẽ gân

chính và gân 2 bên nổi lên 2 tuyến nhỏ. Hoa màu

vàng lục mọc thành chùm ở kẽ lá. Quả mọng khi

chín có màu đen.

Long não được trồng từ lâu đời và được khai

thác camphor từ thế kỷ XIII. Nơi phát triển nhiều

nhất là Đài Loan, Nhật Bản, các nước vùng Đông

Nam Á, Bắc Mỹ, Bắc Phi, và miền Nam nước

Pháp.

Ở VN, long não được trồng từ thời Pháp thuộc ở Hà Giang và sau 1954 được trồng

ở các tỉnh miền núi. Ở các thành phố lớn, long não được trồng làm cây cho bóng mát.

Trồng trọt và khai thác

Trồng long não bằng quả, quả được thu hoạch từ cây có độ tuổi 50, gieo trong

vườn ươm. Khi cây cao khoảng 50-70cm thì đem trồng. Một ha có thể trồng từ 2000-3000

cây.

Thường khai thác gỗ những cây đã già (trên 25 tuổi). Lá có thể khai thác quanh

năm.

Bộ phận dùng

- Gỗ và lá dùng để cất tinh dầu. Ở Nhật Bản và Đài Loan người ta cất tinh dầu từ

gỗ. Ở Ấn Độ lại khai thác từ lá.

- Camphor và các thành phần khác.

Thành phần hoá học

- Camphor và tinh dầu

Gỗ của cây long não trưởng thành có chứa 4,4% tinh dầu. Thành phần chủ yếu của

tinh dầu là camphor (64,1%), ngoài ra còn có cineol, terpineol, safrol, nerolidol.

Hàm lượng tinh dầu trong gỗ giảm dần từ gốc lên ngọn.

Lá có chứa 1,3% tinh dầu, trong đó camphor chiếm 81,5%, ngoài ra cineol (4,9%).

Trong công nghiệp khi cất long não, thường thu hoạch được phần đặc (long não) và phần

Hình 10.6. Long não

192

lỏng (tinh dầu long não). DĐVN II qui định hàm lượng camphor trong tinh dầu long não

không dưới 35%.

Công dụng

Gỗ và lá long não được dùng để cất tinh dầu cung cấp camphor thiên nhiên (D-

camphor).

Camphor có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, kích thích tim và hệ thống

hô hấp, dùng làm thuốc hồi sức cho tim trong trường hợp cấp cứu. Ngoài ra còn dùng làm

thuốc sát khuẩn đường hô hấp. Dùng ngoài xoa bóp chữa vết sưng đau, gây sung huyết.

Tinh dầu long não được dùng để chế dầu cao xoa bóp.

Cây long não còn làm cây bóng mát, có tán rộng, lá xanh tốt quanh năm, ngoài ra

lá có khả năng hấp thụ các ion kim loại nặng (như chì) làm sạch môi trường. Lá cây long

não có thể khai thác quanh năm là nguồn nguyên liệu giàu camphor, linalol và cineol.

SA NHÂN

Tên khoa học: Amomum sp.

Họ Gừng – Zingiberaceae

Các loài sau đây cho vị dược liệu sa nhân dùng trong Ngành dược:

+ Amomum ovoideum Pierre.

+ Amomum villosum Lour., var. Xanthioides

(Wall).T.L Wu. ex Senjen. Chen.

+ Amomum longiligulare T.L.Wu.

Trong đó loài A.ovoideum đã được chính thức

đưa vào DĐVN II (1994).

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, cao 0,5-1,5m trông hơi giống cây

riềng nhưng thân rễ không thành củ, mà mọc bò ngang,

chằng chịt như mạng lưới. Lá xanh, nhẵn bóng, có bẹ,

không cuống, mọc sole. Ở mép giữa bẹ lá và phiến lá

có một lưỡi nhỏ dài 0,2-0,5cm, riêng loài

A.longiligulare thì dài hơn (3-5cm). Hoa màu trắng,

mọc thành chùm ở sát gốc. Quả nang, 3 ô, có gai mềm, khi chín có màu nâu hồng (A.

ovoideum) hoặc màu xanh lục (A. villosum). Hạt màu nâu sẫm, hình khối đa diện có mùi

thơm của camphor.

Mùa ra hoa tháng 5-6. Mùa quả chín tháng 7-8.

Hình 10.7. Sa nhân

193

Mọc hoang và được trồng ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Sơn La, Phú Thọ, Bắc

Cạn. Cây sa nhân thường ưa mọc dưới tầng cây râm mát, dọc theo bờ suối.

Trồng trọt và thu hái

Trồng sa nhân bằng các gốc đã được cắt ngọn.

Thu hoạch vào tháng 7-8 khi vỏ quả có màu vàng sẫm.

Bộ phận dùng

- Quả gần chín, được bóc vỏ và phơi khô – Fructus amomi.

- Tinh dầu – Oleum Amomi

Quả sa nhân là một khối hạt hình bầu dục hay hình trứng dài 0,8-1,5cm. đường

kính 0,6-1 cm, màu nâu nhạt hay nâu sẫm có 3 vách ngăn, mỗi ngăn chứa 7-16 hạt. Hạt có

áo mỏng trắng mờ. Hạt cứng, nâu sẫm, hình khối đa diện, nhăn nheo. Mùi thơm, vị cay.

Vi phẫu

- Vỏ hạt: Gồm có vỏ ngoài và vỏ trong:

+ Vỏ ngoài: Lớp tế bào biểu bì có màng dày, ngoài có tầng cutin, lớp tế bào hạ bì

màng dày, màu tím sẫm, lớp tế bào chứa tinh dầu hình vuông, màng mỏng.

+ Vỏ trong: Gồm lớp tế bào mô cứng, màng dày màu nâu.

- Nhân hạt: Gồm ngoại nhũ, cấu tạo bởi các lớp tế bào thành mỏng, có chứa tinh

bột. Nội nhũ gồm các tế bào nhỏ hơn. Cây mầm năm ở giữa khối nội nhũ.

Thành phần hoá học

- Hạt có chứa tinh dầu: 1,9-2,6%. DĐVN II (1994) qui định hàm lượng tinh dầu

trong quả không dưới 1,5%.

Trong hạt còn chứa chất béo.

- Tinh dầu sa nhân là chất lỏng không màu, mùi thơm hắc, vị nồng và đắng. Thành

phần chính của tinh dầu là D-camphor (37,4-50,8%), borneol, bornylacetat.

Công dụng

Sa nhân dùng để chữa ăn không tiêu, đầy hơi, nôn mửa, an thai.

Sa nhân còn dùng làm tăng tính ấm của vị thuốc (chế thục địa). Dùng làm gia vị,

pha chế rượu mùi.

Tinh dầu sa nhân dùng làm cao dầu xoa bóp.

194

3. NHỮNG DƯỢC LIỆU CÓ CHỨA TINH DẦU CÓ THÀNH PHẦN CHÍNH LÀ

CÁC DẪN CHẤT SESQUITERPEN

GỪNG

Tên khoa học: Zingiber officinale Rosc.

Họ Gừng – Zingiberaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,6-1m. Lá mọc so le không cuống, hình mác dài, có

mùi thơm. Trục hoa xuất phát từ gốc, dài khoảng 20cm. Hoa màu vàng. Thân rễ mập,

phồng lên thành củ.

Gừng được trồng ở VN và ở nhiều nước trên thế

giới: Các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ…

Trồng trọt và thu hoạch

Gừng được trồng bằng các nhánh của thân rễ có

mang mầm. Trồng vào mùa xuân, mùa thu cây sẽ ra hoa

và thu hoạch khi cây bắt đầu lụi.

Bộ phận dùng

- Gừng tươi

- Gừng khô

- Tinh dầu gừng (Oleum Zingiberis)

- Nhựa dầu gừng

* Gừng tươi: thu hoạch khi củ còn non, ít xơ, ít

cay và củ đã già. Gừng non được chế biến thành các sản

phẩm.

- Gừng mặn: Là gừng được chế biến trong nước muối. Nước sản xuất nhiều nhất

là Trung Quốc.

- Gừng chế thành mứt trong siro được sản xuất nhiều ở Hồng Kông.

* Gừng khô: Được chế biến từ củ gứng già có thể có cả vỏ rồi phơi khô gọi là

gừng xám hoặc bỏ vỏ rồi phơi khô gọi là gừng trắng.

* Tinh dầu gừng: Được sản xuất từ gừng tươi bằng phương pháp cất kéo hơi nước,

với hiệu suất từ 1,0-2,7%. Vỏ chứa nhiều tinh dầu hơn (4-5%); vì vậy có thể kết hợp khi

chế biến gừng khô để sản xuất tinh dầu.

* Nhựa dầu gừng: Được chế biến từ bột gừng khô bằng cách chiết với dung môi

hữu cơ với hiệu suất 4,2-6,5%.

Hình 10.8. Gừng

195

Hàng năm toàn thế giới sản xuất 14000 đến 15000 tấn gừng tươi, 30 tấn tinh dầu

gừng và 150-300 tấn nhựa dầu gừng. Các nước sản xuất tinh dầu và nhựa dầu chính: Ấn

Độ và Trung Quốc. Các nước tiêu thụ chính: USA, Canada, Anh, Đức.

Thành phần hoá học

Gừng chứa tinh dầu (2-3%), nhựa dầu (4,2-6,5%), chất béo (3%) và chất cay

Zingerol, zingeron,…

Tinh dầu gừng là chất lỏng không màu hoặc màu vàng nhạt

Tinh dầu gừng có mùi đặc trưng của gừng nhưng không chứa các chất cay. Thành

phần chủ yếu của tinh dầu là hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: β - zingiberen

(35,6%), arcurcumen (17,7%),…. Ngoài ra còn có chứa một lượng nhỏ các hợp chất alcol

monoterpenic Geraniol (1,4%), linalol (1,3%),…

Nhựa dầu gừng có chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay như zingeron,

shagaol, zingerol,..

Công dụng

- Gừng tươi được sử dụng như một gia vị trong bữa ăn hàng ngày, dùng để chế

biến các sản phẩm gừng mặn, mứt gừng và gừng đông khô. Gừng đông khô dùng làm chè

gừng.

- Gừng khô dùng để chế biến gia vị (bột cary), dùng làm chất thơm trong kỹ nghệ

thực phẩm và trong kỹ nghệ pha chế đồ uống.

- Tinh dầu gừng làm chất thơm trong kỹ nghệ thực phẩm và kỹ nghệ pha chế đồ

uống, thường cho vào nhựa dầu gừng để làm giảm độ cay của nhựa dầu.

- Nhựa dầu dùng làm chất thơm và cay trong kỹ nghệ thực phẩm và pha chế đồ

uống.

- Trong y học cổ truyền gừng tươi được gọi là sinh khương là vị thuốc tân ôn giải

biểu, tác dụng vào kinh phế, vị, tỳ, có tác dụng phát tán phong hàn, chữa cảm mạo phong

hàn, làm ấm dạ dày trong trường hợp bụng đầy trướng, không ho, lợi niệu, giải độc, khử

khuẩn.

- Gừng khô được gọi là can khương, vị cay, tính ấm, tác dụng vào kính tâm, phế,

tỳ, vị, có tác dụng ôn trung hồi dương, ôn trung chỉ tả, chỉ nôn, trong trường hợp tỳ vị hư

hàn, chân tay lạnh, đau bụng đi ngoài. Can khương tồn tính có tác dụng ấm vị, chỉ huyết

trong các trường hợp xuất huyết do hư hàn.

196

THANH CAO

Tên khoa học: Artemiasia annua L.

Họ Cúc – Asteraceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây thảo sống hàng năm, cao 1,2-1,5m. Lá xẻ lông chim 2 lần thành dải hẹp phủ

lông mềm, có mùi thơm. Cụm hoa hình cầu, hợp thành một chùm kép. Trong một cụm

hoa có khoảng 25-35 hoa, xung quanh là hoa cái, ở giữa là hoa lưỡng tính. Hạt hình trứng

rất nhỏ, có rãnh dọc. 1g hạt có từ 20000-22000 hạt.

Thanh cao mọc hoang ở Trung Quốc, Liên Xô, Mông Cổ, Nhật, Bắc Mỹ, và một số

nước Đông Nam Á. Năm 1982 thanh cao mới chính thức được phát hiện mọc hoang ở các

tỉnh phía bắc VN và sau đó được trồng ở hầu hết ở các tỉnh để chiết xuất artemisinin.

Trồng trọt và thu hoạch

Trồng bằng hạt.

Thời gian thu hoạch từ 5-6 tháng từ khi bắt đầu trồng cây con (nếu tính từ thời gian

gieo hạt là 7 tháng). Thu hái sau khi cây bắt đầu ra hoa là thời điểm cho tỷ lệ hoạt chất

cao nhất. Ở các tỉnh phía Nam thời gian sinh trưởng cảu cây ngắn hơn. Chặt cả cây, phơi

nắng rồi rũ lấy lá khô, hoặc dùng máy tuốt lấy lá sau đó phơi nắng. Thu hoạch vào những

ngày nắng ráo. Có thể thu hái lá nhiều lần: Lần 1 khi tầng lá gốc đã già, xuất hiện những

lá vàng. Cắt lá phần gốc, sau đó bón phân tiếp. Sau 15 ngày lại thu hoạch tiếp cho đến khi

cây có nụ hoa thì chặt cả cây để lấy lá.

Năng suất lá khô trên 1 sào có thể đạt 150-

180kg.

Bộ phận dùng

Lá đã phơi khô hoặc sấy khô – Folium

Artemisiae annuae.

Đặc điểm vi học của bột lá

- Lông che chở có 2 dạng: Dạng hình chữ T,

đầu đơn bào, hình thoi, chân đa bào. Dạng khác cũng

đa bào, tế bào ở đầu thuôn nhỏ.

- Lông tiết đầu đa bào, chân đa bào.

Thành phần hoá học

1. Trong lá có chứa 0,4-0,6% tinh dầu (trên lá

khô hàm ẩm 12-12,5%). Thành phần là các hợp chất

hydrocarbon sesquiterpenic như α – cubebenHình 10.9. Thanh cao

197

(14,75%), β-caryophylen,… Ngoài ra còn có các thành phần monoterpenic như cineol

(4,08%) và camphor (23,75%).

2. Thành phần có tác dụng sinh học quan trọng trong lá thanh cao là 1

sesquiterpenlacton có tên là artemisinin, là chất kết tinh, không có trong tinh dầu, được

chiết xuất bằng dung môi hữu cơ. Trong cây Thanh cao, lá có chứa nhiều hoạt chất nhất

và thu hoạch vào thời điểm cây bắt đầu ra nụ là tối ưu (1,6%). Yêu cầu trong kỹ thuật lá

thanh cao có chứa tỷ lệ hoạt chất 0,7-1,4%, độ ẩm 12-12,5%, tỷ lệ tạp chất dưới 4%.

Công dụng

Cây thanh cao được sử dụng trong Y học cổ truyền Trung Quốc làm thuốc chữa sốt rét

vào năm 340, nhưng mãi đến năm 1967 mới được nghiên cứu và 1972 được chiết xuất

dưới dạng tinh thể và được các nhà khoa học Trung Quốc đặt tên là Qinghaosu. Năm

1979 artemisinin được xác định cấu trúc hoá học.

Artemisinin có tác dụng đối với ký sinh trùng sốt rét. Tác dụng nhanh và thải trừ

nhanh vì vậy ít gây kháng thuốc. Hiện nay nhiều chế phẩm bán tổng hợp từ artemisinin

như artesunat, dihydroartemisinin,… đang được quan tâm nghiên cứu với mong muốn

nâng cao hiệu lực tác dụng. Những dẫn chất này có thể tan trong nước hoặc trong dầu, có

thể sản xuất dưới dạng thuốc tiêm, để sử dụng trong điều trị các trường hợp sốt rét ác tính.

Lá và cuống hoa thanh cao được đồng bào dân tộc tỉnh Lạng Sơn dùng để chữa sốt

cao, giải độc, rối loạn tiêu hoá. Lá non có thể nấu canh ăn thay rau. Y học cổ truyền

Trung Quốc dùng lá thanh cao làm thuốc thanh nhiệt, bổ dạ dày, cầm máu, lợi đởm.

4. DƯỢC LIỆU CHỨA TINH DẦU CÓ THÀNH PHẦN CHÍNH LÀ CÁC DẪN

CHẤT CÓ NHÂN THƠM

ĐINH HƯƠNG

Tên khoa học: Syzygium aromaticum (L.) Merrill & L. M. Perry

Tên đồng nghĩa là: Eugenica caryophyllata Thunb.

Họ Sim – Myrtaceae

Đặc điểm thực vật phân bố

Cây nhỡ, cao từ 10-12m, lá hình bầu dục,

đầu nhọn, không rụng. Hoa mẫu 4, tập hợp thành

xim nhỏ ở đầu cành. Đài mầu đỏ, tồn tại. Tràng

màu trắng hồng, rụng khi hoa nở. Đế hoa dài, hình

cái đinh.

Đinh hương nguồn gốc ở đảo Moluccas

(Indonesia) và được trồng ở các quần đảo Zanziba,

Hình 10.10. Nụ đinh hương

198

Pemba (Tandania), Madagasca. Sản lượng đinh hương ở Tandania chiếm 7/8 sản lượng

thế giới.

Trồng trọt và thu hái: Trồng bằng hạt. Hạt lấy từ quả chín và trồng ngay. Khi cây được

4-5 năm có thể thu hoạch. Hái nụ hoa khi hoa bắt đầu ngả màu trắng sang xanh rồi ve

hồng. Nếu để nở sau 4 ngày không còn giá trị. Hái bằng tay hoặc dùng sào đạp ở dưới gốc

có trải các tấm vải để hứng. Nụ hoa sau khi thu hoạch phải loại cuống (tỷ lệ cuống 17-

25%). Phơi khô và đóng gói. Một cây cho từ 3,5-7,0kg đinh hương khô.

Bộ phận dùng

- Nụ hoa: Bao gồm phần hình trụ là đế hoa + lá đài và khối hình cầu ở đỉnh bao

gồm cánh hoa, bộ nhị và nhuỵ. Đế hoa dài 10-12 mm và đường kính 2-3 mm, màu nâu

thẫm có mùi thơm khi thả vào nước phải chìm.

Đặc điểm vi học

+ Vi phẫu: Có nhiều túi tiết tinh dầu trong phần mô mềm của đế hoa.

+ Bột: Đặc trưng bởi sợi, túi tiết tinh dầu, tinh thể calci oxalat hình cầu gai, mảnh

mạch xoắn, tế bào mô cứng của thành bao phấn, hạt phấn hình tam giác.

+ Tinh dầu đinh hương được cất từ nụ hoa, cuống hoa và từ lá. 90-95% tinh dầu

đinh hương sản xuất trên thế giới được cất từ lá.

Thành phần hoá học

- Nụ hoa có chứa tinh dầu 15-20%, có khi 25%. DĐVN II qui định hàm lượng tinh

dầu không dưới 15%.

Tinh dầu đinh hương là chất lỏng màu vàng đến nâu vàng. Thành phần chính của

tinh dầu đinh hương là eugenol (78-95%), có khi 98%.

- Cuống hoa có chứa 5-6,5% tinh dầu. Tinh dầu có chứa eugenol (83-95%), nhưng

hương vị không thơm bằng tinh dầu của nụ hoa.

- Lá có chứa 1,6-4,5% tinh dầu. Hàm lượng eugenol trong tinh dầu là 85-93%.

Công dụng

Nụ hoa đinh hương là 1 vị thuốc được dùng trong cả Tây y và Đông y, có tác dụng

kích thích tiêu hoá, sát khuẩn và giảm đau. Dạng dùng: cồn thuốc (cồn kép Melisse, cồn

Fioravanti).

Đông y coi đinh hương là vị thuốc ấm tỳ vị, giáng nghịch khí, trợ dương, ôn thận,

giảm đau, sát khuẩn dùng trong trường hợp tỳ vị hư hàn, nấc, nôn, đau bụng lạnh. Dạng

dùng: thuốc sắc, hoàn tán, ngâm rượu.

Đinh hương dùng làm gia vị trong kỹ nghệ thực phẩm. Nhu cầu về đinh hương trên

toàn cầu là 4000-5000 tấn/năm.

199

Tinh dầu Đinh hương dùng trong ngành Dược làm thuốc sát khuẩn, diệt tuỷ răng

và chế eugenat kẽm là chất hàn răng tạm thời. Ngoài ra còn dùng trong kỹ nghệ nước hoa,

xà phòng và hương liệu, kỹ nghệ pha chế rượu mùi.

ĐẠI HỒI

Tên khoa học: Illicium verum Hook.f.

Họ Hồi – Illiciaceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây cao 6-10m. Cành mọc thẳng tạo cho cây dạng thon gọn và tán lá hẹp. Lá mọc

so le nhưng thường mọc sít tạo thành các vòng giả, từ 4-6 lá. Lá thon dài hoặc hình bầu

dục mép nguyên có lượn sóng hoặc không. Lá rất dễ rụng khỏi cành nếu cắt cành rời khỏi

cây. Hoa có thể có nhiều màu: Trắng, trắng hồng, hồng, tím hồng. Noãn đa số là 8 có khi

9-10.

Quả đại, thường có 8 đại dính vào 1 trục và toả tròn thành hình sao. Trong mỗi đại

có chứa 1 hạt màu nâu bóng. Thường thì có từ 2-6 đại bị lép. Có những cây cho quả đến

10 đại, to đều ít bị lép.

Quả tươi có màu xanh, khi khô màu nâu

thẫm.

Hồi được coi là một đặc sản của tỉnh

Lạng Sơn, được trồng ở hầu hết các huyện trong

tỉnh, trừ Hữu Lũng và Nam Chi Lăng. Ngoài ra

còn được trồng ở Cao Bằng, Quảng Ninh, Bắc

Thái (vùng giáp với Lạng Sơn). Năm 1999, toàn

Lạng Sơn trồng 17000 ha hồi, thu hoạch 15000

tấn quả tươi.

Hồi còn được trồng ở Trung Quốc

Trồng trọt và thu hái.

Trồng bằng hạt.

Chọn quả to đều cánh từ 8-10 cánh (đại) của những cây ở độ tuổi trưởng thành (30-

40 tuổi), không bị sâu bệnh, thường xuyên sai quả và được chăm sóc tốt. Phơi nắng nhẹ,

quả sẽ nứt, hạt rơi ra. Bảo quản hạt trong cát trong 3 tháng khi hạt nứt nanh 7-10% thì

gieo. Thường gieo trước tết nguyên đán 2 tuần. Khi cây ra lá đều thì cấy vào bầu. Cây con

20-25 tháng tuổi thì đem trồng.

Hình 10.11. Đại hồi

200

Cây ra hoa vào lúc 5 tuổi. Những năm đầu tiên sản lượng thường thấp. Cây trưởng

thành, 1 năm có thể cho từ 20-40kg quả. Có thể khai thác đến khi cây 100 tuổi hoặc hơn

nữa.

Hồi được khai thác vào 2 vụ. Vụ chính vào tháng 8-9 (hồi mùa), vụ phụ từ tháng

11-tháng 2 năm sau (vụ chiêm). Thường cây sai quả vào vụ mùa thì sẽ ít quả vào vụ

chiêm và ngược lại.

Bộ phận dùng

Quả - Fructus Anisi stellati

Tinh dầu – Oleum Anisi stellati

Đặc điểm vi học

+ Quả (Bột): Nhiều tế bào mô cứng hình dạng khác nhau của vỏ quả giữa, vỏ quả

trong và vỏ hạt. Thể cứng của cuống quả. Nhiều tế bào chứa tinh dầu.

+ Lá (vi phẫu): Có các thể cứng hình dạng đặc điểm ở gân lá và phiến lá (để phân

biệt với lá hồi núi – I. griffithii, không có thể cứng chỉ có các đám tế bào mô cứng)

Quả được phơi khô đến độ ẩm 12-13%.

* Tinh dầu được cất từ quả tươi vừa mới thu hái với hiệu suất 3-3,5%. Tinh dầu hồi

Lạng Sơn được thị trường quốc tế xếp vào loại I. Hằng năm nơi này cũng cung cấp 2/10

sản lượng toàn thế giới.

Thành phần hoá học

- Quả có chứa tinh dầu 8-9%. Quả mới thu hoạch có thể chứa 10-15%. D ĐVN II

(1994) qui định hàm lượng tinh dầu không dưới 4%.

Tinh dầu quả hồi là chất lỏng không màu vàng nhạt, mùi đặc biệt, vị ngọt, kết tinh

khi để lạnh.

Thành phần chủ yếu của tinh dầu quả là trans-anethol (85-90%). Tinh dầu quả hồi

Lạng Sơn luôn đạt hàm lượng anethol trên 90%.

- Lá có chứa tinh dầu 0,56-1,73%.

Tinh dầu lá có chứa lượng anethol xấp xỉ tinh dầu quả 85-90%.

- Hạt chứa chất béo.

Công dụng

- Quả hồi có tác dụng giúp tiêu hoá, lợi sữa, giảm đau, giảm co bóp nhu động ruột,

dùng để chữa ỉa chảy, nôn mửa, ăn không tiêu, bụng đầy.

Tính vị trong Đông y: Vị cay, ôn, tác dụng vào kinh can, thận, tỳ, vị, có tác dụng

ôn trung khứ hàn. Dạng dùng: bột, rượu thuốc.

Dùng ngoài hồi có tác dụng chữa đau nhức, thấp khớp, bong gân.

- Tinh dầu hồi có tác dụng tương tự như dược liệu, thường được phối hợp trong

nhiều thuốc khác. Ngoài ra tinh dầu còn được chế rượu mùi, dùng tổng hợp các hormon.

201

QUẾ

Tên khoa học: Cinnamomum sp.

