Thông tin Khoa hoc (Số 10 - năm 2019).pdf
-
Upload
khangminh22 -
Category
Documents
-
view
1 -
download
0
Transcript of Thông tin Khoa hoc (Số 10 - năm 2019).pdf
Trang 1
THÔNG TIN THÁNG 5 NĂM 2019 KHOA HỌC VÀ RÈN LUYỆN NGHỀ
MỤC LỤC Trang
PHẦN MỘT - KHOA HỌC QUẢN LÝ, KHOA HỌC CƠ BẢN VÀ SƯ PHẠM ỨNG DỤNG
1 Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt định hướng đào tạo sinh viên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới
1
2 Giải pháp khắc phục tình trạng bỏ học và nghỉ tiết học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt Vươ g Đă g D ễ
6
3 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên theo hướng phát triển năng lực người học tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt Ng yễ T ị Yế
13
4
Thực trạng và giải pháp về việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo - hệ cao đẳng Mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra Trầ T ị ồ g Vâ
20
5 Văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt Ng yễ Vă T ườ g - Ng yễ Ngọc D y
24
6 Vài trao đổi về hoạt động tạo hứng thú trong giờ học Tiếng Anh thí điểm ở bậc học Mầm non Ng yễ T ị T a ươ g
32
7 Bàn về giá trị của kiểu nhân vật cuồng si trong sáng tác Honoré de Balzac Trầ T ị Đa D y
39
8 Những khả năng ứng dụng thực tiễn của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ Trầ T ị Mộ g Đà
47
9 Nông nghiệp hữu cơ, hướng phát triển bền vững của nông nghiệp Lâm Đồng trong tương lai P a T ị ồ g am
50
10 Tie p ca n Stem trong da y ho c mo n khoa ho c cho ho c sinh lơ p Trầ T ị m
55
11 Công xã Paris (1871) và Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) qua tác phẩm “Đường cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc Trươ g T ị T T
62
12 Đo i mơ i phương pha p da y ho c Toa n lơ p 1 theo đi nh hươ ng đo i mơ i chương tr nh Sa ch gia o khoa pho tho ng V âm
68
13 Tính mộc mạc, dân dã trong Văn chương – Nghệ thuật Nam bộ ữ T ị T ư
76
Trang 2
14 Xây dựng chuyên đề “ Mô hình giáo dục Reggio emilia” trong đào tạo giáo viên Mầm non ù T ị Tố Tâm - Ng yễ T ị Q Trâm
82
15 Dạy bài đọc hiểu ở trường THCS theo định hướng phát triển năng lực cho người học Ng yễ T ị T ư Dươ g
90
16 Phát triển mô hình câu lạc bộ , đội , nhóm sinh viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt V T ùy Dươ g
94
17
Một số định hướng trong đào tạo sinh viên Tiểu học đáp ứng đổi mới của môn Thủ công – Kĩ thuật theo chương trình Giáo dục Phổ thông tổng thể Trầ T ị T a yề
101
18 Tích hợp nội dung biến đổi khí hậu vào giảng dạy môn Địa lí ở bậc Tiểu học trên địa bàn thành phố Đà Lạt ồ T ị ề
107
19 Rèn luyện năng lực nghề nghiệp cho sinh viên Sư phạm ngành Mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới Giáo dục Mầm non P ạm T ị T ùy Tra g
113
20 Địa danh trong thơ Lí Bạch V yề P ươ g
119
21 Dạy cho Sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm cách học T a Á a
125
22 Cảm nhận của sinh viên sư phạm Tiếng Anh K 3 trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt về học tập chuyên đề kĩ năng mềm Ng yễ T ị N ư T úy
133
23
Kĩ năng thích ứng – nhân tố giải quyết khó khăn trong quá trình Thực tập sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt P a ữ ộc
140
24 Định hướng phát triển chương trình đào tạo giáo viên mầm non song ngữ đáp ứng nhu cầu xã hội Ng yễ T ị Q Trâm
143
25
Cập nhật, điều chỉnh Chuẩn đầu ra Ngành Mầm Non Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt theo Thông Tư 26/2018/TT-BGDĐT nhằm bắt nhịp với khung năng lực giáo viên Mầm non khu vực Đông Nam Á N âm T ị ồ g
154
26 Một số gợi ý tìm ý tưởng để viết bài luận bằng Tiếng Anh Ng yễ T ị Ma Trâm
160
27 Gắn lý luận với thực tiễn – Vấn đề quan trọng trong giảng dạy học phần Đường lối Cách mạng của Đảng cộng Sản Việt Nam hiện nay ê T ị
165
28 Trò chơi nhỏ cho thiếu nhi, học sinh trường Tiểu học và trường Trung học Cơ sở
171
Trang 3
P ạm Ngọc út
29 Vận dụng mô hình học tập qua dự án trong tổ chức hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm Trầ T ị ồ g
178
30 Phương pháp dạy - học Kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Cơ-ho thuộc chương trình Ngữ văn địa phương tỉnh Lâm Đồng Đàm T ị T ắm
187
31 Sử dụng trò chơi ngôn ngữ hiệu quả trong giờ dạy Tiếng Anh Ng yễ Đức P ươ g
195
PHẦN HAI - TRAO ĐỔI THÔNG TIN
32 Nâng cao chất lượng hoạt động Câu lạc lộ Tiếng Anh tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt V N ật
201
33 Kinh doanh đa cấp dưới cái nhìn Toán học Ng yễ T ị Mỹ ạ
204
PHẦN BA - PHỤ LỤC ẢNH
Trang 4
TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM ĐÀ LẠT ĐỊNH HƢỚNG ĐÀO TẠO SINH
VIÊN ĐÁP ỨNG CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
Huỳnh Linh Bảo*
1. Đặt vấn đề
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo
chuẩn bị và triển khai từ rất sớm, ngay sau Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) và
nhất là từ khi có Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
Để xây dựng dự thảo Chương trình tổng thể, Bộ GD&ĐT đã tiến hành tổng kết,
đánh giá chương trình và sách giáo khoa hiện hành để xác định rõ những ưu điểm cần
kế thừa, phát huy và các hạn chế, bất cập cần khắc phục; nghiên cứu kinh nghiệm của
các nước có nền giáo dục phát triển, tìm ra những đặc điểm và yêu cầu cần chú ý trong
việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa mới; đồng thời tổ chức nhiều
hội thảo về kinh nghiệm xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông, triển khai thực
nghiệm một số định hướng đổi mới với điều kiện thực tế giáo dục Việt Nam. Đồng
thời với việc ban hành các đề án, kế hoạch có liên quan, Bộ GD&ĐT đã ban hành
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 về việc ban hành chương trình
giáo dục phổ thông mới, trong đó yêu cầu các Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT, các cơ
sở đào tạo giáo viên và các cơ sở giáo dục phổ thông tiếp tục chỉ đạo triển khai thực
hiện Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2017 của Bộ GD&ĐT hướng
dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển
năng lực và phẩm chất học sinh, đồng thời chỉ đạo các trường, giáo viên chủ động
nghiên cứu, áp dụng những vấn đề mới theo chương trình giáo dục phổ thông mới
sao cho phù hợp quy định và đạt hiệu quả tích cực.
Trên cơ sở đó, trường CĐSP Đà Lạt xác định nhiệm vụ, vai trò của nhà trường
và giảng viên trong việc đào tạo sinh viên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông
mới trong thời gian tới.
2. Một số định hƣớng
Từ tháng 8/2015, Bộ GD&ĐT đã ban hành dự thảo Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể, trong đó nói rõ: Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu
giáo dục phổ thông; quy định yêu cầu cần đạt đối với học sinh; phạm vi và cấu trúc nội
dung giáo dục phổ thông; phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục; cách
* Bí thư Đảng ủy - Hiệu trưởng
Trang 5
thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học, chuyên đề học tập và hoạt động
trải nghiệm ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.
Như vậy, Bộ GD&ĐT đã định hướng cho các trường sư phạm, các cơ sở giáo
dục phổ thông một cách cụ thể đối với từng chương trình môn học như xác định vị trí,
vai trò môn học trong thực hiện mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; mục tiêu
và yêu cầu cần đạt của môn học ở mỗi lớp hoặc cấp học; nội dung giáo dục cốt lõi (bắt
buộc) ở từng cấp học; kế hoạch dạy học môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học; định
hướng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập
của học sinh trong từng môn học.
Trong đó đặc biệt chú trọng đến một số nội dung có nhiều thay đổi trong cách
tiếp cận, triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới như: Chuyên đề học tập tự
chọn; dạy học phân hoá; dạy học tích hợp; hoạt động trải nghiệm; môn học bắt buộc;
môn học tự chọn, tài liệu hướng dẫn dạy học…
Khi nghiên cứu các văn bản hướng dẫn tập huấn chương trình GDPT mới cho
thấy Bộ GD&ĐT có định hướng rất rõ ràng về những vấn đề cần lưu ý khi thay sách
trong tổng thể chương trình: số môn dạy trong cấp học, số tiết dạy/mônhọc/học
kỳ/năm học, môn bắt buộc, môn tự chọn, môn mới đưa vào; lưu ý về phương pháp,
phương tiện dạy học, kiểm tra đánh giá học sinh…
Do đó, để có cơ sở lập kế hoạch đào tạo sinh viên (kể cả bồi dưỡng đội ngũ
CBQL, giáo viên phổ thông), Trường CĐSP Đà Lạt, các Khoa chuyên môn, phòng
Đào tạo phải nghiên cứu kỹ các văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT
đối với chương trình thay sách giáo khoa phổ thông, trên cơ sở nắm vững các chủ
trương, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT và tình hình thực tế của đội ngũ giáo viên các
trường MN, TH, THCS trên địa bàn để tham mưu lập kế hoạch đào tạo sinh viên, bồi
dưỡng giáo viên MN-TH-THCS nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Trong đó, chú ý một số công tác hoạt động trọng tâm sau:
2.1. Các phòng, khoa chuyên môn rà soát lại toàn bộ chương trình đào tạo các ngành
học. Trong đó chú ý nội dung các môn học bắt buộc, môn học tự chọn, hoạt động giáo
dục bắt buộc (hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp), nội dung giáo dục của địa phương.
Các khoa, tổ chuyên môn quán triệt triển khai các văn bản hướng dẫn chỉ đạo
của ngành đến giảng viên đối với các môn học mà khoa phụ trách, từ đó giảng viên
nghiên cứu trao đổi thảo luận các nội dung cần có sự bổ sung, điều chỉnh.
Trên cơ sở chương trình khung và chương trình chi tiết trường CĐSP đã thực
hiện, các phòng khoa chuyên môn tiến hành bổ sung điều chỉnh, cập nhật chương trình
cho phù hợp yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Khuyến khích cán bộ
giảng viên tự nghiên cứu nội dung bồi dưỡng chương trình giáo dục phổ thông mới do
Bộ GD&ĐT hướng dẫn triển khai, đồng thời tăng cường năng lực giảng dạy, hướng
dẫn bồi dưỡng của giảng viên CĐSP đối với giáo viên MN-TH-THCS.
Trang 6
2.2. Cán bộ giảng dạy phải tích cực tham gia tập huấn đầy đủ và có chất lượng các buổi
tập huấn do Bộ GD&ĐT và các cấp quản lý giáo dục tổ chức. Tham gia sinh hoạt
chuyên môn cấp khoa trường, tự bồi dưỡng và chủ động trao đổi các vấn đề chuyên
môn, nghiệp vụ thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới với đồng nghiệp, kể cả
đối với giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy ở các cơ sở giáo dục. Chủ động xây dựng kế
hoạch cá nhân, thực hiện dạy học và kiểm tra đánh giá sinh viên theo định hướng phát
triển năng lực. Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, hình thức dạy học và kiểm
tra, đánh giá nhằm thực hiện dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực
sinh viên. Trong quá trình dạy học, trao đổi, giảng viên giúp sinh viên phát hiện những
thuận lợi, khó khăn và đề xuất những biện pháp giải quyết khó khăn về chuyên môn,
nghiệp vụ khi ra trường tham gia dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới.
2.3. Đối với giảng viên giảng dạy chuyên ngành, trong quá trình lên lớp, phải hết sức
lưu ý sinh viên định hướng của Bộ GD&ĐT đối với các nội dung kiến thức được lựa
chọn giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá đối với từng môn học, cấp học.
Trong đó chú trọng việc đánh giá kết quả giáo dục, việc đánh giá hoạt động học của
học sinh phải bám sát mục tiêu và nội dung dạy học của chương trình, dựa trên yêu
cầu cần đạt đối với các kiến thức, kỹ năng ở từng cấp lớp. Nội dung và hình thức kiểm
tra đánh giá cần bám sát mục tiêu dạy học, có tính đến những thay đổi trong mục tiêu
từng cấp học; phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối
kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của
nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.
2.4. Đối với giảng viên dạy phương pháp, cần phải nghiên cứu kỹ các hướng dẫn định
hướng của Bộ GD&ĐT trong chương trình thay sách để hướng dẫn cho sinh viên, nhất
là sinh viên năm thứ 3 sắp ra trường - biết được các nội dung chương trình thay sách:
Từ môn học (môn nào bắt buộc, môn nào tự chọn, môn nào dạy tích hợp, môn nào mới
được đưa vào; số lượng môn học, thời lượng mỗi môn/học kỳ/năm học; định hướng
nội dung giảng dạy, phương pháp, phương tiện giảng dạy, cách kiểm tra đánh giá học
sinh có chú ý đến phát triển năng lực người học… để giúp sinh viên có cái nhìn tổng
quát về môn học, cấp học để có sự chuẩn bị tốt nhất về kiến thức, phương pháp, kĩ
năng dạy học, giáo dục khi ra trường tham gia giảng dạy. Đồng thời hướng dẫn sinh
viên khi ra trường phải vận dụng phương pháp dạy-học theo định hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tập trung dạy cách học và rèn luyện năng
lực tự học, tạo cơ sở để học tập suốt đời, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,
phát triển năng lực; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; vận
dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với
mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của mỗi cơ sở
giáo dục phổ thông.
Trang 7
2.5. Nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo sinh viên và kế hoạch bồi dưỡng cán bộ
quản lý giáo viên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới, tổ chức triển khai thực
hiện kế hoạch đào tạo bồi dưỡng giáo dục theo kế hoạch được duyệt. Chuẩn bị đầy đủ
các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, thiết bị và thời gian để giáo viên, CBQL
tham gia có chất lượng các hoạt động đào tạo bồi dưỡng; tổ chức sơ kết, tổng kết,
đánh giá, rút kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng của đơn vị.
Xây dựng bổ sung, phát triển Chương trình Bồi dưỡng Cán bộ Quản lí giáo dục
trường phổ thông ban hành kèm theo Quyết định 382/QĐ/BGDĐT ngày 20/01/2012
của Bộ GD&ĐT theo hướng tiếp cận, đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới
và đáp ứng Chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Thông tư
14/2018/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Bộ GD&ĐT. Trong đó chú trọng
tham mưu Sở GD&ĐT Lâm Đồng xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng lại cho đội
ngũ làm Cán bộ Quản lí các cơ sở giáo dục MN, TH, THCS chưa được tham gia
chương trình Bồi dưỡng CBQL theo Quyết định 382/QĐ/BGDĐT của Bộ GD&ĐT.
Tăng cường mối quan hệ hợp tác trao đổi chuyên môn, học tập kinh nghiệm về
công tác đào tạo bồi dưỡng theo chương trình giáo dục phổ thông mới với các trường
Đại học, Cao đẳng sư phạm trong toàn quốc. Đồng thời tăng cường mối quan hệ công
tác phối hợp với các phòng chuyên môn thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh cũng như
các Phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thành phố trong tỉnh để làm tốt công tác
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, quản lý cho đội ngũ các cơ sở giáo dục.
3. Kết luận
Chương trình giáo dục phổ thông mới xác định vị trí, vai trò môn học và hoạt
động giáo dục trong thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, mục tiêu và yêu cầu cần
đạt, nội dung giáo dục cốt lõi của môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp học/cấp
học, định hướng kế hoạch dạy học môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp/cấp học,
phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục của môn học và
hoạt động giáo dục, điều kiện thực hiện chương trình giáo dục phổ thông. Vì vậy các
cơ sở đào tạo phải có kế hoạch chủ động tham gia ngay từ đầu để đảm bảo hiệu quả
đào tạo đối với sinh viên và hiệu quả bồi dưỡng đối với cán bộ quản lý, giáo viên các
cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới
mà ngành giáo dục, các địa phương đang tích cực triển khai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 Ban hành
chương trình giáo dục phổ thông mới.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu Hội nghị triển khai chương trình giáo dục phổ
thông mới - 01/2019.
Trang 8
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo - TB 05/TB-BGDĐT ngày 03/01/2019, Thông báo kết luận
của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ về đổi mới công tác tập huấn/bồi dưỡng giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo - CV 344/BGDĐT-GDTrH ngày 24/01/2019, Hướng dẫn
triển khai Chương trình giáo dục phổ thông.
Trang 9
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ HỌC VÀ NGHỈ TIẾT HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM ĐÀ LẠT
Vương Đăng Diễn*
1. Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề được nhà trường quan tâm nhiều trong những năm qua
chưa được khắc phục, đó là tình trạng sinh viên (SV) bỏ học không tiếp tục theo học
tại trường và nghỉ tiết học trên lớp quá nhiều. Theo thống kế của phòng Tổ chức cán
bộ - Công tác sinh viên chỉ tính từ đầu năm học 2018-2019 đến nay đã có 137 sinh
viên bỏ học, theo số liệu báo cáo của các khoa chỉ tính trong tháng 12/2018 số sinh
viên nghỉ tiết học là 1.085 tiết, trong đó có 735 tiết không phép. Mặc dù nhà trường đã
có nhiều biện pháp giáo dục nhưng đến nay vẫn chưa có có dấu hiệu khả quan.
Để tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng trên chúng tôi tiến hành khảo sát đối
với 188 sinh viên của ba khoa Tiểu học – Mầm non, Xã hội và Tự nhiên; năm thứ
nhất: 50 SV, năm thứ hai 138 SV.
2. Nguyên nhân bỏ học và nghỉ tiết học của sinh viên trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm
Đà Lạt
2.1. Động cơ vào học Trường CĐSP Đà Lạt của sinh viên
Để tìm hiểu việc bỏ học và nghỉ tiết học có liên quan đến vấn đề chọn nghề của
sinh viên hay không chúng tôi sử dụng câu hỏi “Em đăng ký vào học ở trường CĐSP
Đà Lạt vì lý do gì?”
Kết quả điều tra được chúng tôi thống kê ở bảng 1.
STT Động cơ chọn nghề của sinh viên Số
lƣợng
Tỷ lệ
(%)
1 Nghề dạy học phù hợp với sở thích và năng lực của em 134 71,28
2 Nghề có điều kiện dạy dỗ con cái và chăm sóc gia đình sau
này 95 50,53
3 Chọn nghề dạy học theo ý thích của bố mẹ và theo bạn bè 72 38,30
4 Nghề được xã hội tôn trọng 38 20,21
5 Không đủ điểm vào trường khác 36 19,15
6 Lý do khác 26 13,83
Bảng 1. Động cơ chọn nghề của sinh viên Trường CĐSP Đà Lạt
Kết quả khảo sát ở bảng 1 cho thấy, phần lớn SV chọn nghề dạy học phù hợp
với sở thích và năng lực của mình và chọn một cách tự giác, cụ thể có 134/188 SV
(71,28%). Điều đó chứng tỏ rằng các em biết xác định sự phù hợp giữa sở thích, năng
lực và các yêu cầu của nghề dạy học, các em nhận thức được rằng chọn nghề tức là
* Trưởng phòng TCCB-CTSV
Trang 10
chọn cho mình một cuộc sống trong tương lai. Xếp thứ hai là vì “Nghề có điều kiện
dạy dỗ con cái và chăm sóc gia đình sau này” có 95/188 SV (50,53%); tiếp theo là
chọn nghề theo ý tích của bố mẹ và theo bạn bè, có 72/188 SV (38,30%); trong khi đó
chỉ có 38/188 SV chọn là nghề được xã hội tôn trọng. Điều này cho thấy một bộ phận
sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về giá trị xã hội của nghề dạy học.
Với những kết quả khảo sát ở bảng 1 cho thấy giữa động cơ chọn nghề của sinh
viên và tình trạng bỏ học, bỏ tiết học không có liên quan gì với nhau.
Vậy, nguyên nhân là do đâu?
2.2. Nguyên nhân bỏ học và nghỉ tiết học của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
2.2.1. Nguyên nhân sinh viên bỏ học (không tiếp tục theo học) tại trường CĐSP Đà Lạt
Để tìm hiểu nguyên nhân SV bỏ học, chúng tôi sử dụng câu hỏi “Bạn hãy cho
biết lý do các bạn sinh viên bỏ học (không tiếp tục theo học) tại trường CĐSP Đà Lạt”.
Kết quả khảo sát được thống kê ở bảng 2.
STT Nguyên nhân sinh viên bỏ học Số
lƣợng
Tỷ lệ
(%)
1 Sau một thời gian học, thấy không phù hợp với ngành đã
chọn 137 72,87
2 Bỏ học để tiếp tục ôn thi vào trường khác trong năm sau 78 41.49
3 Sau này tốt nghiệp khó kiếm được việc làm 73 38,83
4 Năng lực học tập yếu, không có khả năng hoàn thành
chương trình 58 30,85
5 Giảng viên quá khắt khe trong việc thực hiện nội quy trên
lớp và đánh giá kết quả học tập 16 8,51
6 Lý do khác 10 5,32
Bảng 2. Nguyên nhân sinh viên bỏ học (không tiếp tục theo học) tại trường CĐSP Đà Lạt
Qua kết quả khảo sát cho thấy phần lớn ý kiến cho rằng những SV bỏ học là do
sau một thời gian học tập tại trường nhận thấy mình không phù hợp với ngành nghề đã
chọn, cụ thể có 137 ý kiến/188 SV (72,87%). Qua trò chuyện với một số sinh viên
trong lớp, các em cho biết phần lớn các bạn này khi đăng ký vào học ở trường là do ý
thích của bố mẹ, do không đủ điểm vào các trường khác, do chưa nhận thức đầy đủ về
những yêu cầu của nghề dạy học hặc do hoàn cảnh gia đình… Nguyên nhân thứ hai là
“Bỏ học để tiếp tục ôn thi vào trường khác trong năm sau”, có 78 ý kiến/188 SV
(41,49%). Điều này là phù hợp bởi vì: mỗi cá nhân chỉ thực sự gắn bó lâu dài với nghề
khi có tình yêu nghề và năng lực phù hợp với nghề. Nguyên nhân thứ ba là do “Năng
lực học tập yếu, không có khả năng hoàn thành chương trình”, có 58 ý kiến/ 188 SV
(30,85%), trong 58 ý kiến này có 12 ý kiến của sinh viên lớp Toán – Tin, khóa 42.
Theo chúng tôi đây là nguyên nhân hợp lý, bởi điểm chuẩn đầu vào của lớp Toán – Tin
và lớp Văn, khóa 42 là rất thấp nên trong quá trình học các em không có khả năng
Trang 11
hoàn thành chương trình học, đặc biệt là các học phần chuyên ngành. Ngoài ra có một
số ít sinh viên cho rằng nguyên nhân là do “giảng viên quá khắt khe trong việc thực
hiện nội quy trên lớp và đánh giá kết quả học tập”, có 16 ý kiến (8,51%). Vấn đề đặt ra
mà chúng ta cần quan tâm là làm thế nào để các em khi vào trường các em chưa thích
nghề, chưa phù hợp nghề mà trong quá trình đào tạo: Bằng những hoạt động giáo dục
của nhà trường, qua các giờ học giảng viên giúp cho các em có hứng thú với nghề và
dần dần phù hợp với nghề là điều quan trọng của một trường sư phạm.
2.2.1. Nguyên nhân sinh viên nghỉ tiết học trên lớp
Theo kết quả khảo sát ở bảng 3 cho thấy có nhiều nguyên nhân khiến sinh viên
không thích một số tiết học của một số học phần.
Nguyên nhân chính là do sinh viên nghỉ học để đi làm thêm ban ngày hoặc do
đi làm thêm ban đêm về khuya bị mệt nên ngày hôm sau không đi học, cụ thể có 101 ý
kiến (53,72%); nguyên nhân thứ hai là do “Phương pháp giảng dạy của giảng viên
không hấp dẫn”, có 69 ý kiến (36,70%); nguyên nhân thứ ba là do “Kiến thức giảng
viên cung cấp không có gì khác trong giáo trình, tài liệu tham khảo”, có 38 ý kiến
(20,21%); Nguyên nhân thứ tư “Giảng viên chỉ giảng lý thuyết, thiếu liên hệ với thực
tiễn” có 34 ý kiến (18,09%) và nguyên nhân thứ năm “Giảng viên dễ dãi trong việc
kiểm tra chuyên cần của sinh viên” có 27 ý kiến (14,36%); còn một nguyên nhân là do
một số sinh viên lười học, không thích lên lớp.
STT Nguyên nhân sinh viên nghỉ tiết học trên lớp Số
lƣợng
Tỷ lệ
(%)
1 Các bạn phải đi làm thêm để có tiền trang trải cuộc sống
của mình; 101 53,72
2 Phương pháp giảng dạy của giảng viên không hấp dẫn; 69 36,70
3 Kiến thức giảng viên cung cấp không có gì khác trong
giáo trình; 38 20,21
4 Giảng viên chỉ giảng lý thuyết, thiếu liên hệ với thực
tiễn; 34 18,09
5 Giảng viên dễ dãi trong việc kiểm tra chuyên cần của
sinh viên; 27 14,36
6 Lý do khác 25 13,30
Bảng 3. Nguyên nhân sinh viên nghỉ các tiết học trên lớp
Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ tiết học trên lớp, trong đó
có những nguyên nhân chủ quan từ phía sinh viên, các em chưa biết sắp xếp thời gian
hợp lý cho việc học và đi làm thêm của mình, có nghĩa là các em chưa có kỹ năng
quản lý thời gian. Vì vậy, cần phải trang bị cho các em kỹ năng quản lý thời gian.
Nguyên nhân khách quan là từ phía giảng viên, nếu bài giảng không hấp dẫn, những
kiến thức mà giảng viên cung cấp không có tính cập nhật, thiếu tính thực tiễn, không
Trang 12
khác gì trong giáo trình, tài liệu các em đã đọc thì giờ học trên lớp các em sẽ cảm thấy
chán, không bổ ích mất thời gian. Điều hấp dẫn các em trong các giờ lên lớp ở chỗ là
được hợp tác, trao đổi, chia sẻ với bàn bè về các vấn đề học tập, được học cách vận
dụng kiến thức để hình thành những kỹ năng nghề nghiệp. Vì thế, người dạy phải hiểu
rõ nhu cầu của người học và thỏa mãn nhu cầu đó một cách tối đa.
3. Giải pháp khắc phục tình trạng bỏ học và nghỉ tiết học ở sinh viên trƣờng Cao
đẳng Sƣ phạm Đà Lạt
Theo quan niệm của chúng tôi, để khắc phục tình trạng bỏ học và nghỉ tiết học
của sinh viên phải có những giải pháp đồng bộ và phải xuất phát từ nhu cầu chính đáng
của sinh viên. Để có cơ sở đưa các ra giải pháp khắc phục tình trạng bỏ học và nghỉ tiết
học ở sinh viên, chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến của sinh viên, kết quả như sau:
Thứ nhất “Xây dựng môi trường học tập thân thiện trên lớp và trong trường sư
phạm” có 109 ý kiến (57,98%); Thứ hai “Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của
sinh viên về giá trị xã hội của nghề dạy học” có 104 ý kiến (55,52%); Thứ ba “Tạo
điều kiện cho sinh viên học thêm một số chứng chỉ về: Kỹ năng làm công tác Đội, Tư
vấn tâm lý học đường, Du lịch, kỹ năng sống,… để khi ra trường sinh viên có nhiều cơ
hội có việc làm” có 93 ý kiến (49,47%); Thứ tư “Đổi mới phương pháp dạy học,
hướng dẫn sinh viên cách vận dụng kiến thức vào thực tiễn dạy học ở trường phổ
thông và trường mầm non” có 75 ý kiến (39,89%); Thứ năm “Đổi mới kiểm tra, thi,
đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất năng lực của người học” có 58 ý kiến
(30,85%); ngoài ra còn nhiều ý kiến khác liên quan đến các vấn đề như: thực hiện triệt
để các quyền lợi của người học, tài liệu học tập, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động
học tập,…
Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân tình trạng bỏ học và nghỉ tiết học và
những ý kiến đề xuất của sinh viên, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp khắc phục
tình trạng bỏ học và nghỉ tiết học ở sinh viên như sau:
3.1. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của sinh viên về giá trị xã hội của
nghề dạy học
Nhận thức đúng về giá trị xã hội nghề dạy học có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sinh viên sư phạm đó là “sự nghiệp trồng người”. Bằng những hoạt động nhà trường tổ
chức ngay từ khi tiếp đón tân sinh viên các khóa, tuần sinh hoạt công dân đầu khóa
học, các hoạt động sinh hoạt tập thể mang tính đặc trưng của trường sư phạm, hoạt
động sinh hoạt kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hàng năm, đặc biệt là thông
qua những tiết dạy của thầy cô giáo, những tấm gương thầy cô giáo tận tình hết lòng vì
sinh viên… sẽ giúp sinh viên hiểu rõ giá trị của nghề dạy học, từ đó các em tự giác,
tích cực học tập, rèn luyện và hình thành tình cảm nghề nghiệp.
3.2. Đổi mới nội dung,chương trình đào tạo, phương phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học
Trang 13
Để thực hiện giải pháp này nhà trường cần thực hiện một số biện pháp sau:
3.2.1. Xây dựng chuẩn đầu ra, nội dung, chương trình đào tạo:
Việc xây dựng chuẩn đầu ra hay nói cách khác là “sản phẩm đào tạo” phải đáp
ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên các bậc học phổ thông, mầm non hiện nay,
đây là yêu cầu khách quan của xã hội đối với nghề chứ không phải theo ý chủ quan
của giảng viên. Căn cứ chuẩn đầu ra để xây dựng chương trình đào tạo, lựa chọn nội
dung dạy học cho phù hợp nhằm hình thành những phẩm chất, năng lực ở sinh viên
đáp ứng chuẩn đầu ra, có nghĩa là phải dạy những gì người học cần, xã hội cần chứ
không phải chỉ dạy những cái Thầy có như hiện nay. Chuẩn đầu ra sẽ chi phối toàn bộ
quá trình tổ chức hoạt động đào tào của nhà trường.
3.2.2. Thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
Lâu nay chúng ta chỉ quan tâm đến việc dạy cho sinh viên “cái” tức là nội dung
kiến thức, kỹ năng, thái độ mà chúng ta quên đi việc dạy cho sinh viên “cách” chiếm
lĩnh “cái” hay nói cách khác là phương pháp học. Theo quan điểm của chúng tôi, phẩm
chất, năng lực (kiến thức, kỹ năng, phẩm chất nghề nghiệp) của sinh viên chỉ có thể
hình thành và phát triển chính trong quá trình sinh viên thực hiện các hành động học
tập và rèn luyện của chính mình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của Thầy. Nếu làm được
như vậy thì sinh viên không chỉ chiếm lĩnh được kiến thức, hình thành kỹ năng mà có
niềm vui trong học tập.
3.2.3. Thay đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên
Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình đào tạo của nhà trường. Lâu nay
thầy cô chúng ta vẫn kiểm tra, đánh giá, nhà trường tổ chức các kỳ thi kết thúc học
phần một cách rất bài bản. Vấn đề chúng tôi bàn ở đây là nội dung đánh giá, phương
pháp và hình thức đánh giá sản phẩm đào tạo của chúng ta đã đáp ứng chuẩn đầu ra
chưa? hay là chuẩn đầu ra một đằng, dạy một nẻo và đánh giá lại tùy theo ý chủ quan
của mỗi thầy cô giáo. Về logic hình thức, kiểm tra, đánh giá là khâu cuối cùng của quá
trình đào tạo, nhưng đánh giá cái gì? Đánh giá như thế nào? (tức là phương pháp đánh
giá và hình thức đánh giá) thì phải được xác định ngay từ khi bắt đầu giảng dạy một
học phần nào đó. Chính nội dung đánh giá, phương pháp và hình thức đánh giá sẽ định
hướng hoạt động giảng dạy của thầy cô giáo. Nếu thống nhất được ba yếu tố này chắc
chắn sản phẩm đào tạo của chúng ta đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
3.3. Xây dựng môi trường học tập thân thiện và tạo điều kiện để sinh viên được học
thêm một số chứng chỉ liên quan đến quá trình hành nghề sau này
Cũng như trong tất cả các lĩnh vực lao động môi trường làm việc rất quan trọng,
trong học tập cũng vậy, không khí lớp học (môi trường học tập) sẽ ảnh hưởng rất lớn kết
quả học tập của mỗi sinh viên. Qua khảo sát cho thấy có 109 ý kiến của sinh viên cho
rằng muốn khắc phục tình trạng bỏ học, bỏ tiết học trên lớp cần phải “Xây dựng môi
trường học tập thân thiện trên lớp”. Vậy, làm thế nào để các em thích lên lớp, thích học
Trang 14
chứ không phải là cứ nghĩ đến giờ lên lớp là lo, là sợ. Làm thế nào để các em nhận thấy
rằng giờ học trên lớp là cơ hội để các em được chia sẻ kiến thức, hiểu biết với bạn, học
hỏi ở thầy cô; là dịp để các em thể hiện ý tưởng riêng, cách làm riêng của mình và để
khẳng định mình. Để làm được điều này, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:
3.3.1. Thực hiện việc dạy học tương tác: Có nghĩa là xây dựng mối quan hệ: Thầy –
Trò – Môi trường học tập
- Vai trò của Thầy: Trong dạy học tương tác, Thầy vừa là người tổ chức, vừa là
người hướng dẫn, vừa là cố vấn, vừa là trọng tài, vừa là người động viên, khích lệ, vừa
là người hỗ trợ các em khi cần thiết. Để làm tròn các vai này Thầy phải nắm rất vững
kiến thức chuyên môn, nắm vững kỹ thuật dạy học và phải thấu hiểu học trò của mình.
- Vai trò của Trò: Trong dạy học tương tác, Trò là chủ thể tích cực, chủ động
hợp tác với Thầy, hợp tác với bạn, chính nhờ sự hướng dẫn của Thầy bằng các hành
động học của mình Trò tự làm ra sản phẩm của chính mình hay nói cách khác là tự tạo
ra phát triển phẩm chất và năng lực của mình.
- Vai trò của môi trường học tập: Môi trường học tập như thế nào? là do chính
Thầy và Trò tạo ra. Nếu Thầy và Trò làm tốt các vai của mình ở trên có nghĩa là đã tạo
được môi trường học tập tốt.
3.3.2. Tạo điều kiện cho sinh viên học một số chứng chỉ liên quan đến quá trình hành
nghề sau khi tốt nghiệp
Để giúp sinh viên làm tốt công tác hỗ trợ học sinh và tạo cơ hội cho sinh viên
tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường. Nhà trường nên tổ chức dạy một số
chuyên đề và cấp chứng chỉ: Kỹ năng làm công tác Đoàn Đội, Tư vấn tâm lý học
đường, Kỹ năng giao tiếp, Du lịch lữ hành v.v…
Ngoài ra nhà trường cần nâng cấp cơ sở vật chất, tăng cường tài liệu học tập,
trang bị các thiết bị, phương tiện dạy và học…
4. Kết luận
Tình trạng sinh viên bỏ học và nghỉ tiết học trên lớp hiện này là khá phổ biến.
Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía người học và
nguyên nhân khách quan từ phía người dạy và các điều kiện của Dạy - Học.
Để khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học và nghỉ tiết học trên lớp cần có sự
phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể và mỗi cán bộ, giảng viên của nhà
trường để thực hiện tốt các giải pháp nêu trên.
Trang 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương. Nghị Quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên.
3. Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI.
NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Vương Đăng Diễn (2015), Giải pháp hình thành năng lực tự học ở sinh viên trường
cao đẳng sư phạm Đà Lạt đáp ứng yêu cầu đào tạo theo hệ thống tín chỉ”.
5. Nguyễn Hữu Lam (2013), Mô hình năng lực trong giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực. Trung tâm nghiên cứu và phát triển Quản trị (CEMD), Trường Đại học kinh
tế TP. Hồ Chí Minh.
6. Hoàng Thị Tuyết, Phát triển chương trình đại học theo cách tiếp cận năng lực – xu
thể và nhu cầu, số 9, tháng 3-4/2013.
Trang 16
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
THEO HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƢỜI HỌC
TẠI TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM ĐÀ LẠT
Nguyễn Thị Hải Yến*
1. Đặt vấn đề
Đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên luôn là vấn đề chiến lược của
mỗi quốc gia vì đội ngũ giáo viên là một trong những nhân tố hàng đầu quyết định
chất lượng giáo dục. Việc xây dựng được đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng
lực sẽ là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của việc đổi mới giáo dục. Muốn
đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng
lực dạy học của người giáo viên, mà năng lực dạy học của người giáo viên trước hết
được hình thành và phát triển ở quá trình đào tạo trong trường sư phạm.
Trong những năm qua, vấn đề đổi mới phương pháp đào tạo giáo viên, trong đó
việc đào tạo theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học là một trong những
nhiệm vụ cấp bách, quan trọng của các trường sư phạm, trong đó có trường CĐSP Đà Lạt.
Để việc đào tạo theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học thật sự
phát huy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông kể
từ năm học 2019-2020 là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của trường
CĐSP Đà Lạt, cần tiếp tục có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện một
cách đồng bộ, sâu sát, quyết liệt và triệt để hơn nữa từ các cấp lãnh đạo đến toàn thể
đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên và toàn thể sinh viên nhà trường.
Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng phát
triển năng lực, phẩm chất người học, tôi mạnh dạn đề xuất “Giải pháp nâng cao chất
lƣợng đào tạo theo hƣớng phát triển năng lực ngƣời học ở Trƣờng CĐSP Đà Lạt”.
2. Nội dung
2.1. Một số vấn đề về đào tạo theo hướng phát triển năng lực người học
2.1.1. Năng lực là gì?
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu
cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt.
Năng lực còn có thể hiểu là khả năng thực hiện có hiệu quả và trách nhiệm các
hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay
cá nhân trong các tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh
nghiệm cũng như sẵn sàng hành động.
2.1.2. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
* Trưởng khoa Bộ môn chung
Trang 17
Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như một nội dung
giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa các phương
pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao hơn,
mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy nói chung
cao hơn trước đây.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học trước đây,
việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp
cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người..
2.1.3. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực
Trong quan niệm dạy học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học phát
huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học
nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào
thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm,
đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền
thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học đổi mới PPDH còn có
những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động
học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng
tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương
tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của
người dạy và hoạt động học của người học. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương
pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm
vụ học tập với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Chương trình dạy học theo hướng phát triển năng lực người học là dạy học định
hướng kết quả đầu ra, chú trọng năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn. Chương
trình này còn được gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ
những năm 90 của thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế.
Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát
triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối
cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng day học chuyển từ việc điều
khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh.
Bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung,
chương trình định hướng phát triển năng lực:
STT Đặc
trƣng
Chƣơng trình định
hƣớng nội dung
chƣơng trình định hƣớng phát
triển năng lực
Mục tiêu Mục tiêu dạy học được Kết quả học tập cần đạt được mô tả
Trang 18
1 giáo dục mô tả không chi tiết và
không nhất thiết phải
quan sát, đánh giá được.
chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
được; thể hiện được mức độ tiến bộ
của học sinh một cách liên tục
2
Nội dung
giáo dục
Việc lựa chọn nội dung
dựa vào các khoa học
chuyên môn, không gắn
với các tình huống thực
tiễn. Nội dung được qui
định chi tiết trong
chương trình.
Lựa chọn những nội dung nhằm đạt
được kết quả đầu ra đã qui định. Gắn
với các tình huống thực tiễn. Chương
trình chỉ qui định những nội dung
chính, không qui định chi tiết.
3
Phương
pháp dạy
học
Giáo viên là người
truyền thụ tri thức, là
trung tâm của quá trình
dạy học. Học sinh tiếp
thu thụ động những tri
thức được qui định sẵn.
- Giáo viên chủ yếu là người tổ chức,
hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực
lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát
triển khả năng giải quyết vấv đề, khả
năng giao tiếp…
- Chú trọng sử dụng các quan điểm,
phương pháp và kỹ thuật dạy học
tióch cực, các phương pháp dạy học
thí nghiệm, thực hành.
4
Hình thức
dạy học
Chủ yếu dạy học lý
thuyết trên lớp học
Tổ chức hình thức học tập đa dạng;
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học, trải
nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng
dụng công nghyệ thông tin và truyền
thông trong dạy học.
5
Đánh giá
kết quả
học tập
của học
sinh
Tiêu chí đánh giá được
xây dựng chủ yếu dựa
trên sự ghi nhớ và tái
hiện nội dung đã học.
Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
đầu ra, có tính dến sự tiến bộ trong
quá trình học tập, chú trọng khả năng
vận dụng trong các tình huống thực
tiễn.
2.2. Nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng phát triển năng lực người học ở
Trường CĐSP Đà Lạt
2.2.1. Vài nét về thực trạng về việc đào tạo theo hướng phát triển năng lực người học
tại Trường CĐSP Đà Lạt
Ngay từ khi nhà trường thực hiện việc chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế
sang học chế tín chỉ thí điểm ở các học phần thuộc bộ môn Lý luận chính trị và đối với
ngành đào tạo Sư phạm Anh Văn (năm học 2009-2010) và thực hiện việc chuyển đổi
Trang 19
hình thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ ở tất cả các ngành đào tạo kể từ năm
học 2014-2015 (khóa K39), Trường đã tổ chức nhiều hoạt động bồi dưỡng, định
hướng đổi mới PPGD cho giảng viên nhằm nâng cao năng lực dạy học, đáp ứng các
yêu cầu của hình thức đào tạo tín chỉ. Các chuyên đề, hội thảo khoa học có tính định
hướng, chỉ đạo và triển khai đổi mới phương pháp dạy và học cho đội ngũ giảng viên,
sinh viên theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và tinh thần hợp tác
được tổ chức như: “Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo yêu cầu đào
tạo tín chỉ ở trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt”; “Biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức
kiểm tra, đánh giá trong đào tạo theo tín chỉ”;
Các kết quả nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học của giảng viên báo cáo
trong các Hội nghị khoa học cấp Trường, cấp khoa được biên tập thành các kỷ yếu khoa
học làm cơ sở để các giảng viên nghiên cứu, tham khảo, vận dụng vào trong quá trình
giảng dạy bước đầu đạt được những kết quả nhất định.
Các báo cáo tổng kết đánh giá hoạt động thao giảng, đổi mới phương pháp dạy
học cấp khoa, cấp trường cho thấy giảng viên, sinh viên đã có sự chủ động, tích cực
trong việc hướng dẫn người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu, giúp người học có
kỹ năng học tập cần thiết, biết cách tra tìm tài liệu, có khả năng hợp tác cùng giảng viên,
sinh viên để hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đó là:
Một số giảng viên vẫn nặng thói quen dạy học theo phương pháp truyền thống,
ngại đổi mới. Đa số sinh viên các ngành đào tạo với chất lượng tuyển sinh đầu vào
thấp, nên khả năng tự học, tự nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Chương trình và giáo trình hiện nay đa số ở các học phần môn học chưa được
thay đổi, cập nhật theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, mầm non; bên cạnh đó, cơ
sở vật chất nhà trường chưa đáp ứng được đòi hỏi về việc đổi mới dạy - học…
2.2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng phát triển năng lực
người học ở Trường CĐSP Đà Lạt
Thứ nhất, tiếp tục làm tốt công tác quán triệt sâu rộng đến toàn thể cán bộ,
giảng viên và sinh viên về quan điểm, chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng đào
tạo theo hướng phát triển năng lực người học ở Trường CĐSP Đà Lạt
Việc quán triệt quan điểm, chủ trương và biện pháp nâng cao chất lượng đào
tạo theo hướng phát triển năng lực người học trong phạm vi toàn trường để tạo sự
thống nhất, quyết tâm hành động là việc làm trước tiên, rất cần thiết ở các cơ sở giáo
dục nói chung, giáo dục đại học nói rieng, trong đó có trường CĐSP Đà Lạt, nhằm đáp
ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã
hội và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với chuẩn đầu ra, phát
triển năng lực người học đáp ứng yêu cầu của xã hội
Trang 20
Trường CĐSP Đà Lạt đã hoàn thành việc điều chỉnh và công bố chuẩn đầu ra
của một số ngành đào tạo, đáp ứng mục tiêu đổi mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết
số 29-NQ/TW khóa XI. Do vậy, việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp
với chuẩn đầu ra là cần thiết, sẽ có sự tác động tích cực và hiệu quả đối với việc phát
triển năng lực người học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá và nâng cao năng lực
tự học của sinh viên nhằm phát triển năng lực người học trong dạy học chính khóa và
hoạt động ngoại khóa
Việc đổi mới phương pháp dạy học được đặc biệt chú trọng đến việc phải hoạt
động hóa người học – giao nhiệm vụ, bằng nhiều phương thức, như: tạo điều kiện,
buộc người học phải chủ động chiếm lĩnh tri thức bằng nhiều con đường khác nhau.
Coi trọng việc hợp tác giữa các thành viên. Thực hiện có hiệu quả “học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”, khai thác tối đa vốn kinh nghiệm của người học,
sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học truyền thông đa phương tiện.
Cần tăng cường tập huấn, hướng dẫn giảng viên về hình thức, phương pháp, kỹ
thuật dạy học tích cực; phát huy tính chủ động, tự học của người học.
Về kiểm tra đánh giá, phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định
kỳ, giữa đánh giá của giảng viên và tự đánh giá của sinh viên. Trong đánh giá kết quả
học tập của sinh viên không chỉ đánh giá kết quả cuối cùng (qua kết quả kiểm tra, thi)
mà cần chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá kết quả học tập theo quan điểm phát triển
năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận
dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ học tập và những tình huống có tính
thực tiễn cao.
Giảng viên cần phối hợp các hình thức phương pháp kiểm tra đánh giá khác
nhau. Kết hợp giữa việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp, seminar, bài kiểm tra giữa kỳ.
Việc giao bài tập về nhà cho sinh viên cần phù hợp với từng đối tượng sinh viên
cả về khối lượng kiến thức, mức độ khó của bài tập, có sự hướng dẫn của giảng viên
và nhất thiết phải kiểm tra kết quả học tập, chuẩn bị bài tập ở nhà trong tiết học (buổi
học) tiếp theo. Cần kịp thời động viên khích lệ các em thực hiện tốt nhiệm vụ và nhắc
nhở những em chưa thực hiện hoặc thực hiên mang tính “đối phó”…
Hình thành cho sinh viên thói quen đọc sách, tài liệu tham khảo; chuẩn bị bài
tập trước khi đến lớp; rèn cho các em thói quen tự nêu được mục tiêu bài học, nhiệm
vụ của tiết học và cách thức thực hiện nhằm phát triển năng lực cho sinh viên.
Giảng viên bộ môn có biện pháp giám sát chặt chẽ việc học ngoài giờ lên lớp của sinh
viên. Cá biệt hóa sinh viên trong quá trình học tập. Nghiêm túc yêu cầu sinh viên
chuẩn bị bài tập cá nhân, bài tập nhóm.
Nêu cao vai trò của cố vấn học tập (Trợ lý quản lý sinh viên/Giáo viên chủ
nhiệm) trong tư vấn và giúp đỡ sinh viên trong suốt quá trình học tập. Có sự trao đổi
Trang 21
thường xuyên giữa cố vấn học tập và giảng viên bộ môn. Giảng viên cần lắng nghe
những ý kiến phản hồi từ sinh viên để kịp thời điều chỉnh việc giảng dạy, đem lại hiệu
quả cao hơn.
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giảng viên thông qua hoạt
động nghiên cứu khoa học, hội thảo khoa học và sinh hoạt chuyên đề
Hoạt động động nghiên cứu khoa học, hội thảo khoa học và sinh hoạt chuyên đề
luôn được nhà trường quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện trong suốt những năm qua,
nhất là từ khi thực hiện theo hình thức đào tạo theo tín chỉ.
Việc tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học, hội
thảo khoa học các cấp (cấp khao, cấp trường, Khối thi đua) và sinh hoạt chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy học trước hết thuộc về người đứng đầu (tổ trưởng chuyên môn,
trưởng khoa, lãnh đạo phòng ĐT-KH&CN, Ban Giám hiệu nhà trường), tiếp theo là
đội ngũ cán bộ, giảng viên - người trực tiếp tham gia và quyết định chất lượng của các
lạoi hình hoạt động này.
Do vậy, nếu có sự đồng bộ nêu cao ý thức trách nhiệm, thì các hoạt động đó sẽ
đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào
tạo theo hướng phát triển năng lực người học tại Trường CĐSP Đà Lạt.
Thứ năm, nâng cao năng lực tin học, ngoại ngữ cho sinh viên, thúc đẩy phong
trào thi đua “dạy tốt, học tốt” ở các khoa và trong phạm vi toàn trường
Năng lực tin học, ngoại ngữ của sinh viên có vai trò quan trọng và là một trong
những yếu tố có tính “quyết định” trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, nhất
là trong việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, nhất là trong xu thế đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục và cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Việc nâng cao năng lực tin học, ngoại ngữ cho sinh viên, trước hết là việc nâng
cao chất lượng giảng dạy các môn Tin học, Anh Văn theo chương trình đào tạo; bên
cạnh đó là vai trò của Trung tâm Ngoại ngữ - Tin học của nhà trường, giúp cho sinh
viên có cơ hội học tập tốt nhất, để nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cho bẳn thân,
đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
Bên cạnh đó, việc thúc đẩy phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, “Đổi mới sáng
tạo trong dạy và học” ở các khoa và trong phạm vi toàn trường có tác dụng nâng cao
chất lượng dạy, chất lượng học một cách thiết thực và hiệu quả.
Thứ sáu, tăng cường trang bị cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị đáp ứng yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học
Nhà trường cần tiếp tục có kế hoạch đầu tư kinh phí mua sắm máy móc, trang
thiết bị đối với các phòng học thí nghiệm, phòng thực hành bộ môn đảm bảo ở mức tối
thiểu theo qui định của chương trình đào tạo và theo hướng hiện đại, bám sát đổi mới
Trang 22
giáo dục mầm non, phổ thông; để sản phẩm đào tạo đáp ứng được chuẩn đầu ra đã ban
hành, đáp ứng được thực tiễn của yêu cầu đoỏi mới giáo dục hiện nay.
Nâng cao chất lượng mạng wifi, truy cập internet phục vụ tìm kiếm tài liệu
nghiên cứu phục vụ giảng dạy, NCKH của giảng viên và học tập của sinh viên.
3. Kết luận
Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo viên trong các trường sư phạm được xem là
khâu đột phá, trọng tâm của công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Để đào
tạo theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học thật sự phát huy hiệu quả,
cần phải đổi mới đồng bộ chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy, kiểm tra
đánh giá người học; nó đòi hỏi phải có sự quyết tâm, thống nhất cao từ các cấp lãnh
đạo, quản lý, đến toàn thể đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên và sinh viên nhà
trường trong quá trình tổ chức thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (1998), Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo đến năm
2020, Hà Nội.
2. Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ 21,
NXBGD Việt Nam Hà Nội.
3. Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Quang Uẩn (2004), Tâm lý học lứa tuổi và TLH sư phạm,
NXB ĐHSP.
4. Đặng Bá Lãm (2015), Chương trình giáo dục hướng tới phát triển năng lực người
học, Tạp chí QLGD tháng 4.
5. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2014), TLH đại cương,
NXB ĐHSP.
6. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, (2005), NXB Lao động - Xã hội Hà Nội.
Trang 23
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN
CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO - HỆ CAO ĐẲNG MẦM NON
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHUẨN ĐẦU RA
Trần Thị Hồng Vân
*
1. Đặt vấn đề
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, trên cơ sở mục tiêu tổng quát
và các mục tiêu cụ thể, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy,
quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và
các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ
đào tạo, ở cả Trung ương và địa phương, ở mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và
xã hội, hướng đến phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;
chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Một trong những nhiệm vụ, giải
pháp mà Nghị quyết số 29-NQ/TcW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo. “Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương
pháp đào tạo, và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên theo yêu cầu nâng
cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp”. Như vậy, phát triển
chương trình đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành học
Mầm non là một trong những vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
2. Thực trạng và giải pháp
2.1. Thực trạng
2.1.1. Về chương trình và vấn đề phát triển chương trình
Như chúng ta đã biết chương trình đào tạo là bản thiết kế tổng thể cho một khoá
đào tạo cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người
học sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo,
các phương pháp đào tạo, cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và tất cả những
cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ.
Cũng theo chương trình đào tạo một ngành học là một bản thiết kế tổng thể các
yếu tố và các hoạt động của quá trình đào tạo, trong đó quy định mục tiêu; các khối kiến
thức, năng lực, phẩm chất cụ thể; các phương pháp, hình thức đào tạo chủ yếu, cơ cấu
nội dung môn học, tỉ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các khối kiến thức của các môn
* Giảng viên khoa TH-MN
Trang 24
học, lí thuyết và thực hành, kế hoạch đào tạo, yêu cầu, cách thức kiểm tra, đánh giá chất
lượng; quá trình triển khai, các điều kiện cơ bản đảm bảo vận hành chương trình.
Tóm lại, chương trình đào tạo là tập hợp các hoạt động gắn kết với nhau nhằm đạt
mục tiêu đào tạo; theo đó, chương trình đào tạo gồm cả kịch bản và quá trình thực hiện.
Phát triển chương trình là xem xét chương trình như một quá trình phát triển và
hoàn thiện nó hơn là một trạng thái hay là một giai đoạn cô lập, tách rời. Như vậy, phát
triển chương trình là một quá trình thường xuyên, liên tục làm cho chương trình ngày
càng hoàn thiện; thực chất đó chính là các đợt cải cách chỉnh lý giáo dục để đổi mới,
để điều chỉnh chương trình.
Về cơ bản, phát triển chương trình là một kế hoạch xây dựng môi trường nhằm
phối hợp các yếu tố thời gian, không gian, vật chất, trang thiết bị và con người theo
một trật tự nhất định. Hoạt động xây dựng chương trình là sự nghiên cứu thiết kế và
quản lí các mối quan hệ của các yếu tố cấu thành chương trình dạy học nhằm đạt được
mục tiêu đề ra.
Như vậy, để chương trình có tính phát triển, khi xây dựng phải có quan điểm hệ
thống đồng bộ, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo. Phát triển chương trình đào tạo là một
chu trình khép kín, không có bước kết thúc, mỗi bước đều phải được giám sát và đánh
giá ngay từ đầu. Mỗi bước trong chu trình bao gồm một số hoạt động. Tuy nhiên, số
lượng hoạt động phụ thuộc vào bối cảnh và điều kiện thực tế của chính đơn vị đào tạo.
2.1.2. Về chương trình đào tạo sinh viên ngành học Mầm non
Mục tiêu của ngành học mầm non là hình thành những cơ sở đầu tiên của nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt nam, bậc Mầm non là bậc học đầu tiên của
hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy đào tạo sinh viên mầm non có tính chất đặc biệt,
nội dung đào tạo sinh viên ngành Giáo dục mầm non phải có kiến thức cơ bản để tổ
chức các hoạt động giáo dục khác nhau. Do đó chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo
giáo viên mầm non phải là: Hiểu được cấu trúc tổng thể và đặc điểm cấu trúc chương
trình. Biết rõ mục tiêu, nội dung, kiến thức. Hiểu được mức độ và yêu cầu của kiến
thức, kĩ năng trong từng chủ đề, trong từng hoạt động… từ đó có cơ sở để lựa chọn nội
dung, lựa chọn phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học.
Nội dung chương trình đào tạo sinh viên ngành Giáo dục mầm non là bao gồm
kiến thức đại cương; kiến thức chuyên ngành và kiến thức nghiệp vụ sư phạm. Hiện nay
khung đào tạo ngành học mầm non có 105 tín chỉ, mỗi học kì sinh viên học từ 7 đến 8
học phần gồm nhiều lĩnh vực khác nhau; 1 tín chỉ khoảng 15 tiết; mỗi học phần kéo dài
từ 12 đến 15 tuần sinh viên học tại lớp và tự học ở nhà thời lượng gấp đôi. Sinh viên
ngành học mầm non có 6 kì, không kể rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên.
Ngoài ra một số học phần có tính ứng dụng thấp như đại cương văn học Việt nam,
tiếng anh…. Với chương trình giáo dục hiện nay, sinh viên ngành Mầm non chủ yếu là
tiếp nhận kiến thức, rất bị động và ít chú trọng phát triển năng lực của mình.
Trang 25
2.2. Một số giải pháp về việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
2.2.1. Tích hợp rộng về nội dung và khuyến khích tính tự học của sinh viên.
Tích hợp được xem là một quan điểm, một trào lưu giáo dục và dạy học phổ biến
hiện nay trong các trường đại học cao đẳng, điều quan trọng, tích hợp là một tiến trình tư
duy và nhận thức mang tính chất phát triển và tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực
hoạt động, nếu như họ muốn hướng đến hiệu quả của chúng. Quan điểm tích hợp cho
phép con người nhận ra những điều then chốt và mối liên hệ hữu cơ giữa các thành tố và
trong tiến trình hoạt động thuộc một lĩnh vực nào đó. Việc khai thác hợp lý và có ý
nghĩa các mối liên hệ này dẫn nhà hoạt động lý luận cũng như thực tiễn có những ý kiến
mới. Đặc biệt quan điểm này dẫn người ta đến việc phát triển nhiều loại hình hoạt động,
tạo môi trường áp dụng những điều mình muốn lĩnh hội vào thực tiễn.
Do đó cần tạo môi trường cho người học có cái nhìn tổng thể, hệ thống về phát
triển chương trình đào tạo trong các môn học ở bậc mầm non, cũng như có hướng
nghiên cứu độc lập trong việc trang bị kiến thức môn học theo trình độ và quan tâm phát
triển chuyên môn của mình, đồng thời tính chất tích hợp này giúp giảm số lượng học
phần mà giáo sinh phải học mỗi học kỳ, chương trình đào tạo sẽ gọn nhẹ, việc quản lý
hiệu quả chương trình đào tạo, sẽ tạo nhiều cơ hôi cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu;
sinh viên phải lĩnh hội kiến thức chủ yếu qua con đường tự học, áp dụng kiến thức để
thực hiện các bài tập trong suốt quá trình học để nghiên cứu chương trình các học phần
ở ngành học mầm non và phải cho sinh viên thấy được rằng hoạt động tự học rất quan
trọng. Hiện nay chương trình đào tạo của chúng ta do khối lượng các môn học quá tải
còn nặng về hình thức kiểm tra và thi học phần, nên thời gian cho việc tự học, tự nghiên
cứu bị hạn chế. Hơn nữa, việc học tập các học phần này riêng lẻ, vì những giảng viên từ
nhiều khoa khác nhau nên không có dịp trao đổi, bàn bạc về chuyên môn, chưa có tính
liên thông giữa các học phần, không tạo ra được những bài tập giúp người học vận dụng
kết hợp các kiến thức liên quan, chính điều này làm cho người dạy không giúp người
học nhận ra mối liên hệ có ý nghĩa giữa các ngành kiến thức trong tương quan với các
học phần vốn mang tính tích hợp cao ở bậc học mầm non.
2.2.2. Tăng cường mối liên hệ giữa các trường thực hành trong việc rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm thường xuyên.
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên được xem là đòn bẩy tạo các bước
phát triển cao lối học sâu sắc, là nơi vận dụng kiến thức, kỹ năng và thể hiện các quan
niệm về dạy và học, đồng thời cũng là nơi giúp sinh viên củng cố các kiến thức đã
được học ở trường, cũng như tự tạo lập niềm tin chuyên môn sư phạm riêng và phát
triển kỹ năng tổ chức hoạt động cho sinh viên. Mỗi lần sinh viên đi thực tập là mỗi lần
sinh viên được nhập vai là giáo viên sẽ thực hành giảng dạy hay xem các tiết dạy hoặc
truy cập lại kiến thức, kinh nghiệm đã có, rồi suy nghĩ hoặc trao đổi thảo luận với
người khác để soạn các bài giảng “Người học so sánh giáo án với lý thuyết được trình
Trang 26
bày trong tài liệu, sau đó thực hành trải nghiệm giữa lý thuyết và thực hành một lần
nữa trong thực tiễn”. Nhờ vậy, việc lĩnh hội những kinh nghiệm kỹ năng sư phạm
được nâng lên và trở nên chủ động, sâu sắc hơn.
Vậy để có được điều đó cần phải tăng cường mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa
hệ thống các trường thực hành mầm non với khoa đào tạo chuyên môn trường sư phạm
trong việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và thực tập sư phạm, tham gia
tổ chức hội thảo chuyên môn nhằm mục đích cập nhật thông tin.
3. Kết luận
Trước thực trạng và giải pháp xây dựng và phát triển chương trình đào tạo “Mọi sự
đổi mới đều mang lại những cơ hội và thách thức mới, bên cạnh đó nó mạng lại một số
điều mới lạ” Vậy xây dựng và phát triển chương trình đào tạo trong bối cảnh hiện nay,
chính sự thay đổi này là rất quan trọng.
Các giải pháp xây dựng và phát triển chương trình đào tạo ngành học mầm non
được đề xuất với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc thực hiện nhiệm vụ
năm học, không ngừng đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, chuyển từ “tập trung vào
kiến thức” sang “tập trung vào năng lực”, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của
người học và tăng thời gian trao đổi kinh nghiệm cho giảng viên, tăng thời gian thực
hành là vấn đề cốt lõi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2009), “Chương trình giáo dục mầm non” NXB GD Việt Nam.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2015) “Những vấn đề chung về phát triển chương trình”
Tài liệu tập huấn về phát triển chương trình đào tạo, Hà Nội.
3. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên “Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên mầm non” NXB GDVN năm học 2017-2018.
4. Hoàng Tuyết (2012) “Chương trình đào tạo giáo viên theo tín chỉ” Tạp chí Khoa
học ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Lê Văn Ngoan. “Về công tác phối hợp với trường tổ chức thực tập sư phạm cho
sinh viên” trường đại học sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.
Trang 27
VĂN HÓA GIAO TIẾP - ỨNG XỬ
CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG CĐSP ĐÀ LẠT
Nguyễn Văn Thường
Nguyễn Ngọc Duy*
Tóm tắt:
Văn hóa giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt vẫn giữ được những bản
sắc trong giao tiếp truyền thống xưa, tạo nên nét đẹp thu hút được đối tượng trong giao
tiếp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tới trên 80% số người được điều tra cho rằng
văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt có những nét đặc trưng
cơ bản là hiền hòa, thân thiện, khá vui vẻ và tương đối rụt rè.
