Chương 3hc Phuong Linh
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
0 -
download
0
Transcript of Chương 3hc Phuong Linh
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực
trạng hoạt động quảng cáo trực tuyến đối với các sản phẩm thời
trang (của công ty kinh doanh thời trang)
3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu các vấn đề
- Lập kế hoạch nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm túc và có sự
linh hoạt trong việc thực hiện kế hoạch.
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp ( được thu thập qua quá
trình điều tra mẫu bằng các bảng câu hỏi); dữ liệu thứ cấp (các
kiến thức được học ở trường, thông tin qua sách báo,
Internet....)
- Phân tích dữ liệu qua quá trình thu thập, tổng hợp, so sánh và
đưa ra kết luận.
Nghiên cứu dưới hai góc độ:
1. Hiện nay các sản phẩm thời trang ( hoặc các công ty kinh
doanh thời trang) thực hiện quảng cáo trực tuyến như thế nào?
Hiệu quả đạt được là gì?
2. Nghiên cứu đánh giá của người mua người tìm kiếm thông tin
trực tuyến về hoạt động quảng cáo trực tuyến các sản phẩm (hoặc
của các công ty kinh doanh thời trang)?
3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường
đến việc phát triển quảng cáo trực tuyến với các sản phẩm thời
trang
3.2.1 Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và Internet ở Việt Nam.
Theo thống kê của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam
(VNPT), tính đến cuối tháng 4 vừa qua, số lượng thuê bao Internet
ở Việt Nam đạt trên 150.000 (số thuê bao Internet vào cuối năm
1998 chỉ là 11.000). Trong 3 năm từ 1997-2000, tốc độ tăng số
thuê bao Internets tại Việt Nam đạt bình quân 260%/năm, cao hơn
nhiều mức tăng chung của khu vực châu Á- Thái Bình Dương là
38%/năm. Trung bình mỗi tháng ở Việt Nam có thêm 1.500 thuê bao
Internet mới. Về cơ cấu thuê bao Internet, khối cơ quan hành
chính sự nghiệp hiện chiếm 3%; khối doanh nghiệp nhà nước chiếm
5%; doanh nghiệp tư nhân chiếm 16%; tổ chức nước ngoài chiếm 21%;
cá nhân chiếm 55%. Theo vùng, khu vực miền Nam hiện chiếm 62%
tổng số thuê bao Internet của cả nước; miền Bắc chiếm 33% và miền
Trung chỉ chiếm 5%. Hạ tầng ban đầu có tốc độ 64Kbps khi kết nối
quốc tế, dung lượng chỉ đủ cho khoảng 300 người sử dụng. Khách
hàng đầu tiên là những cán bộ cao cấp của các cơ quan ban ngành,
sử dụng với mục đích là giới thiệu với các cấp lãnh đạo cao hơn
để vận động “mở cửa” cho Internet. Lúc đó, chỉ có một DN cung cấp
hệ thống đường trục kết nối trong nước và quốc tế (IXP) là VNPT
cùng bốn nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là VNPT, FPT, SPT và
Netnam được phép kinh doanh dịch vụ này. Năm 2002, để tạo động
lực cạnh tranh, nhà nước không còn cho phép VNPT độc quyền khai
thác hạ tầng kỹ thuật và cho phép thành lập các IXP khác. Quy
định này đã làm thị trường Internet Việt Nam có sự đột phá mới.
Giá cước ngày càng rẻ. Thủ tục ngày càng đơn giản. Từ một nhà IXP
và bốn ISP thuở ban đầu, đến lúc đó, số lượng nhà kinh doanh dịch
vụ Internet đang hoạt động thực tế trên thị trường gồm có bốn IXP
và tám ISP. “Thời sơ khai” của Internet Việt Nam chỉ có các dịch
vụ cơ bản: thư điện tử, truy cập cơ sở dữ liệu, truyền dữ liệu,
truy nhập từ xa. Thì nay, các loại hình dịch vụ đã rất đa dạng và
phong phú. Năm 2003, với các quyết định cho giảm cước truy cập sử
dụng Internet ngang với các quốc gia trong khu vực, thậm chí có
khung cước còn rẻ hơn, đồng thời cho phép các DN tự mình áp dụng
các chính sách quản lý và ấn định mức cước, số khách hàng thuê
bao của các ISP tăng đột biến. VNPT tăng 258%, SPT - 255%, NetNam
- 227%, Viettel - 184% và FPT - 174%. Tuy nhiên, đến nay chất
lượng dịch vụ vẫn còn là nỗi khổ của khách hàng lẫn nhà cung cấp.
Vấn đề chất lượng chỉ được “cải thiện” bằng thiện chí chăm sóc
khách hàng của các ISP chứ chưa có một cuộc thay đổi toàn diện,
mà điều dễ thấy nhất là ở tốc độ truy cập.