Họ Long não – Lauraceae

Trên thị trường quốc tế lưu hành 2 loại quế chính:

1. Cinnamomum cassia Nees et Bl. với tên trên thị trường là cassia. Quế Trung

Quốc, quế Việt Nam thuộc loại này.

2. Cinnamomum zeylanicum Gare et Bl. với tên trên thị trường là cinnamon. Quế

Srilanka (hay quế Ceylan).

Ngoài ra còn có các loài: Cinnamomum burmani (C. Nees et T. Nees) C. Nees et Bl

và Cinnamomum loureirii C. Nees phân bố chủ yếu ở các nước Đông Nam Á.

QUẾ VIỆT NAM

Tên khoa học: Cinnamomum cassia Nees et Bl.

Họ Long não – Lauraceae

Đặc điểm thực vật và phân bố

Cây gỗ, cao 10-20m, vỏ thân nhẵn. Lá mọc

sole có cuống ngắn, dài nhọn hoặc hơi tù, có 3 gân

hình cung. Hoa trắng, mọc thành chùm xim ở kẽ lá

hay đầu cành. Quả hạch hình trứng, khi chín có

màu tím nhẵn bóng. Toàn cây có mùi thơm của

quế. Được trồng nhiều ở các tỉnh phía Nam Trung

Quốc và ở VN.

Theo những nghiên cứu mới nhất, loài C.

cassia là loài quế nguyên sản của VN được trồng

phổ biến từ các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh phía

Nam của miền Trung. Các địa phương trồng quế

với diện tích lớn là: Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng

Ngãi, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ninh. Loài quế

VN cũng được trồng ở các tỉnh miền Nam TQ và cho

chất lượng tốt hơn quế địa phương.

Trồng trọt và khai thác: Trồng bằng hạt. Gieo hạt trong vườn ươm, khi cây cao khoảng

0,6-0,7m thì bứng đem trồng. Sau 10 năm có thể thu hoạch vỏ. Thu hoạch vào 2 vụ tháng

4-5 và 9-10 khi cây có nhiều nhựa, dễ bóc.

Hình 10.12. Quế

202

Bộ phận dùng

- Vỏ quế - Cortex Cinnamomum: Vỏ quế cuộn tròn thành hình ống, dài 25-40 cm,

đường kính 1,5-5cm, hoặc là những mảnh vỏ uốn cong rộng 3-5cm dày 1-5mm, mặt ngoài

màu nâu xám, mặt trong nâu đỏ đến nâu xẫm. Dễ bẻ gẫy, mặt bẻ màu nâu đỏ ít có sợi. Sau

khi đã ngâm nước, mặt cắt ngang thấy rõ một vòng mô cứng màu trắng ngà. Mùi thơm, vị

cay ngọt.

- Cành nhỏ: Quế chi

- Tinh dầu quế - Oleum Cinnamomum Cassiae.

Tinh dầu quế được cất từ phần dư phẩm khi chế biến dược liệu quế (5-10%) từ

cành con và lá.

Đặc điểm vi học vỏ quế

+ Lớp bần dày, gồm 6-7 hàng tế bào.

+ Các tế bào mô cứng được xếp thành dãy 5-7 hàng, liên tục hoặc không liên tục

trong mô mềm.

+ Trong libe có rất nhiều sợi

+ Nhiều tế bào chứa tinh dầu ở mô mềm và libe

Bột quế được đặc trưng bởi sợi, tế bào mô cứng, mô mềm có chứa tinh bột và calci

oxalat hình kim.

Thành phần hoá học

Vỏ quế:

- Tinh dầu 1-3%. DĐVN II (1994) qui định không dưới 1%.

- Các hợp chất diterpenoid (cinnacassiol), phenylglycosid, coumarin, tanin.

Tinh dầu quế là chất lỏng không màu đến vàng nâu, mùi thơm, vị ngọt.

Thành phần chính của tinh dầu vỏ quế là aldehyd cinnamic (70-95%). DĐVN II

qui đinh không dưới 80%. Ngoài ra còn có cinamylacetat - chất làm giảm giá trị tinh dầu

quế, cinamylalcol và coumarin.

Lá:

- Tinh dầu: 0,14-1,04%. Hàm lượng aldehyd cinnamic dao động 12 tháng trong

năm từ 34,65-95,55%. Thấp nhất vào tháng 6 và các tháng sau đó. Từ tháng 10 cho đến

tháng 5 hàm lượng aldehyd cinnamic trong lá luôn đạt trên 80%. Vì vậy nếu khai thác tinh

dầu vỏ kết hợp với lá nên khai thác trước tháng 5 và sau tháng 9.

Tác dụng dược lý và công dụng

- Quế là vị dược liệu quý dùng cả trong Tây y và Đông y. Quế có tác dụng kích

thích tiêu hoá, trợ hô hấp và tuần hoàn, tăng sự bài tiết, co mạch, tăng nhu động ruột và co

bóp tử cung. Theo nghiên cứu mới, quế còn có tác dụng chống khối u, chống xơ vữa động

203

mạch vành, chống oxy hóa. Trong Tây y dùng dưới dạng cồn thuốc, rượu thuốc, rượu

mùi.

- Quế còn sử dụng rất nhiều để làm gia vị. Một mặt do mùi vị quế kích thích ăn

ngon, kích thích tiêu hoá, mặt khác còn do quế có tác dụng ức chế sự phát của nấm, bảo

vệ thức ăn khỏi thiu thối.

Đông y xếp quế vào vị thuốc bổ. Tính vị: Ngọt cay, đại nhiệt. Tác dụng vào cả 5

kinh: Tâm, phế, thận, can, tỳ. Có tác dụng bổ mệnh môn hoả, thông huyết mạch trừ hàn

tích. Dùng để hồi dương cứu nghịch, mệnh môn hoả suy, tạng phủ lạnh, tiêu hoá kém, đầy

bụng.

Trong Đông y còn dùng quế chi để chữa cảm lạnh không ra mồ hôi, tê thấp, chân

tay đau buốt.

Tinh dầu quế có tác dụng sát khuẩn, kích thích tiêu hoá, kích thích hệ thống thần

kinh làm dễ thở và tuần hoàn lưu thông, kích thích nhu động ruột, được dùng phối hợp

với các vị thuốc dưới dạng rượu thuốc, cồn ngọt và dạng dầu cao xoa.

5. MỘT SỐ DƯỢC LIỆU CÓ KHẢ NĂNG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TINH

DẦU Ở VIỆT NAM

Ngoài những dược liệu đã được trình bày ở trên, xin giới thiệu thêm một số có khả

năng khai thác ở VN, trong đó có những dược liệu đã và đang khai thác tinh dầu, một số

khác là kết quả nghiên cứu phát hiện của nhiều tác giả trong thời gian gần đây. Sự nghiên

cứu thành phần hoá học của nhiều chủng loại ở các địa phương khác nhau, của nhiều bộ

phận trong cùng một cây đã phát hiện thêm một số chemotype mới, làm giàu thêm nguồn

nguyên liệu tinh dầu ở VN.

5.1. Màng tang – Litsea cubeba Fers.

Họ Long não – Lauraceae

Thành phần hoá học chính của tinh dầu là Citral (65%)

5.2. Kinh giới núi – Elsholtzia winitiana Craib.

Họ Hoa môi – Lamiaceae

Loài mọc ở Lâm Đồng: Phần trên mặt đất có chứa tinh dầu. Thành phần chính của

tinh dầu là citral (64,9%)

Loài mọc ở Kỳ Sơn (Nghệ An) Phần trên mặt đất có chứa tinh dầu (1,48%). Thành

phần chính là cineol (64,6-65,3%).

5.3. Kinh giới trồng – Elsholtzia Willd.

Họ Hoa môi – Lamiaceae

Kinh giới trồng ở Vinh (Nghệ An): Tinh dầu phần trên mặt đất chứa 34,7%.

5.4. Thiên niên kiện – Homalomena aromatica Schott.

Họ Ráy – Araceae204

Thân rễ có chứa tinh dầu (0,8-1%)

Thành phần chính của tinh dầu là linalol (72,1%)

5.5. Vương tùng – Murraaya sp.

Họ Cam – Rutaceae

Lá có chứa tinh dầu (5,52%)

Thành phần chính của tinh dầu là menthol (93,78-99,49%) bao gồm iso menthon

và menthon.

5.6. Đại bi – Blumea balsamifera DC.

Họ Cúc – Asteraceae

Lá có chứa tinh dầu

Thành phần chính của tinh dầu là borneol và L-camphor.

5.7. Chổi xuể - Baekea frutescens L.

Họ Sim – Myrtaceae

Lá và cành chứa tinh dầu (1,94-3,72%) (vùng Thừa Thiên Huế)

Thành phần chính của tinh dầu là cineol (30%)

5.8. Chùa dù – Elsholtzia blanda Benth.

Họ Hoa môi – Lamiaceae

Lá có chứa tinh dầu (0,5-0,6%)

Thành phần chính của tinh dầu là cineol (52,7-64,0%)

5.9. Nhân trần – Adenosma glutinosum (L.) Druce. var. caeruleum (R.Br.) Tsoong.

Họ Hoa mõm chó – Scrophulariaceae

Thu hái ở Tân kỳ (Nghệ An)

Phần trên mặt đất có chứa tinh dầu (0,38%)

Thành phần chính của tinh dầu là eugenol (72,6%)

5.10. Húng chanh – Coleus aromaticus Lour.

Họ hoa môi – Lamiaceae

Lá có chứa tinh dầu (0,05-0,12%)

Thành phần chính của tinh dầu là carvacrol (39,5%).

LƯỢNG GIÁ:

Trả lời các câu hỏi sau:

1. Trình bày được định nghĩa tinh dầu, từ đó phân biệt được tinh dầu và chất thơm tổng

hợp, giữa tinh dầu và chất béo.

2. Trình bày được nguồn gốc, phân bố đặc điểm tác dụng sinh học và công dụng của các

dược liệu chứa tinh dầu thường dùng

205

3. Trình bày được hàm lượng tinh dầu, tên và hàm lượng các phần chính trong dược liệu

chứa tinh dầu thường dùng

Phân biệt đúng sai các câu sau bằng cách đánh dấu vào chữ A (cho câu đúng) và chữB (cho câu sai):

Trả lời các câu hỏi sau bằng cách điền từ, cụm từ thích hợp vào chỗ trống (…):9. …. là một hỗn hợp của nhiều thành phần, thường có mùi thơm, không tan trong nước.10. Kể tên 4 dược liệu có chứa tinh dầu:A. ………….B. ………….C. ………….D. ………….Chọn giải pháp đúng nhất cho các câu sau bằng cách đánh dấu vào đầu giải pháp mà bạn lựa chọn:11. Để chế tạo tinh dầu, người ta áp dụng….. phương pháp:A. 3B. 4C. 5D. 612. Bệnh Scorbut là:A. Thiếu vitamin B1

B. Thiếu vitamin CC. Thiếu vitamin AD. Thiếu vitamin D13. Biểu hiện của bệnh Scorbut :A. Viêm lợiB. Chảy máu chân răngC. Xuyết huyết dưới daD. Cả 3 đáp án trên14. Nguồn gốc của vị trần bì :A. Vỏ Chanh

4. Vai trò của tinh dầu là quyến rũ côn trùng, giúp cho sự thụ phấn của

hoa.

5. Trong thảo quả có chứa Cineol.

6. Tinh dầu đinh hương làm thuốc diệt tủy răng và chế eugenat kẽm- là

chất hàn răng tạm thời.

7. Thành phần chính của tinh dầu trong cây Màng tang là Citral.

8. Eugenol là thành phần chính của tinh dầu trong cây Nhân trần.

A - B

A - B

A - B

A - B

A - B

206

B. Vỏ CamC. Vỏ QuýtD. Vỏ Buỏi15. Dược liệu dùng để chiết xuất Methol:A. Bạc hàB. Hương nhuC. Sa nhânD. Sả16. Tên khoa học của cây Sa nhân :A. Cinnamomum camphoraB. Cinamomum cassiaC. Amomum xanthioidesD. Zingiber officinale17. Trong các dược liệu sau, dược liệu nào có tác dụng điều trị sốt rét:A. Cây Cúc hoa vàngB. Cây Thanh hao hoa vàngC. Cây Địa hoàngD. Cây Sừng dê hoa vàng18. Tinh dầu hồi ở lạng sơn cung cấp ....... sản lượng toàn thế giới.A. 1/10B. 2/10C. 3/10D. 4/10

207

PHẦN THỰC HÀNHBÀI 1

XÁC ĐỊNH ĐỘ ẨM TRONG DƯỢC LIỆU VÀ KIỂM NGHIỆM HẠT TINH BỘT

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản xác định độ ẩm trong dược liệu.2. Kiểm nghiệm, nhận thức, phân biệt được một số hạt tinh bột.3. Rèn luyện được kỹ năng sử dụng kính hiển vi để kiểm nghiệm các hạt tinh bột.

NỘI DUNG:I. XÁC ĐỊNH ĐỘ ẨM TRONG DƯỢC LIỆU1. Lấy mẫu Dược liệu

Lấy mẫu dược liêu là viêc lựa chọn, thu thâp các mẫu dược liêu cho viêc kiểm trachất lượng.

Mức đô đại diên của các mẫu dược liêu được lấy có ảnh hưởng trực tiếp đến đô chính xác và đô đúng của viêc kiểm tra.

Các yêu cầu chung về viêc lấy mẫu dược liêu như sau:1.1. Kiểm tra trước khi lấy mẫu

Kiểm tra đối chiếu tên và nguồn gốc nguyên liêu;Kiểm tra đăc điểm và hình dạng bao gói;Kiểm tra sự nguyên vẹn, sạch sẽ, mức đô nhiễm mốc và tạp chất lạ của bao bì. Các bao gói không bình thường cần được kiểm tra riêng một cách kỹ càng. Ghi chép chi tiết kêt quả kiểm tra.

1.2. Cách thức lấy mẫu- Cách thức lấy mẫu:Tổng số bao gói dưới 5: Lấy mẫu từng bao gói.Dưới 100: Lấy mẫu 5 bao gói.Từ 100-1000: Lấy mẫu 5% tổng số bao gói.Trên 1000: Lấy 50 bao gói công thêm số bao gói bằng 1% của tổng số bao gói vượt

quá so với 1000 bao gói.Dược liêu quý: Lấy mẫu từng bao gói, không kể số lượng các bao gói.Dược liêu được lấy ở trên giữa và cuối của mỗi bao gói bằng các phương tiên thích

hợp (đối với bao gói lớn thì lấy sâu 10 cm dưới bề măt của bao gói). Đối với thuốc có kích thước lớn thì lấy mẫu đại diên thích hợp.- Khối lượng mẫu lấy:Nếu lượng dược liêu dưới 5 kg thì số lượng mẫu được lấy không ít hơn 3 lần số

lượng đem thử nghiêm. Nếu lượng dược liêu lớn hơn 5 kg thì số lượng mẫu lấy được xácđịnh như sau:

208

Thuốc thông thường: 250 - 500 g;Thuốc bôt: 200 g;Thuốc quý: 5 - 10 g (trừ khi có chỉ dẫn khác trong chuyên luân riêng).

1.3. Tạo mẫu đồng nhấtMẫu sau khi lấy được trôn đều để có môt mẫu đồng nhất dùng cho thử nghiêm.

Nếu khối lượng mẫu đồng nhất lớn hơn vài lần so với mẫu thử nghiệm thì làm một mẫutrung bình.

Nếu dược liêu có kích thước nhỏ thì lấy một mẫu trung bình bằng phương phápchia 4 như sau: San bằng mẫu thành hình vuông, chia mẫu theo 2 đường chéo thành 4phần bằng nhau. Lấy 2 phần đối diên và trôn đều. Làm lại thao tác chia 4 cho đến khi thuđược số lượng vừa đủ để làm mẫu thử và mẫu lưu.

Trong trường hợp các dược liêu có kích thước lớn thì lấy mẫu trung bình bằngphương pháp khác thích hợp. Khối lượng của mẫu đồng nhất hoặc mẫu trung bình khôngít hơn 3 lần số lượng của mẫu đem thử nghiêm. Lượng mẫu này được chia làm 3 phần,1/3 dùng để phân tích, 1/3 để kiểm tra và số còn lại làm mẫu lưu giữ lại ít nhất 01 năm.2. Xác định tỷ lệ vụn nát của dược liệu

Cân một lượng dược liệu nhất định (p gam) đã được loại tạp chất. Rây qua rây cósố quy định theo chuyên luận riêng. Cân toàn bộ phần đã lọt qua rây (a gam). Tính tỷ lệvụn nát (X%) theo công thức:

Ghi chú:Lượng dược liệu lấy thử (tuỳ theo bản chất của dược liệu) từ 100 đến 200g. Ðối với dược liệu mỏng manh thì phải nhẹ nhàng tránh làm nát vụn thêm.Phần bụi và bột vụn không phân biệt được bằng mắt thường được tính vào mục tạp

chất.3. Xác định độ ẩm trong dược liệu

Ðộ ẩm là lượng nước chứa trong 100g dược liệu. Dược liệu tươi thường chứa mộtlượng nước rất lớn: lá chứa khoảng 60- 80% nước, thân và cành chứa khoảng 40- 50%nước. Không có một dược liệu nào đạt độ khô tuyệt đối (độ ẩm 0 %), nhưng đối với mỗidược liệu đều được quy định một độ ẩm an toàn. Ðể bảo quản tốt, dược liệu cần có độ ẩmbằng hoặc dưới độ ẩm an toàn.

Xác định độ ẩm là công việc đầu tiên phải làm khi tiến hành xác định chất lượngmột dược liệu. Hàm lượng các hoạt chất như tinh dầu, chất béo, alcaloid, glycozit v.v...dều được quy định tính trên trọng lượng khô tuyệt đối của dược liệu. Việc xác định độ ẩmcòn được tiến hành định kỳ hàng năm 2 lần trong các đợt kiểm kê dược liệu theo quy địnhcủa nhà nước.

209

Các phương pháp xác định độ ẩm* Phương pháp sấy

Dược liệu là lá, rễ, thân cần được chia nhỏ trước khi xác định độ ẩm. Dược liệu lànụ hoa, hạt nhỏ có thể tiến hành xác định trực tiếp mà không cần chia nhỏ.

Cho vào chén cân dùng để xác định độ ẩm, có nắp và đã được cân bì trước 5- 10gdược liệu. Chén cân cần có kích thước thích hợp để lớp dược liệu cho vào không dày quá5 mm. Cho chén chứa dược liệu (đã mở nắp) vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ 100- 105 0C trong1 giờ. Cho chén vào bình hút ẩm đến khi nguội. Ðậy nắp và cân. Làm lại nhiều lần đếnkhi trọng lượng giữa 2 lần cân không vượt quá 0,5 mg. Ðộ ẩm (x %) của dược liệu đượctính theo công thức sau:

p: Số gam của mẫu thử trước khi sấya: Số gam của mẫu thử sau khi sấy

* Phương pháp dùng dung môi Có thể xác định độ ẩm của phần lớn các dược liệu bằng phương pháp sấy hoặc

phương pháp cất với dung môi. Riêng với dược liệu chứa tinh dầu có hàm lương tinh dầulớn hơn 2% thì bắt buộc phải sử dụng phương pháp dung môi để xác định độ ẩm.* Phương pháp tiến hành

- Dụng cụ (hình 1.1)Dụng cụ gồm bình cầu A, được nối với ống sinh hàn C qua bộ phận xác định

lượng nước. Bộ phận này bao gồm bầu ngưng tụ B, bộ phận chia vạch E và ống dẫn hơiD. Bộ phận chia vạch được chia độ đến 0,1 ml. Sau quá trình cất nước sẽ ngưng tụ ở đâyvì vậy ta có thể đọc được dễ dàng lượng nước chứa trong dược liệu đem thử. Nguồn nhiệtthích hợp là bếp điện có biến trở hoặc đun cách dầu.

- Cách tiến hànha/ Cho vào bình cầu đã được làm khô 200 ml toluen (hoặc xylen), 2ml nước. Lắp

dụng cụ (đã được sấy khô).

Cất khoảng 2 giờ. Ðể nguội trong 30 phút. Ðọc thểtích nước cất được ở ống hứng, chính xác đến 0,05 ml.

b/ Thêm vào bình cầu một lượng mẫu thử đã cânchính xác tới 0,01 g có chứa khoảng 2- 3 ml nước. Thêmvài mảnh đá bọt. Ðun nóng nhẹ, khi toluen đã bắt đầu sôithì điều chỉnh nhiệt để cất với tốc độ 2 giọt trong 1 giây.Khi đã cất được phần lớn nước sang ống hứng thì nângtốc độ cất lên 4 giọt trong 1 giây. Tiếp tục cất cho đến khi

210

mực nước cất được trong ống hứng không tăng lên nữa. Dùng 5- 10 ml toluen rửa ống sinh hàn. Cất thêm

5 phút nữa. Tách bộ phận cất ra khỏi nguồn nhiệt. Nếucòn có những giọt nước đọng lại trên thành ống sinh hànthì dùng 5 ml toluen để rửa kéo xuống. Khi lớp nước vàlớp toluen đã được phân tách hoàn toàn, đọc thể tích nướctrong ống hứng. Ðộ ẩm (x %) của dược liệu được tínhtheo công thức sau:

V1: số ml nước cất được sau lần cất đầuV2: số ml nước cất được sau lần cất thứ haip: số g mẫu đã cân đem thử

Hình 1.1:Dụng cụ xácđịnh hàm lượng nướcbằng phương pháp cấtvới dung môi

Lưu ý: 1. Nếu dùng toluen hoặc xylen đã bão hòa nước thì phần a/ không phải tiến hành 2. Toluen là dung môi dễ cháy vì vậy nguồn nhiệt phải là bếp điện kín, tránh lửa

trong phòng thí nghiệmII. KIỂM NGHIỆM HẠT TINH BỘT

Mỗi loại cây có dạng tinh bột riêng, kích thước cũng khác nhau cho nên dễ dàngphân biệt giữa chúng với nhau.

Có thể dựa vào hính thái của các hạt tinh bột để kiểm nghiệm thuốc và bột dượcliệu.Nguyên liệu:

Bột đã nghiền nhỏ, tinh bột Ðậu xanh, Gạo,, Khoai tây, Mì, Ngô, Sắn, Hoá chất dụng cụ:

Kính hiển vi, phiến kính, lamen đậy, dung dịch Lugol, nước cất,

211

Các bước tiến hành:

- Lên kính hạt tinh bột trong nước, - Quan sát ở vật kính 10. 40 hình dạng, kích thước, vân hạt, rốn hạt các hạt tinh

bột.- Quan sát quá trình đổi màu của hạt tinh bột khi tác dụng với dung dịch Lugol- Vẽ vào vở các đặc điểm hạt tinh bột đã soi, mô tả, nhận xét

1. Tinh bột Đậu

Hình 1.2.Tinh bột đậu

Bột lấy từ hạt Đậu xanh (Phaseolus aureus Roxb.) họ Đậu (Fabaceae)Bột trắng ngà. Soi kính hiển vi thấy hạt tinh bột hình trứng hay hình thận kích

thước khoảng 30-40μm, rốn thường là một đường có phân nhánh.2. Tinh bột Gạo

Hình 1.3.Tinh bột gạoTinh bột lấy từ quả hay “hạt” Gạo tẻ (Oryza sativa L.) họ Lúa (Poaceae)Bột màu trắng, Soi kính hiển vi thấy các hạt tinh bột hình đa giác có rốn rõ. Các

hạt kích thước 3-9μm thường kết lại với nhau thành từng đám.3. Tinh bột Khoai tây

212

Hình 1.4. Tinh bột khoai tây

Tinh bột lấy từ củ Khoai tây (Solanum tuberosum L.) họ Cà (Solanaceae).Bột màu trắng mịn. Soi kính hiển vi thấy những hạt tinh bột hình trứng riêng lẻ

kích thước khoảng 30-100μm, hạt hình tròn, nhỏ 10-35μm thỉnh thoảng có những hạt képdo 2 hay 3 hạt đơn ghép lại. Rốn là một điểm ở đầu hẹp, vòng đồng tâm thấy rõ xungquanh rốn. 4. Tinh bột Mì

Hình 1. 5. Tinh bột mỳ

Tinh bột lấy từ quả hay “hạt” Lúa mì (Triticum sativum Lamk.) họ Lúa (Poaceae).Bột màu trắng hay trắng ngà. Soi kính hiển vi thấy nhiều hạt tinh bột nhỏ hình tròn

hay đa giác kích thước 2-6μm, nhiều hạt tinh bột lớn hình tròn kích thước 30-40μm, ít hạtcó kích thước trung gian, các hạt không nhìn rõ rốn và vân.5. Tinh bột Ngô

Tinh bột lấy từ quả hay “hạt” Ngô (Zea mays L.), họ Lúa (Poaceae).

213

Hình 1.6.Tinh bột ngô

Bột màu vàng nhạt. Soi dưới kính hiển vi thấy các hạt tinh bột hình tròn, hình đagiác kích thước khoảng 10-30μm, rốn có thể phân nhánh, vân không rõ.6. Tinh bột Sắn

Hình 1.7. Tinh bột sắn

Tinh bột lấy từ rễ củ Sắn (Manihot utilissima Pohl.) họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).Bột màu trắng mịn. Soi kính hiển vi thấy những hạt tinh bột tròn kích thước 5-

25μm. Rốn hình sao, vân không rõ.

214

BÀI 2

KIỂM NGHIỆM DƯỢC LIỆUBẰNG PHƯƠNG PHÁP VI HỌC

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được một số các kỹ thuật cơ bản để kiểm nghiệm dược liệu bằng

phương pháp vi học.2. Nghiên cứu và làm được tiêu bản hiển vi, vẽ được sơ đồ tổng quát vi phẫu dược

liệu.3. Thực hiện được các phương pháp phân tích vi hóa và huỳnh quang dược liệu.