Từ khóa:
Giao tiếp,văn hóa giao tiếp, hiền hòa, rụt rè, văn hóa giao tiếp ứng xử của sinh
viên trường CĐSP Đà Lạt
1. Đặt vấn đề
Sự phát triển của nền kinh tế xã hội nước ta trong những năm gần đây diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ, cụ thể là du lịch. Nhu cầu về du
lịch trong xã hội ngày càng được nâng cao và cải tiến, người dân hướng tới sự hưởng
thụ trong các dịch vụ du lịch cao cấp ngày càng nhiều. Đà Lạt là một thành phố du lịch
nổi tiếng tại Việt Nam, thương hiệu du lịch Đà Lạt đã được người dân Việt Nam nói
chung và khách nước ngoài biết nói riêng như một điểm đến hấp dẫn và thú vị. Du lịch
Đà Lạt luôn đảm bảo được các yêu cầu về dịch vụ từ cơ bản đến cao cấp, luôn cải tiến,
xu thế và có tính sáng tạo cao.
Giao tiếp ứng xử của người dân Đà Lạt nói chung và sinh viên trường CĐSP Đà
Lạt nói riêng luôn có những điểm đặc biệt tạo nên thương hiệu cũng như sức hút đặc
biệt đối với đối tượng giao tiếp khi đến với Đà Lạt.
Sinh viên các ngành Sư phạm trường CĐSP Đà Lạt đã bước đầu quan tâm việc
rèn luyện các kỹ năng giao tiếp. Trong bối cảnh cả nước đang bắt tay thực hiện đề án
thay đổi căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế, để thích ứng nhanh với sự phát triển của giáo dục, …Sinh
viên nhận thức được rằng để trở thành người thầy trên bục giảng ngoài việc nắm vững
những kiến thức chuyên ngành thì sinh viên cần phải cố gắng rèn luyện và nâng cao
những kỹ năng mềm cần thiết.
Phong trào sinh viên 5 tốt cũng được phát động cụ thể tới từng sinh viên trong
trường với ý nghĩa giúp các em có đạo đức tốt, thể lực tốt, học tập tốt, hội nhập tốt và
một tiêu chí không thể thiếu đó chính là kĩ năng tốt
* Giảng viên Khoa Bộ mông chung
Trang 28
Kĩ năng giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt được trải nghiệm và rèn
luyện trong nhiều hoạt động khác nhau như: thông qua các hoạt động team building
của các câu lạc bộ, các đội tình nguyện, hiến máu, các chương trình trải nghiệm được
tổ chức thường xuyên tại trường.
Trường CĐSP Đà Lạt nơi hội tụ của 16 dân tộc anh em số sinh viên là người
dân tộc thiểu số chiếm tới 42% tổng số số sinh viên của toàn trường. Đặc điểm cơ bản
là hiền hòa, thân thiện và tương đối rụt rè.
Trường CĐSP Đà Lạt được tọa lạc tại một thành phố trẻ trong tuổi đời và trẻ
trong cá tính, có rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến với ngôi trường
CĐSP Đà Lạt, việc sinh viên được hòa nhập vào môi trường này giúp các em trở lên
trưởng thành hơn.
Đà Lạt vừa là môi trường tổng hòa các mối giao lưu vừa là kết quả tổng hợp các
tinh hoa từ nhiều miền để hình thành cho mình một bản sắc với nhiều dáng vẻ độc đáo.
Trong quá trình tổng hợp, không loại trừ khả năng chọn lọc, đào thải, vì thế bản sắc cư
dân Đà Lạt không phải tổng cộng các sắc thái địa phương. Điều này xác định cư dân
Đà Lạt có các giống cư dân các miền khác nhưng không phải là cư dân bất cứ một
miền nào trên đất nước. Chắt lọc, tinh chế, tổng hòa đã đúc thành một mẫu người Đà
Lạt có dáng dấp Huế nhưng không phải Huế, Hà Nội mà không phải Hà Nội, Quảng
mà không hẳn Quảng Nam hay Quảng Ngãi. Bản sắc con người Đà Lạt rất dễ cảm
nhận và phân biệt nhưng gọi tên nó là gì vẫn còn là chuyện rất tế nhị.
Ngày nay người di cư tự do tới Đà Lạt làm kinh tế cũng như làm du lịch ngày
càng đông, sinh viên trường CĐSP Đà Lạt cũng có ảnh hưởng của sự biến động và
giao thoa trong văn hóa giao tiếp của người Đà Lạt đã nảy sinh, đan xen giữa nhiều nết
văn hóa vùng miền khác nhau. Sự giao thoa trong giao tiếp không chỉ dừng lại ở các
vùng miền mà còn ở sự tiếp thu từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Nhưng bản
chất trong văn hóa giao tiếp ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt không dễ bị
đồng hóa, vẫn còn nhiều điểm thú vị, hấp dẫn và lôi cuốn với đối tượng giao tiếp khi
tiếp xúc với sinh viên, phong thái sư phạm, nhẹ nhàng, tinh tế đó cũng là điều chúng
tôi muốn nghiên cứu sâu trong bài viết này: “Văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên
trường CĐSP Đà Lạt”
2. Nội dung nghiên cứu
Tâm lý con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt động và giao
tiếp của cá nhân với người khác. Giao tiếp lại càng có vai trò quan trọng hơn trong
hoạt động du lịch, nó đã trở thành một phương tiện quan trọng trong việc trao đổi
thông tin, hiểu biết và tác động qua lại với nhau giữa sinh viên với sinh viên và mọi
người xung quanh. Đặc biệt trong bối cảnh như hiện nay sinh viên trở lên năng động,
tinh tế và đầy cá tính, thì việc nghiên cứu “Văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên
trường CĐSP Đà Lạt”càng trở lên có ý nghĩa đặc biệt.
Trang 29
2.1. Văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc, ý chí đấu tranh kiên
cường, bất khuất, tinh thần đoàn kết, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, tính cần cù
lao động, thông minh sáng tạo... Ngoài ra, chịu ảnh hưởng tư tưởng phương Đông,
người Việt Nam thiên về lối sống nội tâm, đề cao những giá trị tinh thần nhân bản cao
quí, có cuộc sống hài hòa với môi trường, khung cảnh thiên nhiên. Những phẩm chất
quí báu đó đã hun đúc nên truyền thống Việt Nam. Mỗi người Việt Nam đều mang
trong dòng máu mình truyền thống chung của cả dân tộc. Dù ở bất cứ miền đất nào,
các phẩm chất ấy càng được mài dũa, qua thử thách càng trong sáng, bền vững.
Trải qua các biến động của các nhóm dân cư qua quá trình hình thành, phát triển
và chịu ảnh hưởng của các điều kiện môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội..., có
thể khẳng định những nét đặc trưng cơ bản sau đây biểu hiện rõ nét từ dáng vẻ bên ngoài
đến chiều sâu tâm hồn của các em sinh viên trường CĐSP Đà Lạt. Đó là vẻ đẹp hiền
hòa, thanh lịch, lịch sự, hòa nhã đã được nhiều người cảm nhận và đồng tình.
2.1.1. Sự hiền hòa trong văn hóa giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Sống trong một khung cảnh thiên nhiên quanh năm tĩnh lặng, khí hậu mát lạnh,
những biến động lớn về cuộc chiến hầu như chỉ là tiếng vọng, không ảnh hưởng trực
tiếp và làm xáo động đời sống vốn rất êm đềm của một vùng cao nguyên hẻo lánh,
sinh viên trường CĐSP Đà Lạt hiền lành, thật thà, sớm thích nghi để hòa nhập vào môi
trường sống. Từ những ngôi nhà với vườn rau xanh ngát đến những con đường quanh
co ẩn khuất sau đồi núi, những ngôi biệt thự xinh xắn nằm dấu mình dưới những rặng
thông, vẻ đẹp tự nhiên của hồ Xuân Hương nằm ngay giữa trung tâm thành phố... tất
cả đều thể hiện nét hài hòa giữa con người chân chất với cảnh quan thiên nhiên tươi
đẹp nơi đây.
Môi trường học tập thân thiện, luôn cởi mở, nhiệt tình và vui vẻ
Thiên nhiên Đà Lạt đã “cho người này niềm vui, người kia sự mát lành” (Dat
Aliis Laetitiam Aliis Temperiem) thì thiên nhiên ấy đã đóng góp tạo nên nét đẹp hiền
hòa của con người nơi đây.
Sự hiền hòa ngày nay trong phong cách giao tiếp của sinh viên trường CĐSP
Đà Lạt thể hiện qua nụ cười dễ thương, tế nhị trong giao tiếp với người lạ và luôn tôn
trọng và biết lắng nghe mọi người
2.1.2. Sự thanh lịch trong văn hóa giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Sinh viên trường CĐSP Đà Lạt là những nam thanh nữ tú từ 18 tới 21 tuổi được
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Lâm Đồng với khí hậu được ưu đãi từ thiên nhiên, vừa
chịu ảnh hưởng sâu đậm bản sắc văn hóa và đời sống tinh thần phương Đông lại sớm
tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của nền văn minh hiện đại phương Tây. Việc xử lý hài hòa
các yếu tố văn hóa truyền thống và văn minh hiện đại đã hiện diện trong phong cách
giao tiếp của các sinh viên trường CĐSP Đà Lạt.
Trang 30
Sinh viên trong trường tập trung 30% trong ký túc xá sinh viên của trường, với
lối sống khá thanh lịch, kín đáo và luôn được an toàn. luôn luôn có thái độ nhã nhặn,
vui vẻ với mọi người tạo lên môi trường vô cùng thân thiện.
Sự thanh lịch thể hiện qua nét mặt, ngôn ngữ nói, trang phục, lối sống nhẹ
nhàng tạo nên được sự cuốn hút đặc biệt khi giao tiếp và làm việc với người dân.
2.1.3. Sự lịch sự trong văn hóa giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Đà Lạt là một trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, các nghề dịch vụ lại có nguồn sống
từ khách, nên mến khách không còn là một tình cảm mà trở thành lẽ sống. Nét đẹp này
rất dễ thấy ở các chị bán hàng chào mời niềm nở, nhẹ nhàng, tôn trọng khách, không có
ngôn ngữ thách đố. Những người phục vụ như xe thồ, khuân vác, nhân viên nhà trọ...
không có thái độ bắt chẹt, thóa mạ khách hàng. Những người dân Đà Lạt có cái nhìn
thiện cảm, không xoi mói, ganh tị và sẵn sàng giúp đỡ, chỉ dẫn khi có người hỏi đến.
Cũng được thừa hưởng từ lối sống đó mà sinh viên trường CĐSP Đà Lạt luôn
thể hiện ra bên ngoài sự lịch sự như đơn giản: khoanh tay cúi đầu chào bác bảo vệ,
thầy cô giáo, sử dụng ngôn từ “con chào thầy, con chào cô” rất ấm áp và thiêng liêng
Những sinh viên CĐSP Đà Lạt hơn ai hết mong muốn tiếp nhận thêm nhiều
mối quan hệ của mình từ mọi miền đất nước để đan xen thêm những nét tâm lý đặc
biệt như sự năng động, sáng tạo và đầy nhiệt huyết, các em cũng được giao lưu với
nhiều sinh viên khác nhau trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Đây là tiền đề và cơ sở quan
trọng để tạo nên tình đoàn kết giữa những thành viên đến từ các vùng miền khác nhau
về đây cùng sinh sống, học tập và làm việc.
Khi tới Đà Lạt tiếp xúc bất kỳ ai, trao đổi với họ bất cứ điều gì sẽ nhận được sự
cởi mà và chân thành từ họ, từ việc hỏi đường, thuê xe, nhờ giúp việc nhỏ đến việc to
sự nhận lại đều là sự nhiệt tình vui vẻ từ người dân và sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
cũng rất nhiệt tình hăng hái từ những việc như vậy.
Sinh viên các lớp sư pham Tiếng Anh trường CĐSP Đà Lạt thường xuyên tự tin
giao tiếp với khách nước ngoài khi đến thăm trường, các em luôn thân thiện và cởi mở,
nhiệt tình giới thiệu về sinh viên, về mái trường CĐSP
Bên cạnh những điều thú vị, hài lòng từ những vấn đề đã nêu ở trên, bên cạnh
đó có thể nhìn nhận một số ảnh hưởng khác từ nền kinh tế thị trường
Nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường và kinh tế xã hội trong thời gia
qua đã dẫn đến tình trạng một số sinh viên thiếu ý thức tôn trọng luật pháp, bảo vệ của
công, không giữ gìn thành phố sạch đẹp, không giữ gìn trường lớp, nói tục, chửi bậy.
Hiện nay một số giảng viên đã biểu lộ thái độ không bằng lòng về hiện tượng
một số sinh viên thiếu nhã nhặn, thành thực. Nhiều người cũng bất bình và lo ngại về
một số sinh viên sư phạm lại có thói quen như vậy. Đó là cái xấu mới nảy sinh gây ít
nhiều ngộ nhận đáng tiếc về phong cách giao tiếp sư phạm.
Trang 31
Nhìn chung những mặt tiêu cực phần lớn do sinh viên năm thứ nhất, chưa thực
sự được đào tạo về kỹ năng mềm nhiều. Đó cũng là điều để những người nghiên cứu
như chúng tôi có thể xây dựng một số chuyên đề về giao tiếp giúp các em đó trường
thành hơn trong xã hội hiện đại.
2.1.4. Sự rụt rè trong phong thái giao tiếp của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Khi giao tiếp với sinh viên trường CĐSP Đà Lạt, đặc biệt là các bạn người dân
tộc thiểu số có thể thấy sự rụt rè, đôi phần còn có những rào cản khi các thầy cô chủ
động giao tiếp, tung hứng trong các câu chuyện cùng các em, nhưng sự phản hồi trong
giao tiếp của các em còn chậm, chưa tự thực sự tự tin, cho thấy để thay đổi được một
số bộ phận sinh viên trong trường, cần có những chuyên đề, những hoạt động đa dạng,
đa sắc màu và phù hợp với bản sắc của các em hơn. Đó cũng chính là điều giúp những
người nghiên cứu như chúng tôi có thể có những chuyên đề, trải nghiệm sáng tạo phù
hợp với đặc điểm tâm lý, bản sắc dân tộc của các sinh viên giúp các em tự tin và phá
vỡ mọi rào cản của các em ở thời điểm hiện tại
2.2. Thái độ của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt đối với mọi người
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi đối với cả
giảng viên, sinh viên và người dân địa phương và khách du lịch tới với trường CĐSP
Đà Lạt. Mục đích: Nhằm thu thập một số thông tin mang tính khách quan với những
câu hỏi mở về vấn đề nghiên cứu
Nội dung điều tra tập trung vấn đề nghiên cứu: sự hứng thú, hài lòng trong giao
tiếp, thái độ và lời nói khi giao tiếp với mọi người
Cách thức tiến hành: Xây dựng và phát phiếu điều tra cho khách du lịch tại địa
điểm du lịch nổi tiếng tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là 30 phiếu, sinh viên
trong trường là 60 phiếu, giảng viên 50 phiếu. Ngoài ra chúng tôi cũng tiến hành
phátphiếu với một số người dân địa phương để thêm phần sâu sắc cho nội dung
nghiên cứu.
Khi được hỏi Thái độ của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt đối với mọi người biểu
hiện như thế nào khi giao tiếp với anh/chị chúng tôi thu nhận được kết quả như sau
Bảng: Tỷ lệ ý kiến đánh giá về thái độ của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt đối
với mọi người
Biểu hiện
Mức độ đánh giá
Tốt Khá Trung bình Yếu Kém
SL % SL % SL % % % SL %
Vui vẻ 97 64,67 45 30 8 5,33 0 0 0 0
Nhiệt tình 90 60 48 32 12 8 0 0 0 0
Cởi mở 112 74,67 38 25,33 0 0 0 0 0 0
Thân thiện 94 62 54 36 3 2 0 0 0 0
Khó chịu 0 0 0 0 0 0 63 42 87 58
Trang 32
Không thoải
mái
0 0 0 0 1 0,67 47 31,33 102 68
Qua số liệu tại bảng trên cho thấy số người được điều tra đánh giá thái độ của
sinh viên trường CĐSP Đà Lạt đối với mọi ngườiđều ở mức khá và tốt biểu hiện qua sự
vui vẻ, nhiệt tình, thân thiện và cởi mở chiếm trên 90%, trong đó sự cởi mở chiếm 100%
số lượng người được điều tra cho rằng sinh viên trường CĐSP Đà Lạt có sự cởi mở ở
mức độ từ khá đến tốt. Khi phỏng vấn sâu một số giảng viên công tác tại trườnghọ cho
rằng sự cởi mở được thể hiện trong phong thái nói chuyện của sinh viên, các em luôn nở
nụ cười khi nói chuyện, trao đổi bài và tiếp xúc ở trên lớp, biểu cảm dễ thương, cảm
giác của các giảng viên và các bạn bè luôn thấy tin tưởng và vui vẻ từ chính cách trò
chuyện của các em sinh viên và giảng viên khá ấn tượng về điều đó.
Trong nghiên cứu này chúng tôi đưa ra câu hỏi thứ hai đối với người được điều
tra như sau: Dựa vào các phong cách giao tiếp ứng xử dưới đây, theo anh chị phong
cách giao tiếp ứng xử nào phù hợp nhất với sinh viên trường CĐSP Đà Lạt, kết quả
thu được cụ thể như sau:
Biểu đồ: Tỉ lệ nhận định từ người được điều tra về phong cách giao tiếp ứng xử
của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
Đa số người được khảo sát cho rằng phong cách giao tiếp ứng xử của sinh viên
trường CĐSP Đà Lạt là sự hiền hòa, thanh lịch và lịch sự, trong đó sự thanh lịch
được đánh giá cao nhất với 89,33% số lượng người được khảo sát cho rằng như vậy
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Phóngkhoáng
Hiền hòa Thanh lịch Lịch sự Nghiêm túc Rụt rè
Tỉ lệ không lựa chọn
Trang 33
Sự hiền hòa này được thể hiện qua nụ cười dễ thương, cách nói chuyện thân
thiện, sự nhẹ nhàng trong cách ứng xử, không xô bồ, phần lớn cũng dựa vào khí hậu
mát mẻ, dễ chịu xây dựng nên tính cách con người tại ngôi trường CĐSP Đà Lạt
Khí hậu Đà Lạt quanh năm mát mẻ cũng là yếu tốt rất lớn ảnh hưởng tới sự phát
triển khí chất, tính cách của sinh viên ở trường CĐSP Đà Lạt
Đánh giá chung có thể thấy rằng có tới trên 80% số người được điều tra cho
rằng sinh viên trường CĐSP Đà Lạt luôn cởi mở và thân thiện, ngoài ra các nét tính
cách đặc trưng của sinh viên ở đây đó chính là hiền hòa, thanh lịch và lịch sự điều
này một lần nữa nhấn mạnh được rằng môi trường sư phạm tại ngôi trường này rất
phong cách sự phạm, rất riêng, không xô bồ, không vội vã, một không khí rất nhẹ
nhàng và đầy tinh tế.
Sự hiền hòa trong giao tiếp ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt đã để
lại nhiều ấn tượng đối với mọi người khi tiếp xúc, trong những phong cách giao tiếp
chúng tôi đưa ra, cho thấy văn hóa giao tiếp ứng xử sinh viên trường CĐSP Đà Lạt
tuy có sự tổng hòa trong giao tiếp từ khắp nơi trên cả nước nhưng vẫn có một nét
riêng đặc biệt, đó chính là sự thanh lịch được biểu hiện từ sự nhẹ nhàng tinh tế, lôi
cuốn và thu hút đó là điều đặc biệt với tất cả mọi người, tạo được những dấu ấn khó
phai trong lòng mọi người khi tiếp xúc. Đây là một thang thuốc rất quý giúp cho các
bạn sinh viên trong trường có thể gây được thiện cảm từ mọi người xung quanh đặc
biệt là hiệu quả từ mỗi bài học sẽ đạt được rất cao nếu như sinh viên ở đây phát huy
được những điều thú vị như thế này.
3. Kết luận
Văn hóa giao tiếp - ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt có thể khẳng
định ở những nét đặc trưng cơ bản, biểu hiện rõ nét từ dáng vẻ bên ngoài đến chiều
sâu tâm hồn, phong thái sư phạm rất riêng và đặc biệt, nhẹ nhàng và tinh tế
Thái độ vui vẻ, nhiệt tình, cở mở và thân thiện, lịch sự của sinh viên trường
CĐSP Đà Lạt luôn được nhắc đến nhiều nhất trong câu trả lời của mỗi người được
điều tra. Điều đó cho thấy sự thanh lịch luôn được mọi người đánh giá cao về sinh
viên nơi đây
Phong cách giao tiếp ứng xử của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt là vẻ đẹp của
sự hiền hòa, thanh lịch, thân thiện, cởi mở, vui vẻ và lịch sự, có được qua quá trình
ren luyện của sinh viên và học tập, trau đồi kiến thức trong nhà trường, tạo nên một
hiếu ứng mô phạm trong phạm vi toàn trường, luôn gây được thiện cảm lớn trong
lòng mỗi người khi tiếp xúc với sinh viên ở trường CĐSP Đà Lạt
Trang 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Bừng, Hải Vang (1997), Tâm lý học ứng xử, NXB Giáo dục.
2. Khánh Giang (1959), Đà Lạt với khách du lịch, Báo Thời nay số 3, Sài Gòn.
3. Phạm Phú Thành (1990), Báo cáo tình hình văn hóa tư tưởng của cư dân Đà Lạt.
4. Nguyễn Văn Thường (2017), Văn hóa giao tiếp ứng xử của người Đà Lạt thông
qua khách du lịch, HTKH Tâm lý học, NXB ĐHQG Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Uẩn (2005), Giáo trình tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội.
6. E.Brunswiks (1977), Comtemporart approach to environment cognition, University
of Colorado.
.
Trang 35
VÀI TRAO ĐỔI VỀ HOẠT ĐỘNG TẠO HỨNG THÖ
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH THÍ ĐIỂM Ở BẬC HỌC MẦM NON
Nguyễn Thị Thanh Hương*
1. Lời mở đầu
Hiện nay rất nhiều địa phương, trong đó có Lâm Đồng, dưới sự chỉ đạo của Sở
Giáo Dục – Đào tạo đang triển khai chương trình thí điểm làm quen với tiếng Anh cho
trẻ Mầm Non ở 3 khối lớp: Mầm, Chồi, Lá. Lứa tuổi này thường rất hứng thú trước
những giai điệu vui nhộn, bị lôi cuốn bởi các trò chơi hay các bài hát tiếng Anh. Chính
vì vậy việc làm quen với tiếng Anh cho các bé thông qua các trò chơi và bài hát sẽ
giúp các bé thêm yêu thích và hào hứng với các tiết học tiếng Anh hơn. Các bé sẽ được
chơi, được hát theo lời nhạc tiếng Anh, được rèn kỹ năng phát âm và sự tự tin một
cách tự nhiên ngay từ những bước đầu đời.
Tuy nhiên, tổ chức cho trẻ làm quen với Tiếng Anh là một việc không hề đơn
giản. Nó đòi hỏi tính nghiêm túc, khoa học từ việc xác định độ tuổi bắt đầu, mục đích
của việc học tới sự tuân thủ các điều kiện cần thiết về trình độ, năng lực ngoại ngữ,
phương pháp sư phạm của giáo viên, về cơ sở vật chất, nội dung chương trình… Phân
biệt rõ mục đích làm quen với Tiếng Anh ở trẻ mầm non và tuân thủ chặt chẽ các
điều kiện liên quan là góp phần quyết định đảm bảo cho sự thành công của quá trình
cho trẻ làm quen với Tiếng Anh trong trường mầm non.
Với lứa tuổi Mẫu Giáo, việc học ngoại ngữ nên nhẹ nhàng, vui tuơi. Việc làm
quen với Tiếng Anh ở lứa tuối Mẫu Giáo thực ra chỉ là một cuộc dạo chơi trong công
viên có nhiều hoa, lá, sắc màu, âm thanh bằng tiếng Anh. Chính cuộc dạo chơi này
giúp trẻ có khả năng tiếp thu ngôn ngữ một cách tự nhiên, không gò bó bắt buộc như ở
các cấp học phổ thông.
Vì vậy khi dạy cho trẻ, các giáo viên thường sử dụng các trò chơi để bầu không
khí học tập vui vẻ, thư giãn và có nhiều cơ hội được giao tiếp trong bối cảnh của thế
giới thực. Bên cạnh đó, giờ học sẽ hiệu quả hơn nếu trẻ được học bằng các bài hát
tiếng Anh, ngắn nhưng đầy màu sắc vui tươi, từ ngữ gần gũi với cuộc sống hàng ngày.
Và trẻ sẽ cảm thấy thoải mái trong việc học thêm ngôn ngữ mới, song song với việc
học tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt. Trẻ học sẽ hiệu quả hơn trong bầu không khí học tập vui
vẻ, thư giãn và có nhiều cơ hội được nói tiếng Anh từ lứa tuổi đầu đời.
2. Thực trạng
Từ năm 2015 Sở Giáo dục và Đào tạo Lâm Đồng đã triển khai thí điểm chương
trình cho trẻ làm quen với ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng. Nhiều trường đã triển khai thí điểm thành công chương trình này và đã nhận
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 36
được những phản hổi tích cực từ phía phụ huynh. Tuy nhiên, việc dạy tiếng Anh ở bậc
học Mầm non trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần trao đổi.
Trẻ mầm non khá hiếu động, khả năng tập trung thấp và trẻ thích vừa học vừa
chơi. Một số đông trẻ rất hào hứng với các giờ học tiếng Anh. Các em hát, luyện tập từ
và tham gia các hoạt động rất vui tươi, phấn khởi, song bên cạnh đó một số ít trẻ còn
mải chơi, hay nghịch ngợm việc riêng, chưa tập trung nhiều vào bài học.
Giai đoạn Mầm Non là giai đoạn đặc biệt nên thừơng phải dạy dỗ theo cách
riêng. Giáo viên tiếng Anh cần phải tạo ra những “sân chơi” trong từng tiết học, nhằm
giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách tự giác, vui vẻ chỉ trong vòng 30 phút lên lớp. Tuy
nhiên một vài giáo viên tiếng Anh còn chưa hiểu kỹ tâm lý học sinh ở lứa tuổi mầm
non và các thủ thuật lên lớp ở bậc học này. Một phần nhỏ đội ngũ giáo viên vẫn còn
gặp khó khăn với việc quản lý học sinh trong giờ học.
Các trường Mầm non đã đều cố gắng tạo mọi điều kiện để giáo viên tiếng Anh
có thể giảng dạy một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Tuy nhiên cơ sở vật chất tại một số
trường còn chưa đáp ứng được đối với việc dạy ngoại ngữ.
Một vấn đề quan trọng nữa là tiếng Anh trong lứa tuổi mầm non hiện nay có
một số vấn đề như sự tương tác của giáo viên với học sinh chưa có nhiều. Ta cứ nghĩ
là dạy hát, dạy đọc thơ, dạy kể chuyện bằng tiếng Anh là được, nhưng chúng ta phải
dạy học sinh hát để học tiếng Anh chứ không phải chúng ta hát cho học sinh nghe, học
sinh hát theo. Và vì vậy, khi cho trẻ làm quen với tiếng Anh qua các bài hát, hãy cho
bé vận động, nhảy múa, hát theo, bắt chước theo các âm trong bài hát, đó là cách
“thẩm thấu” tiếng Anh một cách tự nhiên nhất.
3. Một vài trao đổi về các hoạt động tạo hứng thú trong giảng dạy Tiếng Anh thí
điểm ở bậc học Mầm non
3.1. Lý do trẻ ở bậc học Mầm non nên học Tiếng Anh thông qua trò chơi và bài hát
- Những bài hát Tiếng Anh sẽ giúp trẻ cảm thấy phấn khởi và yêu thích việc
học hơn rất nhiều so với phương pháp truyền thống khô khan.
- Những bài hát Tiếng Anh giúp trẻ nghe nhiều và đều đặn. Từ đó trẻ sẽ tự hình
thành khả năng phản xạ nghe với tiếng Anh. Mà như ta đã biết, kỹ năng nghe là yếu tố
cơ bản và cực kỳ quan trọng để học giỏi bất kì ngôn ngữ nào.
- Những bài hát Tiếng Anh sẽ cung cấp rất nhiều các từ vựng và cấu trúc mới,
phù hợp với trẻ.
- Các bài hát tiếng Anh thiếu nhi có giai điệu chậm, cách phát âm đơn giản, và
được hát bởi các ca sĩ nhí gần gũi. Điều này sẽ giúp trẻ nghe và tiếp xúc với Tiếng
Anh theo cách tốt nhất.
- Trò chơi, bài hát giúp tạo không gian thoải mái và thu hút trẻ trong giờ học
Tiếng Anh.
Trang 37
3.2. Trò chơi ngôn ngữ tạo ra môi trường học tập vui vẻ và là phương pháp giảng
dạy tích cực lấy người học làm trung tâm, có tác dụng làm cho hoạt động học trở
nên nhẹ nhàng, hứng thú với trẻ và giúp rèn luyện sự mạnh dạn tự tin của trẻ.
4. Một số hoạt động sử dụng trò chơi và bài hát
4.1. Phần chuẩn bị
Giáo viên cần nghiên cứu mục tiêu và nội dung bài học để lựa chọn trò chơi, bài
hát phù hợp với mục đích bài dạy. Giáo viên cần chuẩn bị các đồ dùng cần thiết cho bài
dạy hát hay trò chơi. Tùy thuộc vào mỗi trò chơi hay bài hát, đồ dùng có thể là tranh
ảnh, đồ vật thật, đồ chơi, thú bông hay soạn trò chơi, bài hát trên powerpoint và clips.
4.2. Các cách dạy bài hát có thể sử dụng trong giờ tiếng Anh ở bậc học Mầm Non
4.2.1. Chant (Hát nói)
- Chant là một dạng hát nói theo nhịp điệu nhằm cải thiện việc phát âm, ngữ
điệu và từ vựng. Chant (hát nói) giúp học sinh tự tin, năng động khi tham gia các hoạt
động học.
- Giáo viên nghiên cứu một số bài chant có sẵn trong sách hoặc giáo viên có thể
tự biên soạn dựa theo giai điệu.
- Ví dụ: NUMBERS CHANTS
One, two, three
One, two, three
Children, children, come with me.
Four, five, six
Four, five, six
Children, children, stamp your
feet.
Seven, eight, nine
Seven, eight, nine
Children, children, clap your
hands. …
4.2.2. Các bài hát có động tác minh họa
- Loại bài hát dạng này có lời hát theo nhạc kèm các động tác phụ họa giúp trẻ
thuộc và nhớ bài hát lâu hơn.
Trang 38
- Giáo viên nên kết hợp lời bài hát với một vài động tác phù hợp. Qua đó trẻ có
thể đoán được nội dung của bài hát, hứng thú hơn trong học hát và thẩm thấu tiếng
Anh một cách tự nhiên nhất.
- Ví dụ như bài “I like to eat, eat, eat apples and bananas.……” giáo viên vừa
cho trẻ hát lời, nhìn tranh “apples, bananas” và kết hợp động tác “like (thích), eat (ăn)”
khiến cho trẻ rất thích thú.
4.2.3. Dạy bài hát thông qua hình ảnh
- Khi dạy lời bài hát cho trẻ, giáo viên gặp khó khăn khi trẻ không nhớ được lời
nhanh. Vì vậy giáo viên có thể sử dụng tranh, ảnh hoặc vật thật để truyền đạt lời bài
hát và trẻ có thể thông qua hình ảnh hiểu được nội dung của lời bài hát, đồng thời làm
tăng thêm sự sinh động thu hút sự chú ý của trẻ.
- Ví dụ: Khi dạy bài hát “Where‟s my teddy?” giáo viên có thể sử dụng hình
ảnh hoặc vật thật của “teddy bear, doll” và hình một dấu hỏi để dạy trẻ lời bài hát
“Where‟s my teddy? Where‟s my teddy? Where, Where, Where? … There, there,
there….”
4.2.4. Dạy bài hát thông qua trò chơi
- Giáo viên có thể sử dụng trò chơi khi dạy bài hát cho trẻ. Phương pháp này
giúp trẻ tăng sự hứng thú, thu hút trẻ để trẻ cảm thấy hấp dẫn với tiết học.
- Ví dụ: Giáo viên có thể cho trẻ chơi trò chơi “Pass the ball.” để trẻ luyện tập
hát theo nhóm hoặc cá nhân. Giáo viên mở nhạc, cho trẻ chuyền quả bóng tới nhóm
hoặc cá nhân nào thì nhóm hoặc cá nhân đó phải hát bài hát.
Trang 39
4.2.5. Dạy từ vựng thông qua các bài hát trên Youtube
- Trên Youtube có rất nhiều bài hát dành cho trẻ em phù hợp với phần từ trẻ đã
học trong bài. Giáo viên cần xem để chọn trước bài hát phù hợp, nắm chắc giai điệu
của bài hát kết hợp với dạy trước từ mới của bài.
- Điều kiện cần có là lớp học phải được trang bị máy tính, máy chiếu có màn
hình rộng, và có kết nối Internet.
- Ví dụ: Khi dạy về chủ đề “Animals (các con vật)”, giáo viên có thể mở
Youtube bài hát “Old Mac Donal had a farm” để ôn từ vựng về các con vật kết hợp
dạy hát sẽ làm cho lớp học trở nên sinh động hơn rất nhiều.
4.3. Một số trò chơi có thể sử dụng trong giờ dạy tiếng Anh ở bậc học Mầm Non
4.3.1. Slap the board
Giáo viên có thể chia lớp thành 3 đến 4 đội. Một số bức tranh về từ vựng đã học
sẽ được treo lên bảng hoặc để trên bàn. Đại diện các đội sẽ lắng nghe giáo viên đọc từ
nào thì nhanh tay đập ngay vào hình đó và đọc thật to từ bằng tiếng Anh. Ai đập đúng
hình và đọc to, chuẩn nhất sẽ chiến thắng.
4.3.2. Spin the bottle
Học sinh ngồi vòng tròn hoặc hình chữ U. Giáo viên sẽ ngồi ở trung tâm vòng
tròn và quay chai nước. Khi chai ngừng lại và phần đầu chai chỉ về phía bạn nào thì
bạn đó sẽ phải trả lời 1 câu hỏi của giáo viên, hay nói to 1 từ mới được học. Bạn nào
có đáp án đúng sẽ được quay chai nước.
Trang 40
4.3.3. Guessing the picture
Giáo viên sẽ dấu hình đi và giơ lên thật nhanh. Em nào đoán đúng từ trên tấm
hình sẽ chiến thắng (hình sẽ được giơ lên nhanh hơn nếu trẻ đoán đúng). Hoặc giáo
viên cũng có thể cho trẻ đoán hình thông qua tranh ảnh có sẵn. Giáo viên cần có vài
thủ thuật nhỏ trong trò chơi này.
4.3.4. Who is the fastest?
Giáo viên dán hình lên trên bảng và mời từ 2 đến 5 trẻ xếp thành 1 hàng ngang.
Giáo viên sẽ đọc 1 từ trên bảng và bạn nào chạy nhanh nhất và đập chính xác sẽ chiến
thắng (dùng tay hoặc vợt để đập). Trẻ có thể chơi nhảy ô, chơi xúc sắc, … trong trò
chơi này.
Trang 41
5. Kết luận
Việc giảng dạy Tiếng Anh cho trẻ mầm non không hề đơn giản. Công việc đó
đòi hỏi rất nhiều công sức và lòng nhiệt tình, sự tận tâm của người giáo viên. Bên cạnh
đó, người giáo viên cần phải lựa chọn phương pháp và hình thức giảng dạy phù hợp để
trẻ cảm thấy thực sự hứng thú trong giờ học. Trong mỗi giờ học, người giáo viên cần
mang đến cho trẻ một không khí thật gần gũi, thoải mái nhằm động viên trẻ tham gia
vào tiết học một cách thích thú và tự nhiên nhất.
Thực sự, phương pháp học tiếng Anh thông qua các trò chơi và bài hát được rất
nhiều trẻ yêu thích. Bởi vì ở môn Tiếng Anh, trẻ không hiểu hết ý nghĩa từ nhưng vẫn
thích hát, thích chơi đùa trong mỗi giờ học tiếng Anh. Trẻ sẽ cố gắng tự nhớ lời bài hát và
hát lại theo cách riêng của mình. Những lúc cố gắng hát bằng Tiếng Anh, trẻ đã tự luyện
cho mình khả năng tiếp thu một ngôn ngữ mới. Việc sử dụng các trò chơi và bài hát trong
giảng dạy ngoại ngữ có thể làm các em thích thú hơn trong quá trình học tập. Đó cũng là
một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công trong việc học ngoại ngữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ty Đại Trường Phát - Tài liệu tập huấn về phương pháp làm quen Tiếng Anh
cho trẻ ở bậc học Mầm non - Tháng 9/201
2. Công ty Đại Trường Phát - Tài liệu tập huấn về phương pháp làm quen Tiếng Anh
cho trẻ ở bậc học Mầm non - Tháng 10/201
3. Jenny Dooley, Virginia Evans - Happy Hearts 1- Express Publishin
4. Jenny Dooley, Virginia Evans- Happy Hearts Starters - Express Publishin
Trang 42
BÀN VỀ GIÁ TRỊ CỦA KIỂU NHÂN VẬT CUỒNG SI
TRONG SÁNG TÁC HONORÉ DE BALZAC
Trần Thị Đan Duy*
1. Đặt vấn đề
Honoré de Balzac (1799 -1850), nhà tiểu thuyết lớn thế kỷ XIX, nhà văn vĩ đại
của Văn học Pháp cũng như văn học thế giới, dẫu sớm ra đi ở tuổi 51 nhưng đã làm
được điều kì diệu của nhân loại. Tấn trò đời, công trình văn học đồ sộ và quý báu của
nhà văn thiên tài ấy, được lấy làm điển hình cho một khuynh hướng văn học khai sinh
sau khi nhà văn đã qua đời: khuynh hướng văn học hiện thực mang sắc thái phê phán.
Giá trị của bộ sách lớn lao ở chỗ không chỉ vẽ lên cả một nước Pháp nửa đầu thế kỷ
XIX với đầy đủ vẻ sống động, phức tạp cũng những xấu xa của thời đại kim tiền, mà
cho đến bây giờ, ở bất cứ xã hội công nghiệp và tư bản nào, sáng tác của Balzac vẫn
còn là những quyển sách có tính thời sự và ý nghĩa nhân văn.
Việt Nam tiếp xúc với Văn học Phương tây rất sớm, đặc biệt Văn học Pháp thế
kỷ XIX có một vị trí khá lớn trong sự phát triển văn học dân tộc. Sáng tác của Balzac,
tập trung trong bộ sách Tấn trò đời, được đông độc giả Việt Nam mến mộ và giới
nghiên cứu quan tâm sâu sắc.
“Nhân vật cuồng si” là một kiểu nhân vật xuất hiện khá lớn trong sáng tác của
nhà văn. Hầu như tác phẩm nào của Balzac cũng có một hoặc hai nhân vật có tính cách
cuồng si, những tính cách được sinh ra từ những căn bệnh của thời đại, được nhà văn
mổ xẻ, bóc tách để thấy cái “ý nghĩa ẩn giấu của cái tập hợp mênh mông những khuôn
mặt, những ham mê và những biến cố” như ông đã viết trong Lời nói đầu cho bộ sách
của mình. Tìm hiểu về kiểu nhân vật này sẽ mang lại những giá trị hết sức thiết thực
cho một thực trạng xã hội đang trên đà phát triển với vô vàng điều đáng quan ngại đối
với đời sống văn hóa – tinh thần của con người, đặc biệt là vấn đề đạo đức của con
người trong gia đình và trong xã hội.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1 Khái niệm nhân vật cuồng si
Trong Tâm lý học không có thuật ngữ cuồng si nhưng có khái niệm “say mê”
và “cuồng tính”. Cả hai thuật ngữ tuy có khác nhau về cấp độ nhưng đều có điểm
chung là sẽ đưa tới tình cảm mù quáng do đối tượng bị chi phối về tình cảm quá mạnh
dẫn đến mất kiểm soát về lý trí, những hoạt động dần đi đến chỗ chỉ hoạt động theo
bản năng.
Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt, cuồng si được giải nghĩa là “sự si
mê đến mức điên cuồng”. Trong tiếng Pháp, nguyên gốc của từ này là monomanie: có
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 43
một ý tưởng, một trạng thái tinh thần mà chỉ tâp trung vào một ý tưởng duy nhất,
choáng hết trí tuệ, sự thông minh hiểu biết của con người.
Trong lí luận văn học, thuật ngữ này được nhiều nhà nghiên cứu về Balzac đề
cập đến. Giáo trình Văn học Pháp (La Littérature Francaise) của C. de. Ligny và
M.Rousselot có viết ngắn gọn về Honoré de Balzac, trong đó có tiểu mục “Các nhân
vật cuồng si” với luận điểm “Các nhân vật cuồng si của Balzac bị thúc đẩy bởi một sức
mạnh mà họ không hoàn toàn chế ngự được và cuốn họ đi tới mức trở thành định
mệnh”[12, 95 . Trong Bậc thầy Do toiev ki- Balzac- Dickens, Stefan Zweig đã chỉ
ra nét đặc thù tính cách của các nhân vật trong Tấn trò đời: “Một tình cảm đã được
làm cho tăng lên gay gắt đã trở thành một chứng “cuồng si độc ý” sẽ hà hiếp các tình
cảm khác…” (Nguyễn Khương Như dịch) [13,133 . Trong Chân dung các nhà văn
thế giới, Lê Nguyên Cẩn có đề cập đến kiểu nhân vật cuồng si trong sáng tác của
Balzac như sau: “ ng tạo dựng một thế giới những con người dục vọng, thế giới nhân
vật cuồng si độc ý (monomanie). Kiểu nhân vật này có một dục vọng chủ đạo, chỉ có
một định hướng tập trung duy nhất. (…). Các nhân vật cuồng si chỉ có một điểm nhìn,
một ma lực thu hút họ”[10, 181-182 . Đỗ Đức Dục, người có nhiều công trình nghiên
cứu sâu về Balzac cũng đồng quan điểm nhưng lại dùng thuật ngữ “si cuồng”:“Những
nhân vật điển hình của Balzac mà đạt tới mức như Vôtơranh thì đã trở thành những kẻ
si cuồng (monomane), tức là những con người khổng lồ, những thứ quái nhân được
Balzac nhập xác cho một dục vọng điên cuồng, phóng đại, cường điệu, như soi qua
một ống kính hiển vi cỡ mạnh” [5,137 . Thái Thu Lan, nhà nghiên cứu – giảng viên
giảng dạy văn học Pháp đã dịch một số bài viết về Balzac từ tạp chí nước ngoài cũng
gọi kiểu nhân vật này là nhân vật cuồng si.
Từ các cơ sở của tâm lý học, ngôn ngữ học và dựa vào lý luận văn học bàn về
cách thức xây dựng nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Honoré de Balzac, có thể
định nghĩa sơ bộ về nhân vật cuồng si như sau: “Nhân vật cuồng si là một kiểu nhân
vật văn học mà biểu hiện của tính cách là ham muốn điên cuồng, có tính chất bệnh
hoạn đạt được tham vọng về một đối tượng, một ý tưởng nào đó đến mức mù quáng,
mất khả năng tự kiểm soát hành động của bản thân. Các nhân vật này thường có tính
cách cố chấp do sự tập trung toàn bộ năng lực, ý chí vào một dục vọng duy nhất,
không ngại vượt qua những rào cản về dư luận, lương tâm, đạo đức… và hành động
bất chấp hậu quả. Nhân vật cuồng si thường để cho dục vọng của mình chi phối, biến
thành nô lệ cho nó thay vì phải làm chủ và điều kiển nó”.
2.2. Các kiểu nhân vật cuồng si trong một số tác phẩm của Honoré de Balzac
Cơ sở để phân chia các kiểu nhân vật cuồng si khác nhau là đối tượng mà nhân
vật hướng tình cảm của mình đến. Với một số tác phẩm như Lão Goriot, Eugénie
Grandet, Gobseck, Ảo tưởng tiêu tan, Vinh và nhục của người kỹ nữ, Miếng da lừa, Bà
chị họ Bette có thể khái quát thành các kiểu nhân vật cuồng si như sau:
Trang 44
2.2.1. Kiểu nhân vật cuồng si tiền – vàng
Ở loại nhân vật này, tiêu biểu là Félix Grandet và Jean-Ether-Van-Gobseck, đều
xuất thân từ tầng lớp thứ 3 trong xã hội. Félix Grandet vốn là anh thợ đóng thùng, gặp
thời thế thuận lợi ông ta có cơ hội hoạt động chính trị và thương mại. ng ta giàu lên
từ đó. Gobseck đã phải lên tàu vượt biển sang Hà Lan khi vừa 10 tuổi và lão đã lặn lội
suốt 20 năm tìm mọi cách để làm giàu. Sự cố gắng của lão đủ để lão trở lại làm nghề
cho vay nặng lãi. Vốn dĩ cả hai nhân vật này đều làm ra đồng tiền một cách khó khăn,
tất nhiên là trước khi giàu có. Ban đầu ở những con người này nảy sinh một thứ tình
cảm: yêu tiền. Để có được đồng tiền họ đành phải tiết kiệm, rồi quen dần thành keo
kiệt. Vì quá yêu tiền, các nhân vật này muốn có thật nhiều tiền hơn nữa nên tự nhiên
dạy cho họ tính thủ đoạn trong làm ăn, kinh doanh và dần dần họ đâm ra say mê với
những cách làm đó là trở thành kẻ tham lam lúc nào không rõ, lâu dần thành tính cách.
Tiền thỏa mãn cho lạc thú của họ nên họ tập trung tất cả tình cảm vào đối tượng này,
họ dâng toàn bộ tình yêu cho sản phẩm mà họ làm ra nhưng rồi họ bị một thứ đam mê
mù quáng chi phối, các nhân vât này trở thành nô lệ của chính đồng tiền của mình, họ
sống chết vì nó.
Tóm lại, loại nhân vật cuồng si tiền – vàng thường có biểu hiện tính cách là keo
kiệt, thủ đoạn, biển lận, tham lam và si mê vàng đến trở thành nô lệ của vàng. Đối
tượng chủ yếu của của loại nhân vật này thường xuất thân là tầng lớp lao động nghèo,
có một quá khứ cực khổ nhưng hiện tại đã thành đạt.
2.2.2. Kiểu nhân vật cuồng si danh - lợi
Balzac đã từng nói “Ngày nay quý tộc là 500.000 phơ răng lợi tức hoặc một
danh tiếng cá nhân”[3,9 . Có thể hiểu danh thuộc về tinh thần tức là tước vị, chức vụ
nghề nghiệp; lợi thuộc về vật chất, cụ thể là tiền bạc. Sự kết hợp danh và lợi sẽ tạo ra
sự sang – giàu, là thứ mà tất cả các nhân vật trong Tấn trò đời, nhất là lớp thanh niên
hãnh tiến đều mơ ước đạt được. Họ háo hức bước vào đời với một mong muốn có
được một danh tiếng cá nhân nào đó để được mọi người chấp nhận mình. Họ hăm hở
làm giàu, họ cố gắng kiếm cho mình một chỗ dựa vững chắc để thực hiện sự nghiệp.
Tuy vậy, có người bước đi thật khôn khéo và vững chắc như Eugène de Rastignac, có
người cũng “lên voi, xuống chó” nhưng tồn tại được, có người lại sớm từ giã cuộc
sống tươi đẹp ở tuổi thanh xuân. Với Raphael de Valentin (Miếng da lừa) và Lucien
Chardon (Ảo tưởng tiêu tan), kiểu nhân vật cuồng si danh lợi đã mang đầy đủ đặc
điểm của nó. Đối tượng chủ yếu của loại nhân vật này là lớp thanh niên trí thức nghèo
mang căn bệnh của thời đại: bệnh hãnh tiến. Những nhân vật này không cam chịu số
phận, có ước vọng thay đổi cuộc sống nghèo khổ bằng cách phải làm ra thật nhiều tiền
và phải có chân trong xã hội quý tộc Paris. Nhưng hầu như họ đều là những con người
dễ sa ngã, họ nhanh chóng thay đổi mình cho kịp với những đòi hỏi của xã hội. Như
vậy, họ đi vào con đường sa đọa, biến chất cũng nhanh như khi họ bị ném vào môi
Trang 45
trường mới bởi vì “tham vọng bắt đầu từ chỗ nào thì những tình cảm ngây thơ chấm
dứt từ chỗ ấy” (Vinh và nhục của người kỹ nữ). Điều đáng nói là họ ý thức được sự sa
đọa của họ, họ tự nguyện bán chác linh hồn của mình, họ ký giao kèo một cách tự
nguyện giữa họ và quỷ sứ để hy vọng được giàu – sang.
2.2.3. Kiểu nhân vật cuồng si tình cảm
Trong tất cả những thứ tình cảm thì tình yêu là phong phú nhất về bản chất,
biểu hiện và các cung bậc tình cảm khác nhau. Hai nhân vật Goriot (Lão Goriot) và
Adeline (Bà chị họ Bette) không có điểm chung nào về hoàn cảnh cũng như tính cách,
nhưng việc họ dành tình cảm quá mức cho đối tượng mà họ tôn thờ thì rất giống nhau.
Ở đây ta bàn tới nhân vật Goriot. ng cụ Goriot yêu hai cô con gái bằng tình phụ tử
nhưng trong tình yêu ấy phần nào đáp ứng dược những nhu cầu tình cảm mà trước đây
người vợ đã dành cho ông. ng yêu con như yêu những tình nhân, nó làm thỏa mãn
những khoái lạc cả về thể xác và tâm hồn. Tình yêu ấy bắt nguồn từ “một tấm lòng
cảm phục thiêng liêng, một tình yêu không bờ bến” đối với vợ ông và khi bà ấy mất,
ông đã chuyển cái tình cảm ấy sang hai cô con gái. Vì quá tôn sùng mà ông đã để tình
phụ tử trở thành “lòng tận tụy thiếu suy nghĩ” và dạy dỗ con không hợp lý. Bản chất
của tình phụ tử là yêu thương trìu mến nhưng nghiêm khắc, nó thuần túy là thứ tình
cảm tinh thần. Trong khi đó, ở lão Goriot thì “ông bố chỉ cần đòi hỏi một cái vuốt ve
để đền đáp những món tiền cung hiến ấy”. Hơn nữa, trong tình yêu của nhân vật này
dành cho con gái còn chứa đựng cả những khao khát danh vọng, khao khát cuộc sống
thượng lưu. Lão đã giàu nhưng lão khao khát sự sang trọng nên lão hy vọng các con
gái sẽ giúp lão đạt được nếu lão cung phụng chúng (một đứa là bá tước phu nhân, một
đứa có chồng là nhà tư sản). Mỗi khi muốn được đáp ứng nhu cầu về tiền bạc, các cô
tỏ ra yêu bố, như vậy ông cụ đã lầm tưởng là được yêu. Thế là ông bố ấy đã vắt kiệt
cuộc sống của mình để làm thỏa mãn nhu cầu tình cảm của chính mình. Nhưng lão
không hề biết rằng mình đang làm hư hai đứa con của mình, làm cho chúng không biết
đến lòng tự trọng, không biết đến lương tâm, không biết đến những nguyên tắc ứng xử
đáng phải có trong gia đình, lão đã dạy cho chúng biết giá trị của đồng tiền và tiêm
nhiễm những thói hư vinh của xã hội, bởi lẽ “cái bản chất tốt đẹp nhất, những tâm hồn
cao quý nhất cũng có thể hư hỏng vì được nuông chìu như thế” (Lão Goriot). Như vậy,
cho dù là những tình cảm cao đẹp nhưng nếu không làm chủ được mình, để tình cảm
vượt quá giới hạn của cái đẹp sẽ bước sang ranh giới của cái xấu.
2.2.4. Kiểu nhân vật cuồng si hưởng thụ
Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là nhân vật Charles Grandet (Eugénie
Grandet). Là một đứa con của gia đình khá giả ở Paris, sớm tiếp xúc với những hủ bại
của đời sống xã hội thượng lưu, được cha mẹ nuông chìu, được tình nhân là một phụ
nữ quý tộc dạy cho cách sống ưa hình thức và thực dụng, Charles Grandet hiện lên như
một điển hình cho lớp thanh niên hãnh tiến, cơ hội và thực dụng. Anh ta vừa là một
Trang 46
công tử trưng diện đỏm dáng, mang đầy đủ phong cách ăn chơi của Paris, vừa là một
người tính toán lạnh lùng, vị kỷ. Vì phải từ bỏ cuộc sống sung sướng khi người cha vỡ
nợ rồi tự sát, Charles quyết tâm làm giàu bằng đủ mọi cách, kể cả chuyện buôn người.
Trước khi sang Ấn Độ làm ăn, hắn đã yêu người chị họ một cách tha thiết, người đã
không màng sự sống trước cơn thịnh nộ của bố mình khi dốc hết tiền vàng cho hắn đi
làm ăn. Nhưng rối hình ảnh người con gái đó cứ phai nhạt theo các cuộc gian thương
của hắn, cuối cùng chỉ là người đã từng cho hắn vay sáu nghìn phơ-răng. Vì niềm kiêu
hãnh của một người xuất thân từ tầng lớp thượng lưu và sự sùng tín vào sự trở về của
quý tộc nên hắn sẵn sàng quay lưng lại với những tình cảm cao quý. Có cơ hội để áp
dụng những bài học tàn nhẫn trong xã hội thượng lưu, Charles để đồng tiền làm cho
khô héo tâm hồn, để thói ưa hưởng thụ làm cho mù quáng. Charles sắp đặt cuộc đời
mình theo những tính toán của thời cuộc, chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu
(lấy con gái nhân tình) miễn nó mang lại cho anh ta nhiều tiếng tăm. Thói quen hưởng
thụ trong quá khứ nung nấu anh ta làm giàu, và khi đã giàu có anh ta càng không thể từ
bỏ nó. Vừa là gã tư sản trẻ hãnh tiến vừa là kẻ ưa xa hoa hình thức, Charles đã đánh
đổi những tính cách tốt đẹp, một đứa con có giáo dục để trở thành một kẻ lõi đời với
đầy đủ những tố chất phù hợp với xã hội thượng lưu của hắn.
2.3. Giá trị của kiểu nhân vật cuồng si trong sáng tác của Balzac
Xã hội Pháp nửa đầu thể kỷ XIX là một thời đại nhiễu loạn về mọi mặt. Những
cái thuộc về tinh thần, thuộc về lề lối, đức hạnh đã được người ta ngang nhiên vật chất
hóa, biến thành những thứ có thể mua bán, đổi chác. Đa số các tác phẩm lấy bối cảnh
là Paris, là xứ sở của các nhà văn, nhà tư tưởng, nhà thơ có cơ hội thể hiện tài năng của
mình. Nơi ấy là nơi hội tụ của lạc thú, của cuộc sống dễ dãi, đầy đủ, hoa lệ. Nhưng
Paris cũng là vực thẳm khôn cùng từ chính từ sự cám dỗ phù hoa của nó. Hy vọng, vỡ
mộng, tự sát là con đường mà vô số kẻ bị Paris cuốn hút về phía nó. Nếu muốn tồn tại
ở đó thì phải biết vất bỏ lương tâm, trái tim, phải đeo mặt nạ, phải gạt gẫm người đời
một cách tàn nhẫn, buộc phải dối trá, vụ lợi, đố kỵ, vô tâm và sẳn sàng từ bỏ cái gọi là
phẩm giá.
Đặt trong bối cảnh như vậy, các nhân vật cuồng si của Balzac với bản chất, tính
cách đã phân tích có một mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xã hội bởi lẽ “sự hư đốn
trong xã hội mang những màu sắc môi trường mà nó nảy nở”[3,55 . Quy luật tương tác
của xã hội biểu hiện ở chỗ thời đại nào sẽ đào luyện nên những con người tương ứng
với đặc trưng của thời đại đó. Con người là sản phẩm của xã hội mà đạo đức, tình cảm,
tâm lý là các phương diện trực tiếp chịu sự tương tác với môi trường. Balzac đã có cái
nhìn biện chứng về quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa vật chất sống lên tinh thần, giữa
khí hậu, môi trường, phong tục tập quán và cá nhân con người. Xuất phát từ cái nhìn
có tính chất xã hội, hình tượng các nhân vật cuồng si của Balzac trong Tấn trò đời có
một giá trị hiện thực rất lớn.
Trang 47
Trước hết, nhân vật cuồng si là đặc sản của xã hội “vàng thay kiếm”. Quá trình
tích lũy tư bản ở Pháp diễn ra từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX đã đi đến giai đoạn
“đẫm máu”. Đặc điểm lịch sử thời kỳ tích lũy tư bản làm cho bọn tư sản khát vàng, hung
ác, hiểm độc có thêm nét tính cách thứ hai: tham lam, bần tiện, chắt chiu từng đồng nhỏ
để làm giàu. Keo kiệt và gian tham trở thành yếu tố trong tính cách xã hội của giai cấp
tư sản. Từ đó mới có Félix Grandet và Van Gobseck. Sheaespeare đã từng lên án đồng
tiền gay gắt, gọi nó là “con điếm chung của cả loài người”. Molière cũng phê phán nó
không kém qua nhân vật H‟arpagon. Tuy nhiên, chỉ có thời đại Balzac mới có những
con người yêu tiền như Félix Grandet và Van Gobseck. Người ta cười nhân vật của
Molière nhưng người ta khiếp sợ nhân vật của Balzac bởi vì tính tham lam và keo kiệt
đã được nâng lên đến mức cuồng si. Không riêng gì hai nhân vật này, tất cả các nhân vật
cuồng si của Balzac đều là sản phẩm của một xã hội mà đồng tiền “trở thành đòn bẩy
quyền lực của xã hội”. Qua các nhân vật này, Balzac cho thấy cái uy lực ghê gớm của
đồng tiền, nó có thể trả con người về với bản tính sơ khai của nó, bản chất thú tính.
Đồng tiền đưa xã hội đi lên nhưng dẫn con người đi đến bờ vực thẳm.
Thứ hai, nhân vật cuồng si là sản phẩm của “căn bệnh thời đại”. Nỗi đau thế kỷ
là nỗi đau “vỡ mộng” mà các cuộc cách mạng tư sản mang lại. Hơn ai hết, văn nghệ sĩ
là những người cảm nhận sâu sắc nhất bi kịch này. Từ Chateaubriand, Puskin,
Stendhal, Flaubert cho đến Balzac, có vô số những nhân vật mang trong mình nỗi đau
ấy. Kẻ thấy mình bị ruồng bỏ, kẻ thấy mình vô dụng, thừa thải, kẻ bế tắc vùng vẫy tìm
lối thoát, kẻ phản kháng tìm hạnh phúc bên ngoài hôn nhân,…Trong sáng tác của
Balzac, tất cả họ đều ở lứa tuổi thanh niên, vừa đặt chân vào đời đã vấp ngã. Vì vậy,
chỉ cần ai đó trao cho họ một chiếc phao hoặc một chiếc thang để đi thẳng đến đich mà
không nhọc sức, họ không ngần ngại giao nộp linh hồn cho kẻ đó. Phương thức “bán
linh hồn cho quỷ dữ” được Balzac khai thác triệt để khi xây dựng các nhân vật thanh
niên hãnh tiến. Bằng các câu chuyện về số phận bi đát của của thanh niên, vấn đề đặt
ra trong tác phẩm của Balzac có ý nghĩa xã hội rất lớn. Làm sao để dung hòa mối bất
hòa giữa cá nhân và xã hội? Làm sao để tuổi trẻ - tài năng – khoái lạc có tiếng nói
chung trong thời đại mà đồng tiền và dục vọng có sức chi phối mạnh như nhau? Nổi
loạn hay phục tùng?
Thứ ba, nhân vật cuồng si là sản phẩm của thời đại tôn sùng cái tôi. Tính cá
nhân là nguồn động lực kích thích tính cách cuồng si của các nhân vật. Những ham
muốn cá nhân này không cần đến thước đo, chuẩn mực, không có gì làm giới hạn.
Hành động của các nhân vật chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Bản
năng sinh tồn của cái tôi vị kỷ được tư tưởng thống trị tiếp sức, các nhân vật cuồng si
của Balzac như thoát thai ra khỏi kiếp người – cái kiếp mang tính đồng loại cao nhất –
để trở lại với cái gốc nguyên thủy của mình. Từ chỗ chỉ muốn khẳng định cái tôi, các
nhân vật này đã đi đến chỗ muốn chế ngự thiên hạ, thống trị xã hội. Kết cục là gì?
Trang 48
Những giá trị nhân bản tốt đẹp bị lấn át, tan rã thậm chí bị hủy diệt. Những tính cách
mới hình thành: tàn nhẫn, độc ác, khắc kỷ, vô tâm. Sự tính toán ích kỷ biến cuộc sống
thành một bãi chiến trường ở đó con người đấu với con người và nó không thương xót
cho kẻ yếu, cho đạo đức và cái thiện.
3. Kết luận
Nhân vật cuồng si được nhà tiểu thuyết vĩ đại Honoré de Balzac dụng công
sáng tạo trong suốt sự nghiệp viết văn của mình. Với kiểu nhân vật này nhà văn đã
hoàn thành sứ mệnh viết “pho lịch sử phong tục” cũng chính là “pho lịch sử trái tim
con người”. Nhân vật cuồng si dự phần rất quan trọng trong hiệu quả, trong khả năng
phê phán của bộ Tấn trò đời, thể hiện quan niệm của nhà văn đối với thực tại, giúp
nhà văn thể hiện những quan sát, suy ngẫm trước cuộc sống đầy nhiễu nhương, cặn bã
của thời đại mình. Tấn trò đời không phải là sự phản ánh đơn thuần bộ mặt xã hội mà
là “hiểu thấu nó trong vô vàng xáo động”, tìm kiếm các lý do của các động lực, nắm
bắt những ẩn giấu bên trong tất cả mọi sự kiện, tình huống, hình thái. Tấn trò đời trở
thành bản cáo trạng dài dòng và đầy đủ, nhẹ nhàng mà sâu sắc, đanh thép đối với xã
hội đương thời. Với ý nghĩa đó, Tấn trò đời đã bắt đầu mang sức mạnh của sự khẳng
định, sự tái tạo xã hội.
Ngày nay với một xã hội đang trên đà phát triển với vô vàng điều đáng quan
ngại đối với đời sống văn hóa – tinh thần của con người, đặc biệt là vấn đề đạo đức,
việc nghiên cứu các nhân vật cuồng si với những hậu quả mà tính cách này mang lại
có một ý nghĩa thiết thực. Từ sự nổ lực làm giàu đến ý muốn thành công hay sự dâng
hiến cho tình yêu, tất cả đều tốt đẹp nhưng nếu bước qua khỏi giới hạn cho phép, vượt
ra khỏi tầm kiểm soát của bản thân thì sẽ trở thành những kẻ keo kiệt, vị kỷ, ngu ngốc,
tàn nhẫn, vô tâm. Khi để mình trở thành những “kẻ cuồng si” nghĩa là đã tự đánh mất
những phẩm chất tốt đẹp của chính mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Đỗ Đức Dục (1996), Hônôrê đơ Bandắc, một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực,
NXB Khoa học, Hà Nội.
3. Thái Thu Lan (2002), Thế giới của Balzac dịch t Hippolyte Taine - Tiểu luận mới
về phê bình và Lịch sử Balzac) (tài liệu).
4. Lưu Đức Trung – Lê Nguyên Cẩn – Nguyễn Ngọc Thi (2001), Chân dung các nhà
văn thế giới tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Nhiều tác giả (2000), T điển Tâm lý học, NXB Khoa học Xã Hội.
Trang 49
6. Viện ngôn ngữ học (2000), Tự điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà
Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.