Không thể không nhắc đến một công nghệ mà chính nó đã làm
thị trường Internet ngày càng phát triển mạnh mẽ, đó là: ADSL, ra
đời vào cuối năm 2003 với nhà cung cấp đầu tiên là FPT (dù rằng
VNPT giới thiệu thí điểm công nghệ này trước). Tháng 5/2003, dịch
vụ Internet băng thông rộng, gọi tắt là ADSL, được chính thức
tung ra thị trường cũng ngay từ buổi ban đầu dịch vụ này luôn
trong tình trạng cung không đủ cầu. Các nhà cung cấp lắp đặt cáp
tới đâu, khách hàng đăng ký tới đó. Có nhiều khu vực, dù chưa có
cáp nhưng đã có khách hàng đăng ký “chờ”. Sau năm tháng triển
khai, số khách thuê bao dịch vụ ADSL của VNPT và FPT đã đạt đến
gần 20.000, và sau một năm, số khách thuê bao đã tăng lên đến
71.000. Ban đầu, dịch vụ này chỉ được cung cấp cho người sử dụng
tại Hà Nội và TP.HCM. Đến nay, ADSL đã phủ khắp 64 tỉnh thành, từ
đô thị cho đến các vùng nông thôn với các nhà cung cấp VNPT,
Viettel và EVN. Chính nhờ công nghệ băng thông rộng ADSL ra đời
mà dịch vụ nội dung trên môi trường mạng cũng phong phú hơn thuở
ban đầu rất nhiều. Nhiều dịch vụ cao cấp hơn như VoIP, Wi-Fi, các
dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng (chat, trò chơi trực tuyến,
blog...) ngày càng nhộn nhịp. Nhưng quan trọng hơn là khi băng
thông lớn, tốc độ truy cập nhanh, Internet Việt Nam đã có sự phát
triển đột biến. Bên cạnh các tờ báo điện tử lớn như VietNamNet,
VnExpress,... các trang web thông tin của các báo, DN và cá nhân
đều phát triển rất mạnh. Đây không chỉ là nơi cung cấp thông tin
cho người đọc mà còn là nơi trao đổi kinh nghiệm về nhiều lĩnh
vực trong cuộc sống của con người trong môi trường ảo.
Khi mới kết nối, hạ tầng Internet Việt Nam chỉ có cổng kết
nối đi Mỹ và Úc với băng thông nhỏ, mức dự phòng thấp. Tháng
5/2005, hạ tầng Internet Việt Nam kết nối với quốc tế đã phát
triển đa hướng. Hướng đi quốc tế lên đến 12 hướng qua tám quốc
gia và lãnh thổ có lưu lượng trao đổi Internet lớn gồm Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Malaysia.
3.2.2 Các yếu tố pháp lý
Sau 14 năm kết nối với mạng Internet toàn cầu, đến thời điểm
này, Việt Nam có gần 27 triệu người sử dụng Internet, chiếm 31%
dân số, với hàng trăm nhà cung cấp dịch vụ. Sự phát triển đó
không chỉ góp phần to lớn vào sự vững mạnh chung về mọi mặt của
đất nước, mà còn khẳng định cơ chế mở của Đảng, Nhà nước với loại
hình công nghệ thông tin đặc biệt này. Có thể nói năm 1997 là mốc
đáng nhớ khi chúng ta biến "giấc mơ Internet" của Việt Nam thành
hiện thực bằng việc kết nối mạng toàn cầu. Nhờ những chính sách
đúng đắn, quyết liệt đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin,
đến nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng
Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số các quốc gia có
tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới.
Sự phát triển vượt bậc của Internet tại Việt Nam trong hơn 10 năm
qua là điều dễ nhận thấy. Sự phát triển đó không chỉ thể hiện ở
những con số về tốc độ tăng trưởng, loại hình dịch vụ, số lượng
truy cập mà còn thể hiện qua việc người dân có thể truy cập
Internet ở mọi lúc, mọi nơi. Điều đó, khẳng định sự quan tâm đúng
đắn và một cơ chế mở của Đảng và Nhà nước đối với Internet tại
Việt Nam. Cùng với sự phát triển của Internet, các chế tài, quy
định cũng được sửa đổi để thích nghi với hoàn cảnh xã hội mới.
Quốc hội đã nhóm họp và đưa ra các chỉnh sửa trong luật quảng cáo
trong đó bổ sung các quy định và điều lệ về quảng cáo trên mạng.
Qua đó, thứ 1, đưa ra một bộ khung pháp lý, góp phần định hướng
cho các nhà làm kinh tế trong việc sử dụng Internet như một công
cụ quảng cáo hữu hiệu. Thứ 2, nó giúp cho người tiêu dùng có cơ
sở để tin vào tính xác thực của các sản phẩm được quảng cáo trên
mạng.
Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quảng cáo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, của tổ chức, cá
nhân trong hoạt động quảng cáo, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội; căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992; căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá X, kỳ
họp thứ 8 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2001; ủy
ban thường vụ quốc hội đã đề ra pháp lệnh số 39/2001/PL- UBTVQH10
ngày 16/11 năm 2001 về quảng cáo nói chung và các hình thức quảng
cáo trên Internet nói riêng. Điều này thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước ta đối với các hoạt động quảng cáo trên mạng, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện hình thức quảng cáo
trên mạng đạt hiệu quả cũng như tạo được sự tin tưởng của người
dân.