NỘI DUNG:1. Một số kỹ thuật cơ bản1.1. Chuẩn bị nguyên liệu

Nguyên liệu để nghiên cứu có thể ở dạng tươi hoặc khô, khi kiểm nghiệm dượcliệu tùy mục đích mà xử lý khác nhau. Nguyên liệu tươi ngay sau khi thu hái có thể dùngđể làm các lát cắt, đôi khi được cố định trong các dung dịch khác nhau. Nguyên liệu khôphải làm mềm. Nghiên cứu đặc điểm các tổ chức, tế bào có thể tiến hành trên nguyên liệuđã được ngâm mủn. 1.1.1. Cố định nguyên liệu

Mục đích của cố định trong kiểm nghiệm dược liệu là giữ lại trong mô, tế bào dượcliệu các cấu trúc, các hoạt chất cần thiết cho những quá trình nghiên cứu tiếp theo. Tùythuộc vào nguyên liệu, mục đích nghiên cứu mà tiến hành cố định trong các điều kiệnkhác nhau:

- Nghiên cứu giải phẫu thực vật, tế bào học, cần quan sát các thành phần cấu trúcchứa trong mô, tế bào, cần cố định bằng các chất định hình như Carnua, FAC, Navasinv.v...

- Nghiên cứu alcaloid thường cố định thực vật trong dung dịch acid picric hoặcdung dịch các thuốc thử alcaloid.

- Xác định hesperidin trong vỏ cam, quít v.v... cần cố định nguyên liệu trong cồn. - Nghiên cứu tanin trong dược liệu thường cố định trong dung dịch Kali cromat,

chì acetat v.v... 1.1.2. Làm mềm nguyên liệu

Các dược liệu khô, cứng khi làm tiêu bản cần làm mềm trước, có nhiều phươngpháp làm mềm: làm mềm lạnh, làm mềm trong buồng ẩm, làm mềm nóng v.v... Làm mềm lạnh: Các phần cây: rễ, quả, hạt, các bộ phận dưới đất, thường tiến hành làmmềm bằng cách cho vào hỗn hợp Nước - Glycerin - Ethanol (1:1:1) mẫu được giữ chođến khi các mô thấm no chất lỏng, theo cách này mất nhiều thời gian (tùy thuộc vào độ

215

dày của mẫu và cấu trúc các mô mà ngâm vài ngày đến vài tuần) nhưng rất tốt bởi vìkhông khí được giải phóng ra khỏi các mô và một phần được làm sáng.

Phương pháp làm mềm đơn giản thường được sử dụng nhất: Ngâm mẫu vào nướcmột vài giờ sau khi mềm chuyển vào hỗn hợp Glycerin - Ethanol (1:1) hay Nước -Glycerin - Ethanol (1:1:1) giữ ở trong hỗn hợp 1 - 3 ngày. Trong hỗn hợp này mẫu có thểbảo quản lâu dài. Khi cần mẫu chắc hơn bỏ vào hỗn hợp Glycerin - Ethanol (1:2) ngâmmột thời gian.

Làm mềm trong buồng ẩm: Có thể sử dụng bình hút ẩm kín. Cho nước vào bình vàmẫu vào bát nhỏ, thả nổi bát trong bình. Mẫu không tiếp xúc với nước mà chỉ bị ẩm bởihơi nước trong bình, phương pháp này tốn thời gian song là phương pháp tốt nhất vì nóđảm bảo giữ được cấu trúc tế bào và các thành phần khác mà không bị rửa đi, thăng hoa,trương phồng, nhầy hoá - là những hiện tượng thường xảy ra khi sử dụng các phươngpháp làm mềm khác. Với dược liệu mềm, mỏng, làm ẩm khoảng một ngày, dược liệucứng khoảng 2-3 ngày, để tránh mốc có thể xảy ra trong quá trình làm ẩm người ta thêmvào nước một ít phenol hoặc formaldehyd. Nhược điểm của phương pháp làm ẩm này làtrong dược liệu còn lại nhiều khí cần phải loại khi làm tiêu bản.

Làm mềm nóng: là phương pháp đơn giản và nhanh, cho những mẩu dược liệu dài2-3 cm vào nước, đun sôi. Vỏ thường đun khoảng 3-5 phút, các cơ quan khác tùy độ rắnvà mức độ hoá gỗ của mô mà đun sôi trong 10-30 phút. Quả và hạt có thể làm ẩm bằnghơi nước, gói quả hay hạt vào vải màn, treo trong hơi nước đun sôi 15-30 phút hay hơntùy thuộc vào độ cứng của chúng. Lá và hoa không yêu cầu xử lý lâu, phức tạp, để làmmềm và tẩy sáng đun chúng trong dung dịch cloral hydrat 66%. Sau khi đun lấy ra, rửasạch bằng nước và làm các lát cắt. Ðặc điểm của phương pháp làm mềm nóng là làmtrương nở thành tế bào và làm rửa trôi chất tế bào. 1.1.3. Phương pháp ngâm mủn

Trong nghiên cứu thực vật nói chung và kiểm nghiệm vi học dược liệu nói riêngthường sử dụng phương pháp ngâm mủn. Ðó là phương pháp phân tách tế bào khác nhaunằm trong cấu tạo của các loại mô. Bằng cách này màng gắn giữa các tế bào bị phá hủy,các tế bào tách rời nhau mà không bị hư hại do vậy ta có thể nghiên cứu chi tiết cấu tạocủa từng tế bào một từ khắp mọi phía. Phương pháp ngâm mủn có ý nghĩa quan trọngtrong nghiên cứu giải phẫu thực vật đặc biệt trong kiểm nghiệm dược liệu bằng phươngpháp soi bột.

Tùy từng loại dược liệu mà sử dụng các phương pháp ngâm mủn khác nhau, cơ sởcủa đa số các phương pháp này là xử lý mô bằng acid mạnh, các acid sẽ thủy phân mànggiữa làm nhiệm vụ nối các tế bào với nhau, một số trường hợp ngâm mủn bằng kiềm.Ngày nay người ta thường ngâm mủn bằng men pectinaza, khi dùng men quá trình thủyphân xảy ra trong điều kiện ôn hoà hơn nên không làm hỏng tế bào. Với nguyên liệu cứngrắn như gỗ có thể ngâm mủn bằng cách đun các mảnh nguyên liệu trong HNO3 10%khoảng vài phút, khi đạt độ mủn rửa sạch bằng nước rồi đặt vào một giọt nước trên phiến

216

kính, dùng kim nhọn để tách rời các tế bào. Nếu nguyên liệu được xử lý tốt thì chỉ cầnđậy lá kính rồi ấn nhẹ lên lá kính là các tế bào tự tách rời nhau. Người ta đánh giá quátrình ngâm mủn theo mức độ vụn nhỏ của mô khi ép dưới lá kính. Với nguyên liệu rắn cóthể dùng dung dịch ngâm mủn Schulze: cho những mẩu nguyên liệu nhỏ vào ống nghiệmcó chứa hỗn hợp 2 ml HNO3 đậm đặc và 0,3 g Kali clorat đun đến khi tạo bọt (tiến hànhnơi thoáng gió hoặc trong tủ hốt) và để một vài phút cho đến khi mẩu nguyên liệu bị tẩytrắng. Ðể nguội, lấy nguyên liệu ra, rửa sạch bằng nước rồi tiến hành tiếp tục như trên.Với nguyên liệu rắn còn có thể ngâm mủn bằng hỗn hợp HNO3 10% và Kali dicromat10% theo tỷ lệ 1:1 ngâm 24-48 giờ ở 600C (Hỗn hợp này có thể dùng để ngâm mủnnguyên liệu mềm trong 24 giờ ở 300C). Với nguyên liệu mềm như lá cây, chồi, các loạithân cỏ có thể ngâm mủn trong dung dịch acid cromic 1% trong nước một vài ngày, cóthể đun nhẹ để phản ứng nhanh hơn hoặc ngâm mủn bằng acid cromic 5% hoặc HCl 1N,ngâm mẫu trong các dung dịch này ở 300C trong vài giờ, sau khi ngâm rửa sạch và tiếnhành như mô tả ở trên. Với nguyên liệu có chứa các ống tiết, ống nhựa mủ, túi nhựa vàtinh dầu v.v... sử dụng phương pháp ngâm mủn bằng kiềm sẽ tách các mô mà không làmhỏng thành mỏng của các tế bào. Tiến hành cụ thể như sau: Ðun sôi nguyên liệu trongNaOH 3-5% trong vòng 30 phút hoặc đun nóng trong dung dịch NH4OH 25% khoảng 40phút.

Ðối với các mẫu cây thảo, còn tươi thường dùng phương pháp tách bằng enzym.Mô được ủ ở nhiệt độ 370C trong 24 giờ với pectinaza 5% sau khi rửa để loại enzym tiếnhành tiếp tục như trên.

Thông thường trong các mô có chứa khí ngăn cản quá trình thâm nhập của các tácnhân gây mủn vì vậy với các mẫu ngâm mủn bằng phương pháp không đun nóng cần phảiđun sôi trước trong nước để loại không khí hoặc tiến hành loại không khí trong điều kiệnchân không, cụ thể: thả những mẩu mô nhỏ (thường nhỏ hơn 0,5cm) vào nước chứa trongbình, nối với bơm chân không, không khí trong bình được hút ra trong vòng 10-12 phút,lặp lại vài lần. 1.2. Chuẩn bị và nghiên cứu tiêu bản hiển vi

Tiêu bản hiển vi thường được làm từ dược liệu đã được xử lí sơ bộ (1.1.). Cáchlàm tiêu bản phụ thuộc vào các đặc điểm hình thái, trạng thái của nguyên liệu (nguyênvẹn, các mảnh bị cắt rời, bột...) và mục đích nghiên cứu. Cơ sở của kiểm nghiệm hiển vilà giải phẫu thực vật và hoá thực vật (dựa vào các đặc điểm thực vật cũng như dựa vàocác phản ứng vi hoá, mô hoá), trong quá trình kiểm nghiệm hiển vi cần có hiểu biết sâusắc về cấu tạo giải phẫu, các cơ quan của cây cũng như trạng thái tồn tại, tính chất hoạtchất của dược liệu. Những kiến thức này có vai trò quan trọng trong việc xác định các đặcđiểm, các phản ứng đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, cho phép phân biệt các cơ quantương tự của các dược liệu khác nhau. Sau đây là một số vấn đề cần lưu ý khi kiểmnghiệm dược liệu từ các cơ quan khác nhau.

217

1.2.1. Lá Lá mỏng có thể quan sát dưới kính hiển vi không cần cắt lát, thông thường để tẩy

sáng mô lá khô đun sôi lá trong dung dịch kiềm hoặc trong dung dịch cloral hydrat 30%trong vòng 10-15 phút. Các lá nhỏ khi tẩy sáng lấy cả lá, lá to hoặc lá bị cắt nhỏ lấy cácphần khác nhau có chứa các yếu tố có thể dùng để chẩn đoán như mép lá, răng lá, gânchính, bề mặt trên, dưới v.v... Lá hoặc các mẩu lá sau khi tẩy sáng rửa bằng nước, lênkính trong glycerin hoặc dung dịch cloral hydrat. Lá dày cần phải làm các lát cắt ngang,một số lá có thể dùng dao sắc để tách phần biểu bì ra khỏi thịt lá.

Ðể nghiên cứu bột lá dùng kim mũi mác lấy một lượng nhỏ bột cho lên phiến kínhđã có sẵn 2-3 giọt dung dịch cloral hydrat, nghiền bột cho thấm dung dịch, đặt phiến kínhvà đun nóng 2-3 phút để làm trong các mô lá (có thể đun đến khi tạo bọt khí), sau khi đểnguội di nhẹ lên lá kính để tạo nên lớp bột mỏng, không chồng chéo lên nhau. Cần chú ýlàm sạch lá kính và đủ chất lỏng để soi. Lá có chứa nhiều chất diệp lục làm sáng trongdung dịch như trên ít có hiệu quả. Trong trường hợp này có thể làm trong bột lá bằngdung dịch NaOH 3%, khi đun nóng dung dịch nhanh chóng bay hơi vì vậy cần chú ý theodõi để tiêu bản không bị khô. Sau khi đun nóng cần thêm 1-2 giọt glycerin để ngăn cản sựkết tinh của kiềm và làm cho tiêu bản lâu khô. Các yếu tố đặc trưng chủ yếu để kiểmnghiệm lá là biểu bì, lông che chở, lông tiết, tuyến, tinh thể.

Biểu bì: Lá của các cây khác nhau đặc trưng bởi các dạng tế bào biểu bì xác định,ở một số cây tế bào biểu bì có dạng uốn khúc nhiều hoặc ít, ở một số có nhiều góc, có khitế bào biểu bì bị kéo dài rõ rệt theo một hướng v.v... Kích thước của tế bào biểu bì là mộttrong các yếu tố đặc trưng để xác định các cây. Tế bào biểu bì thường được bọc bởi mộtlớp màng mỏng cấu tạo từ cutin, đa số trường hợp cutin có bề mặt nhẵn song đôi khi tạothành các nếp gấp thẳng hoặc lượn sóng, hay có những chỗ lồi dưới dạng u, mấu. Các đặcđiểm của lớp cutin bao phủ biểu bì cũng như chiều dày của nó đặc trưng cho một số loạicây có ý nghĩa trong kiểm nghiệm dược liệu. Chiều dày của lớp cutin có thể quan sát rõkhi nhuộm tiêu bản (lát cắt ngang) bằng dung dịch Sudan III. Biểu bì lá có các lỗ khí,dạng của lỗ khí, sự phân bố của chúng (ở một mặt, hai mặt lá) và đặc điểm của các tế bàobiểu bì bao quanh là những đặc điểm đặc trưng đối với mỗi dạng cây hoặc họ và là nhữngđặc điểm có ý nghĩa trong kiểm nghiệm. Dựa vào đặc tính phân bố của lỗ khí và các tếbào biểu bì bao quanh người ta phân biệt ra nhiều kiểu:

- Kiểu lỗ khí không có tế bào kèm (Kim ngân) - Kiểu hỗn bào: lỗ khí bao bọc bởi tế bào giống như tế bào biểu bì, không có tế bào

phụ (họ Hoàng liên) - Kiểu song bào: lỗ khí bao bọc bởi hai tế bào phụ nằm song song với trục dọc của

nó (họ Cà phê) - Kiểu trực bào: lỗ khí bao bọc bởi hai tế bào phụ nằm thẳng góc với trục dọc của

lỗ khí (họ Cẩm chướng).

218

- Kiểu dị bào: lỗ khí bao bọc bởi ba tế bào phụ một tế bào nhỏ hơn rõ rệt so với haitế bào kia (họ Cải) v.v...

Số lượng lỗ khí (số lỗ khí trên 1 mm2 biểu bì) và chỉ số lỗ khí (tỷ lệ lỗ khí và số tếbào biểu bì trên một đơn vị diện tích) thường là những đại lượng cố định đối với một loài,trong nhiều trường hợp chúng cho phép phân biệt các loài của cùng một chi. Ở các lát cắt ngang phiến lá khi quan sát mô giậu có thể thấy một hàng hay hai hàng, cóthể chỉ có ở mặt trên hoặc cả hai mặt. Tỷ lệ mô giậu (số tế bào của mô giậu dưới mỗi tếbào biểu bì) cũng có ý nghĩa đặc trưng cho các loài.

Lông: ở phần lớn thực vật tế bào biểu bì mọc dài ra tạo thành lông. Lông có thể cóở nhiều phần của cây, chúng có thể tồn tại trong suốt đời sống của một cơ quan, hoặc chỉmột thời gian. Lông thường hết sức khác nhau trong các họ cây, các nhóm cây nhỏ hơn vàngay trong cùng một cây, đôi khi lại có sự khá đồng nhất về lông trong phạm vi mộtnhóm cây. Lông có thể phân chia thành nhiều loại hình thái khác nhau, về mặt cấu trúclông có thể chia thành loại đơn bào và đa bào. Lông đơn bào có thể phân nhánh haykhông phân nhánh. Lông đa bào có thể bao gồm một dãy tế bào riêng lẻ hoặc phân nhánh.Một số lông có các nhánh toả ra nhiều hướng trong một mặt phẳng (lông hình sao).Thường một lông đa bào có thể phân chia thành phần chân (phần bám vào biểu bì) vàphần lồi trên bề mặt. Những tế bào quanh chân đôi khi về mặt hình thái khác hẳn với tếbào biểu bì khác. Có kiểu lông hình khiên gồm một phiến tế bào hình đĩa, phần nhiềuđược sinh ra trên một cán hoặc đính trực tiếp vào chân. Những lông đơn bào, đa bào vàhình khiên có thể là lông tiết. Một số lông đa bào đơn giản có thể bao gồm một chân vàmột đầu đơn bào hoặc đa bào, các đầu thường tạo thành phần tiết của lông. Bề mặt lôngcó thể nhẵn hay sần sùi tùy thuộc vào đặc điểm của lớp cutin bao bọc. Kích thước củalông cũng rất khác nhau, ở một số cây lông có thể quan sát bằng mắt thường, có cây phảidùng kính lúp, kính hiển vi. Sự đa dạng của lông là một trong những yếu tố quan trọngnhất để phân biệt dược liệu. Người ta cũng đã sử dụng thành công việc phân loại các chi,thậm chí các loài ở một số họ và trong việc nhận biết cây lai giữa các loài dựa vào kiểulông.

Các tuyến tiết, túi tiết, ống nhựa mủ: Trong lá nhiều cây có chứa tinh dầu, vị trítinh dầu có thể rất khác nhau, ở một số cây tinh dầu chứa trong các tuyến tiết nằm trên bềmặt biểu bì (Bạc hà, Hương nhu) một số cây khác tinh dầu chứa trong các túi tiết (lá Bạchđàn). Cấu tạo của túi tiết, tuyến tiết tinh dầu thường đặc trưng cho mỗi chi cây, có khi đặctrưng cho toàn họ. Ví dụ họ Bạc hà có tinh dầu chứa trong các lông tiết hình bánh xe,nhiều cây trong họ Cúc có tuyến tiết gồm hai hàng tế bào xếp thành 3-4 lớp. Một số câycó các túi tiết, ống tiết đặc biệt chứa tinh dầu, nhựa, nhựa mủ. Ðặc điểm và phân bố củatuyến tiết tinh dầu, các túi tiết, ống tiết với tinh dầu, nhựa, nhựa mủ trong đó là những đặcđiểm đặc trưng để phân biệt các nguyên liệu khác nhau khi kiểm nghiệm dược liệu.

Tinh thể: Trong cây thường gặp các tinh thể calci oxalat, đôi khi có tinh thể củacác chất khác như calci sulfat, calci cacbonat, oxyt silic (SiO3). Dạng của các tinh thể rất

219

khác nhau và đặc trưng đối với mỗi loài cây, có khi đặc trưng cho chi thậm chí cho cả họ.Calci oxalat thường gặp dưới dạng đơn hoặc kép, hình lăng trụ, hình kim, bó, cầu gai, cátcó khi tập trung thành khối, thông thường trong một cây calci oxalat thường ở một dạngnào đó, có những cây calci oxalat ở 2-3 dạng. Hình dạng các tinh thể cũng như vị trícủa chúng có ý nghĩa trong kiểm nghiệm dược liệu. Các tinh thể calci oxalat không hoàtan trong nước và trong acid acetic mà hoà tan trong acid hydrocloric, acid nitric, acidsulfuric. Khi tác dụng với acid sulfuric xảy ra quá trình hoà tan tinh thể và lại tạo nên tinhthể calci sulfat, quá trình này xảy ra nhanh và có thể quan sát dưới kính hiển vi. Ðể quansát tinh thể calci oxalat trong các cơ quan có thể sử dụng các chất lỏng làm sáng tiêu bảnnhư cloral hydrat, lactophenol.

Khi nghiên cứu tinh thể nên sử dụng kính hiển vi phân cực vì dưới kính hiển viphân cực thấy rất rõ các tinh thể, thậm chí có thể quan sát được những mảnh tinh thể rấtnhỏ. Ðể nghiên cứu tinh thể dưới kính hiển vi phân cực có thể làm các tiêu bản cố địnhkhông nhuộm màu trong bôm Canađa. Trong lá một số cây có chứa nang thạch (đá túi)cũng là đặc điểm đặc trưng khi kiểm nghiệm dược liệu.

Khi nghiên cứu lá đã nghiền nhỏ một số yếu tố có thể bị biến dạng song phần lớnvẫn giữ nguyên dạng và các đặc điểm của chúng, đó là những yếu tố để xác định dượcliệu khi kiểm nghiệm. 1.2.2. Hoa

Trước khi làm tiêu bản cần làm mềm hoa hoặc các bộ phận của hoa (1.1.2.), saukhi rửa sạch bằng nước, đặt lên phiến kính trong một giọt chất lỏng để soi (nước, glycerin,dung dịch cloral hydrat) dùng kim mũi mác làm cho phẳng, đậy lá kính, nung nóng đểloại không khí, nghiên cứu dưới kính hiển vi bề mặt các bộ phận của hoa. Các yếu tố có ýnghĩa trong kiểm nghiệm vi học hoa là: hạt phấn, biểu bì trong, ngoài của cánh hoa, đàihoa, lá bắc, tế bào của cuống hoa, lông, tinh thể calci oxalat, tuyến tiết tinh dầu...

Phân tích bột hoa cần chú ý tới các hạt phấn, các mảnh mô với tinh thể (nếu có),các mảnh biểu bì cánh hoa, các yếu tố cơ giới của lá bắc, lông. Trong nhiều trường hợphạt phấn là yếu tố định hướng trong kiểm nghiệm. 1.2.3. Thân thảo

Xác định thân thảo chủ yếu theo lá, cần làm tiêu bản từ lá hoặc các mẩu lá (nếudược liệu bị cắt nhỏ). Khi nghiên cứu thân thảo không có lá làm tiêu bản biểu bì và lát cắtngang thân. Dược liệu phải được làm mềm (1.1.2.), làm tiêu bản, lên kính bằng nước,glycerin hay dung dịch cloral hydrat quan sát bề mặt biểu bì và cấu trúc giải phẫu. Vớicác mẩu thân bị cắt nhỏ có thể nghiên cứu bằng phương pháp ngâm mủn (2.1.3.) Làm tiêubản từ bột dược liệu thân thảo cũng tiến hành như bột từ lá, không nên lấy những mảnhthân lớn vì khó làm sáng, hơn nữa những mảnh này ít có ý nghĩa trong kiểm nghiệm vàgây khó khăn khi làm tiêu bản. Xác định dược liệu thân thảo tiến hành như với lá vì vậynhững yếu tố có ý nghĩa trong kiểm nghiệm lá cũng có ý nghĩa trong kiểm nghiệm thânthảo. Bột cây thân thảo được phân biệt ở chỗ ngoài những yếu tố, đặc điểm của lá còn gặp

220

các yếu tố, đặc điểm của thân, hoa, các bộ phận của quả. Với thân đặc điểm quan trọngnhất là biểu bì và hình dạng tế bào biểu bì. Mảnh mạch của thân thường lớn và thẳng phânbiệt với mảnh mạch nhỏ, phân nhánh của lá. Trong bột dược liệu thân thảo thường gặpcác yếu tố từ hoa như hạt phấn, biểu bì cánh hoa, nhị, các yếu tố từ quả như tế bào biểu bìvỏ quả, nếu quả chín có thể thấy các lớp vỏ hạt, các mảnh nội nhũ với dầu béo, các giọtdầu béo. 1.2.4. Vỏ

Khi nghiên cứu vỏ thường làm các lát cắt ngang và dọc. Nguyên liệu sau khi xử lý(1.1.) tiến hành làm các lát cắt, lên kính trong dung dịch cloral hydrat, nước hay glycerin,đậy lá kính và đun nóng để làm sáng tiêu bản và loại không khí. Ðể làm rõ các cấu trúchay hoạt chất xử lý lát cắt bằng các thuốc thử tương ứng.

Khi nghiên cứu các lát vỏ cắt ngang dưới kính hiển vi cần chú ý tới độ dày và đặcđiểm cấu tạo của lớp bần, chiều rộng của tia tủy, các yếu tố cơ giới như sợi, libe, tế bàomô cứng, thể cứng, cấu tạo, phân bố và số lượng của chúng. Cấu tạo, kích thước của sợi,tế bào mô cứng quan sát rõ hơn trên các lát cắt dọc. Trong vỏ một số cây có ống nhựa mủhay túi chứa tinh dầu có ý nghĩa trong kiểm nghiệm dược liệu.

Hầu như trong vỏ luôn có tinh thể calci oxalat chúng thường phân bố trong các mômềm. Tinh bột cũng thường có trong mô mềm vỏ nhưng không có ý nghĩa kiểm nghiệmvì hầu như tất cả các hạt tinh bột gần tương tự nhau: nhỏ, hình tròn hoặc hình trái xoan.Các phản ứng vi hoá để phát hiện hoạt chất cũng như phản ứng xác định sự hoá gỗ củacác yếu tố vỏ có vai trò lớn khi kiểm nghiệm. 1.2.5. Quả, hạt

Khi nghiên cứu quả, hạt dưới kính hiển vi người ta thường làm các lát cắt ngang.Ðể nghiên cứu toàn diện cần làm và quan sát các lát cắt ngang qua các phần khác nhaucủa quả, hạt và nghiên cứu chi tiết ở những lát cắt phần giữa vì ở đó các yếu tố cấu trúcđược thể hiện đầy đủ nhất. Ðể làm các lát cắt từ quả, hạt nhỏ cần cố định trong parafin vàđặt chúng cẩn thận đúng theo hướng xác định.

Vỏ quả có ý nghĩa quan trọng nhất trong kiểm nghiệm quả. ở một số quả vỏ quả cócác ống, túi tiết tinh dầu, số lượng và phân bố của chúng là những đặc trưng chủ yếu đốivới từng loại quả xác định.