7. Bahktin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
8. Honoré de Balzac (1999), Gobseck, Tấn trò đời tập 1), NXB Thế Giới, Hà Nội.
9. Honoré de Balzac (1999), Tấn trò đời 15 tập), NXB Thế Giới, Hà Nội.
10. M.B.Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
văn học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Manfred (1968), Đại cách mạng Pháp, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. C. de. Ligny và M.Rousselot (1998), Giáo trình Văn học Pháp (La Littérature
Francaise), (Trịnh Thu Hồng, Đỗ Phương Mai dịch), NXB Giáo dục, Hà Nội. (Phần
thế kỷ XIX).
13. Stefan Zweig (1998), Bậc thầy Doxtôiepki, Balzac, Dickenx, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
Trang 50
NHỮNG KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
CỦA NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU NGÔN NGỮ
Trần Thị Mộng Đào*
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ xuât hiện từ rất lâu nhưng gần đây phát triển
mạnh mẽ. Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ góp phần phát triển lý luận ngôn ngữ học và
cho phép đưa ngôn ngữ học vào ứng dụng thực tiễn.
2. Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ
Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là một ngành khoa học độc lập của ngôn ngữ học
với 5 bộ phận: phạm vi khách thể, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và địa bàn ứng dụng.
Phạm vi nghiên cứu đối chiếu bao gồm một lúc nhiều ngôn ngữ, thường là một
cặp ngôn ngữ. Phạm vi bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ, bất luận ngôn ngữ đó cùng
hay khác loại hình và ngữ hệ, ra đời trong quá trình dạy tiếng để nắm ngoại ngữ nhanh
hơn và tốt hơn. Nếu ngôn ngữ học cấu trúc và ngôn ngữ học miêu tả kiến giải đơn ngữ
luận, tách rời các ngôn ngữ, siêu hình, cứng nhắc về ngôn ngữ và lời nói thì nghiên
cứu đối chiếu khắc phục hạn chế, kề thứa và phát triển những thành tựu của ngôn ngữ
học miêu tả trong giai đoạn phát triển mới của ngôn ngữ học. Hơn thế nữa, nghiên cứu
đối chiếu hướng vào mặt động của ngôn ngữ, trong mối quan hệ rộng với văn hóa, lịch
sử, hướng tới người nòi, người học cụ thể, mở đường cho giao lưu văn hóa văn minh
toàn nhân loại.
Đối tượng khảo sát là tất cả các mặt, các cấp độ cấu trúc và hoạt động của các
ngôn ngữ đó.
Nhiệm vụ nghiên cứu đối chiếu là xác định sự giống nhau và khác nhau của các
ngôn ngữ được đối chiếu nhằm làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác nhau của 2
hoặc 1 số ngôn ngữ, hoặc làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi, nhấn mạnh sự đối
chiếu những khác nhau giữa 2 hoặc hơn 2 đối tượng được khảo sát. Xuất phát từ việc
dạy và học ngoại ngữ, những nét khác biệt thường gây khó khăn. Xác định sự giống
nhau về chức năng và hoạt động là 1 nhiệm vụ quan trọng. Đồng thời chú ý cả cái
khác nhau để xác định và nhận diện chúng. Nghiên cứu đối chiếu không chỉ dừng lại ở
mức đáp ứng yêu cầu lí luận ngôn ngữ học: xây dựng lí luận đại cương, xác lập phổ
quát ngôn ngữ loài người, xây dựng ngữ pháp phổ quát,…
Phương pháp đối chiếu có nét chung với các phương pháp khác, đặc biệt là so
sánh chung và so sánh đối lập, nhưng đồng thời có nét riêng do phạm vi đối tượng,
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu xác định. Phương pháp so sánh cấu trúc, chức năng
và hoạt động của ngôn ngữ. Ngôn ngữ học so sánh – lịch sử nghiên cứu những ngôn
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 51
ngữ được biết có quan hệ họ hang hoặc giả định có quan hệ họ hang, để tìm những nét
tương đồng, dấu vết họ hang, xác lập quá trình biến đổi, phát triển các ngôn ngữ. Ngữ
vực học xác định sự gần gũi, giống nhau do kết quả của quá trình tiếp xúc về văn hóa,
lịch sử và khu vực địa lí gần gũi đưa lại. Các tiếp xúc thường xuyên dẫn đến sự vay
mượn, pha trộn do tác động của văn hóa kinh tế xã hội, tôn giáo,… Loại hình học phát
hiện các đặc điểm cấu trúc và phân loại các ngôn ngữ theo loại hình cấu trúc ngôn ngữ
Phạm vi ứng dụng của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ vô cùng rộng lớn: dạy
học ngoại ngữ, dịch thuật, soạn sách dạy tiếng, từ điển, lí thuyết ngôn ngữ.
3. Những khả năng ứng dụng thực tiễn của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ
Nghiên cứu đối chiếu ra đời do nhu cầu học và dạy tiếng. Nghiên cứu đối chiếu
giúp cho việc học và dạy ngoại ngữ tốt hơn, nhanh hơn, tiết kiệm hơn. Những nét
giống nhau về cấu trúc, chức năng và hoạt động của các phương tiện ngôn ngữ ta
không cần chú trọng nhiều, mà để ý đến những hiện khác nhau, gây khó khăn cho
người học, lường trước những lỗi có thể xảy ra để khắc phục. Lỗi là sản phẩm của mối
quan hệ tương phản trong việc chuyển đạt thông tin và cũng cho thấy nguyên nhân của
sự biến dạng đó.
Ngôn ngữ học xác định các cấp độ cấu trúc dựa trên phân tích xuyên ngôn ngữ
và trong ngôn ngữ nội tại, và ngôn ngữ học tính toán cung cấp các phương pháp để
chuyển cấu trúc thành dữ liệu văn bản. Các cấp độ chính của cấu trúc ngôn ngữ là âm
vị học, hình thái học, cú pháp học, ngữ nghĩa học, và ngữ dụng học (hoặc phân tích
văn bản/diễn ngôn).
Các lãnh vực nghiên cứu đối chiếu:
Trong ngôn ngữ nội tại:
- Phân tích đối chiếu các âm vị
- Phân tích đặc tính của các phạm trù cú pháp hình thái học
- Phân tích các hình vị mang ý nghĩa ngữ pháp
- Phân tích trật tự từ
- Phân tích thành tố của từ vị
- Phân tích các mối quan hệ ngữ nghĩa
Đối chiếu 2 ngôn ngữ:
- Phân tích so sánh 2 hệ thống cú pháp hình thái học
- Phân tích so sánh về ngữ nghĩa học
- Phân tích về dịch các hiện tượng tương đương trong 2 ngôn ngữ
- Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học ngoại ngữ
Ví dụ: nghiên cứu đối chiếu âm Anh – Việt giúp phát âm chính xác các âm
thường gây khó khăn cho người Việt học tiếng Anh. Không có quy luật một đối một
trong phát âm tiếng Anh. Một chữ cái có thể có nhiều phương án đọc khác nhau. Ở
đơn vị từ, cây và tree có những nét nghĩa khác nhau cần được chỉ rõ. Ở đơn vị câu, cấu
Trang 52
trúc có chủ từ trống không “it” không có câu tương đương, một đối một, trong tiếng
Việt:
It rains.
It is difficult for me to understand this word.
I love you very much.
hay bị dùng là * I very love you.
-Won‟t you tell her?
-No.
hay bị dùng là * Yes.
Trong việc học các kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng viết, gây khó khăn cho người
học nhiều nhất. Người Anh viết trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề, cụ thể, có tình thuyết
phục cao, liên kết ý chặt chẽ. Người Việt không như thế. Tính lịch sự trong ngôn ngữ
cũng là một lĩnh vực đang được quan tâm nghiên cứu để tránh sốc văn hóa. Trong việc
dạy nói cần lưu ý cách thể hiện sự hứng thú thay cho gật gù hoặc im lặng: It sounds
great/interesting. I see. I know. Good idea. Excellent/wonderful/brilliant.
Về đất nước học, cần giới thiệu những nét đặc trưng văn hóa. Những chủ đề an
toàn: thời tiết, sức khỏe, công việc, giải trí,... Tránh những đề tài nhạy cảm như tuổi,
thu nhập, chính trị, tôn giáo,... Những lời mời chiếu lệ và thật sự cần được phân biệt.
4. Kết luận
Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ thực sự giúp cho người học có ý thức trong quá
trình học tiếng.
Trong lĩnh vực biên dịch, phiên dịch rất cần sử dụng kết quả của nghiên cứu đối
chiếu cũng như trong biên soạn từ điển, y học. Đây là một mảnh đất màu mỡ cho
những ai quan tâm đến vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội.
2. Đoàn Thiện Thuật (2007), Ngữ âm tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
3. Seliger H.W. and Shohamy E. (1990). Second Language Research Methods, 2nd
impression. Oxford University Press.
Trang 53
NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ, HƢỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA NÔNG NGHIỆP LÂM ĐỒNG TRONG TƢƠNG LAI
Phan Thị Hồng Lam*
1. Đặt vấn đề
Cuộc “Cách mạng xanh”, tức cuộc cách mạng trên lĩnh vực nông nghiệp, đã bắt
đầu từ thập niên 50 và 60 thế kỷ XX. Thực chất của cuộc cách mạng này là sử dụng
phân bón, thuốc trừ sâu và giống mới bằng lai tạo làm tăng năng suất đáng kể cho các
loại cây trồng. Sau khi đã đạt được những thành công nhất định thì phương pháp canh
tác này gây nhiều ảnh hưởng không mong muốn tới sức khỏe con người và cả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Những vấn đề về môi trường hiện nay đang đe dọa
tới tính bền vững của cộng đồng và sản xuất nông nghiệp. Bảo toàn sinh thái vùng sản
xuất bằng việc chấm dứt sử dụng hóa chất nông nghiệp, đặc biệt là thuốc trừ sâu và
phân bón hóa học, bảo tồn môi trường xung quanh và các loài thực vật địa phương
đang có trong vùng sản xuất (Nông nghiệp hữu cơ) là hướng sản xuất nông nghiệp
hiện đang được thế giới hướng đến.
Nông nghiệp hữu cơ là một phương pháp canh tác phối hợp toàn diện: vừa sản
xuất hàng hóa chất lượng cao, vừa bảo toàn nguồn dinh dưỡng tự nhiên trong đất,
nguồn nước sạch và tính đa dạng sinh học phong phú. Nghệ thuật trong canh tác hữu
cơ đó là việc sử dụng tốt nhất các nguyên tắc và tiến trình sinh thái. Canh tác hữu cơ
có thể ứng dụng trong sản xuất cây trồng và động vật nuôi để tạo dựng nền móng vững
chắc cho sự sống của con người cũng như cho môi trường tự nhiên xung quanh.
2. So sánh hai hình thức canh tác truyền thống và hữu cơ
Điểm tương đồng: Canh tác truyền thống và hữu cơ đều không sử dụng phân
bón, thuốc sâu, trừ cỏ hóa học, chất kích thích sinh trưởng; không sử dụng cây trồng,
động vật được tạo bởi kỹ thuật gen …. Sử dụng phân động vật làm nguồn phân bón.
Ưu điểm của canh tác hữu cơ so với canh tác truyền thống: Sử dụng những chế
phẩm sinh học để quản lý sâu bệnh hại; Sử dụng những côn trùng có ích; Sử dụng
giống cây trồng, động vật kháng sâu bệnh hại năng suất cao; Giới thiệu những cây
phân xanh, cố định đạm hiệu quả; Sử dụng những công cụ cải tiến để làm đất, gieo
hạt,... Ứng dụng những phương pháp ủ phân đã được cải tiến và phân vi sinh…
3. Thực trạng sản uất nông nghiệp hữu cơ hiện nay ở Việt Nam và Lâm Đồng
Ở Việt Nam, canh tác hữu cơ vẫn còn khá mới mẻ, đến nay ước tính có khoảng
6.475 ha đất canh tác hữu cơ. Những sản phẩm hữu cơ của Việt Nam được xác nhận
theo tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu như Châu Âu, Mỹ.
* Giảng viên Khoa Tự nhiên
Trang 54
Lâm Ðồng với lợi thế về thổ nhưỡng và khí hậu đã trở thành địa phương đón đầu
xu hướng chuyển đổi từ nên nông nghiệp hóa chất sang nền nông nghiệp xanh, hữu cơ.
Tuy nhiên theo Chi cục Trồng trọt & BVTV Lâm Ðồng, đến nay toàn tỉnh Lâm Ðồng
có gần 53.000 ha diện tích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhưng chỉ mới hình
thành hơn 143 ha sản xuất và chăn nuôi theo quy trình hữu cơ. Điều này cho thấy quy
mô nông nghiệp hữu cơ của Lâm Ðồng hiện vẫn quá nhỏ so với nhu cầu phát triển
ngày càng cao của thị trường.
Một trong những trở ngại lớn nhất đối với nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở
Việt Nam cũng như tỉnh Lâm Đồng là chưa có quy hoạch về sản xuất, chưa có các cơ
chế, chính sách hỗ trợ riêng mà lồng ghép trong các chương trình, dự án khác. Để đảm
bảo việc sản xuất rau hữu cơ được hiệu quả và mang lại lợi nhuận, người sản xuất cần
đầu tư công nghệ, trang thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào đạt tiêu chuẩn, thế nhưng
hiện nay nông dân thiếu vốn đầu tư, vì vậy rất khó để tổ chức sản xuất. Tại Việt Nam
chưa có tổ chức kiểm tra chứng nhận sản xuất hữu cơ, việc chứng nhận hữu cơ phải
thuê các tổ chức nước ngoài nên chi phí cao, khó thực hiện, nhất là với doanh nghiệp
nhỏ hoặc hộ dân. Những sản phẩm hữu cơ do không dùng phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật có nguồn gốc hóa học nên năng suất thấp, hình thức không bắt mắt như rau sản
xuất thông thường. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, người tiêu dùng chưa tin tưởng và ít có
điều kiện phân biệt sản phẩm hữu cơ với các sản phẩm thông thường khác.
4. Phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững ở địa phƣơng
Trong giai đoạn 2018 - 2025, Lâm Đồng sẽ gắn phát triển nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao với phát triển nông nghiệp hữu cơ; tiếp tục khảo sát, xác định quy
hoạch các vùng sản xuất rau hữu cơ tại Đơn Dương; Đà Lạt và một số vùng phụ cận.
Để xây dựng một mô hình canh tác hữu cơ bền vững cần chú ý đến các yếu tố sau:
4.1. Môi trường đất
Đất là yếu tố có vai trò to lớn trong canh tác hữu cơ. Để tạo dựng và duy trì độ
phì của đất thông qua các vật chất hữu cơ, người dân cần chú ý các vấn đề sau: Để lại
tàn dư cây trồng trên ruộng. Cung cấp phân ủ, phân bón hữu cơ. Che phủ đất bằng các
vật liệu thực vật hoặc phế thải nông nghiệp. Sử dụng cây phân xanh hoặc cây che phủ.
Luân canh cây trồng thích hợp. Làm đất tơi xốp. Ngăn chặn xói mòn đất..
Đất còn là môi trường sống của rất nhiều loài sinh vật. Người dân có thể thực
hiện các công việc sau để đảm bảo môi trường sống thuận lợi cho sinh vật đất: theo dõi
pH của đất và bón vôi khi cần thiết, tạo độ tơi xốp, thông thoáng cho đất, cung cấp
chất hữu cơ như phân động vật, phân ủ, tạo độ che phủ cho đất.
Trang 55
4.2. Quản lý đất và nước
4.2.1. Làm đất
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng đất canh tác để thực hiện các biện pháp làm đất
phù hợp với từng giai đoạn khác nhau của vòng đời cây trồng: sau thu hoạch, trước khi
gieo hạt hoặc trồng cây hoặc trong thời gian sinh trưởng của cây trồng.
Sau thu hoạch: Vùi lấp tàn dư của cây trồng vụ trước vào trong đất trước khi lên
luống cho cây trồng vụ tiếp theo. Các tàn dư cây trồng, cây phân xanh và phân chuồng
sân vườn chỉ nên bón vào lớp đất bề mặt (15-20cm), vì trong lớp đất sâu hơn sự phân
hủy xảy ra không hoàn toàn sẽ sinh ra các vật chất gây cản trở có thể làm hại cho cây
trồng vụ sau.
Làm đất lần đầu: thường được làm bằng máy cày hoặc một loại dụng cụ tương
tự. Sau khi làm đất, lớp đất bề mặt phải bằng phẳng và lớp đất sâu ở tầng giữa phải tơi
xốp. Cày lật sâu làm trộn lẫn các tầng đất với nhau, sẽ gây hại các sinh vật trong đất và
động chạm đến cấu trúc tự nhiên của đất.
Chuẩn bị đất lên luống: Trước khi gieo hạt hoặc trồng cây, sẽ tiến hành làm đất
lần thứ hai để làm nhỏ và mềm lớp đất bề mặt đã được cày ải. Nếu cỏ dại nhiều, có thể
tiến hành lên luống sớm. Ở những nơi nước đọng thì luống nên làm cao hoặc làm
thành các gò.
Làm đất trong khi canh tác: xới nhẹ đất khi cây trồng đã được thiết lập như xới
cỏ bằng cuốc giúp làm tăng sự thoáng khí, đồng thời giảm sự bốc hơi nước của đất ở
những tầng đất sâu hơn.
4.2.2. Quản lý nước
Mục đích của canh tác hữu cơ là sử dụng tối ưu và bền vững các nguồn nước sẵn
có ngay trong tự nhiên. Vì thế, chủ động sở hữu nước, thu thập nước và lưu trữ nước là
những việc làm rất quan trọng đối với canh tác hữu cơ
Giữ nước trong đất: đất giàu vật chất hữu cơ sẽ giữ ẩm lâu hơn. Để tăng vật chất
hữu cơ, nên sử dụng phân hữu cơ, phân ủ, vật liệu che phủ hoặc cây phân xanh.
Tăng khả năng thấm nước: Để đất có khả năng thấm nước cao cần duy trì một
lớp đất bề mặt có cấu trúc tốt với nhiều khoang và lỗ hổng. Áp dụng che phủ bằng cây
trồng và bằng vật liệu là phù hợp để tạo ra một cấu trúc đất bề mặt thuận lợi. Hơn nữa,
chúng giúp làm giảm tốc độ của dòng nước chảy xuống, cho phép nước có nhiều thời
gian để thấm hơn.
Dự trữ nước: trong các ao, hồ, xây dựng các bể chứa nước, hệ thống thủy lợi.
4.3. Quản lý dinh dưỡng
Quản lý dinh dưỡng là một phần tất yếu của canh tác hữu cơ. Cần cố gắng hết
sức để hạn chế dinh dưỡng thất thoát đồng thời phân bổ hiệu quả dinh dưỡng của nơi
sản xuất trong luân canh cây trồng
Trang 56
Giảm thiểu sự thất thoát: Dinh dưỡng thất thoát nhiều là do việc lắng lọc vì khả
năng trao đổi của đất thấp. Làm giảm sự lọc dinh dưỡng bằng việc tăng cường vật chất
hữu cơ trong đất. Ngăn ngừa mất đạm được cố định bằng cách trồng các cây họ đậu
phối hợp xen canh hoặc luân canh chúng với những loài có nhu cầu đạm cao.
Chu trình dinh dưỡng khép kín: Làm tăng tối đa việc tái sinh các tàn dư cây
trồng, các sản phảm phụ, phân động vật và vật thải nông nghiệp. Làm phân ủ từ hầu
hết các vật liệu hữu cơ dư thừa
Sử dụng các đầu vào tối ưu: Sử dụng các chất thải hữu cơ sẵn có hoặc đưa từ bên
ngoài vào để làm phân ủ.
Giữ cân bằng dinh dưỡng cây trồng: nuôi các sinh vật đất cùng các vật chất hữu
cơ. Phân bón hữu cơ là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính cho cây trồng.
4.4. Quản lý cỏ dại
Quản lý cỏ dại tốt trong canh tác hữu cơ gồm việc tạo ra các điều kiện cản trở cỏ
dại mọc không đúng thời điểm và không đúng chỗ mà sau này có thể trở thành vấn đề
nghiêm trọng cho việc canh tác cây trồng chính.
Luân canh cây trồng.
Tạo cây trồng khỏe mạnh: Lựa chọn hạt giống, cây con có chất lượng tốt và gieo
trồng với mật độ phù hợp. Sử dụng đất trồng có cấu trúc đồng nhất, đủ ẩm, bón phân
đúng kỹ thuật.
Các biện pháp ngăn ngừa và phòng chống cỏ dại: Che phủ bằng vật liệu phù hợp,
lựa chọn thời gian và mật độ gieo trồng thích hợp, làm đất kỹ, không lựa chọn vật liệu
có chứa hạt cỏ dại. Làm cỏ bằng cách thủ công.
4.5. Quản lý sâu bệnh hại
Trong canh tác hữu cơ, phòng ngừa sâu bệnh hại là biện pháp chủ đạo. Công tác
quản lý sâu bệnh hại tập trung chủ yếu vào việc giữ mật độ sâu bệnh hại ở mức thấp.
Giữ cho cây trồng khỏe mạnh: Một cây trồng khỏe mạnh thì ít bị tổn thương khi
có sâu bệnh hại.
Lựa chọn các giống kháng và giống đã thích nghi tốt với điều kiện môi trường
địa phương.
Lựa chọn giống và vật liệu trồng trọt sạch.
Sử dụng các hệ canh tác phù hợp: hệ canh tác hỗn hợp, luân canh cây trồng,cây
phân xanh và cây che phủ.
Sử dụng biện pháp quản lý dinh dưỡng cân bằng: bón phân vừa phải, bón cân đối
kali giúp phòng ngừa các loài nấm và vi khuẩn gây hại
Sử dụng biện pháp quản lý dinh dưỡng cân bằng: Thúc đẩy quá trình phân hủy
những phần cây trồng bị nhiễm bệnh. Điều hòa cỏ dại vì nó là vật chủ cho sâu bệnh
hại. Bảo vệ các vi sinh vật có chức năng điều hòa các bệnh từ đất.
Sử dụng biện pháp quản lý nước tốt.
Trang 57
Bảo tồn và khuyến khích thiên địch.
Lựa chọn khoảng cách và thời gian trồng tối ưu: Hầu hết sâu hại hoặc bệnh hại
chỉ tấn công cây trồng trong một giai đoạn sống nhất định; vì thế điều cốt yếu là giai
đoạn cây trồng dễ bị tổn thương không tương ứng với thời kì có mật độ sâu bệnh hại
cao và vì vậy cần lựa chọn thời vụ tối ưu cho cây trồng.
Sử dụng các biện pháp vệ sinh thích hợp.
Xử lý hạt giống: Có 3 phương pháp chính để xử lý hạt giống trong canh tác hữu
cơ: phương pháp vật lý (khử trùng bằng cách ngâm hạt giống trong nước nóng (50-
60ºC)); phương pháp thảo mộc (phủ hạt giống với một lớp chiết xuất từ thực vật như
nước tỏi); phương pháp sinh học (phủ hạt giống với một lớp nấm đối kháng).
Sử dụng thuốc trừ sâu tự nhiên: Thuốc trừ sâu thảo mộc, các chất trong tự nhiên
(lưu huỳnh, đồng, đất sét, tro, vôi bột…)
Các loại bẫy: Bẫy đèn, bẫy dính, bẫy Pheromone…
5. Kết luận
Lâm Đồng hiện có trên 3.500 ha nhà kính và 1.000 ha nhà lưới sản xuất rau công
nghệ cao. Đây là lợi thế để xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất rau hữu cơ
thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu hàng năm. Đồng thời, Lâm Đồng đã tích lũy
kinh nghiệm hình thành hơn 60 chuỗi sản xuất tiêu thụ sản phẩm an toàn thực phẩm,
làm cơ sở để phát triển hiệu quả các sản phẩm hữu cơ trong những năm tới.
Tuy nhiên việc phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện nay ở Lâm Đồng nói riêng và
Việt Nam nói chung vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức đòi hỏi sự chung tay
nghiên cứu, giải quyết để nông nghiệp hữu cơ có được sự phát triển bền vững trong
tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm (2012), Nông nghiệp hữu cơ: hiện trạng và giải
pháp nghiên cứu-phát triển, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam.
2. Nguyễn Văn Bộ (2002), Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam: Thách thức và cơ hội.
Báo cáo Hội thảo: Sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ.
3. Nguyễn Thế Đặng (Chủ biên), Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn Thị
Mão (2012), Giáo trình nông nghiệp hữu cơ NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Bá Hùng (2012), Kỹ thuật canh tác rau và sản phẩm hữu cơ tại công ty
ORGANIC Đà Lạt, Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển NNHC tại
Việt Nam.
5. Canh tác hữu cơ - Trường cao đẳng nông nghiệp hữu cơ, Đan Mạch. Tài liệu đào
tạo của IFOAM về Nông nghiệp hữu cơ vùng nhiệt đới.
6. http://baolamdong.vn.
Trang 58
TIẾP CẬN STEM TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC
CHO HỌC SINH LỚP 4
Trần Thị Kim Anh*
Tóm tắt:
Song song với những đổi mới của Chương trình Giáo dục Phổ thông mới, mỗi
giáo viên cần có những bước chuẩn bị vững chắc để kịp thời đáp ứng được yêu cầu
thay đổi. Nắm được điều này, đề tài đưa những định hướng về cách thức, nội dung để
giáo viên tiểu học có những bước tiếp cận ban đầu về giáo dục STEM trong dạy học
môn Khoa học cho học sinh lớp 4.
Từ khoá: STEM, Khoa học, Chƣơng trình giáo dục phổ thông mới
ABSTRACT:
In line with the New Education Curriculum, every teacher needs to have a strong
preparation in order to meet the changing. Understanding this, the topic provides the
orientation on step and content to primary teachers taking initial STEM education in
teaching science to grade 4 students.
Key words: STEM, Science, New Education Curriculum
1. Đặt vấn đề
Chương trình Giáo dục Phổ thông mới yêu cầu hoạt động dạy học và hoạt động
giáo dục cần hình thành và phát triển “năng lực tự chủ, năng lực giao tiếp và hợp tác,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; …năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự
nhiên và xã hội, năng lực công nghệ….” Đi kèm với đó, một trong những quan điểm
xây dựng chương trình là “chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn
đề trong học tập và đời sống, tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần các lớp
học trên…”. Điều này đặt ra vấn đề giáo viên phải có những bước chuẩn bị thiết thực
cho sự chuyển đổi sang giai đoạn mới. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới giáo
viên phải không ngừng tự học hỏi và nâng cao những năng lực sư phạm cũng như năng
lực lựa chọn và xây dựng những ngữ liệu thích hợp cho hoạt động dạy học, năng lực
sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, năng lực kiểm tra đánh giá, năng lực dạy
học tích hợp... [1, tr5, tr6 .
Việc tiếp cận những mô hình, phương pháp dạy học hiện đại là một trong
những bước đi đầu tiên để tiếp cận Chương trình Giáo dục Phổ thông mới. Đối với
môn Khoa học, mô hình giáo dục chúng ta cần chú ý tiếp cận là mô hình giáo dục
STEM. Với đặc trưng là một mô hình dạy học tích hợp liên môn, đòi hỏi người học
vận dụng kiến thức của toán học, công nghệ, kỹ thuật và khoa học để giải quyết vấn đề
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 59
liên quan đến thế giới thực nên qua đó người học sẽ hình thành năng lực hợp tác, giao
tiếp, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, sáng tạo và tư duy phê phán. Từ đó, chuẩn bị cho
các em sống trong thế giới thực, đồng thời liên kết tư duy để giải quyết các nhiệm vụ
học tập khác. Hơn nữa, mô hình giáo dục này còn góp phần đào tạo ra những công dân
toàn cầu, có năng lực làm việc tốt. Đáp ứng được điều đó, giáo dục STEM cần chú ý
từ giai đoạn sớm cụ thể là giai đoạn tiểu học.
Ở châu Á hiện nay, STEM được áp dụng trong chương trình giáo dục của Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kong và Singapore và đã gặt gái nhiều thành công.
Thực tế hiện nay ở Việt Nam, việc tiếp cận mô hình STEM đã được triển khai một số
tỉnh thành phố nhưng chưa sâu rộng. Giáo viên ở những vùng chưa được tiếp cận
STEM còn rất bỡ ngỡ với khái niệm STEM, giáo án 5E. Từ thực trạng trên cho thấy để
đáp ứng kịp thời những thay đổi của Chương trình Giáo dục Phổ thông mới, cũng như
để tiếp cận một mô hình giáo dục chất lượng cho học sinh, không chỉ giảng viên, giáo
viên tiểu học mà sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học cần chủ động tiếp cận làm quen
với mô hình giáo dục STEM.
2. Mô hình giáo dục STEM
2.1. Giáo dục STEM là gì
STEM là chữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ),
Engineering (Kỹ thuật) và Math (Toán học). Giáo dục STEM về bản chất được hiểu là
trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh
vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Các kiến thức và kỹ năng này (gọi là
kỹ năng STEM) phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau giúp học sinh không
chỉ hiểu về nguyên lý mà còn có thể áp dụng để thực hành và tạo ra được những sản
phẩm trong cuộc sống hằng ngày [3 .
“Giáo dục STEM là một cách tiếp cận liên ngành để học các khái niệm học tập
khoa học kết hợp với các bài học trong thế giới thực khi người học áp dụng khoa học,
công nghệ, kỹ thuật và toán học trong các ngữ cảnh. STEM tăng khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế mới” (Tsupros, N., R. Kohler, and J. Hallinen) [8].
“STEM được chia thành lĩnh vực nhận thức và không nhận thức được. Miền
nhận thức bao gồm kiến thức, kỹ năng và khả năng STEM. Kiến thức là “một tập hợp
các cấu trúc nội dung và các quy trình thực hiện có tổ chức.” (Anthony p. Carnevale
Nicole Smith Michelle Melton) [5, tr11].
Như vậy, STEM là một mô hình giáo dục tích cực, nội dung được tích hợp từ
các môn Khoa học, Toán học, Công nghệ và Kỹ thuật trong một chủ đề gắn liền với
thực tiễn, với phương pháp dạy và học tích cực, chú trọng hoạt động nhóm và hoạt
động cá nhân. Từ đó, người học không chỉ hình thành và phát triển kiến thức mà còn
nâng cao kỹ năng, thái độ của bản thân; tạo tiền đề cho người học có thể giải quyết các
vấn đề trong thế giới thực; hình thành năng lực học suốt đời.
Trang 60
2.2. Bản chất của giáo dục STEM
Giáo dục STEM gồm có bốn bản chất sau:
- Là một quan điểm dạy học, bản chất là dạy học tích hợp;
- Là hoạt động định hướng thực hành và định hướng sản phẩm;
- Là hoạt động nhằm hình thành xúc cảm tích cực cho người học;
- Là hoạt động nhằm phát triển trí óc và chân tay.
2.3. Vai trò của STEM
Bắt đầu ở những giai đoạn giáo dục sớm, trẻ em đã có gắn kết với thế giới xung
quanh. Từ đó, giáo dục STEM "thúc đẩy việc học các môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ
thuật và Toán học. Trẻ em có thể phát triển những trải nghiệm của bản thân, phát triển
sự tò mò, suy nghĩ phê phán, khả năng đặt câu hỏi, năng lực giải quyết vấn đề". Thông
qua mô hình giáo dục này, người học có thể phát triển những nội dung kiến thức của
STEM trong suốt cuộc đời (STEM education Policy Statement 2017 – 2026) [6].
Những trải nghiệm của giáo dục STEM sẽ “thúc đẩy sự sáng tạo, cộng tác và
kiên trì - dẫn đến các kỹ năng giải quyết vấn đề tốt hơn và trang bị tốt hơn cho giới trẻ
trong thế giới năng động mà họ sẽ phải đối mặt sau khi tốt nghiệp” (Helen Shwe
Hadani) [7].
Như vậy, về mặt kiến thức, giáo dục STEM cung cấp cho người học những kiến
thức về Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học trong bối cảnh tích hợp. Về mặt
kỹ năng, STEM giúp người học hình thành và phát triển kỹ năng học tập như kỹ năng
đặt câu hỏi, kỹ năng làm việc nhóm,… và những kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề,... Đi kèm với đó, người học còn phát triển
cho bản thân sự tò mò, sáng tạo và tư duy phê phán.
3. Định hƣớng tiếp cận STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 4
3.1. Tiến trình tổ chức dạy học STEM
Tập huấn dạy học STEM của Học viên Sáng tạo đưa ra bảy bước để xây dựng
một bài học theo mô hình giáo dục STEM. Bảy bước bao gồm:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề
Bước 2: Xác định các vấn đề trong chủ đề
Bước 3: Xác định các nội dung STEM cần thiết để giải quyết vấn đề
Bước 4: Xác định mục tiêu dạy học (cụ thể từng môn học)
Bước 5: Xây dựng các hoạt động
- Tên hoạt động
- Câu hỏi cho hoạt động
- Kiến thức liên quan
- Thang đánh giá hành vi
- Nguyên vật liệu
Trang 61
- Các bước tiến hàng
- Kết quả/ giải thích
Bước 6: Lập kế hoạch hoạt động
Bước 7: Tổ chức dạy học và đánh giá
3.2. Những nội dung có thể vận dụng giáo dục STEM trong Khoa học 4
ST
T
Tên chủ đề Số
tiết
Nội dung Nội dung STEM
1 Thực đơn
ăn trưa lý
tưởng cho
toàn trường
6 Tìm hiểu các nội dung:
- Các chất dinh dưỡng
có trong thức ăn – vai
trò của chất bột đường
- Vai trò của chất đạm
và chất béo
- Vai trò của vitamin,
chất khoáng và chất xơ
- Tại sao cần phối hợp
nhiều loại thức ăn?
- Tại sao cần ăn phối
hợp đạm động vật và
đạm thực vật?
- Quy trình thiết kế một
thực đơn
Thiết kế thực đơn ăn
trưa cho học sinh toàn
trường trong một tuần.
Khoa học:
- Vai trò của các chất dinh
dưỡng;
- Tác dụng của phối hợp
nhiều loại thức ăn
Công nghệ:
- Quy trình xây dựng một
thực đơn;
- Sử dụng các video, sử
dụng các công cụ tìm
kiếm hỗ trợ trong quá
trình xây dựng thực đơn.
Kỹ thuật:
- Thiết kế thực đơn giàu
chất dinh dưỡng và hợp
khẩu vị với học sinh.
Toán học:
- Sử dụng kiến thức về số
và đại số để đo lường và
tính các chỉ số kcal
2 Thực đơn
giảm cân
siêu hiệu
quả cho
người béo
phì
2 Tìm hiểu nội dung
- Phòng bệnh béo phì
- Quy trình giảm cân
hiệu quả.
- Xây dựng thực đơn
giảm cân cho người béo
phì trong một tuần.
Khoa học:
- Vai trò của các chất;
- Chỉ số cung cấp kcalo của
các chất.
Công nghệ:
- Quy trình xây dựng thực
đơn cho người ăn kiêng;
- Sử dụng công nghệ thông
tin trong tìm kiếm các
thông tin.
Kỹ thuật:
Trang 62
- Xây dựng thực đơn cho
người béo phì.
Toán học:
- Đo lường chỉ số calo của
các chất;
- Sử dụng các phép tính để
xây dựng lượng calo phù
hợp trong một ngày.
3 Chế tạo
máy lọc
nước
2 Tìm hiểu nội dung
- Nước có tính chất gì?
- Nước bị ô nhiễm.
- Tìm hiểu những vật
liệu được sử dụng để lọc
nước;
Thiết kế một máy lọc
nước đơn giản bằng: vải
màn, than, sỏi, cát, chai
nhựa.
Khoa học:
- Tính hoà tan của nước;
- Tính chất không màu,
không mùi, không vị của
nước;
- Khả năng chảy tràn của
nước.
Công nghệ:
- Quy trình lọc nước.
Kỹ thuật:
- Kỹ thuật sắp xếp các lớp
lọc nước.
Toán:
- Đo lường lượng các chất
sao cho cân bằng;
- Sử dụng hình học để sắp
xếp các hình cho phù hợp.
4 Vòng tuần
hoàn nước
mini
4 Tìm hiểu nội dung
- Ba thể của nước
- Mây được hình thành
như thế nào? Mây từ
đây ra?
- Sơ đồ vòng tuần hoàn
của nước trong tự nhiên
Tìm hiểu những dụng cụ
có thể sử dụng để thiết
kế vòng tuần hoàn nước.
Thiết kế mô hình vòng
tuần hoàn nước thu nhỏ
bằng đá, ly nước nóng,
Khoa học:
- Quá trình ngưng tụ, bay
hơi, tan chảy của các thể
của nước.
- Vòng tuần hoàn trong tự
nhiên.
Công nghệ:
- Quy trình bay hơi, ngưng
tụ, tan chảy của nước.
Kỹ thuật:
- Sắp xếp phù hợp vị trí của
ly nước, đá, bông gòn.
Toán:
Trang 63
bông gòn, chai nhựa - Đo lường tỉ lệ mô hình, tỉ
lệ giữa các phần.
5 Điện thoại
di động của
chúng mình
3 Tìm hiểu nội dung
- Âm thanh
- Sự lan truyền âm thanh
Tìm hiểu các vật liệu để
tạo ra chiếc thoại có thể
nghe gọi khoảng cách
10 m.
Chế tạo chiếc điện thoại
có thể nghe gọi trong
khoảng cách 10 m bằng
lon sữa/lon nước ngọt/
phễu kim loại, dây đồng.
Khoa học
- Cách tạo ra âm thanh.
- Sự lan truyền của âm
thanh.
Công nghệ
- Quy trình tạo một cái điện
thoại.
Kỹ thuật
- Kỹ thuật tạo các nối liên
kết các vật liệu đẹp, hiệu
quả khi sử dụng.
Toán học
- Đo lường và tính toán độ
dài của đoạn dây cho phù
hợp.
3.3. Những lưu ý để dạy học STEM hiệu quả
3.3.1. Chuẩn bị bài học STEM liên quan đến những chủ đề bạn sẽ dạy học
3.3.2. Liên kết chủ đề STEM đến thế giới thực
3.3.3. Xác định rõ cho người những thử thách mà các em phải đương đầu
3.3.4. Xác định rõ kết quả mong đợi ở người học
3.3.5. Sử dụng quy trình thiết kế kỹ thuật để lập kế hoạch
3.3.6. Giúp người học xác định được những thử thách
3.3.7. Tổ chức người học nghiên cứu theo nhóm
3.3.8. Khuyến khích nhóm phát triển những ý tưởng giải quyết vấn đề của riêng họ
3.3.9. Hướng dẫn nhóm lựa chọn một ý tưởng để kiểm tra và xây dựng nguyên mẫu
3.3.10. Tạo thuận lợi cho quá trình thử nghiệm và đánh giá mẫu thử nghiệm
3.3.11. Tổ chức cho các nhóm giao tiếp về những điều mới khám phá
3.3.12. Tổ chức thiết kế lại nếu có thời gian. [4
4. Kết luận
Trên đây là định hướng ban đầu về cách thức tổ chức, nội dung để mỗi giáo
viên có thể tổ chức dạy học STEM trong môn Khoa học 4 vừa đảm bảo được yêu cầu
mà chương trình Giáo dục phổ thông sau năm 2000 yêu cầu, vừa tiếp cận được với
những thay đổi của Chương trình Giáo dục Phổ thông mới. Tuy nhiên, trong quá trình
giảng dạy mỗi giáo viên cần có những thay đổi, những sáng tạo để phù hợp với đặc
điểm học sinh của mình, đặc điểm địa phương và cơ sở vật chất của nhà trường. Do
quy định số tiết chương trình môn Khoa học lớp 4 của chương trình Giáo dục Phổ
Trang 64
thông hiện hành nên giáo viên khó có thể tổ chức thêm các hoạt động khác. Do đó để
khắc phục được điều này, giáo viên có thể chuyển hoạt động STEM vào thêm những
hoạt động của câu lạc bộ. Quan trọng nhất trong việc tiếp cận mô hình giáo dục STEM
là mỗi giáo viên phải có ý thức tự học, tự rèn luyện và học hỏi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Chương trình Giáo dục Phổ thông – Chương trình
tổng thể.
2. Học viện sáng tạo (2017), Chương trình tập huấn giáo viên về dạy học định hướng
STEM.
3. British Council, Newton Fund, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016 -2017), Phương pháp
giáo dục theo định hướng STEM, Dự án áp dụng phương pháp Giáo dục STEM của
Vương quốc Anh vào bối cảnh Việt Nam.
4. Anne Jolly (2012), 12 Steps to Great STEM Lessons - A MiddleWeb Blog.
5. Anthony p. Carnevale Nicole Smith Michelle Melton, STEM, Geogetown
University. (p11)
6. Department of Education and Skills (2017), STEM education Policy Statement 2017
– 2026, Ireland.
7. Helen Shwe Hadani, Elizabeth Rood (2018), The Roots of STEM Success:
Changing Early Learning Experiences to Build Lifelong Thinking Skills, Center for
Childhood Creativity.
8. Tsupros, N., R. Kohler, and J. Hallinen (2009), STEM education: A project to
identify the missing components, Intermediate Unit 1 and Carnegie Mellon,
Pennsylvania.
Trang 65
CÔNG XÃ PARIS (1871) VÀ CÁCH MẠNG THÁNG MƢỜI NGA (1917)
QUA TÁC PHẨM “ĐƢỜNG CÁCH MỆNH” CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
Trương Thị Thu Thảo*
1. Đặt vấn đề
“Đường cách mệnh” là tác phẩm ra đời trên cơ sở tập hợp những bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc tại các khóa huấn luyện chính trị của “Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên”, được Bộ tuyên truyền của “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” xuất
bản tại Quảng Châu. Tác phẩm này là kết quả của một quá trình nghiên cứu khảo
nghiệm và nhận thức sâu sắc về lí luận cũng như thực tiễn kinh nghiệm cách mạng của
các nước tiên tiến trên thế giới lúc bấy giờ. Trong đó, Công xã Paris và Cách mạng
tháng Mười Nga là hai cuộc cách mạng của giai cấp vô sản được Người đặc biệt lưu
tâm, luận bàn rất kĩ về tiến trình cách mạng cũng như ý nghĩa, bài học kinh nghiệm của
chúng đối với cách mạng Việt Nam. Qua đó, chúng ta có thể hiểu được vì sao Nguyễn
Ái Quốc quyết định lựa chọn con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc.
2. Nội dung
2.1. Công xã Paris (1871) qua tác phẩm “Đường Cách mệnh”
Ngày 18-3-1871, cuộc cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản đã nổ ra và giành
thắng lợi ở Paris, thủ đô nước Pháp. Lịch sử gọi cuộc cách mạng này là Công xã Paris.
Cuộc cách mạng đã lật đổ chính phủ của giai cấp tư sản và thiết lập nên Nhà nước vô
sản đầu tiên của giai cấp công nhân. Mặc dù chỉ tồn tại trong 72 ngày (từ ngày 18-3-
1871 đến ngày 28-5-1871), nhưng Công xã mãi mãi là tấm gương sáng chói của những
người công nhân Paris dám “tấn công Trời” (Các Mác) và đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý giá cho cách mạng vô sản thế giới.
Bằng ngòi bút sinh động, văn phong ngắn gọn, dễ hiểu, Nguyễn Ái Quốc đã
trình bày đầy đủ nguyên nhân bùng nổ, động lực cách mạng, diễn biến, kết quả của
Công xã Paris. “Năm 1871, vua Pháp thua chạy rồi, lính Đức tới vây kinh đô Pháp là
Paris. Tư bản Pháp cắt hai tỉnh cúng cho Đức để cầu hòa. Vì giặc giã mà chết nhiều
người, hại nhiều của. Dân không bánh ăn, thợ không công làm. Ngày 18 tháng 3, thợ
thuyền Pari nổi lên làm cách mệnh cộng sản (Công xã).
Vì thợ thuyền còn non nớt, tổ chức không khéo, vả lại Đức giúp cho tư bản
Pháp đánh lại thợ thuyền, nên cuối tháng 5 thì cách mệnh thất bại”. [2, tr.273]
Mặc dù thất bại nhưng cuộc cách mạng này đã thực hiện rất nhiều chính sách
tiến bộ. Công xã Paris đã thay bộ máy chính quyền của giai cấp tư sản bằng chính
quyền của giai cấp công nhân dựa trên cơ sở dân chủ vô sản và hoạt động vì lợi ích
của quảng đại quần chúng nhân dân. Cơ quan tối cao của nhà nước là Hội đồng Công
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 66
xã do bầu cử bằng hình thức phổ thông đầu phiếu. Những ủy viên nào không được
nhân dân tín nhiệm thì có thể bị bãi miễn. Công xã đã ban bố luật pháp, tổ chức ra 10
ủy ban để thi hành pháp luật; ban hành nhiều chính sách về kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, quân sự.
Về kinh tế, Công xã giao cho công nhân quản lí những nhà máy, xí nghiệp mà
chủ đã bỏ trốn. Đối với những xưởng mà bọn chủ còn ở lại, Công xã quản lí nhà máy
thông qua việc kiểm soát tiền lương, cấm mọi hình thức cắt lương, đánh đập công
nhân. Công xã đề ra chế độ “ngày làm 8 giờ”, tăng lương cho công nhân; ban hành đạo
luật quy định giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm. Về xã hội, Công xã ra sắc
lệnh đảm bảo quyền công dân của phụ nữ, chăm lo đời sống nhân dân… Về văn hóa –
giáo dục, Công xã đề ra chế độ giáo dục bắt buộc và miễn phí, tách giáo dục ra khỏi
nhà thờ, tăng lương cho giáo viên… Về quân sự, Công xã ra sắc lệnh giải tán quân đội
và lực lượng cảnh sát cũ, xây dựng lực lượng vũ trang và an ninh nhân dân để bảo vệ
chính quyền cách mạng. Những chính sách tiến bộ của Công xã Paris đã được Nguyễn
Ái Quốc đề cập:
“1. Bao nhiêu cơ quan sinh sản* riêng đều đem làm của công.
2. Tất cả trẻ con trong nước, bất kì con trai con gái, đều phải đi học. Học phí
nhà nước phải cho.
3. Dân có quyền tự do tổ chức, làm báo, khai hội, xuất dương…
4. Bất kì đàn ông đàn bà, ai cũng được quyền chính trị, tuyển cử và ứng cử.
5. Chính phủ tự dân cử lên và dân có quyền thay đổi chính phủ”. [2, tr.273
Với việc ban hành các chính sách tiến bộ, Công xã Paris đã chứng tỏ đây là một
nhà nước kiểu mới – nhà nước vô sản; là biểu hiện đầu tiên của nền chuyên chính vô
sản. Qua những thành quả của Công xã Paris, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định tính tất
yếu của cách mạng vô sản. Mô hình xã hội mới công bằng, dân chủ, tiến bộ, không
còn đơn thuần là lí luận nữa mà đã được thể nghiệm thực tế qua Công xã Paris.
Công xã Paris đã tồn tại kiên cường suốt hơn hai tháng cho đến khi bị chính phủ
Versailles đàn áp. Qua việc trình bày diễn biến, kết quả của Công xã Paris, Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ ra những nguyên nhân thất bại của Công xã là: thiếu một chính đảng của
giai cấp công nhân, chưa có sự liên minh công – nông, sự cấu kết của giai cấp tư sản
Pháp và tư sản Đức: “Paris Công xã vì tổ chức không khéo và vì không liên lạc với
dân cày, đến nổi thất bại” [2, tr.274 ; “Đức thấy cách mệnh cũng sợ cho nên hết lòng
giúp tư bản Pháp đánh lại cách mệnh [2, tr.273 . Sự cấu kết giữa tư sản Pháp và tư sản
Đức được Người đưa ra dẫn chứng: “Khi cách mệnh nổi lên, Đức lại cho phép tư bản
Pháp thêm lên 100.000 lính để dẹp cách mệnh” [2, tr.273 . Từ đó, Người đi đến kết
luận: “Tư bản không có Tổ quốc” [2, tr.274 . Từ sự thất bại của Công xã Paris, Người
* Cơ sở sản xuất.
Trang 67
đã rút ra bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam: “Cách mệnh Pháp dạy cho
chúng ta:
1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu*, khi nó không lợi
dụng được dân chúng nữa, thì nó phản cách mệnh.
2. Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công.
3. Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều.
4. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi.
5. Cách mệnh Pháp hi sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm cách
mệnh thì cũng không nên sợ phải hi sinh [2, tr.274
Đối với các chiến sĩ Công xã, Nguyễn Ái Quốc luôn dành tất cả sự kính trọng
và tình cảm quý mến nhất, coi họ như là những bậc tiền bối của mình. Người đã dịch
bài thơ “Quốc tế ca” của tác giả Eugène Pottier - một chiến sĩ Công xã ra tiếng Việt để
giáo dục cho các học trò của mình.
2.2. Cách mạng tháng Mười Nga (1917) qua tác phẩm “Đường Cách mệnh”
Từ nhận thức về bản chất tốt đẹp của Công xã Paris, Nguyễn Ái Quốc đã đến
với Cách mạng tháng Mười Nga 1917 với tình cảm đầy trân trọng. Nếu như Công xã
Paris là đòn tấn công trực diện đầu tiên vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đang lên, thì
Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã chặt đứt mắt xích yếu nhất trong hệ thống tư bản
chủ nghĩa, thành lập Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, cũng với lối viết văn ngắn gọn, cách
dùng từ đơn giản, dễ hiểu, lí luận chặt chẽ, Nguyễn Ái Quốc đã nêu bật được nguyên
nhân bùng nổ, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga.
Về nguyên nhân bùng nổ, Người viết: “Cách mệnh 1917 có mấy cớ sau này:
1. Khi Âu chiến †, đế quốc chủ nghĩa Anh và Pháp lợi dụng vua Nga đánh lại
Đức. Nhưng vua Nga lôi thôi, tiêu hết nhiều tiền, chết hết nhiều lính, tất bị Đức đánh
thua mãi. Các đế quốc chủ nghĩa ấy giận và giúp cho tư bản đẩy vua đi.
2. Tư bản giận vua chỉ tín dụng bọn quý tộc cầm binh quyền, bọn quý tộc lại vô
tài, đánh đâu thua đó. Vả tư bản bên Nga phần nhiều là chung với tư bản Anh và Pháp;
nếu Nga thua Đức, thì chẳng những tư bản Nga, mà tư bản Anh và Pháp cũng nguy; và
nếu cứ để vua thì chắc thua. Vậy nên tư bản muốn đẩy vua.
3. Thợ thuyền và dân cày đối với vua như đối với thù địch đã đành
4. Bọn hoạt đầu nhân cơ hội ấy, thì lợi dụng 2 bọn này‡ đuổi vua cho tư bản
Nga và đế quốc chủ nghĩa Anh và Pháp. Tư bản và đế quốc chủ nghĩa lại lợi dụng bọn
hoạt đầu” [2, tr.278 .
Nguyễn Ái Quốc đã làm rõ được mối mâu thuẫn giữa vua (Nga hoàng) với tư
bản Anh, tư bản Pháp, tư bản Nga, thợ thuyền và dân cày. Mâu thuẫn đó rất gay gắt,
* Kẻ theo chủ nghĩa cơ hội. † Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1917) ‡ Thợ thuyền và dân cày.
Trang 68
phức tạp, phát triển đến đỉnh điểm và sự bùng nổ một cuộc cách mạng để lật đổ Nga
hoàng là điều tất yếu, không thể tránh khỏi. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng vạch rõ
bản chất cơ hội, dối trá, lật lọng của bọn tư bản và bọn hoạt đầu: “Nhân dịp lính chết
nhiều, dân gian đói khổ, thợ thuyền thất nghiệp, Chính phủ lôi thôi; bọn hoạt đầu xúi
dân rằng bây giờ cách mệnh đuổi vua đi, thì ruộng đất sẽ về dân cày, công xưởng sẽ về
người thợ, nhân dân sẽ được quyền Chính phủ, chiến tranh sẽ hoá ra hoà bình.
Chẳng ngờ lúc tháng 2 đuổi vua đi rồi, tụi hoạt đầu và tụi tư bản lên cầm chính
quyền, bao nhiêu lời nguyền ước chúng nó quên hết. Chúng nó cứ bắt lính đi đánh;
ruộng đất cứ ở tay địa chủ, lò máy cứ ở tay nhà giàu; công nông cũng không được dự
vào Chính phủ”. [2, tr.279]
Sau cách mạng tháng Hai (1917), dân chúng dần dần nhận rõ bản chất thật sự
của Chính phủ tư sản thông qua những hoạt động tuyên truyền của các đảng viên cộng
sản và qua chính những hành động phản cách mạng của Chính phủ mới. Do đó, “Cuối
tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo:
"Khoan đã! Chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối Chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự". Đến
ngày 5 tháng 11, chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi
cho tư bản mà hại cho công, nông. ng Lênin nói với đảng viên rằng: Mồng 6 cử sự
thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét
Chính phủ lắm. Mồng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy thì Chính phủ đã biết rằng dân
oán và đã phòng bị nghiêm ngặt rồi” [2, tr.279-280 . Như vậy, vấn đề thời cơ cách
mạng đã được Lênin định liệu rất kĩ, thấu đáo và tài tình. “Quả nhiên ngày mồng 7
Đảng Cộng sản hạ lịnh cách mệnh, thì thợ thuyền ào đến vây Chính phủ, dân cày ào
đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp, thì lính ùa theo thợ thuyền mà trở lại
đánh Chính phủ. Từ bữa ấy, Chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng Cộng sản cầm quyền,
tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng
cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ
chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng*” [2, tr.280].
Qua việc trình bày diễn biến, kết quả của cuộc cách mạng tháng Mười Nga,
Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Lênin và
Đảng Cộng sản cũng như những chính sách tiến bộ của Đảng này nhằm mang lại quyền
lợi chính đáng cho nhân dân và đất nước. Người nhận định: “Trong thế giới bây giờ chỉ
có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua,
tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa
làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” [2, tr.280 .
* Thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Trang 69
Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu
Phi và khu vực Mĩ Latinh. Thực tiễn của Cách mạng tháng Mười không những đã thức
tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ ý chí đấu tranh, mà còn chỉ ra con đường đúng đắn đi tới thắng
lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Trên
cơ sở nghiên cứu về Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng
cách mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin làm nền tảng tư tưởng: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền,
phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin” [2, tr.280 .
Sau này, nhân dịp chào mừng kỉ niệm lần thứ 50 của Cách mạng tháng Mười Nga
vĩ đại (1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định ý nghĩa lịch sử to lớn của Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 không những đối với nước Nga mà còn đối với thế
giới: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu,
thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa
từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” [3, tr.304 .
3. Kết luận
Qua những trang viết về Công xã Paris (1871) và Cách mạng tháng Mười Nga
(1917), Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định tính tất yếu của cách mạng vô sản, của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Công xã Paris đã chứng minh mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa không còn đơn thuần là lí luận nữa mà đã được thể nghiệm thông qua
thực tiễn. Sự thất bại của Công xã Paris đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
cho sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga 1917, cuộc Cách mạng tháng
Tám 1945 ở Việt Nam và các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân khác ở một số
nước châu Á, Phi, Mĩ Latinh... Từ nhận thức đến hành động, Người đã có những cống
hiến to lớn không những đối với cách mạng Việt Nam mà còn đối với phong trào Cộng
sản và Công nhân quốc tế. Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá
trị. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6.1991) đã
xác định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng, dẫn đường cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Trang 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh Toàn tập 2000), Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh Toàn tập 2000), Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. Trần Dân Tiên (1994), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
5. Văn kiện Đảng toàn tập 2000), Tập 51, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trang 71
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN LỚP 1 THEO ĐỊNH HƢỚNG
ĐỔI MỚI CHƢƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG
V Lâm Bình*
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 29-NQ/TW do Ban chấp hành Trung Ương khóa XI ban hành
ngày 4 tháng 11 năm 2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định nhiệm vụ xây dựng Chương
trình Sách giáo khoa mới, tiếp nối Nghị quyết 88/2014/QH13 về “Đổi mới Chương
trình, Sách giáo khoa giáo dục phổ thông” do Quốc họp họp khóa 14 khẳng định quan
điểm xây dựng Chương trình, Sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông trên thực tiễn
địa phướng, khai thác điều kiện tối ưu từng địa phương, khẳng định tiếp thu kinh
nghiệm quốc tế tạo tính mở cho chương trình qua việc đề xuất nhiều chương trình
SGK để địa phương lựa chọn phù hợp với tình hình thực tế. Theo đó, Bộ Giáo dục Đào
Tạo ban hành Chương trình giáo dục phổ thông – chương trình tổng thể năm 2018,
chương trình môn học giáo dục phổ thông thiết kế liên thông từ lớp 1 đến lớp 12 theo
từng môn theo kế thừa đồng tâm, đồng trục. Chương trình phổ thông tổng thể gồm hai
giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Giai đoạn giáo dục cơ bản từ lớp 1 đến lớp 9 thực hiện phương châm giáo dục toàn
diện và tích hợp, bảo đảm trang bị cho học sinh (HS) tri thức phổ thông nền tảng, đáp
ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở.
Theo lộ trình đổi mới chương trình, năm học 2020 – 2021 thực hiện chương
trình, SGK mới bắt đầu từ lớp 1. Việc vận dụng, đổi mới các phương pháp dạy học
phù hợp các môn theo định hướng chương trình phổ thông giúp sinh viên sư phạm
ngành Giáo dục Tiểu học tiếp cận, nắm bắt kịp thời chương trình, SGK Toán 1 mới.
Bài viết đề cập về đổi mới phương pháp dạy học Toán lớp 1 theo định hướng đổi mới
chương trình Sách giáo khoa phổ thông nhằm chia sẻ điểm mới về nội dung chương
trình Toán 1 và linh hoạt lựa chọn phương pháp dạy học Toán phù hợp với xu hướng,
thiết thực với nội dung chương trình mới.
2. Nội dung
2.1. Nội dung chương trình Toán lớp 1 thực hiện theo Chương trình giáo dục phổ
thông mới
Chương trình môn Toán lớp 1 mới giảm 01 tiết/tuần (cả năm giảm 35 tiết), việc
giảm tiết này là nhằm giảm tải cho HS lớp 1. Thời lượng dạy học lớp 1, các trường có
thể chọn tổ chức lớp học 6 buổi/tuần (5 tiết x 4 buổi + 7 tiết x ngày = 27 tiết/tuần) hoặc
* Phó trưởng Khoa TH-MN
Trang 72
lớp học 7 – 8 buổi/tuần (tương ứng tuần 29 tiết hoặc 31 tiết/tuần) hoặc chọn cách tổ
chức lớp học 9 – 10 buổi/tuần (33 tiết/tuần), mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học, mỗi
tiết học 35 phút. Môn Toán trong chương trình phổ thông mới là môn học bắt buộc,
được thiết kế theo cấu trúc tuyến tính kết hợp với “đồng tâm xoáy ốc” (đồng tâm, mở
rộng và nâng cao dần), xoay quanh và tích hợp các mạch kiến thức Toán. Toán lớp 1
cũng được thiết kế theo cấu trúc trên, HS được học một tuần 3 tiết, cả năm học 105 tiết.
Theo “Hướng dẫn thực hiện kế hoạch giáo dục đối với lớp 1 thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới” của Sở GDĐT-GDTH tháng 2/2019, học sinh lớp 1 năm
học 2020 - 2021 học 6 môn học bắt buộc: Tiếng Việt, Toán, Đạo dức, Tự nhiên và Xã
hội, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật); môn học tự chọn: Tiếng dân
tộc thiểu số, Ngoại ngữ; Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục bắt buộc.
Môn học
bắt buộc
Số tiết
/năm học
Môn học
tự chọn
Số tiết
/năm học
Hoạt động
giáo dục bắt
buộc
Số tiết
/năm học
Tiếng việt 420 Ngoại ngữ
70
Hoạt động
trải nghiệm 105
Toán 105 Tiếng dân
tộc thiểu số 70
Đạo đức 35
TN&XH 70
GD thể chất 70
Nghệ thuật
(Âm nhạc,
Mĩ thuật)
70
Thời lượng giáo dục lớp 1 theo Chương trình giáo dục
phổ thông tổng thể
Chƣơng trình giáo dục phổ thông mới Chƣơng trình giáo dục
phổ thông hiện hành
Số và ph p tính Số học
Số tự nhiên Đếm, đọc, viết các số trong phạm vi 100
So sánh các số trong phạm vi 100
Các ph p
tính với số
tự nhiên
Phép cộng, phép trừ, tính nhẩm
Thực hành giải quyết vấn đề
liên quan đến các phép tính
cộng, trừ
Luyện tập, luyện tập chung
Hình học và đo lƣờng Yếu tố hình học
Hình phẳng
và hình
Quan sát, nhận biết hình
dạng của một số hình phẳng
Hình phẳng Giới thiểu về điểm, đoạn
thẳng, hình vuông, hình
Trang 73
khối và hình khối đơn giản tròn, hình tam giác. Cách
nhận biết điểm nằm bên
ngoài hoặc nằm bên trong
của một hình
Thực hành lắp ghép, xếp
hình gắn với một số hình
phẳng và hình khối đơn giản
Thực hành vẽ, cắt, ghép
một hình đã học biểu diễn
trên giấy kẻ ô vuông
Đại lƣợng và đo đại lƣợng
Đo lƣờng
Biểu tượng về đại lượng và
đơn vị đo đại lượng
Đại lượng,
đo đại lượng
và ứng dụng
Giới thiệu đơn vị đo
khoảng cách, độ dài xăng-
ti-mét. Giới thiệu đơn vị
đo thời gian: phút, giờ,
ngày, tuần, tháng… Làm
quen với cách đọc lịch,
tính ngày, tính giờ trên
đồng hồ
Thực hành đo đại lượng
Thực hành đo độ dài của
một vật đơn giản. Vẽ độ
dài cho trước. Cách ước
lượng độ dài theo đơn vị
xăng-ti-mét.
Giải toán có lời văn
Thực hiện giải toán có lời văn bằng cách
sử dụng một phép tính đơn giản
Hoạt động trải nghiệm
Nhà trường tổ chức cho học sinh một số
hoạt động sau và có thể bổ sung các hoạt
động khác tùy vào điều kiện cụ thể
Hoạt động 1: Thực hành ứng dụng các kiến
thức toán học vào thực tiễn, chẳng hạn:
- Thực hành đếm, nhận biết số, thực
hiện phép tính trong một số tình
huống thực tiễn hằng ngày (ví dụ:
đếm số bàn học và số cửa sổ trong
lớp học,…)
- Thực hành các hoạt động liên quan
đến vị trí định hướng không gian (ví
dụ: xác định được một vật ở trên
Trang 74
hoặc dưới mặt bàn, một vật cao hoặc
thấp hơn vật khác,…)
- Thực hành đo và ước lượng độ dài
một số đồ vật trong thực tế gắn với
đơn vị đo cm; thực hành đọc giờ
đúng trên đồng hồ xem lịch loại lịch
tờ hằng ngày.
Hoạt động 2: Tổ chức các hoạt động ngoài
giớ chính khóa (ví dụ: các trò chơi học
toán,…) liên quan đến ôn tập, củng cố các
kiến thức cơ bản.