(Tham khảo trang web www.luatquangcao.com để biết các văn bản
luật cũng như các thông tư, nghị định của Nhà nước ta đối với
việc quảng cáo trên mạng)
3.2.3 Các yếu tố xã hội
Cùng với sự bùng nổ của Internet là sự phát triển về kinh tế,
xã hội, giáo dục. Giờ đây, khái niệm Internet không còn xa lạ đối
với đa số người dân, từ giới trẻ vốn năng động đến các cụ già đã
về hưu. Theo 1 nghiên cứu gần đây nhất : 100% các trường đại học,
viện nghiên cứu, bệnh viện TƯ; 98% số trường trung học; 92% số DN
vừa và nhỏ... đã có Internet. Vai trò của Internet thể hiện điển
hình đối với thế hệ trẻ như học sinh, sinh viên Internet trở
thành công cụ đắc lực trong việc kết nối với thế giới bên ngoài
cũng như hỗ trợ cho việc học tập, tra cứu tài liệu. Hiện, ở Việt
Nam, Internet không chỉ được kết nối tại các công sở, cơ quan Nhà
nước, gia đình mà còn có cả ở những quán bar, nhà hàng, những nơi
vui chơi giải trí, tạo điều kiện cho người dân có thể tiếp cận,
truy cập Internet một cách dễ dàng. Internet ở Việt Nam bây giờ ở
đâu cũng có, gói cước cũng phù hợp với điều kiện của người tiêu
dùng nói chung, sinh viên nói riêng. Internet cũng góp phần giúp
ích cho việc học hành của các bạn trẻ.
Về phía các doanh nghiệp, Internet đã trở thành 1 phần ko thể
thiếu. Tuy nhiên, thực trang ở Việt Nam là 91,9% số DN được khảo
sát không quan tâm đến website; 70% số DN tại TP lớn hầu như
không sử dụng dịch vụ web… Do vậy, hình thức quảng cáo trên
Internet cũng chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm, đồng thời
những người sử dụng Internet cũng chưa lưu tâm nhiều đến các sản
phẩm được quảng cáo qua mạng (đặc biệt đối với các sản phẩm thời
trang người dùng muốn trực tiếp tiếp xúc với sản phẩm và thử vào
người). Còn đối với các doanh nghiệp đang tiến hành quảng cáo
trực tuyến thì họ lại chưa biết cách sử dụng công cụ này cho hiệu
quả. Trên các trang web ngày nay tràn ngập những quảng cáo
Banner, hình ảnh nhấp nháy, đầy màu sắc bắt mắt. Nhưng một vấn đề
có thực là những người điều hành các trang web trên Internet đã
lóa mắt trước cơ hội làm giàu nhanh chóng nhờ tiền quảng cáo, để
rồi thất bại trên chính con đường của mình. Nhiều người tin rằng
quảng cáo trên Internet sẽ tăng vọt và mang lại nhiều doanh thu
nhưng thực tế không phải như vậy. Internet sẽ trở thành phương
tiện truyền thông đầu tiên không bị thống trị bởi quảng cáo. Lý
do cũng thật đơn giản: mạng Internet có tác động tương tác. Trên
Internet, người sử dụng đóng vai trò chủ động chứ không phải
người sở hữu phương tiện truyền thông. Người sử dụng quyết định
họ sẽ đi đâu, xem cái gì, đọc cái gì? Những người sử dụng
Internet coi quảng cáo như một sự đột nhập vào không gian riêng,
một sự xâm phạm vào đời sống riêng tư của họ. Các cuộc khảo sát
cho thấy số lượng người kích con trỏ vào những mục quảng cáo trên
Internet đã và đang giảm xuống một cách đều đặn. Bên cạnh đó nhãn
hiệu trên Internet phải hứng chịu tính hay quên của con người
theo hai cách: Thứ nhất, nhãn hiệu trên Itnernet không xuất hiện
hàng ngày tại những nơi người ta dễ dàng nhìn thấy như trên
đường, siêu thị... Một nhãn hiệu trên Internet không thể xuất
hiện đột ngột trước mặt khách hàng trừ khi họ chủ động mở nó ra.
Thứ hai, một nhãn hiệu trên Internet chịu cảnh thiếu sự yêu
chuộng của khách hàng. Một số người thực sự yêu quý những nhãn
hiệu hàng hóa mà họ sử dụng, nhưng phần đông thì lại không như
vậy. Những thực tế như trên đòi hỏi các nhà làm marketing cần
phải có chiến lược quảng cáo phù hợp với đặc trưng có tính tương
tác của mạng Internet để tiến hành quảng cáo đạt hiệu quả như
mong đợi.