Số lượng hạt, dạng hạt, phân bố của hạt trong quả, mô cơ giới của vỏ quả, lôngbiểu bì quả cùng với các phản ứng vi hoá xác định chất béo, tinh dầu, các yếu tố hoá gỗv.v...là các vấn đề có ý nghĩa trong kiểm nghiệm quả, bột quả. Khi nghiên cứu hạt dưới kính hiển vi cần chú ý tới cấu trúc chung của hạt (Ðặc điểm vỏhạt, độ lớn các mô dinh dưỡng, nội nhũ, dạng và vị trí của phôi, rễ mầm, các lá mầm) hìnhdạng, kích thước tế bào vỏ hạt có ý nghĩa phân biệt. Cấu tạo nội nhũ và các mô của phôi(trừ một vài dược liệu - Mã tiền, quả họ Cần) thường không khác nhau nhiều. Khi nghiêncứu bột hạt đặc điểm của lớp vỏ hạt là đặc trưng quan trọng nhất. 1.2.6. Rễ, củ và các cơ quan dưới đất

221

Nghiên cứu hiển vi các cơ quan này tiến hành làm tiêu bản cũng như với các cơquan khác song vì tinh bột là yếu tố có ý nghĩa lớn trong xác định nguyên liệu nên khilàm mềm (1.1.2.) cần sử dụng các phương pháp lạnh để giữ nguyên trạng thái của chúng.Nghiên cứu đặc điểm phân bố các mô dẫn (bó mạch dẫn) cần làm lát cắt qua tất cả cácphần của rễ hay củ rễ và quan sát ở độ phóng đại nhỏ. Sau đó nghiên cứu chi tiết các cấutrúc, thành phần các mô với độ phóng đại lớn. Số lượng các lát cắt không cần nhiều songphải đại diện cho tất cả các phần có chứa các yếu tố khác nhau. Ðầu tiên thường nghiêncứu các lát cắt không đun nóng để nhận xét sự có mặt của tinh bột, hình dạng và kíchthước của chúng, sau đó đun nóng tiêu bản để tẩy sáng và nghiên cứu các đặc điểm giảiphẫu. Thường sử dụng cloral hydrat làm chất lỏng lên kính, ít khi dùng glycerin và nước.Ðể nghiên cứu cấu trúc hay các chất thường xử lý lát cắt bằng các thuốc thử tương ứng.Nghiên cứu bột rễ và rễ củ thường bắt đầu với việc xác định các chất dinh dưỡng dự trữ,lên kính bột dược liệu trong nước hay trong dung dịch Lugol (đối với tinh bột) hay trongdung dịch Sudan III (đối với dầu béo). Ðể nghiên cứu những mảnh mô riêng biệt cần quansát trong dung dịch cloral hydrat sau khi đun nóng (làm sáng). Ðặc điểm cấu tạo, phân bốcủa các mô dẫn (gỗ, libe), sự biến đổi của chúng trong quá trình phát triển cá thể cùng vớicác đặc điểm giải phẫu khác (sợi, thể cứng, ống nhựa mủ, túi chứa tinh dầu, nhựa, hạt tinhbột, tinh thể) có ý nghĩa quan trọng trong kiểm nghiệm. Kết quả các phản ứng vi hoá địnhvị hoạt chất làm tăng thêm độ xác thực. 1.3. Các chất lỏng dùng để soi và làm sáng

Ðặc tính môi trường để soi đặc biệt là những chất làm sáng tiêu bản có ý nghĩa rấtquan trọng trong kỹ thuật vi học. Làm sáng tiêu bản tức là làm cho đối tượng nghiên cứutrở nên sáng hơn, rõ ràng hơn bằng cách loại bỏ ảnh hưởng của các thành phần trong tếbào cản trở sự quan sát. Các chất lỏng có thể làm sáng bằng tác dụng hoá học, dẫn tớiphân hủy, hoà tan, làm mất màu tất cả những thành phần ?thừa? trong tiêu bản nghiên cứuhoặc bởi tác động vật lý vì có những chất trơ về mặt hoá học nhưng có hoạt tính quanghọc, tạo ra những điều kiện xác định để ánh sáng xuyên qua tiêu bản làm cho các chi tiếtcủa đối tượng được quan sát tốt hơn. Các đối tượng quan sát được càng rõ khi sự khácnhau về chỉ số khúc xạ ánh sáng của nó với môi trường soi càng lớn. Các cấu trúc thành tếbào cellulose có chỉ số khúc xạ n=1,52. Chỉ số khúc xạ của glycerin n=1,47, củalactophenol n=1,48. Khi các đối tượng có cấu trúc tế bào mỏng, trong lên kính bằng nước(n=1,33) quan sát rõ hơn lên kính bằng glycerin và lactophenol. Nếu đối tượng ít trongsuốt cần sử dụng chất lỏng để soi có chỉ số khúc xạ lớn, loại đối tượng này lên kính bằngglycerin và lactophenol sẽ trong suốt hơn khi lên kính bằng nước.

Ðể làm sáng tiêu bản sử dụng các chất lỏng khác nhau, tùy vào bản chất của đốitượng, mật độ (độ sít) của mô, các cấu trúc tế bào. Thông thường dùng nước, glycerin.cloral hydrat, kiềm, nước oxy già để soi và làm sáng. Ta lần lượt xét từng chất:

- Nước: là chất lỏng trung tính thường sử dụng để lên kính vì nước không làm biếnđổi hình dạng, độ lớn của tế bào, cấu trúc và màu của mô. Các hạt tinh bột nhìn rõ trong

222

môi trường nước, hạt alơron bị phân hủy, dầu béo tập hợp lại thành giọt lớn, chất nhầy bịhoà tan, các mô tối khó phân biệt.

- Glycerin: Khi dùng pha loãng với nước theo tỷ lệ 1:1 (glycerin không pha loãnghút nước từ mô làm nhăn rúm mẫu và làm biến dạng chúng). Chỉ trường hợp khi nghiêncứu các chất hoà tan trong nước (Ví dụ: chất nhầy) sử dụng glycerin không pha hoặc phanó với cồn theo tỷ lệ 1:1. Glycerin cũng là một chất lỏng trung tính nhưng so với nước nócó ưu điểm là lâu khô và có tính chất làm sáng nhẹ, dưới tác dụng lâu dài của glycerin cácmô trở nên trong suốt hơn.

- Cloral hydrat: Sử dụng dưới dạng dung dịch đậm đặc trong nước để làm sáng cáclát cắt dày, bột dược liệu trên kính hiển vi. Cloral hydrat là một trong những chất làmsáng tốt nhất, nó nhanh chóng thấm vào tế bào, loại bọt khí ra. Trong cloral hydrat các hạttinh bột trương ra, dầu béo và tinh dầu ban đầu tập hợp lại thành giọt lớn hơn, sau đó dầndần bị hoà tan. Protein, clorofin và các chất khác bị phá hủy, các mô có màu thẫm sánglên, các tinh thể không bị biến đổi. Thông thường đun nóng các mẫu khi cho vào dungdịch cloral hydrat, đôi khi đun đến sôi nhẹ để tăng cường tác dụng làm sáng và rút ngắnthời gian. Nhược điểm của cloral hydrat là làm biến dạng các mô do thành tế bào trươngphồng mạnh.

- Kiềm: sử dụng dung dịch trong nước, nồng độ kiềm và thời gian xử lý tùy vàođối tượng nghiên cứu, thường sử dụng dung dịch 3-5% đôi khi 10-15%. Dung dịch NaOHlà chất làm sáng mạnh, trong dung dịch NaOH hạt tinh bột trương phồng và bị hồ hoá.Khi tác dụng lâu dài hay đun nóng dược liệu trong kiềm chất béo bị xà phòng hoá, proteinbị hoà tan, các mô thẫm sáng ra. Trong dung dịch kiềm thành tế bào giãn nở, thay đổihình dạng, kích thước và dễ bị vỡ khi bị tác động. Có thể dùng KOH hoặc NH4OH,NH4OH có ưu điểm là ít làm giãn nở thành tế bào.

- H2O2: sử dụng dung dịch 3% để làm sáng, nồng độ cao hơn H2O2 làm mủn các môdược liệu. 1.4. Cách làm tiêu bản vi phẫu thực vật

Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu có thể tiến hành làm tiêu bản dược liệu theocác quá trình khác nhau, tài liệu này giới thiệu phương pháp làm tiêu bản vi phẫu thườngsử dụng phổ biến trong nghiên cứu thực vật. Tiêu bản tạm thời: Khi nghiên cứu cấu tạo giải phẫu cần xác định nhanh, không giữ lạimẫu có thể làm tiêu bản đơn giản như sau: 1. Dược liệu tươi hay khô đã ngâm mềm cắt ngang hoặc cắt dọc bằng lưỡi dao cạo hoặcdụng cụ cắt vi phẫu cầm tay, chọn các lát cắt mỏng. 2. Ngâm nước Javen hay dung dịch cloramin để tẩy các chất có chứa trong các tế bào,thời gian ngâm tùy loại nguyên liệu, có thể rút ngắn thời gian bằng cách đun nóng. 3. Rửa nước: nếu vi phẫu có nhiều tinh bột cần tẩy thì sau khi rửa ngâm hoặc đun trongcloral hydrat rồi rửa nước lần nữa. 4. Rửa bằng acid acetic.

223

5. Rửa bằng nước. 6. Nhuộm vi phẫu bằng lục iod, lục metyl hoặc xanh metylen thời gian nhuộm tùy vàoquá trình bắt màu của đối tượng (thường khoảng 10 giây đến 1 phút). 7. Rửa cồn, nếu dùng xanh metylen thì chỉ cần rửa bằng nước. 8. Nhuộm đỏ son phèn, thời gian nhuộm tùy đối tượng (có thể từ khoảng 1 phút đến 1giờ). 9. Rửa nước. 10. Ðặt vi phẫu vào một giọt glycerin trên phiến kính, đậy lá kính, soi trên kính hiển vi. Tiêu bản cố định: Tiêu bản sau khi nhuộm xong đã rửa bằng nước (9) tiến hành tiếp tụcnhư sau: 10. Loại nước lần lượt bằng cồn 300, 500, 700, 950 và cồn tuyệt đối. 11. Lắc vi phẫu ba lần trong xylen. 12. Ðặt vi phẫu vào một giọt bôm canada trên phiến kính, đậy lá kính, để ở chỗ thoáng 2-3 tuần.

Phần lớn ảnh vi phẫu trong tài liệu được chụp từ các tiêu bản cố định theo quytrình này. Vẽ sơ đồ tổng quát vi phẫu Dược liệuChụp ảnh vi phẫu dược liệu2. Phân tích vi hoá dược liệu

Từ "phân tích vi hoá" dùng trong tài liệu này để chỉ phương pháp phân tích dựavào các phản ứng hoá học, quá trình vật lý quan sát kết quả dưới kính hiển vi. Phân tích vihoá bổ sung thêm tư liệu để định tính dược liệu, cho phép phát hiện các chất trực tiếptrong mô và tế bào, cho khả năng xác định vị trí hoạt chất trong các mô của dược liệu.

Các lát cắt để tiến hành phản ứng vi hoá không được mỏng quá, phải có một vàilớp tế bào chưa bị phá hủy khi cắt, có chứa các chất nghiên cứu. Có thể tiến hành phảnứng vi hoá trên lát cắt tươi, khô hay lát cắt từ các dược liệu đã được ổn định bằng cácphương pháp đặc biệt.

Phản ứng vi hoá cho phép phát hiện các chất với số lượng nhỏ vì vậy phải đặc biệtchú ý đến sự lẫn tạp có thể xảy ra trong quá trình tiến hành. Khi tiến hành phân tích vi hoácần tuân thủ các nguyên tắc sau:

- Phương pháp chỉ có ý nghĩa trong trường hợp phản ứng tiến hành là đặc trưng. - Trong tất cả các trường hợp cần tiến hành song song với các mẫu đối chứng. Kết

quả có độ tin cậy cao khi tiến hành bằng những phương pháp có bản chất khác nhau thuđược kết luận như nhau.

- Cần tiến hành các phản ứng vi hoá với tác phong cẩn thận, tỉ mỉ, chính xác.Ngoài ra cần chú ý tới các yếu tố có thể ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Ví dụ: Nhiềuthuốc thử không bền phải bảo quản ở những điều kiện đặc biệt hoặc dùng thuốc thử mớipha. Một số phản ứng vi hoá yêu cầu tiến hành và quan sát kết quả rất nhanh khi các chấtnghiên cứu chưa bị phân tán hay các mô chưa bị phá hủy bởi tác dụng của thuốc thử.

224

- Nhiều dược liệu khi đưa vào sử dụng được chế biến bằng các phương pháp khácnhau: ngâm nước, đun, tẩm cồn, giấm v. v... khi phân tích vi hoá dược liệu cần chú ý tớisự ảnh hưởng của các quá trình này. 2.1. Các phản ứng lên thành tế bào 2.1.1. Các phản ứng lên thành tế bào cellulose (không hoá gỗ)

Cellulose là chất chủ yếu của thành tế bào thực vật, phần non của cây thành tế bàocấu tạo chỉ từ cellulose tinh khiết. Khi các tế bào già hơn thành tế bào thấm các chất hữucơ, các chất khoáng khác nhau. Cellulose gần như nguyên chất chỉ có ở các sợi bông, sợilanh và một vài loại sợi khác. Cellulose là một polisaccarit (C6H10O5) n phân tử lớn, khônghoà tan trong acid yếu và các dung môi khác, thành tế bào cellulose trong suốt, có tínhkhúc xạ kép, chỉ số khúc xạ n=1,52.

- Phản ứng với Kẽm clorua - Iốt Phản ứng tiến hành trên phiến kính. Ðặt lát cắt vào một giọt nước cho giãn thẳng

ra, thấm nước bằng giấy thấm, nhỏ một giọt thuốc thử lên lát cắt, đậy lá kính, quan sátdưới kính hiển vi. Thành tế bào cấu tạo từ cellulose tinh khiết (nguyên chất) sẽ có màuxanh tím hoặc màu hoa cà (thành đã hoá gỗ hay hoá suberin thì có màu vàng nâu).

- Phản ứng hoà tan trong thuốc thử Sveize Ðặt lát cắt vào một giọt thuốc thử trên phiến kính, đậy lá kính và quan sát dưới

kính hiển vi. Ban đầu thấy rõ các chi tiết cấu trúc thành tế bào, sau đó chúng trươngphồng và hoà tan dần dần, thành tế bào hoá gỗ, cutin không hoà tan trong thuốc thử này. 2.1.2. Các phản ứng lên thành tế bào hoá gỗ

- Phản ứng với floroglucin và acid hydrocloric Ðặt lát cắt lên phiến kính trong dung dịch floroglucin 1% trong cồn. Hút thuốc thử

bằng giấy lọc, nhỏ lên lát cắt một giọt acid hydrocloric đặc qua 1-2 phút thêm một giọtglycerin, đậy lá kính và quan sát ở kính hiển vi với độ phóng đại nhỏ, thành tế bào hoá gỗcó màu tím đỏ tươi, độ đậm của màu xác định mức độ hoá gỗ.

- Phản ứng với Pemanganat Kali Bỏ các lát cắt vào dung dịch KMnO4 1% trên mặt kính đồng hồ, sau 5 phút rửa

bằng nước và đặt vào acid hydrocloric 10% trong 2 phút, rửa sạch và chuyển lên phiếnkính trong một giọt dung dịch NH4OH đậy lá kính và quan sát, thành tế bào hoá gỗnhuộm màu đỏ. Phản ứng với floroglucin và với pemanganat Kali dùng để phát hiện các thành phần khácnhau cuả lignin (gỗ) (lignin F và lignin M) vì vậy kết quả thu được khi tiến hành hai phảnứng này có khi không trùng khớp. Thành tế bào hoá gỗ dễ nhuộm màu bằng các thuốc nhuộm, thường sử dụng safranin haykết hợp nó với các thuốc nhuộm khác nhuộm thành tế bào cellulose.

- Phản ứng với safranin Các lát cắt cho vào lọ đậy kín có chứa safranin 1% trong cồn 500, ngâm trong 30

phút, rửa bằng cồn 500 sau đó rửa bằng cồn acid hoá (100 ml cồn thêm 2 giọt HCl đậm

225

đặc) để rửa màu ra khỏi các yếu tố không hoá gỗ (5-10 giây) chuyển lên phiến kính, soitrong một giọt glycerin, thành tế bào hoá gỗ nhuộm thành màu đỏ.

- Phản ứng với safranin và xanh anilin Ngâm các lát cắt trong dung dịch safranin 1% trong cồn 500 trong 24 giờ, rửa bằng

cồn 500 và chuyển vào dung dịch xanh anilin 1% trong cồn 2-3 phút, rửa bằng cồn 500 lạichuyển vào cồn acid hoá vài giây, rửa bằng cồn có vết soda, sau đó lại rửa bằng cồn tinhkhiết và đặt vào một giọt glycerin, đậy lá kính, quan sát trên kính hiển vi: thành tế bàohoá gỗ bắt màu đỏ, thành tế bào cellulose bắt màu xanh.

- Phản ứng với anilin sulfat Ðặt lát cắt vào một giọt thuốc thử trên phiến kính, đậy lá kính, quan sát trên kính

hiển vi, thành tế bào hoá gỗ chuyển thành màu vàng. - Phản ứng với paranitroanilin Ðặt lát cắt vào một giọt dung dịch paranitroanilin 1% thành tế bào hoá gỗ nhanh

chóng nhuộm thành màu vàng cam, chuyển lát cắt vào một giọt glycerin và quan sát dướikính hiển vi. 2.1.3. Phản ứng lên thành tế bào hoá bần, cutin

Thành tế bào hoá bần (suberin) và cutin không cho phản ứng đặc trưng củacellulose. Bần và cutin trong thành phần của thành tế bào có thể thấy được khi nhuộmbằng các thuốc nhuộm đặc hiệu hoặc bằng các thuốc nhuộm dùng để nhuộm chất béo.

- Phản ứng của KOH lên bần Ðặt lát cắt trong KOH đậm đặc, thành tế bào hoá bần nhuộm thành màu vàng, khi

hơ nóng màu đậm lên phản ứng tiến hành trên phiến kính, nếu đun đến sôi các lát cắttrong KOH từ thành tế bào xuất hiện các giọt màu vàng. Trong trường hợp thành tế bàođồng thời hoá gỗ và hoá bần cần phải xử lý trước lát cắt bằng nước javen sau đó rửa bằngdung dịch HCl 1% để loại lignin ra khỏi thành tế bào và tiến hành phản ứng lên bần. Phảnứng này cũng xảy ra với cutin nhưng chậm hơn. Có thể phân biệt thành tế bào hoá gỗ vàhoá bần như sau: Xử lý các lát cắt trong vòng 2-3 giờ bằng nước javen sau đó cho lát cắtvào thuốc thử kẽm clorua - iốt (2.1.1.1.) tiến hành trên phiến kính, quan sát dưới kính hiểnvi sẽ thấy thành tế bào hoá gỗ nhuộm thành màu hoa cà, bần thành màu vàng.

- Phản ứng của H2SO4 lên cutin Ðặt lát cắt vào một giọt H2SO4 đậm đặc trên phiến kính, đậy lá kính và quan sát

dưới kính hiển vi, cutin và các lớp cutin ở lát cắt nhuộm thành màu vàng thẫm hoặc nâu. - Nhuộm màu bần, cutin bằng thuốc nhuộm màu chất béo Lát cắt đặt vào một giọt thuốc thử Sudan III đun nóng nhẹ để rút ngắn quá trình

nhuộm màu, thấm thuốc nhuộm bằng giấy lọc, cho lát cắt vào một giọt glycerin, đậy lákính, quan sát trên kính hiển vi: thành tế bào hoá bần và cutin nhuộm thành màu đỏ cam.

Có thể tiến hành phản ứng tương tự với dung dịch đỏ Sarlac 0,1-0,2% trong cồn700. quá trình nhuộm màu 20-30 phút nếu không hơ nóng hoặc nhanh hơn nếu hơ nóngnhẹ.

226

2.2. Các phản ứng lên cacbohydrat. 2.2.1. Phản ứng xác định đường với phenyl hydrazin

Thường tiến hành làm hai tiêu bản: trên phiến kính đặt các lát cắt vào thuốc thử,đậy lá kính, tiêu bản thứ nhất để ở nhiệt độ phòng, tiêu bản thứ hai hơ nóng trên nồi cáchthủy trong vòng nửa giờ, sau đó làm lạnh, trong thời gian đun trên cách thủy khi có đườngcác lát cắt và chất lỏng nhuộm thành màu vàng và khi làm lạnh tiêu bản quan sát thấyxuất hiện tinh thể hình kim vàng của ozazon tập hợp lại thành bó, hình sao v.v... Tiêu bảnđể lạnh không đun tạo thành tinh thể ozazon chậm (trong vòng vài giờ, thậm chí vài ngày)và phần lớn tạo thành tinh thể dạng cầu. Phản ứng với phenylhydrazin có ưu điểm chophép xác định vị trí của đường vì các tinh thể tạo thành chỉ trong các tế bào chứa đường,hơn nữa phản ứng cho phép phân biệt các dạng đường có trong cây vì khi phản ứng ở điềukiện thường và đun cách thủy 10 phút chỉ tạo thành tinh thể ozazon với các đường đơn.Nếu trong tế bào có đường đôi (saccaroze) thì tinh thể ozazon chỉ được tạo thành khi đunnóng lâu (khoảng 1-2 giờ) đường đôi bị thủy phân tạo thành đường đơn và tạo thànhozazon với phenyl hydrazin. 2.2.2. Xác định tinh bột

Tinh bột quan sát rất rõ trong nước và glycerin, do có tính khúc xạ kép hạt tinh bộtkhi quan sát dưới kíng hiển vi phân cực có hiện tượng chữ thập đen, nơi giao nhau củachữ thập là trung tâm phân lớp (rốn) của hạt. Phản ứng với iốt là phản ứng màu duy nhấtcủa tinh bột. Tùy điều kiện cụ thể mà người ta sử dụng các dung dịch chứa iốt khác nhau.Ví dụ: Mayer, Lugol, Iốt/ Cloralhydrat, Iốt/ acid lactic. Ðể phát hiện tinh bột khi nó cólượng rất nhỏ, ví dụ : trong lục lạp, hạt phấn, túi phôi dùng dung dịch Iốt đậm đặc hơn(khoảng 2g/100 ml). Dung dịch Iốt/ Cloralhydrat nhuộm tinh bột đồng thời với làm sángtiêu bản, tiện lợi để phát hiện tinh bột trong lục lạp của lá, có thể quan sát trực tiếp màkhông cần làm các lát cắt. Phản ứng được thấy rõ hơn nếu lá, lát cắt được xử lý trướcbằng cồn để chiết chất diệp lục. Iốt/acid lactic được dùng chủ yếu khi xác định tinh bộtcủa các dược liệu dưới dạng bột, thuốc thử vừa có tính chất làm sáng, vừa nhuộm tinh bột.Một số chất có trong tế bào thực vật (tanin) làm chậm phản ứng iốt với tinh bột. Phản ứngiốt với tinh bột là phản ứng thuận nghịch, tinh bột nhuộm màu bởi iốt bị mất màu tươngđối nhanh nhất là khi đun nóng. Hầu hết tinh bột bị nhuộm bởi iốt thành màu xanh, songcó một số cây có chứa tinh bột nhuộm với iốt thành màu đỏ hoặc đỏ tím gọi là "tinh bộtđỏ" mặc dù về mặt bản chất còn nhiều ý kiến chưa thống nhất song nó có ý nghĩa quantrọng trong kiểm nghiệm dược liệu. 2.2.3. Phản ứng xác định Inulin

Inulin là hydratcacbon thuộc nhóm polisaccarit có tính chất gần giống tinh bộtsong hoà tan trong dịch tế bào. Inulin có trong rễ nhiều cây thuộc họ Cúc, họ Hoachuông... Khi cố định nguyên liệu trong cồn Inulin tạo thành các tinh thể hình dạng kíchthước khác nhau tùy thuộc độ cồn và điều kiện kết tinh, trong nước nóng các tinh thểinulin bị hoà tan. Xác định inulin trong dược liệu tiến hành như sau: Dược liệu tươi cắt

227

thành mẩu, ngâm trong cồn vài ngày, lấy ra, cắt lát, lên kính trong cồn hoặc glycerin,quan sát dưới kính hiển vi sẽ thấy các tinh thể inulin có hình dạng và kích thước khácnhau. Tinh thể inulin có tính khúc xạ kép, thấy rõ dưới kính hiển vi phân cực, nếu tinh thểinulin được tạo thành ở dạng cầu (kết tinh chậm) thì dưới kính hiển vi phân cực sẽ thấyhiện tượng chữ thập đen như hạt tinh bột. Khi thêm nước và đun nóng tinh thể inulin bịtan. Khi nghiền dược liệu khô thành bột có thể dễ dàng quan sát dưới kính hiển vi cáckhối inulin có hình dạng, kích thước khác nhau. 2.2.4. Phản ứng thử chất nhầy

- Phản ứng tủa trong cồn và nở trong nước của chất nhầy Lát cắt dược liệu tươi cho vào cồn, đậy lá kính, quan sát dưới kính hiển vi. Chất nhầy

thấy được trong các tế bào dưới dạng hạt khúc xạ ánh sáng mạnh. Nếu thêm nước vào mộtphía của lá kính và phía kia hút cồn bằng một mảnh giấy lọc có thể thấy chất nhầy dần dầntrương phồng trong nước. Thay nước bằng cồn quá trình xảy ra ngược lại.

- Phản ứng nhuộm kép Lát cắt đặt vào dung dịch FeCl3 khoảng 20 phút sau đó chuyển vào dung dịch xanh

metylen 2-3 phút, rửa bằng nước, lên kính bằng glycerin, soi dưới kính hiển vi, các tế bàocó chứa chất nhầy bị nhuộm thành màu vàng, sợi thành màu xanh da trời, mạch gỗ màuxanh lá cây.