So sánh nội dung chương trình Toán lớp 1 thực hiện theo Chương trình giáo
dục phổ thông mới với chương trình giáo dục phổ thông hiện hành
Nội dung chương trình môn Toán lớp 1 mới được cấu trúc thành 2 mạch kiến
thức: Số và phép tính; Hình học và Đo lường. Trong khi, chương trình môn Toán lớp 1
hiện hành được cấu trúc thành 4 mạch kiến thức: Số học; Đại lượng và đo đại lượng;
Yếu tố hình học; Giải bài toán có lời văn. Chương trình môn Toán lớp 1 mới không có
riêng mạch kiến thức "Giải bài toán có lời văn mà được đề cập đến trong phần thực
hành giải quyết vấn đề ở tất cả các mạch kiến thức. Trong nội dung Hình học của
chương trình môn Toán lớp 1 mới có đề cập đến yêu cầu: Nhận biết được vị trí, định
hướng trong không gian như: trên – dưới, phải – trái, trước – sau, ở giữa, nội dung
này không có trong chương trình môn Toán lớp 1 hiện hành. Nội dung hình học không
gian đã được đưa vào sớm hơn, ngay từ lớp 1 trong chương trình Toán lớp 1 mới.
Điểm mới trong chương trình môn Toán lớp 1 mới, cũng như các lớp khác, có
riêng phần Hoạt động thực hành và trải nghiệm. Có gợi ý nội dung tiến hành các hoạt
động nhằm giúp HS vận dụng những tri thức, kiến thức, kĩ năng, thái độ đã được tích
lũy từ giáo dục toán học và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống
một cách sáng tạo; phát triển cho HS năng lực tổ chức và quản lí hoạt động, năng lực tự
nhận thức và tích cực hóa bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp; tạo dựng
một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm.
2.2. Đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 1 theo định hướng đổi mới
Chương trình Giáo dục phổ thông mới
Kiến thức môn Toán lớp 1 đơn giản, hầu hết bắt nguồn từ cuộc sống nên GV có
thể hướng dẫn HS từ kinh nghiệm đã có để hình thành kiến thức mới. Việc dạy học
toán cần gắn liền với thực tế, gần với cuộc sống thực của HS. Trong hoạt động dạy học
Toán 1, về mặt phương pháp dạy học, giáo viên (GV) có thể khai thác theo hướng:
Sử dụng phương pháp trực quan khai thác vốn sống HS đã được tích lũy: Dạy
học toán gắn liền với thực tế, đảm bảo tính trực quan là quan trong nhất khi dạy toán 1.
Trang 75
Tổ chức các hoạt động toán học cho HS dưới sự hướng dẫn của GV. HS cần được
tham gia các hoạt động học tập như thực hành bằng tay, quan sát, dự đoán,… Con
đường hình thành kiến thức với HS lớp 1 thực sự hiệu quả là bắt đầu với hoạt động
bằng tay với các vật thật, hoạt động trên mô hình, hoạt động ngôn ngữ và cuối cùng là
hoạt động trí tuệ. Tổ chức cho HS hoạt động (với đồ vật thật, mô hình, kí hiệu toán
học,…), chú trọng đến việc khuyến khích HS giao tiếp, hợp tác, lập luận, tranh luận,
động viên HS tập suy nghĩ, tập quan sát, tập nói, tập diễn đạt theo cách riêng của mình.
Sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định đối với môn
Toán: GV có thể sáng tạo ra các đồ dùng dạy học khác, phù hợp với nội dung học và
đối tượng HS của lớp mình, tăng cường sử dụng công nghệ thông tin và các phương
tiện thiết bị dạy học hiện đại một cách phù hợp và hiệu quả.
HS được trải nghiệm, tìm tòi kiến thức, phát hiện để hình thành kiến thức: Việc
dạy học phải gắn với các tình huống thực mà HS được trải nghiệm, kết hợp các hoạt
động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức
toán học vào thực tiễn. Tạo hứng thú học toán cho HS bằng việc tổ chức các trò chơi
học tập, xây dựng các tình huống kích thích, cuốn hút HS vào các hoạt động học tập.
Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trên cơ sở tạo dựng các tình
huống có vấn đề, trong đó HS dựa trên vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có, được tham
gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức. Đó là cách
tốt nhất giúp HS có sự hiểu biết vững chắc, phát triển được vốn kiến thức, kĩ năng toán
học nền tảng, từ đó hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực toán học.
2.3. Một vài biện pháp h trợ dạy học mạch kiến thức “Số và phép tính” chương
trình Toán lớp 1 mới
Chương trình môn Toán lớp 1 mới được cấu trúc thành 2 mạch kiến thức: Số và
phép tính; Hình học và Đo lường. “Số và phép tính” gồm: Số tự nhiên; Các phép tính
với số tự nhiên. Nội dung dạy đếm, đọc và viết các số trong phạm vi 100; dạy so sánh
các số trong phạm vi 100 và dạy phép cộng, phép trừ, tính nhẩm vẫn giữ trong chương
trình phổ thông mới. Điểm khác trong nội dung “số và phép tính” trong chương trình
mới: dạy thực hành giải quyết vấn đề liên quan đến các phép tính cộng, trừ thay vì dạy
luyện tập, luyện tập chung ở chương trình hiện hành.
2.3.1. Dạy học hình thành, đọc, viết các số tự nhiên trong phạm vi 100
Khi dạy học các số trong phạm vi 10, GV cần lưu ý một số đặc điểm trong
tiến trình hình thành khái niệm, cụ thể
- Hình thành các số từ 1 đến 5, HS quan sát nhóm các đối tượng khác nhau,
nhận xét các nhóm đều có cùng số phần tử, Gv giới thiệu số và chữ số biểu thị số đó.
- Hình thành các số từ 6 đến 10 theo cách thêm 1.
Trang 76
- Hình thành số 0 xuất phát từ 1 nhóm các phần tử, chẳng hạn bể cá, ta vớt dần
từng con, số lượng cá giảm dần, tới khi không con con cá nào nữa, ta nói bể có không
con cá (số lượng cá ở bể là 0).
- Số 10 là số có hai chữ số, việc viết số 10 bằng hai chữ số 0 và 1 là áp đặt,
không giải thích ngay từ đầu.
Khi hình thành, đọc, viết các số trong phạm vi 10, GV cần chú ý huy động
những kinh nghiệm về đếm, về nhận biết số lượng đồ vật mà HS đã tích lũy được từ
đời sống hàng ngày và qua các lớp mẫu giáo. GV cần chú ý cung cấp cho HS các từ
ngữ: một, hai,…, mười, thêm, thêm một, mẫu câu: “…thêm một được…”.
Hình thành các số từ 11 đến 19, thông qua các mô hình trực quan gồm 1 bó
que tính và các que rời, HS sẽ hiểu rõ về cách viết, cấu tạo và ý nghĩa các chữ số trong
cách viết các số từ 11 đến 19.
Khi dạy học các số trong phạm vi 100, GV cần chú ý tổ chức các hoạt động
huy động những kinh nghiệm, những kiến thức của HS về hình thành, đọc, viết các số
trong phạm vi 10. Sự chuyển đổi về âm tiết (chuyển từ mười thành mươi) bắt đầu từ số
20. Ví dụ số 13 đọc là “mười ba” nhưng số 23 đọc là “hai mươi ba”; các đọc các số có
hai chữ số mà các chữ số đơn vị là 1, 4 hoặc 5 như “hai mươi mốt”, “năm mươi tư”,
“bốn mươi lăm”, không đọc “hai mươi một”, “năm mươi bốn”, “bốn mươi năm”. Chú
ý sửa lỗi phát âm (nói ngọng) cho HS, chẳng hạn, không đọc số 5 là “số lăm”, số 15 là
“mười năm”. GV cần tập cho HS viết các chữ số đúng dạng, đúng qui trình, cần hướng
dẫn, uốn nắn tỉ mỉ, chú ý sửa chữa các sai sót của HS như viết ngược số, viết không
đúng qui trình. Cần chú ý hướng dẫn HS cách viết các số có hai chữ số, chẳng hạn để
viết số “bốn mươi hai” thì viết chữ số 4 trước, sau đó viết chữ số 2 vào bên phải chữ số
4, lưu ý HS có thể mắc sai lầm như viết thành 402, 24.
2.3.2. Dạy học về so sánh các số tự nhiên trong phạm vi 100
So sánh các số trong phạm vi 10, việc dạy học các quan hệ >, <, = trong so sánh
các số, GV cần chú ý, muốn thiết lập được quan hệ bằng nhau giữa các số, trước hết
HS lớp 1 phải nhìn thấy hai số đó giống nhau y hệt và HS chỉ việc nối hai số bởi dấu
“=”. Chẳng hạn như:
- Đọc kết quả so sánh, chẳng hạn 3 < 5; 2 = 2; 4 > 1;
- Viết kết quả so sánh bằng cách “nói” hoặc điền dấu so sánh vào ô trống,
ví dụ 2 5; 3 3; 4 2;
- Nghe người khác đọc, HS viết thànnh kết quả so sánh, ví dụ nghe đọc “ba lớn
hơn hai” thì HS viết 3 > 2;
- Tìm một số hoặc một vài số trong quan hệ so sánh, ví dụ > 5; 3 < ; 4 =
Khi dạy so sánh các số, GV cần chú ý cung cấp cho HS các từ như “nhiều hơn”,
“ít hơn”, “lớn hơn”, “bé hơn”, “bằng nhau”, chú ý sửa chữa các sai sót của HS như nói
rằng: “bên trái đông/nhiều thỏ hơn bên phải”; “3 con thỏ lớn hơn 2 con thỏ” bằng cách
Trang 77
GV nói câu đúng “số thỏ bên trái nhiều hơn số thỏ bên phải”, “3 lớn hơn 2” rồi cho HS
lắng nghe, nhắc lại nhiều lần.
2.3.3. Dạy học phép cộng, phép trừ các số
Khi dạy phép tính cộng trừ, GV cần tập trung vào các nội dung nhận biết phép
cộng, phép trừ; bảng cộng, bảng trừ; kỹ thuật tính viết; quan hệ giữa phép cộng và
phép trừ.
- Nhận biết về ph p cộng: GV cần hướng dẫn HS thực hiện thao tác “gộp” hai
nhóm đồ vật rồi đếm toàn bộ số đồ vậy có trong hai nhóm. Chẳng hạn, gộp 3 que tính
với 1 que tính, nhận được 4 que tính. Ghi lại hoạt động này bằng phép cộng 3 + 1 = 4.
Sau đó, để củng cố nhận thức, cho HS quan sát trên hình vẽ trong SGK để nhận biết
phép cộng tương ứng.
- Nhận biết về ph p trừ: GV cần hướng dẫn HS thực hiện thao tác “tách” một
nhóm đồ vật từ một tập hợp đồ vật đã cho, rồi đếm số đồ vật còn lại. Chẳng hạn, có
một nhóm gồm 3 que tính, tách rời ra 1 que tính thì bộ phận còn lại có 2 que tính. Ghi
lại hoạt động này bằng phép trừ 3 – 1 = 2. Sau đó, để củng cố nhận thức, cho HS quan
sát trên hình vẽ trong SGK để nhận biết phép trừ tương ứng.
- Thực hiện tính theo cột dọc (tính viết): GV hướng dẫn HS thực hiện phép tính
theo hai bước: đặt tính (đặt tính dọc) và tính (từ phải sang trái). Việc xây dựng “qui tắc”
tính dựa trên việc sử dụng đồ dùng trực quan ví dụ như que tính rời, “thẻ 1 chục”,…
Khi hình thành khái niệm phép cộng, phép trừ cho HS, GV chú ý các từ ngữ thể
hiện phép toán như “gộp”, “thêm”, “tách”, “bớt”, “cho đi”, “lấy đi”, các mẫu câu như
“… thêm…bằng…”, “… cộng … bằng…”, “… bớt … bằng…”, “… trừ … bằng…”.
Có thể tổ chức các hoạt động như GV đưa cho mỗi nhóm HS một số các đồ vật thật,
khoảng từ 5 đến 10. Mỗi nhóm tự tạo ra thật nhiều phép cộng có thể có được từ các đồ
vật đó, ghi lại bằng phép tính. Sau đó các nhóm chia sẽ kết quả của nhóm mình với các
nhóm khác. GV cũng có thể hướng dẫn HS vẽ tranh với các vật thật để thể hiện phép
cộng, phép trừ. GV cần chú ý huy động những kiến thức, kĩ năng thực hành phép
cộng, phép trừ HS đã tích lũy được khi học các số trong phạm vi 10 như thuộc bảng
cộng, bảng trừ trong phạm vi 10; kĩ thuật làm “tính viết”.
3. Kết luận
Theo Quyết định 404/QĐ-TTg về “Phê duyệt đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông mới”, lộ trình thực hiện từ năm học 2018 - 2019, bắt đầu
triển khai áp dụng chương trình mới, sách giáo khoa mới theo hình thức cuốn chiếu
đối với mỗi cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tuy nhiên, từ năm
2015 do khối lượng công việc thưc hiện quá lớn nên không kịp lộ trình, Chính phủ
đồng ý cho lùi 2 năm tức là năm học 2020 – 2021 mới thực hiện chương trình Sách
giáo khoa mới bắt đầu từ lớp 1. Việc giới thiệu và hướng dẫn đến các sinh viên ngành
Giáo dục Tiểu học của trường trong học phần Phương pháp dạy học Toán và Phương
Trang 78
pháp dạy học Toán Chuyên sâu là thiết thực và phù hợp với xu hướng, đây là yêu cầu
bức thiết hiện nay. Qua đó, sinh viên được tiếp cận với chương trình, quan điểm xây
dựng chương trình, cấu trúc chương trình và nội dung chương trình môn Toán ở bậc
Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định 404/QĐ-TTg (2015) - Phê duyệt đề án đổi mới chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thông mới.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (12/2018), Thông tư số 32/018/TT-BGDĐT.
3. Bộ GDĐT (2018), Chương trình giáo dục phổ thông – chương trình tổng thể, Hà Nội .
4. Đinh Quang Báo (chủ biên) (2016), Chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục phổ thông, NXB ĐHSP Hà Nội.
5. Vũ Quốc Chung (2000), Phương pháp dạy học Toán Tiểu học, NXB ĐHSP.
6. Nguyễn Văn Khôi (2010), Phát triển chương trình giáo dục, NXB ĐHSP.
7. Sở GDĐT Lâm Đồng (2/2019), Hướng dẫn thực hiện kế hoạch giáo dục đối với lớp 1
thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
8. Web https://www.moet.gov.vn/ ; http://www.hcmup.edu.vn/; http://hnue.edu.vn/; …
Trang 79
TÍNH MỘC MẠC, DÂN DÃ
TRONG VĂN CHƢƠNG – NGHỆ THUẬT NAM BỘ
Lữ Thị Anh Thư
*
1. Đặt vấn đề
Dù mỗi người có thể có một định nghĩa riêng về nghệ thuật nhưng suy cho cùng
nghệ thuật chính là sự phản ánh tâm hồn. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần
của người nghệ sĩ. Và hơn thế, tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện đời sống nội
tâm của tác giả mà còn mang đặc điểm của nền văn hóa mà nghệ sĩ đó hấp thụ được.
Hay nói cách khác, văn hóa chính là bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng
tạo của người nghệ sĩ, để mỗi tác phẩm ra đời luôn thấm đẫm tinh chất văn hóa của
vùng đất đó.
Trong kho tàng văn chương – nghệ thuật Việt Nam, văn chương – nghệ thuật
Nam Bộ luôn có một dấu ấn riêng bởi nó được là sự kết tinh từ mạch nguồn văn hóa
Nam Bộ. Văn chương – nghệ thuật Nam Bộ tuy không có được sự tinh tế, sắc sảo như
các vùng miền khác nhưng tính mộc mạc, dân dã của đất và người Nam Bộ đã tạo nên
một sức cuốn hút kì lạ.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Mộc mạc, dân dã trong cách chọn đề tài
“Nam lý, Bắc thơ, Huế hò” – câu nói ấy có lẽ đã phần nào khái quát được điểm
mạnh của nghệ thuật dân gian từng miền. Là loại dân ca đặc sắc của người bình dân,
điệu lý có mặt ở 3 miền Bắc, Trung, Nam nhưng chỉ đến Nam Bộ, lý mới thật sự tỏa
sáng hết vẻ đẹp của nó. Lý thoát thai từ ca dao, là tiếng nói của người dân lao động.
Có lẽ vì thế mà các điệu lý Nam Bộ thường đi vào những đề tài gần gũi. Chỉ cần điểm
qua tên các điệu lý ở Nam Bộ sẽ thấy sự phong phú, muôn màu của đời sống nơi đây,
từ tên con vật: lý con cua, lý con mèo, lý khỉ đột, lý con cá lóc, lý con cúm núm, lý
con chuột, lý con rắn mối, lý con lươn…, đồ vật: lý cái phảng, lý cái kéo, lý cái áo, lý
chiếu bông, lý bình vôi…, cây cỏ: lý cây khế, lý bắp non, lý bụi chuối, lý cây chanh, lý
mù u, lý bông trang… đến các món ăn: lý bánh canh, lý dĩa bánh bò, lý bánh tráng, lý
bánh ít…
Có thể nói, không ở đâu số lượng các điệu lý nhiều như ở Nam Bộ. Nó đã phản
ánh khá trọn vẹn, sống động đời sống của con người miền sông nước. Những sự vật
dân dã, đời thường, tưởng chừng thô mộc cũng được các tác giả dân gian Nam Bộ đưa
vào làn điệu dân ca, không quá kén chọn, không quá kiểu cách. Một cái áo vá quàng,
một con khỉ đột, một dĩa bánh bò… cũng có thể gợi cảm hứng thành giai điệu. Chất
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 80
liệu cuộc sống ùa vào đầy ắp các điệu lý, dường như đã xóa bỏ khoảng cách, ranh giới
phân biệt giữa nghệ thuật và đời thường.
2.2. Mộc mạc, dân dã trong bút pháp thể hiện
Có thể nói, trong kho tàng dân ca Việt Nam vốn rất phong phú, đa dạng, lý
Nam Bộ luôn có một diện mạo riêng, luôn biết tự làm mới mình bởi một bút pháp thể
hiện đầy chân thực. Ví dụ như cùng một cảm thức về cảnh chùa, về bốn cửa, bốn
kiểng, nếu lý cửa quyền vùng Huế, Thừa Thiên sử dụng những hình ảnh trang nhã,
sang trọng: tứ linh, con rồng, con dơi, hoa sen, hoa sứ, bài thơ, cây đèn… thì đến vùng
đất mới Nam Bộ, họa tiết chạm trổ bỗng được sáng tạo thêm đầy bất ngờ:
“Bốn cảnh chùa chạm bốn con cua
Hai con cua biển, hai con cua đồng”
Con cua – một hình ảnh rất dân dã, trần thế lại có thể xuất hiện ở chốn thờ tự
thiêng liêng – điều đó chỉ có với tư duy nghệ thuật hồn nhiên của người Nam Bộ.
Và điệu lý cảnh chùa, tuy thuộc loại hình dân ca nhưng đã thể hiện được nét
riêng của nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ Nam Bộ. Bên cạnh những điển tích của Trung
Hoa hay những con vật tứ linh kinh điển, người Việt nơi đây có xu hướng sử dụng thêm
những môtip trang trí mới gắn liền với cuộc sống của vùng đất khẩn hoang. Như nhà cổ
Đại Điền ở Bến Tre được xây dựng từ thế kỉ XIX, mái nhà được lợp ngói âm dương,
mỗi viên in những cảnh sinh hoạt đời thường gần gũi: con gà, con cua, bó lúa…
Hoặc như ngôi nhà hơn 130 tuổi của dòng họ Dương ở Cần Thơ, trên bao lam
nối các cột lim trước án thờ không hề có những điển tích Trung Quốc mà thay vào đó
là cảnh sinh hoạt dân dã của lưu dân khẩn hoang: từ con cua, gà, tôm, cá đến lùm cây,
cành trúc… Có thể nói, sự có mặt của các họa tiết dân dã trong các công trình kiến trúc
đã nói lên khuynh hướng sáng tác của người Nam Bộ là tìm về với cuộc sống đời
thường – một tư duy sáng tạo chân thật, hồn nhiên, không quá câu nệ kiểu cách, hình
thức. Với nghệ sĩ dân gian Nam Bộ, dường như việc sáng tác, sáng tạo không cần đến
nhiều kĩ xảo hay dụng công nghệ thuật, chỉ đơn giản như đang ghi chép lại những cảm
xúc rất thật của mình về đời sống xung quanh.
“Sĩ phu [Nam Bộ ham đọc sách cốt yếu để hiểu rõ nghĩa lý mà lại vụng văn
từ”. Nhận xét của các tác giả Đại Nam nhất thống chí đã phần nào nói lên đặc tính của
văn chương Nam Bộ. Tuy nhiên cần hiểu “vụng văn từ” ở đây không phải theo nghĩa
yếu kém, nghèo nàn về từ ngữ mà là một phong cách văn chương mộc mạc, đơn giản,
không nhiều trau chuốt hay dụng công nghệ thuật. Sự mộc mạc, chân phương của
người Nam Bộ trong nghệ thuật ngôn từ khiến cho không ít người nhận định ở Nam
Bộ chỉ là “văn nói”, “nói như thế nào, viết như thế ấy” chớ không có “văn viết”.
Giữa tác phẩm của nhà văn Bắc Bộ, Trung Bộ ranh giới có thể khó phân biệt
nhưng sáng tác của nhà văn Nam Bộ lại không dễ nhầm lẫn với ai khác. Bởi ngôn ngữ
trong các tác phẩm dù của Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn
Trang 81
Giỏi, Nguyễn Thi hay Nguyễn Ngọc Tư… đều đậm màu sắc phương ngữ. Sáng tác của
các nhà văn nơi đây luôn giữ được sắc thái riêng của ngôn ngữ Nam Bộ từ biến thể
ngữ âm: bịnh/bệnh , công bình chánh trực/công bằng chính trực, biểu/bảo, binh/bênh,
thiệt/thật… Ví dụ:
“Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về
thành phố. Con đâu có bịnh”
“Ở đời mình phải công bình chánh trực”
“ ng già nhảy vọt từ căn váng xuống, hét: Mày còn binh nó hả?”
“Thiệt là dị hợm”
Những từ địa phương cũng có mặt trong tác phẩm văn học với số lượng vô
cùng phong phú: mướn, day, dòm, coi, biểu, lội, mần, ngó, quẹo, xúm, ráng, quở,
nhóc, đốn, bưng, bồng, quệt, khoái, ưng, chết yểu, y hệt, xà quần, quá giang, tà lỏn,
thày lay, càm ràm… Đọc một đoạn văn trong tác phẩm Huệ lấy chồng của Nguyễn
Ngọc Tư: “Đằng trước rạp, nhóm ca cải lương dạo đờn lửng ta lửng tửng rồi ai đó vô
câu vọng cổ ngọt xớt. Không biết vô tình hay cố ý, anh chàng nọ kê micro gần miệng
mà uống rượu. Nghe đánh cái chọc giòn thiệt giòn rồi khà ra tuồng như cay đắng lắm,
chua xót lắm, bắt thèm” với ngôn từ đặc sệt Nam Bộ, tưởng như hiện lên trước mắt
người đọc khung cảnh sinh hoạt tài tử, điệu nghệ của những lưu dân ngày nào.
Phải nhận thấy rằng, những từ địa phương được sử dụng đậm đặc không chỉ gợi
cảm giác ngồ ngộ, vui tai cho những ai mới đến vùng đất này mà còn thể hiện rõ cái
“chất”, cái “hồn” người Nam Bộ. Do đó, không phải các tác giả văn học nơi đây không
có khả năng thay thế lớp từ địa phương ấy bằng từ ngữ toàn dân, nhưng họ muốn giữ
nguyên chất liệu ngôn ngữ đời thường, dân dã ấy, để chúng bước vào nghệ thuật một
cách đường hoàng. Bởi phương ngữ Nam Bộ không đơn thuần chỉ là âm tiết, từ ngữ,
cú pháp mà còn chứa những giá trị văn hóa của vùng đất mới. Nó tiêu biểu cho tính
cách của con người Nam Bộ, mộc mạc, chân chất, nghĩ sao nói vậy, nói sao viết vậy,
không quá cân nhắc, kén chọn hình thức.
Con người ấy với tính cách ấy đã trở thành hình tượng nghệ thuật trong các
sáng tác văn học Nam Bộ. Nhân vật văn học Nam Bộ được xây dựng thường là những
nông dân chất phác, bộc trực, ruột để ngoài da nên diễn biến tâm lý của họ thường
không quá sâu kín, phức tạp. Do đó, các nhà văn Nam Bộ không thiên về khai thác
những đấu tranh tư tưởng giằng xé bên trong nội tâm con người. Ý kiến của Phạm
Xuân Thạch về nhược điểm của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có lẽ đúng với phần lớn
các nhà văn Nam Bộ khác: “con người trong tiểu thuyết của ông thiếu đi cái chiều kích
của những sự băn khoăn và những sự lựa chọn, thiếu đi cái chiều sâu của những xung
đột bên trong và sự phản tư lại ý nghĩa tồn tại của chính mình”*.
* http://sites.google.com/site/thachpx/vănxuôihồbiểuchánh
Trang 82
Nhân vật trong tác phẩm văn học Nam Bộ dù có đời sống nội tâm nhưng không
phải là những con người ưa suy tư, triết lí về những vấn đề lớn lao như lý tưởng, lẽ
sống. Do đó, văn chương Nam Bộ không quá đi sâu vào những đoạn độc thoại nội tâm
mà nhân vật thường bộc lộ tính cách qua đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại được các nhà
văn Nam Bộ chú ý khai thác bởi đó là không gian vô tận để có thể đón nhận lời ăn
tiếng nói hàng ngày của quần chúng. Mạch truyện ngắn Sơn Nam phần lớn được kết
nối bằng những mẩu đối thoại như thế:
“Chưa kịp phủi mấy giọt mưa đọng trên mặt, trên vai áo, Năm Pho đã vội lên tiếng:
- ng già nãy giờ nói chuyện với ai vậy? Bộ có giấu bà nào trong mùng hả?
Hèn chi tui nghe ông hát, thiệt hết sức muồi!
ng cười:
- Có thuốc rê cho tao một điếu. Buồn, hát một mình. Mấy bữa rày túng quá.
Sao? Có chuyện gì lạ không?”
Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong tác phẩm Sơn Nam chính là đặc sản văn
chương Nam Bộ, bởi nó mộc mạc, dân dã, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân,
không chút gọt giũa, tô vẽ màu mè. Những đoạn đối thoại vừa đậm đặc phương ngữ
Nam Bộ: bộ, hèn chi, bữa rày, tui… vừa ngắn gọn, giản dị, như cách nói của con người
nơi đây thường gọn lỏn, cộc lốc vì thiếu chủ ngữ. Truyện ngắn Sơn Nam luôn đem đến
cho người đọc cảm giác ông nói cho người ta hiểu là được chứ không chủ định làm văn.
Nguyễn Ngọc Tư tuy thuộc lớp nhà văn thế hệ sau nhưng đã tiếp nối được cái
chất Nam Bộ ấy: “Có bữa tan trường, Thi về cùng Huệ, Thi hỏi: „Tao thấy con gà mái
nhà mầy đẻ bậy đống rơm sau hè, sao mầy không làm ổ?‟. Huệ xụ mặt xuống, môi trề
ra: „Gà nhà tao, kệ tao‟. Thi mất hứng, càu nhàu: „Con gái gì… vô duyên‟”. Đoạn đối
thoại làm người đọc cứ ngờ ngợ, thấy quen quen, dường như đã gặp đâu đó, đã nghe
đâu đó, rất gần gũi như chính lời đối đáp của mình. Khoảng cách giữa ngôn ngữ đời
thường và ngôn ngữ văn chương lại càng được rút ngắn tối đa khi các nhà văn Nam Bộ
khai thác triệt để những ngữ khí từ đặc trưng của quê mình: hôn, hen, nghen, hả, ha,
hà, à, vậy cà…, như:
Ngữ khí từ làm cho câu văn Nam Bộ dù chỉ là những từ ngữ đời thường, dân dã
bỗng giàu sắc thái biểu cảm. Văn chương Nam Bộ còn sử dụng các từ cảm thán dưới dạng
khẩu ngữ khiến mỗi câu văn, mỗi lời thoại càng gần với lời ăn tiếng nói thường ngày:
“Bà Hai Khê bả mừng húm bồng con về. Nhè bữa sau ông cảnh sát ổng tới đòi
tiền. Chết mẹ không?”
“Mấy bà kể Vân Tiên, nghe lâu thấy mẹ”
“Bà mẹ nó, tôi sơ ý quá, phải tôi biết tôi rình chém cho nó một dao”
“Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội?
Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt
nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha.
Trang 83
Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”
“Tổ cha bây, nhớ lộn má Ba bên xóm Huế hả, tao là má Bảy, hỏng nhớ he?”
Không chỉ dừng ở từ ngữ, các câu văn Nam Bộ cũng giản dị, bình dân như lời
nói hàng ngày, không chút dụng công, kĩ xảo. Đoạn miêu tả sự hào hiệp, cởi mở của
bà con Đầm Thị Tường được tác giả viết thật tự nhiên, dung dị: “Mèn ơi, thằng Hai,
thằng Hai nè, bà nó ơi, cái thằng, lâu lắm... Coi anh Hai mập mạp tốt tướng lắm, má à.
Bà má mắt mờ rờ bụng ta, cười khùng khục, í, bụng bây inh có chửa năm bảy tháng,
nhớ hồi đó, mỗi khi đi công tác về, bây chỉ cái bụng xẹp lép, kêu nghe ọt ọt, than, má
ơi, đói quá, thấy mà thương”. Hơn bất kì dẫn chứng nào, những câu văn ấy đã nói lên
được tính cách của con người Nam Bộ sống thẳng như ruột ngựa, nói năng ít văn
chương màu mè, cầu kì, rào đón.
Có thể khẳng định màu sắc phương ngữ, khẩu ngữ chính là đặc trưng của văn
phong Nam Bộ. Nhưng có lẽ cũng vì sự khai thác chúng tối đa, mức độ thể hiện đậm
đặc nên đôi lúc văn chương Nam Bộ bị xem là dễ dãi, thông tục:
“Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười: „Làm đĩ‟”
“Hả! Mày nói sao? Cái léo mẹ tiên tổ mày, mày hư, mày thúi, mày làm đĩ lấy
trai ở đâu cho có chửa, bụng thè lè, rồi bây giờ mày nói xán xã cho cháu tao hả? Cháu
tao như rồng như phụng, còn mày là quân ăn mày, mày rửa đít cho nó cũng chưa được,
sao mày dám nói như vậy?”
“Con đĩ! Sao không dọn đồ đạc lên đồn cảnh sát mà ở với nó hả? Con đĩ thối
tha kia”
Có lẽ chỉ có trong văn chương Nam Bộ, mọi từ ngữ đều có thể hiện diện. Sẽ có
người cho rằng các tác giả nơi đây cẩu thả, sơ sài trong sáng tạo, thiếu sự cẩn trọng
trong chắt lọc từ ngữ. Nhưng nếu quá cân nhắc, quá gò câu giũa chữ thì chắc đã không
có cái gọi là phong cách ngôn ngữ văn chương Nam Bộ. Và nếu quá cầu kì, bóng bẩy,
hoa mĩ thì cũng không còn cái gọi là cá tính của người miền Nam.
Mặt khác, đâu phải ngôn từ trong văn chương phải được trau chuốt, gọt giũa
thành một thứ ngôn ngữ cao sang, đẹp đẽ như “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm
thêu”. Ngôn từ mộc mạc, bình dị vẫn có thể trở thành nghệ thuật khi làm toát lên hơi
thở của cuộc sống ngồn ngộn, tuôn trào. Văn chương Nam Bộ đã làm được điều đó.
Lối văn viết như nói là phong cách đặc trưng của tác giả Nam Bộ nhưng đúng như
Huỳnh Công Tín nói: “không phải cứ ghi âm lại cuộc nói chuyện của người Nam Bộ là
thành văn chương được đâu” [4:57 . Nghệ thuật ngôn từ Nam Bộ dù không mượt mà
bóng bẩy, không cầu kì, trau chuốt, gọt giũa câu từ nhưng đã tái hiện chân thực bản
sắc văn hóa Nam Bộ cùng tính cách người dân nơi đây. Đó là những con người thẳng
ngay trong suy nghĩ, bộc trực trong nói năng, chân thành, mộc mạc trong ứng xử và cả
trong sáng tạo nghệ thuật.
Trang 84
Tính mộc mạc ấy là hệ quả tất yếu của sự bộc trực, nghĩ gì nói đó, nói gì viết đó
của người dân Nam Bộ. Họ sống không che đậy, giấu giếm và viết cũng không rườm
rà, kiểu cách. Những người dân đi khai phá Nam Bộ đa số nghèo khó, vốn chữ nghĩa
không nhiều nên họ chuộng những gì đơn giản, mộc mạc, nghe là biết liền, nhìn là
hiểu liền, không cần nhiều ẩn ý sâu xa. “Họ ghét những cuộc tranh luận về lí thuyết
chính trị hoặc lí thuyết siêu hình, và có thành kiến cho rằng kẻ dùng quá nhiều lí luận
là „lẻo mép‟, gian xảo. Họ thích nói chuyện vui, chuyện có đầu có đuôi, những giai
thoại khôi hài. Nói lí luận là buồn ngủ”.
Người Nam Bộ là thế, sống chân chất, bình dị, bộc trực bao nhiêu thì sáng tạo
nghệ thuật cũng dung dị, mộc mạc bấy nhiêu. Trong nói năng không cần dài dòng,
văn hoa, miễn sao ngắn gọn, thân mật dù đôi lúc có bỗ bã, suồng sã; trong thưởng
thức nghệ thuật không cần nhiều triết lý, ẩn ý sâu xa, miễn sao mộc mạc, giản đơn,
nghe là hiểu, nhìn là biết.
Chính vì thế, trong sáng tác văn chương, các tác giả cứ để ngôn từ thường nhật
ùa vào tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái như bản tính con người Nam Bộ vốn đã
hào sảng. Dù không phủ nhận nếu không tiết chế, lạm dụng việc đưa phương ngữ,
khẩu ngữ Nam Bộ vào sáng tác có thể là rào cản cho sự phổ biến tác phẩm ra ngoài
khu vực Nam Bộ. Nhưng nếu biết vận dụng khéo léo, hợp lý, đây sẽ là một đóng góp
không nhỏ vào phong cách ngôn ngữ văn chương Việt Nam.
3. Kết luận
Có thể nói, dù là nghệ thuật ngôn từ hay nghệ thuật thanh sắc, hình khối, nghệ
thuật Nam Bộ đều hướng đến sự nhẹ nhàng, giản dị, mộc mạc hơn sự trang trọng,
khuôn khổ, hình thức. Dù không thể phủ nhận nét tinh tế, sắc sảo của nghệ thuật Nam
Bộ khó có thể sánh bằng nghệ thuật Bắc, Trung Bộ nhưng nó thể hiện chân thực tính
cách cũng như phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của người dân nơi đây. Văn chương –
nghệ thuật Nam Bộ là một gam màu độc đáo góp vào bức tranh chung của văn
chương – nghệ thuật Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa & cư dân đồng
bằng sông Cửu Long, – TP.HCM, NXB Khoa học xã hội, 443 trang.
2. Mạc Đường (1984), Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong
cuốn: Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, – H: Viện văn hóa, 341 trang.
3. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về t vựng –
ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc bộ, – H: NXB Khoa học xã hội, 208 trang.
4. Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, – H: NXB Văn hóa – Thông
tin, 467 trang.
5. Huỳnh Công Tín (2006), Nhà văn Sơn Nam – nhà Nam Bộ học.
Trang 85
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ “MÔ HÌNH GIÁO DỤC
REGGIO EMILIA” TRONG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN MẦM NON
Bùi Thị Tố Tâm*
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm
1. Đặt vấn đề
Mô hình giáo dục Reggio Emilia được xây dựng trên hệ thống lí thuyết và triết
lí của nhà giáo dục Malaguzzi. Xuất phát điểm từ Ý và đã lan rộng cảm hứng giáo dục
trên toàn thế giới đặc biệt là các nước có nền giáo dục tiên tiến như Mĩ, Anh, các nước
Châu Âu và các nước ở Châu Á như Hàn Quốc, Singapore…Triết lí dạy học của mô
hình Reggio Emillia dược xây dựng trên nền tảng lấy trẻ làm trung tâm nhằm phát
triển năng lực của trẻ thông qua “100 ngôn ngữ”(Linda and Pat, 2005).
Hiện nay có khá nhiều trường mầm non dân lập, tư thục, quốc tế tại các thành
phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng … đã tiếp cận và xây dựng
chương trình giáo dục Reggio Emilia. Tuy nhiên, các trường vẫn gặp những thách thức
lớn khi triển khai mô hình này vì thiếu đội ngũ hiểu biết và nguồn tài liệu hiếm hoi về
mô hình này. Việc xây dựng chuyên đề “Mô hình giáo dục Reggio Emilia” trong đào
tạo giáo viên mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non theo quan
điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”. Thêm vào đó là nhu cầu đào tạo giáo viên theo phương
pháp dạy học hiện đại phát huy sự sáng tạo của người dạy và tính tích cực của người
học là điều thiết yếu của các trường đại học, cao đẳng sư phạm và các trường mầm non
ở Việt Nam. Với tất cả những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất ây dựng và
thực hiện chuyên đề “mô hình giáo dục Reggio Emilia” trong đào tạo giáo viên
mầm non tại trường CĐSP Đà Lạt
2. Nội dung
2.1. Khái niệm mô hình giáo dục
Mô hình giáo dục là chương trình giáo dục bao gồm triết lí giáo dục - cách tiếp
cận, nội dung, hình thức, phương pháp, cách đánh giá đánh nhằm hướng đến mục tiêu
giáo dục.
2.2. Lịch sử mô hình giáo dục Reggio Emilia
Mô hình giáo dục Reggio Emilia được bắt nguồn và phát triển ở một thành phố
nhỏ ở miền bắc nước Ý có tên là Reggio Emilia. Trường mầm non đầu tiên được thành
lập năm 1945 vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Loris Malaguzzi là một giáo viên
trường tiểu học làm việc tại Reggio Emilia. Khi ông nghe nói về một trường mầm non
được xây dựng tại Villa Cella, ông đã vào làng để tìm hiểu và sau đó ông đã được
truyền cảm hứng để nghiên cứu thêm về trẻ nhỏ dưới góc độ của một nhà tâm lý học.
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 86
Cho đến khi qua đời vào năm 1994, Loris Malaguzzi đã dành cuộc đời của mình để
phát triển mô hình giáo dục là Reggio Emilia. Mô hình giáo dục Reggio Emilia đã tiếp
cận những nhà giáo dục về các lí thuyết giáo dục Montessori và Piaget về tư duy và
ngôn ngữ. Họ cũng quan tâm đến nghiên cứu của nhà giáo dục Vygotsky về sự kết nối
giữa giao tiếp xã hội và phát triển nhận thức nên đã đi đến mục tiêu tập trung vào việc
học nhóm, nhà tâm lí học Dewey về lí thuyết chủ nghĩa “thực dụng” trong dạy học
nhằm thúc đẩy những trải nghiệm của trẻ (Linda and Pat, 2010).
2.3. Triết lí nền tảng mô hình giáo dục Reggio Emilia
Tổng hợp các nguồn tài của các tác giả (Linda and Pat, 2005, 2010); (Lousie & An
Vi (Biên dịch), 2016) chúng Tôi đưa ra triết lí của mô hình giáo dục Reggio như sau:
*Đối với trẻ:
Trẻ là nhân vật chính (trẻ là trung tâm): Trẻ rất mạnh mẽ và có nội tâm phong
phú và tài năng. Tất cả đều có sẵn trong mình những tài năng tiềm ẩn, bản tính tò mò
và hứng thú trong việc học của trẻ. Trẻ em, giáo viên, phụ huynh được xem là 3 nhân
vật trung tâm trong quá trình giáo dục.
Trẻ là người cộng tác: Trẻ phát triển khi trẻ làm việc và học tập trong cộng
đồng với những đối tượng khác nhau về tuổi tác và nhận thức. Việc học diễn ra trong
bối cảnh xã hội, sử dụng các nguồn lực (học liệu và con người) trong môi trường. Trẻ
học như thế nào để biết sự kết giao, tương tác với thế giới xã hội để phát triển mối
quan hệ cùng học tập và chia sẻ ý tưởng trong các hoạt động.
Trẻ là chủ thể truyền đạt thông tin: Nhiều hình thức khác nhau sử dụng làm
biểu tượng để trình những ý tưởng của trẻ như viết, ngôn ngữ, nói, chuyển động, bức
tranh, vẽ, âm nhạc, đóng kịch…. “100 ngôn ngữ cho phép trẻ trình bày và giải thích
những gì trẻ nghĩ bằng những cách khác nhau gồm những gì trẻ biết, hiểu, cảm nhận
và tưởng tượng.
*Giáo viên:
Giáo viên là người đồng hành: Giáo viên là người tương tác, phát triển và mở
rộng chủ đề với trẻ. Họ làm việc trong dự án ngắn hoặc dài đã được thiết kế và có kế
hoạch tương tác. Giáo viên tương tác với trẻ bằng nhiều cách bằng cách lắng nghe,
quan sát, nói trong quá trình học của trẻ. trẻ làm việc với các dự án trong xưởng vẽ,
xưởng nghệ thuật với giáo viên. Nhiệm vụ của giáo viên là phát hiện và tìm hiểu các ý
tưởng của trẻ để cùng trẻ phát triển dự án trẻ đang thực hiện.
Giáo viên là nhà nghiên cứu: Bằng cách phát triển mối quan hệ đồng nghiệp,
giáo viên làm việc theo cặp trong việc phát triển nghề nghiệp dựa trên những dữ liệu
đánh giá và thảo luận về quá trình và thành tích của trẻ. Giáo viên coi bản thân mình là
những nhà nghiên cứu, chuẩn bị tài liệu để cùng làm việc với trẻ và trao đổi chuyên
môn trong những buổi tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ sư phạm.
*Môi trường:
Trang 87
Môi trường là người giáo viên thứ 3: Thiết kế môi trường của việc học (trong
và ngoài lớp) và khuyến khích sự tương tác, giao tiếp và mối quan hệ giữa trẻ với cộng
đồng. Môi trường lớp học của Reggio Emillia tràn ngập ánh sáng tự nhiên. Đặc biệt
không gian học tập phải cung cấp trang thiết bị và học liệu thiên nhiên đa dạng, phong
phú, gần gũi với trẻ là nơi trẻ có cơ hội học tập và phát triển. Trẻ được tự do lựa chọn
và có nhiều cơ hội để trẻ được phối hợp và khám phá. Môi trường thúc đẩy sức mạnh
trong sự sáng tạo cho việc học của trẻ và tạo cảm giác an toàn và hạnh phúc.
*Hoạt động học tập:
Các dự án là một phương tiện của mô hình Reggio, dự án tạo điều kiện cho trẻ
giải quyết các vấn đề thực tiễn, tạo cơ hội cho trẻ được hiểu sâu về đối tượng, hỗ trợ
và làm phong phú việc học cho trẻ. Dự án có thể đáp ứng các hoạt động chơi, khám
phá, trải nghiệm, thí nghiệm, xây dựng, nghệ thuật, hoạt động ngôn ngữ…
*Đánh giá quá trình hoạt động của trẻ:
Dữ liệu hoạt động của trẻ là kênh truyền thông: dữ liệu được chia sẻ với giáo
viên, phụ huynh. Dữ liệu hoạt động của trẻ được cho vào Porforlio với những hình
ảnh, sự miêu tả, ghi âm về ngôn ngữ của trẻ và những lời bình luận của giáo viên là
minh chứng cho các hoạt động của trẻ cũng như sự phát triển của trẻ. Dữ liệu truyền
thông tin đến phụ huynh và đó là sự cung cấp tổng thể quá trình và thành tích của trẻ
cũng như khi nhìn nhận quá trình của mình trẻ cảm thấy mình được tôn trọng.
2.4. Xây dựng chuyên đề mô hình giáo dục Reggio Emilia trong đào tạo GVMN
2.4.1. Thu thập và tìm kiếm tài liệu về mô hình giáo dục Reggio Emilia
Để giảng viên và sinh viên có cái nhìn thực tế thì việc xây dựng và đưa ra các
hình ảnh, video là điều cực kì cần thiết. Mô hình giáo dục Reggio Emilia nổi tiếng trên
thế giới vì vậy không ít những video có trên mạng Internet qua đó giáo viên có thể sưu
tầm, kết hợp các trường đang thực hiện mô hình này cho sinh viên xem trực tuyến các
hoạt động diễn ra. Hay các công ty truyền thông giáo dục cũng đã xuất bản những
băng đĩa đề cập đến các nội dung như tóm gọn về lịch sử, triết lí, cũng như các dự án
của trẻ được thể hiện rất rõ ở trong những đĩa này tuy nhiên bắt buộc phải tốn chi phí.
Giảng viên cần thu thập tài liệu và các băng hình để minh hoạ và tổ chức cho sinh viên
thảo luận và thực hành.
Giảng viên tổ mầm non cần tìm tài liệu và kết hợp với tổ ngôn ngữ tiếng Anh
dịch thuật để có nguồn tài liệu phong phú cho sinh viên tham khảo về mô hình này.
Cũng như giới thiệu các trang web để các em sinh viên có thể tìm tài liệu và tải sách
về mô hình này trên các trang web như google schoolar, Sci – hub, Library –
genesis… Với các nguồn sách và tài liệu đã được kiểm duyệt trên các trang.
2.4.2. Xây dựng nội dung chuyên đề “Mô hình giáo dục Reggio Emilia” trong chương
trình đào đạo sinh viên ngành GDMN
Trang 88
Tổng hợp từ các nguồn tài liệu của các tác giả (Linda and Pat, 2005, 2010);
(Amus, n.d.); (Edwards & And Others, 1993); (Rinaldi, 2004) viết về phương pháp,
cách tiếp cận mô hình giáo dục Reggio Emilia. Chúng tôi đưa ra các nội dung cốt lõi
của mô hình giáo dục này trong chương trình đào tạo sinh viên ngành GDMN gồm 30
tiết như sau:
Nội dung 1: Khái quát về mô hình giáo dục Reggio Emillia (2 tiết).
Nội dung 2: Việc thiết lập mối quan hệ trong mô hình Reggio Emillia (2 tiết).
Nội dung 2: Thiết kế và tổ chức môi trường của Reggio Emilia (7 tiết).
Nội dung 3: Các hoạt động sáng tạo và 100 ngôn ngữ thể hiện của trẻ của m ô
hình giáo dục Reggio Emilia (7 tiết).
Nội dung 4: Thời gian tổ chức các hoạt động ở trường mầm non của Mô hình
giáo dục Reggio Emilia (2 tiết).
Nội dung 5: Tiếp cận phương pháp dạy học theo dự án của mô hình giáo dục
Reggio Emilia (5 tiết).
Nội dung 6: Đánh giá quá trình và thành tích của trẻ trong mô hình giáo dục
Reggio Emilia (5 tiết).
Với các nội dung này hướng đến mục tiêu sinh viên vận dụng được những cảm
hứng từ mô hình vào tổ chức các hoạt động giáo dục của trẻ, chủ động, sáng tạo, tự lập
và phát huy được tính tích cực của trẻ. Đây chính là cơ sở lí luận giúp sinh viên nắm rõ
nền tảng của mô hình giáo dục Reggio Emilia.
2.4.3. Hướng dẫn vận dụng “Mô hình giáo dục Reggio Emilia” trong tổ chức hoạt
động theo nội dung chương trình giáo dục mầm non Việt Nam
Trong những năm vừa qua ngành giáo dục mầm non (GDMN) đã và đang nỗ
lực đổi mới sâu sắc chương trình giáo dục mầm non: chuyển đổi từ cách tiếp cận lấy
giáo viên làm trung tâm sang lấy trẻ làm trung tâm, từ cách truyền đạt sang cách dạy
tích cực, trẻ được trải nghiệm với chính mình để hình thành các năng lực nền tảng
(Hoàng Thị Dinh et al., 2017). Vì vậy việc tổ chức môi trường cho trẻ trải nghiệm theo
triết lí của Reggio môi trường là người giáo viên thứ 3 là cơ hội cho trẻ được khám
phá và thể hiện khả năng của mình. Các nhà giáo dục cần tận dụng các yếu tố thiên
nhiên và môi trường thiên nhiên sẵn có vì ở Việt Nam là một đất nước giàu có về thiên
nhiên. Đặc biệt thành phố Đà Lạt là nơi có điều kiện thuận lợi để tận dụng các yếu tố
này. Việc tiếp cận cách thiết kế môi trường và sắp xếp bố trí các nguyên học liệu trong
trường mầm non tạo sự bắt mắt, đẹp đẽ để khơi gợi các ý tưởng của trẻ là điều cực kì
quan trọng để trẻ thể hiện sự sáng tạo của mình.
Các hoạt động giáo dục của trẻ theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay là
các hoạt động của trẻ ở trường mầm non theo quan điển tích hợp với các chủ đề gần
gũi với trẻ. Khi học xong chuyên này sinh viên có thể vận dụng phương pháp dạy học
theo dự án của Reggio được xuất phát từ nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ
Trang 89
(Emergent Curriculum) đi sâu vào các chủ đề theo các dự án mà trẻ khởi sướng nhằm
tạo điều kiện để trẻ trực tiếp trải nghiệm và giải quyết vấn đề, rèn luyện tư duy phản
biện cho trẻ trong các hoạt động. Các hoạt động của trẻ trong dự án theo nhóm nhỏ
hoặc nhóm lớn là cơ hội để làm việc nhóm để trả lời cho các câu hỏi (K-W-L) những
điều gì trẻ đã biết ?; Những điều gì trẻ muốn biết; Những điều gì trẻ đã học? (Stegelin,
2003). Các dự án của trẻ được tận dụng cả môi trường trong và ngoài lớp học thậm chí
là môi trường của địa phương là điều kiện để trẻ mở rộng việc học và kết nối với cộng
đồng địa phương.
Việc đánh giá trẻ theo hướng đổi mới chú trọng quá trình. Vì vậy việc vận dụng
phương pháp đánh gía của mô hình Reggio giúp giáo viên đánh giá đúng năng lực của
trẻ và kết hợp với phụ huynh đánh giá khả năng của trẻ thông qua đó trẻ tự đánh giá
chính mình. Với các phương tiện công nghệ hiện đại 4,0 như máy ghi âm, chụp ảnh,
máy quay là những phương tiện tối ưu hỗ trợ việc đánh giá trẻ cũng là minh chứng lưu
vào hồ sơ của trẻ cũng như trao đổi với phụ huynh về sự tiến bộ của trẻ mỗi ngày.
2.5. Những thách thức khi thực hiện chuyên đề “Mô hình giáo dục Reggio Emilia”
tại trường CĐSP Đà Lạt
Bên cạnh khá nhiều ưu điểm thì mô hình giáo dục Reggio Emilia cũng đặt ra một
số thách thức cho trường CĐSP Đà Lạt khi xây dựng và tổ chức thực hiện chuyên đề.
2.5.1. Khó khăn về ngôn ngữ
Mô hình giáo dục Reggio Emilia là một mô hình giáo dục mầm non hiện đại
được các nước có nền giáo dục trên thế giới áp dụng. Cho nên nguồn tài liệu khá
phong phú nhưng đại đa phần ngôn ngữ của tài liệu được viết bằng tiếng Anh là chủ
yếu và rất hiếm hoi tài liệu được chuyển ngữ qua tiếng Việt. Vì vậy rất khó tiếp cận
với mô hình khi trình độ tiếng Anh hạn chế.
2.5.2. Khó khăn về cơ sở vật chất thực hành trải nghiệm đúng chuẩn mô hình giáo dục
Reggio Emilia
Mô hình này không mới mẻ đối với các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh…nhưng nó là một mô hình khá mới mẻ đối với thành phố Đà Lạt. Do
đó, khi lên chuyên đề này sinh viên không có trường mầm non để được tiếp cận với
thực tế để xem và học hỏi, trải nghiệm và thực hành.
2.5.3. Khó khăn nhân lực có chuẩn kiến thức về mô hình giáo dục Reggio Emilia
Đối với các giảng viên vẫn chưa được cập nhật thường xuyên các mô hình giáo
dục hiện đại trong đó có mô hình giáo dục Reggio Emilia. Vì vậy khá khó khăn để các
giảng viên tiếp cận với chuyên đề này.
Một số sai lầm khi giảng viên và sinh viên nhầm lẫn rằng với mô hình này chỉ
thích hợp cho các thành phố lớn có môi trường và cơ sở vật chất đảm bảo. Nhưng nó
hoàn toàn phù hợp với thành phố Đà Lạt và là một điều kiện thuận lợi để áp dụng mô
hình này.
Trang 90
2.6. Những đề xuất và kiến nghị khi áp dụng chuyên đề mô hình giáo dục Reggio
Emilia trong đào tạo GVMN
2.6.1. Đối với trường Cao đẳng Sư phạm
Phê duyệt các đề xuất của khoa để phát triển chương trình đào tạo giáo viên mầm
non mang tính mới mẻ nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và thu hút tuyển sinh sinh
viênvào ngành học.
Tăng cường sự kết hợp với các trường đại học sư phạm lớn ở trong và ngoài
nước để tạo điều kiện cho giảng viên tiếp cận và tập huấn các mô hình giáo dục trên
thế giới.
Kiểm tra tiến độ thực hiện, cử đại diện tham dự, kết luận, đánh giá, rút kinh
nghiệm cho chuyên đề.
Hỗ trợ kinh phí khi thực hiện học phần: tăng cường cơ sở vật chất, mua các tài
liệu và học liệu hỗ trợ cho việc giảng dạy giảng viên và thực hành của sinh viên, mời
các chuyên gia giáo dục trong và ngoài nước về tập huấn cho giảng viên và sinh viên.
Phòng đào tạo và ban tuyển sinh cần liên hệ với các nhà tuyển dụng giáo viên ở
các trường dạy các mô hình giáo dục hiện đại và giới thiêụ việc làm cho sinh viên sau
khi tốt nghiệp.
2.6.2. Đối với tổ nghiệp vụ mầm non
Căn cứ kế hoạch năm học của nhà trường và khoa vào khung đào tạo đề xuất
thực hiện chuyên đề cụ thể như sau:
Tổ trưởng xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề (quy định về nội dung, giảng
viên giảng dạy, thời gian hoàn thành)
Phân công giáo viên thực hiện triển khai học phần (chuẩn bị cho học phần, viết
đề cương chi tiết, dự thảo nội dung học phần)
Duyệt đề cương chi tiết chuyên đề
Báo cáo việc thực hiện giảng dạy chuyên đề trước tổ trước và sau khi dạy thực
hiện giảng dạy cho sinh viên.
Người được phân công thực hiện chuyên đề phải tìm tòi và nghiên cứu không
ngừng nâng bồi dưỡng chuyên môn để giảng dạy cho sinh viên.
Các thành viên trong tổ dự giờ, góp ý và đúc kết kinh nghiệm chuyên môn.
2.6.3. Đối với giáo viên
Giảng viên tham gia dạy chuyên đề về mô hình giáo dục Reggio cần hiểu một
cách tường minh về triết lí giáo dục của mô hình Reggio để có thể hướng dẫn sinh viên
áp dụng một cách linh hoạt vào các hoạt động nhằm hình thành những phẩm chất con
người hiện đại cho trẻ về tư duy phản biện, tự lập, sáng tạo, tích cực.
Đầu tiên, giảng viên phải luôn tự học, luyện tập không ngừng về chuyên môn
nghiệp vụ và trau dồi ngoại ngữ. Trong quá trình giảng dạy tạo môi trường cho sinh
viên được trải nghiệm và hoạt động ứng dụng mô hình này.
Trang 91
Cần liên hệ với các trường Sư phạm lớn ở trong và ngoài nước qua các buổi
chuyên đề để học hỏi và trao đổi những kinh nghiệm giáo dục mới. Hợp tác với các
trường ứng dụng Mô hình Reggio để tham quan học hỏi và nghe những chia sẻ khi
giáo viên tiếp cận mô hình này để có cái nhìn thực tế.
Tham gia đăng kí thành viên các tổ chức giáo dục lấy cảm hứng mô hình Reggio
và theo dõi các trang web tiếp cận mô hình Reggio trên thế giới để học tập như:
https://www.naeyc.org/resources/pubs/yc/nov2015/emergent-curriculum,
https://www.facebook.com/ReggioChildrenInspired/, Pinterest Reggio Emilia…
Là nguồn tư liệu luôn cập nhật hàng ngày để giảng viên và giáo viên học tập.
3. Kết luận
Mô hình giáo dục Reggio Emillia đã và đang tiếp cận với chương trình học giáo
dục mầm non hiện nay. Việc xây dựng chuyên đề đưa mô hình giáo dục Reggio Emilia
vào chương trình đào tạo GVMN sẽ đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chuyên đề nếu được thực hiện sẽ tạo cơ hội cho
sinh viên: Tiếp cận những mô hình, phương pháp dạy học hiện đại trong thời kì công
nghiệp 4.0; Giúp sinh viên hiểu rõ hơn tầm quan trọng của giáo viên trong việc hướng
dẫn và kiến tạo môi trường nhằm phát huy tính tích cực của trẻ; Tạo cơ hội cho sinh
viên tiếp cận mô hình giáo dục hiện đại đáp ứng nguồn nhân lực cho các trường mầm
non dạy học theo mô hình Reggio Emillia, mở rộng cơ hội việc làm cho sinh viên sau
khi tốt nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Dinh, Nguyễn Thị Thanh Giang, Bùi Thị Kim Tuyến, Lương Thị Bình,
Nguyễn Thị Quyên, Bùi Thị Lâm & Hoàng Thị Thu Hương (2017), Hướng dẫn thực
hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non, NXB
Giáo dục Việt Nam.
2. Nguyễn Thị Hòa (2011), Giáo dục học mầm non, NXB Đại học Sư phạm.
3. Amus, G (n.d.). An alternative journey into forest kindergartens and the Reggio
Emilia approach. Reorientation of Teacher Education towards Sustainability through
Theory and Practice : Proceedings of the 10th International JTEFS/BBCC Conference
Sustainable Development Culture Education Retrieved from
http://www.academia.edu/4520808/An_alternative_journey_into_forest_kindergartens
_and_the_Reggio_Emilia_approach
4. Edwards, C., & And Others (1993), The Hundred Languages of Children: The
Reggio Emilia Approach to Early Childhood Education. Ablex Publishing
Corporation, 355 Chestnut Street, Norwood, NJ 07648 (hardcopy: ISBN-0-89391-927-
6, $54.
Trang 92
5. John, S.-B. (2004), Develop New Technologies for Young Children.
6. Linda Thornton and Pat Brunton (2005), Understand the Reggio Approach. David
Fulton Publishers Ltd.
7. Linda Thornton and Pat Brunton (2010), Bringing the Reggio Approach to your
Early Years Practice. New York.
8. Lousie, B. C., & An Vi (Biên dịch) (2016), Phương pháp giáo dục Reggio Emillia.
NXB Lao Động.
9. Rinaldi, C (2004, In Dialogue with Reggio Emilia : Listening, Researching and
Learning. https://doi.org/10.4324/9780203317730.
10. Stegelin, D. A (2003), Application of the Reggio Emilia Approach to Early
Childhood Science Curriculum. Early Childhood Education Journal, 30(3), 163–169.
https://doi.org/10.1023/A:1022013905793.
Trang 93
THỂ NGHIỆM DẠY ĐỌC HIỂU BÀI SANG THU Ở TRƢỜNG THCS
THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO NGƢỜI HỌC
Nguyễn Thị Thư Dương*
1. Đặt vấn đề
Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng đào tạo. Một phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo, phù hợp sẽ tạo điều kiện
cho hoạt động học đạt được những kết quả tốt. Trong những năm gần đây, việc dạy
học nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng trong nhà trường đã có nhiều chuyển biến.
Thể hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng
lực. Dạy học chú trọng phát triển năng lực, người thầy trực tiếp hướng dẫn học sinh
phương pháp học tập mới, phát huy tối đa tính tích cực làm cho tiết học trở nên hứng
thú. Xuất phát từ những vấn đề trên cũng như mong muốn góp phần bồi dưỡng giáo
viên bậc THCS, tôi sẽ trao đổi về Thể nghiệm dạy đọc hiểu bài Sang thu ở trường
THCS theo hướng phát triển năng lực cho người học.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Giáo viên cần thẩm thấu quan điểm đổi mới dạy học
Trong Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới sau năm 2018 được xây
dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực,
hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học hình thành kĩ năng,
phẩm chất. Hoạt động dạy đọc hiểu trong môn ngữ văn được xem là một khâu đột phá
trong việc đổi mới môn ngữ văn. Ở trường THCS, đọc hiểu văn bản chiếm một vị trí
rất quan trọng, nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc hiểu để khám phá
giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật, đặc điểm thể loại của văn bản. Để phát triển năng
lực thông qua hoạt động dạy đọc hiểu cho học sinh, theo chúng tôi nên đổi mới từ
những phương diện sau:
Về quan niệm: Trong giờ dạy đọc hiểu văn bản, giáo viên không nên áp đặt
cách hiểu của mình cho học sinh. Để phát triển năng lực cho người học đáp ứng yêu
cầu của đổi mới chương trình và sách giáo khoa, học văn cần để học sinh chủ động,
sáng tạo trong quá trình học. Giáo viên lúc này sẽ là người hướng dẫn để học sinh đi
tìm tri thức mới, phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ, năng lực nhận xét,
phản biện về một tác phẩm văn học. Giáo viên cần cho học sinh được thực hành, tự
đánh giá khách quan, rút kinh nghiệm.
Về hình thức, phương tiện, phương pháp dạy học: Giáo viên nên tổ chức linh
hoạt các hình thức, phương pháp dạy học trong tiết đọc – hiểu văn bản nhằm nâng cao
hứng thú và động lực cho học sinh. Theo chúng tôi, trong hoạt động hướng dẫn tự học
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 94
vàtrước mỗi tiết học trên lớp, giáo viên cần giao việc cho học sinh một cách cụ thể về
nội dung bài học tiếp theo, có thể là hoạt động cá nhân hoặc nhóm ở nhà. Ngoài ra,
giáo viên cũng nên tạo thật nhiều cơ hội cho học sinh nghiên cứu, thử sức mình qua
các bài tập lớn. Giáo viên cần tổ chức các hoạt động hướng dẫn học sinh sử dụng các
kĩ năng, thao tác để đọc chính xác và đọc có tính đánh giá về hình thức, nội dung và ý
nghĩa của văn bản. Từ đó, học sinh biết vận dụng kiến thức và kĩ năng đã họcđể xử lí
các vấn đề khác nhau.
2.2. Giáo viên lên kế hoạch
Giáo viên xây dựng một kế hoạch cụ thể ngay từ đầu năm học. Kế hoạch dạy
học sau đó sẽ được cụ thể trên lớp qua các bài dạy.Trước khi lên lớp và trong hoạt
động hướng dẫn tự học sau khi kết thúc tiết học, giáo viên cần chuẩn bị sẵn những vấn
đề thảo luận gắn liền với nội dung bài học của lớp mình giảng dạy.
Vào buổi học đầu tiên của môn học, giáo viên có thể chia lớp thành một số
nhóm tương đương 8 đến 10 học sinh/ nhóm lớn, giao việc cụ thể cho từng nhóm.Sau
đó, các nhóm sẽ làm việc cùng nhau dưới sự điều hành của nhóm trưởng để thực hiện
những vấn đề do giáo viên yêu cầu. Trong những nhóm được chia, giáo viên lại chọn
ra mỗi nhóm một chuyên gia để thành lập nhóm chuyên gia. Nhóm chuyên giasẽ có
nhiệm vụ phụ trách chung, có thể đóng vai làm giáo viên điều khiển hoạt động
học.Nhóm thuyết trình phải làm rõ vấn đềđược giao và trả lời các câu hỏi do các nhóm
khác đặt ra liên quan đến vấn đề tìm hiểu. Các nhóm còn lại có quyền đặt câu hỏi cho
nhóm thuyết trình, đưa ra nhận xét, góp ý, cho điểm đánh giá.