Ngoài ra chúng ta cũng cần phải đề cập tới một số hạn chế như
nguồn nhân lực cho các DN khai thác Internet đang là vấn đề nan
giải trong tình hình chung của ngành công nghệ thông tin hiện
nay. Đội ngũ kỹ thuật viên, lập trình viên có chất lượng luôn là
nỗi khao khát của các nhà khai thác. Bên cạnh đó, một vấn đề đang
làm đau đầu các cơ quan chức năng là chưa tìm ra cách để quản lý
nội dung thông tin trên mạng như hiện tượng blog, tung tin và
hình ảnh phản cảm lên mạng mà thời gian qua làm xôn xao dư luận,
chưa ngăn chặn được những hành vi kinh doanh lậu thẻ điện thoại
Internet trả trước, khai thác trái phép hạ tầng Internet với mục
đích ăn cắp cước viễn thông…
3.3. Kết quả điều tra trắc nghiệm mô hình nghiên cứu
( Questionnaire )
3.3.1 Tỷ lệ các loại quảng cáo trên Internet được người dùng
click vào xem và thới quen sử dụng Internet của người Việt Nam
Kết quả này dựa trên khảo sát ý kiến 1.200 người tuổi trên
15 do Yahoo cùng Công ty nghiên cứu truyền thông TNS công bố ngày
2/4/2010, với bình luận đây là tỷ lệ người xem quảng cáo online
cao nhất Đông Nam Á.Theo đó, thời gian trung bình sử dụng
Internet hàng ngày của người VN đã tăng gần gấp đôi so với năm
2006, từ 22 phút lên 43 phút. Người xem quảng cáo trên tivi cũng
đã giảm 21% so hai năm trước. Truy cập Internet tại nhà đã vượt
trội hơn ở các điểm dịch vụ, chiếm đến 66% số người khảo sát. Tuy
nhiên, giới tuổi teen và người có mức sống thấp vẫn truy cập mạng
ngoài nhà khá nhiều (53%).
Những hoạt động tìm kiếm thông tin trên web rất phổ biến
trong năm qua: 82% số người được khảo sát về xu hướng sử dụng
Internet thường dùng các công cụ tìm kiếm và gần 90% trong số họ
đọc tin tức trên mạng. Ứng dụng chat hiện phổ biến hơn email: 73%
dùng chat trong khi email chiếm 58%. Người dùng Internet thuộc
giới trẻ (từ 15-30 tuổi) chiếm số lượng khá cao, gần 80 %. Trong
đó, nam giới và người độc thân vẫn nhỉnh hơn với tỷ lệ lần lượt
là 56%, 63%.
Tỷ lệ các loại quảng cáo trên Internet được người dùng click vào xem. Nguồn:TNS.
Tuy nhiên, thị trường quảng cáo trực tuyến vẫn bị nhiều
doanh nghiệp bỏ ngỏ. Phân tích của bà Trần Thị Thanh Mai, Tổng
giám đốc TNS, các phương thức truyền thông khác vẫn còn chiếm thế
độc tôn trong thị trường quảng cáo như: truyền hình, báo giấy..
Theo kết quả khảo sát của Yahoo và Công ty nghiên cứu thị trường
Nielsen, tổng doanh thu quảng cáo trực tuyến của VN năm 2008 đạt
mức 2,81 triệu USD và có thể đạt tới 7,8 triệu USD năm 2010.
Trong khi đó, chi phí người dùng đã bỏ ra cho Internet mỗi năm
qua khoảng 410 triệu USD. Điều này cho thấy tỷ lệ khai thác quảng
cáo trực tuyến của các doanh nghiệp vẫn còn khá nhỏ. Chi phí
người tiêu dùng bỏ ra hàng tháng phần lớn vào tay các nhà cung
cấp đường truyền.
Các doanh nghiệp vẫn còn rất nhiều điều cần cân nhắc khi lựa
chọn Internet để đầu tư quảng cáo, bên cạnh đó là sự thiếu thốn
về thông tin cho các đơn vị cần quảng cáo trực tuyến và một
nguyên nhân khác cũng làm hạn chế cho thị trường quảng cáo online
trong nước là đặc tính phân mảnh khá cao của môi trường Internet.
Nếu như dịch vụ truyền hình VN hiện có không quá 100 kênh thì ở
Internet sẽ không thể nào biết được chính xác những nơi người
dùng sẽ đi qua và dừng chân. Tuy nhiên, chắc chắn rằng họ sẽ luôn
bắt đầu từ một số điểm quen thuộc (trang web, dịch vụ online
thường sử dụng).
Bản kết quả khảo sát thói quen sử dụng Internet của người dùng VN. Nguồn: TNS.
Do đó các doanh nghiệp cần tập trung vào điểm bắt đầu của
người sử dụng Internet để nâng cao hiệu quả trong quảng cáo trực
tuyến. Qua đó, các trang web tạo nhiều thông tin và tiện ích sẽ
dễ thu hút nhiều người quay trở lại hơn. Ngoài ra, với điều kiện
hạ tầng viễn thông hiện tại của VN, doanh nghiệp cũng không nên
sử dụng các tín năng ngốn nhiều đường truyền vì sẽ dễ làm người
dùng chán nản do chờ đợi.