- Xác định chất nhầy bằng mực tàu Cho bột dược liệu vào một giọt mực tàu trên phiến kính, dùng kim mũi mác dầm

cho bột thấm đều mực tàu, đậy lá kính, quan sát dưới kính hiển vi. Trên vi trường có màuxám tối (gần như đen) có những vết sáng của chất nhầy (vì chất nhầy không thấm mựctàu). 2.3. Phản ứng thử chất béo

Chất béo dễ bị nhuộm màu bởi các thuốc nhuộm khác nhau. Phương pháp nhuộmđơn giản nhất là dùng Sudan III. Ðặt lát cắt vào dung dịch nhuộm, đậy lá kính và hơ nóngnhẹ để làm nhanh quá trình nhuộm, đem quan sát dưới kính hiển vi. Nhuộm bằng SudanIII có thể tiến hành theo cách khác: Ngâm lát cắt vào dung dịch nhuộm một ngày đêm sauđó rửa bằng cồn 500, đặt lát cắt lên phiến kính trong glycerin và quan sát dưới kính hiểnvi. Sudan III nhuộm chất béo thành màu đỏ cam, các phản ứng nhuộm màu bằng cácthuốc nhuộm khác tiến hành tương tự song các phản ứng nhuộm màu chất béo không đặctrưng vì chúng nhuộm cả tinh dầu, nhựa, cutin, suberin. Nhuộm màu chất béo bằng thuốcnhuộm huỳnh quang là phương pháp có độ nhạy cao và cho khả năng xác đinh vị trí củachất béo trong mô, tế bào chính xác hơn là sử dụng Sudan III. Thuốc nhuộm huỳnh quangthích hợp nhất là 3,4-benzpyrene, focfin 3R và đỏ trung tính, các thuốc nhuộm này đượcchất béo hấp thu mạnh. Ðể thu được kết quả có độ tin cậy cao cần tiến hành phản ứng xàphòng hoá: lát cắt dược liệu được đặt vào dung dịch KOH 15% trong nước và đun nóngnhẹ sau một thời gian các tinh thể hình kim (muối của các acid béo) được tạo thành, đemquan sát trên kính hiển vi (phản ứng xà phòng hoá theo Rozentaler). Phản ứng có thể thực

228

hiện theo cách khác: trên phiến kính đặt một giọt dung dịch KOH 15% và một giọtNH4OH 20% đặt lát cắt vào hỗn hợp, đậy lá kính lên, mép lá kính viền bao quanh bằngparafin nóng chảy để chống khô, qua 1-2 ngày xung quanh dầu tạo thành các tinh thể(muối của các acid béo) quan sát ở kính hiển vi thường và kính hiển vi phân cực. 2.4. Phản ứng xác định tinh dầu

Tinh dầu là một hỗn hợp phức tạp của các chất. Trong cây chúng định vị ở các túicó dạng khác nhau hay trong các tế bào đặc biệt. Có thể nhận ra tinh dầu ở trong tiêu bảnkhông cần sử dụng thuốc nhuộm, chúng có dạng hạt, khúc xạ ánh sáng mạnh, khi quan sátgiọt tinh dầu có thể có màu vàng nhạt, vàng sẫm, xanh vàng hay nâu đỏ. Ðể nhuộm tinhdầu sử dụng thuốc nhuộm như là nhuộm chất béo, nhựa (Sudan III) để phân biệt tinh dầuvới chất béo, nhựa sử dụng dung dịch xanh metyl trong nước (0,1 g xanh metyl/ 500 mlnước) các mẫu cắt đặt vào thuốc thử sau vài phút rửa, đặt vào nước hoặc glycerin, đậy lákính, soi dưới kính hiển vi tinh dầu được nhuộm thành màu xanh. Dùng thuốc nhuộmxanh indophenol cũng cho kết quả tương tự. Có thể phân biệt tinh dầu với chất béo, nhựadựa trên tính chất bay hơi, hoà tan của chúng: các mẫu đem đun sôi trong nước tinh dầubay hơi, chất béo không bay hơi cho phản ứng với thuốc nhuộm. 2.5. Phản ứng xác định nhựa

Nhựa có chứa trong cây ở các túi đặc biệt, các ống nhựa, đôi khi kết hợp với tinhdầu. Ðể xác định nhựa thường sử dụng phản ứng nhuộm màu song các phản ứng nàykhông đặc trưng.

- Phản ứng với đồng acetat Cho các mẩu dược liệu vào đồng acetat bão hoà, sau vài ngày lấy ra, cắt lát, lên

kính trong một giọt glycerin và quan sát dưới kính hiển vi. Nhựa được nhuộm thành màulục ngọc bích.

Một số thuốc nhuộm khác như Sudan III, xanh metyl v.v... nhuộm màu nhựa songcũng nhuộm nhiều thành phần khác trong cây (chất béo, tinh dầu, cutin). 2.6. Phản ứng thử saponin

Phát hiện saponin bằng phương pháp vi hoá không hoàn toàn chắc chắn vì khôngcó phản ứng đặc trưng nào có thể tiến hành trên mô thực vật. Phản ứng tin cậy hơn cả làdựa vào tính chất phá huyết của saponin. 2.6.1. Xác định saponin theo tính chất phá huyết

Lát cắt dược liệu tươi đặt lên một mẩu gelatin huyết đậy lá kính và để 30-40 phút.Khi có saponin trong dược liệu xung quanh lát cắt tạo thành vùng đỏ, trong, gọi là "vùngtan huyết"

Ðiều chế gelatin huyết: cho 2-3 giọt huyền phù hồng cầu hay máu loại fibrin trongdung dịch NaCl đẳng trương vào 2-3 ml dung dịch gelatin 6-8% sau khi gelatin đông kếtdưới dạng lớp mỏng (dày 2-3 mm) cắt thành mẩu nhỏ, gelatin huyết sau khi điều chế phảidùng ngay. 2.6.2. Phản ứng với antimon clorua

229

Lát cắt dược liệu tươi xử lý 2-3 phút bằng hơi amoniac và cố định trong aceton,sau vài phút lấy ra, aceton bay hơi. Ðặt lên phiến kính, nhỏ vào lát cắt một giọt dung dịchantimon clorua bão hoà trong cloroform, hơ nóng nhẹ, cho một giọt dầu vaselin vào látcắt, đậy lá kính và quan sát dưới kính hiển vi. Saponin dưới tác dụng của antimon cloruacho màu đỏ điều đến đỏ tím và nhìn rõ dưới dạng hạt, cục vón trong lớp vách của chấtnguyên sinh. 2.7. Phản ứng thử alcaloid

Trong cây các alcaloid tồn tại dưới dạng hoà tan trong dịch tế bào. Trong cây khôchúng bị hấp thu, vón vào các thành phần cấu trúc khác của tế bào. Ðể nghiên cứualcaloid thường dùng dược liệu khô hoặc dược liệu tươi vừa thu hái. Tránh cho dược liệutươi vào nước vì trong điều kiên này alcaloid dễ bị phân hủy. Ðể giữ alcaloid có thể xử lýdược liệu tươi bằng cồn đun sôi để phá hủy men.

Có thể phát hiện alcaloid bằng thuốc thử tạo tủa hay tạo màu. Cần song song tiếnhành phản ứng thử với các tiêu bản đối chứng đã rửa alcaloid bằng cồn acid hoá. Thôngthường đặt các lát cắt vào lọ nút kín 5-7 ngày với dung dịch tartric 5% trong cồn, 2-3ngày thay dung môi mới một lần.

Phản ứng tủa alcaloid: khi tiến hành phản ứng tủa có thể sử dụng bất kỳ thuốc thửtạo tủa với alcaloid. Ví dụ: Dragendorff, Mayer, muối Reinecke v.v... Kết quả tốt nhấtthường thu được khi sử dụng dung dịch acid picric, acid này tạo tinh thể picrat với nhiềualcaloid.

Phản ứng tủa alcaloid tiến hành trên phiến kính: đặt lát cắt cây tươi vào một giọtthuốc thử, đậy lá kính, quan sát kết quả phản ứng dưới kính hiển vi, so sánh với kết quảđối chứng.

Có thể tiến hành phản ứng theo cách khác: Ngâm các mẩu dược liệu vào một trongcác thuốc thử trên 1-2 tuần sau đó cắt lát, lên kính trong một giọt glycerin, so sánh kết quảthu được với tiêu bản đối chứng.

Bằng phản ứng tạo tủa có thể xác định được vị trí của các alcaloid trong các môcủa cây.

Với dược liệu khô và bột dược liệu phát hiện alcaloid như sau: đặt bột dược liệunghiên cứu lên phiến kính, thêm 1-2 giọt acid acetic 5%, đậy lá kính, hơ nóng nhẹ. Sau 1-2 phút đặt một lá kính thứ hai bên cạnh để kéo chất lỏng sang, cất lá kính thứ nhất và lausạch bột, cho một giọt thuốc thử alcaloid (Dragendorff, Mayer, muối Reinecke) bên cạnhlá kính, thuốc thử thấm vào dưới lá kính, phản ứng với dịch chiết, quan sát kết quả phảnứng dưới kính hiển vi.

Một số alcaloid trong dược liệu có thể tiến hành xác định bằng các phản ứng màuđặc hiệu hoặc quá trình vi thăng hoa (2.8.2.). 2.8. Phản ứng thử anthranoid 2.8.1. Phản ứng với kiềm

230

Lát cắt dược liệu đặt lên một giọt NaOH 5% hay NH4OH trên phiến kính, thêmmột giọt glycerin, đậy lá kính và quan sát dưới kính hiển vi. Mô có chứa anthranoidnhuộm thành màu đỏ hay đỏ tím, màu đỏ dần dần phân tán trên toàn bộ lát cắt. Màu rựcrỡ chỉ tạo nên với dẫn chất của anthraquinon, dẫn chất của anthron và anthranon với kiềmnhuộm thành màu vàng. Trong trường hợp này màu có thể tăng lên bằng cách xử lý sơ bộlát cắt bằng H2O2. 2.8.2. Quá trình vi thăng hoa

Cho một lượng nhỏ bột dược liệu chứa anthranoid vào một nắp kim loại, đậy bằngmột phiến kính, phía trên để giấy lọc hoặc bông thấm nước làm lạnh, đun trên bếp điện(qua lưới amian) luôn thay bông, giấy lọc để quá trình làm lạnh tốt. Anthranoid thăng hoavà ngưng tụ ở bề mặt dưới của phiến kính. Thay phiến kính một số lần để lượnganthranoid thăng hoa ở mỗi phiến kính không nhiều quá. Dưới kính hiển vi quan sát thấycác tinh thể, với các dược liệu khác nhau thường cho các tinh thể có hình dạng và kíchthước khác nhau, trong một số trường hợp có thể dựa vào hình dáng, cách sắp xếp cáctinh thể để xác định dược liệu. Trong dung dịch KOH/ cồn các tinh thể anthranoid hoàtan, thường cho màu đỏ.

Quá trình vi thăng hoa có thể tiến hành để phát hiện acid benzoic, một số hoạt chấtthuộc nhóm coumarin, alcaloid, dẫn chất terpen và những chất có khả năng thăng hoakhác có mặt trong dược liệu. 2.9. Phản ứng thử coumarin

Trong cây coumarin có thể ở dạng tự do hoặc dạng kết hợp glycosid. Xác địnhcoumarin trong dược liệu thường dựa vào phản ứng mở vòng lacton, quá trình vi thănghoa. 2.9.1. Quan sát huỳnh quang khi mở vòng lacton

Khi mở vòng lacton của coumarin bằng kiềm thì coumarin tạo thành dẫn chấthydroxy cinamic ở dạng cis (acid cumarinic) chất này dưới tác dụng của tia tử ngoại (kínhhiển vi huỳnh quang) thì chuyển thành dạng trans (o. cumaric acid) có huỳnh quang sánghơn.

Cách tiến hành: đặt lát cắt dược liệu lên phiến kính, nhỏ lên một giọt NaOH 5%,sấy nhẹ. Quan sát dưới kính hiển vi với độ phóng đại nhỏ, che một nửa lát cắt bằng mảnhkim loại. Sử dụng phương pháp huỳnh quang phản xạ, quan sát lát cắt trong vài phút, cấtmảnh kim loại sẽ thấy phần bị che có huỳnh quang yếu hơn phần không bị che, khi tiếptục quan sát thêm một thời gian sẽ thấy huỳnh quang ở phần bị che dần dần sáng lên. 2.9.2. Quá trình vi thăng hoa (xem 2.8.2.)

Sau khi vi thăng hoa cho coumarin tác dụng với KI sẽ tạo thành các tinh thểIodocoumarin màu nâu sẫm hoặc tím. Quan sát các tinh thể Iodocoumarin này dưới kínhhiển vi huỳnh quang. 2.10. Phản ứng thử flavonoid

231

Số lượng flavonoid rất lớn, chúng có tính chất rất khác nhau, không có phản ứngchung để phát hiện chúng trong tế bào thực vật. Chỉ có thể tiến hành phân tích vi hoáflavonoid trong một số trường hợp cụ thể.

Xác định hesperidin: Hesperidin thuộc nhóm flavanon có ở nhiều loại cây, trong tếbào sống chất này tồn tại ở dạng hoà tan trong dịch tế bào, khi ngâm dược liệu chứa chấtnày vào cồn tuyệt đối hesperidin kết tinh trong tế bào dưới dạng hình kim hay khối hìnhcầu hầu như không hoà tan trong nước, khó tan trong nước nóng, điều này phân biệt cáctinh thể hesperidin với inulin. Tinh thể hesperidin không hoà tan trong benzen, cloroform,ete. Hesperidin có thể phát hiện bằng amoniac hoặc kiềm loãng. Trong các dung dịch nàychúng dễ tan và nhuộm dung dịch thành màu vàng. 2.11. Phản ứng thử tanin

Trong thực vật tanin tồn tại dưới dạng hoà tan trong dịch tế bào, một phần bị hấpthu bởi keo tế bào. Trong dược liệu khô tanin tạo thành các hạt vô định hình màu vàngnâu. 2.11.1. Phản ứng xác định tanin bằng muối sắt

Xác định tanin bằng FeCl3 hoặc phèn sắt amoni FeNH4(SO4)2 dưới dạng dung dịch1% trong nước. Mô có chứa tanin nhuộm thành màu xanh đen hay xanh lá cây đen vớimuối sắt. Sắc thái màu không ổn định vì trong tế bào có các acid hữu cơ có thể biến đổimàu xanh lam thành xanh lá. Phản ứng tiến hành trên phiến kính: cho lát cắt vào một giọtthuốc thử, đậy lá kính và quan sát màu tiêu bản dưới kính hiển vi, màu nhanh chóng lan ra(phân tán) toàn bộ lát cắt. 2.11.2. Xác định tanin bằng dung dịch Kalibicromat

Ðây là phản ứng thường dùng để định vị tanin trong mô cây. Dùng dung dịch Kalibicromat trong nước 5-10%. Ngâm dược liệu vào thuốc thử vài ngày sau đó cắt lát. Trongtế bào có chứa tanin tạo thành tủa mịn màu xám và đỏ nâu, màu đỏ nâu được tạo thànhkhi để lát cắt một thời gian. Sự tạo thành tủa bị ngăn cản bởi các acid hữu cơ có trong cây(acid oxalic, acid citric, acid malic, acid tartric) khi có các acid này chỉ thu được màuvàng nâu đồng nhất. 2.11.3. Xác định tanin bằng dung dịch Amonimolipdat <(NH4)2MoO4> (Phản ứngGardiner hay Viceling)

Ðặt lát cắt vào một giọt dung dịch thuốc thử, đậy lá kính, quan sát dưới kính hiểnvi. Dưới tác dụng của thuốc thử trong tế bào có chứa tanin xuất hiện tủa vàng hoặc đỏ.Khi kiềm hoá (thêm NH4OH) thuốc thử thâm nhập vào tế bào nhanh hơn. Phản ứng tươngđối nhạy. Nhược điểm của phản ứng là tủa dễ tan trong acid loãng và trong nước, thuốcthử không bền vững khi bảo quản.

3. Phân tích huỳnh quang

232

3.1. Dụng cụ để nghiên cứu huỳnh quang Ðể tạo ra nguồn sáng kích ứng người ta thường sử dụng đèn thủy ngân cao áp kết

hợp với bộ lọc hoặc các đèn có bức xạ với bước sóng xác định. Các đèn này được bố trítrong các hệ thống có cấu tạo phù hợp với mục đích sử dụng. Khi nghiên cứu huỳnhquang sơ bộ nguồn sáng thường đặt trong một buồng, buồng này có thể đưa vào các bảnsắc kí, dược liệu bẻ gẫy để quan sát sự phát huỳnh quang của chúng.

Phân tích huỳnh quang trong một số trường hợp có thể sơ bộ đánh giá chất lượngnguyên liệu khi chất có hoạt tính sinh học trong chúng có tính chất phát huỳnh quang(alcaloid, flavonoid, coumarin...). Khi đó sự biến đổi tính chất huỳnh quang của nguyênliệu phản ánh sự biến đổi hàm lượng hay cấu trúc của các hoạt chất trong chúng.

Bên cạnh quan sát huỳnh quang của bản thân nguyên liệu (huỳnh quang sơ cấp) cóthể quan sát huỳnh quang được tạo thành khi phản ứng của hoạt chất nguyên liệu vớithuốc thử. Ví dụ: Khi quan sát flavonoid thường xử lý bằng hơi amoniac, dung dịch kiềmđể tăng huỳnh quang của chúng, trong trường hợp này các thuốc thử không chỉ làm thayđổi cường độ mà cả phổ của huỳnh quang. Khi phân tích huỳnh quang sơ bộ có thể dùngcác nguồn sáng kích ứng có bước sóng gần vùng cực tím sẽ thu được huỳnh quang cónhiều màu sắc. Nguồn sáng kích ứng có bước sóng trong vùng xanh tím cho huỳnh quangcó cường độ lớn song dải phổ hẹp.

Ðể nghiên cứu sự phát huỳnh quang của các chất ở các mô, tế bào thực vật sử dụngkính hiển vi huỳnh quang. 3.2. Chuẩn bị tiêu bản để nghiên cứu huỳnh quang

Tiêu bản để quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang có thể làm từ nguyên liệu tươihoặc khô. Nguyên liệu đã cố định trong hỗn hợp cồn - glycerin hay các chất cố định kháckhông dùng để làm tiêu bản quan sát huỳnh quang vì các chất huỳnh quang bị rửa trôi.Trường hợp các chất huỳnh quang hoà tan không đáng kể trong chất cố định nhưng chúngbị phân tán làm thay đổi vị trí ở trong mô, dễ dẫn tới các kết luận sai.

Ðể nghiên cứu dưới kính hiển vi huỳnh quang từ dược liệu người ta làm các lát cắt,một số trường hợp sử dụng bột dược liệu khô vì trong bột luôn gặp các mẩu mô theo tiếtdiện ngang hoặc dọc.

Khi làm tiêu bản để nghiên cứu dưới kính hiển vi huỳnh quang cần chú ý rằngphương pháp này có độ nhạy rất cao, nguyên liệu cũng như phiến kính, lá kính cần phảisạch, thuốc thử không bị lẫn tạp, các lát cắt cần phải làm hết sức cẩn thận.

Làm tiêu bản từ cây tươi, cắt tay bằng lưỡi dao cạo, không cần thiết phải mỏng.dùng giấy lọc thấm dịch tế bào từ các lát cắt, mỗi lần trước khi cắt lát mới cần làm sạchdao để các chất trong dịch tế bào hay trong các túi chứa không dính vào dao giây ra cácmô và tế bào khác.

Lựa chọn chất lỏng để soi phụ thuộc vào thành phần hoá học của đối tượng. Chấtlỏng phải không được hoà tan các chất huỳnh quang. Nếu chất lỏng soi hoà tan chấthuỳnh quang thì chất lỏng sẽ phát huỳnh quang ảnh hưởng tới việc quan sát huỳnh quang

233

ở tiêu bản. Sau một thời gian vi phẫu ngâm trong chất lỏng quan sát, một số chất pháthuỳnh quang bị phân tán, để khắc phục người ta bỏ lá kính ra, lấy vi phẫu rửa qua nướchoặc nước-glycerin sau đó lại lên kính trong một giọt chất lỏng mới để quan sát. Dungdịch cloralhydrat sử dụng rộng rãi làm dung dịch soi trong kỹ thuật hiển vi không dùngtrong các trường hợp này vì nó có tính chất làm tắt huỳnh quang. Ðể làm dung dịch soithường sử dụng nước cất, glycerin, dầu vaselin, để làm tiêu bản cố định dùng xiro đường,dung dịch 5% polivinylancol. Cần phải kiểm tra trước để đảm bảo trong dịch soi không cómặt các chất phát huỳnh quang. Các đối tượng phát huỳnh quang sáng rõ nhất trongkhông khí vì vậy có thể nghiên cứu chúng không dùng dịch soi, để hạn chế quá trình khôcủa lát cắt dùng parafin lỏng để bọc quanh mép lá kính. Các lát cắt dược liệu khô cho kếtquả tốt khi nghiên cứu dưới kính hiển vi huỳnh quang. Dược liệu khô bảo quản tương đốitốt cấu trúc, chỉ có các mô được tạo thành từ các tế bào có thành cellulose rất mỏng là dễbị biến dạng khi khô vì mất nước. Khi sấy thường không xảy ra sự thay đổi vị trí các chấtcó hoạt tính sinh học. Trở ngại lớn nhất khi làm lát cắt từ dược liệu khô là độ bền cơ họccủa chúng, để nghiên cứu dưới kính hiển vi huỳnh quang phải làm các lát cắt dày của vỏ,rễ, rễ củ, thân (dày 2-4 mm) những lát cắt mỏng hơn thường dễ bị vụn và gẫy. Các lát cắtkhô tốt nhất làm bằng cách cưa, khi cưa bụi sẽ bám chặt vào bề mặt, bịt các tế bào và cáckhoang. Cần phải làm sạch bụi bằng dao cạo sao cho mô và tế bào vẫn giữ được hìnhdạng của chúng. Gắn lát cắt vào phiến kính bằng parafin nung chảy. Quan sát không cầnchất lỏng thuận lợi khi sử dụng kính hiển vi huỳnh quang phản xạ. Các lát cắt dày thuậntiện để tiến hành các phản ứng hoá học.

Các lát cắt mỏng hơn từ dược liệu khô có thể thu được sau khi làm mềm nó trongbuồng ẩm, song các lát cắt mỏng thường dễ vỡ vì vậy nên quan sát dưới kính hiển vi trongnước, glycerin hay các dung môi thích hợp khác.

Kỹ thuật nghiên cứu các tiêu bản dưới kính hiển vi huỳnh quang về cơ bản khôngkhác với phương pháp nghiên cứu sử dụng kính hiển vi thường. Khi nghiên cứu các chấthuỳnh quang tự nhiên cần sử dụng các chất chuẩn, các tiêu bản đối chứng đã được loạirửa chất huỳnh quang bằng các dung môi khác nhau.

234

BÀI 3

KIỂM NGHIỆM ÍCH MẪU BẰNG PHƯƠNG PHÁP VI HỌC

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để kiểm nghiệm dược liệu ích mẫu bằng

phương pháp vi hoc.2. Rèn luyện được kỹ năng sử dụng kính hiển vi để soi và kiểm nghiệm bột ích

mẫu.

NỘI DUNG:

Vi phẫu Lá: Biểu bì trên và

dưới mang lông che chở vàlông tiết đa bào. Phía trênvà dưới của gân chính làmô dày. Bó libe - gỗ xếpthành hình vòng cung ởgiữa gân lá, thường có haibó phụ nằm ở trên. Nếu ởlá già có thể thấy vòng môcứng bao quanh libe. Phầnphiến lá gồm một hàng tếbào mô giậu, bên dưới làmô khuyết.

Thân: Thiết diệnvuông, có 4 góc lồi. Biểu bìmang lông che chở đa bào,tập trung nhiều ở 4 góc lồi,ngoài ra còn các lông tiếtrải rác khắp biểu bì. Cácđám mô dày góc sát dướibiểu bì. Mô mềm vỏ có 3 - 4hàng tế bào màng mỏng,xếp thành vòng. Vòng nội bì có một hàng tế Vi phẫu thân ích mẫu

235

bào hình chữ nhật xếp đều đặn hơn ở 4 góc. Trong cùng là mô mềm ruột, tế bào tròn to,màng mỏng.Soi bột

Lông che chở đa bào một dãy gồm 2 - 4 tế bào bề mặt lấm tấm. Mảnh biểu bì dướigồm những tế bào có vách ngoằn ngoèo mang lỗ khí kiểu trực bào, lông che chở và lôngtiết đa bào. Mảnh phiến lá có kèm gân lá. Mảnh mạch vạch, mạch xoắn. Ðám sợi có váchdày. Ðôi khi thấy cả hạt phấn hoa hình cầu, bề mặt lấm tấm, mang lỗ nảy mầm

Một số đặc điểm bột Ích mẫu

236

BÀI 4

KIỂM NGHIỆM CAM THẢO BẮC BẰNG PHƯƠNG PHÁP VI HỌC

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để kiểm nghiệm dược liệu cam thảo bắc

bằng phương pháp vi hoc.2. Rèn luyện được kỹ năng sử dụng kính hiển vi để soi và kiểm nghiệm bột cam

thảo bắc.

NỘI DUNG:Đặc điểm bột dược liệu

Bột cam thảo : bột màu vàng chanh, mùi thơm, vị ngọt.