2.3. Thể nghiệm vào bài dạy Sang thu – Ngữ văn 9
Nhiệm vụ 1. Đọc sách giáo khoa, soạn bài, nghiên cứu tài liệu.
Mục tiêu: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học, đọc. Hình thành thói quen đọc
sách, chuẩn bị bài trước khi lên lớp đồng thời biết cách nghiên cứu tài liệu, chọn lựa
nguồn tài liệu phù hợp với nội dung bài học được giao.
Nội dung thảo luận, thuyết trình cụ thể.
1: n tập và kiểm tra bài cũ;
2: Tìm hiểu chung: vấn đề tác giả và tác phẩm, bố cục, phương thức biểu đạt,
nhan đề tác phẩm;
3: Tín hiệu thu về (khổ 1): Nội dung, nghệ thuật, giá trị biện pháp nghệ thuật;
4: Không gian đất trời lúc sang thu (khổ 2): Nội dung, nghệ thuật, giá trị biện
pháp nghệ thuật;
5: Suy ngẫm của tác giả (khổ 3): Nội dung, nghệ thuật, giá trị biện pháp nghệ thuật.
Cách thức: Giáo viên hướng dẫn học sinh soạn bài theo câu hỏi gợi ý sách giáo
khoa, những đầu sách tham khảo. Yêu cầu học sinh sẽ phải đọc kĩ những tài liệu được
cung cấp, ngoài ra sẽ tìm thêm những tài liệu khác từ nguồn internet. Mỗi nhóm tự
phân công từng cá nhân sưu tầm tư liệu, hình ảnh hoặc chuẩn bị một nội dung của vấn
Trang 95
đề thảo luận. Đó chính là điều kiện đểvận động và phát triển và phát triển tư duy cũng
như năng lực tự học cho học sinh.
Nhiệm vụ 2: Xác định nội dung trọng tâm, đặt câu hỏi tìm hiểu bài
Mục tiêu: Rèn luyện năng lực khái quát hóa, tổng hợp, biết cách đặt vấn đề, giải
quyết vấn đề.
Cách thức: Giáo viên hướng dẫn mỗi nhóm làm việc độc lập. Xác định nội dung
trọng tâm trong phần công việc được giao. Xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm tìm hiểu
bài. Chỉ định hoặc mời các nhóm khác trả lời nội dung câu hỏi của nhóm mình đưa ra.
Hệ thống câu hỏi học sinh xây dựng sẽ được giáo viên hướng dẫn trong quá trình học
sinh tự học.
Nhiệm vụ 3: Cụ thể hóa trên lớp
Mục tiêu: Rèn luyện kĩ năng, năng lực tương tác, giải quyết vấn đề và phản biện
vấn đề. Kĩ năng thuyết trình, điều khiển hoạt động nhóm.
Cách thức: Giáo viên bố vị trí chỗ ngồi theo sơ đồ nhóm. Lúc này, giáo viên sẽ
phân công nội dung từ 1 đến 5 cho 5 nhóm cụ thể. Khi hoạt động học bắt đầu, giáo viên
sẽ mời nhóm chuyên gia lên điều khiển các hoạt động chung và bao quát lớp trong suốt
giờ học. Các chuyên gia sẽluân phiên điều khiển 5 vấn đề được giao thảo luận dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Trong tiết học, giáo viên sẽ cho học sinh khoảng 3 phút để
thảo luận, xem lại vấn đề nghiên cứu của nhóm mình. Đến hoạt động học của nhóm nào,
nhóm đó sẽ lần lượt trình bày nội dung cho cả lớp tham khảo. Chuyên gia sẽ đặt câu hỏi
khai thác bài học thông qua sự gợi ý từ giáo viên cho các nhóm trả lời. Ví dụ, giáo viên
giao cho nhóm 1- hoạt động: Tìm hiểu chung về văn bản. Nhóm này sẽ chuẩn bị kĩ nội
dung. Các chuyên gia sẽđặt câu hỏi tìm hiểu bài dưới sự hướng dẫn, tham vấn của giáo
viên. Hệ thống câu hỏi có thể là: cho biết vài nét về tác giả Hữu Thỉnh. Bạn biết gì về
hoàn cảnh sáng tác bài thơ?… Hoặc nhóm 3 khi tìm hiểu về nội dung tín hiệu báo thu
về sẽ nhận được một số câu hỏi từ các chuyên gia như:Bạn hãy cho biết những dấu
hiệu báo thu về qua khổ thơ 1. Bạn nhận thấy chi tiết nào là đặc sắc nhất? Biện pháp
nghệ thuật được tác giả sử dụng ở đây là gì? Những biện pháp nghệ thuật ấy có tác
dụng gì?... Chuyên gia sẽ đặt câu hỏi và có quyền chỉ định thành viên bất kì trong
nhóm trả lời hoặc nhóm có quyền cử đại diện nhóm lên làm việc. Sau khi nhóm trả lời
xong, nhóm khác có thể nhận xét, bổ sung. Giáo viên sẽ là người nhận xét sau cùng,
chốt ý, có thể cung cấp thêm một số hình ảnh về thời điểm bài thơ ra đời, về đặc trưng
về mùa thu ở quê hương Vĩnh Phúc của tác giả Hữu Thỉnh. Ở phần tìm hiểu văn bản
ngoài nhận xét, chốt ý thì giáo viên cần giảng bình những chi tiết đặc sắc giúp học sinh
có sự cảm nhận sâu sắc về tác phẩm. Dạy đọc - hiểu văn bản dù ở thời đại nào thì hình
thức và phương pháp giảng bình là không thể bỏ qua. Nó hình như đã trở thành “bí
quyết” cho người dạy Văn. Giáo viên biết bình và bình hay sẽ mang lại hứng thú và
cảm xúc văn học cho giờ dạy.
Trang 96
Theo chúng tôi, với hình thức dạy học này nếu được áp dụng một cách khoa
học và thành thạo, học sinh sẽ được rèn luyệnnăng lực lãnh đạo, được trao quyền làm
chủ bài học; có khả năng thuyết trình, mạnh dạn, tự tin trình bày một vấn đề trước đám
đông; tương tác, phản biện; nghe, nói, đọc, viết,… Tuy nhiên, bước đầu áp dụng hình
thức này, giáo viên và học sinh sẽ gặp những khó khăn nhất định như học sinh còn thụ
động chờ giáo viên đặt câu hỏi để mình trả lời hoặc chỉ trả lời những câu hỏi có sẵn
trong sách giáo khoa. Học sinh chưa quen với việc bản thân tự đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề. Giáo viên sẽ gặp khó khăn khi phải nghiên cứu đổi mới phương pháp; một số
giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm quản lí lớp, nắm đặc điểm tình hình thực tế của học
sinh. Sĩ số lớp đông, trình độ học sinh không đồng đều khó khăn trong việc chia nhóm.
3. Kết luận
Tóm lại với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
cho người học, học sinh học tập chủ động, sáng tạo. Đa số học sinh hứng thú và tham
gia tích cực vào hoạt động học. Trong quá trình thảo luận, các thành viên phải đưa ra ý
kiến của mình dù có thể chưa đúng, chưa hay nhưng bước đầu tạo điều kiện cho các em
ham thích học tập, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Các em yếu kém có
động lực vươn lên, các em khá giỏi sáng tạo năng động hơn. Học sinhsẽ phải cùng lúc
thực hiện nhiều thao tác như tai nghe, nói, đọc, viết, suy nghĩ,...Học sinh chuyển từ học
tập thụ động theo cách đọc chép, chủ yếu ghi nhớ là chính sang cách học chủ động, tự
mình làm chủ hoạt tiết học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Quan trọng hơn, học sinh
sẽ được rèn luyện rất nhiều năng lực khác nhau, phát triển bản thân thành những công
dân tích cực, có bản lĩnh, có khả năng tìm tòi và làm chủ kiến thức.
Qua việc thể nghiệm dạy đọc hiểu bài Sang thu ở trường THCS theo hướng phát triển
năng lực cho người học, tôi hy vọng sẽ tiếp tục được đồng nghiệp trao đổi để cùng
nhau chuyển hóa những kiến thức, những quan điểm mang tính lý luận thành hiện thực
sống động và tươi mới trong hoạt động dạy học ngữ văn ở trường THCS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Dự thảo đổi mới chương trình và sách giáo khoa
sau năm 2018. https://www.moet.gov.vn.
2. Lê A (2002), Đổi mới phương pháp dạy học ở phổ thông Bài giảng chuyên đề, 2002).
3. Nguyễn Thanh Hùng (2003), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục.
4. Nguyễn Thanh Hùng (2011), Kĩ năng đọc hiểu văn, NXB Đại học sư phạm.
5. Mai Văn Nam (2011), Học văn trước hết là phải đọc văn, “Giáo dục”, (258), tr. 54- 55.
Trang 97
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ, ĐỘI, NHÓM SINH VIÊN
TẠI TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM ĐÀ LẠT
V Thùy Dương*
1. Đặt vấn đề
Trong giai đoạn hiện nay, Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên trường Cao đẳng
sư phạm Đà Lạt đã và đang nỗ lực tìm kiếm những phương pháp và mô hình hoạt động
mới nhằm đáp ứng được tâm tư nguyện vọng ngày càng cao của đoàn viên, thanh niên.
Trong đó, việc xây dựng và phát triển các câu lạc bộ (CLB), đội, nhóm sinh viên (SV)
theo sở thích, chuyên môn, năng khiếu là một hướng đi mang lại hiệu quả thiết thực
giúp nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn, Hội cũng như hỗ trợ tích cực cho SV
trong học tập và rèn luyện.
Việc xây dựng các CLB kỹ năng cho SV trong trường là mô hình không mới và
đã được áp dụng rộng rãi hiện nay. Thời gian qua, với nhiều hoạt động phong phú, đa
dạng, các CLB, đội, nhóm trong trường đã làm được nhiều chương trình ý nghĩa,
khẳng định sự năng động của tuổi trẻ. Tuy nhiên, nhìn nhận thực tiễn thấy rằng các
CLB, đội, nhóm sinh viên hoạt động còn rời rạc, sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng chưa
cao. Trên cơ sở đó, với tư cách là hội viên Hội Sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Đà
Lạt - một giảng viên trẻ, nghiên cứu thực trạng và đề xuất định hướng phát triển CLB,
đội, nhóm sinh viên tại trường, góp phần xây dựng tổ chức Đoàn, Hội trở thành mái
nhà chung để đoàn kết, giáo dục và rèn luyện SV.
2. Nội dung
2.1. Khái quát chung về Câu lạc bộ, đội, nhóm
2.1.1 Khái niệm
CLB, đội, nhóm SV là nơi tập hợp những SV có cùng sở thích, cùng nhu cầu
nhằm một mục đích nhất định.
CLB, đội, nhóm SV vừa là một loại hình tổ chức, vừa là một phương thức hoạt
động, là một bộ phận quan trọng của tổ chức Hội Sinh viên, nhằm hỗ trợ giải quyết
những vấn đề phức tạp, quan trọng trong học tập và cuộc sống hàng ngày, đáp ứng
những nhu cầu chính đáng của sinh viên.
2.1.2. Mục đích, ý nghĩa
CLB, đội, nhóm SV là nơi có những hoạt động phong phú, phù hợp với nhu cầu
lợi ích của SV, tạo môi trường cho các SV có khả năng và năng khiếu được bộc lộ, phát
triển. Bên cạnh định hướng giá trị mới, tạo điều kiện cho SV trưởng thành về mọi mặt.
CLB, đội, nhóm SV do Hội Sinh viên lập ra nhằm mục đích:
* Giảng viên Khoa Bộ mông chung
Trang 98
- Tạo điều kiện cho SV giao tiếp, ứng xử, vui chơi giải trí lành mạnh, bày tỏ
quan điểm, tâm tư nguyện vọng, đồng thời hỗ trợ giải quyết các vấn đề khó khăn,
vướng mắc trong học tập, công tác và trong cuộc sống.
- Giúp tổ chức Hội tập hợp, đoàn kết SV thông qua các hoạt động của CLB
như: Học tập, văn hoá, văn nghệ, sở thích, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã
hội khác, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội.
- Thông qua các hoạt động để tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bản lĩnh
chính trị, đạo đức, lối sống, giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống của dân tộc
cho SV.
2.1.3. Một số loại hình CLB, đội, nhóm SV
2.1.3.1 Câu lạc bộ học thuật, nghiên cứu khoa học (NCKH):
Câu lạc bộ học thuật, NCKH là tổ chức tự nguyện của sinh viên, trực thuộc Hội
Sinh viên trường, được Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo, Phòng khoa học, trực tiếp chỉ
đạo về chuyên môn và được sự bảo trợ của Ban Chủ nhiệm các khoa trong nhà trường.
Câu lạc bộ hoạt động theo Điều lệ đã được BCH Hội Sinh viên trường thông qua.
Mục đích chủ yếu của CLB là tạo điều kiện, khuyến khích và tổ chức cho sinh
viên thi đua học tập, tập sự NCKH, giúp sinh viên có điều kiện tiếp cận với thực tế.
a. Cơ cấu tổ chức của CLB:
* Ban Chủ nhiệm: Là thường trực của CLB, số lượng thành viên tuỳ thuộc vào
số lượng hội viên và các Ban trực thuộc, gồm Chủ nhiệm, 1 hoặc 2 Phó Chủ nhiệm, 1
Thư ký và các uỷ viên phụ trách các Ban. Thành viên Ban Chủ nhiệm là những hội
viên có năng lực, nhiệt tình, tích cực trong hoạt động, do BCH Hội Sinh viên giới thiệu
và thông qua tại Hội nghị hiệp thương các khoá. Nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm cùng với
nhiệm kỳ BCH Hội Sinh viên.
* Các Ban của CLB: Tương ứng với các khoa của trường. Mỗi Ban gồm các hội
viên thuộc khoa đó, có một Trưởng ban do Ban Chủ nhiệm CLB cử. Mỗi Ban có thể
thành lập các tổ nhóm theo khóa, lớp, nhóm hội viên cho phù hợp với yêu cầu hoạt
động của CLB và nhu cầu, sở thích của hội viên.
b. Nội dung hoạt động:
- Tổ chức cho hội viên đăng ký đề tài nghiên cứu, giới thiệu giảng viên hướng
dẫn, cung cấp tài liệu nghiên cứu, thu nhận đề tài và đề nghị thành lập hội đồng thẩm
định đề tài. Các đề tài nghiên cứu này do Ban Chủ nhiệm CLB đã liên hệ, thống nhất
với các khoa chuyên môn hoặc do hội viên tự nghiên cứu. Nội dung các đề tài phải
phù hợp với chương trình đào tạo của nhà trường. Thời gian nghiên cứu của đề tài do
Ban Chủ nhiệm CLB quy định.
- Tổ chức báo cáo đề tài nghiên cứu của các hội viên, tổng kết đợt nghiên cứu, đề
nghị khen thưởng, cộng điểm học tập cho những hội viên có đề tài nghiên cứu đạt kết
Trang 99
quả tốt. Các Hội nghị Báo cáoTổng kết cần tổ chức trang trọng, mời sinh viên trong
trường tham gia, tạo không khí thi đua học tập, NCKH trong sinh viên nói chung.
- Tổ chức các hoạt động bổ trợ thực tế, giúp sinh viên tiếp cận thực tế, nâng cao
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, bao gồm:
+ Tổ chức giao lưu sinh viên với các nhà doanh nghiệp, thăm quan thực tế các
doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực được đào tạo. Các địa điểm này do Ban Chủ
nhiệm chịu trách nhiệm liên hệ. Tốt nhất là nên xây dựng mối quan hệ thường xuyên
để tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ về kinh nghiệm và kinh phí của các doanh nghiệp.
+ Tổ chức các hình thức tập sự cho sinh viên theo chuyên ngành được đào tạo, có
mời tư vấn là các nhà chuyên môn (có thể tổ chức ngay tại trường hoặc các cơ sở thực tế).
+ Tổ chức các cuộc thi về chuyên ngành (tham khảo phần hướng dẫn về tổ chức
các cuộc thi các môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh).
+ Định kỳ tổ chức các cuộc hội thảo, thảo luận chuyên đề. Nội dung các chuyên
đề được thông báo trước để hội viên chuẩn bị giao cho một số hội viên CLB chuẩn bị
sâu và trình bày trong hội thảo, nêu các vấn đề hội viên tập trung thảo luận.
+ Tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề, mời báo cáo viên là các nhà chuyên
môn, các nhà khoa học, chuyên đề là các lĩnh vực mà sinh viên quan tâm, có tác dụng
thiết thực cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên.
2.1.3.2. Câu lạc bộ sở thích
Câu lạc bộ sở thích của sinh viên là nơi đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, nghỉ
ngơi và sáng tạo của sinh viên. Câu lạc bộ tham gia tích cực vào quá trình điều chỉnh
việc sử dụng thời gian rỗi của sinh viên một cách có ích và lành mạnh. Cơ cấu tổ chức
Câu lạc bộ sở thích như sau:
a) Ban Chủ nhiệm:
Ban Chủ nhiệm là cơ quan cao nhất, điều hành toàn bộ hoạt động của câu lạc
bộ. Từ việc chuẩn bị nội dung tổ chức các buổi sinh hoạt, chi tiêu mua sắm các dụng
cụ cần thiết, tuyên truyền cổ động, trang trí, tiếp đón và điều hành chúng đều thuộc
công việc của Ban Chủ nhiệm.
Câu lạc bộ có trên 50 thành viên thì Ban Chủ nhiệm từ 5-7 người gồm 1 Chủ
nhiệm, 2 Phó Chủ nhiệm và các uỷ viên.
- Chủ nhiệm Câu lạc bộ phải là người có năng lực tổ chức và hiểu biết về các
hoạt động Câu lạc bộ, là người có uy tín trong Câu lạc bộ thì mới điều hành được công
việc và điều khiển mọi người thực hiện kế hoạch của Câu lạc bộ. Qua thực tế hoạt
động cho thấy: Chủ nhiệm Câu lạc bộ nên là cán bộ Đoàn hoặc cán bộ Hội của trường
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Hội với Câu lạc bộ.
- Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ phụ trách nội dung phải là người năng nổ, có năng
lực về những công việc chuyên môn của Câu lạc bộ. Có khả năng thay thế các nhóm
trưởng chuyên trách trong Câu lạc bộ khi cần thiết.
Trang 100
- Phó Chủ nhiệm phụ trách vật chất, hậu cần tài chính của Câu lạc bộ phải là
người tháo vát, lo mọi thứ về vật chất để duy trì mọi hoạt động của Câu lạc bộ.
b) Các Ban chức năng:
* Ban Tuyên truyền cổ động:
+ Tuyên truyền, giới thiệu về hình thức, nội dung của hoạt động sắp diễn ra và
các hoạt động trong thời gian tới của CLB.
* Ban Nội dung:
+ Xây dựng nội dung chi tiết từng hoạt động và nội dung hoạt động tổng thể
của CLB.
* Ban Hậu cần:
+ Đảm bảo về kinh phí, vật chất và các điều kiện để phục vụ cho các hoạt động
của CLB được tổ chức thành công.
* Ban quan hệ Đối ngoại:
+ Liên hệ với nhà trường, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức xã hội...để huy động
các nguồn lực và sự hỗ trợ của các cá nhân, tập thể cho các hoạt động của CLB.
* Một số loại CLB sở thích như: CLB giọng hát hay sinh viên, CLB nữ sinh,
CLB bóng đá, CLB cầu lông, CLB khiêu vũ, CLB thơ...
2.2. Kết quả hoạt động của các CLB, đội, nhóm SV tại trường Cao đẳng sư
phạm Đà Lạt
2.2.1. Kết quả hoạt động CLB, đội, nhóm SV
Hiện nay có 09 CLB, đội, nhóm sinh viên trong trường. Trong đó, có 04 CLB
học thuật là CLB viết chữ đẹp, CLB Anh Văn, CLB tin học, CLB cảm tình đảng với
gần 80 hội viên; có 05 CLB sở thích bao gồm: CLB thể thao (bóng đá, bóng chuyền,
cầu lông), CLB dân vũ, CLB văn hóa nghệ thuật, CLB nhảy hiện đại với gần 100 hội
viên. Ngoài ra, còn phải kể đến mô hình hoạt động của CLB kỹ năng sống (gần 30 hội
viên) với nhiều hoạt động thường xuyên có chiều sâu, các thành viên được rèn luyện
bản thân thông qua các lớp kỹ năng trong giao tiếp, team building, tìm việc làm, giảng
dạy kỹ năng sống...
Ưu điểm: Nhìn chung, mỗi CLB, đội, nhóm tập trung vào một mảng cụ thể, gắn
với sở thích, sở trường trên cơ sở phát huy trí tuệ của các thành viên nên công tác tổ
chức hoạt động rất thực chất và hiệu quả. Điều đó giúp các hoạt động hỗ trợ học tập,
đào tạo kỹ năng được tổ chức thường xuyên, chất lượng; các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao luôn được nâng cao, giúp SV tự tin hơn trong cuộc sống. Các
CLB đóng góp tích cực cho hoạt động phong trào của Hội Sinh viên, Đoàn Thanh niên
trường thông qua các cuộc thi thường niên về an toàn giao thông, tệ nạn xã hội... các
cuộc thi về tìm hiểu kiến thức trực tuyến, thi đấu thể thao, đồng diễn giai điệu tổ quốc,
nhảy flashmod và các chương trình giao lưu kết nghĩa với các đơn vị bạn...
Trang 101
Từ thực tiễn hoạt động của các mô hình CLB, đội, nhóm tại trường Cao đẳng sư
phạm Đà Lạt cho thấy đây là môi trường thuận lợi để sinh viên, thanh niên trở thành
chủ thể của hoạt động, phát huy được tính sáng tạo của mình. Thực sự trở thành nơi
các bạn trẻ chia sẻ kiến thức trong học tập, rèn luyện kỹ năng sống cho bản thân. Các
CLB, đội, nhóm sinh viên cũng chính là kênh thông tin tuyên truyền hiệu quả chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến thanh niên; đồng
thời là nơi phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực bổ sung cho lực lượng cán bộ
đoàn, hội tiêu biểu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và mở rộng mặt trận đoàn kết
tập hợp thanh niên.
Hạn chế: Bên cạnh những kết quả và lợi ích của các mô hình CLB, đội, nhóm
mang lại thì còn đó những tồn tại nhất định như: Một số hoạt động còn nặng về tính
hình thức. Điều kiện về kinh phí và cơ sở vật chất hoạt động câu lạc bộ vẫn còn hạn
chế. Vẫn còn một số lượng lớn các bạn SV thờ ơ với phong trào chung, không tự giác
rèn luyện bản thân trong các CLB, đội, nhóm.
Các CLB không duy trì hoạt động thường xuyên, không có kế hoạch hoạt động
cụ thể, tham gia theo cảm tính, không có sức lan tỏa đến SV. Các CLB thu hút, tập hợp
SV chưa thực sự rộng rãi, thiếu ràng buộc nên tổ chức có khi lỏng lẻo, số lượng thành
viên thường xuyên dao động dẫn đến nhiều hoạt động dài hơi bị thiếu nhân lực và thất
bại trong một thời gian ngắn.
2.2.2. Nguyên nhân
Ban chủ nhiệm CLB chưa chủ động trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động cụ
thể, điều lệ tổ chức và hoạt động CLB chưa được phổ biến rộng rãi, chưa có sự ràng
buộc đến từng thành viên, dẫn đến hoạt động mơ hồ, rời rạc;
Nội dung và hình thức hoạt động chưa đa dạng, phong phú và chưa đáp ứng
được nhu cầu, nguyện vọng của hầu hết SV;
Chưa có mối liên hệ giữa các CLB, đội, nhóm trong trường với nhau, sự liên
kết với các CLB, đội, nhóm, ngoài trường chưa được đầu tư đúng mức. Sự quan tâm
của Hội Sinh viên, Đoàn Thanh niên chỉ tập trung vào một số CLB nòng cốt, chế độ
báo cáo và quy chế hoạt động chưa được quản lý.
2.3. Một số giải pháp phát triển mô hình câu lạc bộ, đội, nhóm SV tại trường CĐSP
Đà Lạt
Để đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, sở thích; tạo dựng môi trường thuận
lợi để rèn luyện và phát triển năng lực cho SV, nắm bắt diễn biến tư tưởng của đoàn
viên, SV tốt hơn; hỗ trợ đắc lực trong việc đoàn kết, tập hợp đoàn viên, SV thì chúng
ta cần phải thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đối với bản thân mỗi SV cần ý thức được những lợi ích các bạn sẽ có
được khi tham gia các CLB đội nhóm SV. Tự giác, chủ động rèn luyện được ít nhất
là kỹ năng: giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, quản lý thời gian và nhận định vấn
Trang 102
đề. SV khi tham gia sinh hoạt trong các CLB chính là cơ hội giao lưu, để tránh khỏi
các tệ nạn xã hội khác.
Thứ hai, đối với tổ chức Đoàn, Hội cần phải xây dựng các CLB kỹ năng cho
sinh viên có hệ thống trên các lĩnh vực: văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, kỹ năng,
công tác xã hội, sở thích, tình nguyện… nhằm tạo môi trường cho sinh viên tham gia
ngoài giờ học. Luôn có sự đổi mới trong nội dung sinh hoạt nhằm thu hút được sự
quan tâm, tham gia của SV. Các CLB này có thể trở thành một đầu mối để Đoàn, Hội
đánh giá năng lực sáng tạo, năng lực phấn đấu của SV, từ đó cùng với kết quả học tập
có thể phát hiện SV ưu tú. Đặc biệt, việc thành lập và duy trì các CLB, đội, nhóm
không nên chạy theo số lượng, cần thiết phải chú trọng về chất lượng hoạt động của
các CLB và sự tiến bộ của SV khi tham gia CLB đó.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống CLB, Đoàn và Hội vẫn quan tâm phát huy vai
trò của Liên chi đoàn và các chi đoàn, đảm bảo quy tắc sinh hoạt của Đoàn thanh niên
và Hội sinh viên. Các hoạt động cần thiết thực, phù hợp với đặc thù từng trường, kích
thích được tính sáng tạo và sự tham gia của SV.
Thứ ba, đối với CLB, đội, nhóm kỹ năng cho sinh viên, khi tổ chức các chương
trình phải có sự sáng tạo, phá vỡ lối mòn quen thuộc, tạo cho các bạn sinh viên sự mới
lạ và kích thích mọi người tham gia. Mỗi chương trình sinh hoạt phải mở đầu thật ấn
tượng phải đạt được mục tiêu “từ sự bất ngờ mang đến niềm đam mê”, luôn luôn cố
gắng tạo cảm giác “ai cũng là trung tâm” bằng cách tạo thật nhiều công việc, nhiều cơ
hội thể hiện, để không ai cảm thấy lạc lõng trong tổ chức. Và kết thúc mỗi hoạt động
cần để lại một ấn tượng đẹp đối với người tham gia.
Đặc biệt, nguồn kinh phí duy trì và hoạt động của các CLB, đội, nhóm phải
được chủ động lập kế hoach, lên ý tưởng, tuyên truyền, vận động thông qua các nguồn
xã hội hóa để gây quỹ cho chương trình. Đồng thời, cần có sự ghi nhận và đánh giá sát
sao các hoạt động để giúp đỡ, hay tuyên dương các gương điển hình trong các buổi
tổng kết, tạo được sự thi đua giữa các CLB, giữa các thành viên với nhau.
Hệ thống câu lạc bộ phải được xây dựng theo phương châm lấy hiệu quả làm
căn cứ, tránh việc xây dựng câu lạc bộ một cách hình thức, phô trương.
Thứ tư, về phía nhà trường, tiếp tục quan tâm, chăm lo, chỉ đạo thường xuyên các
hoạt động của Đoàn, Hội. Tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động CLB, đội, nhóm SV.
Xem đây là một trong những biện pháp tối ưu để tập hợp, quản lý SV, góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho mỗi sinh viên, đáp ứng được nhu cầu từ xã hội.
3. Kết luận
Môi trường đại học, cao đẳng không đơn giản chỉ để cho SV học tập nâng cao
trình độ chuyên môn mà còn hơn thế nữa đó là môi trường rất tốt để SV hình thành
những kĩ năng. Việc xây dựng và phát triển mô hình các CLB, đội, nhóm kỹ năng của
sinh viên có vai trò rất quan trọng. Đó là không gian tốt nhất để sinh viên tự rèn luyện,
Trang 103
hoàn thiện bản thân mình. Là cẩm nang quan trọng không thể thiếu được của mỗi SV
khi tốt nghiệp ra trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Quang (chủ biên) (2005), Phương pháp tổ chức Công tác Đội TNTP
Hồ Chí Minh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Công Khanh (chủ biên), Nguyễn Thị Kim Liên (2012), Xây dựng mô hình
câu lạc bộ giáo dục giá trị sống và phát triển kỹ năng sống, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Huỳnh Toàn (2013), Cẩm nang sinh hoạt câu lạc bộ đội nhóm, NXB Trẻ, TP Hồ
Chí Minh.
4. Trần Như Tỉnh (Chủ biên) (2006), Lý luận và phương pháp công tác Đội Thiếu niên
Tiền phong Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Bùi Sỹ Tụng (chủ biên), Lê Kiến Thiết, Phan Nguyên Thái, Nguyễn Trọng Tiến (2005),
Hoạt động nghiệp vụ của Đội TNTP Hồ Chí Minh, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
Trang 104
MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG TRONG ĐÀO TẠO SINH VIÊN TIỂU HỌC
ĐÁP ỨNG ĐỔI MỚI CỦA MÔN THỦ CÔNG – KĨ THUẬT
THEO CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
Trần Thị Thanh Huyền*
1. Đặt vấn đề
Theo Bộ GD&ĐT, chương trình giáo dục phổ thông mới bắt đầu được áp dụng
từ năm học 2020-2021 đối với lớp 1, nhằm đáp ứng nhiệm vụ nêu tại Nghị quyết số
29-NQ/TW là "Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện
đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở
các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo
dục tự chọn".
Cùng với bước chuyển biến của các môn học, môn Thủ công – Kĩ thuật Tiểu
học cũng có những thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Điều này dẫn đến sự
cần thiết phải có những thay đổi quan trọng về thiết kế chương trình và tổ chức dạy
học trong đào tạo sinh viên ngành sư phạm Tiểu học. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nêu
một số định hướng trong đào tạo SV Tiểu học đáp ứng đổi mới của môn Thủ công –
Kĩ thuật theo chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới.
2. Những điểm mới của môn Thủ công – Kĩ thuật theo chƣơng trình GDPT mới
2.1. Về tên gọi
Theo chương trình giáo dục phổ thông mới môn Thủ công – Kĩ thuật ở Tiểu học
sẽ mang tên gọi mới là môn Tin học và công nghệ. Việc đổi tên là do chương trình
mới bổ sung phần Tin học và tổ chức lại môn Thủ công – Kĩ thuật.
Chương trình môn Công nghệ tiểu học kế thừa và phát huy ưu điểm của chương
trình hiện hành và các chương trình trước đó, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây
dựng chương trình môn học của các nước tiên tiến trên thế giới, tiếp cận những thành
tựu của khoa học giáo dục, có tính đến điều kiện kinh tế và xã hội Việt Nam; với một
số đặc điểm mới nổi bật như: Chương trình bảo đảm tính tinh giản, thiết thực, hiện đại,
phản ánh những nội dung nhất thiết phải được đề cập trong nhà trường phổ thông, đáp
ứng nhu cầu hiểu biết thế giới cũng như hứng thú, sở thích của người học, phù hợp với
cách tiếp cận của thế giới ngày nay.
Ở tiểu học, học sinh được khám phá thế giới kĩ thuật, công nghệ thông qua các
chủ đề đơn giản về công nghệ và đời sống, một số sản phẩm công nghệ trong gia đình
mà học sinh tiếp xúc hằng ngày, an toàn với công nghệ trong gia đình; được trải
nghiệm thiết kế kĩ thuật, công nghệ thông qua các hoạt động thủ công kĩ thuật, lắp ráp
các mô hình kĩ thuật đơn giản.
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 105
2.2. Về thời gian thực hiện môn học
Môn Thủ công – Kĩ thuật ở tiểu học theo chương trình hiện hành được thực
hiện 01 tiết/ 01 tuần, bắt đầu từ lớp 1, với hai mạch kiến thức:
- Giai đoạn 1: Từ lớp 1 đến lớp 3 tập trung học về các nội dung thủ công và
được ghép với các nội dung về mĩ thuật, âm nhạc thành một môn chung gọi là môn
Nghệ thuật
-Giai đoạn 2: Từ lớp 4 đến lớp 5 tập trung học các nội dung về kĩ thuật cắt,
khâu, thêu, nấu ăn, trồng cây, chăn nuôi, lắp ghép mô hình và được tách thành môn
học riêng là môn Kĩ thuật
Trong chương trình GDPT mới, giáo dục công nghệ cho học sinh được thực hiện
từ lớp 3 đến lớp 12 thông qua môn Tin học và công nghệ ở Tiểu học, cũng được thực hiện
1 tiết/1 tuần.
2.3. Về nội dung chương trình
Trong nội dung hiện hành môn Thủ công – Kĩ thuật có thiết kế nội dung kĩ
thuật xé, gấp, cắt, dán, thêu trang trí, chăn nuôi gà được bố trí ở các lớp, nội dung này
không còn nữa ở chương trình GDPT mới.
Nội dung môn Công nghệ ở Tiểu học theo chương trình GDPT mới
Chương trình môn Công nghệ hình thành, phát triển ở học sinh năng lực công
nghệ và những phẩm chất đặc thù trong lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ để học tập, làm
việc hiệu quả trong môi trường công nghệ ở gia đình, nhà trường, xã hội và lựa chọn
ngành nghề thuộc các lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ; đồng thời cùng với các môn học và
hoạt động giáo dục khác, góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu, các
năng lực chung; thực hiện các nội dung xuyên chương trình như phát triển bền vững,
biến đổi khí hậu, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tài chính,...
Môn Công nghệ ở tiểu học giới thiệu về thế giới kỹ thuật, công nghệ gần gũi
với học sinh thông qua các chủ đề đơn giản về công nghệ và đời sống, một số sản
phẩm công nghệ thường gặp trong gia đình, an toàn với công nghệ trong nhà; trải
nghiệm với thiết kế kỹ thuật, công nghệ thông qua các hoạt động thủ công - kĩ thuật,
lắp ráp các mô hình kỹ thuật đơn giản, trồng và chăm sóc hoa, cây xanh trong môi
trường gia đình, nhà trường.
Môn Công nghệ ở tiểu học được sắp xếp thành hai mạch kiến thức chính là
Công nghệ và đời sống, Thủ công - Kĩ thuật
STT Mạch nội dung Nội dung cụ thể
Lớp 3 I. Công nghệ và đời
sống
1. Tự nhiên và công nghệ
2. Sử dụng đèn học
3. Sử dụng quạt điện
4. Nghe máy thu thanh
5. Xem máy thu hình
Trang 106
6. An toàn với môi trường công nghệ trong gia đình
II. Thủ công - Kĩ
thuật
1. Làm đồ dùng học tập
2. Làm biển báo giao thông
3. Làm đồ chơi dân gian
Lớp 4
I. Công nghệ và đời
sống
1. Hoa và cây cảnh trong đời sống
2. Trồng hoa và cây cảnh trong chậu
II. Thủ công - Kĩ
thuật
1. Lắp ghép mô hình kĩ thuật
2. Lắp ráp mô hình điện
3. Làm đồ chơi dân gian
Lớp 5
I. Công nghệ và đời
sống
1. Vai trò của công nghệ
2. Nhà sáng chế
3. Tìm hiểu thiết kế
4. Liên lạc điện thoại
5. Sử dụng tủ lạnh
II. Thủ công - Kĩ
thuật
1. Lắp ráp mô hình cơ khí
2. Lắp ráp mô hình máy phát điện gió
3. Lắp ráp mô hình điện mặt trời
Chương trình môn Công nghệ có đầy đủ đặc điểm của chương trình giáo dục
định hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. Đây là thay đổi bao trùm, có tính
chất chi phối tổng thể tới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,
kiểm tra đánh giá của môn học. Chương trình môn học hướng tới hình thành, phát triển
năng lực công nghệ; góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực
chung được xác định trong chương trình tổng thể.
Môn Công nghệ trong Chương trình GDPT mới có vai trò đặc biệt quan trọng
thúc đẩy giáo dục STEM khi môn học này thể hiện hai trong bốn lĩnh vực giáo dục
thuộc STEM (công nghệ, kĩ thuật). Chương trình môn Công nghệ gắn với thực tiễn,
hướng tới thực hiện mục tiêu “học công nghệ để học tập, làm việc hiệu quả trong môi
trường công nghệ tại gia đình, nhà trường, cộng đồng”; thúc đẩy đổi mới sáng tạo
thông qua việc bố trí nội dung thiết kế kỹ thuật ở cả tiểu học, trung học; định hướng
giáo dục STEM - lĩnh vực rất được quan tâm trong chương trình GDPT mới.
3. Một số định hƣớng trong đào tạo sinh viên Tiểu học đáp ứng đổi mới của môn
Thủ công – Kĩ thuật theo chƣơng trình giáo dục phổ thông mới
3.1. Sinh viên Tiểu học cần có những năng lực gì để dạy học môn Thủ công – Kĩ
thuật theo chương trình GDPT mới
Trước hết phải khẳng định rằng, những năng lực mà người SV cần có sẽ không
nằm ngoài những năng lực đã được qui định trong chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học đã
được ban hành. Đặc biệt là những năng lực sau đây:
Trang 107
Có năng lực chuyên môn sâu. Đây là yếu tố nền tảng rất quan trọng, bởi thiếu
nó SV sẽ không liên kết được những kiến thức có liên quan đến nội dung dạy học.
Có năng lực khai thác, sử dụng thông tin một cách hiệu quả
Có năng lực giải quyết vấn đề.
Có năng lực gắn lý thuyết với thực hành.
3.2. Một số định hướng trong đào tạo sinh viên Tiểu học đáp ứng đổi mới của môn
Thủ công – Kĩ thuật theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Từ những phân tích trên, trong đào tạo sinh viên ngành Sư phạm Tiểu học đáp
ứng đổi mới của môn Thủ công – Kĩ thuật theo chương trình giáo dục phổ thông mới,
giảng viên cần chú trọng vào các định hướng chính sau:
Một là, xây dựng nội dung, kế hoạch giảng dạy hợp lý theo chương trình mới
So với chương trình hiện hành, môn Tin học và công nghệ có nhiều nội dung
mới, trên cơ sở kế thừa một số nội dung của môn Thủ công – Kĩ thuật. Căn cứ vào yêu
cầu của công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo hiện nay, để có thể là
người truyền đạt những đổi mới của bộ môn trong chương trình giáo dục phổ thông mới
cho sinh viên, GV cần được tham gia tập huấn chương trình thay sách. Sau đó, giảng
viên đi vào con đường tự học, tự nghiên cứu để có thể vận dụng dạy học bộ môn.
Khi Bộ giáo dục ban hành nội dung chương trình bộ môn thống nhất cho các
trường sư phạm, giảng viên phải thiết kế lại đề cương chi tiết học phần, biên soạn lại
tài liệu dạy học bộ môn, tổ chức đào tạo SV theo chương trình mới.
Bài giảng nên thiết kế thành các mô đun được tích hợp kiến thức chuyên môn,
kỹ năng thực hành và thái độ nghề nghiệp. Đây là sự thay đổi căn bản về chương trình
đào tạo so với cách dạy truyền thống trước đây và điều này tất yếu đòi hỏi giảng viên
sư phạm phải đổi mới, lựa chọn phương pháp sư phạm, cách thức tổ chức dạy học phù
hợp để nhằm đạt được mục tiêu đào tạo. Trong các modul, kiến thức cần rộng, cốt lõi
để tạo cho SV có tiềm năng tự học, tự phát triển. Môn học cần có chương trình chi tiết
được soạn kỹ để đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao trong dạy và học.
Trong giai đoạn hiện nay mặc dù sách giáo khoa theo chương trình phổ thông
mới chưa ban hành nhưng trong hoạt động đào tạo sinh viên tại trường sư phạm, giảng
viên cần giúp SV cập nhật kiến thức trước khi ra trường. Do đó, giảng viên tích hợp
thêm nội dung chương trình giáo dục môn Tin học và công nghệ cho sinh viên các
khóa 42, 43; hướng dẫn sinh viên tìm hiểu chương trình để có hướng tự học, bổ sung
kiến thức để sẳn sàng thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tại trường tiểu học sau khi ra
trường bằng các PP thuyết trình, đàm thoại, thảo luận nhóm,…
Hai là, sử dụng các phương pháp dạy học “lấy người học làm trung tâm” nhằm
tích cực hóa hoạt động của người học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, giúp SV
hình thành và phát triển các năng lực tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Trang 108
Đối với việc dạy học kiến thức khoa học của môn Tin học và công nghệ, giảng
viên chú trọng cho SV trải nghiệm hoạt động ứng dụng kiến thức bộ môn vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn và các khoa học khác.
Ba là, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học
Sử dụng giáo án điện tử để giảng dạy: phương án này nhằm tăng tính trực quan
sinh động của bài giảng, tạo hứng thú học tập cho SV từ đó giúp SV tiếp thu nội dung
kiến thức môn học. Ngoài ra, còn có thể sử dụng các mô hình, thí nghiệm giúp giảng
viên nâng cao chất lượng bài dạy.
Bốn là, quan tâm bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học bộ môn cho SV
Đối với SV ngành sư phạm Tiểu học thì nghiên cứu khoa học trong giáo dục là
một năng lực nghề nghiệp cần bồi dưỡng trong quá trình đào tạo ở bậc đại học. Chính
vì vậy, giảng viên cần quan tâm bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học nói chung,
năng lực nghiên cứu khoa học bộ môn nói riêng cho SV.
Việc bồi dưỡng này có thể thực hiện theo phương thức sau: Trang bị cho SV lý
thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung, đồng thời vận dụng vào lĩnh
vực công nghệ bộ môn nói riêng. Hay tổ chức cho SV thực hiện các đề tài về công
nghệ, tham gia viết các khóa luận, tiểu luận nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở
trường Tiểu học.
Năm là, đánh giá kết quả học tập của người học theo hướng tiếp cận năng lực
Để đánh giá được năng lực của người học theo hướng tiếp cận năng lực thì việc
đánh giá theo một bài thi cuối kỳ không phải là kết quả cuối cùng mà phải đa dạng hóa
các hình thức đánh giá và chú trọng đến đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy
học phân môn này.
4. Kết luận
Chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng trên cơ sở khoa học về
phát triển chương trình giáo dục, tiếp cận các xu thế quốc tế hiện đại và tiến bộ, phù
hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Đổi mới chương trình dạy môn Thủ công – Kĩ
thuật nhằm chuẩn bị cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để trang bị cho SV tư duy về
khoa học kèm theo các kỹ năng thế kỷ 21 góp phần giáo dục toàn diện thế hệ trẻ.
Thông qua bài viết, tác giả nêu những điểm mới của bộ môn và một số định hướng
trong đào tạo SV Tiểu học với mong muốn từng bước đáp ứng đổi mới của môn Thủ công
– Kĩ thuật theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Trang 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (tháng 7/2017), Chương trình giáo dục phổ thông –
Chương trình tổng thể, NXB Giáo dục Việt Nam.
2. Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2013), Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Hoàng Thanh Thúy (Chủ biên), Phan Thị Hồng Hạnh (2016), Tổ chức hoạt động tự
học cho sinh viên trường đại học sư phạm theo hướng tiếp cận năng lực, NXB Giáo
dục Việt Nam.
Trang 110
TÍCH HỢP NỘI DUNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀO GIẢNG DẠY MÔN ĐỊA LÍ
Ở BẬC TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT
Hồ Thị Hiền*
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện tại là vấn đề mà cả thế giới đang quan tâm trong
đó có Việt Nam. Với lãnh thổ vùng biển rộng gấp hơn ba lần diện tích đất liền, lại có
đường bờ biển dài 3260 km thì theo đánh giá các chuyên gia nghiên cứu nước ta một
trong 10 quốc gia chịu tác động nặng nề nhất từ BĐKH.
Trong các lứa tuổi chịu tác động từ hiện tượng BĐKH trẻ em là tầng lớp bị tổn
thương nhiều vì lứa tuổi này sức khỏe cơ thể còn chưa phát triển hoàn thiện, đây là lứa
tuổi đang hình thành nhân cách nên hiểu biết, ý thức của các em sẽ quyết định đến
hành động hiện tại và sau này nên giáo dục cho các em biết được nội dung và cách để
thích nghi, ứng phó với điều này rất cần thiết.
Thành phố Đà Lạt không giáp biển nhưng khí hậu ở đây có sự biển đổi nhiều so
với trước kia và thậm chí trong một ngày thời tiết cũng có sự thay đổi nhiều trạng thái,
thường xuyên chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết bất thường từ những tỉnh khác.
Trong các môn học ở bậc tiểu học môn Địa lí là môn có nhiều điều kiện để tích
hợp nội dung BĐKH, song giáo viên vẫn chưa được tập huấn nhiều, chưa chú trọng
đưa các nội dung này vào bài học.
Từ những điều trên qua bài viết “Tích hợp nội dung Biến đổi khí hậu vào giảng
dạy môn Địa lí ở bậc tiểu học trên địa bàn thành phố Đà Lạt” tác giả muốn giáo viên
tiểu học hiểu được các vấn đề cơ bản nhất của BĐKH ở Việt Nam nói chung và ở Đà
Lạt nói riêng từ đó lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học có hiệu quả nội dung
BĐKH cho học sinh.
2. Nội dung
2.1. Một số biểu hiện và tác động của BĐKH ở Việt Nam, thành phố Đà Lạt
2.1.1. Biểu hiện, tác động BĐKH ở Việt Nam
Theo IPCC (Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu), Biến đổi khí hậu là
sự biến đổi về trạng thái của hệ thống khí hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi
về trung bình và sự biến động của các thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời
gian đủ dài, điển hình là hàng thập kỷ hoặc dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể do các quá
trình tự nhiên bên trong hệ thống khí hậu, hoặc do những tác động từ bên ngoài, hoặc
do tác động thường xuyên của con người làm thay đổi thành hần cấu tạo của khí quyển
hoặc sử dụng đất. Ở nước ta BĐKH có các biểu hiện sau:
- Nhiệt độ không khí trung bình tăng lên. Trong 50 năm qua (1958 - 2007)
nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên khoảng 0,5 oC đến 0,7
oC. Nhiệt độ mùa
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 111
đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng
nhanh hơn ở các vùng khí hậu phía Nam. Ngoài ra vào mùa đông ở vùng núi nhiệt độ
tăng cao hơn mức so với bình thường nhiều hơn các mùa khác. Dự đoán trong thời
gian tiếp tới nhiệt độ trung bình của không khí có xu hướng tăng lên. Theo kịch bản
biến đổi khí hậu vào năm 2100 nhiệt độ trung bình tăng: 2 0C – 3
0C.
- Mực nước biển dâng: Trong thời kỳ gần đây mực nước biển cao hơn thời kỳ
1961 - 1990 về trị số trung bình cũng như trị số cao nhất, thấp nhất. Trong 50 năm
qua mực nước biển trung bình dâng với tốc độ 3 – 4mm/ năm (3 – 4cm/ thập kỷ),
trong gần nữa thế kỷ vừa qua, nước biển ở Việt Nam dâng lên khoảng 15 – 20 cm.
Mực nước biển cao nhất có tốc độ, xu thế tăng cao hơn, còn mực nước biển thấp nhất
thì ngược lại tăng ít. theo kịch bản biến đổi khí hậu vào năm 2100 mực nước biển
dâng: 57cm đến 75 cm.
- Sự gia tăng các hiện tượng thời tiết bất thường, cực đoan. Trong thời gian gần
đây thì bão xuất hiện các tháng ngoài mùa bão ở nước ta nhiều hơn, có năm số cơn
bão độ bộ vào Việt Nam nhiều hơn mức bình thường, sự gia tăng các đợt không khí
lạnh với cường độ mạnh, hạn hán, lũ lụt mang tính địa phương xuất hiện nhiều nơi…
Với những biểu hiện của BĐKH như vậy đã tác động đến nhiều mặt trong lĩnh
vực kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe con người.
- Tài nguyên bị suy thoái nhất tài nguyên đất bởi quá trình ô xy hóa trong đất
mạnh khi nhiệt độ tăng cao, mặn hóa đất, xói mòn, rửa trôi... Theo các kịch bản
BĐKH với lượng phát thải trung bình mực nước biển dâng vào năm 2050 là 30 cm
khi đó cả nước có trên 8000 km2 diện tích bị ngập, còn đến năm 2100 mực nước biển
dâng 75cm cả nước có hơn 22000 km2 diện tích bị ngập.
Mực nƣớc biển
dâng (m)
Diện tích bị ngập (%)
Ghi chú ĐB sông
Cửu
Long
TP Hồ
Chí Minh
Thừa
Thiên
Huế
0,25m 14 12 5 Nhiều nơi còn lại ngập
0,1 – 1% diện tích
0,5m 32 15 5,6 Nhiều nơi còn lại ngập
0,1 – 1% diện tích
1,0m 67 21 7,1 Nhiều nơi còn lại ngập
01 – 1,25% diện tích
Bảng 1: Diện tích bị ngập một ở số thành phố theo kịch bản nước biển dâng
(Nguồn tài liệu xây dựng bảng: Sách Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam)
- Các ngành kinh tế: Nông nghiệp mất diện tích đất trồng, thay đổi tính thích
hợp giữa mùa vụ cây trồng và khí hậu xưa nay, hạn hán, xâm nhập mặn… Với lâm
Trang 112
nghiệp diện tích rừng ngập mặn chịu tổn thất nặng do nước biển dâng, các loại cây có
sự biến động diện tích do thay đổi môi trường sống, sâu bệnh nhiều hơn, các loại ngoại
lai nhiều hơn, các loại quý hiếm trong rừng bị thu hẹp môi trường sống…Với công
nghiệp phải thay đổi cơ cấu ngành sử dụng hạn chế năng lượng và phát khí thải, các
khu công nghiệp nước ta đa số tập trung ở đồng bằng, thấp trũng cũng dễ phải di
chuyển lãnh thổ sản xuất, vùng nguyên liệu cho công nghiệp bị thay đổi…Giao thông
vận tải bị ngập lụt, nắng nóng làm ảnh hưởng lưu thông, hư hại cầu đường, tuổi thọ
các công trình và tăng nguy cơ rủi ro trong hoạt động đi lại…Đối với ngành du lịch
bên cạnh tác động thuận lợi hoạt động du lịch biển phát triển nhiều nơi xuất hiện các
địa điểm du lịch hấp dẫn thì cũng phải đối mặt với sự xuống cấp các công trình, tính
bất thường của thời tiết…
- Đối với sức khỏe con người: BĐKH ở nước ta thường tạo điều kiện cho vi
khuẩn phát sinh, pháp triển gây ra các bệnh đường hô hấp, dịch cúm, sốt xuất huyết,
sốt rét… Thời tiết cực đoan cũng tăng nguy cơ mặc các bệnh cho người già, trẻ em…
2.1.2. Biểu hiện, tác động biến đổi khí hậu ở Đà Lạt
BĐKH đã, đang và sẽ tác động nhiều đến thế mạnh kinh tế - xã hội của Đà Lạt,
nguy cơ đặc trưng miền ôn đới sẽ mất dần. Khí hậu ở Đà Lạt có sự thay đổi; nhiệt độ
tăng trung bình năm tại đây 0,0120C/năm. Có sự biến động về nhiệt độ cao nhất; giai
đoạn 2000 – 2005 là 18,10C đến 2011 – 2015 là 18,9
0C, có ngày nhiệt độ lên trên 30
0 C.
Tiêu chí Chỉ số Giai đoạn
2000 -2005 2006 - 2010 2011 - 2015
Nhiệt độ
(00 C)
Cao nhất 18,1 18,3 18,9
Thấp nhất 17,8 17,8 17,9
Trung bình năm 18,0 18,1 18,4
Lượng mưa
(mm)
Cao nhất 2221,0 2192,0 2244,0
Thấp nhất 1412,0 1576,0 1648,0
Trung bình năm 1776,8 1838,2 1912,9
Bảng 2: Nhiệt độ, lượng mưa tại trạm quan trắc Đà Lạt trong một số năm
(Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng 2015)
- Các hiện tượng sương mù, mưa dông và mưa đá... đã gây ra nhiều hiện tượng
thời tiết, khí hậu cực đoan; gia tăng về mức độ, quy mô ảnh hưởng và tần suất xuất hiện.
- Tính từ năm 2000 đến nay, tổng lượng mưa hàng năm tại trạm quan trắc Đà Lạt có
xu hướng tăng lên Lượng mưa trung bình giai đoạn 2000-2005 đạt 1776.8mm/năm, giai
đoạn 2011-2015 đạt ở mức cao hơn 1912.6mm/năm. Tuy nhiên, lượng mưa phân phối
không đều theo thời gian trong năm. Thời gian mùa khô có xu hướng kéo dài hơn và mùa
mưa ngắn lại; số lượng cơn mưa tập trung vào mùa mưa; cường độ mưa mỗi cơn tăng. Đà
Trang 113
Lạt có hai ngành kinh tế chủ lực du lịch, nông nghiệp công nghệ cao. Những năm gần
đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã tác động trực tiếp đến Đà Lạt:
- Gây ra hiện tượng ngập lụt cục bộ vào mùa mưa. Mùa khô, lượng nước tại các
suối, hồ tự nhiên, hồ thủy lợi giảm đáng kể dẫn đến hiện tượng khô hạn, không đảm
bảo việc tưới tiêu, sinh hoạt ở một số địa bàn, chi phí cho sản xuất cao hơn.
- Rừng á nhiệt đới mất đi một phần diện tích, giảm về chất lượng.
- Gia tăng các bệnh về hô hấp, xương khớp… cho người dân.
Vì việc ứng phó với BĐKH nhiều khi bị động: Các công trình dự án để ứng phó
BĐKH chậm được đầu tư và chưa đồng bộ. Công tác tuyên truyền chưa thực sự đến
với từng người dân, chưa huy động sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân …
Vì vậy nên BĐKH là vấn đề mà thành phố cần quan tâm và giáo dục cho các tầng lớp
rất quan trọng.
2.2. Nội dung, phương pháp tích hợp BĐKH trong giảng dạy môn Địa lí Tiểu học
2.2.1. Các nội dung chương trình Địa lí tiểu học tích hợp được BĐKH
Chương trình Địa lí ở bậc tiểu học kiến thức Địa lí có khả năng tích hợp dạy
BĐKH bao gồm cả lãnh thổ toàn cầu, đến các châu, Việt Nam và ngay ở Địa phương.
Trong quá trình giảng dạy và học tập tác giả đã tìm hiểu và xây dựng bảng các nội
dung địa lí bậc tiểu học có khả năng tích hợp dạy BĐKH.
Sách giáo khoa Nội dung
Tự nhiên xã hội 1 - Trời nắng, trời mưa, gió, trời nóng, trời rét, thời tiết.
- Cuộc sống xung quanh.
Tự nhiên xã hội 2 - Mặt trời, mặt trời và phương hướng.
- Cuộc sống xung quanh.
Tự nhiên xã hội 3 - Mặt trời, ngày và đêm trên trái đất.
- Năm tháng và mùa; các đới khí hậu, bề mặt trái đất.
Lịch sử và địa lí 4
- Tây Nguyên, hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên,
thành phố Đà Lạt.
- Đồng bằng Bắc Bộ, hoạt động sản xuất của người dân đồng
bằng Bắc Bộ.
- Đồng bằng Nam Bộ, hoạt động sản xuất của người dân đồng
bằng Nam Bộ, thành phố Cần Thơ.
- Dãi đồng bằng duyên hải miền Trung, hoạt động sản xuất ở
đồng bằng duyên hải miền Trung.
- Biển, đảo và quần đảo Việt Nam.
Trang 114
Lịch sử và địa lí 5
- Khí hậu, sông ngòi, đất và rừng Việt Nam.
- Vùng biển Việt Nam.
- Sản xuất nông nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải du lịch
Việt Nam.
- Đặc điểm tự nhiên châu Phi, châu Mỹ, châu Nam cực.
Bảng 3: Nội dung chương trình Địa lí tiểu học phù hợp tích hợp dạy BĐKH
2.2.2. Phương pháp tích hợp nội dung BĐKH trong dạy học môn Địa lí bậc tiểu học.
- Tích hợp nội dung BĐKH vào bài học Địa lí tiểu học được thực hiện theo cách:
+ Liên hệ, lồng ghép: Trong quá trình dạy các bài Địa lí giáo viên lồng ghép nội
dung, lấy ví dụ hoặc liên hệ đến những kiến thức có nội dung về BĐKH. Khi lấy ví dụ
và liên hệ thì giáo viên cần lưu ý tránh sự liên hệ một cách máy móc, gượng ép, thiếu
logic với nội dung bài học.
Ví dụ: Dạy bài có nội dung Trời nóng, trời rét, thời tiết (Sách giáo khoa Tự
nhiên xã hội 1) giáo viên có thể liên hệ: Đà Lạt có thời tiết ôn hòa, mát mẻ quanh năm,
trong một ngày thời tiết có sự thay đổi: sáng se lạnh, trưa hơi nóng, dần về chiều và
đêm lạnh hơn. Hiện nay thời tiết Đà Lạt có sự biến đổi: Nhiệt độ có xu hướng ngày
càng tăng. Chính vì có sự thay đổi thời tiết như vậy nên các em nhớ đi học mang áo
khoắc để sáng và chiều mặc nhằm bảo vệ sức khỏe cho chính mình…
+ Tích hợp bộ phận: Bài học có một phần nội dung liên quan đến BĐKH.
Ví dụ: Dạy bài khí hậu (Địa lí 5) có mục 3. Ảnh hưởng của khí hậu: Bài học có
nói đến bão, lũ lụt, hạn hán làm ảnh hưởng đến đời sống sản xuất của con người. Giáo
viên dạy nội dung này đã nói đến sự BĐKH các hiện tượng tai biến tự nhiên ở nước ta
nhiều và có những hiện tượng không theo quy luật…
- Hai cách tích hợp trên thường được sử dụng cho các bài dạy trên lớp, ngoài ra
dạy nội dung BĐKH sẽ đạt được hiệu quả cao với hình thức dạy học ngoài lớp như: Tổ
chức cho học sinh các hoạt động ngoài trời có nội dung, hành động thực hành của các
em mang chủ đề liên quan BĐKH: Vẽ tranh, văn nghệ…Thành lập câu lạc bộ Địa lí
nhỏ của trường; Tổ chức những ngày chủ nhật xanh…
* Một số lưu ý khi tích hợp nội dung BĐKH vào dạy học môn Địa lí ở tiểu học:
- Giáo viên lựa chọn các phương pháp dạy học thích hợp để dạy nội dung
BĐKH được tích hợp: Đàm thoại, sử dụng tranh ảnh…
- Giáo viên phải tìm hiểu nội dung bài học cẩn thận, tích hợp nội dung BĐKH
hợp lí. Song cần nhận thấy lứa tuổi tiểu học còn nhỏ nên để đạt hiệu quả giáo viên nên
lựa chọn những nội dung BĐKH nào gần gủi với các em.
- Lựa chọn, diễn đạt các nội dung BĐKH đơn giản, dễ hiểu để truyền tải cho
học sinh. Ví dụ: khái niệm BĐKH khá khó hiểu đối với lứa tuổi cấp 1 nên phải diễn
đạt sao cho các dễ em dễ hiểu nhất.
Trang 115
- Lứa tuổi tiểu học nhất lớp 1, 2, 3 khi dạy nên sử dụng nhiều hình ảnh hỗ trợ
trong dạy học vừa sinh động, trực quan, các em dễ nhớ.
- Giáo dục cho người học về BĐKH phạm vi toàn cầu, nhưng cần hướng người học
vào việc bảo vệ môi trường và các hoạt động ứng phó với BĐKH ngay tại nơi sinh sống.
3. Kết luận
BĐKH xảy ra trên toàn cầu và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Vì
thế mà công tác tuyên truyền và bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ
cho giáo viên, học sinh ngay từ bậc học tiểu học nên được nhà trường quan tâm. Với
đặc trưng môn Địa lí ở bậc tiểu học có nhiều thuận lợi để tích hợp nội dung BĐKH,
giáo viên cần xác định mục tiêu, nội dung bài học lựa chọn nội dung và phương pháp
dạy học thích hợp để nâng cao kiến thức về BĐKH và quan trọng hình thành được cho
các em các kỹ năng, năng lực hành động bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài nguyên Môi trường (2011), Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu, 17
trang [tr1 đến tr17].
2. Cục thống kê Lâm Đồng (2016), Niên giám thống kê Lâm Đồng 2015 Đà Lạt.
3. Minh Đạo (07/9/2018), Biến đổi khí hậu và ứng phó, báo điện tử Lâm Đồng.
baolamdong.vn.
4. Nguyễn Thế Hưng, Nguyễn Thị Quyên (2018), Định hướng tích hợp giáo dục Biến
đổi khí hậu trong dạy học sinh học trung học phổ thông, Tạp chí khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội số 2, tập 134: Trang 1 – 6.
5. Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Trọng Hiệu, Trần Thục, Phạm Thị Thanh Hương,
Nguyễn Thị Lan, Vũ Văn Thăng (2010), Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam,
NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Trang 116
RÈN LUYỆN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƢ PHẠM
NGÀNH MẦM NON ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC MẦM NON
Phạm Thị Thùy Trang*
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, trong xu thế đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam, vấn đề
nâng cao năng lực nghề nghiệp (NLNN) sẽ tạo bước đột phá làm chuyển biến chất
lượng giáo dục. Chỉ có năng lực thật sự mới giúp một người phát triển nghề nghiệp,
thăng tiến nghề nghiệp và không ngừng nâng cao mức đáp ứng của bản thân với yêu
cầu nghề dạy học là quá trình thích ứng của giáo viên (GV) với những thay đổi luôn
diễn ra trong lao động nghề nghiệp của họ.
Giáo viên mầm non (GVMN) là một nghề đặc biệt trong các nghề của xã hội,
trong đó đòi hỏi người giáo viên phải có một số năng lực nghề nghiệp cần thiết: Có
hiểu biết sâu về đối tượng giáo dục, có hiểu biết sâu về khoa học giáo dục mầm non,
năng lực lập kế hoạch dạy học và giáo dục trẻ em, năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch
dạy học và giáo dục, năng lực nhận thức... Năng lực nghề nghiệp thể hiện trình độ tay
nghề của sinh viên sau khi ra trường. Hiện nay, năng lực nghề nghiệp của sinh viên
ngành sư phạm mầm non không chỉ thể hiện ở khả năng dạy học mà bao gồm cả các kĩ
năng mềm mà sinh viên được bồi dưỡng và tự rèn luyện trong quá trình học ở trường
sư phạm. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi đề cập đến việc rèn luyện năng lực nghề
nghiệp cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường CĐSP Đà Lạt.
2. Nội dung
2.1. Một số khái niệm
Năng lực: Ngày này khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
có thể hiểu năng lực là sự thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải
quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong
những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm
cũng như sự sẵn sàng hành động.
Hiểu một cách ngắn gọn theo Thông tư 26/2018/TT-BGDDT ban hành quy
định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non thì Năng lực là khả năng thực hiện công
việc, nhiệm vụ.