3.3.2 Kết quả khảo sát về thói quen và đặc điểm mua sắm trực
tuyến của người tiêu dùng Việt Nam.
Nam mua quần áo qua mạng nhiều hơn nữ, nữ mua đồ điện tử qua
mạng không kém bao nhiêu so với nam, người lướt web nhiều chưa
chắc đã hay mua hàng trực tuyến bằng người xem TV nhiều... Đó là
một số nét có thể rút ra trong kết quả khảo sát về thói quen và
đặc điểm mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng Việt Nam, do ông
Xavier Depouilly – Giám đốc phát triển kinh doanh và dịch vụ
khách hàng của Kantar Media Vietnam - công bố tại Hội thảo quốc
tế thương mại điện tử(TMĐT) Việt Nam 2010. Khảo sát cho thấy giới
trẻ, độ tuổi từ 15 - 24, là lực lượng mua hàng trực tuyến tích
cực nhất. Chia theo tình trạng hôn nhân, những người độc thân có
xu hướng mua sắm qua mạng cao hơn so với những người đã kết hôn.
Về mặt giới tính, cho dù trong từng nhóm hàng có tỷ lệ khác nhau
giữa nam và nữ tham gia mua bán, nhưng mức chênh không đáng kể.
Đáng chú ý là tỷ lệ nam mua quần áo qua mạng nhỉnh hơn hơn nữ (có
lẽ do nữ thích đến tận nơi xem hàng?). Trong khi đó, tỷ lệ nữ mua
DVD, đồ điện tử qua mạng không kém nam là mấy. Nhóm hàng được mua
trực tuyến nhiều nhất là quần áo (35%), vượt xa nhóm kế cận là
giày dép với 14%. Tiếp theo là các nhóm: ĐTDĐ và phụ kiện (12%),
máy tính và/hoặc phụ kiện (8%), sách (7%)…
Người Việt thường có thói quen tận dụng Internet ở công sở
để lướt web, nhưng theo khảo sát của Kantar, lượng truy cập
Internet vào Thứ 7, Chủ nhật không ít hơn so với ngày thường là
bao nhiêu, và thời gian được sử dụng để truy cập Internet nhiều
nhất trong ngày lại vào khoảng từ 19 - 22 giờ chứ không phải vào
ban ngày. Điều này cho thấy đường truyền băng thông rộng kéo đến
từng hộ gia đình phát triển nhanh thời gian gần đây đang hỗ trợ
tích cực cho người dùng gia đình kết nối Internet. Đây được coi
là tiền đề tốt cho việc mua sắm tại gia phát triển trong thời
gian tới. Bên cạnh đó, có lẽ các dịch vụ Internet cũng góp phần
làm tăng lượng người online trong ngày nghỉ, giờ nghỉ.
Thực tế số thuê bao Internet băng thông rộng chưa phải là
cao (trên 3,5 triệu thuê bao, theo số liệu thống kê có đến tháng
10/2010 của VNNIC), nhưng theo báo cáo, có nhiều cách để doanh
nghiệp tiếp cận người mua hàng trực tuyến. Khảo sát cho thấy điện
ảnh và báo chí là 2 kênh có tác động rất lớn đến người mua hàng
trực tuyến. Người mua hàng trực tuyến thường xem TV trên 4 giờ
mỗi ngày, trong khi họ chỉ dùng trên 1 giờ cho việc truy cập
Internet.
Các mạng truyền hình cáp đang phát huy hiệu quả trong việc
đưa hình ảnh sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp tới tận phòng ngủ
của các gia đình ở thành phố. Nhưng khu vực rộng lớn đầy tiềm
năng ở nông thôn thì vẫn chưa với tới được. Đây là nơi để báo
chí, radio và Internet phát huy thế mạnh.
Khảo sát của Kanta đánh giá cao tiềm năng phát triển TMĐT ở
Việt Nam căn cứ trên tỷ lệ 27% dân số truy cập Internet do Trung
tâm Internet Việt Nam (VNNIC) công bố tại thời điểm khảo sát.
Theo thông báo mới nhất của VNNIC, tính đến tháng 10/2010, số
người sử dụng Internet ở Việt Nam đã đạt con số 26 triệu, chiếm
hơn 30% tổng số gần 90 triệu dân của cả nước.
Tuy nhiên, báo cáo cho biết mới chỉ có 5% số người dùng
Internet mua sắm trực tuyến. Đây là một tỷ lệ quá thấp, vì khảo
sát được thực hiện ở các thành phố lớn, và theo báo cáo thì ở khu
vực đô thị đã có đến một nửa (49,8%) số người sử dụng Internet
trong tháng trước. Trong số những người mua hàng qua mạng, có đến
90,8% thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài thói quen mua bán kiểu
“tiền tươi thóc thật” của người Việt và vấn đề an toàn khi thanh
toán trực tuyến, người dùng Việt Nam (cụ thể là khu vực TP.HCM)
vẫn chưa yên tâm với chất lượng hàng hóa và dịch vụ của nhà cung
cấp. Đây là điều các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT
cần lưu ý.