1,: Mô mềm mang tinh bột 2 : Mảnh bần cấu tạo từ những tế bào hình đa giác 3 : Mảnh mạch vạch, điểm 4,5 : Bó sợi mang tinh thể calci oxalat hình khối kích thước khoảng 0,02-0,035 mm 6 : Tinh bột hình tròn hoặc hình trứng kích thước khoảng 0,005-0,015 mm

Ðặc điểm vi phẫu Mặt cắt dược liệu tròn, từ ngoài vào trong có: Lớp bần tương đối dày gồm những

tế bào hình chữ nhật xếp thành vòng đồng tâm và dãy xuyên tâm, có nhiều chỗ bị nứt,rách, thường cuộn xoắn ra phía ngoài. Mô mềm vỏ cấu tạo từ những tế bào thành mỏng,phần ngoài thường bị ép bẹt. Libe gồm những tế bào nhỏ, xếp thành từng đám hình nóncùng với các bó gỗ tạo thành từng chồng riêng biệt, trong libe có nhiều bó sợi. Tầng phát

237

sinh libe-gỗ ở giữa phần libe và gỗ của mỗi bó. Gỗ có nhiều mạch gỗ to, nhỏ khác nhau,vi phẫu rễ các bó gỗ xuất phát từ tâm, vi phẫu thân rễ ở giữa có mô mềm ruột cấu tạo bởinhững tế bào kích thước lớn, thành mỏng, trong mô gỗ có các bó sợi gỗ. Tia ruột cấu tạotừ 3-7 hàng tế bào. Trong các mô đặc biệt ở sát sợi có các tinh thể calci oxalat hình khối(Vi phẫu rễ Cam thảo). Quan sát vi phẫu dưới kính hiển vi huỳnh quang thấy mô gỗ vàsợi có huỳnh quang vàng sáng (Vi phẫu thân rễ Cam thảo dưới kính hiển vi huỳnh

quang).

(Vi phẫu rễ Cam thảo). (Vi phẫu thân rễ Cam thảo dướikính hiển vi huỳnh quang).

238

BÀI 5

KIỂM NGHIỆM CHẤT BEO TRONG DƯỢC LIỆU

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để định lượng dầu mỡ trong dược liệu..2. Xác định được các chỉ số iod, acid, xà phòng, ester của dầu mỡ.

NỘI DUNG:1. Định lượng dầu mỡ trong dược liệu1.1. Nguyên tắc:

Chiết dầu mỡ trong dược liệu bằng dung môi hữu cơ. Cất thu hồi dung môi hữu cơ và sấy cặn đến trọng lượng không đổi. Cân cặn còn lại. Dụng cụ chiết có thể là Soxhlet, Zaitchenko hoặc Kumagawa. Hàm lượng dầu mỡ trong dược liệu được tính theo công thức:

a: Lượng cặn còn lại cân được (g)w: Lượng dược liệu đem định lượng, đã trừ độ ẩm (g)

1.2. Giới thiệu dụng cụ:Bình Zaichen

Soxhlet

239

Bình Kumagawa

1.3. Phương pháp tiến hànhLàm túi giấy lọc đựng dược liệu (áp dụng cho Soxhlet và Kumagawa): Túi hình

trụ, đường kính nhỏ hơn đường kính trong của thân Soxhlet hay của bộ phận đựng túidược liệu của Kumagawa. Chiều cao của túi phải đảm bảo sao cho khi cho túi vào dụngcụ thì mặt trên túi phải thấp hơn đỉnh của ống dẫn dung môi.

Nếu dụng cụ định lượng là Zaichenko cắt một khoanh giấy lọc hình tròn có đườngkính bằng đường kính của ống định lượng, lót một lớp bông mỏng ở đáy để cố định miếnggiấy. Cân chính xác 5g (Soxhlet, Kumagawa) hoặc 1g (Zaichenko) dược liệu (có thể dùngvừng, lạc hay đậu nành). Nghiền dược liệu trong cối sứ với 2g (Soxhlet, Kumagawa) hoặc0,5g (Zaichenko) Natri sulfat khan.

Cho dược liệu vào túi đã chuẩn bị sẵn hoặc trực tiếp cho vào ống chiết(Zaichenko). Lau sạch cối bằng một miếng bông nhỏ rồi cho miếng bông vào túi (Soxhlet,Kumagawa) hoặc miệng ống chiết (Zaichenko). Phủ lên trên mặt dược liệu một miếnggiấy lọc để ngăn cho dược liệu không nổi lên trên và rơi xuống bình chiết. Gập miệng túirồi đặt vào dụng cụ chiết (Soxhlet, Kumagawa).

Lắp dụng cụ, đặt lên nồi cách thủy. Đặt phễu lên miệng ống sinh hàn. Rót dungmôi qua phễu theo hướng dẫn (với Soxhlet, Kumagawa), 25 - 30ml (Zaichenko). Dungmôi thường dùng là ether ethylic hoặc ether dầu hỏa.

240

Chiết hồi lưu nhiều lần đến khi dầu mỡ được chiết kiệt. Cách thử: nhỏ một giọtdịch chiết được rút ra từ bình chiết lên giấy lọc. Hơ nóng, nếu trên giấy lọc không để lạivết là đạt yêu cầu.

Tập trung dịch chiết, cất thu hồi dung môi. Chuyển phần dịch chiết ra một cốcsạch, khô đã được cân bì. Tráng bình đựng dịch chiết bằng một ít dung môi và dồn vàocốc. Bốc hơi cách thủy đến khô. Sấy cắn thu được ở 1000C đến khối lượng không đổi.Cân khối lượng cắn và tính hàm lượng dầu mỡ trong dược liệu theo công thức trên.2. Xác định các chỉ số hóa học của chất béo

Chất lượng của chất béo được thể hiện ở một số chỉ số hóa học. Để đánh giá chất lượng của một loại chất béo, người ta thường xác định các chỉ số hóa học của mẫu chất béo đó. Các chỉ số hóa học thường dùng để đánh giá chất lượng của chất béo là: chỉ số iod, chỉ số acid, chỉ số xà phòng và chỉ số este. Các chỉ số này của mỗi loại dầu mỡ được quy định nằm trong một giới hạn nhất định.2.1. Xác định chỉ số iod của dầu mỡ

Định nghĩa: Chỉ số iod của một chế phẩm là số gam iod bị hấp phụ bởi 100g chếphẩm được xác định trong những điều kiện nhất định.Chỉ số iod của dầu mỡ là số gam iod có thể kết hợp với các acid béo không no có trong 100g dầu mỡ trong những điều kiện nhất định.Nguyên tắc: Những acid béo không no trong dầu mỡ có thể kết hợp với iod để bão hòadây nối đôi. Tác nhân kết hợp hay dùng là iod clorid hoặc iod bromid trong môi trườngacid. Thông thường người ta hay dùng iod clorid vì dung dịch dễ pha và ít độc hơn. Quátrình tiến hành được xảy ra qua các bước:

Gắn iod clorid vào các mạch nối đôi của acid béo không no (cho thừa lượng iodclorid).

Lượng iod clorid thừa sẽ kết hợp với kali iodid để giải phóng iod tự do.Định lượng iod giải phóng bằng dung dịch natri thiosulfat 0,1N, chỉ thị là hồ tinh

bột.Song song tiến hành với mẫu trắng.Chỉ số iod I được tính theo công thức:

a: số ml dung dịch natri thiosulfat 0,1N dùng cho mẫu trắngb: số ml dung dịch natri thiosulfat 0,1N dùng cho mẫu thử

w: lượng dầu mỡ dùng để xác định (g)Lượng dầu mỡ cần thiết để xác định chỉ số iod:Lượng dầu mỡ cần thiết để xác định chỉ số iod có thể tính bằng cách chia 20 cho

chỉ số iod dự đoán, hoặc áp dụng theo bảng sau đây:

241

Phương pháp tiến hànhCân chính xác 0,300g dầu (dầu thầu dầu, dầu lạc, dầu vừng, …) trong một cốc cân

nhỏ, đáy bằng. Thả nhẹ nhàng cốc chứa dầu vào trong một bình nón khô, có nút mài,dung tích 250ml. Thêm 3ml cloroform. Lắc đều để hòa tan dầu. Thêm 25,0ml iod clorid.Lắc mạnh trong 1 phút. Lần lượt thêm 10ml dung dịch kali iodid 10%, 50ml nước cất.Lắc đều. Chuẩn độ bằng dung dịch natri thiosulfat 0,1N. Khi định lượng gần kết thúcthêm 2 - 3ml cloroform và 2ml dung dịch hồ tinh bột.

Song song tiến hành với mẫu trắng.Tính kết quả theo công thức đã nêu ở trên.

2.2. Xác định chỉ số acid, chỉ số xà phòng và chỉ số ester của chất béoNguyên tắc

Chỉ số acid là số mg KOH cần thiết để trung hòa các acid tự do có trong 1g dầumỡ.

Chỉ số xà phòng là số mg KOH cần thiết để trung hòa các acid tự do và xà phònghóa este có trong 1g dầu mỡ.

Chỉ số este là số mg KOH cần thiết để xà phòng hóa este có trong 1g dầu mỡ.Việc xác định 3 chỉ số trên dựa theo tính chất các acid béo tự do trong chất béo có khả

năng phản ứng với kiềm để tạo thành muối kiềm của các acid béo (xà phòng).Tiến hànhXác định chỉ số acid của chất béo:

Cân chính xác khoảng 5g dầu thực vật, cho vào trong bình nón dung tích 250ml.Thêm 50ml hỗn hợp cồn tuyệt đối - ether ethylic (1 : 1) đã được trung hòa bằng KOH0,1N với chỉ thị phenolphtalein. Lắc đều. Nếu khó tan có thể lắp sinh hàn ngược đun cáchthủy đến khi tan hoàn toàn. Thêm 3 giọt phenolphtalein. Chuẩn độ bằng dung dịch KOH0,1N tới khi xuất hiện màu hồng. Các chất béo có chỉ số acid dưới 1 được định lượngbằng microburet.

Chỉ số acid được xác định theo công thức:

a: Số ml dung dịch KOH 0,1N đã dùngb: Lượng chất thử (g)

Xác định chỉ số este của chất béo:Chỉ số este của chất béo được xác định theo công thức:Chỉ số este = chỉ số xà phòng - chỉ số acid.

Chỉ số iod0 - 30 30 - 50

50 -100

100 -150

150 -200

Lượng chất thử(g)

1,0 0,6 0,3 0,2 0,1

242

Một số loại chất béo để xác định các chỉ số hóa học: dầu vừng, dầu lạc, dầu hướng dương, dầu đậu nành, dầu thầu dầu.

243

BÀI 6 NHẬN THỨC DƯỢC LIỆU CHỨA CARBONHYDRAT

MỤC TIÊU:1. Nhận thức được các dược liệu chứa carbonhydrat về nguồn gốc, bộ phận dùng,

thành phần hóa học, công dụng, cách dùng và liều lượng.2. Rèn luyện được kỹ năng hướng dẫn sử dụng an toàn hợp lý các dược liệu trên.

NỘI DUNG:

PHỤC LINH Nguồn gốc:

Quả thể nấm Poria cocos Wolf. , họ Nấm lỗ (Polyporaceae). Một số rừng thông ở vùng khí hậu mát nước ta cũng có loại nấm này nhưng chưa

được nuôi trồng và khai thác.Vị thuốc chủ yếu nhập từ Trung Quốc.

Bộ phận dùng: Dược liệu chia thành 4 thứ:Phục linh bì là vỏ ngoài.Xích phục linh là lớp thứ hai sau vỏ ngoài.Bạch phục linh là phần bên trong màu trắng, thường được sơ chế thành phiến hình

khối vuông dẹt.Phục thần là những quả thể có lõi gỗ (rễ thông) ở giữa.

Thành phần hoá học chính:Đường (trong đó có pachymose là đường đặc hiệu), chất khoáng, các hợp chất

triterpenoid.Công dụng:

Phục linh bì: Lợi tiểu, trị phù thũng.Xích phục linh: Chữa thấp nhiệt (chướng bụng, viêm bàng quang, tiểu vàng, đái

rắt).Bạch phục linh: Chữa ăn uống kém tiêu, đầy trướng, bí tiểu tiện, ho có đờm, ỉa

chảy.Phục thần: Trị yếu tim, hoảng sợ, hồi hộp, mất ngủ.

Cách dùng liều lượng:Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, hoàn tán. Phối hợp trong nhiều phương

thuốc khác nhau.

244

BÀI 7

NHẬN THỨC DƯỢC LIỆU CHỨA GLYCOSID TIM

MỤC TIÊU:1. Nhận thức được các dược liệu chứa glycosid tim về nguồn gốc, bộ phận dùng,

thành phần hóa học, công dụng, cách dùng và liều lượng.2. Rèn luyện được kỹ năng hướng dẫn sử dụng an toàn hợp lý các dược liệu trên.

NỘI DUNG:

ACTISOTên khoa học:Cynara scolymus L ., họ Cúc (Asteraceae).

Cây được trồng ở một số vùng núi nước ta (Đà lạt, Sapa).Bộ phận dùng:

Lá (Folium Cynarae scolymi)Hoa (Flos Cynarae scolymi)

Thành phần hoá học chính:Cynarin, flavonoid, chất nhầy, pectin... Công dụng:

Thông tiểu tiện, thông mật, dùng cho người yếu gan, thận, làm hạ cholesterol,phòng ngừa bệnh xơ vữa động mạch.Cách dùng, liều lượng:

Ngày 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay phối hợp với các vị thuốc khác. Trên thịtrường có chế phẩm cao actiso dưới dạng viên nang.

BA KÍCH

245

Tên khác:Ba kích thiên, Dây ruột gà.

Tên khoa học:Radix MorindaeNguồn gốc:

Rễ phơi hay sấy khô của cây Ba kích (Morinda officinalis How. ), họ Cà phê(Rubiaceae).

Cây mọc hoang và được trồng ở một số vùng đồi núi nước ta.Thành phần hoá học chính:

Anthranoid, đường, nhựa, acid hữu cơ, vitamin C.Công dụng:

Chữa liệt dương, di tinh, phụ nữ có thai, kinh nguyệt chậm, bế kinh, đau lưng mỏi gối... Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc hay rượu thuốc. Phối hợp trong các phươngthuốc bổ thận.

TRẮC BÁCH

Tên khoa học:

Biota orientalis Endl. = Thuja orientalis L. , họ Trắc bách (Cupressaceae).Bộ phận dùng:

Cành lá non (Cacumen Bietae - Trắc bách diệp), nhân hạt chín phơi khô (SemenBiotae - Bá tử nhân).Thành phần hoá học chính:

Cành lá: Tinh dầu, nhựa, vitamin C, glycosid tim.Nhân hạt: Dầu béo, saponin.

Công dụng:Cành lá: chữa chảy máu cam, lỵ ra máu, rong kinh, băng huyết.Nhân hạt: an thần, chữa mất ngủ, đại tiện bí, mồ hôi trộm.

Cách dùng, liều lượng:Trắc bách diệp: ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn tán. Khi dùng thường sao

cho cháy sém đen (gọi là Trắc bách diệp thán).Bá tử nhân: ngày dùng 4-10g, dạng thuốc sắc, cao

BẠCH CHỈ

Tên khoa học:Radix Angelicae

246

Nguồn gốc: Rễ phơi hay sấy khô của cây Hàng bạch chỉ (Angelica dahurica (Fisch.) Benth. et

Hook.) hoặc cây Xuyên bạch chỉ (Angelica anomala Ave-Lall.), họ Cần (Apiaceae).Cây Bạch chỉ có trồng ở nước ta. Dược liệu phải nhập một phần.

Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, coumarin, tinh bột.

Công dụng:Làm thuốc giảm đau, nhức đầu phía trán, chữa cảm, đau răng, ngạt mũi, viêm mũi

chảy nước hôi, khí hư, phong thấp, đau do viêm dây thần kinh. Cách dùng, liều lượng:

Ngày 4-12g dưới dạng thuốc sắc hay hoàn tán.Ghi chú:

Bạch chỉ nam là rễ củ của cây Bạch chỉ nam (Milletia pulchra Kurz. ), họ Đậu (Fabaceae). Cây mọc hoang tại các vùng núi nước ta, dùng để trị cam trẻ em (uống), chữa lở sơn, cầm máu, lên da non (dùng ngoài).

BẠCH ĐỒNG NỮ Tên khác:

Mò trắng, Bấn trắng.Tên khoa học:

Clerodendrum viscosum Vent.= Clerodendrum canescens Wall. , họ Cỏ roi ngựa(Verbenaceae).

Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng:

Thân, cành mang lá (Herba Clerodendri).Rễ (Radix Clerodendri).

Thành phần hoá học chính:Alcaloid, flavonoid, muối calci.

Công dụng:Chữa kinh nguyệt không đều, viêm loét tử cung, bệnh phụ nữ, mụn nhọt, viêm mật

vàng da, huyết áp cao. Cách dùng, liều lượng:

Dạng thuốc sắc uống riêng hay phối hợp với Ích mẫu, Hương phụ, Ngải cứu, mỗingày dùng 15-20g.Ghi chú:

Cao Hương ngải là cao lỏng chế từ lá Bạch đồng nữ, Ích mẫu, Hương phụ, Ngảicứu, chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng. Thuốc HA1 làm hạ huyết áp.

247

Loài Mò mâm xôi (Clerodendrum fragrans (Vent.) Willd. ), loài Xích đồng nam(Clerodendrum squanmatum Vahl. ) cũng được dùng với công dụng tương tự.

BẠCH GIỚI TỬ Tên khác:

Hạt cải trắng.Tên khoa học:Semen Sinapis albaeNguồn gốc:

Hạt phơi hay sấy khô của cây Cải bẹ trắng (Brassica alba Boiss.), họ Cải (Brassicaceae).

Cây được trồng ở nhiều địa phương nước ta lấy lá làm rau ăn, lấy hạt làm thuốc.Thành phần hoá học chính:

Alcaloid, thioglycosid, enzym, tinh dầu.Công dụng:

Chữa ho hen nhiều đờm, còn dùng chế bột mù tạc thay gia vị. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.Ghi chú:

Hắc giới tử là hạt của cây Brassica nigra Koch.; Giới tử là hạt của cây Cải (Brassica juncea L.) dùng chữa ho hen.

BẠCH THƯỢC Tên khác:

Thược dược.Tên khoa học:Radix Paeoniae lactifloraeNguồn gốc:

Vị thuốc là rễ đã cạo bỏ lớp bần và chế biến khô của cây Thược dược (Paeonialactiflora Pall.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae

Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Tinh bột, tanin, calci oxalat, tinh dầu, chất béo, chất nhầy, acid benzoic. Công dụng:

Trị đau ngực sườn, mồ hôi trộm, huyết hư, thai nhiệt, kinh nguyệt không đều. Cách dùng, liều lượng:

248

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.Ghi chú:

Xích thược (Radix Paeoniae rubra) là rễ cây mọc hoang của các loài Thược dược Paeonia lactiflora Pall., P. obovata Maxim, P. veitchii Lynch. Công dụng tương tự Bạch thược. Cần phân biệt với cây hoa Thược dược (Dahlia variabilis Desf.), họ Cúc (Asteraceae).

BINH LANG

Tên khoa học:Semen ArecaeNguồn gốc:

Vị thuốc là hạt già phơi hay sấy khô của cây Cau (Areca catechu L. ), họ Cau(Arecaceae).

Cây được trồng khắp các miền nước ta. Thành phần hoá học chính:

Tanin (50%), dầu béo (10%), alcaloid (3%).Công dụng:

Chữa sán, giúp tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ, ngực bụng chướng đau, thuỷ thũng, sốt rét, cước khí sưng đau. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 4-6g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán, để trị sán thường phối hợp vớihạt Bí ngô, để trị sốt rét phối hợp với Thường sơn.Ghi chú:

Vỏ quả Cau già là vị thuốc có tên Đại phúc bì là thuốc lợi tiểu, chữa phù thũng toàn thân, nhất là bụng.

CÚC HOATên khác:

Cúc hoa vàng, Kim cúc.Tên khoa học:Flos ChrysanthemiNguồn gốc:

Dược liệu là cụm hoa (quen gọi là hoa) đã chế biến và làm khô của cây Cúc hoa(Chrysanthemum indicum L. ), họ Cúc (Asteraceae).

Cây được trồng trong nước ta để làm thuốc.Thành phần hoá học chính:

249

Tinh bột, flavonoid, vitamin A, acid amin (cholin).Công dụng:

Thuốc chữa nhức đầu, chóng mặt, cao huyết áp, hoa mắt, đau mắt đỏ, mắt mờ, chảy nước mắt, đinh độc, mụn nhọt, sưng đau.

Dùng để ướp chè, nấu rượu.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 2-10g dưới dạng thuốc sắc.Ghi chú:

Trung Quốc có xuất sang nước ta vị Cúc hoa là cụm hoa lấy từ cây Chrysanthemum morifolium Ramat. thường có màu trắng hoặc vàng nhạt cụm hoa to hơn Cúc hoa vàng của ta.

DÂU TẰM Tên khác: Tang.Tên khoa học:

Morus alba L. , họ Dâu tằm (Moraceae).Cây được trồng khắp nơi trong nước ta lấy lá nuôi tằm, làm thuốc.

Bộ phận dùng: Vỏ rễ (Tang bạch bì - Cortex Mori)Lá (Tang diệp - Folium Mori)Cành (Tang chi - Ramulus Mori)Quả (Tang thầm - Fructus Mori)Tầm gửi trên cây Dâu (Tang ký sinh - Ramulus Loranthi)Tổ bọ ngựa trên cây Dâu (Tang phiêu tiêu - Ootheca Mantidis)

Thành phần hoá học chính:Tang bạch bì : acid hữu cơ, tanin, pectin, flavonoid.Tang diệp: chlorophyl, flavonoid, coumarin, acid amin, tanin.Tang chi: cellulose, tanin, flavonoid.Tang thầm: anthocyan (sắc tố màu đỏ của quả chín), đường (glucose, fructose),

vitamin B1, vitamin C, tanin, protid, và acid hữu cơ (malic, succinic).Công dụng, cách dùng, liều lượng:

Tang bạch bì: chữa ho, ho ra máu, phù thũng, đi tiểu ít. Ngày dùng 4-12g, dạng thuốc sắc.

Tang diệp: chữa cảm mạo, ho, họng đau, nhức đầu, mắt đỏ, chảy nước mắt, phát ban, huyết áp cao, mồ hôi trộm. Ngày dùng 4-12g, dạng thuốc sắc.

Tang chi: chữa tê thấp, chân tay co quắp. Ngày dùng 20-40g, dạng thuốc sắc.Tang thầm: chữa bệnh đái đường, lao hạch, mắt mờ, ù tai, thiếu máu. Nước quả

Dâu cô thành cao. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g. Liều dùng 12-20g.

250

Tang ký sinh: Trị các chứng phong thấp, tê bại, đau lưng, mỏi gối. Trị động thai, đau bụng. Ngày dùng 12-20g.

Tang phiêu tiêu: Chữa hư lao, đổ mồ hôi trộm, di tinh, bạch đới, đái đục, đi đái không nín được (tẩm rượu sao, uống ngày 8g với nước chín). Trẻ em nổi mụn có mủ (đốt tồn tính, tán bột, hoà với dầu để bôi).

SEN

Tên khoa học:Nelumbium speciosum Wild. = Nelumbo nucifera Gaertn. , họ Sen (Nelumbonaceae).

Cây được trồng ở các vùng ao hồ nước ta. Bộ phận dùng:

Lá sen (Liên diệp, hà diệp) - Folium Loti.Tâm sen (Liên tâm) - Embryo Nelumbinis.Hạt sen (Liên nhục, liên tử) - Semen Nelumbinis.Quả sen (Thạnh liên tử) - Fructus Nelumbinis.Ngó sen (Liên ngẫu) - Nodus Rhizomatis Loti.Gương sen già sau khi lấy quả (Liên phòng) - Receptaculum Nelumbinis.Tua nhị (Liên tu) - Stamen Nelumbinis.

Thành phần hoá học chính:Alcaloid, flavonoid, acid amin đều có trong các bộ phận : lá sen, tâm sem, gương

sen. Ngoài ra trong hạt còn có đường, tinh bột, trong tua sen có flavonoid, trong ngó sencó acid amin, vitamin C và tanin.Công dụng, cách dùng, liều lượng:

- Liên diệp, liên phòng làm thuốc cầm máu. Ngày dùng 15-30g dưới dạng thuốcsắc.

- Liên tâm dùng làm thuốc ngủ, trấn kinh, chữa thổ huyết. Ngày dùng 4-10g dạngthuốc sắc.

- Liên nhục làm thuốc bổ, an thần, dùng trong trường hợp ăn ngủ kém, suy nhược,di mộng tinh. Ngày dùng 10-20g, dạng thuốc sắc, hoàn tán.

- Liên tu chữa thổ huyết, băng huyết, di mộng tinh. Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc.

HUYỀN SÂM

251

Tên khác:

Hắc sâm, Nguyên sâm Tên khoa học:Radix ScrophulariaeNguồn gốc:

Rễ đã phơi hay sấy khô của cây Huyền sâm (Scrophularia buergeriana Miq. ), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae).

Cây được trồng và mọc hoang ở các tỉnh vùng cao nước ta.Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.

Thành phần hoá học chính: Các dẫn chất iridoid glycosid, phytosterol, alcaloid, đường, muối khoáng.

Công dụng:Giảm sốt, chữa viêm họng, lở loét trong miệng, miệng lưỡi khô, giải độc, chữa

mụn nhọt. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 10-12g dạng thuốc sắc.

KIM ANH Tên khoa học:Fructus Rosae laevigataeNguồn gốc:

Vị thuốc là quả bổ đôi của cây Kim anh (Rosa laevigata Michx. ), họ Hoa hồng(Rosaceae).

Cây mọc hoang hoặc trồng làm cảnh ở nước ta và một số nước khác.Thành phần hoá học chính:

Vitamin C, tanin, acid nitric, acid malic, glucose, nhựa. Hạt chứa heterosid độc (khi dùng phải bỏ hạt).