Năng lực nghề nghiệp GVMN: có thể được hiểu là tổ hợp những kiến thức, kĩ
năng, thái độ cần thiết để thực hiện thành công các công việc chuyên môn của nghề giáo
viên mầm non theo những tiêu chuẩn, tiêu chí đặt ra đối với từng công việc đó. Năng lực
nghề nghiệp được phát triển trong suốt cả cuộc đời hoạt động nghề nghiệp của giáo
viên, trong đó giai đoạn đào tạo ban đầu ở các trường sư phạm giữ vai trò nền tảng.
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 117
2.2. Yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
2.2.1. Định hƣớng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT)
Một trong những quan điểm chỉ đạo của đổi mới là “Phát triển GD&ĐT là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình GD từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học
đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; GD nhà trường kết hợp với GD gia đình và
GD xã hội”. Đồng thời “Phát triển GD&ĐT từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng”. Đổi mới GD&ĐT chú
trọng đến phát triển năng lực của người học. (Nguồn http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-
thuc-hien-chuong-trinh/nang-luc-nghe-nghiep-cua-giao-vien-mam-non-hien-nay-
658.html)
2.2.2. Định hƣớng đổi mới trong Giáo dục Mầm non
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, GDMN đã “Tiếp tục đổi mới và
chuẩn hóa nội dung GDMN, chú trọng kết hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù
hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách”.
Chương trình GDMN đã xác định “Nội dung của các lĩnh vực GD chủ yếu được tổ
chức thực hiện theo hướng tích hợp và tích hợp theo các chủ đề gần gũi thông qua các
hoạt động đa dạng, thích hợp với trẻ và điều kiện thực tế của địa phương”. Để thực
hiện tốt được đổi mới nội dung GDMN đòi hỏi phải nhanh chóng đổi mới công tác đào
tạo GVMN theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp, đáp ứng những yêu cầu mới
của ngành GD đề ra. (Nguồn http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-
trinh/nang-luc-nghe-nghiep-cua-giao-vien-mam-non-hien-nay-658.html).
2.2.3. Đặc thù hoạt động nghề nghiệp của GVMN hiện nay
Nhà giáo thuộc mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo cần có những năng lực chung
và những năng lực nghề nghiệp mang tính đặc thù riêng, đặc biệt đối với GDMN.
Một là, hoạt động nghề nghiệp của GVMN là chăm sóc – giáo dục trẻ
Một ngày làm việc ở lớp/ trường mầm non, giáo viên:
- Thực hiện chăm sóc trẻ, quan sát và phát hiện những biểu hiện khác biệt/
những dấu hiệu bệnh tật của trẻ; đảm bảo sự an toàn và vệ sinh đối với trẻ;
- Thực hiện công tác giáo dục trẻ qua hoạt động vui chơi, hoạt động giảng dạy
hằng ngày theo khoa học GDMN, phù hợp với từng độ tuổi.
- Kết hợp linh hoạt về nuôi và dạy (trong nuôi có dạy; trong dạy có nuôi dưỡng)
và tích hợp khéo léo nội dung GD sao cho trẻ học nhẹ nhàng mà hiệu quả; tổ chức các
hoạt động GD và học tập đầy hứng thú đối với trẻ.
- Thời gian làm việc của GVMN thường từ 8-10 tiếng tại trường. Ngoài ra, họ
còn phải làm nhiều việc khác: Soạn giáo án, làm đồ dùng học tập, sổ sách…
Hai là, hoạt động nghề nghiệp của GVMN nhƣ một ngƣời mẹ ở trƣờng
Trang 118
- Chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương yêu hết mực như con của mình ở gia
đình, đồng thời có một sự khoan dung và độ lượng, tận tâm và tận lực vì trẻ nhỏ.
- Làm việc với một sự kiên trì, tỷ mỉ, nhẫn nãi và cần mẫn, nhưng luôn công
bằng và tôn trọng trẻ (tôn trọng từng cá nhân, tôn trọng sự đa dạng của các trẻ trong lớp)
- Họ sẵn sàng“mở lòng” đối với trẻ em, có lòng vị tha, sẵn sàng chia sẻ và hợp
tác với trẻ; không có thái độ kì thị, miệt thị hay phân biệt đối xử, nhất là đối với trẻ có
hoàn cảnh khó khăn (trẻ khuyết tật, trẻ có hoàn cảnh gia đình éo le, trẻ dân tộc…).
- Họ làm việc có khoa học, có nền nếp và kỉ cương trong một lớp học, nhưng
vẫn luôn gần gũi, thân thiện trong đối xử với trẻ như một người bạn thân thiết.
Ba là, hoạt động nghề nghiệp của GVMN là nghệ sỹ
- Có một sự khéo léo và nghệ thuật trong giao tiếp ứng xử; giao tiếp văn minh,
lịch sự và có văn hóa (với trẻ, với cha mẹ của trẻ, với đồng nghiệp, với lãnh đạo cấp
trên, với người dân trong cộng đồng…).
- Có nghệ thuật trong tổ chức các hoạt động cho trẻ (hoạt động tạo hình, làm đồ
dùng học tập, múa hát, giúp trẻ nghe và cảm thụ âm nhạc; kể chuyện, đọc thơ và đóng
kịch…) qua thể hiện ở hành vi, ngôn ngữ biểu cảm.
- Có nghệ thuật trong sử dụng ngôn ngữ (sử dụng từ ngữ trong sáng, dễ hiểu, rõ
nghĩa và đầy đủ cấu trúc ngữ pháp để trẻ có thể học được ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ; làm
giàu và nâng cao chất lượng ngôn ngữ của trẻ).
- Là tuyên truyền viên về ngành học để xã hội hiểu và tin tưởng về GDMN.
Bốn là, hoạt động nghề nghiệp của GVMN với vai trò một nhà tâm lý và
giáo dục
- Làm việc với một số lượng trẻ nhất định hằng ngày mới thấu hiểu một môi
trường thực sự đầy áp lực (chỉ có ai trong nghề mới hiểu được hết). Trước hết, họ
thường xuyên quan sát và hiểu tường tận đặc điểm cá nhân và từng thay đổi trong
bước đường phát triển của các bé.
- Tùy thuộc vào đặc điểm tâm lý cá nhân của từng trẻ (tốc độ phát triển/ tốc độ
học tập; cách học phù hợp; sở thích và nhu cầu; khả năng học tập; độ tuổi…) giáo viên
có những cách tiếp cận phù hợp trong quá trình giáo dục.
- Trong quá trình giao tiếp, xử lý xung đột của các trẻ, GVMN phải đưa ra cách
giải quyết vấn đề hợp lý và mang tính hợp tác. Mặt khác, giáo viên cũng còn hiểu đặc
điểm tâm lý của từng phụ huynh để có cách trao đổi, chia sẻ và hợp tác giáo dục trẻ.
- Không tránh khỏi những cảm xúc cá nhân trong các hoàn cảnh khác nhau,
GVMN cần nhận biết cảm xúc của mình, và biết quản lý kiểm soát cảm xúc cá nhân
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Hoạt động nghề nghiệp của GVMN có những nét rất đặc thù, là tổng hòa của
nhiều vai trò khác nhau, phù hợp với các hoạt động giáo dục ở từng thời điểm trong
lịch trình sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non.
Trang 119
(Nguồn http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-trinh/nang-luc-nghe-
nghiep-cua-giao-vien-mam-non-hien-nay-658.html).
2.3. Rèn luyện năng lực nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm mầm non đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục mầm non
Vấn đề đổi mới giáo dục mầm non đặt ra yêu cầu cho các trường sư phạm và các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng sinh viên trong việc hình thành năng lực và rèn luyện
các kỹ năng đặc thù để đáp ứng yêu cầu hiện nay.
Trƣớc hết, cần xác định rõ các năng lực nghề nghiệp cần hình thành cho sinh
viên ngành sư phạm mầm non. Trên cơ sở chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non và
yêu cầu đổi mới trong GDMN và nhu cầu thực tế của các trường mầm non, chúng tôi
xác định các năng lực cần hình thành cho sinh viên, theo Thông tư 26/2018/TT-
BGDDT thì Chuẩn nghề nghiệp GVMN hiện này có 5 tiêu chuẩn (Tiêu chuẩn 1. Phẩm
chất nhà giáo; Tiêu chuẩn 2. Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ; Tiêu chuẩn 3. Xây
dựng môi trường giáo dục; Tiêu chuẩn 4. Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia
đình và cộng đồng; Tiêu chuẩn 5. Sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc), ứng dụng
công nghệ thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em). Vậy thì các kỹ năng nghề nghiệp GVMN phải sát với chuẩn này,
có nhiều cách diễn đạt khác nhau về năng lực nghề GVMN. Nhưng tựu chung đều
xoay quanh một nhóm năng lực là chăm sóc và giáo dục trẻ.
Cách diễn đạt thứ nhất: Đối với giáo viên mầm non (GVMN), khác với giáo viên
(GV) các bậc học khác, để thực hiện tốt hoạt động cụ thể của mình, đó là nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục các cháu, người giáo viên phải có những năng lực nhất định như:
- Khi nói đến hoạt động giáo dục trẻ thì người giáo viên cần có năng lực xây dựng
chương trình giáo dục, năng lực lập kế hoạch giáo dục dài hạn, năng lực xây dựng môi
trường giáo dục thân thiện cho trẻ, năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục,... và kèm
theo các kĩ năng cụ thể.
- Khi nói đến hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho trẻ thì người giáo viên
cần có: năng lực trong thái độ ứng xử và ý thức trong việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ
nhỏ, năng lực truyền đạt và hướng dẫn trẻ thực hiện những yêu cầu của giáo viên, năng
lực tổ chức thực hiện việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ. Những năng lực này
được thể hiện qua hàng loạt các kĩ năng trong khi làm việc với trẻ như những kĩ năng
tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, kĩ năng tổ chức cho trẻ vệ sinh cá nhân,...
(Nguồn http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-trinh/nang-cao-nang-
luc-nghe-cua-giao-vien-mam-non-193.html)
Cách diễn đạt thứ hai: Năng lực nghề giáo viên mầm non thể hiện ở: Tri thức
nghề nghiệp hay năng lực trí tuệ nghề nghiệp; Kỹ năng nghề nghiệp hay năng lực hành
nghề; Năng lực thực thi đạo đức nghề nghiệp; Năng lực thực thi văn hóa nghề nghiệp
(Nguồn Năng lực nghề của giáo viên mầm non đáp ứng đổi mới giáo dục mầm non)
Trang 120
Thứ hai, tăng cường rèn luyện năng lực nghề nghiệp cho sinh viên trong quá
trình giảng dạy. Coi rèn luyện năng lực nghề nghiệp là một trong những biện pháp
quan trọng trong phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. Nhiệm vụ đầu tiên các
giảng viên cần chú trọng là lồng ghép phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên
khi dạy các môn học trong chương trình.
Đối với các giảng viên dạy những môn kiến thức cơ sở như: Tâm lí học, giáo dục
học đại cương, âm nhạc... trong quá trình dạy học cần liên hệ với chương trình GDMN
để sinh viên có điều kiện được tiếp cận với những điều liên quan đến dạy học ở mầm
non ngay từ năm thứ nhất.
Đối với giảng viên dạy các môn phương pháp như: Phương pháp làm quen với
Toán, Phương pháp làm quen môi trường xung quanh, Phương pháp giáo dục thể chất,
Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình, Phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc,
Phương pháp làm quen văn học. Vấn đề phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên
sẽ được lồng ghép trong từng nội dung kiến thức. Giảng viên tổ chức cho sinh viên
thiết kế bài giảng, tổ chức các hoạt động giáo dục (tiết dạy) ở từng bộ môn phương
pháp để góp ý, tranh luận... Thông qua đó giúp sinh viên nắm vững nội dung, phương
pháp của từng loại giờ học, rèn luyện kỹ năng tổ chức các loại giờ học đó.
Ngoài ra, việc rèn luyện cho sinh viên năng lực nghề nghiệp như kỹ năng chăm
sóc trẻ được thể hiện rõ qua các học phần: Sự phát triển thể chất trẻ em lứa tuổi mầm
non, Giáo dục học Mầm non, Vệ sinh- dinh dưỡng, Phòng bệnh và đảm bảo an toàn.
Thông qua các môn học này giúp SV hiểu rõ được sự phát triển thể chất của trẻ lứa
tuổi mầm non cũng như nhu cầu dinh dưỡng của trẻ ở từng độ tuổi để có kỹ năng chăm
sóc- giáo dục trẻ một cách phù hợp. Để rèn luyện kỹ năng này, giảng viên sẽ tổ chức
cho SV tham gia các hoạt động thực hành tại trường sư phạm.
Thứ ba, trường sư phạm tiếp tục xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết và
khăng khít với các trường mầm non, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên xuống các
trường mầm non thực hành kiến tập, thực tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Tạo điều
kiện cho sinh viên thường xuyên tiếp xúc với các công việc giáo viên ở trường mầm
non và tiếp xúc với trẻ. Và hiệu quả đào tạo ở các trường sư phạm sẽ được nâng cao
khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa trường mầm non với trường sư phạm trong việc
hướng dẫn, nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm các hoạt động thực hành của sinh viên.
Hiện nay trường chúng ta tổ chức các đợt Kiến tập sư phạm năm thứ nhất, Rèn
luyện Nghiệp vụ sư phạm năm 2 và Thực tập sư phạm năm 3 cho SV ngành Mầm non.
Thông qua các đợt đi thực tế các e đã học hỏi và rèn luyện được nhiều điều có ích cho
bản thân để hoàn thiện năng lực nghề nghiệp GVMN trong tương lai và được đánh giá
đạt kết quả tốt qua các đợt thực tế tại trường MN. Nếu có điều kiện hơn nữa, ở từng bộ
môn phương pháp, ngoài việc tổ chức thực hành tại trường sư phạm giảng viên có thể
liên hệ trường mầm non để SV được xuống trường thực hành tổ chức các hoạt động
Trang 121
trực tiếp trên trẻ để SV được cọ xát thực tiễn, làm rõ hơn lý thuyết đã học, rèn luyện
kỹ năng nghề nghiệp cho bản thân.
Thứ tƣ, cần đổi mới cách kiểm tra và đánh giá SV. Việc kiểm tra đánh giá phải
dựa trên các tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng cụ thể của từng kĩ năng công việc có thể quan
sát được theo năng lực thực hiện. Các tiêu chí này phải được xây dựng trên kết quả đạt
được chuẩn đầu ra; Các phiếu đánh giá phải được thiết kế trình bày đơn giản và khoa
học, phải đánh giá được mức độ hoàn thành và mức độ năng lực của mỗi sinh viên sau
khi học xong. Các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá phải được công bố trước khi thực hiện
để sinh viên định hướng cùng với mục tiêu bài học.
Để rèn năng lực nghề nghiệp, sinh viên cần có sự nỗ lực học nghề, giảng viên
phối hợp tích cực rèn nghề cho sinh viên, cùng với sự phối hợp của các cơ sở giáo dục
Mầm non, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về khả năng làm việc ngày càng cao
của xã hội đối với GVMN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Lam Hồng (2009), Giáo trình nghề giáo viên mầm non, NXB Giáo dục.
2. Trịnh Xuân Thu (2011),"Thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ngành SPKT và
giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo".
3. Trần Thị Thanh Hồng, Điêu Thị Tú Uyên (3/2015), Biện pháp nâng cao chất lượng
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, trường Đại học Tây Bắc.
4. Nguồn http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-trinh/nang-cao-nang-luc-
nghe-cua-giao-vien-mam-non-193.html.
Trang 122
ĐỊA DANH TRONG THƠ LÍ BẠCH
V Huyền Phương*
1. Đặt vấn đề
Địa danh không chỉ là tên gọi của một vùng đất, một ngọn núi hay con sông mà
đằng sau mỗi tên gọi ấy là cả một tầng sâu văn hóa. Có lẽ vì thế mà trong thơ Đường,
một loại thơ có tính hàm súc, cô đọng cao, thì địa danh địa danh xuất hiện thường
xuyên như một mã văn hóa, các nhà thơ sử dụng nó như một phương tiện để gửi gắm
cảm xúc, tâm tình. Và từ một tên núi, tên sông, người đọc phải suy ngẫm, liên tưởng,
giải nghĩa để có thể thấy được tình ý sâu xa đó. Một trong số những nhà thơ đời
Đường sử dụng địa danh nhiều và thành công nhất là Lí Bạch. ng sử dụng địa danh
với tần số dầy đặc và đạt hiệu quả thẩm mĩ cao. Khám phá ý nghĩa của mỗi địa danh
trong thơ ông, người đọc không chỉ thấy một không gian nghệ thuật bay bổng, khoáng
đạt mà còn thấy được một tâm hồn lãng mạn, tự do đầy cá tính.
2. Nội dung
2.1. Lí do xuất hiện của địa danh trong thơ Lí Bạch
Theo nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa thì địa danh là từ ngữ được dùng làm tên
riêng của các địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng thiên về không gian hai
chiều, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ. Như vậy địa danh được hiểu rất rộng,
không chỉ là tên của một vùng đất mà còn là tên của sông, núi, tên làng mạc, tên địa
phương, tên của những công trình văn hóa... Đất nước Trung Quốc rộng lớn, biết bao
nhiêu cảnh đẹp nên thơ, mỗi vùng đất lại có biết bao nhiêu huyền tích cho nên nó đi
vào thơ như một điều tất yếu. Với một cảm hứng vũ trụ, các nhà thơ đời Đường luôn ý
thức về sự hiện hữu của không gian,“luôn có ý thức đóng con dấu của mình vào không
gian” nên thơ xuất hiện nhiều địa danh cũng là điều dễ hiểu. Riêng với Lí Bạch, không
phải tự nhiên mà thơ Lí Bạch lại xuất hiện nhiều địa danh.
Lí Bạch là nhà thơ vĩ đại đời Đường, một thanh kiếm, một bầu rượu, một túi thơ, Lí
Bạch rong ruổi khắp các nẻo đường. Cái tráng khí hải hồ ấy đã đưa ông đi qua biết bao
nhiêu địa danh. Với một tình yêu tha thiết với thiên nhiên, đất nước, con người, với
một cảm hứng lãng mạn dạt dào, ông đã đưa biết bao nhiêu địa danh vào thơ với một
tần suất dày đặc. Điều đó đã tạo nên một điều độc đáo cho thơ Lí Bạch. Địa danh đã in
dấu trong thơ ông hay ông đã đóng dấu vào không gian của địa danh đó.
Địa danh xuất hiện trong hầu hết các bài thơ của Lí Bạch, trong cả bài thơ và tiêu đề
của bài thơ. Địa danh xuất hiện là tên sông, núi, tên vùng đất đẹp và gắn liền với lịch
sử, tên những thắng cảnh nổi tiếng, bên cạnh địa danh có thực thì có cả tên các địa
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 123
danh trong huyền thoại, trong điển cố điển tích có tính ước lệ cao. Dù hình thức xuất
hiện khác nhau nhưng đều mang ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc.
2.2. Ý nghĩa thẩm mĩ của địa danh trong thơ Lí Bạch
2.2.1. Góp phần tạo nên không gian nghệ thuật độc đáo
Sự xuất hiện của những địa danh đã tạo nên một không gian nghệ thuật độc đáo.
Đó là không gian vũ trụ rộng lớn, trường tồn. Bản thân mỗi tên hững ngọn núi cao,
những con sông dài đã gợi lên không gian rộng lớn mênh mông bát ngát. Không gian
vũ trụ vốn phổ biến trong thơ Đường, người xưa tìm đến không gian vũ trụ để hòa
nhập với vô cùng vô tận của thiên nhiên cũng là để cảm nhận nỗi cô đơn lạc lõng, và
cũng để kí thác lòng mình vào sự vĩnh hằng của trời đất. Có lẽ vì thế mà họ thường
đăng cao, tìm đến những không gian cao, rộng, kì vĩ để trải lòng mình. Tên những
dòng sông lớn nhất những ngọn núi nổi tiếng nhất của Trung Quốc đều xuất hiện trong
thơ Lí Bạch như Trường Giang, Hoàng Hà, núi Hoàng Hạc, núi Tung Sơn, Kinh Môn,
Kính Đình,... Nhắc đến cái tên Hoàng Hà là đã thấy cái mênh mông, bát ngát không bờ
bến, dòng sông chảy vào cõi trời vô tận. Nếu dòng sông gợi lên dài rộng thì ngọn núi
gợi lên độ xa cao vời vợi, không gian như được mở ra theo nhiều chiều kích, phóng
khoáng bay bổng tráng lệ, nó thống nhất với tính cách hào sảng, tự do của thi nhân.
Bên cạnh không gian vũ trụ, sự xuất hiện của hàng loạt địa danh còn mang đến một
không gian của cái đẹp. Tên của những thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc vừa nhắc
đến đã thấy cái đẹp hiện hữu: thác núi Lư, Phượng Hoàng đài, núi Nga Mi, hồ Động
Đình, núi thiên Mụ, lầu Hoàng Hạc, bãi Anh Vũ... Thậm chí có những cản đẹp được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần như hồ Động Đình, Hoàng Hạc lâu, Cô Tô đài... Đọc bài thơ
nào cũng thấy cảnh đẹp núi non sông nước, bài thơ nào cũng có tên những vùng đất
nổi tiếng. Đây đều là những cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, vừa khoáng
đạt, vừa diễm lệ, nhắc đến cái tên là đã gợi ra cả một không gian của cái đẹp. Đất nước
Trung Quốc rộng lớn, nhiều cảnh đẹp khiến cho người lữ khách phiêu lãng không thể
không say sưa ngây ngất, mỗi bước ngao du đều đầy tràn cảm hứng. Không chỉ có Lí
Bạch, hầu hết các nhà thơ đời Đường đều tha thiết với cảnh đẹp thiên nhiên. Họ yêu
cái đẹp và quan niệm có bốn cái đẹp luôn thống nhất với nhau đó là “giai thì, mĩ cảnh,
thắng sự, lương bằng”. Tên những địa danh trên đều là những nới mà Lí Bạch đã từng
đặt chân đến trong cuộc đời hiệp khách của mình. Đưa những địa danh vào thơ là một
cách thể hiện tình yêu với thiên nhiên đất nước, niềm hứng khởi với giang sơn gấm
vóc của con người đời Đường, và hơn cả là niềm khao khát vươn tới cái đẹp vĩnh cửu.
Địa danh được nhắc đến trong thơ Lí Bạch còn có nhiều tên những thành phố, địa phận
như Trường An, Kim Lăng, Giang Lăng, Hàm Dương, Tương Dương, Lạc Dương,...
Đó đều là những thành phố là nơi phồn hoa đô hội bậc nhất đời Đường, nơi thành thị
đông đúc bon chen, hoặc là những nơi ghi dấu ấn của lịch sử, văn hóa. Nó vẫn đẹp,
nhưng cái đẹp của một không gian đời thường. Nổi bật nhất đấy là 17 bài thơ Thu Phố
Trang 124
ca viết về vẻ đẹp của Thu Phố, một vùng đất nằm ở tỉnh An Huy, nổi tiếng với nghề
làm đồng, bạc. Tên Thu Phố gắn liền với cái đẹp của cuộc sống sinh hoạt ấm áp, bình
dị, với con người lao động khỏe khoắn, gần gũi.
2.2.2. Góp phần thể hiện tư tưởng và cảm xúc:
Qua những địa danh, Lí Bạch còn gửi gắm khát vọng vươn đến những điều cao
cả. Những ngọn núi cao, sông lớn không chỉ là cảnh đẹp mà nó là biểu tượng cho
những khát vọng, lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, nó được dùng như để đo tầm vóc của con
người. Cái kì vĩ dữ dội và hoành tráng của dòng sông là chí lớn ngút trời, cái sôi sục
cuồn cuộn của dòng nước là nhiệt huyết tràn đầy của người quân tử.
Sông Hoàng chảy vỡ núi Côn Lôn
Thét gào muôn dặm húc Long Môn
(Công vô độ hà)
Nếu dòng sông lớn là biểu tượng cho chí lớn của người quân tử thì ngọn núi cao
biểu tượng cho sự cao cả đối lập với những cái thấp hèn, nhỏ mọn của cuộc đời. Lí
Bạch nhắc đến núi Kính Đình, Ngũ Nhạc, Thiên Mụ, Thái Bạch đều gắn liền với cõi
thần tiên, thoát tục. Bản thân Lí Bạch là một người đầy hăm hở trên con đường công
danh, nhưng ông không đạt được mục đích của mình, lại phải chứng kiến một nền
chính trị đen tối, triều đình thối nát. Với tính cách phóng khoáng, tự do, ông không
chấp nhận cuộc sống nhàn chán, gò bó, không chấp nhận được sự tầm thường, giả dối.
Và đằng sau hình ảnh của ngọn núi kia là tâm hồn cao khiết, là khát vọng vươn đến
những điều cao cả. Hơn nữa, Lí Bạch lại có tư tưởng du hiệp, nên những ngọn núi kia
còn gợi lại giấc mộng hiệp khách.
Nhắc đến địa danh, Lí Bạch muốn gửi gắm bầu tâm sự kín đáo, có khi có khi là
niềm u hoài của kẻ sĩ khi mộng công danh không thành, có khi là niềm cảm khái trước
lịch sử, có khi là nỗi buồn li biệt. Mỗi tên sông núi, đền đài đều gắn với con người, câu
chuyện cụ thể, nó mang tính ước lệ cao. Nhắc đến tên địa danh là nhắc đến người xưa,
chuyện cũ, gợi lên bao nỗi ngậm ngùi. Sông Dĩnh, núi Thú Dương nhắc đến Sào Phủ,
Bá Di, Thúc Tề, những con người sống ẩn dật, đoạn tuyệt với công danh. Sông Ngô là
nơi Ngũ Tử Tư bị ném xác xuống, sông Tương là nơi Khuất Nguyên gieo mình tự vẫn.
Có tai đừng rửa nước Dĩnh Xuyên
Có miệng đừng ăn rau Thú Dương
... Tử Tư xác ném sông Ngô ấy
Khuất Nguyên gieo mình trên sông Tương
(Hành lộ nan)
Khác với những người ở trên, Khuất Nguyên và Ngũ Tử Tư dấn thân vào con
đường công danh, mang hết nhiệt huyết ra phò vua, giúp đời, nhưng cuối cùng phải
chịu số phận đau thương. Những địa danh được nói đến đều gắn liền với cái kết bi
thảm của họ. Như vậy, đằng sau địa danh là nhiều câu chuyện về lẽ xuất xử của kẻ sĩ,
Trang 125
là sự băn khoăn, trăn trở, mâu thuẫn của nhà thơ trên con đường tìm kiếm công danh:
sống cuộc đời ẩn dật trên núi cao hay dấn thân và con đường chính trị.
Lí Bạch còn sử dụng nhiều địa danh để gợi lên niềm cảm khái trước quá khứ. Địa
danh xuất hiện trong những bài này là địa danh lịch sử, nó gắn liền với một gian đoạn,
một con người cụ thể của lịch sử, và bao giờ cũng mang đến cảm xúc buồn thương, tiếc
nhớ. Rất nhiều bài thơ của Lí Bạch nhắc đến Kim Lăng (Đăng Kim Lăng phượng hoàng
đài, Thị Kim Lăng tử, Kim Lăng...). Đất này vốn là đế đô của sáu triều đại thời Lục
Triều, phồn hoa sung túc, thế mà bây giờ chỉ còn là đống hoang tàn đổ nát. Hay Trường
An là kinh đô vào đời Đường, nhưng khi triều Đường suy vi thì nhắc đến Trường An
như là nhắc đến một biểu tượng của cái đẹp rơi vào dĩ vãng. Các bài Đối tửu, Tô đài lãm
cổ cũng có cảm xúc tương tự, đài Cô Tô xưa cảnh đẹp nổi tiếng gắn liền với vua Phù Sai
và Tây Thi, thế mà giờ thành quách chỉ còn là đài hoang phủ bụi thời gian. Nước Ngô
hùng mạnh một thuở, người anh hùng và mĩ nhân một thuở đâu rồi. Cảnh còn mà người
đã lùi vào quá vãng để lại niềm bâng khuâng, tiếc nuối cho thi nhân. Thi nhân xưa hay
hoài cổ, đưa vào thơ nhiều địa danh lịch sử, điều đó cho thấy nỗi ưu tư về thế sự, tiếc
nuối cái đẹp quá khứ và cảm giác trống trải ở hiện tại.
Lí Bạch đi nhiều, gặp gỡ nhiều, và chia li cũng nhiều. Mỗi cuộc chia li như thế
đều để niềm xúc động sâu sắc, niềm lưu luyến thiết tha. Trong những bài này thuộc đề
tài này, địa danh được nhắc đến ngay ở tiêu đề như Tống khách quy Ngô, Tống
Trương Xá Nhân chi Giang Đông, Kim Lăng tửu tứ lưu biệt, Tống Bùi Thập Bát đồ
nam quy Tung Sơn... Địa danh cụ thể là nơi đến và nơi đưa tiễn, nhất là tên của các
dòng sông. Dòng sông là nơi đưa tiễn nhau, dòng sông gợi lên sự chảy trôi của thời
gian và sự cách trở về không gian. Sông Tương được nhắc trong bài Viễn biệt li, Bạch
vân ca tống Lưu Thập Lục hoàn sơn, sông Bá trong bài Bá Lăng hành tống biệt, sông
Trường Giang trong Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. Trong số
đó hay nhất là Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. Ngay tiêu đề bài
thơ đã xuất hiện hai địa danh vô cùng nổi tiếng là Hoàng Hạc Lâu và Quảng Lăng.
Nhắc đến Hoàng Hạc lâu là nhắc đến truyền thuyết Phí Văn Vi cưỡi hạc vàng bay về
cõi tiên, không bao giờ quay trở lại, chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc như một chứng tích
cho sự ra đi vĩnh viễn, cho cái đẹp đã mãi mãi mất đi. Vì thế Hoàng Hạc xuất hiện
nhiều lần trong thơ Đường, nó không chỉ gợi lên không gian cổ tích, huyền thoại,
không gian của cái đẹp trong quá khứ mà nó còn gợi lên nỗi ngậm ngùi tiếc nuối. Còn
nơi đến là Dương Châu (Quảng Lăng), nơi phồn hoa đô hội bậc nhất thời thịnh Đường,
ẩn sau đó là nỗi lo âu dành cho người bạn tri kỉ của mình đang ở cõi tiên thênh thang
tự tại lại bước xuống cuộc sống đời thường bon chen chật hẹp. Và dòng Trường Giang
mênh mông rộng lớn, vô thủy vô chung không chỉ gợi lên sự chia li cách biệt vời vợi,
mà còn gợi lên một dòng sông của tâm trạng miên man thương nhớ. Chỉ một cái tên
Trang 126
thôi nhưng lại gợi được biết bao nhiêu cảm xúc của người đưa tiễn. Lí Bạch không vô
tình đưa hai địa danh vào thơ, mà đó là một cách bày tỏ cảm xúc kín đáo, sâu sắc.
2.2.3. Góp phần kiến tạo ngôn ngữ
Địa danh chính là danh từ riêng, góp phần làm cho hệ thống từ vựng trong thơ Lí
Bạch thêm đặc sắc. Trước hết, địa danh xuất hiện nhiều khiến ngôn ngữ thơ Lí Bạch trang
nhã, tinh tế. Tên núi, tên sông không chỉ là cái tên để gọi mà đó còn là nơi để gửi gắm
những ước mơ, khát vọng và cả niềm tự hào của con người với vùng đất mà mình sinh
sống. Cho nên những cái tên ấy được đưa vào thơ bao giờ cũng rất đẹp, rất trang trọng.
Địa danh được sử dụng nhiều còn khiến cho ngôn ngữ thơ Lí Bạch mang tính
khái quát cao, hàm súc và cô đọng, phù hợp với đặc trưng của ngôn ngữ thơ Đường.
Đằng sau mỗi địa danh là hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa và các mối quan hệ. Chỉ cần
nhắc đến địa danh đó là đã có thể khơi gợi những liên tưởng, những tưởng tượng và
đánh thức cảm xúc của người đọc. Lớp từ chỉ địa danh này có tính tượng trưng cao,
được sử dụng phổ biến trong thơ Đường, ví dụ như như Tiêu Tương, Thiên San, Thái
Sơn, Thái Hàng, Bồng Lai,... Tiêu Tương là tên dòng sông, là con đường thủy lên bắc
về nam, thường diễn ra cảnh li biệt, nó gắn liền với điển tích về hai bà phi của vua
Thuấn gieo mình xuống sông sau khi vua qua đời. Chỉ cần nhắc đến tên Tiêu Tương là
đã gợi ra sự chia li cách trở, gợi lên nỗi nhớ nhung buồn bã. Có lẽ vì thế mà tên của
dòng sông này xuất hiện trong thơ của nhiều nhà thơ đời Đường. Hoặc địa danh Thiên
San, một ngọn núi sát biên giới Nội Mông, tượng trưng cho miền biên ải xa xôi. Khi
nhắc đến Thiên San, người đọc hình dung ra một nơi chiến địa mịt mờ, dự cảm lo âu
về chiến tranh chia lìa.
Vầng trăng ra núi Thiên San
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi
(Trăng nơi quan san)
Nhưng trong thơ Lí Bạch không chỉ có những địa danh mang tính tượng trưng
cao mà còn có rất nhiều địa danh mang tính hiện thực. Cho nên sự xuất hiện của những
địa danh còn làm cho ngôn ngữ thơ Lí Bạch sinh động, trong sáng và rất tự nhiên. Lí
Bạch đi nhiều nơi, mỗi bài thơ đều ghi lại những cảm xúc của ông về những nơi ông đi
qua, những gì ông chứng kiến, bởi vậy địa danh đi vào thơ một cách chân thực. Sự
chân thực, sự sinh động của hiện thực cuộc sống đã làm nên cái tự nhiên đó.
Thu Nga Mi, trăng nửa vầng,
Bóng in sông nước Bình Khương sóng duềnh
Thanh Khê – Tam Hiệp một đêm
Nhớ anh sao chẳng xuống miền Du Châu
(Bài ca trăng núi Nga Mi)
Những địa danh hiện lên rất thơ mộng và cũng rất thật. Núi Nga Mi, sông Bình
Khương đều là cảnh thiên nhiên tươi đẹp của cuộc sống hiện thực, nó không tượng
Trang 127
trưng ẩn dụ cho một điều gì, nó cũng không gắn với một điển tích hay điển cố nào.
Đơn giản ở đây là một cảnh đẹp mà nhà thơ say đắm. Sự chân thực, tự nhiên trong
ngôn ngữ cũng thể hiện phong cách thơ Lí Bạch, một hồn thơ tự do, bay bổng, lãng
mạn, không chấp nhận sự trói buộc nào. Có thể nói, việc sử dụng địa danh trong thơ
làm cho ngôn ngữ thơ Lí Bạch vừa trong sáng, bình dị lại vừa tinh tế, gợi cảm, vừa
chân thực, gần gũi lại vừa diễm lệ, bay bổng.
3. Kết luận
Qua tìm hiểu địa danh ta thấy Lí Bạch là một hồn thơ phóng khoáng, yêu cái
đẹp, dạt dào cảm xúc, một trong những hồn thơ lãng mạn bậc nhất thời thịnh Đường.
Địa danh chiếm một số lượng lớn và vị trí quan trọng trong thơ Lí Bạch, nó không đơn
giản chỉ là tên gọi mà còn văn hóa, tâm hồn, là tư tưởng tình cảm của con người được
gửi gắm vào đó. Có thể thấy việc sử dụng địa danh cũng là một trong đặc điểm ngôn
ngữ thơ Lí Bạch. Tìm hiểu địa danh là một cách chúng ta tìm hiểu tâm hồn, tính cách
và nghệ thuật thơ ông từ góc độ ngôn ngữ và văn hóa, từ đó giúp người đọc có thêm
công cụ để tiếp nhận thơ Lí Bạch nói riêng và thơ Đường nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hoá.
2. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Bình giảng thơ Đường, NXB giáo dục
3. Trần Ngọc Hưởng (2004), Thơ Đường trong nhà trường, NXB Đồng Nai.
4. Nguyễn Khắc Phi (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, Tập I, NXB Giáo dục.
5. Ngô Văn Phú (dịch) (2008), Đường thi tam bách thủ, NXB Văn học.
Trang 128
DẠY CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM CÁCH HỌC
Than Ái Lan*
1. Đặt vấn đề
Qua thực tế giảng dạy trong những năm qua tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà
Lạt, tôi nhận thấy không phải sinh viên nào cũng biết cách học, nhiều sinh viên chưa
tìm được phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân. Trong bối
cảnh tri thức khoa học cũng như thực tiễn cuộc sống thay đổi nhanh chóng thì việc dạy
cho sinh viên cách học ngày càng cấp thiết. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin trình
bày một số ý kiến chủ quan của mình xoay quanh chủ đề “Dạy cho sinh viên cách học”
để trên cơ sở đó việc tự học đạt hiệu quả hơn.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cách học
Cách học là cách tác động của chủ thể đến đối tượng học, hay là cách thực hiện
hoạt động học. Theo tiếp cận quá trình thông tin thì “học” là quá trình thu nhận, ghi
nhớ, tích lũy, liên kết, xử lý thông tin giải quyết vấn đề. Như vậy, cách học là cách
thực hiện quá trình đó. Cách học được hiểu không chỉ như là một phương pháp học mà
còn như một chiến lược học với một tập hợp các thủ thuật nhận thức hay trí tuệ được
cá nhân sử dụng trong một tình huống học tập cụ thể nhằm đạt mục đích cho sự học
tập, nghiên cứu. Trong đó, người học cần phát huy mọi năng lực nhận thức (cảm giác,
tri giác, nhớ, tư duy …) để lĩnh hội kiến thức. Đối tượng học, nội dung học không
giống nhau, đa dạng, phức tạp. Vì vậy, không thể chỉ có một cách học duy nhất. Nhận
thức là quá trình vận động của chủ thể nhận thức tương thích với logic vận động của
sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, mỗi cách học phù hợp với mỗi đối tượng nhận
thức, mỗi mục đích nhận thức.
2.2. Một số cách học cơ bản
Có nhiều cách phân loại về cách học:
- Nếu phân loại theo hình thức tổ chức học tập thì có: cách học trên lớp (giảng
đường), cách học theo nhóm, cách học ở nhà của cá nhân…
- Nếu phân loại theo nhiệm vụ, mục tiêu học tập thì có các cách học sau:
+ Cách học nhằm tích lũy thông tin.
+ Cách học nhằm thông hiểu thông tin.
+ Cách học nhằm xác nhận sự học: Là cách học hướng vào việc đáp ứng những
yêu cầu về đánh giá từ giảng viên hay từ bản thân người học đặt ra để tự xác nhận kết
quả học tập của mình.
* Giảng viên Khoa Tự nhiên
Trang 129
+ Cách học nhằm quản lý cá nhân: Là cách học giúp sinh viên quản lý việc học
tập của mình như: thời gian dành cho học, xây dựng môi trường học tập phù hợp …
- Nếu phân loại theo hoạt động học thì có ba cách học cơ bản:
+ Cách học cá nhân (hay là cách tự nghiên cứu).
+ Cách học thầy, học bạn (hay lá cách học hợp tác.
+ Cách học từ thông tin phản hồi (hay là cách tự kiểm tra, tự điều chỉnh).
- Phân loại các nhóm cách học theo các mục tiêu học (theo thang Bloom chẳng
hạn) ta có:
+ Cách học để biết – hiểu.
+ Cách học phân tích, tổng hợp.
+ Cách học vận dụng.
- Cách học theo mô hình lý thuyết thông tin:
+ Cách thu nhận thông tin.
+ Cách ghi nhớ, lưu trữ thông tin.
+ Cách xử lý thông tin.
+ Cách vận dụng thông tin để xử lý vấn đề.
+ Cách diễn đạt tri thức thu được từ xử lý thông tin.
- Phân loại theo cách học tiến tới sáng tạo:
+ Học bằng giải quyết vấn đề.
+ Học theo dự án.
+ Học theo nghiên cứu đề tài khoa học.
+ Học khám phá". (Tài liệu Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
giảng viên chính hạng II, 2017, trang 356 – 359).
2.3. Các cấp độ tư duy cần đạt sau quá trình học tập từng bài, chương, cả chương
trình theo thang 6 cấp độ tư duy của Lorin Anderson (Thang Bloom tu chính)
Trang 130
Trong lĩnh vực giáo dục, thang cấp độ tư duy có thể được xem là một công cụ
nền tảng để từ đó xây dựng và sắp xếp các mục tiêu giáo dục, xây dựng các chương
trình, qui trình giáo dục và đào tạo, xây dựng và hệ thống hóa các câu hỏi, bài tập dùng
để kiểm tra, đánh giá quá trình học tập.
Nhớ (Remembering): Có thể nhắc lại các thông tin đã được tiếp nhận trước đó.
Để đánh giá mức độ nhớ của sinh viên, khi đặt câu hỏi kiểm tra, giáo viên có thể dùng
những động từ: nhắc lại, mô tả, liệt kê, gọi tên …
Hiểu (Understanding): Nắm được ý nghĩa của thông tin, thể hiện qua khả năng diễn
giải, suy diễn, liên hệ, khái quát. Để hiểu rõ ta cần suy ngẫm, đọc thêm sách tham
khảo, thực hành qua bài tập… Tránh tuyệt đối “Học vẹt”, tức là học nhưng không hiểu
gì cả. Có hiểu mới nhớ lâu, sử dụng và vận dụng kiến thức tốt. Với mục đích đánh giá
xem sinh viên hiểu bài đến đâu, giáo viên có thể dùng các động từ sau trong câu hỏi
kiểm tra: giải thích, tóm tắt, phân biệt, mở rộng, khái quát, cho ví dụ, nhận định, so
sánh, sắp xếp …
Vận dụng (Applying): Áp dụng thông tin đã biết vào một tình huống, điều kiện
mới. Để đánh giá khả năng vận dụng của sinh viên, giáo viên có thể sử dụng những
động từ sau: vận dụng, áp dụng, tính toán, chứng minh, giải thích, lập kế hoạch …
Phân tích (Analyzing): Chia thông tin thành những phần nhỏ và chỉ ra mối liên hệ của
chúng tới tổng thể. Muốn đánh giá khả năng phân tích của sinh viên, khi đặt câu hỏi
kiểm tra, giáo viên có thể sử dụng các động từ: phân tích, lý giải, so sánh, phân biệt,
minh họa, hệ thống hóa …
Đánh giá (Evaluating): Đưa ra nhận định, phán quyết của bản thân đối với
thông tin dựa trên các chuẩn mực, tiêu chí đã có. Những động từ sử dụng trong câu hỏi
kiểm tra ở mức độ đánh giá là: đánh giá, cho ý kiến, bình luận, tổng hợp…
Sáng tạo (Creating): Xác lập thông tin, sự vật mới trên cơ sở những thông tin, sự vật
đã có. Các động từ có thể dùng cho câu hỏi kiểm tra với mục đích đánh giá khả năng
sáng tạo của sinh viên: thiết lập, tổng hợp, xây dựng, thiết kết, sáng tác, đề xuất…
2.4. Dạy cho sinh viên cách học
Để học tập tốt, có hiệu quả, thực tế cho thấy ta không thể chỉ trông cậy vào trí
nhớ mà phải biết cách học. Xin lấy một ví dụ cụ thể minh họa: Cách học đọc hiểu báo
tiếng Anh trong thời gian ngắn nhất (cần có trình độ căn bản về tiếng Anh).
Giải pháp: Mua dài hạn báo tiếng Anh trong 3 - 6 tháng (hoặc đọc báo trên mạng
Internet hàng ngày).
- Trong 10 ngày đầu tiên (mỗi ngày một tờ báo) chỉ chuyên đọc một mục về
một chủ đề, chẳng hạn chủ đề “Ngoại giao”: tra từ - tập phát âm, ghi chú, nghiên cứu
về cấu trúc ngữ pháp (từ loại, thì …), tập dịch từ sát nghĩa đến dịch thoát để hiểu ý.
Sau 10 ngày vào sổ “Từ điển cá nhân” các từ trong chủ đề ngoại giao. Việc vào sổ này
là hết sức cần thiết để ôn tập, hệ thống hóa từ vựng.
Trang 131
- Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20: Đọc tiếp chuyên đề “Ngoại giao” (khi này hầu
như không phải tra từ vì trong 10 ngày qua, ngày nào cũng “gặp” các từ trong chủ đề
này nên đọc hiểu khá nhanh). Đọc thêm chủ đề mới, chẳng hạn “Kinh tế” với các việc
làm như trên. Đến lúc này này việc phân tích ngữ pháp đỡ vất vả hơn 10 ngày trước. Sau
10 ngày lại vào sổ “Từ điển cá nhân” về các từ trong chủ đề ngoại giao, kinh tế.
- Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30… thực hiện tương tự như trên.
Cứ tiếp tục như thế sau 90 ngày ta có thể đọc hiểu nhanh được 9 chủ đề (ít khi phải
tra từ), hiểu rõ dần dần cấu trúc ngữ pháp. Nếu tiếp tục như thế thêm 3 tháng nữa, ta sẽ
đọc được 18 chủ đề. Với số chủ đề như vậy hầu như đã bao trùm nội dung một tờ báo.
Học tập với cách như trên sở dĩ có hiệu quả vì chính là ta đã áp dụng nguyên tắc, quy
luật ghi nhớ: Học – n – Luyện thường xuyên hàng ngày, chưa kịp quên đã gặp lại vả
lại học như vậy cũng bớt nhàm chán vì ta được biết thêm tin tức hàng ngày và tin tức
thay mới hàng ngày.
Đối với sinh viên trường cao đẳng sư phạm, là Nhà giáo tương lai các em không
chỉ học cho bản thân mình hôm nay mà còn dạy cách học cho học sinh trong tương lai.
Những kinh nghiệm và hiểu biết sâu rộng của các em về cách học là rất cần thiết.
2.4.1. Về thái độ học tập
- Tập trung chú ý trên lớp (hoặc tự học ở nhà) để nắm được chắc tất cả những gì
được học trên lớp (về nhà không mất công sức, thời gian suy nghĩ, học lại).
+ Khi bắt đầu bài học hãy cố gắng gạt bỏ ra khỏi đầu mọi vấn đề khác không
liên quan.
+ Hãy nhìn, hãy nghe và cố gắng “nhìn thấy lại”, làm hiện ra trở lại trong đầu
(tái hiện) những gì vừa thấy, vừa nghe. Trình bày lại trong đầu. Cố gắng tự giải thích
cho chính mình từng chi tiết.
- Ghi chép: Ghi những ý quan trọng qua đó giúp nhớ tốt hơn.
- Hỏi ngay những gì mình chưa rõ hoặc đọc sách tham khảo về nội dung liên
quan để hiểu chính xác, sâu, rộng hơn.
- Suy nghĩ, tham gia tích cực trong các hoạt động học tập trên lớp: phát biểu ý
kiến, trả lời câu hỏi, làm bài tập thực hành, thảo luận qua đó củng cố, khắc sâu, tăng
khả năng ghi nhớ.
- “Học” luôn phải đi đôi với “Hành” qua đó giúp nhớ lâu, nhớ sâu kiến thức;
tìm được nhanh kiến thức liên quan để vận dụng vào tình huống, vấn đề, bài toán mới;
nảy sinh ý tưởng mới, từng bước phát triển khả năng sáng tạo ...
- Lập kế hoạch học tập và kế hoạch sử dụng thời gian –Tuân thủ kế hoạch đã đặt ra.
2.4.2. Một số thủ thuật về cách học
* Để học dễ nhớ (dễ thuộc):
- Áp dụng nguyên tắc “chia nhỏ” một đoạn (một bài) sau đó nối lại thành đoạn
(một bài), bằng cách:
Trang 132
+ Gạch chân (bằng bút màu) những từ, câu, đoạn quan trọng, xác định mối liên
hệ giữa các đoạn.
+ Tóm tắt ý chính từng đoạn. Cần phân tích để nắm chắc ý chính, ý phụ của
từng định nghĩa, quy tắc, công thức, đoạn văn bản …
+ Kết hợp đọc với ghi chép (quy tắc, công thức, tóm tắt …).
+ Soạn bài học (chương, chương trình học) thành dạng sơ đồ: sơ đồ đoạn thẳng
(đoạn cong), sơ đồ mũi tên (thẳng, cong), sơ đồ tư duy. Qua đó giúp ta có cái nhìn
tổng hợp, thấy được mối dây liên hệ giữa các đơn vị kiến thức, dễ nhớ. Nếu chèn thêm
vào đó những ý tưởng mới, kiến thức mới ... (qua các bài tập, sách tham khảo) thì càng
tốt. Việc làm này hỗ trợ rất tốt cho giai đoạn ôn tập.
- Áp dụng nguyên tắc “vết dầu loang”: Mở rộng kiến thức dần từ kiến thức cơ bản.
Ví dụ:
- Khi học ngoại ngữ cần nắm chắc mẫu câu thay từ mở rộng …
- Từ định lý hàm số cosin trong tam giác suy ra: a2 = b
2 + c
2 Â = 90
0 (định lý
Py - ta - go chỉ là một trường hợp đặc biệt); a2 < b
2 + c
2 Â < 90
0; a
2 > b
2 + c
2 Â
> 900;
2 2 2
2 4a
b c am
…
- Nhìn một sự vật, khái niệm dưới nhiều góc cạnh khác nhau.
* Cách học một định nghĩa: Một định nghĩa bao gồm hai thành phần:
- Khái niệm (đối tượng) A cần định nghĩa (được biểu thị bằng một thuật ngữ).
- Khái niệm (đối tượng) B (kèm theo dấu hiệu, điều kiện) được dùng để định
nghĩa (biểu thị bằng một thuật ngữ).
Khi học một định nghĩa ta phân tích định nghĩa gồm bao nhiêu khái niệm (đối
tượng) rồi liên kết chúng lại.
* Cách học một định lý (hệ quả): Một định lý bao giờ cũng chia thành hai phần:
- Phần thứ nhất chứa đựng những thông tin có sẵn (về một đối tượng nào đó)
gọi là giả thiết (trước giả thiết thường là từ “Nếu” (hoặc hiểu ngầm)).
- Phần thứ hai được suy ra từ những thông tin có sẵn gọi là kết luận (trước kết
luận thường là từ “thì” (hoặc hiểu ngầm)).
Khi học một định lý ta cần phân tích giả thiết và kết luận. Cụ thể cần trả lời 4
câu hỏi sau: Định lý này nói về khái niệm, đối tượng gì? Khái niệm này có thêm dấu
hiệu, điều kiện gì? Suy ra được kết luận gì? Phạm vi ứng dụng của định lý?
* Cách học các công thức: Công thức là nhóm các ký hiệu được dùng để biểu
thị một định lý, định luật, quy tắc… Mỗi ký hiệu biểu thị một khái niệm, một đại
lượng, một phép toán (+ , - , x ,: , lũy thừa …), mối quan hệ (>, <, = …). Do đó khi
học một công thức cần hiểu:
- Mỗi ký hiệu biểu thị một khái niệm, một đại lượng, một phép toán (+ , - , x ,: ,
lũy thừa …) nào ?
Trang 133
- Xác định mối liên hệ giữa các ký hiệu.
- Chú ý một số dấu hiệu đặc biệt: tính đối xứng …
* Cách học các quy tắc (phép tắc, lề lối làm việc):
Trong mỗi qui tắc thường xác định trình tự giải quyết một vấn đề, một dạng
toán. Do đó khi học ta cần xác định từng bước thực hiện: Bước 1, bước 2, bước 3 ...
* Cách giải một bài toán: Kiến thức về bộ môn toán nói chung được xây dựng
theo một hệ thống chặt chẽ từ hệ thống Tiên đề đến Định nghĩa các Khái niệm, Định lý
và hệ quả của nó (nếu có) thông qua các suy luận logic.
Về vấn đề giải toán: Đối với những bài toán thông thường, bài toán luyện tập
sau một bài học, học sinh chỉ cần vận dụng một vài khái niệm, định lý, hệ quả vừa
được học để giải. Đối với những bài toán tổng hợp (khó), để xác định hướng giải, để
giải được bài toán, học sinh cần nắm được không chỉ hệ thống kiến thức lý thuyết mà
còn cần vận dụng cả một số bài toán (liên quan), sử dụng chúng như những “Bổ đề”,
đọc được hết những thông tin “tiềm ẩn” trong giả thiết để nắm đầy đủ cái ta có, cái ta
chưa có, tìm dấu hiệu tương tự với bài toán đã biết, tìm những khái niệm, định lý có
thể sử dụng để giải …
* Cách học bằng sơ đồ tư duy (sử dụng phần mềm iMindMap): Sơ đồ tư duy
(SĐTD) hay còn gọi lược đồ tư duy, bản đồ tư duy là phương pháp dạy học chú trọng
đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức... bằng cách kết hợp việc sử
dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt,
đây là một dạng sơ đồ mở không yêu cầu tỷ lệ chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lý, học
sinh có thể tự ý vẽ thêm hoặc bớt đi các nhánh. Mỗi em có thể sáng tạo một kiểu khác
nhau thông qua những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau.
Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi cá nhân, các nhóm có thể thể hiện nó dưới dạng SĐTD
theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập SĐTD phát huy tối đa khả năng sáng tạo của
mỗi người. Giáo viên, sinh viên có thể sử dụng SĐTD trong các trường hợp sau:
- Sử dụng SĐTD trong quá trình dạy bài mới: hình thành kiến thức mới (theo
mạch kiến thức); hệ thống hóa kiến thức, củng cố kiến thức sau mỗi phần, cả bài học.
Ví dụ: Sau khi học sinh nhắc lại kiến thức do giáo viên yêu cầu, các em sẽ tự tạo lập
một SĐTD cho mình hoặc cùng với nhóm chung để thiết kế một SĐTD khái quát bài
học. Đây là lúc SĐTD phát huy thế mạnh. Đó là khả năng đánh thức trí nhớ, khơi gợi
khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức, khả năng sáng tạo. Mặt khác, đây được coi
như một thứ “gia vị” làm tăng sức hấp dẫn cho bài học, tạo hứng thú, khơi gợi trí
tưởng tượng sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng SĐTD trong kiểm tra, đánh giá mức độ tiếp thu bài của cá nhân, của
nhóm (kết hợp với hệ thống câu hỏi của Thang Bloom tu chính).
Trang 134
- Sử dụng SĐTD trong nghiên cứu trước bài, chương, cả chương trình một môn
học nhất là đối với cơ chế học tín chỉ.
- Sử dụng SĐTD trong ôn tập bài, chương, cả chương trình một môn học (rất
quan trọng và hiệu quả).
2.5. Dạy học theo dự án (DHDA)
2.5.1. Mục tiêu của DHDA
- Hướng tới phát triển kỹ năng tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh giá và
sáng tạo).
- Học sinh trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập cùng một lúc với việc
tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin, lập ra một tổng thể kiến thức mới, phê phán, đánh
giá, lựa chọn công cụ để thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- Hướng tới phát triển kỹ năng sống: hợp tác, giao tiếp, quản lý, tổ chức, điều
hành, ra quyết định, tích hợp công nghệ thông tin vào giải quyết công việc và thực
hiện các sản phẩm, biết tranh luận, biết lắng nghe, tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh
hoạt động...
2.5.2. Đặc điểm của DHDA
- Thiết lập mối liên hệ giữa nội dung học tập với cuộc sống, hướng tới các vấn
đề của thực tiễn sinh động đang diễn ra.
- Phát triển những kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn.
- Tạo cơ hội cho người học tự tìm hiểu chính mình, tự khẳng định mình.
- Phát triển những kỹ năng sống: giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra quyết
định…
- Phát triển tư duy bậc cao.
- Tạo điều kiện cho nhiều phong cách, tiềm năng học tập khác nhau, tạo môi
trường cho sự hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau của người học vì sự phát triển toàn diện.
- Kết quả thực hiện dự án phải là những sản phẩm có thể trưng bày, trình bày
được, đó là kết quả của việc giải quyết những vấn đề trong học tập, thực tiễn cuộc sống.
2.5.3. Các giai đoạn của tiến trình DHDA
Sau đây trình bày một cách phân chia theo 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Xây dựng ý tưởng dự án. Quyết định chủ đề.
Giáo viên tạo điều kiện để học sinh đề xuất ý tưởng dự án, quyết định chủ đề, xác định
mục đích dự án. Việc lựa chọn chủ đề dự án phụ thuộc vào sự hứng thú, quan tâm của
học sinh và kinh nghiệm các em đã có. Chủ đề có thể hấp dẫn với một nhóm học sinh,
với cả lớp hay với một học sinh nhất định.
Giai đoạn 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện đề án: trong giai đoạn này, cùng với
sự hỗ trợ của giáo viên xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện dự án. Trong việc xây
dựng kế hoạch cần xác định những việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí
phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
Trang 135
Giai đoạn 3: Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế
hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này, học sinh thực hiện các hoạt
động trí tuệ và hoạt động thực hành.
Giai đoạn 4: Giới thiệu sản phẩm dự án
Kết quả thực hiện dự án có thể được công bố dưới dạng bài thu hoạch, báo cáo bằng
văn bản, bài trình diễn powerpoint. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành
động phi vật chất chẳng hạn biểu diễn một vở kịch, tổ chức một buổi tuyên truyền
nhằm tạo ra các tác động xã hội, phòng triển lãm tranh ảnh. Sản phẩm của dự án có thể
được giới thiệu trước toàn trường hay ở cộng đồng.
Giai đoạn 5: Đánh giá dự án
Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm
đạt được. Có những phương pháp đánh giá khác nhau như: trao đổi bằng thư, đánh giá
toàn lớp, nhóm, cá nhân, tự đánh giá ..
3. Kết luận
Vấn đề “Cách học” tưởng chừng như là hết sức đơn giản đến độ giáo viên
thường lướt qua và mặc nhiên coi mỗi học sinh, sinh viên đều phải tự biết và tự chọn
cho mình cách học phù hợp. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát triển năng lực tự học của mỗi sinh viên để các em có thể học suốt
đời một cách có hiệu quả thì vấn đề dạy cách học cần được quan tâm đúng mực hơn
như trong Nghị quyết số 14/ 2005/NQ-CP đã đề ra.
Trên đây chỉ là một số ý kiến chủ quan của cá nhân xoay quanh vấn đề “Cách
học” không hề đơn giản. Đòi hỏi bản thân cần tích cực tìm tòi, nghiên cứu sâu hơn và
rộng hơn nữa trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải Thập (Chủ biên), Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Chính, Hoàng Văn
Chức, Trần Ngọc Giao, Nguyễn Vũ Bích Hiền, Đặng Bá Lãm, Bành Tiến Long, Trần
Thị Nga, Phạm Hồng Quang, Phạm Đỗ Nhật Tiến (2017), Tài liệu Bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên chính hạng II, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội: 356 – 359.
2. Phạm Thế Dân (hướng dẫn), Bùi Thị Mai, Phạm Hà Nguyên, Nguyễn Thị Thu
Sang, Trương Thị Linh Châu (2013), Tiểu luận: Vận dụng phương pháp dạy học theo
dự án vào dạy học chủ đề “Mắt”. Các tật của mắt và cách khắc phục. Vật lý 11 THP,
Trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh: 3-5.
Trang 136
CẢM NHẬN CỦA SINH VIÊN SƢ PHẠM TIẾNG ANH K43 TRƢỜNG CAO
ĐẲNG SƢ PHẠM ĐÀ LẠT VỀ HỌC TẬP CHUYÊN ĐỀ KĨ NĂNG MỀM
Nguyễn Thị Như Thúy*
1. Đặt vấn đề
Trước những thách thức và những đòi hỏi mới của công cuộc hội nhập, trong
những năm gần đây, kĩ năng mềm (KNM) là vấn đề rất được quan tâm ở Việt Nam,
đặc biệt là việc trang bị KNM cho thế hệ trẻ ngay khi còn học tập ở các trường Phổ
thông, Cao đẳng, Đại học,... Ngoài những thách thức của thời kì hội nhập, sinh viên Sư
phạm nói chung còn phải đứng trước thách thức to lớn là đổi mới toàn diện giáo dục.
Theo đó, trước thềm áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi sinh viên
sư phạm phải tự thay đổi mình, phải tự học, tự trang bị kĩ năng mềm (KNM) để bổ
sung kiến thức cho bản thân mới có thể thích ứng với yêu cầu của chương trình mới.
Trong bối cảnh đó, năm 2018 - 2019, tại trường Cao đẳng Sư Phạm (CĐSP) Đà
Lạt, chuyên đề Kĩ năng mềm được đưa vào giảng dạy cho sinh viên (SV) lớp Sư phạm
Tiếng Anh K43 với 30 tiết với mục đích trang bị kiến thức, tăng cường hoạt động thực
hành các kĩ năng tự nhận thức bản thân, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc nhóm,
kĩ năng quản lí cảm xúc, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng
giải quyết vấn đề,… nhằm góp phần giúp sinh viên thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học,
nhiệm vụ giáo dục và nhiệm vụ phát triển nhân cách người học trong quá trình đi thực
tập sư phạm, trong quá trình hành nghề cũng như trong giao tiếp xã hội. Trong quá
trình giảng dạy, việc tìm hiểu cảm nhận của SV về môn học KNM là điều vô cùng cần
thiết góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn cũng như phần nào trang bị SV
những kĩ năng cần thiết để làm tốt công việc của mình trong tương lai và thành công
hơn trong cuộc sống.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí thuyết kĩ năng mềm
Kĩ năng (KN) là năng lực (khả năng) của chủ thể thực hiện thuần thục một hay
một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức, kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả
mong đợi [3].
Kĩ năng mềm là khả năng thiên về mặt tinh thần của cá nhân nhằm đảm bảo cho
quá trình thích ứng với người khác, công việc nhằm duy trì tốt mối quan hệ tích cực và
góp phần hỗ trợ thực hiện công việc một cách hiệu quả [3].
Có thể kể một số KNM như kĩ năng tự nhận thức bản thân, kĩ năng thuyết trình,
kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng quản lí cảm xúc, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng tư
duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề,… Những KNM này thường không được trang
bị bày bản trong nhà trường như những môn học khác, không liên quan đến kiến thức
* Giảng viên Khoa Bộ môn chung
Trang 137
chuyên môn, cũng không phải là yếu tố thuộc về bẩm sinh của con người, được hình
thành bằng con đường trải nghiệm chứ không phải là sự “nạp” kiến thức đơn thuần qua
trường, lớp đào tạo chính quy nào. KNM góp phần hỗ trợ cho kiến thức và kĩ năng
chuyên môn mà đặc biệt là hỗ trợ cho “kĩ năng cứng” (những gì thuộc về khả năng học
vấn của cá nhân, sự thành thạo về chuyên môn được đào tạo bày bản trong nhà trường),
nó quyết định một người làm việc như thế nào, hiệu quả công việc của họ ra sao? Ngày
nay, trình độ học vấn và bằng cấp chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng của
nhiều cơ quan, đơn vị mà họ còn căn cứ vào các yếu tố liên quan đến KNM như sự nhạy
bén khi xử lý công việc, khả năng giao tiếp,… của ứng cử viên để tuyển dụng.