3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên gia ( Interview )
3.4.1 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa mặn mà với quảng cáo trực
tuyến
Gần đây loại hình QCTT có tăng lên nhưng chưa được quan tâm
đúng mức. Sức ảnh hưởng của nó còn hạn chế và doanh nghiệp chưa
xác định được hiệu quả rõ ràng. Việc sử dụng băng thông rộng đang
ngày càng phổ biến có nghĩa là lượng người truy cập Internet tăng
mạnh. Vì thế, quảng cáo trực tuyến được xem là chọn lựa của những
doanh nghiệp chú trọng thương mại điện tử trong việc tạo ra lợi
thế cạnh tranh. Tuy nhiên, không ít đơn vị đến với loại hình này
nhằm thăm dò hơn là đặt niềm tin vào hiệu quả thật sự. (Theo ông
Diệp Khắc Dân, Trưởng phòng kinh doanh Công ty quảng cáo trực
tuyến 24h.com.vn). Thực tế, dạng quảng cáo trực tuyến tại Việt
Nam phổ biến nhất là đặt banner và logo trên các báo điện tử qua
hình thức động hoặc tĩnh. Nhiều hình ảnh trông khá đẹp mắt và
sinh động. Hơn nữa, chi phí rẻ, thời gian hiển thị lâu, tính
tương tác cao nhờ đường dẫn kết nối đến website và thông tin có
thể thay đổi dễ dàng là những yếu tố góp phần làm doanh nghiệp
chú ý và coi là những ưu điểm nổi trội so với quảng cáo trên báo
giấy, truyền hình. Tuy nhiên, việc xác định số người xem quảng
cáo là không rõ ràng vì các báo điện tử tính phí theo hình thức
trả trước, không theo số lần nhấp chuột vào banner, logo. Dù hình
thức quảng cáo trên Internet có độ phủ lớn nhưng người truy cập
chủ yếu vẫn đọc thông tin nhiều hơn. Cũng có khách hàng cho biết
họ tìm thấy thông tin về công ty từ banner đặt trên báo điện tử,
nhưng so với quảng cáo trên truyền hình và báo giấy thì chi phí
dành cho hình thức này ở công ty còn chiếm tỷ lệ rất thấp. Hiện
nay, những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, viễn thông, phát triển thương mại điện tử hoặc những sản
phẩm, dịch vụ hướng đến khách hàng là doanh nhân, cư dân mạng...
quan tâm đến quảng cáo trên Internet nhiều hơn. Hầu hết banner,
logo trên các báo điện tử hiện nay thuộc về ngân hàng, nhà cung
cấp dịch vụ mạng viễn thông, công ty chuyên kinh doanh linh kiện
thiết bị máy tính, thiết bị kỹ thuật số…
Khi chọn đăng ký dịch vụ quảng cáo trên các trang trực tuyến
thì thứ hạng của website, lượng người truy cập, đối tượng của nhà
cung cấp dịch vụ, nội dung, hình thức thông tin, giá cả… là các
tiêu chí rất được chú trọng. Hiện nay, một số doanh nghiệp nắm
bắt được xu hướng tìm kiếm thông tin trên Internet của giới tiêu
dùng hiện đại, đề ra chiến lược cụ thể và lên kế hoạch đầu tư chi
tiết. Tùy vào thời điểm, kế hoạch quảng bá, thị trường mục tiêu
và đối tượng mà sản phẩm, dịch vụ nhằm đến thuộc giới trẻ hay
doanh nhân thành đạt mà các doanh nghiệp chọn lựa nội dung thông
tin hiển thị cũng như website quảng cáo cho phù hợp, họp đồng dài
hạn cũng được quan tâm nếu nhà cung cấp có những ưu đãi về giá cả
hợp lý. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đầu tư mạnh cho website và
việc trao đổi banner, đặt logo với các site khác cũng trở nên phổ
biến. Khi quyết định trao đổi với nhau, nhiều công ty cho rằng
tất cả tiêu chí đòi hỏi phải gần tương đương nhau, đặc biệt là
lượng người truy cập.
Nếu như quảng cáo trên các banner, logo chưa thật sự được
đầu tư mạnh thì hình thức quảng cáo tìm kiếm (search) lại chỉ mới
bắt đầu. Khi người truy cập gõ một từ khóa (keyword) như doanh
nghiệp đã đăng ký trước với nhà cung cấp dịch vụ, lập tức đường
dẫn tới trang quảng cáo đó được hiện lên và mỗi cái click chuột
đến đường link này sẽ được tính phí, ngoài khoản phí cố định.