Công dụng:Chữa di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, đái rắt, ỉa chảy mãn tính.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-12g dưới dạng thuốc sắc, cao hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

MÃ ĐỀTên khác:

Xa tiền.Tên khoa học:

252

Plantago major L. , ở Việt Nam hay gặp loài Plantago asiatica L., họ Mã đề(Plantaginaceae).

Cây mọc hoang khắp nơi trong nước ta và nhiều nước khác.Bộ phận dùng:

Toàn cây (Xa tiền thảo).Lá (Xa tiền - Folium Plantaginis).Hạt (Xa tiền tử - Semen Plantaginis).

Thành phần hoá học chính:Lá chứa flavonoid, vitamin K, muối kali,...Hạt có chất nhày, acid plantenoic, succinic, cholin và adenin.

Công dụng:Chữa phù thũng, bí tiểu tiện, đi tiểu ra máu, ho lâu ngày, viêm khí quản, đau mắt

đỏ, mụn nhọt.Cách dùng:

Ngày dùng 10-20g lá hoặc 6-12g hạt dưới dạng thuốc sắc. Lá tươi giã nhỏ đắp lênmụn nhọt, toàn cây nấu thành cao đặc chữa bỏng.Chú ý:

Lá Mã đề có tác dụng lợi tiểu mạnh cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai vàngười già.

MẠCH MÔNTên khoa học:Radix OphiopogiNguồn gốc:

Rễ củ phơi hay sấy khô của cây Mạch môn (Ophiopogon japonicus (Thunb.) Ker. Gawl.), họ Mạch môn (Haemodoraceae).

Cây được trồng nhiều nơi trong nước ta làm cảnh và làm thuốc. Trung Quốc và nhiều nước nhiệt đới khác cũng có.Thành phần hoá học chính:

Chất nhầy, đường, saponin steroid.Công dụng:

Chữa ho, long đờm, ho lao, sốt phiền khát, thổ huyết, chảy máu cam.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc. Khi dùng rút bỏ lõi mới có tác dụng tốt.

RÂU NGÔ Tên khác:

Ngọc mễ tu.

253

Tên khoa học:Styli et stigmata MaydisNguồn gốc:

Vòi và núm phơi khô của hoa cây Ngô (Zea mays L. ), họ Lúa (Poaceae) đã già và cho bắp, râu ngô hái vào lúc thu hoạch Ngô. Ngô được trồng ở nhiều nơi trong nước ta và nhiều nước khác.Thành phần hoá học chính:

Saponin, tinh dầu, chất nhầy, muối khoáng.Công dụng:

Dùng chữa viêm túi mật, viêm gan. Làm thuốc thông tiểu tiện trong các bệnh về tim, đau thận, tê thấp, sỏi thận.Cách dùng, liều lượng:

Dùng nước sắc râu Ngô hoặc nấu thành cao lỏng ngày uống 10-20g râu Ngô.

THIÊN MÔN ĐÔNG Tên khác:

Thiên môn, Thiên đông, Tóc tiên leo.Tên khoa học:Radix AsparagiNguồn gốc:

Rễ củ đã đồ chín, rút lõi, phơi hay sấy khô của cây Thiên môn đông (Asparagus cochinchinensis (Lour.) ), họ Thiên môn đông (Asparagaceae).Thành phần hoá học chính:

Đường, acid amin (asparagin).Công dụng:

Thuốc bổ, chữa ho.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

TỤC ĐOẠN Tên khác:

Sâm nam.Tên khoa học:Radix DipsaciNguồn gốc:

Vị thuốc là rễ phơi hay sấy khô của cây Tục đoạn (Dipsacus japonicus Miq. ) và

254

một số loài thuộc chi Dipsacus, họ Tục đoạn (Dipsacaceae).Cây mọc ở vùng núi cao miền Bắc nước ta và được trồng ở một số địa phương.

Thành phần hoá học chính: Alcaloid, saponin, hydratcarbon...

Công dụng: Chữa đau lưng, mỏi gối, di tinh, bạch đới, gãy xương, đứt gân do chấn thương,

phong thấp gây đau nhức, động thai đau bụng.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 4-12g, dạng thuốc sắc, hoàn tán, rượu thuốc.Chú ý:

Không nhầm lẫn với vị thuốc Cát sâm là rễ củ của cây Milletia speciosa Champ. cũng gọi là Sâm nam

NGŨ BỘI TỬ Tên khoa học:Galla chinensisNguồn gốc:

Vị thuốc là tổ đã phơi hay sấy khô của sâu Schlechtendalia chinensis Bell., ký sinhtrên cây Muối (Rhus sinensis Mill.), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).

Một số tỉnh ở miền Bắc nước ta có sản xuất dược liệu này. Thành phần hoá học chính:

Tanin (50-70%).Công dụng:

Làm thuốc săn da, chữa ỉa lỏng, lỵ xuất huyết, nôn ra máu, chảy máu cam, ra nhiềumồ hôi, ho, lở loét.

Là nguyên liệu chế tanin.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 4-8g dạng thuốc sắc, bột hoặc viên.Dung dịch 5-10% ngậm điều trị các vết loét trong miệng.Dùng ngoài trị lở loét, bỏng.

TÁO NHÂN Tên khác:

Toan táo nhân, Táo ta.Tên khoa học:Semen Zizyphi jujubaeNguồn gốc:

255

Vị thuốc là nhân hạt già phơi hay sấy khô của cây Táo ta (Zizyphus jujuba Lamk. ),họ Táo ta (Rhamnaceae).

Cây được trồng nhiều nơi ở miền Bắc để lấy quả ăn, hạt bỏ ra được xay lấy nhânlàm thuốc.Thành phần hoá học chính:

Nhân hạt: dầu béo, Phytosterol, saponinLá: rutin.

Công dụng: Táo nhân dùng làm thuốc ngủ, an thần trong trường hợp mất ngủ, hồi hộp, lo âu,

hay quên, mồ hôi trộm.Người ta còn dùng lá táo chữa viêm phế quản, khó thở, đắp ngoài chữa lở loét, ung

nhọt.Cách dùng, liều lượng:

Người lớn uống 15-20 hạt có tác dụng trấn tĩnh và gây ngủ.Táo nhân sao đen (Hắc táo nhân): Ngày 8-16g, dạng thuốc sắc, có thể dùng phối

hợp với một số vị thuốc khác.Chú ý:

Táo nhân Trung Quốc (hiện nay ta vẫn nhập) là nhân hạt của cây Toan táo (Zizyphus jujuba Mill. var. spinosa (Bunge) Hu ex H. F. Chou).

HẠ KHÔ THẢO

Tên khoa học:Spica PrunellaeNguồn gốc:

Cụm quả đã phơi hay sấy khô của cây Hạ khô thảo (Prunella vulgaris L. ), họ Bạchà (Lamiaceae).

Cây mọc ở những vùng núi cao của nước ta. Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.

Thành phần hoá học chính: Các alcaloid, saponin.

Công dụng:Chữa sưng vú, lao hạch, bướu cổ, đau mắt, viêm tử cung, viêm gan, ngứa, hắc lào,

vẩy nến. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 8-16g dạng thuốc sắc.Ghi chú:

Hạ khô thảo nam là cành mang lá, hoa của cây Cải trời (Blumea subcapitata DC.),

256

họ Cúc (Asteraceae).

ĐỊA HOÀNG

Tên khác:Can địa hoàng.

Tên khoa họcRadix Rehmanniae glutinosaeNguồn gốc:

Rễ củ phơi hay sấy khô của cây Địa hoàng (Rehmannia glutinosa (Gaertn.)Libosch.), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae) gọi là Sinh địa,, sau khi chế biến theomột quy trình nhất định gọi là Thục địa.Thành phần hoá học chính:

Iridoid glycosid, acid amin, caroten.Công dụng:

Sinh địa dùng làm thuốc chữa ho ra máu, đỏ máu cam, băng huyết, lậu huyết, tiểu ra máu, tiểu đường, tâm thần không yên, mất ngủ.

Thục địa làm thuốc bỏ huyết, điều kinh, chữa thận suy, chóng mặt, ù tai, râu tócbạc sớm.Cách dùng, liều lượng:

Ngày 12-40g, dưới dạng thuốc sắc. Là thành phần có trong các bài thuốc Bát vị, Lục vị, Thập toàn đại bổ, Hoàn hà xa đại tạo...

SA SÂM

Tên khác:Bắc sa sâm

Tên khoa học:Radix GlehniaeNguồn gốc:

Dược liệu là rễ đã bỏ vỏ phơi hay sấy khô của cây Sa sâm bắc (Glehnia littoralisFr. Schm.), họ Cần (Apiaceae).

Cây ưa khí hậu ôn đới, vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Đường, tanin, chất béo.Công dụng:

Chữa ho, long đờm, chữa sốt cao, miệng khô khát nước.Cách dùng, liều lượng:

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để kiểm nghiệm dược liệu theo tiêu chuẩn

dược điển Việt Nam.2. Kiểm nghiệm mẫu dược liệu bằng phương pháp hóa học (định tính, định lượng)

và phương pháp vi học (vi phẫu, soi bột) theo TCDĐVN IV3. Rèn luyện được kỹ năng sử dụng kính hiển vi để kiểm nghiệm các bột dược liệu.

257

Ngày dùng 16g, dạng thuốc sắc.Ghi chú:

- Sa sâm còn là rễ của một số cây như Launaea pinnatifida Cass., Microrhynchussarmentosus DC. Prenanthes sarmentosa Willd., họ Cúc (Asteraceae). Trong đó chủ yếulà rễ của cây Launaea pinnatifida Cass. . Cây này mọc nhiều ở ven biển và một số đảo ởnước ta, các thầy thuốc Đông y dùng thay Sa sâm Bắc.

- Nam sa sâm là rễ cây Adenophora verticillata Fisch., họ Hoachuông(Campanulaceae), mọc ở các ruộng bỏ hoang. Trung Quốc dùng rễ cây này vớitên Nam sa sâm, Luân diệp sa sâm, Cát sâm.

SÀI HỒ

Tên khoa học:Radix BupleuriNguồn gốc:

Dược liệu là rễ của cây Bắc sài hồ (Bupleurum chinense DC.) hoặc Hiệp diệp sài hồ (Sài hồ lá hẹp - Bupleurum scorzononaefolium Wild.), họ Cần (Apiaceae).

Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Tinh dầu, saponin.Công dụng:

Chữa cảm sốt, ngực sườn đầy tức, sốt rét, chóng mặt nhức đầu, trĩ, rối loạn kinh nguyệt.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 4-8g dạng thuốc sắc, hoàn tán. Không dùng cho người huyết áp cao.Chú ý:

- Trên thực tế chữa bệnh ở Việt Nam người ta dùng rễ phơi hay sấy khô của câySài hồ nam (Pluchea pteropoda Hemsl.), họ Cúc (Asteraceae), còn gọi là cây Lức, Hảisài.

- Ở Bình Thuận, Ninh Thuận nước ta dùng rễ cây Đa quả cát [Polycarpaeacorymbosa (L.) Lamk ], họ Cẩm chướng (Caryophyllaceae) với tên Sài hồ

- Rễ, thân, cành cây Cúc tần (Pluchea indica Less. ), họ Cúc cũng được dùng vớitên gọi Sài hồ nam.

- Sài hồ lá hẹp còn được gọi là Hồng sài hồ, Hoa Nam sài hồ.

258

TÔ MỘC

Tên khoa học:Lignum SappanNguồn gốc:

Dược liệu là gỗ bỏ vỏ chẻ và phơi khô của cây Tô mộc (Caesalpinia sappan L. ),họ Vang (Caesalpiniaceae).

Cây mọc hoang và được trồng nhiều trong nước ta.Thành phần hoá học chính:

Chất màu đa phenol (sappanin, brasilin), tanin, acid galic.Công dụng:

Chữa lỵ ra máu, chảy máu đường ruột, ỉa chảy do nhiễm trùng đường ruột.Trị bế kinh, hậu sản ứ huyết: Phối hợp hương phụ, ngải cứu.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn tán, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị

thuốc khác.Chú ý:

Phụ nữ có thai, đang hành kinh không dùng.

KHIÊN NGƯU TỬ Tên khác:

Hắc sửu, Bạch sửu.Tên khoa học:Semen IpomoeaeNguồn gốc:

Hạt phơi hay sấy khô của cây Khiên ngưu (Ipomoea hederacea Jacq.), họ Bìm bìm(Convolvulaceae).Thành phần hoá học chính:

Pharbitin 2% (một glycosid có cấu tạo phức tạp, có tác dụng tẩy), chất màu, dầubéo (10%), nhựa (12%).Công dụng:

Chữa bí tiểu tiện, phù thũng, hen, trị giun. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 1-8g, dạng thuốc sắc, hoàn tán.Chú ý:

Không dùng cho phụ nữ có thai.

259

HỒNG HOA Tên khác:

Hồng lam hoaTên khoa học:Flos CarthamiNguồn gốc:

Hoa đã phơi hay sây khô của cây Hồng hoa (Carthamus tinctorius L.), họ Cúc(Asteraceae).

Dược liệu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Flavonoid, sắc tố màu vàng.

Công dụng:Chữa kinh nguyệt không đều, viêm buồng trứng, ứ huyết, chấn thương tụ máu. Dùng làm thuốc nhuộm thực phẩm.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-8g dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.

Chú ý:Phụ nữ có thai và đang hành kinh không dùng.

MẪU ĐƠN BÌ Tên khác:

Đan bì, Đơn bì.Tên khoa học:Cortex Paeoniae suffruticosaeNguồn gốc:

Vỏ rễ khô của cây của cây Mẫu đơn (Paeonia suffruticosa Andr.), họ Hoàng liên(Ranunculaceae).

Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Có một glycosid khi thuỷ phân cho paenol (C9H10O3) và glucose, alcaloid, saponin.Công dụng:

Chữa phát ban, nôn ra máu, chảy máu cam, kinh nguyệt bế tắc, ung nhọt, kinh giảnco giật. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 5-10g, dưới dạng thuốc sắc.

260

Chú ý:Phụ nữ có thai không nên dùng.Không nhầm với cây Đơn đỏ, họ Cà phê thường được gọi là Mẫu đơn.

VIỄN CHÍ Tên khoa học:Radix PolygalaeNguồn gốc:

Dược liệu là rễ đã bỏ lõi gỗ và phơi hay sấy khô của cây Viễn chí Xiberi(Polygala sibirica L.) hoặc Viễn chí lá nhỏ (Polygala tenuiflorum Willd.), họ Viễn chí(Polygalaceae).

Nước ta có một số loài Viễn chí mọc hoang ở các vùng núi cao, dược liệu chủ yếunhập từ Trung Quốc. Thành phần hoá học chính: Saponin.Công dụng:

Chữa ho có đờm, kém trí nhớ, suy nhược, lo âu, mất ngủ.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 2-12g, dạng thuốc sắc, bột hay cao lỏng.

HY THIÊM Tên khác: Cỏ đĩ, Hy tiên.Tên khoa học:Siegesbeckia orientalis L. , họ Cúc (Asteraceae).

Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta. Bộ phận dùng:

Phần trên mặt đất (Herba Siegesbeckiae).Thành phần hoá học chính:Alcaloid, một chất đắng có tên gọi là darutin, flavonoid.Công dụng:

Trị đau nhức do phong thấp, đau lưng, mỏi gối, mụn nhọt, lở ngứa. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 8-16g, dạng thuốc sắc hoặc cao.

VÔNG NEM

261

Tên khác:Hải đồng, Thích đồng.

Tên khoa học:Erythrina variegata L. , họ Đậu (Fabaceae).

Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng:

Lá (Folium Erithrina variegatae).Vỏ thân (Hải đồng bì - Cortex Erithrina variegatae ).

Thành phần hoá học chính:Alcaloid, tanin, flavonoid.

Công dụng:An thần, chữa mất ngủ, viêm ruột, ỉa chảy, lỵ, phong thấp, còn dùng chữa viêm da

lở nước (sắc đặc rửa)Cách dùng, liều lượng:

Ngày uống 4-6g lá khô, hoặc 8-12g vỏ thân, dạng thuốc sắc, cao lỏng, hoàn.Chú ý:

Lá Vông có trong thành phần nhiều chế phẩm đông dược trên thị trường với tác dụng an thần, gây ngủ.

ÍCH MẪU Tên khoa học:Herba Leonuri heter ophylli Nguồn gốc:

Phần trên mặt đất có nhiều lá, hoa phơi hay sấy khô của cây Ích mẫu (Leonurusheterophyllus Sweet ), họ Bạc hà (Lamiaceae).

Cây mọc hoang, được trồng ở nhiều địa phương nước ta và nhiều nước khác trênthế giới.Thành phần hoá học chính:

Alcaloid, flavonoid (rutin), tanin.Công dụng, cách dùng, liều lượng:

- Ích mẫu thảo: Chữa kinh nguyệt không đều, bế kinh, rong kinh, thống kinh, ứmáu tích tụ sau khi đẻ, cao huyết áp. Ngày dùng 8-18g, dạng thuốc sắc hoặc cao thuốc.

- Hạt Ích mẫu (Sung uý tử): Chữa phù thũng, thiên đầu thống, thông tiểu. Ngàydùng 6-12g, dạng thuốc sắc.

KE ĐẦU NGỰA

Sắc ký đồ của dịch chiết Mã tiền và chấtchuẩn Strychnin, Brucin1,2,3: Sắc ký đồ của lần lượt Brucin, Mãtiền, Strychnin ở UV 254nm 4: Sắc ký đồ của dịch chiết Mã tiền ởUV366nm 5,6,7: Sắc ký đồ của lần lượt Brucin Mãtiền, Strychnin ở ánh sáng thường

262

Tên khác: Thương nhĩ tử, Xương nhĩ

Tên khoa học:Fructus Xanthii strumariiNguồn gốc:

Dược liệu là quả già phơi khô của cây Ké đầu ngựa (Xanthium strumarium L. ), họCúc (Asteraceae).

Cây mọc hoang khắp nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính:

Alcaloid, saponin, chất béo, iod.Công dụng:

Chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, đau đầu do phong hàn, chân tay co rút, đau khớp dophong thấp. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 10-16g, dạng thuốc sắc hay thuốc cao.Chú ý:

Ké đầu ngựa nhập từ Trung Quốc là quả cây Xanthium sibiricum Patr.

NGƯU TẤT

Tên khác:

Hoài ngưu tất.Tên khoa học:Radix Achiranthis bidentataeNguồn gốc:

Dược liệu là rễ đã chế biến phơi khô của cây Ngưu tất (Achyranthes bidentataBlume.), họ Rau dền (Amaranthaceae).

Cây được trồng ở nhiều địa phương trong nước ta.Thành phần hoá học chính:

Saponin triterpenoid, hydratcarbon.Công dụng:

Dùng sống: trị cổ họng sưng đau, ung nhọt, chấn thương tụ máu, bế kinh, đẻ khôngra nhau thai, ứ huyết, tiểu tiện ra máu, viêm khớp.

Tẩm rượu: trị đau lưng, mỏi gối, chân tay co quắp, tê bại.Chiết xuất Saponin làm thuốc hạ cholesterol máu.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-9g, dạng thuốc sắc.

263

Viên Bidentin dùng theo y học hiện đại.Chú ý:

- Phụ nữ có thai hoặc đang hành kinh không được dùng.- Ngưu tất nam là rễ cây Cỏ xước (Achyranthes aspera L. ), họ Rau dền, mọc

hoang ở nhiều nơi trong nước ta có thể dùng thay vị Ngưu tất.

BÀI 8

THỰC ĐỊA VƯỜN 1

NỘI DUNG1. MẪU VẬT VÀ DỤNG CỤ

Sinh viên kiểm tra và đánh dấu vào bảng kiểm sau:Stt Mẫu vật, dụng cụ Có Không1 Mẫu vật1.1 Mẫu cây tươi cành mang lá: 20 mẫu.2 Dụng cụ2.1 Kính lúp cầm tay2.2 Kính lúp soi nổi

2. NỘI DUNG THỰC TẬP* Yêu cầu: Sinh viên nhận thức từng cây thuốc về:- Tên cây, tên khoa học- Đặc điểm thực vật - Bộ phận dùng- Thành phần hóa học- Công dụng

264

MỤC TIÊU 1. Nhận dạng được 20 mẫu cây thuốc bằng các giác quan thông thường, gọi tên

tiếng việt của chúng dựa trên mẫu không có nhãn.2. Phân loại được các cây thuốc theo nhóm tác dụng và hướng dẫn sử dụng an

toàn, hợp lý các dược liệu trên.

- Cách dùng và liều lượng* Phân loại các cây thuốc theo nhóm tác dụng:

1. Nhóm dược liệu có tác dụng an thần, gây ngủ.

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

2. Nhóm dược liệu có tác dụng chữa cảm sốt, sốt rét, tiêu độc

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

3. Nhóm dược liệu có tác dụng giảm đau, chữa thấp khớp.

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

4. Nhóm dược liệu chữa ho hen, nhuận tẩy

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

a: lượng tinh dầu đem địnhlượngb: lượng tinh dầu đọc được ở phần cổ bình (ml)

265

5. Nhóm dược liệu chữa bệnh tim mạch và cầm máu

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

BÀI 9

DƯỢC LIỆU CHỨA TINH DẦU, CHẤT BEO, NHỰA

NỘI DUNG:

CHỈ THỰCCHỈ XÁCKIM ANH

KINH GIỚI Tên khoa học:Elsholtzia cristata Willd. , họ Bạc hà (Lamiaceae).Bộ phận dùng: Ngọn mang lá, hoa.Thành phần hoá học chính:

MỤC TIÊU:1. Nhận thức được các dược liệu chứa tinh dầu, chất béo, nhựa về nguồn gốc, bộ

phận dùng, thành phần hóa học, công dụng, cách dùng và liều lượng.2. Rèn luyện được kỹ năng hướng dẫn bệnh nhân sử dụng an toàn hợp lý các dược

liệu trên.

V: lượng dung dịch KOH 0,5N dùng để chuẩnđộ mẫu thử (ml)V1: lượng dung dịch KOH 0,5N dùng để chuẩnđộ mẫu trắng (ml)M: Khối lượng phân tử aldehyd cần định lượngG: lượng tinh dầu đã cân tính bằng gam.

V: số ml dung dịch kali hydroxyd 0,5Ndùng để xà phòng hóa tinh dầuG: khối lượng tinh dầu lấy để thử (g)

266

V: số ml dung dịch kali hydroxyd 0,5N dùngđể xà phòng hóa tinh dầu đã được acetyl hóaG: khối lượng tinh dầu (g)

267

BÀI 10

KIỂM NGHIỆM DƯỢC LIỆU THEO TIÊU CHUẨN DƯỢC ĐIỂN VIỆT NAM

NỘI DUNG:

Dược liệu:Bách bộ, Cà độc dược, Cát cánh, Củ bình vôi, Đại hồi, Hà thủ ô đỏ, Hoàng bá, Hoàng kỳ, Hoàng liên, Hậu phác, Lá vông, Ma hoàng, Nhân trần, Núc nác, Quế, Tụcđoạn, Thiên niên kiện.

Nội dung

- Xác định mẫu dược liệu bằng cảm quan.- Kiểm nghiệm mẫu dược liệu bằng phương pháp vi học (vi phẫu, soi bột) theo TCDĐVN IV.- Kiểm nghiệm mẫu dược liệu bằng phương pháp hóa học (định tính, định lượng) theo TCDĐVN IV.

Phương pháp tiến hành

- Nhận mẫu dược liệu, xác định bằng cảm quan. Nhận xét.- Tra cứu DĐVN IV theo chuyên luận dược liệu được nhận, ghi những đặc điểm của vi phẫu, bột, phương pháp định tính, định lượng.- Làm vi phẫu: cắt, tẩy, nhuộm, soi tiêu bản, đối chiếu với Dược điển, vẽ sơ đồ tổng quát. Nhận xét.- Làm tiêu bản bột, chỉ và vẽ các đặc điểm, đối chiếu với Dược điển, nhận xét.- Định tính hoặc định lượng thành phần hóa học theo phương pháp Dược điển.- Báo cáo kết quả theo mẫu:

Nội dung kiểm nghiệm TCDĐVN IV Kết quả KN Nhận xét

Mô tả

Vi phẫu

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để kiểm nghiệm dược liệu theo tiêu chuẩn

dược điển Việt Nam.2. Kiểm nghiệm mẫu dược liệu bằng phương pháp hóa học (định tính, định lượng)

và phương pháp vi học (vi phẫu, soi bột) theo TCDĐVN IV3. Rèn luyện được kỹ năng sử dụng kính hiển vi để kiểm nghiệm các bột dược liệu.

MỤC TIÊU:1. Nhận diện được các dược liệu chứa alcaloid về nguồn gốc, bộ phận dùng,

thành phần hóa học, công dụng, cách dùng và liều lượng.2. Rèn luyện được kỹ năng hướng dẫn sử dụng an toàn hợp lý các dược liệu trên.

268

MỤC TIÊU 1. Nhận dạng được 20 mẫu cây thuốc bằng các giác quan thông thường, gọi tên

tiếng việt của chúng dựa trên mẫu không có nhãn.2. Phân loại được các cây thuốc theo nhóm tác dụng và hướng dẫn sử dụng an

toàn, hợp lý các dược liệu trên.