2.2. Thực trạng nhận thức về kĩ năng mềm của sinh viên lớp Sư phạm Anh K43
trường CĐSP Đà Lạt
Môn học kỹ năng mềm được đưa vào giảng dạy chính thức từ học kỳ 1, năm
học 2018 - 2019 dưới hình thức là chuyên đề với 30 tiết học tập trung, chia sẻ và thảo
luận với giảng viên (GV) về các KN tự nhận thức bản thân, KN thuyết trình, KN làm
việc nhóm, KN quản lí cảm xúc, KN quản lí thời gian, KN tư duy sáng tạo, KN giải
quyết vấn đề,... Ngay từ những ngày đầu, môn học đã thu hút được sự ủng hộ từ Ban
giam hiệu nhà trường cũng như các cán bộ, giảng viên và đặc biệt là SV vì tính thiết
thực mà nó mang lại. Trong khóa học, với phương pháp giảng dạy hướng người học
làm trung tâm, SV vừa được trau dồi kiến thức vừa được thực hành thông qua qua hình
thức đóng kịch, chơi trò chơi, xử lý tình huống,… đồng thời, SV được tạo điều kiện
tương tác với GV và các bạn trong lớp thông qua việc trao đổi, đối thoại và chia sẻ về
kỹ năng thực tế. Kết thúc các giờ học lý thuyết và thực hành, GV đã nhận được 18 ý
kiến phản hồi của SV về môn học với các tiêu chí như sau:
Tiêu chí
Mức
thỉnh
thoảng
trở lên
Mức
cần thiết
trở lên
Mức thiết
thực trở
lên
Mức hài
lòng trở
lên
Mức
vừa
phải
Mức khá
trở lên
Mức hài
lòng trở
lên
Sự quan tâm của
SV đối với KNM
trước khi học
chuyên đề
83.33 %
Vai trò của KNM
đối với bản thân
100%
Nội dung giảng
dạy
100%
Phương pháp
giảng dạy của
GV
88.89%
Trang 138
Thời lượng học 61.11%
Mức độ cải thiện
KN sau khóa học
83.83%
Mức độ hài lòng
SV sau khóa học
88.89%
Bảng 1: Tổng hợp các nội dung được khảo sát về cảm nhận của sinh viên lớp sư phạm
Tiếng Anh K43 về chuyên đề kĩ năng mềm
Chú thích: Tiêu chuẩn đánh giá từng tiêu chí
* Sự quan tâm của SV đối với KNM: 1 - Rất thường xuyên, 2 - Thường xuyên,
3 - Thỉnh thoảng, 4 - Hiếm khi, 5 - Hoàn toàn không.
* Vai trò của KNM đối với bản thân: 1 - Rất cần thiết, 2 - Cần thiết, 3 - Bình
thường, 4 - Ít cần thiết, 5 - Không cần thiết.
* Nội dung giảng dạy: 1- Rất thiết thực, 2 - Thiết thực, 3 - Không thiết thực.
* Phương pháp giảng dạy của giảng viên: 1 - Rất hài lòng, 2 - Hài lòng, 3 - Tạm
hài lòng, 4 - Không hài lòng.
* Thời lượng học: 1 - Quá dài, 2 - Dài, 3 - Vừa phải 4 - Ngắn, 5- Quá ngắn
* Mức độ cải thiện KN sau khóa học: 1 - Tốt, 2 - Khá, 3 - Trung bình, 4 - Rất ít,
5 - Không có gì.
* Mức độ hài lòng SV sau khóa học: 1 - Rất hài lòng, 2 - Hài lòng, 3 - Tạm hài
lòng, 4 - Không hài lòng, 5 - Hoàn toàn không hài lòng
2.2.1. Sự quan tâm của sinh viên về kĩ năng mềm trước khi tham gia học chuyên đề tại
trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt
Khảo sát cho thấy có 15 SV (83.33%) “thỉnh thoảng” quan tâm đến KNM và 3
SV (16.67%) “hoàn toàn không” quan tâm KNM và không có sinh viên lựa chọn nội
dung quan tâm“rất thường xuyên”, “thường xuyên”. Từ kết quả cho thấy, đa số SV đã
có quan tâm đến KNM nhưng sự quan tâm chưa nhiều, chỉ tập trung ở mức thỉnh
thoảng. Phải chăng SV còn tập trung nhiều vào nhiệm vụ học tập hay chưa có điều
kiện để tự tìm hiểu, tự trang bị cho bản thân KNM hoặc là các em chưa ý thức được
vai trò của KNM nên chưa dành nhiều sự quan tâm đến KNM?
Sinh viên P.N.M cho hay: “Từ hồi đó đến giờ em chỉ tìm hiểu những kĩ năng thiết thực
này và học chúng qua mạng, qua người quen nhưng chưa có cơ hội học tập, tìm hiểu
chúng một cách rõ ràng. Thế nên, những KN được học trong chuyên đề KNM vừa qua,
nhà trường và GV đã cho em những tiết học hữu ích, bản thân em còn những điều
chưa cải thiện và em cần những tiết học như thế này để qua đó em sẽ học tập ở nhiều
khía cạnh khác để hoàn thiện bản thân hơn”.
2.2.2. Nhận thức của sinh viên về vai trò của kĩ năng mềm
Nghiên cứu cho thấy có 11 SV (61.11%) chọn mức độ “rất cần thiết”; 7 SV
(38.89%) chọn mức độ “cần thiết” và không có SV chọn mức “bình thường”; “ít cần
Trang 139
thiết” và “không cần thiết”. Như vậy, điều khá đặc biệt khi nghiên cứu là nếu như nội
dung trên cho thấy SV không dành nhiều sự quan tâm của bản thân cho KNM nhưng
đa số họ lại cho rằng KNM cần thiết đối với bản thân.
Sinh viên Đ.T.B.N chia sẻ: “KNM cho tôi biết và học tập được những điều cần thiết để
cho cuộc sống của mình hoàn thiện hơn, thành công hơn”.
2.2.3. Đánh giá của sinh viên về nội dung giảng dạy chuyên đề kĩ năng mềm
Kết quả khảo sát có 12 SV (66.7%) đánh giá ở mức độ “rất thiết thực”, 6 SV
(33.33%) cho rằng nội dung giảng dạy là “thiết thực” và không có SV chọn ở mức độ
“không thiết thực”. Kết quả cho thấy 100% SV đánh giá nội dung giảng dạy KNM ở
mức thiết thực trở lên cho thấy chuyên đề KNM được đưa vào giảng dạy dù là năm
đầu tiên tại trường nhưng nó đã được SV đón nhận và ở một góc độ nào đó, chuyên đề
đã thực sự có ý nghĩa, đem lại những lợi ích nhất định đối với các em, cụ thể:
Em M.D chia sẻ: “KNM sẽ giúp cho chúng ta nhận thức bản thân xem mình có
khả năng nào, giúp cho bản thân tự tin hơn trước đám đông, có kĩ năng để giải quyết
một vấn đề nào đó một cách thuận lợi nhất,… Vì vậy, chuyên đề KNM rất phù hợp khi
đưa vào chương trình học. Em mong muốn sẽ có nhiều chuyên đề hơn nữa được đưa
vào giảng dạy để SV được trang bị nhiều KN hơn”.
Theo đó, lí giải về việc chọn mức độ “rất thiết thực” khi nhận định nội dung
giảng dạy chuyên đề KNM, em S.N.L cho biết: “KNM giúp chúng ta hiểu về bản thân
mình, hiểu rõ hơn những vấn đề, những tình huống cần giải quyết trong cuộc sống”.
2.2.4. Cảm nhận của sinh viên đối với phương pháp giảng dạy chuyên đề kĩ năng mềm
của giảng viên
Dựa vào bảng hỏi cho thấy, mức độ “rất hài lòng” là 3 SV (16.67%); mức độ
“hài lòng” là 13 SV (72.22%); mức độ “tạm hài lòng” là 2 SV (11.11%) và không có SV
chọn mức “không hài lòng” và “hoàn toàn không hài lòng”.
Sinh viên B.T.T.H cho hay: “Phương pháp giảng dạy của giảng viên rất là khoa học,
hay, phù hợp với chuyên đề”. Đồng quan điểm đó, sinh viên K.Th chia sẻ: “Em rất thích
phương pháp dạy của cô vì cô cho em biết cách làm việc nhóm, khả năng thuyết trình”.
Khác với quan điểm trên, hai sinh viên Đ.Q.T và N.V.T chọn ở mức “tạm hài
lòng” đối với phương pháp giảng viên với mong muốn nhiều hơn ở giảng viên, cụ thể:
“Giảng viên nên có những tình huống thực tiễn nhiều hơn liên quan đến KNM, giảm
bớt giảng giải về khái niệm, lí thuyết”; “Mọi thứ đều hoàn hảo, tôi mong cô cười nhiều
hơn với sinh viên”.
Kết quả khảo sát cho thấy đa số SV hài lòng với phương pháp giảng dạy của
GV. Tuy nhiên, với đặc thù của chuyên đề như đúng tên gọi của nó - kĩ năng mềm,
cùng thời gian gói gọn cho chuyên để chỉ 30 tiết, GV cần đầu tư rất nhiều ở mỗi tiết
dạy về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho cô đọng, chọn lọc,
có chiều sâu để SV không chỉ nắm về mặt lí thuyết cơ bản mà còn có khả năng vận
Trang 140
dụng nhiều hơn các KN được trang bị vào chính công việc, cuộc sống của các em có
hiệu quả hơn.
2.2.5. Đánh giá của sinh viên thời lượng học chuyên đề kĩ năng mềm
Khi được hỏi về thời lượng học chuyên đề KNM, có 6 SV (33.33%) cho rằng
thời lượng “ngắn”; 1 SV (5.56%) cho rằng thời lượng “quá ngắn”; 11 SV (61.11%)
cho rằng thời lượng “vừa phải”; không có SV chọn ở mức thời lượng “dài”, “quá dài”.
Kết quả cho thấy đa số SV đã hài lòng với thời lượng quy đinh dành cho chuyên đề -
30 tiết. Một số SV cho rằng thời gian ngắn thể hiện nhu cầu được học thêm nhiều nội
dung hơn ở chuyên đề này, cụ thể: Em S.N.L cho biết: “Em mong muốn chuyên đề
KNM có thời lượng giảng dạy nhiều hơn. Vì sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về những KN cần
thiết được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống”; Em H.T.L.A chia sẻ: “Mong rằng sẽ có
các chuyên đề KNM 1, KNM2, KNM3. Thời lượng chuyên đề 30 tiết là quá ít”.
2.2.6. Mức độ hài lòng của SV sau khi học xong chuyên đề kĩ năng mềm
Sau khi học xong chuyên đề KNM, có 3 SV (16.67%) cảm nhận ở mức “rất hài
lòng”; 13 SV (72.22%) cảm nhận ở mức “hài lòng”; 2 SV (11.11) cảm nhận ở mức
“tạm hài lòng” và không có SV cảm nhận ở mức “không hài lòng” và “hoàn toàn
không hài lòng”.
Để làm rõ hơn ở lựa chọn các mức độ về sự hài lòng của SV sau khi học xong
chuyên đề, tác giả đã tiến hành phỏng vấn các em, cụ thể sinh viên T.TH.Đ chọn ở
mức hài lòng sau khi học xong chuyên đề cho biết: “Vì sau khi học KNM em đã tích
lũy thêm cho mình nhiều KN hơn để giúp hoàn thiện bản thân. Dù nó không phải là
quá nhiều nhưng cũng đủ để em có thể giao tiếp tốt hơn, giải quyết vấn đề tốt hơn và
tự tin hơn vào bản thân”. Đồng quan điểm này, sinh viên L.T.T.Tr hài lòng về việc học
tập chuyên đề “bởi KNM giúp bản thân nhìn nhận, đánh giá chính mình. Đồng thời tìm
hiểu và vận dụng những KN cần thiết trong cuộc sống, sống hài hòa với mọi người và
nhận ra cuộc sống tốt đẹp hơn”.
2.2.7. Mức độ cải thiện các kĩ năng sau khóa học
Kết quả khảo sát có 3 SV (16.67%) chọn mức độ “Tốt”, 10 SV (66.66%) chọn
mức độ “Khá”, 3 SV (16.67%) chọn mức độ “Trung bình” và không có SV chọn mức
độ “Rất ít” hoặc “Không cải thiện được gì”.
Sinh viên N.T.O. cho biết: “Sau khi học xong chuyên đề, em đã học hỏi được rất nhiều
điều mà trước giờ mình chưa được biết, rút ra được kinh nghiệm cho bản thân, giải
quyết được vấn đề mà trước giờ mình mắc phải. Em mong muốn sẽ có nhiều chuyên
đề thú vị để học tập”.
Sinh viên H.T.T chia sẻ: “Khi học xong chuyên đề KNM thì bản thân em biết
được rằng cần phải có KNM vì nó đem lại hiệu quả công việc tốt hơn, gắn kết với mọi
người gần hơn. Được học và tìm hiểu những KN, chuyên đề khá bổ ích giúp em hiểu
nhiều hơn về sự cần có KNM”.
Trang 141
* Đánh giá chung về cảm nhận của sinh viên lớp Sƣ Phạm Tiếng Anh K43
đối với chuyên đề kĩ năng mềm:
- Trước khi học tập chuyên đề KNM, đa số SV đã có quan tâm đến KNM
nhưng sự quan tâm chưa nhiều. Qua quá trình học tập chuyên đề KNM, SV đã ý thức
được tầm quan trọng của chuyên đề, ý nghĩa của KNM đối với bản thân trong hiện tại
và nghề nghiệp tương lai. Từ đó, sinh viên nhận thức được trách nhiệm đối với tiến
trình học tập của chính mình để bản thân các em nỗ lực nhiều hơn cho việc học.
- Việc xây dựng nội dung chuyên đề KNM và vận dụng tương đối đa dạng và
phù hợp phương pháp giảng dạy của GV tạo hứng thú cho sinh viên trong quá trình
học tập, SV không chỉ học được từ những trải nghiệm của bản thân mà còn từ trải
nghiệm của bạn bè, kinh nghiệm của GV trong quá trình trao đổi, định hướng nội dung
học tập KNM tại lớp. Bên cạnh đó, các phương pháp dạy học tình huống, đóng kịch,
trò chơi, học tập theo nhóm,… còn cải thiện các kĩ năng của SV như kĩ năng tìm kiếm
thông tin, hệ thống dữ liệu, giải thích, trình bày, tóm tắt logic, giao tiếp, tư duy phân
tích, tư duy phản biện, đánh giá,… đây là những kĩ năng vô cùng quan trọng để người
học có thể học tập, giao tiếp tốt hơn trong hiện tại cũng như sẽ dễ thích nghi hơn với
điều kiện làm việc, tiến gần hơn với nhu cầu công việc trong tương lai.
* Từ kết quả nghiên cứu ở trên, tác giả in đề uất một số nội dung đối với
việc giảng dạy chuyên đề kĩ năng mềm tại trƣờng CĐSP Đà Lạt nhƣ sau:
- Đối với cán bộ quản lí nhà trường: tiếp tục quan tâm, chỉ đạo và tạo điều kiện
để việc giảng dạy chuyên đề KNM được thực hiện cho SV các lớp khác trong trường
và duy trì trong những năm học tiếp theo.
- Đối với giảng viên: Trong quá trình giảng dạy chuyên đề, GV cần đầu tư nội dung
chuyên đề, tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường các hoạt
động thực hành để phát huy tính tự giác, tích cực học tập ở SV; hướng dẫn SV thực
hành các các KN tự nhận thức bản thân, KN thuyết trình, KN làm việc nhóm, KN quản
lí cảm xúc, KN quản lí thời gian, KN tư duy sáng tạo, KN giải quyết vấn đề,...
- Đối với sinh viên: Cần nhận thức đúng vai trò của KNM từ đó tự giác, tích
cực, chủ động, độc lập và sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động học tập, tích cực trao
đổi với GV, bạn bè tại lớp cũng như mọi người trong cuộc sống để hoàn thiện KNM
của bản thân.
3. Kết luận
Thông qua việc tìm hiểu cảm nhận của SV về môn học KNM đã giúp chúng ta
thấy được sự quan tâm của SV đối với KNM, nhu cầu học tập và những thay đổi tích
cực về mặt KNM của chính bản thân các em sau khóa học. Nghiên cứu cũng đồng thời
giúp cho GV thấy được nhu cầu, gởi gắm khát khao học tập KNM của SV thông qua
từng buổi học; mong muốn của các em đối với nội dung dạy học, phương pháp giảng
dạy của GV,… từ đó GV như được tiếp thêm động lực để không ngừng đổi mới
Trang 142
phương pháp dạy học, đầu tư hơn cho nội dung giảng dạy thật cô đọng, đồng thời thay
đổi đa dạng các hình thức tổ chức dạy học trong đó tăng cường các hoạt động thực
hành để SV trải nghiệm nhiều hơn.
Những nghiên cứu trong thời gian gần đây ở lĩnh vực nghề nghiệp đã cho thấy
người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được
quyết định bởi những KNM họ được trang bị [3]. Hy vọng rằng, với những KNM cơ
bản được trang bị ở tại trường Cao đẳng Sư Phạm Đà Lạt cùng với việc không ngừng
học hỏi, tự hoàn thiện của chính bản thân sẽ giúp SV làm tốt công việc của mình trong
hiện tại và tương lai, thành công hơn trong cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thành Hội (2010), Bài giảng Kỹ năng làm việc nhóm, Trường Đại học Nông
Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, http://www.socialforestry.org.vn.
2. Phan Huy Hùng (2015), Tài liệu bài đọc Kỹ năng giao tiếp, Trường Đại học Cần Thơ.
3. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên) (2012), Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học
Sư Phạm, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Việt Trà (2000), Tìm hiểu bản thân tự hoàn thiện mình, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
Trang 143
KĨ NĂNG THÍCH ỨNG – NHÂN TỐ GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC TẬP SƢ PHẠM CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG CĐSP ĐÀ LẠT
Phan Hữu Lộc*
1. Đặt vấn đề
Thực tập sư phạm (TTSP) là một bước ngoặt quan trọng của quá trình đào tạo
nguồn nhân lực, bước cuối cùng để “sản phẩm giáo dục” được “ứng dụng vào thực
tiễn”. Với sinh viên (SV), TTSP là cơ hội để họ học hỏi, rèn luyện và hoàn thiện kiến
thức, kĩ năng trước khi chính thức hoạt động nghề nghiệp.
TTSP quán triệt nguyên lý giáo dục của Đảng và Nhà nước: Gắn lý luận với thực tế,
kết hợp học tập ở nhà trường và xã hội. Vận dụng tổng hợp kiến thức đã được trang bị
tại nhà trường vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn ở cơ sở thực tập. Kết hợp chặt
chẽ nhiệm vụ thực tập với việc hoàn thành nhiệm vụ do trường PT (phổ thông), MN
(mầm non) yêu cầu.
Chính vì vậy, trong quá trình thực tập SV gặp phải nhiều khó khăn do sự thiếu
kinh nghiệm lẫn sự chưa hoàn thiện về kiến thức và kĩ năng. Để giải quyết tốt nhiệm
vụ thực tập thì không chỉ đòi hỏi ở SV mặt kiến thức mà còn đòi hỏi ở họ một số kĩ
năng mềm. Trong đó không thể thiếu kĩ năng thích ứng và giải quyết khó khăn là rất
cần thiết để thích nghi và phát triển.
2. Một số khó khăn của SV thƣờng gặp trong quá trình thực tập sƣ phạm và vai
trò của kĩ năng thích ứng trong việc giải quyết khó khăn
2.1. Một số khó khăn thường gặp của SV trong quá trình TTSP
Trên tất cả các chuyên ngành, có thể đánh giá hai khó khăn mà SV thường gặp
phải trong TTSP tại trường PT, MN như sau:
- Khó khăn với việc thích ứng môi trường nghề nghiệp: Trong môi trường
TTSP, những yêu cầu và đặc điểm về nghề nghiệp sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trong
hoạt động học tập - rèn luyện nghề nghiệp của SV khi tham gia thực tập. SV sẽ bước
đầu được thử thách với các hoạt động thực tập nghề, để qua đó có sự trải nghiệm đầu
tiên về nghề, góp phần củng cố hứng thú và lý tưởng nghề nghiệp cho bản thân. Môi
trường nghề nghiệp với nhiều mối quan hệ và trách nhiệm đan xen, nhiều tình huống
ứng xử trong quan hệ cũng như trong công việc. Giao tiếp là điều kiện tất yếu của mọi
hoạt động xã hội của con người. Giao tiếp hiệu quả giữa SV thực tập và đồng nghiệp
ảnh hưởng lớn đến chất lượng thực tập của SV. Trong quá trình thực tập SV vấp phải
khó khăn như lúng túng trong quá trình tạo lập quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp.
- Khó khăn trong thích ứng khi bắt đầu tham gia hoạt động lao động nghề
nghiệp theo sự phân công của xã hội: Đây là giai đoạn hiện thực hoá tất cả những kiến
* Phó trưởng phòng KT-ĐBCL
Trang 144
thức, hiểu biết,... mà SV đã được học trường sư phạm. Giai đoạn này SV tham gia trực
tiếp vào hoạt động dạy học và chịu trách nhiệm về công việc của mình, cũng là lúc
khẳng định giá trị của bản thân đối với xã hội, với nghề nghiệp. Đây là giai đoạn rất
khó khăn, đòi hỏi cá nhân mỗi SV khả năng thích ứng cao, sự vận dụng sáng tạo, linh
hoạt những điều đã được học ở trường sư phạm vào thực tiễn. Khó khăn đối với SV
xuất phát từ việc ứng dụng lý thuyết vào thức tế giảng dạy. Họ phải hoàn thành công
việc được giao phó không chỉ với vai trò là SV mà với vai trò là một thành viên của
nơi thực tập. Họ chịu trách nhiệm về hành động trong công việc của mình. Điều này sẽ
đem lại những căng thẳng và áp lực nhất định cho SV, vì vậy phải cần đến sự thích
ứng nhanh chóng.
2.2. Vai trò của kĩ năng thích ứng trong việc giải quyết khó khăn cho SV
Thích ứng là một quá trình lâu dài và thích ứng nghề nghiệp cũng sẽ diễn ra
trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp. Chính vì vậy, khi TTSP nếu SV đã có kĩ
năng thích ứng thì họ sẽ có khả năng thích nghi tốt với nghề nghiệp chính thức trong
tương lai.
Kĩ năng thích ứng sẽ giúp họ giải quyết những khó khăn trước mắt, hoàn thiện
tri thức lẫn kĩ năng trong TTSP. Kĩ năng thích ứng sẽ giúp SV trở nên chủ động trong
bất cứ hoàn cảnh nào, vấp phải bất kỳ khó khăn nào. Trong quá trình đó, việc phát
triển kĩ năng thích ứng là yếu tố cơ bản giúp cho quá trình hình thành và phát triển
nhân cách đạt kết quả tốt nhất. Phát triển kĩ năng thích ứng có vai trò quan trọng đối
với quá trình hình thành và rèn luyện những phẩm chất nhân cách.
Kĩ năng thích ứng là yếu tố cơ bản để SV có khả năng đáp ứng những yêu cầu
luôn thay đổi của hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời kĩ năng thích ứng sẽ giúp SV
nhanh chóng thích nghi với môi trường học tập và rèn luyện ở nơi TTSP. Từ đó, SV
chủ động tích cực học tập và rèn luyện để hoàn thiện tri thức và kĩ năng nghề trong
tương lai.
Việc phát triển kĩ năng thích ứng giúp SV khi TTSP sẽ vận dụng linh hoạt
những kiến thức đã được tiếp thu ở trường sư phạm vào thực tế hoạt động nghề
nghiệp. Đồng thời không ngừng trau dồi những phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Kĩ năng thích ứng giúp họ vượt qua những khó khăn, những bỡ ngỡ ban đầu.
Qua đó giúp SV giải quyết tốt nhiệm vụ tại môi trường TTSP thì đó sẽ là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy họ phấn đấu và nuôi dưỡng nhiệt huyết sau khi ra trường.
Trong xã hội hiện đại, đặc biệt trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, môi trường nghề nghiệp của SV trong tương lai luôn thay đổi không ngừng và đặt
ra những yêu cầu ngày càng cao đối với họ. Với sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức,
những nguồn thông tin khoa học và xã hội rộng lớn phong phú, sự nắm bắt ngày càng
nhanh nhạy và những yêu cầu ngày càng cao của xã hội,... đòi hỏi mỗi SV phải không
Trang 145
ngừng học hỏi, phát triển nghề nghiệp. Điều đó đồng nghĩa với việc họ phải có kĩ năng
thích ứng với quá trình đó - quá trình phát triển nghề nghiệp, phát triển chuyên môn
liên tục. Vì thế phát triển kĩ năng thích ứng đảm bảo cho quá trình phát triển nghề
nghiệp liên tục của SV đạt hiệu quả, đáp ứng đòi hỏi yêu cầu liên tục thay đổi và ngày
càng cao của xã hội.
3. Kết luận
TTSP là quá trình chuyển tiếp quan trọng của SV với vai trò là người học tới tư
cách là một người công dân có sự trưởng thành về mặt nhân cách lẫn sự hoàn thiện về
tri thức - kĩ năng. Những khó khăn trong TTSP nếu được SV giải quyết tốt sẽ giúp họ
đạt kết quả tối ưu trong TTSP. Đó là nền tảng của sự yêu nghề, say mê và gắn bó lâu
dài với nghề. Kĩ năng thích ứng là một kĩ năng quan trọng giúp SV vận dụng một cách
phù hợp những kiến thức - kĩ năng của mình để đáp ứng với yêu cầu tại cơ sở thực tập
một cách hiệu quả nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích (1982), Thích ứng học đường của SV sư phạm, Khoa Tâm lý -
Giáo dục, Trường ĐHSP Hà Nội.
2. Nguyễn Thúy Bình (1984), Sự thích ứng nghề nghiệp của GV trẻ (t 1 đến 5 năm
tuổi nghề) dạy môn Toán ở một số trường phổ thông T Liêm - Hà Nội, Đề tài NCKH
cấp cơ sở, Trường ĐHSP Hà Nội.
4. Nguyễn Minh Hải (1996), Tìm hiểu sự thích ứng hoạt động học tập thông qua kĩ
năng làm toán của HS tiểu học, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 02, tr.22-24.
5. Dương Thị Nga (2012), Phát triển năng lực thích ứng nghề cho SV CĐSP, Luận án
Tiến sĩ Giáo dục học, Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên.
Trang 146
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
GIÁO VIÊN MẦM NON SONG NGÀNH ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm*
Tóm tắt:
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, robot sẽ vẫn không thể thay thế
được giáo viên mầm non. Chính vì vậy việc đào tạo giáo viên sư phạm vẫn đang là
nhu cầu cấp bách của xã hội. Bài viết là một phần những kết quả, đúc kết từ thực tiễn
nghiên cứu, những định hướng hữu ích để cải tiến liên tục chương trình đào tạo của
trường CĐSP Đà Lạt nhằm thu hút sinh viên theo học, hội nhập với những xu hướng
phát triển giáo dục đại học đang diễn ra trên thế giới với triết lý lấy sinh viên làm trung
tâm, đảm bảo chất lượng đào tạo nhằm đẩy mạnh sự gắn kết giữa đào tạo với cơ sở
giáo dục (cơ sở tuyển dụng).
Từ khóa:
Phát triển chương trình đào tạo, giáo viên mầm non song ngành, gắn kết giữa
đào tạo và cơ sở giáo dục.
1. Mở đầu
Chỉ thị số 2919/CT-BGDĐT về nhiệm vụ năm học 2018-2019 của ngành Giáo
dục đã chỉ ra cụ thể yêu cầu hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Căn cứ tình
hình thực tiễn ưu tiên tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong
năm học, trong đó chỉ thị nêu rõ nhiệm đối với giáo dục đại học là tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chuẩn hóa, tăng cường hội nhập quốc tế và yêu cầu của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0; tăng tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo.
Phát triển chương trình đào tạo song ngành Giáo dục Mầm non - Tiếng Anh
trình độ cao đẳng tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt sẽ nhằm đào tạo nguồn nhân
lực vừa có khả năng thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên mầm non, vừa có kiến thức
chuyên môn về các lĩnh vực liên quan đến ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng Anh; có
khả năng áp dụng các kiến thức này để giảng dạy tiếng Anh cho trẻ trong trường mầm
non ở các độ tuổi khác nhau; Gắn với nhu cầu của người tuyển dụng, từ đó giúp thu
hẹp khoảng cách giữa đào tạo của nhà trường và yêu cầu của nhà sử dụng nguồn nhân
lực. Bên cạnh đó đào tạo song ngành sẽ giúp người học phát triển toàn diện với các
“kỹ năng cứng” và “kỹ năng mềm” để nhanh chóng thích ứng với môi trường làm việc
luôn thay đổi và thậm chí là đi đầu trong việc thay đổi đó trong nước và quốc tế. Từ đó
nâng cao dần vị thế trong công tác đào tạo của trường CĐSP Đà Lạt.
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 147
2. Nội dung
2.1. Phát triển chương trình đào tạo
Phát triển chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội đang là xu thế phát
triển quan trọng trong cả nước và đặc biệt ở trường CĐSP Đà Lạt khi mà thực tế còn
nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm hoặc có việc làm nhưng phải đào
tạo lại. Phát triển chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội, xu thế giáo dục, đáp
ứng tiêu chuẩn của cơ sở giáo dục được hiểu là việc thiết kế và thực hiện nội dung
chương trình, các hoạt động giảng dạy, học tập và đánh giá nhất quán với nhau để đạt
tới khung năng lực đầu ra cần có.
2.2. Phát triển chương trình đào tạo giáo viên mầm non song ngành
Để phát triển chương trình đào tạo giáo viên mầm non song ngành, chúng tôi dự
kiến thiết kế chương trình đào tạo bao gồm xây dựng chương trình khung (dựa trên
chuẩn đầu ra của chương trình); kế hoạch đào tạo, các yêu cầu và điều kiện bảo đảm
thực hiện chương trình; đề cương chi tiết các học phần. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi chỉ đề xuất xây dựng khung chương trình đào tạo và một số điều kiện để
thực hiện như sau:
Khung chƣơng trình đào tạo
Kiến thức Số tín chỉ
1. Khối kiến thức Giáo dục đại cƣơng
(Không kể các học phần Giáo dục Thể chất, Giáo dục Quốc
phòng - An ninh và các chứng chỉ/chứng nhận theo chuẩn đầu
ra của chương trình đào tạo)
16
2. Khối kiến thức Giáo dục chuyên nghiệp 89
7.2.1. Kiến thức cơ sở ngành 7
7.2.2. Kiến thức ngành 69
- Kiến thức ngành chung 5
- Kiến thức ngành (ngành 1) 32
- Kiến thức ngành (ngành 2) 32
7.2.3. Thực hành thực tập 08
- Thực hành thực tập (ngành 1) 04
- Thực hành thực tập (ngành 2) 04
7.2.4. Tốt nghiệp 5
Tổng số 105
Riêng phần Danh mục các học phần sẽ được thể hiện cụ thể trong Phụ lục đính kèm.
2.3. Cơ hội, thách thức khi xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo song ngành
Mầm non – Tiếng Anh
2.3.1. Thuận lợi
- Đối với trường CĐSP Đà Lạt
Trang 148
+ Nghị quyết 114/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của CP về đổi mới cơ bản và
toàn diện giáo dục Đại học 2006 - 2020, trong đó có đề cập đến vấn đề từng bước
chuyển đổi chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội.
+ Chỉ thị số 2919/CT-BGDĐT về nhiệm vụ năm học 2018-2019 của ngành
Giáo dục đã chỉ ra cụ thể yêu cầu hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo
+ Sự chỉ đạo định hướng của Ban Giám Hiệu, phòng ĐTKH&CN về việc xây
dựng chương trình đào tạo song ngành nhằm thu hút tuyển sinh, nâng cao chất lượng
đào tạo, gia tăng tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm phù hợp với chuyên ngành đào
tạo, đồng thời góp phần nâng cao vị thế, chất lượng đào tạo của trường CĐSP Đà Lạt
+ Sự quyết tâm của tập thể lãnh đạo và toàn thể cán bộ viên chức trong trường
và khoa GD Tiểu học Mầm non.
+ Lực lượng giảng viên Mầm non, giảng viên Tiếng Anh của trường CĐSP Đà
Lạt đông đảo, nhiệt huyết, năng lực chuyên môn vững vàng, luôn cập nhật xu
hướng phát triển của giáo dục
+ Kinh nghiệm đào tạo song ngành Mầm non – Tiếng Anh ở một số cơ sở đào
tạo trong nước.
+ Xu thế tất yếu về sự phát triển giáo dục hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Đối với sinh viên
+ Ngoài học song ngữ sinh viên còn được cập nhật những thông tin mới nhất về
giáo dục mầm non và được học chuyên sâu về một số phương pháp giáo dục ưu việt
hiện nay trên thế giới: Giáo dục sớm Glenn Doman, Phương pháp Montessori, Reggio
Emilia, High Scope... do các chuyên gia hàng đầu trong nước và ngoài nước có nhiều
năm kinh nghiệm giảng dạy.
+ Sau khi kết thúc tốt nghiệp, sinh viên vừa có trình độ chuyên môn sư phạm
mầm non đạt chuẩn quốc tế vừa có khả năng dạy song ngữ. Có nhiều lợi thế cạnh tranh
khi tuyển dụng tại các trường mầm non trong nước thậm chí có thể làm việc ở nước
ngoài, trong môi trường quốc tế năng động, có thu nhập cao.
2.3.2. Khó khăn
- Tỉ lệ thu hút tuyển sinh hiện nay của trường chưa cao
- Kinh phí đầu tư cho hoạt động quảng bá ngành học, xây dựng chương trình còn ít.
- Giảng viên ít có cơ hội tham gia các khóa tập huấn và giao lưu giữa các trường có
đào tạo song ngành. Một bộ phận giảng viên Mầm non trình độ tiếng anh còn hạn chế và
giảng viên tiếng anh thì không có chuyên môn về mầm non.
- Cơ sở vật chất hiện nay của trường còn hạn chế, trang thiết bị như phòng học,
máy móc, tài liệu nghiên cứu, chỗ ngồi trong thư viện, đường truyền internet… còn yếu.
- Chất lượng tuyển sinh đầu vào ngành Mầm non hiện nay còn thấp. Phần lớn sinh
viên Mầm non khả năng tiếng Anh yếu, chưa được tiếp xúc nhiều với môi trường ngoại ngữ.
Trang 149
2.4. Điều kiện xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo giáo viên mầm non
song ngành
* Điều kiện thiết kế xây dựng chương trình:
- Chương trình đào tạo trình độ Cao đẳng song ngành Giáo dục Mầm non –
Tiếng Anh cần được thiết kế theo mô hình song ngành và tuân thủ theo quy định về xây
dựng chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Chương trình đào tạo được phát triển theo hướng coi trọng tính thực hành, ứng
dụng, giúp cho sinh viên có khả năng thích ứng với yêu cầu của nghề nghiệp.
* Điều kiện thực hiện chương trình:
- Điều kiện về nhân lực
Đội ngũ giảng viên đủ trình độ chuyên môn, ngoài giảng viên cơ hữu, cần mời
các giảng viên ở các Khoa cùng chuyên ngành của các trường đại học, viện nghiên
cứu, các cơ sở liên kết đào tạo giảng dạy các môn chuyên ngành và thực hành.
- Điều kiện vật lực
Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo: cần đầy đủ phòng học, phòng máy tính thực
hành, giáo trình, tài liệu,...
Cần có trường mầm non thực hành có sử dụng tiếng anh, hoặc dạy trẻ tiếng anh
để sv thực tập sư phạm
- Điều kiện tài lực (tài chính): Cần có dự kiến kinh phí phù hợp cho việc xây
dựng và thực hiện chương trình đào tạo song ngành. Tăng cường hợp tác quốc tế và
tranh thủ các nguồn tài trợ cho chương trình đào tạo.
- Điều kiện trí lực và thực tế xã hội
Khi tổ chức đào tạo: chú trọng rèn tay nghề, tăng cường thực hành, đảm bảo yêu
cầu kiến thức trọng tâm của mỗi ngành đào tạo và khả năng bổ sung, mở rộng kiến
thức của người học. Việc giảng dạy mỗi học phần cần đáp ứng yêu cầu về đổi mới
phương pháp, phù hợp với mục tiêu chung của Chương trình.
Trong quá trình đào tạo, căn cứ vào thực tiễn, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,
nhu cầu của người học, Khoa đào tạo có thể sửa đổi nội dung chi tiết các học phần
nhằm đảm bảo mục tiêu đào tạo, tăng cường kỹ năng thực hành và tính thực tiễn
ngành đào tạo.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế thông qua việc hợp tác với các cơ sở giáo dục nước
ngoài. Triển khai thực hiện Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về
hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; triển khai hiệu quả các thỏa
thuận, các chương trình học bổng hiệp định.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Định hướng phát triển chương trình đào tạo giáo viên mầm non song ngành
theo hướng tiệm cận với chuẩn khu vực và quốc tế đáp ứng nhu cầu xã hội nếu được
Trang 150
thực hiện có hiệu quả sẽ giúp sinh viên sau khi tốt nghiệp có phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp; có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản trong lĩnh
vực liên quan đến ngôn ngữ - tiếng Anh và giáo dục mầm non để tổ chức hiệu quả hoạt
động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ đáp ứng xu thế phát triển của xã hội.
Với việc được đào tạo song ngành, cơ hội việc làm của sinh viên sẽ được mở
rộng hơn, sau khi ra trường sinh viên có khả năng làm việc tại các cơ sở giáo dục mầm
non trong - ngoài tỉnh, thậm chí vươn ra các nước trong khu vực với vai trò là giáo
viên mầm non; các tổ chức thuộc lĩnh vực liên quan đến ngôn ngữ như giảng dạy tiếng
Anh tại các trung tâm Anh ngữ dành cho trẻ em.
Nếu đào tạo giáo viên mầm non song ngành tại trường Cao đẳng Sư phạm Đà
Lạt có chất lượng tốt thì trong tương lai không chỉ đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo
dục quốc tế, phù hợp với sự phát triển không ngừng của xã hội mà còn góp phần nâng
cao vị thế của trường.
3.2. Kiến nghị
Đối với Sở GD&ĐT tỉnh Lâm Đồng: Cần hiểu và đánh giá đúng nhiệm vụ, yêu
cầu vị trí quan trọng của việc thiết kế chương trình đào tạo song ngữ hiện nay. Tổ chức
các hoạt động giao lưu giữa các nhà trường tham gia thí điểm chương trình để các đơn
vị trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện;
Đối với trường CĐSP Đà Lạt: Để thực hiện có hiệu quả đề án phát triển chương
trình đào tạo song ngành, trường cần chuẩn bị kĩ các điều kiện thực hiện đề án như:
thời gian, nguồn lực, nhân sự và các biến khác có thể tác động đến việc xây dựng và
thực hiện chương trình đào tạo song ngành Mầm non – Tiếng Anh.
Trường cần đầu tư các điều kiện cơ sở vật chất và tạo điều kiện cho các thầy, cô
giáo dạy học song ngữ tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, đáp ứng yêu cầu dạy và học...
Đối với giảng viên giảng dạy song ngành cần không ngừng nâng cao trình độ
nghiệp vụ và thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm của những người trực tiếp tham
gia giảng dạy các môn học trong chương trình.
Đối với sinh viên theo học hệ đào tạo song ngành: cần xác định động cơ, thái độ
học tập đúng đắn, những kỳ vọng đối với chương trình đào tạo. Học tập theo sự hướng
dẫn, kiểm tra, đánh giá của giảng viên như nghe giảng, thảo luận trên lớp; tự học, tự
nghiên cứu, làm bài tập, viết báo cáo ở nhà, thư viện; đi thực hành theo các yêu cầu mà
giảng viên đã nêu trong đề cương môn học và tham khảo ý kiến giảng viên trong các
dịp tiếp xúc trực tiếp hoặc trao đổi bằng điện thoại, e-mail.
Trang 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 2919/CT-BGDĐT về nhiệm vụ năm học 2018-2019 của ngành Giáo dục
ngày 10 tháng 08 năm 2018, Hà Nội.
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành trung ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3. Lê Quang Sơn (2010), Đào tạo giáo viên – kinh nghiệm CHLB Đức, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5.
4. Chuẩn đầu ra ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo quyết định số 385/QĐ-
CĐSP ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường CĐSP Đà Lạt.
5. Khung kế hoạch đào tạo ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo quyết định số
233/CĐSP –ĐT ngày 29 tháng 5 năm 2014 của Hiệu trưởng Trường CĐSP Đà Lạt.
6. Chương trình đào tạo: Giáo dục Mầm non - Tiếng Anh (2017), Trường CĐSP Trung
Ương, Hà Nội.
Trang 152
PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC HỌC PHẦN
Stt Học phần Mã học
phần
Số tín
chỉ
Học
kỳ
Số tiết lên lớp Thực
hành,
thực
tập
tại cơ
sở
Số
giờ
tự
học
, tự
NC
Học
phần
tiên
quyết LT TL TH
/TN
I. KHỐI KIẾN THỨC GIÁO DỤC
ĐẠI CƢƠNG 16
1
Những nguyên lý cơ bản
của Chủ nghĩa Mác-
Lênin I
LLCT 100 2 1,2 20 10 60 Không
Những nguyên lý cơ bản
của Chủ nghĩa Mác-
Lênin II
LLCT 200 3 2,3 35 10 90 LLCT1
00
2 Tư tưởng Hồ Chí Minh LLCT 300 2 3,4 20 10 60 LLCT2
00
3 Đường lối Cách mạng
của Đảng CSVN LLCT 400 3 3,4 35 10 90
LLCT2
00
4
Giáo dục thể chất 1 GDTC 100 0 1,2 0 45 Không
Giáo dục thể chất 2 GDTC 200 0 3,4 0 45 Không
Giáo dục thể chất 3 GDQP 100 0 3,4 0 45 Không
Giáo dục Quốc phòng -
AN GDQP 200 2 1,2 Không
5 Tin học TINH 100 2 1
5 25 60 Không
6 Pháp luật đại cương
PLĐC 100 2 1,2 20 10 60 Không
7 QLHCNN-QLNGDĐT QLHC-N
100 2 5 15 5 25 60 Không
II. KHỐI KIẾN THỨC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGHIỆP 89
II.1. Kiến thức cơ sở ngành 7
II.1.1. Kiến thức cơ sở ngành chung
8 Tâm lý học đại cương TLGD111 2 1 20 10 60 LLCT1
00
9 Giáo dục học đại cương TLGD213 2 2 25 5 60 Không
10 TLHTE lứa tuổi MN TLHTE 14 3 2 30 15 90 TLHTE
11 Giáo dục hòa nhập GDHN500 0 5 25 10 60 Không
Trang 153
Stt Học phần Mã học
phần
Số tín
chỉ
Học
kỳ
Số tiết lên lớp Thực
hành,
thực
tập
tại cơ
sở
Số
giờ
tự
học
, tự
NC
Học
phần
tiên
quyết LT TL TH
/TN
12 Hướng dẫn sử dụng phần
mềm MN
HDPM
100 0 5 5 25 60
TINH
100
II.2. Kiến thức ngành 69
II.2.1. Kiến thức ngành chung 5
13 Sự phát triển thể chất trẻ
em ở lứa tuổi mầm non GDMN130 2 1 20 5 5 60 Không
14 Âm nhạc – Nhạc cụ GDMN211 3 2 05
40 90 GDMN
130
II.2.2. Kiến thức ngành 1 32
Kiến thức bắt buộc
15 Giáo dục học mầm non GDMN212 3 2 35
10 150 GDMN
211
16 Âm nhạc và tổ chức hoạt
động âm nhạc GDMN315 3 3 15 5 25
60 Không
17 Tạo hình và tổ chức hoạt
động tạo hình GDMN317 2 3 10 5 15
60 Không
18 Phương pháp khám phá
môi trường xung quanh GDMN319 3 3 15 5 25
90 GDMN
212
19 Phương pháp cho trẻ làm
quen với toán GDMN320 3 5 15 5 25
90 GDMN
212
20 Phương pháp giáo dục thể
chất trẻ em GDMN414 3 3 15 5 25
60 GDMN
212
21 Phương pháp phát triển
ngôn ngữ GDMN321 3 3 15 5 25
60 GDMN
212
22 Phương pháp làm quen
văn học
GDMN
322 3 3 15 5 25
60 GDMN
212
23 Chương trình và tổ chức
thực hiện chương trình GDMN547 3 5 15 5 25
60 GDMN
212/
GDMN
232
24 Đánh giá trong giáo dục GDMN523 2 5 10 5 15 60 TTNN1
Trang 154
Stt Học phần Mã học
phần
Số tín
chỉ
Học
kỳ
Số tiết lên lớp Thực
hành,
thực
tập
tại cơ
sở
Số
giờ
tự
học
, tự
NC
Học
phần
tiên
quyết LT TL TH
/TN
mầm non
25
Phòng bệnh và đảm bảo
an toàn trong giáo dục
mầm non
VSPB
413 2 4 10 5 15 60
GDMN
212
Kiến thức tự chọn (chọn
một học phần) 2
26 VHTE và đọc kể diễn
cảm GDMN539 2 6 20 10 10 60
GDMN
212
27 Giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mầm non GDMN537 2 6 20 10 10 60 Không
28 Kỹ thuật làm và sử dụng
đồ chơi, học liệu GDMN457 2 4 10 5 35 60 Không
II.2.3. Kiến thức ngành 2 32
Kiến thức bắt buộc 26
29 Nghe 1 TANH130 2 1 25 5 60 Không
30 Nghe 2 TANH231 2
4 25 5 60 TANH1
30
31 Nghe 3 TANH332 2
4 25 5 60 TANH2
31
32 Nói 1 TANH135 2 1 25 5 60 Không
33 Nói 2 TANH236 2
4 25 5 60 TANH1
35
34 Nói 3 TANH337 2
5 25 5 60 TANH2
36
35 Đọc 1 TANH140 2 2 25 5 60 Không
36 Đọc 2 TANH 241 2
4 25 5 60 TANH1
40
37 Đọc 3 TANH 342 2
5 25 5 60 TANH2
41
38 Viết 1 TANH145 2 2 25 5 60 Không
39 Viết 2 TANH246 2 4 25 5 60 TANH1
Trang 155
Stt Học phần Mã học
phần
Số tín
chỉ
Học
kỳ
Số tiết lên lớp Thực
hành,
thực
tập
tại cơ
sở
Số
giờ
tự
học
, tự
NC
Học
phần
tiên
quyết LT TL TH
/TN
45
40 Viết 3 TANH347 2
5 25 5 60 TANH2
46
41 Phương pháp cho trẻ làm
quen với Tiếng Anh TANH242 2 2 25 5 60
TANH3
47
3.1. Kiến thức tự chọn 2
(chọn 3 học phần, mỗi nhóm một học
phần)
6
Nhóm 1
42 Dịch nói TANH656 2 6 25 10 60 TANH2
36
43 Dịch viết TANH657 2 6 25 10 60 TANH3
47
44 Văn hóa ứng xử nơi công
sở QLVT532 2 6 20 10 10 60 Không
45 Kỹ năng thuyết trình QLVT635 2 6 15 30 60 Không
Nhóm 2
46 Văn học tiếng Anh cho
trẻ em TANH661 2 6 25 10 60
TAMN2
42
47 Khiêu vũ quốc tế GDTC601 2 6 10 5 35 60 Không
48 Tổ chức chương trình và
sự kiện QLVT646 2 6 20 10 10 60
Không
Nhóm 3
49 Ngữ pháp TANH252 2 6 25 10 60 Không
50 Giáo dục môi trường
trong trường mầm non MNCN434 2 4 15 10 20 60
TINH10
0
51 Nghiệp vụ lễ tân ngoại
giao VNH643 2 6 20 20 60
Không
4. Thực tập 8
52 RLNVSP 1 RLNV444 2 2,3 4
tuần
TANH2
42
Trang 156
Stt Học phần Mã học
phần
Số tín
chỉ
Học
kỳ
Số tiết lên lớp Thực
hành,
thực
tập
tại cơ
sở
Số
giờ
tự
học
, tự
NC
Học
phần
tiên
quyết LT TL TH
/TN
53 Thực tập Năm 2 TANH545 2 4 3
tuần
TANH4
44
54 Thực tập tốt nghiệp TANH646 4 6 10
tuần
TANH5
45
5. Tốt nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp TANH600 5 6
Hoặc
55. Giaó dục lấy trẻ làm
trung tâm GDMN680 2 6 20 15 5 60
TANH6
46
56. Tiếng Anh tăng cường
bậc 3 TANH662 3 6 40 10 90
TANH3
32, 337,
342,
347
TỔNG SỐ 105
Trang 157
CẬP NHẬT, ĐIỀU CHỈNH CHUẨN ĐẦU RA NGÀNH MẦM NON
TRƢỜNG CĐSP ĐÀ LẠT THEO THÔNG TƢ 26/2018/TT-BGDĐT
NHẰM BẮT NHỊP KHUNG NĂNG LỰC GIÁO VIÊN MẦM NON
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Nhâm Thị Hồng*
1. Đặt vấn đề
Bậc học mầm non rất quan trọng và giáo viên là yếu tố then chốt quyết định
chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Mỗi đứa trẻ sau này sẽ là ai, sẽ trở thành người
như thế nào, nhân cách của trẻ sẽ phát triển ra sao?... Một phần trách nhiệm thuộc về
các cô nuôi dạy trẻ, “người mẹ hiền thứ hai” của các em. Vì vậy, một đội ngũ giáo
viên mầm non được đào tạo bài bản là điều đáng mơ ước như Bác Hồ kính yêu đã nói
"Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho nền tảng giáo dục tốt".
Chất lượng đào tạo giáo viên mầm non phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có việc
xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra của ngành học. Chuẩn này yêu
cầu sinh viên tốt nghiệp chương trình đào tạo trình độ cao đẳng ngành Giáo dục mầm
non phải có: kiến thức nền tảng về khoa học xã hội nhân văn và khoa học giáo dục;
khả năng hình thành ý tưởng, thiết kế, thực hiện, đánh giá và cải tiến các hoạt động
giáo dục bậc mầm non trong bối cảnh hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Khung năng lực giáo viên dành cho các nước Đông Nam Á – do SEMEO xây
dựng, như một văn bản mang tính khuyến nghị cho tất cả các nước trong khối; để từ đó
mỗi nước căn cứ vào tình hình cụ thể của mình đề xuất phương án xây dựng chuẩn nghề
nghiệp giáo viên mầm non phù hợp với sự phát triển của xã hội và với xu thế hội nhập.
2. Nội dung
2.1. Khung năng lực giáo viên mầm non khu vực Đông Nam Á
Năm 2010, Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO) đã
có bản báo cáo tổng quan đánh giá chuẩn năng lực giáo viên hiện tại của 11 nước trong
khu vực liên quan đến mọi khía cạnh. Trong đó có đề cập và nhấn mạnh đến khung
năng lực giáo viên mầm non khu vực Đông Nam Á bởi bậc học mầm non là bậc học
nền tảng cho cả quá trình giáo dục con người. Theo SEAMEO thì đánh giá giáo viên
mầm non theo khung năng lực cần thể hiện có góc nhìn đến: đặc trưng phẩm chất nghề
nghiệp của giáo viên, chính sách và quá trình xây dựng chuẩn năng lực, đánh giá và
giám sát thực hiện chuẩn năng lực giáo viên, chính sách thưởng, đãi ngộ, khuyến khích
và các khuyến nghị chung trong bối cảnh giáo dục thế kỉ 21.
Khung năng lực đã đưa ra khuyến nghị chung cho các nước, làm căn cứ để xây
dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên, chuẩn đầu ra cho chương trình đào tạo trên cơ sở
* Giảng viên Khoa TH-MN
Trang 158
cụ thể hóa bối cảnh từng quốc gia, xây dựng và cụ thể hóa các chuẩn theo tiếp cận
“trục đối ngẫu”: trách nhiệm và năng lực (đáp ứng trách nhiệm đó) của giáo viên.
Khung năng lực có thành tố chính là 4 lĩnh vực thể hiện đặc thù công việc nghề
nghiệp của giáo viên mầm non. Mỗi lĩnh vực được chia ra thành những năng lực chung
kèm theo mô tả, biểu hiện của năng lực đó và ở mỗi biểu hiện đều có một “chỉ số
thành công”. Cụ thể 4 lĩnh vực này như sau:
Lĩnh vực 1 là biết và hiểu những gì tôi dạy (có thể hiểu là năng lực chuyên
môn), với 3 năng lực chung: Hiểu biết sâu và rộng về những vấn đề kiến thức chuyên
môn; hiểu biết về những thách thức chính sách trong giáo dục và chương trình; cập
nhật những vấn đề về địa phương, vùng, quốc gia và phát triển toàn cầu.
Lĩnh vực 2 là giúp đỡ người học học tập, với 2 năng lực chung: Hiểu biết về
người học; sử dụng những chiến lược dạy và học hiệu quả nhất.
Lĩnh vực 3 là kết nối với cộng đồng, với 3 năng lực chung: Kết nối với cha mẹ
hoặc người bảo hộ; thu hút cộng đồng trong việc hỗ trợ học sinh học tập; tôn trọng
người khác và chấp nhận sự khác biệt.
Lĩnh vực 4 là trở thành người giáo viên tốt hơn mỗi ngày, với 3 năng lực chung:
Biết mình biết người; thể hiện sự nhân văn trong cuộc sống và trong công việc; biết
điều khiển, quản lý hoạt động nghề nghiệp.
Điểm tích cực của khung năng lực
- Khung năng lực thể hiện tính chất định hướng và theo cách tiếp cận, đánh giá
dựa trên nguyên lý; cách xây dựng gọn và bao quát. Điều này phù hợp ở mặt vĩ mô vì
đây là văn bản mang tính khuyến nghị cho tất cả các nước trong khu vực Đông Nam
Á. Trên cơ sở đó, các nước sẽ cụ thể hóa tùy theo từng điều kiện cụ thể.
- Mô tả được hình ảnh giáo viên Mầm non ở tầm khu vực và những yêu cầu rất
mới đối với giáo viên ở thế kỷ 21. Nếu đạt được điều này, giáo viên Mầm non có thể
đáp ứng được yêu cầu ở bất kỳ đất nước nào trong khối ASEAN.
2.2. Thông tư 26/2018/TT-BGDĐT và những điểm mới của thông tư này
Thông tư 26/2018/TT-BGDĐT, Ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên
Mầm non do Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa kí tại Hà Nội ngày 08 tháng 10 năm 2018.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 23/11/2018.
Cụ thể những quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non được ban hành
kèm theo thông tư 26/2018/TT-BGDĐT gồm:
Chương I: Quy định chung
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Điều 2. Mục đích ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Chương II: Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
Điều 4. Tiêu chuẩn 1. Phẩm chất nhà giáo
Trang 159
Điều 5. Tiêu chuẩn 2. Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ
Điều 6. Tiêu chuẩn 3. Xây dựng môi trường giáo dục
Điều 7. Tiêu chuẩn 4. Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng
Điều 8. Tiêu chuẩn 5. Sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc), ứng dụng công nghệ
thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ em
Chương III: Hướng dẫn sử dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
Điều 9. Yêu cầu đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
Điều 10. Quy trình đánh giá và xếp loại kết quả đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo
viên mầm non
Điều 11. Chu kỳ đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
Những điểm mới
Trong thông tư quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non có những
điểm mới khác với các thông tư trước đây. Theo đó, giáo viên mầm non phải sử dụng
được một ngoại ngữ (ưu tiên tiếng Anh) hoặc tiếng dân tộc thiểu số đối với vùng dân
tộc thiểu số.
- Mức đạt: Sử dụng được các từ ngữ, câu đơn giản trong giao tiếp bằng một
ngoại ngữ; hoặc giao tiếp thông thường bằng tiếng dân tộc thiểu số đối với vùng dân
tộc thiểu số;
- Mức khá: Trao đổi thông tin đơn giản bằng một ngoại ngữ với nội dung liên
quan đến nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; hoặc giao tiếp thành thạo bằng tiếng
dân tộc thiểu số đối với vùng dân tộc thiểu số;
- Mức tốt: Viết và trình bày đoạn văn đơn giản về các chủ đề quen thuộc bằng
một ngoại ngữ trong hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em; hoặc sử dụng
thành thạo tiếng dân tộc đối với vùng dân tộc thiểu số.
Như vậy với thông tư mới này và với Khung năng lực giáo viên mầm non khu
vực Đông Nam Á thì chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra ngành mầm non trường
Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt phải có những bước chuyển mình thay đổi, cập nhật, điều
chỉnh bổ sung sao cho phù hợp. Đặc biệt là “Tiêu chuẩn 5: Sử dụng ngoại ngữ (hoặc
tiếng dân tộc), ứng dụng công nghệ thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt
động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em” trong chuẩn đầu ra.
2.3. Điều chỉnh bổ sung chuẩn đầu ra ngành mầm non theo thông tư 26/2018/TT-
BGDĐT nhằm bắt nhịp khung năng lực giáo viên mầm non khu vực Đông Nam Á
Chuẩn giáo viên hiện hành so với Khung năng lực giáo viên dành cho các nước
Đông Nam Á do SEMEO xây dựng có gì khác biệt?
Về cơ bản, chuẩn nghề nghiệp giáo viên hiện hành đã có dáng dấp trong khung năng
lực này. Tuy nhiên, chuẩn giáo viên Mầm non của Việt Nam rất đặc thù ở 2 khía cạnh:
Thứ nhất, nhấn mạnh vào phẩm chất chính trị.
Trang 160
Thứ hai, năng lực phát triển chuyên môn vẫn tập trung vào mô tả yêu cầu của
nghề nghiệp (mô tả công việc hiện tại) hơn là tạo cho họ định hướng của phát triển
nghề nghiệp (tự đánh giá, soi chiếu, cải tiến để phát triển).
Để bắt nhịp với khung năng lực giáo viên mầm non khu vực thì trong chương
trình đào tạo của trường CĐSP Đà Lạt và đặc biệt trong chuẩn đầu ra ngành mầm non
cần cập nhật theo nội dung thông tư 26/2018/TT-BGDĐT và cần phải thay đổi mục
tiêu đào tạo theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp.
Đề uất kiến nghị cho Khoa Mầm non khi điều chỉnh chuẩn đầu ra cập
nhật theo thông tƣ 26/2018/TT-BGDĐT và bắt nhịp với khung năng lực giáo viên
mầm non Đông Nam Á thì khoa cần thực hiện:
- Nghiên cứu thật kĩ thông tư 26/2018/TT-BGDĐT và khung năng lực giáo viên
mầm non Đông Nam Á
Bởi khung được xây dựng với các chuẩn hơi dài, hướng dẫn chuẩn chưa tỷ mỉ,
và hơi khó hiểu nên giảng viên phải nghiên cứu kĩ để tiếp cận và áp dụng. Chuẩn mang
tính chất chung, định hướng; nhưng hướng dẫn thực hiện chuẩn nên chi tiết, và định
hướng xây dựng chương trình đào tạo cho ngành Mầm non cần cụ thể hơn với thực tế.
Chuẩn nên mang tính định hướng phấn đấu cao chứ không phải dùng chuẩn để
đánh giá giáo viên theo mục đích về hành chính. Nên trong mỗi nội hàm miêu tả của
lĩnh vực, của năng lực, của chỉ báo, của minh chứng đều có 1 cho đến 2 từ khóa giúp
giáo viên dễ nhận diện được yêu cầu cần thực hiện. Cũng cần sử dụng những từ khóa
này cho chuẩn đầu ra của ngành học.
- Lưu tâm đến những thách thức đặt ra khi bắt nhịp với khung năng lực giáo viên
mầm non Đông Nam Á
Thứ nhất, thói quen đánh giá theo chuẩn, khung năng lực chưa rõ nét nên việc xây
dựng chuẩn đầu ra ngành học theo cách tiếp cận này phải cụ thể và khả thi khi áp dụng.
Thứ hai, một số yêu cầu về năng lực trong chuẩn còn khá mới, thách thức đối
với tư duy với văn hóa, với thực tế cuộc sống ở Việt Nam.
Thứ ba, yêu cầu với giáo viên thế kỷ 21 là nắm bắt được xu thế phát triển và
vấn đề mang tính toàn cầu, điều này giáo viên Việt Nam còn hạn chế.
- Rà soát chương trình đào tạo hiện hành và thiết kế chương trình đào tạo (bao
gồm thiết kế chương trình khung (dựa trên chuẩn đầu ra của chương trình); kế hoạch
đào tạo, các yêu cầu và điều kiện bảo đảm thực hiện chương trình; đề cương chi tiết
các học phần. với mỗi học phần cần trả lời câu hỏi: học phần này giúp cho việc hình
thành năng lực gì cho sinh viên? (chỉ rõ được nội dung chương, mục và đối chiếu với
chuẩn đầu ra của chương trình). Tất cả các đề cương chi tiết học phần được đưa ra xem
xét lại để lựa chọn, hoặc tái cấu trúc các nội dung từ nhiều đề cương các học phần
khác nhau để được một học phần mới có tính tích hợp đối chiếu được với chuẩn đầu ra
chương trình. Chương trình mới theo hướng tiếp cận năng lực người học do đó chương
Trang 161
trình phải thiết kế theo hướng tích hợp. Chỉ có chương trình giáo dục tích hợp mới có
thể hình thành năng lực cho sinh viên mầm non một cách toàn diện.
Xác định những điểm mạnh, điểm yếu của chương trình hiện hành để biết nó đã
đáp ứng được những kì vọng gì, đạt đến mức nào ở các năng lực của chuẩn đầu ra từ
đó làm cơ sở dữ liệu để thiết kế tích hợp theo khung năng lực giáo viên mầm non
Đông Nam Á. Tiếp theo là khảo sát để đánh giá các hoạt động giảng dạy của môn học
trong chương trình đào tạo.
Sau khi xác định được môn học, cần xây dựng đề cương chi tiết cho từng môn
học. Cụ thể cần xác định chuẩn đầu ra cho mỗi môn học; thiết kế các nội dung khác
trong đề cương môn học như hoạt động học, hoạt động dạy, lịch trình dạy và học từng
nội dung môn học, đánh giá kết quả học tập… Cuối cùng, hội đồng khoa học tiến hành
thẩm định, đối chiếu chương trình đào tạo tích hợp với chuẩn đầu ra, các tiểu chuẩn
kiểm định chất lượng để hoàn chỉnh và trình phê duyệt, ban hành.
3. Kết luận
Năng lực chung của giáo viên là năng lực cốt lõi được đúc kết, hội tụ bởi các
thành tố: Phẩm chất đặc trưng nghề nghiệp, kĩ năng nghề nghiệp, kiến thức chuyên
môn, các chuẩn mực đạo đức và giá trị nghề nghiệp cá nhân, sự phát triển nghề nghiệp
và học tập suốt đời. Cập nhật, điều chỉnh chuẩn đầu ra ngành mầm non CĐSP Đà Lạt
theo thông tư 26/2018/TT-BGDĐT nhằm bắt nhịp với khung năng lực giáo viên mầm
non khu vực Đông Nam Á là một trong những việc làm cần thiết bởi phát triển chương
trình đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội đang là xu thế phát triển quan trọng trong cả
nước đồng thời thực tế còn nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm hoặc có
việc làm nhưng phải đào tạo lại. Nâng chuẩn giáo viên theo khung năng lực mới chính
là điều kiện để đổi mới giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành trung ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Chuẩn đầu ra ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo quyết định số 385/QĐ-
CĐSP ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường CĐSP Đà Lạt.
3. Khung kế hoạch đào tạo ngành Giáo dục Mầm non ban hành kèm theo quyết định số
233/CĐSP –ĐT ngày 29 tháng 5 năm 2014 của Hiệu trưởng Trường CĐSP Đà Lạt.