Hình thức trả tiền theo số lần click chuột (P4P) này là hợp lý
nhưng chưa hẳn là cách mà trang chủ của doanh nghiệp quảng cáo
được quan tâm nhiều hơn. Lý do là quảng cáo thể hiện theo định
dạng của nhà cung cấp dịch vụ không mấy thu hút và người truy cập
có thể click chuột và đóng lại chỉ sau vài giây mà không quan tâm
đến nội dung thông tin hay thậm chí là tên của website.
Quảng cáo dưới hình thức nhà tài trợ (sponsored link) trên
trang tìm kiếm Google đã được một số doanh nghiệp tham gia như
Siêu thị 24, công ty điện thoại Vân Chung, nhà sách Sông Hương...
Theo ông Lê Hồng Minh, Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần
dịch vụ phần mềm trò chơi ViNa: "Ưu điểm của hình thức quảng cáo
trực tuyến này là có thể quảng bá rộng rãi. Tuy nhiên, đây là một
bước thử nghiệm trong quảng cáo và chúng tôi chỉ bắt đầu khoảng 2
tháng nên chưa thể đánh giá được hiệu quả thực sự".
Khác với 2 loại hình trên, hầu hết cá nhân, doanh nghiệp đều
không ngần ngại và dễ dàng chọn một website để quảng cáo rao vặt.
Gần đây việc mua bán hàng qua các khu "chợ ảo" diễn ra rất nhộn
nhịp. Điều này phần nào đã chứng minh sự phổ biến và tăng trưởng
mạnh của loại hình này dù nhiều người cho rằng thông tin rao vặt
không thu hút và tiềm ẩn nhiều vấn đề. Một webmaster của một
website chuyên về mua bán rao vặt cho biết: "So với đầu năm 2005
thì lượng quảng cáo đã tăng lên 40%. Đây là cách thức mà người
mua và người bán gặp nhau thuận tiện và nhanh nhất. Hơn nữa,
quảng cáo rao vặt hoàn toàn miễn phí cũng chính là yếu tố khiến
giới mua bán hàng cũng như các cư dân mạng ngày càng ưa chuộng”
3.4.2 Quảng cáo trực tuyến ở Việt Nam sẽ làm nên một cuộc “cách
mạng mới
Internet xuất hiện ở Việt Nam chưa tới 10 năm, nhưng tỷ lệ
người dân Việt Nam sử dụng gia tăng rất nhanh với tốc độ tăng
trưởng được đánh giá là không kém, nếu không nói có phần hơn so
với một số quốc gia phát triển. Theo số liệu của Trung tâm
Internet Việt Nam (VNNIC), tính đến tháng 5/2007, số người sử
dụng Internet là chiếm tỷ lệ 19,46% trên tổng dân số Việt Nam,
tổng số tên miền .vn tính hết tháng 5/2007 đạt con số 42.470,
tăng 1.476 tên miền chỉ trong vòng một tháng, tăng gần 16 lần so
với tháng 5/2003 (2.746 tên miền) - thời điểm Việt Nam triển khai
dịch vụ Internet băng thông rộng ADSL và Internet không dây. Với
tốc độ phát triển của Internet như hiện nay, Quảng cáo trực tuyến
- loại hình quảng cáo từng được giới chuyên gia toàn cầu đánh giá
là đầy tiềm năng – đang bứt phá mạnh mẽ. Những vụ “shopping” liên
tiếp của các đại gia công nghệ trong thời gian gần đây như Google
mua DoubleClick giá 3,1 tỷ USD, hay Microsoft thâu tóm aQuantive
với mức giá kỷ lục 6 tỷ USD, đã báo hiệu một năm sôi động cho thị
trường quảng cáo trực tuyến thế giới. Còn ở Việt Nam, theo một số
đánh giá không chính thức, thì doanh thu của thị trường này trong
năm 2006 là 64 tỷ VNĐ và trong những năm tới sẽ tăng trưởng 100%
để đạt tới con số 500 tỷ VNĐ vào năm 2010. Tại một thị trường mới
mẻ và phát triển nhanh như Việt Nam, các nhà chuyên gia đều khẳng
định rằng quảng cáo trực tuyến sẽ làm nên một cuộc “cách mạng
mới” từ năm 2007. Thị trường lớn, nhu cầu quảng cáo lớn, nhưng
cho đến nay số lượng công ty chuyên về quảng cáo trực tuyến trong
nước chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một số chuyên gia đã lo ngại rằng
với sự có mặt của các “đại gia” nước ngoài như Yahoo, “miếng bánh
lớn” sẽ lại rơi vào tay các nhà kinh doanh ngoại quốc.Nhưng có
một tín hiệu đáng mừng là các công ty Việt Nam đã sẵn sàng cho
cuộc chơi lớn. Điển hình như Công ty cổ phần quảng cáo trực tuyến
24H. Công ty đã triển khai hàng loạt website như 24h.com.vn,
eva.vn, xem.com.vn – cùng với bản hợp đồng độc quyền khai thác
quảng cáo trên báo điện tử VietNamNet. Chỉ sau 3 năm hoạt động hệ
thống website của công ty này đã có được lượt truy cập trung bình
là hơn 10 triệu/ngày và số máy chủ lên tới 30 chiếc được đặt ở cả
3 miền Bắc – Trung - Nam.Từ tháng 5/2007, riêng website
24h.com.vn của Công ty này đã có số lượt truy cập vượt qua Yahoo!