NỘI DUNG1. MẪU VẬT VÀ DỤNG CỤ

Sinh viên kiểm tra và đánh dấu vào bảng kiểm sau:Stt Mẫu vật, dụng cụ Có Không1 Mẫu vật1.1 Mẫu cây tươi cành mang lá: 20 mẫu.2 Dụng cụ2.1 Kính lúp cầm tay2.2 Kính lúp soi nổi

2. NỘI DUNG THỰC TẬP* Yêu cầu: Sinh viên nhận thức từng cây thuốc về:- Tên cây, tên khoa học- Đặc điểm thực vật - Bộ phận dùng- Thành phần hóa học- Công dụng- Cách dùng và liều lượng* Phân loại các cây thuốc theo nhóm tác dụng:

1. Nhóm dược liệu có tác dụng kích thích tiêu hóa, chữa tiêu chảy và lỵ.

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

2. Nhóm dược liệu có tác dụng bổ dưỡng

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

270

3. Nhóm dược liệu có tác dụng chữa dạ dày và giun sán.

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

4. Nhóm dược liệu có tác dụng lợi tiểu và chữa bệnh phụ nữ

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

5. Nhóm dược liệu có tác dụng nhuận gan, lợi mật.

STT Tên cây Tên họ Ghi chú

271

BÀI 12

ĐỊNH TÍNH ALCALOID TRONG DƯỢC LIỆU

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để định tính alcaloid trong hạt Mã tiền

bằng thuốc thử chung và thuốc thử đặc hiệu.2. Định tính được alcaloid trong lá cà độc dược bằng phản ứng Vitali, trong lá

chè bằng phản ứng Murexid và thân Ma hoàng.3. Rèn luyện được tác phong thận trọng, tỉ mỉ, chính xác trong thực hành dược

NỘI DUNG:1. Định tính alcaloid trong hạt Mã tiền (Strychnos nux-vomica L., Loganiaceae) bằng thuốc thử chung và thuốc thử đặc hiệu.1.1. Chiết xuất alcaloid từ hạt Mã tiền

Cân 0,5g bột hạt Mã tiền, cho vào bình nón dung tích 50ml. Thêm 15ml dung dịchacid sulfuric 1N. Đun đến sôi. Để nguội. Lọc dịch lọc vào bình gạn dung tích 100ml.Kiềm hóa dịch lọc bằng dung dịch amoniac 6N (khoảng 8ml) đến pH = 9 - 10 (thử bằnggiấy quỳ hoặc chỉ thị màu vạn năng). Chiết alcaloid base bằng ether hoặc cloroform (chiết3 lần, mỗi lần 5ml). Gộp các dịch chiết ether (hoặc cloroform), loại nước bằng natrisulfatkhan, sau đó chia làm 2 phần: 1 phần dùng để định tính alcaloid bằng thuốc thử chung, 1phần dùng để xác định sự có mặt của Strychnin và Brucin bằng các phản ứng tạo màu vàbằng sắc ký lớp mỏng.

1.2. Định tính alcaloid bằng thuốc thử chungLấy một phần dịch chiết ether (hoặc cloroform) đã được chuẩn bị ở trên, đem lắc

với acid sulfuric 1N hai lần, mỗi lần 5ml. Gộp các dịch chiết nước. Chia đều vào cácống nghiệm nhỏ, mỗi ống 1ml. Nhỏ vào từng ống nghiệm 2 - 3 giọt lần lượt các thuốcthử sau:

- Ống 1: thuốc thử Mayer, cho tủa màu từ trắng đến vàng- Ống 2: thuốc thử Bouchardat, cho tủa nâu đến đỏ nâu- Ống 3: thuốc thử Dragendorff, cho tủa vàng cam đến đỏ.

1.3. Định tính Strychnin và Brucin bằng thuốc thử tạo màuPhần dịch chiết ether (hoặc cloroform) còn lại được chia vào 3 ống nghiệm nhỏ.

Bốc hơi cả 3 ống nghiệm trên nồi cách thủy cho đến khô. Lần lượt làm các phản ứng sau:- Ống 1: cho vào 0,5ml acid sulfuric đặc, vài tinh thể kali bicromat sẽ xuất hiện

màu tím chuyển nhanh sang vàng, chứng tỏ sự có mặt của Strychnin.- Ống 2: cho vào 0,5ml acid nitric đặc sẽ xuất hiện màu đỏ tươi, chứng tỏ sự có

mặt của Brucin.

272

- Ống 3: cho vài giọt cloroform để hòa tan. Dung dịch này dùng để chấm sắc ký.1.4. Định tính Strychnin và Brucin bằng sắc ký lớp mỏng

Bản mỏng sắc ký: Bản mỏng tráng sẵn silicagel GF254 (Merck), hoạt hóa ở 1100Ctrong 1 giờ.

Dùng mao quản để chấm lên bảnmỏng silicagel (kích thước 2,5 x 7,5cm)dịch chiết đã được chuẩn bị ở trên. Songsong có thể chấm dung dịch chất chuẩnStrychnin và Brucin để so sánh.

Dung môi khai triển: Toluen -aceton - ethanol - amoniac (4 : 5 : 0,6 :0,4).

Sau khi khai triển sắc ký, hiệnmàu bằng thuốc thử Dragendorff.

2. Định tính alcaloid trong lá Cà độc dược (Datura metel L., Solanaceae) bằng phản ứng Vitali

Cân 3g bột dược liệu, cho vào bình nón khô, có nút mài, dung tích 100ml. Thấmẩm dược liệu bằng dung dịch amoniac 6N. Thêm 10ml hỗn hợp ether - cloroform (3 : 1).Để yên từ 30 - 60 phút, thỉnh thoảng lắc nhẹ.

Lọc lấy dịch chiết ether - cloroform vào một bát sứ nhỏ. Bốc hơi trên nồi cách thủycho đến khô. Nhỏ vào cắn 2 - 3 giọt acid nitric đặc (láng đều để cho acid hòa tan hết cắn)rồi đem bốc hơi trên nồi cách thủy cho đến khô, cắn phải có màu vàng. Để nguội. Nhỏvào cắn 3 - 5 giọt aceton, 1 giọt dung dịch KOH 10% trong ethanol vừa mới pha. Sẽ cómàu tím chuyển sang màu đỏ thẫm.3. Định tính alcaloid trong lá chè (Camellia sinensis O. Ktze., Theaceae) bằng phản ứng Murexid

Cân 0,5g bột dược liệu, cho vào bình nón dung tích 50ml. Thêm 10ml acid sulfuric1N. Đun đến sôi. Lọc nóng dung dịch vào trong bình gạn dung tích 50ml. Kiềm hóa dịchlọc bằng amoniac 6N đến pH = 9 - 10 (khoảng 5ml). Lắc 2 lần, mỗi lần 5ml cloroform.Gạn lấy lớp cloroform vào một bát sứ nhỏ, khô. Bốc hơi trên nồi cách thủy đến khô. Nhỏ

Sắc ký đồ của dịch chiết Mã tiền và chấtchuẩn Strychnin, Brucin1,2,3: Sắc ký đồ của lần lượt Brucin, Mãtiền, Strychnin ở UV 254nm 4: Sắc ký đồ của dịch chiết Mã tiền ởUV366nm 5,6,7: Sắc ký đồ của lần lượt Brucin Mãtiền, Strychnin ở ánh sáng thường

273

vào cắn còn lại 3 giọt HCl 6N và 3 giọt nước oxy già đậm đặc. Láng đều cho hòa tan hếtcắn. Bốc hơi trên nồi cách thủy cho tới khô, cắn sẽ có màu đỏ. Thêm vào cắn vài giọtamoniac 6N sẽ xuất hiện màu tím.4. Định tính alcaloid trong thân Ma hoàng (Ephedra sinica Stapf., Ephedraceae)

Cân 2g bột dược liệu, cho vào trong bình nón khô, có nút mài, dung tích 50ml.Thấm ẩm dược liệu bằng dung dịch amoniac 6N. Thêm 20ml cloroform. Đậy nút và đểyên trong 30 phút.

Gạn lớp cloroform vào bình gạn dung tích 50ml. Lắc dịch chiết với 10ml dungdịch HCl 5%. Gạn lớp acid vào trong ống nghiệm. Thêm vào đó 0,1ml dung dịch đồngsulfat 10%, 1ml dung dịch NaOH 10%. Lắc nhẹ sẽ xuất hiện màu lơ tím. Thêm vào hỗnhợp đó 1ml cồn amylic. Lắc trong vòng 1 phút. Khi để yên, lp cồn sẽ có màu tím tía, lớpnước ở dưới bị mất màu đi một phần.

274

BÀI 13

KIỂM NGHIỆM TINH DẦU TRONG DƯỢC LIỆU

MỤC TIÊU:1. Thực hiện được các thao tác cơ bản để phát hiện tạp chất và chất giả mạo

trong tinh dầu.2. Định lượng được các chất Eugenol, citronelal, citral, methol este hóa và methol

thành phần trong dược liêu.3. Kiểm nghiệm được Anethol trong tinh dầu hồi bằng phương pháp xác định nhiệt

độ đông đặc.3. Rèn luyện được tác phong thận trọng, tỉ mỉ, chính xác trong thực hành dược.

NỘI DUNG:1. Phát hiện tạp chất và chất giả mạo trong tinh dầu1.1. Phát hiện nước

Cho vào ống nghiệm khô một ít tinh thể đồng sulfat khan (có màu trắng xanh) rồi nhỏ từng giọt tinh dầu. Lắc đều. Để yên 15 phút. Nếu trong tinh dầu có nước, đồng sulfat sẽ chuyển sang màu xanh lam.1.2. Phát hiện cồn

- Nhỏ từng giọt nước vào trong ống nghiệm có chứa 1ml tinh dầu, lắc đều. Nếu đụcnhư sữa là trong tinh dầu có cồn.

- Cho vào bình cassia 5ml tinh dầu, thêm 75ml nước. Lắc đều. Thêm nước để dồn phần tinh dầu lên phía cổ bình có chia vạch. Nếu lượng nước giảm rõ rệt là trong tinh dầu có cồn.1.3. Phát hiện dầu hỏa, dầu parafin

Trong một ống đong dung tích 100ml, cho vào 80ml ethanol 80%. Nhỏ từng giọt tinh dầu đến hết 5ml. Tinh dầu sẽ tan trong alcol, nếu có dầu hỏa hoặc dầu parafin thì các chất này sẽ không tan va nổi lên bề mặt của chất lỏng.2. Kiểm nghiệm tinh dầu bằng sắc ký lớp mỏng

Các mẫu tinh dầu: tinh dầu Quế, tinh dầu Đinh hương, Tinh dầu Hương nhu trắng,Tinh dầu Sả,…

Bản mỏng sắc ký: Bản mỏng tráng sẵn silicagel GF254 (Merck), hoạt hóa ở 1100Ctrong 1 giờ.

Dung môi khai triển: n-hexan - ethyl acetat (85 : 15).Sau khi khai triển sắc ký, hiện màu các vết bằng các thuốc thử: Thuốc thử vanilin -

acid sulfuric, thuốc thử diazo, thuốc thử 2,4 - dinitrophenylhydrazin (2,4 - DNPH).

275

Chú ý: đối với thuốc thử diazo và thuốc thử 2,4 - DNPH thì hiện màu ở nhiệt độphòng, còn với thuốc thử vanilin - acid sulfuric thì sau khi phun sấy bản mỏng ở 1050Ctrong 10 phút.

Quan sát màu sắc, độ lớn của các vết với các thuốc thử khác nhau để rút ra nhậnxét.3. Định lượng Eugenol trong tinh dầu Hương nhu trắng (Oleum Ocimi gratissimi)3.1. Nguyên tắc:

Eugenol tác dụng với dung dịch kiềm tạo thành eugenat tan trong nước. Phản ứngđược tiến hành trong bình cassia. Đọc lượng tinh dầu không tham gia phản ứng ở phần cổbình có chia vạch.

Hàm lượng phần trăm eugenol trong tinh dầu được tính theo công thức:

3.2. Phương pháp tiến hành:Hút chính xác 5,0ml tinh dầu hương nhu trắng, cho vào bình cassia

Bình Cassia dung tích 100ml. Thêm 75ml dung dịch KOH 1N. Lắc đều trong 5 phút. Đun nóng bình cassia trong nồi cách thủy 10 phút, thỉnh thoảng

lắc bình. Để nguội (có thể làm nguội nhanh dưới vòi nước lạnh). Thêm dung dịch KOH 1N để đưa phần tinh dầu không tham gia phản ứng lên phần cổ

bình có chia vạch. Gõ nhẹ vào bình để các hạt tinh dầu còn bám vào thành bình nổi lên. Để yên12 – 24 giờ.

Đọc thể tích tinh dầu không tham gia phản ứng. Tính kết quả.

4. Định lượng citronelal, citral trong tinh dầu Sả (Oleum Citronellae), tinh dầu Màngtang (Oleum Litseae cubeae) bằng hydroxylamin hydroclorid4.1. Nguyên tắc

Citral, citronelal khi tác dụng với hydroxylamin hydroclorid tạo thành dẫn chấtoxim và giải phóng ra một lượng tương đương acid hydrocloric. Định lượng acidhydrocloric giải phóng bằng dung dịch KOH 0,5N, từ đó tính ra được lượng citral cótrong tinh dầu.4.2. Tiến hành

Cân chính xác khoảng 1g tinh dầu Sả, thêm 10ml alcol 90%, 10ml dung dịchhydroxylamin hydroclorid 0,5N (dùng pipet hút chính xác hoặc buret), 5 giọt methyl dacam. Lắc đều.

a: lượng tinh dầu đem địnhlượngb: lượng tinh dầu đọc được ở phần cổ bình (ml)

276

Chuẩn độ bằng dung dịch KOH 0,5N trong alcol đến khi màu chuyển sang vàngbền vững. Song song tiến hành định lượng với mẫu trắng.

Tính kết quả: Hàm lượng citral trong tinh dầu được tính theo công thức:

5. Định lượng Menthol este hóa trong tinh dầu Bạc hà (Oleum Menthae) Cân chính xác khoảng 2g tinh dầu cho vào bình cầu dung tích 100 - 200ml, thêm

3ml ethanol 96% và trung hòa bằng dung dịch kali hydroxyd 0,5N trong ethanol 96% vớichỉ thị màu là phenolphthalein (10giọt dung dịch phenolphthalein 2% trong ethanol 96%).Thêm chính xác 20ml dung dịch kali hydroxyd 0,5N trong ethanol 96%. Lắp ống sinh hànngược và đun nóng 60 phút trên nồi cách thủy. Để nguội, pha loãng với 50ml nước cất rồichuẩn độ bằng dung dịch acid hydrocloric 0,5N cho đến khi mất màu.

1ml dung dịch kali hydroxyd 0,5N tương ứng với 0,09915g menthyl acetat.Hàm lượng phần trăm menthol este của tinh dầu được tính theo công thức:

6. Định lượng menthol toàn phần Cho khoảng 10ml tinh dầu cho vào bình acetyl hóa, thêm 20ml anhydrid acetic và

2g natri acetat khan. Đun 60 phút trên ngọn lửa gas, bếp điện, hoặc trong bếp cách cát haycách dầu. Để nguội, thêm 50ml nước cất, vừa đun vừa lắc 15 phút trên nồi cách thủy. Đểnguội, chuyển toàn bộ chất lỏng vào bình gạn dung tích 250ml. Loại bỏ lớp nước. Rửa lớptinh dầu 2 lần, lần đầu với 50ml dung dịch natri clorid, cuối cùng với 20ml nước cất. Lưuý khi rửa lớp tinh dầu với dung dịch natri clorid bão hòa có thể lắc mạnh, còn khi rửa vớinước cất phải lắc nhẹ. Làm khô tinh dầu bằng natri sulfat khan. Lọc.

Cân chính xác 2g tinh dầu đã acetyl hóa trong một bình xà phòng hóa, hòa tantrong 3ml ethanol, thêm 10 giọt dung dịch phenolphthalein 2% trong ethanol 96%, trunghòa bằng dung dịch kali hydroxyd 0,5N trong ethanol 96%. Thêm 20ml dung dịch kalihydroxyd 0,5N trong ethanol 96%. Lắp ống sinh hàn ngược và đun sôi trên nồi cách thủy

V: lượng dung dịch KOH 0,5N dùng để chuẩnđộ mẫu thử (ml)V1: lượng dung dịch KOH 0,5N dùng để chuẩnđộ mẫu trắng (ml)M: Khối lượng phân tử aldehyd cần định lượngG: lượng tinh dầu đã cân tính bằng gam.

V: số ml dung dịch kali hydroxyd 0,5Ndùng để xà phòng hóa tinh dầuG: khối lượng tinh dầu lấy để thử (g)

277

60 phút. Để nguội, thêm 50ml nước cất rồi chuẩn độ bằng dung dịch acid hydrocloric0,5N cho đến khi mất màu.

1ml dung dịch kali hydroxyd 0,5N tương ứng với 0,07814g menthol.Hàm lượng phần trăm menthol toàn phần được tính theo công thức:

Tinh dầu Bạc hà phải chứa ít nhất 60% menthol toàn phần và 3 - 9% menthol estehóa biểu thị bằng menthyl acetat.7. Kiểm nghiệm Anethol trong tinh dầu Hồi (Oleum Anisi stellati) bằng phương pháp xác định nhiệt độ đông đặc 7.1. Dụng cụ:

Dụng cụ dùng để xác định nhiệt độ đông đặc (còn gọi là băng điểm kế), gồm cácphần sau:

- Một ống thử (a) có đường kính khoảng 15 - 20mm, có nút có 2 lỗ để luồn nhiệtkế (t) và que khuấy (k).

- Một ống thử (b) có đường kính khoảng 30 - 40mm, dài 130 - 150mm và có nútmềm.

- Một cốc vại (c) có dung tích khoảng 1 lít, chiều cao khoảng 150mm.- Một nhiệt kế đặt bên ngoài (t)- Hỗn hợp làm lạnh: nước đá 9 - 100C.

7.2. Cách xác định:Lấy khoảng 10ml tinh dầu đã được làm khan cho vào ống nghiệm (a) đã được rửa

sạch và sấy khô. Cho nhiệt kế (t) và que khuấy (k) qua nút đậy. Nhiệt kế phải để sao chobầu thủy ngân cắm vào giữa khối tinh dầu và cách đáy ống nghiệm ít nhất 5mm. Đặt ống(a) vào ống (b) sao cho hai ống không chạm vào nhau, sau đó đặt tất cả vào cốc vại (c) cóchứa hỗn hợp làm lạnh qua nắp của cốc vại. Dùng nhiệt kế (t) để theo dõi nhiệt độ làmlạnh của hỗn hợp.

Theo dõi nhiệt độ ở nhiệt kế (t). Nhiệt độ hạ từ từ và xuống thấp quá điểm đông dựkiến. Khi xuống quá khoảng 2 - 30C thì bắt đầu khuấy mạnh và cọ que khuấy vào thànhống để kích thích sự đông. Nhiệt độ lc đó tăng lên nhanh, đạt cực đại, dừng lại một lúc rồitừ từ hạ xuống. Điểm dừng chính là nhiệt độ đông đặc của tinh dầu.

Tinh dầu Hồi phải có nhiệt độ đông đặc không dưới 150C, tương ứng 85-95%ethanol trong tinh dầu

V: số ml dung dịch kali hydroxyd 0,5N dùngđể xà phòng hóa tinh dầu đã được acetyl hóaG: khối lượng tinh dầu (g)

278

BÀI 14

NHẬN THỨC DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID

NỘI DUNG:

HOÀNG LIÊN Tên khoa học:Rhizoma CoptidisNguồn gốc:

Thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Hoàng liên chân gà (Coptis teeta Wall.) vàmột số loài Hoàng liên khác (Coptis sinensis Franch., Coptis teetoides C.Y.Cheng.), họHoàng liên (Ranunculaceae).

Vùng núi cao nước ta có một số loài Hoàng liên. Vị thuốc chủ yếu còn phải nhập. Thành phần hoá học chính:

Alcaloid (7%), chủ yếu là berberin. Công dụng:

Hoàng liên là thuốc bổ đắng , chữa tiêu hoá kém , viêm loét dạ dày.Chữa lỵ, viêm ruột, ung nhọt, lở ngứa, miệng lưỡi lở, thổ huyết, chảy máu cam, trĩ.Dịch chiết Hoàng liên nhỏ vào mắt chữa đau mắt đỏ.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 2-12g, thuốc sắc hoặc cao lỏng.

Ghi chú:Ngoài Hoàng liên là thân rễ của những cây thuộc chi Coptis, người ta còn dùng các

loài Hoàng liên khác như: - Thổ Hoàng liên (Thalictrum foliolosum DC. ), họ Hoàng liên (Ranunculaceae),

công dụng như Hoàng liên nhưng yếu hơn. - Hoàng liên gai (Berberis wallichiana DC.), họ Hoàng liên gai (Berberidaceae),

dùng thay Hoàng liên và chiết xuất berberin. - Hoàng liên Ô rô (Mahonia bealei Carr. ), họ Hoàng liên gai (Berberidaceae),

nhiều địa phương ở miền Bắc người ta bán thân, rễ cây Hoàng liên Ô rô dưới tên gọi Cây Mật gấu.

HY THIÊM

MỤC TIÊU:1. Nhận diện được các dược liệu chứa alcaloid về nguồn gốc, bộ phận dùng,

thành phần hóa học, công dụng, cách dùng và liều lượng.2. Rèn luyện được kỹ năng hướng dẫn sử dụng an toàn hợp lý các dược liệu trên.

279

Tên khác:

Cỏ đĩ, Hy tiên.Tên khoa học:Siegesbeckia orientalis L. , họ Cúc (Asteraceae).

Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta. Bộ phận dùng:

Phần trên mặt đất (Herba Siegesbeckiae).Thành phần hoá học chính:

Alcaloid, một chất đắng có tên gọi là darutin, flavonoid.Công dụng:

Trị đau nhức do phong thấp, đau lưng, mỏi gối, mụn nhọt, lở ngứa. Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 8-16g, dạng thuốc sắc hoặc cao.

BÌNH VÔI Tên khoa học:Tuber Stephaniae glabraeNguồn gốc:

Phần gốc thân phình thành củ của cây Bình vôi (Stephania glabra (Roxb.) Miers. )hoặc một số loài Bình vôi khác có chứa L-tetrahydropalmatin, họ Tiết dê(Menispermaceae).

Cây mọc hoang tại nhiều vùng rừng núi nước ta và một số nước khác, thường gặptrên các núi đá vôi.Thành phần hoá học chính:

Nhiều alcaloid (1%), trong đó quan trọng nhất là L-tetrahydropalmatin vàroemerin.Công dụng:

Y học cổ truyền: Làm thuốc trấn kinh, an thần, chữa mất ngủ, sốt nóng, nhức đầu, khó thở, chữa đau dạ dày.

Y học hiện đại: Dùng toàn cây, cao hoặc alcaloid bào chế thành dạng thuốc thíchhợp để làm thuốc an thần.Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 3-6g dưới dạng bột củ hoặc 10-15ml rượu thuốc 10%.

Ghi chú:Alcaloid của Bình vôi có trong các chế phẩm Rotunda, Stilux-60...

280

CÂU ĐẰNG

Tên khoa học:Ramulus Uncariae cumunsisNguồn gốc:

Dược liệu là những đoạn thân có gai hình móc câu đã phơi khô của một số loàiCâu đằng (Uncaria sp.), họ Cà phê (Rubiaceae)Cây Câu đằng thường mọc hoang tạinhiều vùng rừng núi nước ta.

Hiện nay trên thị trường có cả Câu đằng thu hái trong nước và nhập từ TrungQuốc.Thành phần hoá học chính:

Các alcaloid (rhynchophylin, isorhynchophylin).Công dụng:

Trấn kinh, chữa chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu, cao huyết áp, trẻ em kinh giản (co giật), động kinh... Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 6-15g, dạng thuốc sắc.Ghi chú:

Vị Câu đằng của Trung Quốc được lấy từ cây Uncaria rhynchophylla (Miq) Jacks.,vị này kích thước nhỏ hơn Câu đằng Việt Nam, nhiều móc câu, đều đặn, màu đỏ tía.

MA HOÀNG

Tên khoa học:Herba EphedraeNguồn gốc:

Phần trên mặt đất phơi hay sấy khô của một số loài Ma hoàng, thường gặp nhất làThảo ma hoàng (Ephedra sinica Stapf.), Mộc tặc ma hoàng (Ephedra equisetina Bunge.),Trung gian ma hoàng (Ephedra intermedia Schrenk et Mey.), họ Ma hoàng(Ephedraceae).

Nước ta chưa thấy cây này. Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính:

Alcaloid (ít nhất 1%), chủ yếu là ephedrin.Công dụng:

Giải cảm không có mồ hôi, chữa ho, trừ đờm, viêm khí quản, hen xuyễn;Chiết xuất ephedrin bào chế thành viên nén làm thuốc chữa hen hay dung dịch nhỏ

mũi.Cách dùng, liều lượng:

281

Ngày dùng 5-10g, dạng thuốc sắc. Ghi chú:

Rễ Ma hoàng (Ma hoàng căn) có tác dụng cầm mồ hôi.

Ô DƯỢC

Tên khoa học:RadixLinderaeNguồn gốc:

Vị thuốc là rễ khô của cây Ô dược (Lindera myrha Merr), họ long não (Laraceae).Cây mọc hoang trong các rừng núi nước ta.

Thành phần hoá học chính: Alcaloid, tinh dầu.

Công dụng: Chữa đau bụng đầy hơi, nôn mửa, đau dạ dày.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 2-6g dưới dạng thuốc sắc hay bột.

Ghi chú:Ô dược Trung Quốc (Thiên thai ô dược) là rễ cây Lindera strychnifolia Will. họ

Long não (Lauraceae).

HOÀNG BÁ

Tên khoa học:Cortex PhellodendriNguồn gốc:

Vỏ thân, vỏ cành già đã cạo bỏ lớp bần, phơi khô của cây Hoàng bá(Phellodendron chinense Schneid.), họ Cam (Rutaceae).

Cây được trồng ở một số địa phương nước ta. Dược liệu chủ yếu nhập từ TrungQuốc.Thành phần hoá học chính:

Alcaloid, chủ yếu là berberin.Công dụng:

Chữa đái đục, đại tiện ra máu, mắt đỏ, ù tai, phụ nữ khí hư. Chiết xuất berberin.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-16g dạng thuốc sắc, rượu thuốc.

282