chat tại Việt Nam. 24h cũng tự tin rằng với việc thấu hiểu tâm lý
người Việt Nam và lại đàn sở hữu hệ thống website hàng đầu Việt
Nam, Yahoo! sẽ bị Công ty cổ phần quảng cáo trực tuyến 24H bỏ xa
trong tương lai không xa. Sự tự tin của các doanh nghiệp Việt Nam
khiến chúng ta có thêm niềm tin vào tài năng của doanh nhân Việt,
chuyên gia Việt, trong sân chơi lớn WTO.
Đặc biệt, với các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành thời
trang, việc xây dựng website và quảng cáo sản phẩm của mình qua
kênh này là thực sự cần thiết. Ông Lê Đăng Doanh- chuyên gia kinh
tế cao cấp của Bộ Kế hoạch đầu tư đã nhận định “Nhờ website, các
doanh nghiệp không cần thuê nhà mặt tiền vẫn giới thiệu sản phẩm
đến đông đảo người tiêu dùng. Những đơn vị nhỏ có thể có nhiều
đơn hàng không kém các tên tuổi lớn” Ông Doanh dẫn khá nhiều minh
chứng thực tế. Hiện nay, 80% doanh nghiệp may mặc, da giày của
Việt Nam lập website và khoảng 30% hợp đồng của các đơn vị này
được ký kết qua kênh này. Hình thức thông tin qua trang web cũng
giúp một số doanh nghiệp may mặc tư nhân ở Hàng Gai (Hà Nội) may
đo, bán áo dài cho khách ở nhiều nơi, nhiều nước và những sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, như gốm Bát Tràng, chào hàng ra thế giới.
Nếu không có website thì những doanh nghiệp này khó có thời gian,
công sức và tiền bạc quảng bá sản phẩm xa rộng, đáp ứng được nhu
cầu người tiêu dùng như thế”. Chuyên gia kinh tế này bàn thêm
rằng, không nên nhìn nhận website, thương mại điện tử đơn thuần
là kỹ thuật, vì nó có thể mang đến những quyền lợi kinh tế, xã
hội thiết thực. Doanh nghiệp xác định kinh doanh lâu dài mới lập
website. Hàng nhái, hàng vi phạm bản quyền được đưa lên các trang
web sẽ dễ bị khách hàng phát hiện. Trên thực tế, hình thức thương
mại này khắc phục được cách làm chụp giật, không giữ chữ tín, góp
phần chấm dứt hoạt động lừa đảo, vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ
và thể hiện chủ trương xây dựng chiến lược làm ăn lâu dài, coi
trọng khách hàng, tôn trong luật pháp của doanh nghiệp...Có cùng
quan điểm trên, ông Hoàng Quốc Lập, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo
quốc gia về CNTT, cho rằng nếu doanh nghiệp tăng cường ứng dụng
CNTT, chuẩn bị sớm giải pháp hỗ trợ cho mọi hoạt động, họ sẽ có
nhiều thuận lợi trong làm ăn thời hội nhập kinh tế thế giới. Còn
chuẩn bị muộn thì cơ hội có thể thành thách thức lớn. Các đơn vị
nên chuẩn bị tinh thần: không phải cạnh tranh với hàng xóm mà là
những người ở đâu đó trên toàn cầu. Để xóa đi ranh giới về địa
lý, thời gian, tự tạo cơ hội cho mình, doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nước cần lập website và tận dụng công cụ này. Trong thời
hội nhập kinh tế toàn cầu, quy mô không thắng được tốc độ. Doanh
nghiệp lớn hay nhỏ đều có cơ hội như nhau. Các doanh nghiệp cần
lập website, tăng cường ứng dụng CNTT, để có thể đưa ra quyết
định nhanh nhất, chớp cơ hội cho mình.
3.5. Kết quả phân tích dữ liệu thứ cấp
Thưa cô, phần này chúng em hiểu là sẽ đưa ra những kết luận của
mình qua quá trình tìm kiếm và phân tích các dữ liệu thứ cấp,
nhưng nếu viết như thế thì em sợ là sẽ trùng với mục 1 của chương
4 là “các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu”. Vậy phần này
chúng em nên làm thế nào ạ?
Ở chương 2 phần 2.4.1 Thực trạng, đặc điểm ngành thời trang ở
nước ta và sự cần thiết của quảng cáo trực tuyến đối với các sản
phẩm thời trang cô có nhắc chúng em là nên để ở chương 3 vậy thì
em cho phần đó xuống mục 3.5 này có phù hợp không ạ?
Chúng em rất cảm ơn cô đã dành thời gian sửa bài cho chúng em ạ.