4. Hội thảo “Khung năng lực giáo viên mầm non trong khu vực Đông Nam Á” Ngày
08/11/2018, SEAMEO – Trung tâm đào tạo của SEAMEO tại Việt Nam.
Trang 162
5. Thông tư 26/2018/TT-BGDĐT, Ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên Mầm
non do Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa kí tại Hà Nội ngày 08 tháng 10 năm 2018. Có hiệu
lực từ ngày 23/11/2018.
Trang 163
MỘT SỐ GỢI Ý TÌM Ý TƢỞNG ĐỂ VIẾT BÀI LUẬN
BẰNG TIẾNG ANH
Nguyễn Thị Mai Trâm*
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình học môn viết bằng tiếng Anh, sinh viên chuyên ngành sư
phạm tiếng Anh gặp không ít những vấn đề khó khăn về từ vựng, cấu trúc câu, ngữ
pháp, cách phân biệt các dạng bài luận, ý tưởng để viết bài... Trong phạm vi bài viết
này, một số gợi ý tìm ý tưởng cho bài viết sẽ được giới thiệu nhằm giúp sinh viên dễ
dàng hơn trong quá trình viết bài luận bằng tiếng Anh.
2. Giải quyết vấn đề
Để có thể tìm ý tưởng cho bài viết, người học có thể sử dụng một trong những
gợi ý sau:
2.1. Làm quen với những chủ đề phổ biến của bài luận
Có một số chủ đề thường hay xuất hiện trong các bài kiểm tra viết vì vậy
người học cần nắm được các chủ đề này như là Health, Environment, Education,
Globalization, Public Transport, Technology, Young Crime... Từ các chủ đề này người
học có thể tìm kiếm những từ vựng có liên quan.
Ví dụ: với chủ đề về Globalization, người học cần phải tìm ra những từ vựng
có liên quan như:
Flat world, global village, socio-economic development, loss of national
identity, uniformity, on a global scale, global distribution system, recession, foster,
promote, eliminate import tariffs (on something)
Với vốn từ vựng phong phú người học dễ nghĩ ra ý tưởng hơn cho bài viết.
Mỗi người đều có cách nhớ từ khác nhau. Một số người có thể vẽ hình bên cạnh từ,
những người khác lại sử dụng từ đồng nghĩa hoặc từ trái nghĩa. Những người khác lại
viết câu với từ mới đó… Một điều nữa không kém phần quan trọng là người học phải
thường xuyên ôn lại những từ đã học. Ngoài ra người học cũng nên đọc những bài báo
hay những tài liệu liên quan đến các chủ đề nhằm tăng vốn từ và tìm được ý tưởng để
phát triển bài luận của mình.
2.2. Sử dụng bản đồ tư duy (Mind Mapping)
Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp tốt nhất để
chuyển tải thông tin vào bộ não của người học và sau đó đưa thông tin ra ngoài bộ não,
là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo theo đúng nghĩa của nó, “sắp xếp” ý nghĩ
của bạn.
Bản đồ từ duy là sự thể hiện trực quan các ý tưởng của người học bao gồm các
từ hình ảnh và màu sắc. Nó giúp người học có một cái nhìn tổng quan để có thể hiểu
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 164
chi tiết hơn và xác định được các mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của chủ
đề giúp người học dễ dàng hơn trong viết sắp xếp ý tưởng của mình cho bài luận.
Ví dụ: khi viết về đề tài Environment Pollution, người học có thể sử dụng bản
đồ tư duy để triển khai ý tưởng của mình về chủ đề này như sau:
Một số người học thích phương pháp này, bởi vì nó thể hiện cách bộ não của
họ hoạt động và cho phép họ sắp xếp suy nghĩ của mình. Bản đồ tư duy có tổ chức hơn
nhiều so với việc đơn giản là động não và có thể được thực hiện rất nhanh một khi bạn
đã thực hành một vài lần với các câu hỏi khác nhau.
Cách tạo một bản đồ tư duy có kỹ thuật là đặt các từ khóa chính ở trung tâm
và sau đó đặt các từ khóa phụ lên các nhánh. Nhược điểm duy nhất của phương pháp
này là một số sinh viên dành quá nhiều thời gian để tạo ra bản đồ tư duy hoàn hảo.
Điều này không cần thiết vì bản đồ từ duy chỉ nhằm giúp người học có ý tưởng đề viết
Trang 165
bài luận chứ không có điểm cho một bản đồ tư duy đẹp vì vậy bước này nên được thực
hiện nhanh chóng.
2.3. Viết tự do (Free Writing)
Với cách thức này người học sẽ viết liên tục tất cả những ý tưởng có trong đầu
về đề tài mà không cần phải chú ý đến cấu trúc câu hay ngữ pháp.
Ví dụ:
Some people think that money should be spent on protecting endangered
species while others think it is a waste of valuable money. What is your opinion?
Endangered species must be the panda. To protect panda we need to provide
them bamboos, but the wood is in danger because people keep cutting down trees.
Animals are important, they can be food, pet, help the environment, like bees. One
animal will affect the existence of other animals like wolves will eat chicken, and then
chickens eat worms. But money can be saved for other stuff like helping others to
study or for health, or for the hospital. It is very hard to save these rare animals, there
are tons of other animals on the planet. Why do we have to save some of them? But if
we don‟t they will die out and many others will die out, eventually, something
affecting directly to humans will die too, and then humans will die. Viet Nam has
many endangered species and the government are trying to save as many as possible
because they have meanings and values for the environment and human beings. This
year panda is no longer an endangered species, prove that we can do something to save
these animals.
Khi đã hoàn thành bài viết tự do, người học cần đọc lại những gì mình đã viết
và lựa chọn những ý tưởng phù hợp với đề tài được yêu cầu viết.
2.4. Đặt câu hỏi với 5 W’s và 1 H
Đặt câu hỏi là một giải pháp hữu ích nhằm chia nhỏ chủ đề ra thành những
phần cơ bản để người học có thể hiểu rõ hơn về chủ đề.
Người học có thể đặt câu hỏi với 5 W‟s (Who, Why, When, Where, What) và
1 H (How) để thu thập thông tin về chủ đề cần viết. Phương pháp này phù hợp cho
những người suy nghĩ rất logic và cũng biết một chút về chủ đề này.
Ví dụ:
In about 140 words, write a paragraph about an important person in your life.
Tìm ý cho bài viết với 5W‟s và 1H
– Who? my mother
– Why? raise me, love me, teach me, and protect me
– When?
- raise me – When: I was born to finish school
- love me – When: through her life, I got sick, I feel depressed…
Trang 166
- teach me – whenever I raise a question, whenever she find information good for me, I
feel depressed – through her life
- protect me –when I got sick, I be in danger…..
– Where? at home, outside….
– How?
- raise me: used the last coin to buy food for me, always make priority for me…
- love me: devote her life for me…..
- teach me: her experience, research the answer through books or internet, ask others
- protect me: sacrifice her life for me, try to give anything being needed for me…
– What? what is example for the idea above, what make me impressed about situation
mentioned above….
2.5. Lấy ý kiến cá nhân
Đây cũng là phương pháp hiệu quả vì nó vừa nhanh nhất vừa giúp người học
tập trung vào câu hỏi. Với phương pháp này người học tưởng tượng họ đang ngồi với
bạn bè hoặc thành viên gia đình ở một nơi nào đó và họ hỏi ý kiến của bạn. Trong một
kỳ thi có rất nhiều áp lực đối với người học và người học thường cảm thấy khó nghĩ,
nhưng nếu ở trong một môi trường thoải mái với một người bạn, người học sẽ không
gặp vấn đề gì khi đưa ra ý kiến của mình.
Để nghĩ ra nhiều ý tưởng hơn, người học chỉ cần tưởng tượng rằng bạn của
mình có ý tưởng khác về chủ đề và viết ý tưởng của họ xuống.
Ví dụ:
Your friend: „Do you think it‟s a good idea that young people take a year off
between school and university to work or travel?‟
You: „Yes. Many young people are not mature enough to go to university at 18
and travelling or working will help them mature. Working for a year could also allow
them to save money and gain valuable work experience. If they go travelling, they will
get to experience different cultures. They may learn the precious value of each coin
earned. . . .
3. Kết luận
Như vậy để có thể tìm ý tưởng cho bài viết, người học có thể có nhiều cách
khác nhau như là tìm hiểu những chủ đề thường xuất hiện trong các đề tài viết, sử
dụng bản đồ tư duy, viết tự do, sử dụng những câu hỏi và lấy ý kiến cá nhân. Nếu sử
dụng được những gợi ý trên, người học sẽ cảm thấy tự tin hơn khi viết bài bằng tiếng
Anh. Bên cạnh đó, việc kiên trì và quyết tâm luyện tập của người học cũng là yếu tố
không kém phần quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng viết bằng Tiếng Anh.
Trang 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://blog.prepscholar.com/college-essay-ideas
2.https://prowritingaid.com/art/291/5-Ways-to-Come-Up-With-the-Great-Essay-
Ideas.aspx
4. https://www.mindmeister.com/blog/mind-maps-essay-writing/
5. https://www.scribbr.com/academic-essay/the-writing-process-generating-ideas-for-
your-topic/
Trang 168
GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
LÀ YÊU CẦU TRONG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN
ĐƢỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Thị Anh*
1. Đặt vấn đề
Việc giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn vốn là nội dung rất quan trọng trong
toàn bộ quá trình dạy và học. Đối với các môn khoa học khác, vấn đề gắn lý luận và
thực tiễn có thể không mấy bức thiết, nhưng riêng các bộ môn lý luận chính trị ở các
trường đại học, cao đẳng thì vấn đề gắn lý luận với thực tiễn là yêu cầu vô cùng quan
trọng và cần thiết.
Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan
tâm đến mục đích học tập: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại; học để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, cải tạo con người. Do đó, học phải kết hợp với thực hành, học và hành phải thống
nhất với nhau. Chương trình giảng dạy phải thiết thực với đối tượng học tập. Người
phê phán kiểu dạy lý luận, chính trị một cách chung chung, không thiết thực, học cho
hay, học rồi mà không dùng được.
Học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐLCMCĐCSVN)
là một trong những học phần bắt buộc và giữ vị trí, vai trò quan trọng trong chương trình
giáo dục đại học và cao đẳng trong cả nước. Mục tiêu của học phần Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam là giới thiệu, phân tích và lý giải những quan điểm, chủ
trương, chính sách và quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện, cũng như những thành tựu và
hạn chế của quá trình thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong công cuộc đổi
mới xây dựng đất nước hiện nay để sinh viên có thể nắm được đầy đủ những chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm vận dụng thực hiện trong quá
trình học tập, nghiên cứu và công tác sau khi tốt nghiệp ra trường.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có những biến động,
phức tạp; song Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội nhằm xây dựng nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết cần có sự thống nhất ý chí
và hành động của toàn Đảng, toàn dân. Yêu cầu đó đặt ra cho công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng nói chung và quá trình học tập, thực hiện đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
* Giảng viên Khoa Bộ mông chung
Trang 169
Để nâng cao chất lượng dạy và học học phần ĐLCMCĐCSVN, cũng như nâng
cao hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng; góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng đến gần với người học, giúp sinh viên hiểu và vận dụng những kiến
thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đúng với đường lối của Đảng thì điều
quan trọng hàng đầu là giảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng
dạy học phần ĐLCMCĐCSVN.
2. Nội dung
2.1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Như chúng ta đã thấy sẽ không thể có một bài giảng sinh động, hấp dẫn, “có
hồn” khi giảng viên chỉ có lý luận suông mà không biết gắn lý luận này với thực tiễn
sinh động đang diễn ra. Một bài giảng sinh động, hấp dẫn là bài giảng đảm bảo được
tính thống nhất, gắn kết được một cách hài hoà giữa lý luận và thực tiễn. Yêu cầu
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình giảng dạy đã được đề ra từ lâu, đặc
biệt là các bộ môn lý luận chính trị.
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong dạy
học nói chung và trong giảng dạy các môn học thuộc về lĩnh vực chính trị nói riêng.
Tầm quan trọng đó không chỉ thể hiện ở chỗ: "Quan điểm về đời sống về thực tiễn,
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức", mà trong suốt quá
trình đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã rút ra bài
học vô giá là: "Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự
lãnh đạo đúng đắn của đảng". Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa
lý luận và thực tiễn là cần thiết.
Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối
liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật hiện tượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình
lịch sử.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội – lịch sử của con
người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý;
sự hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn;
lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực
và mục đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý
luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch sử cho thấy, con
người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Trong
quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện tác động vào các sự vật,
Trang 170
hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính qui luật, nhờ đó mà con
người có được những hiểu biết về thế giới khách quan. Ban đầu con người thu nhận
những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, trừu tượg hóa, khái quát hóa... để xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực
tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không
có nhận thức, không có lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp cho thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý
luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở
những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận
bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất
lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông
qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với nhau,
hợp thành một chỉnh thể và làm tiền đề cho nhau. Trong đó thực tiễn là nguồn gốc của
lý luận, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý, là cơ sở cho tư duy của con người khi
xác định nhiệm vụ và kế hoạch hành động; thực tiễn không đứng im, luôn vận động,
biến đổi… lý luận được khái quát từ thực tiễn và chỉ đạo cho hành động của con người
để giải quyết những vấn đề thực tiễn nhằm đáp ứng lợi ích của mình. Lý luận không
gắn với thực tiễn là lý luận suông. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, nên lý luận phải
được vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn… Như vậy, nắm
thực chất của lý luận và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận vào thực tiễn chính là nội
dung mấu chốt của nguyên tắc liên hệ lý luận với thực tiễn trong quá trình dạy và học.
2.2. Việc gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy học phần ĐLCMCĐCSVN hiện nay
Để nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy học phần ĐLCMCĐCSVN tại
trường CĐSP Đà Lạt, đồng thời tránh sự khô khan, nặng về lý thuyết, tạo hứng thú học
tập cho sinh viên, đưa những chủ trương, đường lối của Đảng đến với thực tiễn thì việc
gắn lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng với thực tiễn cuộc sống xã hội, đất nước
là điều đặc biệt quan trọng trong giảng dạy học phần ĐLCMCĐCSVN.
Từ thực tiễn công tác giảng dạy học phần ĐLCMCĐCSVN trong thời gian qua,
theo tôi để nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng học phần ĐLCMCĐCSVN cần quan
tâm đến một số vấn đề sau đây:
Trước hết, giảng viên giảng dạy học phần phải nắm vững các nội dung lý luận
mà mình đảm nhiệm giảng dạy, để qua đó có sự lựa chọn đúng. Không phải tất cả các
Trang 171
nội dung lý luận trong bài giảng đều cần có liên hệ thực tế, mà chỉ ở những vấn đề nào
quan trọng, cần thiết nhấn mạnh, khó hiểu, hay muốn tăng thêm tính thuyết phục…
Ví dụ: Khi dạy chương 2: Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
thì chủ yếu sử dụng các tư liệu lịch sử để minh họa cho sinh viên hiểu rõ hơn về chủ
trương, chính sách của đảng thời kỳ này, còn ít có ví dụ thực tiễn. Nhưng khi dạy các
chương đường lối của Đảng trong các lĩnh vực (chương 4,5,6,7,8) thì cần lấy ví dụ
thực tiễn rất nhiều.
Không chỉ vậy, nắm vững lí luận còn giúp giảng viên lựa chọn được loại kiến
thức thực tiễn nào, ở mức độ nào thì phù hợp. Như chúng ta biết, thực tiễn rất rộng và
đa dạng, như Hồ Chủ tịch đã nói: "Thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách
mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm
công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng cho đến các vấn đề
trong nước và trên thế giới. Đó là những thực tế mà chúng ta cần liên hệ...".. Một vấn
đề lí luận có thể có nhiều hiện tượng, hoạt động thực tiễn để liên hệ, phân tích, chứng
minh; và một bài giảng cần gắn lí luận với thực tiễn không chỉ một, hai lần. Do đó để
tránh sự trùng lặp, đơn điệu cũng như để các liên hệ thực tiễn đưa vào bài giảng sát,
phù hợp với những vấn đề lí luận định làm rõ, chứng minh thì nhất thiết giảng viên
phải nắm vững kiến thức lí luận của từng tiết mục, từng bài và toàn bộ nội dung mà
mình đảm nhiệm.
Thứ hai, những giảng viên giảng dạy môn học này cần phải chủ động cập nhật
kiến thức, nhất là nắm bắt những nghị quyết mới của Đảng đề ra trong tình hình hiện
nay của đất nước. Hiện nay giáo trình của môn ĐLCMCĐCSVN vẫn chưa cập nhật
được các nội dung Nghị quyết mới của đại hội XII của đảng, chính vì vậy trong quá
trình giảng dạy giảng viên phải cập nhật để cung cấp cho sinh viên những vấn đề mới
nhất, để có thể liên hệ với thực tiễn đất nước.
Thứ ba, giảng viên phải thường xuyên bám sát thực tiễn, nắm rõ tình hình đất
nước và thế giới trong từng giai đoạn để lấy ví dụ thực tiễn chính xác và phù hợp nhất
đối với từng phần, từng nội dung của môn học. Đặc biệt là tinh hình kinh tế, chính trị,
xã hội ở địa phương sinh viên sinh sống, học tập. Ví dụ: vấn đề phát triển kinh tế của
đất nước, vấn đề đối ngoại hợp tác quốc tế, vấn đề giáo dục...
Thứ tư, phải đảm bảo tính khoa học khi đưa các yếu tố thực tiễn vào bài giảng đó
là: yếu tố thực tiễn đưa vào bài giảng phải có tính điển hình, tính thời sự, tính chính xác,
có địa chỉ rõ ràng và phù hợp nội dung lí luận đang cần được phân tích chứng minh.
Ví dụ: Khi dạy phần: Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên lấy ví dụ cụ
thể và nói rõ địa điểm của quá trình CNH, HĐH ở địa phương.
Thứ năm, giảng viên phải linh hoạt, sáng tạo, thường xuyên đổi mới phương
pháp giảng dạy để mang lại hiệu quả nhất. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa chuyển tải
kiến thức cơ bản trong tổ chức giảng dạy với tổ chức thảo luận, xêmina, sinh hoạt ngoại
Trang 172
khóa, nhất là tham quan các di tích lịch sử, các cơ sở kinh tế - xã hội… để sinh viên
không những nắm vững kiến thức, mà còn “tận mục sở thị” những vấn đề của thực tiễn
đời sống. Từ đó chủ động vận dụng kiến thức vào thực tiễn, giải quyết những vấn đề
vướng mắc theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thứ sáu, về phía người học: Trước hết sinh viên cần thấy được ý nghĩa của môn
học đối với bản thân, từ đó hình thành thái độ học tập đúng đắn.Trong quá trình học
tập, sinh viên nên mạnh dạn trao đổi với giảng viên, chủ động nêu lên những vấn đề
thắc mắc hoặc bản thân quan tâm, nhất là những vấn đề thực tiễn đời sống để hiểu rõ
hơn quá trình lãnh đạo của Đảng đối với đất nước. Bên cạnh việc học tập tại lớp, cần
thiết phải có nỗ lực tự học, tự tiếp thu những tri thức hữu ích, từ việc quan sát thực tế,
tham quan học tập hay từ nguồn thông tin qua phim ảnh, sách báo, tài liệu có chọn lọc
nội dung phù hợp.
Thứ bảy, về phía nhà trường và khoa chuyên môn: Nhà trường và khoa chuyên
môn cần tạo điều kiện để cho sinh viên học học phần ĐLCMCĐCSVN được đi tham
quan thực tế các di tích lịch sử, bảo tàng, các cơ sở kinh tế xã hội để các em hiểu rõ
hơn về chủ trương, đường lối của Đảng và vận dụng những kiến thức mình đã học vào
giải quyết các vấn đề xã hội hiệu quả nhất.
3. Kết luận
Như vậy, ĐLCMCĐCSVN là môn học có tính khái quát cao, thể hiện những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; với tầm nhìn tư duy chiến lược độc lập, tự
chủ và sáng tạo của Đảng. Môn học này có ý nghĩa thiết thực cho việc hình thành
phẩm chất đạo đức, lập trường chính trị của thế hệ trẻ. Vì vậy, việc đảm bảo tính gắn
kết, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đang được đặt ra như một yêu cầu, một
nguyên tắc tối quan trọng và mang tính tất yếu khách quan nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác giảng dạy học phần này. Mỗi một giảng viên đều cần phải quán triệt yêu
cầu có tính sống còn này và làm tốt hơn nữa việc gắn lý luận với thực tiễn trong giảng
dạy học phần ĐLCMCĐCSVN, để môn học này phát huy được ví trị, vai trò của nó
trong chương trình giáo dục cao đẳng, đại học hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 01-CT/TW, ngày 22-3-2016 của Bộ Chính trị về về học tập, quán triệt,
tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngnghen (1994): Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội.
4. Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trang 173
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia.
6. Nguyễn Viết Thông (2016), Những điểm mới nổi bật trong văn kiện Đại hội XII của
Đảng, trang TTĐT, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trang 174
TRÕ CHƠI NHỎ CHO THIẾU NHI,
HỌC SINH TRƢỜNG TIỂU HỌC VÀ TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Phạm Ngọc Bút*
1. Đặt vấn đề
Trò chơi sinh hoạt tập thể trong hoạt động Đội, trong hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, trong hoạt động vui chơi của học sinh, thiếu nhi trường tiểu học và trường
trung học cơ sở, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp tạo bầu không khí sôi nổi, vui
tươi và gắn bó, liên kết các học sinh, đội viên, thiếu nhi với nhau.
Vậy trò chơi là gì ?
- Trò chơi là một hoạt động tự nhiên bày ra để vui chơi và giải trí, rất cần thiết
nhằm thỏa mãn những nhu cầu giải trí đa dạng của con người.
- Trò chơi là một phương pháp giáo dục thực hành hiệu nghiệm nhất đối với
việc hình thành nhân cách, trí lực của thanh thiếu niên.
- Trò chơi nhỏ là một cuộc vận động sinh hoạt do một người hoặc nhiều người
tổ chức cho một số người tham gia theo một quy ước có sẵn, trong một thời gian, địa
đểm để đem lại ý nghĩa riêng cho mỗi người và của tất cả mọi người.
Mục đích của trò chơi nhỏ?
- Đối với các phong trào thanh thiếu niên, trò chơi là một lợi khí chính yếu
trong những phương pháp giáo dục, giúp trẻ em rèn luyện và phát triển toàn mỹ các
* Phó trưởng phòng TCCB-CTSV
Trang 175
giác quan chính, làm cho các bạn trẻ khéo léo hơn, trí tưởng tượng phong phú hơn. Trò
chơi còn giúp trẻ biết quan sát và phản ứng nhanh, biết tôn trọng kỷ luật, biết tự chủ,
từ đó nảy nở tình đồng đội, đoàn kết thương yêu nhau...
- Thông qua trò chơi, các nhà giáo dục, các anh chị cán bộ phụ trách sẽ hiểu rõ
hơn về tính tình của các bạn Đội viên như: bạn nào sôi nổi hoạt bát,mạnh bạo, bạn nào
tính tình nhút nhát, ích kỷ, vị tha, nóng nảy, điềm đạm, thông minh, đần độn, khéo léo,
vụng về...
Mục đích của bất kỳ trò chơi nào cũng mang một ích lợi trong việc giáo dục
nhân cách và rèn luyện ý chí nhất định:
+ Tăng cường sức khỏe: Trò chơi thường được tổ chức ngoài thiên nhiên
thoáng đãng, không khí trong lành. Có nhiều trò chơi cần đến sự vận động cơ bắp như:
chạy nhảy, kéo đẩy, mang vác...
+ Luyện giác quan: Với những trò chơi phản ứng nhanh, ghi nhớ, nhanh mắt,
thính tai, lẹ tay, quan sát, tập trung tư tưởng... (trò chơi tìm kim, thò thụt, cái tát bất
ngờ, bịt mắt bắt dê...
+ Luyện ý chí và ý thức: Hăng say đua tranh để giành chiến thắng. Tự chủ,
không rụt rè, sợ hãi, không bị lôi cuốn bởi nhiệt tình bồng bột. Chấp hành kỷ luật của
trò chơi. Kiên nhẫn trong khi chơi. Biết sáng tạo, linh động.
+ Luyện tính tình: Các bạn trở nên vui vẻ, sôi động. Rèn luyện tính đồng đội,
biết đoàn kết gắn bó với nhau để giành chiến thắng, phát triển năng khiếu tốt, sự can
đảm, gan dạ, lòng vị tha..
2. Phân loại trò chơi
2.1. Phân loại trò chơi theo sự năng động
- Trò chơi động: Là những trò chơi có sự chuyển động hoặc vận dụng đến cơ
bắp của người chơi như chạy nhảy, nhào lộn, kéo đẩy, gồng gánh, vượt chướng ngại..
- Trò chơi tĩnh: Là những trò chơi cần vận dụng trí óc và giác quan, người chơi ít
di chuyển cũng như ít vận động cơ bắp, những trò chơi tĩnh như: bắn tên, ghi nhớ lâu...
- Trò chơi đối kháng: Là những trò chơi mà các bạn chơi được chia ra nhiều
nhóm nhỏ và quản trò tổ chức cho các bạn thi đối kháng từng đôi một và chọn hai
nhóm xuất sắc nhất vào chung kết. Ví dụ như kéo co, …
2.2. Phân loại trò chơi theo không gian
- Trò chơi ngoài trời: Hầu như tất cả những trò chơi đều có thể chơi được ngoài
trời, nhưng chúng ta phải lưu ý là sân chơi phải phù hợp với trò chơi. Thí dụ: sân đất
cứng, sân gạch hay xi măng... thì không nên chơi những trò chơi mạnh bạo, có thể té
ngã gây thương tích. Sân có nhiều cây cối, chướng ngại... thì không nên chơi rượt đuổi
hay bịt mắt...
- Trò chơi trong nhà: Thường áp dụng trong giờ giải lao của một buổi hội họp,
học tập... hoặc vì mưa gió không thể chơi.
Trang 176
Ngoài ra, người ta còn phân trò chơi theo từng thể loại như, trò chơi luyện giác
quan (ai đây, bịt mắt), trò chơi khéo léo (ném bóng, thổi đèn cầy), trò chơi nhanh nhẹn
(đập tay, ném bóng), trò chơi lý luận (có, không), trò chơi phản xạ (trời đất, nước, bắn
súng), trò chơi vận động nhẹ (chuyền dép), trò chơi luyện trí nhớ (kim)...
2.3. Yêu cầu trò chơi
Để có một trò chơi đúng nghĩa và bổ ích phải hội đủ 3 yếu tố sau:
- Xây dựng bầu khí
- Rèn luyện kỹ năng
- Giáo dục chiều sâu
Thiếu một trong ba yếu tố trên, trò chơi sẽ trở thành phản tác dụng, có tai hại
nhất thời hoặc sâu xa.
Xây dựng bầu khí: Trò chơi phải góp phần xây dựng một bầu không khí vui
tươi, sống động, lôi kéo mọi người cùng tham gia, xóa bỏ xa lạ ngại ngùng, khép kín,
thụ động, giải tỏa mọi căng thẳng, đem lại niềm vui và nụ cười(cần hỗ trợ một vài bài
hát sinh hoạt ngắn, vui, vài băng reo hay múa tập thể đơn giản).
Rèn luyện kỹ năng: Làm sao để cho các bài tập thể dục biến thành trò chơi
phản xạ nhanh, tháo vát... (con cò con bò con sò, thụt thò, dài ngắn cao thấp...). Các
bài khóa huấn luyện kỹ năng khô khan, biến thành trò chơi ứng dụng thực hành hiệu
quả và hấp dẫn (đua xe tam mã, tìm vàng...). Các bài toán rối trí biến thành trò chơi
động não, suy luận, phân tích lý thú.
Giáo dục chiều sâu: Yêu cầu này, chúng ta không nhận thấy bộc lộ một cách
rõ rệt nhưng lại hết sức quan trọng. Nó giúp người chơi nhận thức được tinh thần đồng
đội và kỷ luật tập thể, tính trung thực trong khi thi đấu, mối tương quan ứng xử tốt đẹp
trong xã hội, vâng phục người lớn, tôn trọng người khác...
2.4. Chọn lựa trò chơi
Chúng ta thường ít quan tâm đến việc chọn lựa trò chơi cho thật phù hợp với
hoàn cảnh, mà cứ nhớ trò chơi nào là “xào” trò chơi đó, cho nên đôi khi gặp nhiều
trường hợp lố bịch, phản giáo dục, quá thấp hay quá cao so với trình độ người tham dự...
Chúng ta nên chọn lựa trò chơi theo những yếu tố sau:
- Chọn lựa trò chơi theo độ tuổi
- Chọn lựa trò chơi theo giới tính
- Chọn lựa trò chơi theo trình độ
- Chọn lựa trò chơi theo số lượng người tham dự
- Chọn lựa trò chơi theo kỹ năng tập thể (đã từng sinh hoạt, chưa quen sinh
hoạt, quen biết nhau hay còn xa lạ...)
- Chọn lựa trò chơi theo tình trạng sức khỏe và tinh thần (hưng phấn, vui vẻ hay
mệt mỏi, buồn chán...)
Trang 177
- Chọn lựa trò chơi theo sân bãi (trò chơi trong rừng, trò chơi trên sân cứng, trên
bãi cát mềm, trò chơi dưới nước...).
- Chọn lựa trò chơi theo thời gian (ngày, đêm).
Ngoài ra, chúng ta cũng cần để ý đến các yếu tố thời tiết, ánh sáng, dụng cụ,
khung cảnh, hoàn cảnh... Một trò chơi hay mà đưa ra không đúng lúc thì cũng tẻ nhạt,
vô ích và đôi khi lố bịch.
2.5. Điều khiển trò chơi
Trò chơi có hấp dẫn hay không là tùy thuộc vào nghệ thuật điều khiển của
người quản trò. Cần thực hiện các yêu cầu sau đây:
2.5.1. Xác định đối tượng: Lứa tuổi, giới tính, trình độ, sức khỏe, đặc điểm tâm sinh lý.
2.5.2. Số lượng người chơi: Chọn những trò chơi sao cho phù hợp với số lượng người
chơi và cố gắng làm sao cho càng nhiều người tham gia vào trò chơi càng tốt. Đừng
nên chọn một trò chơi mà từ đầu đến cuối chỉ có một hai người chơi, còn bao nhiêu thì
làm khán giả.
2.5.3. Điều kiện sân bãi (hay trong phòng): Diện tích sân chơi có thể chứa được bao nhiêu
người. Trò chơi nào phù hợp với sân bãi hay phòng ốc đó (thí dụ: một sân khá rộng, có
thể chứa được nhiều người, nhưng không phù hợp với những trò chơi có rượt đuổi).
2.5.4. Dụng cụ: Nếu là trò chơi cần có dụng cụ (gậy, banh, dây, khăn, còi...) thì phải
chuẩn bị sẵn.
2.5.5. Ước lượng những tình huống có thể xảy ra
Trong khi hăng say tranh giành phần thắng về mình, các bạn sẽ bất chấp tất cả
mưa gió, té ngã, trầy da sứt trán, rách áo quần... đôi khi dẫn đến sự trớ trêu, lố bịch
(nhất là những trò chơi mạnh, hỗn hợp nam nữ), hoặc lén lút ăn gian, qua mặt trọng tài
hay người hướng dẫn để giành phần thắng... chúng ta cũng nên lưu ý đến yếu tố ánh
sáng, thí dụ nếu trời tối mà người hướng dẫn ra hiệu bằng ngón tay hoặc những vật
nhỏ... thì người chơi không thể nào nhìn thấy được.
3. Quy trình tổ chức một trò chơi thiếu nhi
3.1. Bước 1: Ổn định tổ chức, bố trí đội hình
Để tập trung sự chú ý của đội hình (người tham gia chơi), người quản trò cần
tạo sự tập trung, ổn định bằng hai yếu tố: tiếng động (thường gặp) và hình dáng.
- Tiếng động: Cho đội hình hát, một trò chơi băng reo hoặc trò chơi phản xạ từ
thấp lên cao.
- Hình dáng: Người quản trò bước ra với dáng điệu ngộ nghĩnh, duyên dáng
cũng tạo sự thu hút chú ý của người chơi.
3.2. Bước 2: Giới thiệu trò chơi
Có thể lồng trò chơi vào các câu chuyện cổ tích, chuyện vui để tạo sự háo hức,
hứng thú. Tuy nhiên cần ngắn gọn và hấp dẫn.
Trang 178
3.3. Bước 3: Hướng dẫn cách chơi, luật chơi
Tuỳ theo mỗi trò chơi mà quản trò linh động hướng dẫn cho người chơi nắm
vững cách chơi và hiểu rõ luật chơi. Có những trò chơi phức tạp cần hướng dẫn đầy đủ
trước rồi mới chơi, nhưng cũng có những trò chơi đơn giản thì có thể chơi ngay, vừa
chơi thừ vừa giải thích, làm sao cho dễ hiểu, dễ nắm mới thu hút người chơi.
4.4. Bước 4: Tiến hành chơi và vai trò của người điều khiển
4.4.1. Chơi thử (chơi nháp)
Rất quan trọng nhưng cần lưu ý:
- Nếu thử nhiều: khi chơi thật sẽ nhàm chán.
- Nếu không chơi thử hoặc chơi thử quá ít thì người chơi chưa nắm được cách
chơi và hiểu rõ luật chơi sẽ gây khó khăn cho quản trò khi hướng dẫn chơi.
4.4.2. Chơi
- Khi chơi ngươi quản trò nên cùng chơi với tập thể để tránh khoảng cách và
động viên khích lệ người chơi cần trọng tài.
- Trong quá trình chơi, quản trò có thể chuyển hướng khác với dự kiến ban đầu
một ít thì người quản trò nên linh động khéo léo dẫn đắt. Đừng quá nguyên tắc, cứng
ngắc làm mất vui, mất không khí sinh hoạt.
- Người quản trò phải công bằng xử lý tình huống một cách khách quan, không
thiên vị, không quá dễ dãi.
- Tác phong ngưòi quản trò phải chuẩn mực, ngôn ngữ phải sư phạm không thô
thiển, phong cách vui tươi, dí dỏm, duyên dáng.
4.5. Bước 5: Nhận xét, đánh giá, thưởng, phạt
- Nhận xét, đánh giá về thái độ và ý thức tham gia chơi.
- Biểu dương, khích lệ, khen ngợi những em có thái độ và kết quả tốt trong cuộc
chơi; phê bình, nhắc nhở những em chưa tập trung chú ý khi tham gia chơi.
- Trò chơi hình phạt: Hãy quan niệm hình phạt là một trò chơi nhỏ, đừng nên
bắt ép quá đáng mà nên khuyến khích, động viên người bị phạt tham gia (phạt cũng
phải mang tính giáo dục).
* Một số điều cần lƣu ý khi tổ chức trò chơi cho học sinh, thiếu nhi
+ Ngừng đúng lúc
Cần phải biết lúc nào ngừng trò chơi (do kinh nghiệm quan sát, kinh nghiệm
chơi). Đảm bảo sức khỏe cho ngơi chơi, tạo sự luyến tiếc cho lần chơi sau. Đừng để
người chơi nhàm chán, than mệt và ngán chơi.
+ Tính cách ngƣời hƣớng dẫn
- Người hướng dẫn ngoài khả năng tạo bầu không khí sinh động, vui vẻ cho tập
thể, người hướng dẫn còn phải biết khai thác góc cạnh giáo dục của trò chơi. Muốn
được như vậy, người tổ chức trò chơi cho thiếu nhi-học sinh cần phải rèn luyện một số
đức tính cũng như cần có một số điều kiện sau:
Trang 179
- Biết coi trò chơi như là một công cụ giáo dục, một việc làm đúng đắn.
- Thật tâm yêu mến trẻ và dễ dàng hòa nhập với họ.
- Bản thân phải vui vẻ, hăng hái thì mới lôi cuốn mọi người.
- Đã từng điều khiển trò chơi nhiều lần, có vốn liếng phong phú về trò chơi.
- Biết tường tận mọi biến thái của trò chơi và tiên liệu được mọi tình huống có
thể xảy ra.
- Bản lĩnh vững vàng, tài năng đa dạng, ứng biến nhanh nhạy... và có thể biến
tất cả các bài học thành trò chơi.
- Biết tự rút cho mình những bài học về những sai phạm, vấp váp hay thành
công sau mỗi lần điều khiển một trò chơi.
- Bản lĩnh vững vàng, tài năng đa dạng, ứng biến nhanh nhạy... và có thể biến
tất cả các bài học thành trò chơi.
- Biết tự rút cho mình những bài học về những sai phạm, vấp váp hay thành
công sau mỗi lần điều khiển một trò chơi.
+ Những điều ngƣời quản trò nên tránh
- Tránh không tổ chức, hướng dẫn những trò chơi khi mình không đủ hoặc
không vững kiến thức về trò chơi đó.
- Tránh tình trạng không chuẩn bị trước, làm qua loa, nói một đường làm một nẻo.
- Không được áp đặt người chơi, tranh cãi hoặc to tiếng với người chơi.
- Tùy theo chương trình sinh hoạt tập thể mà có những trang phục thích hợp,
không nên phô trương và cũng không nên quá sơ sài, lộm thuộm.
- Tránh hiện tượng thiên vị hoặc cố tình bắt phạt một người nào đó vì lý do
hiềm khích cá nhân.
- Những hình phạt các em làm sai cũng nên dừng lại ở mức độ nhắc nhở, nội
dung phạt phải vui, tế nhị, tạo được không khí vui vẻ giữa người chơi và người bị phạt.
- Trước khi tổ chức thực hiện các trò chơi, cần nắm lại đầy đủ tình hình các đối
tượng dự chơi (những ai đau yếu, mệt mỏi, thiếu vắng …), nơi chơi (có gì thay đổi đột
xuất), dụng cụ mang theo (đủ, thiếu, tốt, hư hỏng …).
4. Kết luận
Hoạt động vui chơi là hoạt động không thể thiếu đối với thiếu nhi, học sinh
trong trường tiểu học và trung học cơ sở. Trò chơi và vui chơi đối với thiếu nhi và học
sinh giống như cơm ăn, áo mặc, nước uống. Trò chơi và vui chơi là phương tiện
chuyển tải các nội dung giáo dục đến với thiếu nhi, học sinh một cách hiệu quả nhất, là
một phương pháp quan trọng trong quá trình tổ chức các họat động giáo dục cho học
sinh trường tiểu học và trung học cơ sở. Vì vậy để tổ chức trò chơi nhỏ có chất lượng
cho học sinh trường tiểu học và trung học cơ sơ đòi hỏi các nhà giáo dục, người tổ
chức trò chơi cho các em phải am tường về trò chơi, nắm vững quy trình và phương
pháp tổ chức trò chơi.
Trang 180
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. O Pan Đun (biên soạn), Hoàng Túy-Lê Phương Liên (biên dịch) (1987), Trò chơi
trẻ em Châu Á, NXB Kim Đồng.
2. Trần Quang Đức (chủ biên) (2003), 72 trò chơi tập thể trong sinh hoạt Đoàn, Hội,
Đội, NXB Thanh niên.
3. Nguyễn Hạnh (tuyển chọn) (2002), 100 trò chơi dân gian, NXB Trẻ.
4. Trịnh Trung Hiếu (chủ biên) (1986), Trò chơi thi đấu giải, NXB TP. Hồ Chí Minh.
5. Trần Phiên (sưu tầm và biên soạn) (2004), Băng reo, tiếng reo. NXB Trẻ.
6. Hà Nhật Thăng (chủ biên), Bùi Ngọc Diệp, Ngô Tú Hiền, Nguyễn Thị Kỷ, Nguyễn
Dục Quang, Lê Thanh Sử (2004), Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, lớp 7,8,9,
NXB Giáo dục.
7. Bùi Sỹ Tụng (chủ biên), Lê Kiến Thiết, Phan Nguyên Thái, Nguyễn Trọng Tiến
(2005) - Hoạt động nghiệp vụ của Đội TNTP Hồ Chí Minh, NXB Đại học Sư phạm.
8. Đào Kim Trang, Võ Thanh Hùng, Huỳnh Hữu Tân, Trương Ngọc Thời-Khoa kỹ
năng hoạt động thanh niên trường đoàn Lý Tự Trọng Vui đời trại, (1990) NXB Trẻ.
Trang 181
VẬN DỤNG MÔ HÌNH HỌC TẬP QUA DỰ ÁN TRONG
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC LẤY TRẺ LÀM TRUNG TÂM
Trần Thị Hồng*
1. Mở đầu
Học tập qua dự án (HTQDA) được nghiên cứu và áp dụng từ lâu trên thế giới từ
bậc mầm non đến đại học ở những mức độ khác nhau. Bản chất của mô hình này là tổ
chức lớp học nhằm làm năng động hoá lớp học truyền thống vốn lấy bài học làm trung
tâm và người thầy làm trọng tâm. Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây,
HTQDA đã được nghiên cứu và ứng dụng. Tuy nhiên, quá trình này chỉ thực hiện nhỏ
lẻ, không chính quy, không hệ thống và chủ yếu chỉ ở bậc trung học và tiểu học. Gần
như chưa có một định hướng nào cho việc áp dụng mô hình này ở giáo dục mầm non.
Trong giáo dục mầm non, quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đã được hiện thực
hoá trong các chương trình giáo dục mầm non qua các giai đoạn. Đặc biệt, từ chương
trình Giáo dục mầm non 2009 và tiếp tục được sửa đổi năm 2018, lấy trẻ làm trung
tâm là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt. Theo chương trình này, nội dung và các hoạt động
giáo dục được triển khai theo hướng tích hợp theo chủ đề, nhằm giúp trẻ phát triển
toàn diện, liên tục, đáp ứng được sự đa dạng của vùng miền và đối tượng trẻ [2 . Như
vậy, việc nghiên cứu, áp dụng mô hình tổ chức hoạt động giáo dục để phát huy vai trò
trung tâm của trẻ là một việc làm cấp thiết, đồng thời việc nghiên cứu, tìm hiểu để tìm
ra sự tương đồng và tính khả thi của HTQDA với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm ở trường mầm, qua đó đề xuất hướng vận dụng tổ chức các dự án hoạt động cho
trẻ là một việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn, góp
phần vào quá trình nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục mầm non hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Học tập qua dự án
Những dự án trong lớp học đã không còn xa lạ với nền giáo dục phương Tây,
nhưng cách tiếp cận dạy và học được gọi là học tập qua dự án thì mới chỉ tồn tại trong
những năm gần đây. Có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về học tập qua dự
án, trong đó học tập qua dự án được hiểu là một mô hình tổ chức lớp học nhằm làm
năng động hoá lớp học truyền thống vốn lấy bài học làm trung tâm, lấy giáo viên làm
trọng tâm. Học tập quá dự án hướng tới mục tiêu lâu dài, lấy người học làm trung tâm,
liên nội dung và tích hợp với các vấn đề thực hành, thực tế. Bằng việc giáo viên lùi lại,
đảm nhận vai trò dẫn dắt và trao quyền cho người học làm chủ quá trình học tập, người
học hình thành tinh thần trách nhiệm đối với việc học, từ đó tạo dựng môi trường học
tập chủ động hơn [6 .
* Trưởng Khoa TH-MN
Trang 182
HTQDA không phải là làm dự án, bởi đầu ra của các dự án thông thường là sản
phẩm thì đầu ra của dự án học tập là năng lực, là kiến thức và thái độ cần được phát
triển. Phương pháp tiếp cận HTQDA là một cách đi sâu vào các chủ đề trong thế giới
thực, xứng đáng với sự quan tâm, nỗ lực của người học. Do đó, các hoạt động trải
nghiệm thực tế là những hoạt động có thể truyền tải được tinh thần học tập qua dự án,
giúp người học với những phong cách học tập khác nhau có thể bồi đắp kiến thức của
mình qua những phương thức khác nhau.
HTQDA giúp người học phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hiện tại,
tương lại trong bối cảnh xã hội dựa trên nền tảng tri thức và công nghệ cao. Mô hình
trường học cũ nên việc học tập diễn ra thụ động thiếu thực tế đã tách rời người học ra
khỏi cuộc sống thực và làm xói mòn khả năng sinh tồn của thanh niên trong thế giới
ngày nay. Để đối mặt với thế giới ngày càng phát triển phức tạp, người trẻ cần phải
trang bị cho mình cả kỹ năng cơ bản và kỹ năng thời đại số. Với sự kết hợp của hai
nhóm kỹ năng này, người học tự quản lý việc học của mình bên cạnh sự hướng dẫn, cố
vấn bởi các giáo viên có kinh nghiệm.
2.2. Mục tiêu và tính chất của học tập qua dự án
Mục tiêu của HTQDA: Mục tiêu của dự án học tập không phải là hoàn thiện sản
phẩm cuối cùng cho bằng được mà thông qua quá trình tìm hiểu vấn đề, phát triển giải
pháp, triển khai dự án để người học có thể hình thành được kiến thức, kỹ năng và quan
trọng hơn cả là thái độ học tập, chiếm lĩnh tri thức. HTQDA và các dự án thực tế khác
nhau ở mục tiêu thực hiện. Trong khi người làm dự án thật có mục tiêu cơ bản là hoàn
thành dự án, bất kể là công việc, sở thích hay theo yêu cầu, các dự án học tập lại có
chủ đích đạt được giá trị giáo dục.
Có rất nhiều hình thức khác nhau để triển khai một dự án học tập, tuỳ thuộc vào
mục tiêu học tập mà dự án hướng tới. Một dự án có thể diễn ra trên lớp, giải quyết một
vấn đề trong một môn học, hoặc ở phạm vi bên ngoài trường học, giải quyết một vấn đề
thực tế đời sống. Cho dù phạm vi nội dung, quy mô triển khai của các dự án có khác
nhau nhưng vẫn cùng chung một phương thức học tập: Học qua làm thực tế. Chính bởi
mục tiêu học qua làm, nên các khái niệm của từng môn học cần tránh bị gò bó trong các
tiêu chuẩn hoá, tập trung vào sự hợp tác và giao tiếp thay vì truyền đạt thông tin. Qua
việc lấy bản thể dự án, thay vì các kiến thức khái niệm làm đối tượng học tập, người học
được đặt vào vị trí trung tâm để phát huy tính khám phá, đổi mới và sáng tạo.
Các tính chất của HTQDA: (-) Tính xác thực: Tính chất này giúp khoanh vùng
kiến thức, rút ngắn khoảng cách giữa người học và kiến thức. Một dự án có tính xác
thực cao khi: giải quyết vấn đề, câu hỏi có ý nghĩa với người học; người học được
tham gia vào một vấn đề, câu hỏi đang thực sự được quan tâm và giải quyết bởi người
lớn; dự án yêu cầu người học tạo ra những kết quả, sản phẩm mang giá trị cá nhân, giá
trị xã hội bên ngoài phạm vi lớp học. (-) Tính học thuật chính xác: Vừa là tiêu chí, vừa
Trang 183
là phương tiện để rèn luyện tính chuyên nghiệp, sự kiên nhẫn của người học. Tính học
thuật chính xác của một dự án có thể được hình thành thông qua các phương pháp như:
Hướng dẫn người học hiểu rõ mối liên kết giữa các khái niệm; đề ra một số tiêu chuẩn
về việc áp dụng các mảng kiến thức, nội dung vào dự án; thử thách/gợi ý người học sử
dụng phương pháp nghiên cứu nhất định; yêu cầu người học tìm kiếm các ý kiến, quan
điểm khác nhau về cùng một vấn đề và bằng chứng cho các quan điểm đó. (-) Tính
trưởng thành: Được thể hiện bởi sự kết nối, mở rộng quá trình học tập với sự tham gia
của những chuyên gia bên ngoài lớp học. Sự kết nối với những đối tượng bên ngoài
lớp học là một gợi ý để góp phần cho các dự án vươn ra khỏi phạm vi lớp học. Các kết
nối này có thể thực hiện với sự tham gia của những người lớn bên ngoài không gian
trường học, vừa gia tăng tính thực tế, vừa gia tăng tính trưởng thành của dự án. (-)
Tính khám phá chủ động: Được hình thành khi người học quan sát thực tế, đặt câu hỏi,
giải thích và trình bày. Để gia tăng tính khám phá chủ động, nhà giáo dục có thể yêu
cầu nhóm dự án dành phần lớn thời gian cho việc quan sát thực địa; yêu cầu nhóm dự
án sử dụng nhiều phương pháp, phương tiện truyền thông khác nhau để trình bày kết
quả dự án; tổ chức các buổi triển lãm chính thức vào cuối học kỳ, năm học để người
học truyền đạt lại những gì mình học được qua việc trưng bày, thuyết minh sản phẩm.
(-) Tính ứng dụng: Được thể hiện qua khả năng thực hành ngay lập tức các kiến thức,
kỹ năng mới vào cuộc sống thực tế. Để tăng giá trị tính thực tế của dự án, giáo viên
khuyến khích người học thường xuyên đưa ra nhận định về sự kiện, nội dung phát
triển nó thành một vấn đề và tiến hành giải quyết vấn đề theo nhóm; khuyến khích
người học tự lập kế hoạch theo dõi hiệu năng học tập để trẻ có thể nhìn nhận lại sau
một khoảng thời gian nhất định; tổ chức bài giảng trong bối cảnh ngoài lớp học, nơi có
thể nhìn hoạc thiết lập tình huống thực tế. (-) Tính đánh giá thực tiễn: Đòi hỏi sự tham
gia từ nhiều nhóm đối tượng: bạn cùng lớp, cùng trường, cô giáo, phụ huynh, chuyên
gia và các thành viên khác trong xã hội... Muốn nâng cao tính đánh giá thực tiễn,
người học và người hướng dẫn cần phải xây dựng được các tiêu chí đánh giá rõ ràng;
nâng cao khả năng tự đánh giá và đánh giá ngoài của các thành viên tham gia dự án;
tạo cơ hội để người học có thể tiến hành đánh giá thường xuyên, đánh giá chéo, dự các
triển lãm các dự án khác...
2.3. Sự phù hợp giữa học tập qua dự án với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm ở trường Mầm non hiện nay
Để nhấn mạnh hơn vai trò của giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, Bộ GD-ĐT ban
hành Kế hoạch số 56/KH-BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường
mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020. Kế hoạch đã xác định một
trong những mục tiêu quan trọng là bảo đảm tất cả trẻ đều được tạo cơ hội học tập qua
chơi và bằng nhiều cách khác nhau phù hợp với nhu cầu, hứng thú và khả năng của
bản thân trẻ [3 . Với mục tiêu này, nội dung của kế hoạch ghi rõ các cơ sở giáo dục
Trang 184
mầm non phải “Đổi mới hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ và đánh giá sự phát triển của
trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” [3 .
Kế hoạch số 56/KH-BGDĐT đã xác định 5 nhóm tiêu chí xây dựng trường
mầm non lấy trẻ làm trung tâm bao gồm: 01) Môi trường giáo dục; 2) Xây dựng kế
hoạch giáo dục; 3) Tổ chức hoạt động giáo dục; 4) Đánh giá sự phát triển của trẻ; 5)
Sự phối hợp giữa nhà trường, cha mẹ và cộng đồng trong giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm [3 . Tổng cộng 23 tiêu chí trong kế hoạch là cơ sở để các trường mầm non xây
dựng một quá trình giáo dục tổng thể vì trẻ, do trẻ và dựa vào trẻ.
Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cũng được thể hiện trong yêu cầu về
phương pháp giáo dục mầm non quy định tại Chương trình giáo dục mầm non hiện
hành là “Đối với giáo dục nhà trẻ, phương pháp giáo dục phải chú trọng giao tiếp
thường xuyên, thể hiện sự yêu thương và tạo sự gắn bó của người lớn với trẻ; chú ý
đặc điểm cá nhân trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp, tạo cho trẻ có cảm
giác an toàn về thể chất và tinh thần; tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt
động giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi, kích thích sự phát triển các
giác quan và các chức năng tâm - sinh lí; tạo môi trường giáo dục gần gũi với khung
cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà trẻ. Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp
giáo dục phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường
xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo
phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chú trọng đổi mới tổ chức môi trường
giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng
tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục trẻ trong
nhóm bạn với giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có phương pháp
giáo dục phù hợp. Tổ chức hợp lí các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ và
cả lớp, phù hợp với độ tuổi của nhóm/lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và
hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế”[5 .
Những ưu điểm sau đây của HTQDA đối với trẻ mầm non cho thấy sự phù hợp
của mô hình học tập này với các tiêu chí xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung
tâm và yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non ở trên.
- HTQDA giúp trẻ hình thành và phát triển những năng lực cần thiết đáp ứng
nhu cầu thời đại ngày nay.
Những năng lực cần thiết trong thời đại ngày nay đã được UNESCO (1998) xác
định ở 4 trụ cột của việc học đó là học để biết, học để làm, học để chung sống và học
để tự khẳng định. HTQDA có thể giúp trẻ hình thành các năng lực biết, làm, chung
sống và tự khẳng định khi lấy trẻ làm trung tâm, tạo cơ hội để trẻ tích cực, chủ động và
sáng tạo trong học tập. HTQDA tạo nên sự chuyển biến quan trọng từ dạy học “giáo
điều” sang dạy học “tích cực hoá hoạt động học tập”.
- DHTDA giúp trẻ phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo
Trang 185
Khi nghiên cứu về HTQDA ở trẻ nhỏ, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra mức độ chủ
động và ra quyết định của trẻ trong nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo đó, nếu giáo
viên là người dẫn dắt và định hướng cho những dự án để trẻ tìm hiểu, khám phá thì
mức độ chủ động và ra quyết định của trẻ sẽ càng cao. Theo đó, HTQDA là một sân
chơi cho những cuộc tìm hiểu, khám phá sâu của trẻ. Lúc này, trẻ hoàn toàn có thể chủ
động cả việc đưa ra vấn đề và cách giải quyết vấn đề. Giáo viên giữ vai trò khuyến
khích, động viên và “châm ngòi” cho mọi tình huống có vấn đề đến với trẻ. Nhu cầu
bức thiết giải quyết mâu thuẫn giữa “cái đã biết” và “cái chưa biết” sẽ tạo ra sự căng
thẳng về trí tuệ, tác động đến tính tích cực, độc lập tư duy, đòi hỏi trẻ phải nhớ tri thức
cũ, tập trung chú ý, khắc phục khó khăn… để giải quyết vấn đề. Những kiến thức và kĩ
năng có được từ những hoạt động này là nền tảng cơ bản để trẻ tiếp tục học tập ở bậc
học cao hơn.
- HTQDA khai thác nội dung học tập vừa cụ thể, vừa có tính liên môn.
Các chủ đề học tập trong HTQDA mang tính chất cụ thể luôn gắn với thực tiễn
và kinh nghiệm sống của trẻ. Mỗi chủ đề học tập là một “đơn vị kiến thức” tương đối
hoàn chỉnh. Nó cho phép trẻ đi sâu tìm hiểu về một vấn đề mà trẻ quan tâm và trẻ sẽ lĩnh
hội được những kiến thức tương đối toàn diện. Tuy nhiên, để giải quyết được một vấn
đề cụ thể đòi hỏi trẻ phải huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính vì
vậy học tập qua tham gia dự án sẽ giúp trẻ vận dụng được những kiến thức đã biết, đã
học của nhiều môn học khác nhau để tìm hiểu sâu về một vấn đề mà trẻ thích thú, quan
tâm. Điều này sẽ giúp trẻ tiếp thu kiến thức mang tính chất hệ thống và có tính kế thừa.
- HTQDA mở rộng không gian và thời gian cho hoạt động học tập.
HTQDA tạo cơ hội cho trẻ có thể học tập ở không gian mở rộng hơn. Trẻ có thể
thực hiện dự án vừa ở trường vừa ở nhà hay ở vườn rau, cánh đồng, công viên…
Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu và vận dụng lí thuyết
vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Điều này làm cho hoạt động học tập sống
động hơn, mang tính thực tiễn cao hơn. Thời lượng dành cho một dự án tùy thuộc vào
nội dung cụ thể. Với thời lượng kéo dài có thể từ 1 tuần đến 1 tháng, trẻ có nhiều thời
gian hơn để tìm hiểu sâu các nội dung học tập chứ không chỉ giới hạn trong 1-2 hoạt
động học tập trên lớp.
- HTQDA tạo nên sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
HTQDA nhấn mạnh sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa giáo viên, bố mẹ trẻ và
cộng đồng xã hội. Điều này tạo cơ hội cho gia đình và xã hội tham gia vào công tác
giáo dục trẻ trong một vài giai đoạn nào đó của dự án. Giáo viên cần tạo ra cầu nối
giữa nhà trường với phụ huynh, giữa trẻ với các chuyên gia và với các lực lượng xã
hội khác để hỗ trợ trẻ thực hiện tốt các dự án học tập. Ví dụ tổ chức các cuộc gặp gỡ
với chuyên gia để tìm thông tin cho dự án, huy động phụ huynh hỗ trợ trẻ chuẩn bị các
chuyến tham quan, tạo điều kiện cho trẻ thể hiện các kiến thức và kĩ năng đã có…
Trang 186
2.4. Vận dụng mô hình học tập qua dự án trong tổ chức hoạt động giáo dục ở
trường Mầm non
HTQDA được vận dụng như là một hình thức hỗ trợ cho giáo dục tích hợp theo
chủ đề hiện nay, nhằm phát huy vai trò trung tâm của trẻ trong các hoạt động giáo dục.
Các dự án có thể được lồng ghép mọi lúc, mọi nơi trong chế độ sinh hoạt của trẻ như
hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều... giáo viên cần lên kế hoạch cho
việc thực hiện dự án cùng với các kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ theo năm học, theo
tháng/chủ đề, theo tuần, ngày và theo từng hoạt động.
Dự án không nhất thiết phải có sự tham gia của toàn bộ trẻ trong lớp mà còn có
thể tổ chức cho nhóm trẻ quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh nào đó của chủ đề đang
tìm hiểu, khám phá. Cũng có thể tiến hành nhiều dự án song song, mỗi nhóm tiến hành
một dự án xoay quanh chủ đề đang thực hiện ở trường mầm non nhưng cùng trình bày
sản phẩm ở giai đoạn đóng chủ đề. Khi đó, ngoài cách đóng chủ đề thông thường, trẻ
trong lớp còn được giới thiệu, trao đổi với nhau về những gì đã làm được ở dự án. Đây
sẽ là cách khép lại chủ đề ấn tượng và mở ra cho trẻ nhiều ý tưởng về chủ đề tiếp theo.
Để dự án diễn ra thuận lợi, quá trình tổ chức hoạt động không chỉ có sự tham
gia của giáo viên và trẻ mà vai trò của phụ huynh cùng các lực lượng giáo dục khác
cũng không thể thiếu. Phụ huynh có thể tham gia từ khâu chọn đề tài đến tổ chức các
hoạt động trải nghiệm, tổng kết dự án.
Tổ chức HTQDA cho trẻ mầm non có 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Bắt đầu dự án
Bắt đầu dự án là bước đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình thực hiện dự
án. Giáo viên thực hiện việc bắt đầu dự án thành công sẽ tạo cho trẻ hứng thú, động
lực để khám phá dự án một cách tích cực. Giai đoạn này giúp cho giáo viên khảo sát
được kiến thức của trẻ về đề tài đã lựa chọn để chủ động định hướng hoạt động của trẻ.
Còn về phía người học: Trẻ được tái hiện lại những kiến thức mình đã biết về đề tài và
liệt kê ra những điều mình muốn biết thêm về đề tài, giáo viên có thể gợi ý để trẻ tìm
ra vấn đề. Từ đó trẻ tự lập được kế hoạch cho mình trong quá trình khám phá dự án:
Tìm câu trả lời cho những thắc mắc bằng cách nào? Ở đâu? Khi nào? Bắt đầu dự án
được tiến hành với các công việc cụ thể như sau:
Chọn đề tài: Giáo viên xác định sở thích, hứng thú và mối quan tâm của trẻ
bằng cách quan sát, trò chuyện với trẻ, trao đổi với phụ huynh làm cơ sở đề xuất đề tài.
Sau đó, giáo viên thử đề tài bằng các biện pháp như kể chuyện, xem tranh ảnh, tổ chức
trò chơi, tạo hình, xem video, trò chuyện… để thăm dò hứng thú của trẻ. Dữ liệu thu
thập được từ bước thử này giúp giáo viên quyết định chọn đề tài.
Lập mạng kiến thức trẻ đã biết và muốn biết: Giáo viên tổ chức trò chuyện để
tìm hiểu thêm về những gì trẻ đã biết và những gì trẻ muốn biết về đề tài đã chọn. Câu
trả lời của trẻ sẽ được tổng hợp và ghi lại trên giấy A0 treo ở lớp học.
Trang 187
Chuẩn bị tiến hành dự án: Giáo viên chuẩn bị tài liệu, trang thiết bị và dự kiến
các nguồn lực hỗ trợ; đề xuất kế hoạch phám phá; hệ thống lại nội dung trẻ cần tìm
hiểu và cách thức thực hiện; liên hệ các nguồn lực hỗ trợ.
Giai đoạn 2: Triển khai dự án
Giai đoạn triển khai dự án là quá trình trẻ thực hành tìm hiểu các kiến thức trả
lời cho các thắc mắc của mình bằng các hoạt động với các kỹ năng: tìm kiếm, thu thập,
lưu trữ và xử lý thông tin, tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế.
Trong giai đoạn này giáo viên sẽ giúp trẻ lên kế hoạch tìm kiếm thông tin qua
các phương tiện như máy ảnh, máy tính, chuyến đi, vẽ… sau đó trẻ sẽ báo cáo lại kết
quả tìm được thông tin đó. Triển khai dự án thường tổ chức những hoạt động sau:
Tổ chức cho trẻ tìm hiểu/khám phá/trải nghiệm: Giáo viên tổ chức cho trẻ thăm
các địa điểm vui chơi, nói chuyện với khách tham quan, xem video, xem sách, hình ảnh
hoặc hiện vật, tìm kiếm thông tin trên mạng internet… Trẻ sẽ được khuyến khích khám
phá theo sở thích để tìm câu trả lời cho những câu hỏi của mình. Giáo viên tạo cơ hội
cho trẻ tìm kiếm thông tin, khám phá thực địa, gặp gỡ các chuyên gia, khách mời.
Tổ chức cho trẻ trình bày những điều trẻ đã khám phá được. Giáo viên tổ chức
một cuộc trò chuyện chung cho cả nhóm để trả lời các câu hỏi trong danh sách, xem lại
các sản phẩm mà trẻ đã tạo ra trong quá trình khám phá (tranh vẽ, các bản phác họa,
sản phẩm nặn, phim, đoạn ghi âm…). Giáo viên ghi lại vào sổ tay tất cả những gì trẻ
trình bày và cất giữ sản phẩm của trẻ. Giáo viên giúp trẻ đối chiếu những gì đã khám
phá được với mạng kiến thức trẻ muốn biết.
Giai đoạn 3: Kết thúc dự án
Kết thúc dự án là bước cuối cùng trong một dự án học. Ở bước này, trẻ được thể
hiện lại những kiến thức, kỹ năng trẻ lĩnh hội được qua quá trình khám phá dự án. Để
làm được điều đó đòi hỏi trẻ phải có kỹ năng ghi nhớ, tổng hợp, thuyết trình…
Giai đoạn kết thúc dự án trẻ có thể so sánh minh chứng, bằng chứng với những
cái trẻ đã biết và muốn biết, sau đó cùng nhau thảo luận về cách trình bày, thể hiện với
mọi người.
Cuối cùng các bé có thể mời bố mẹ, khách, bạn bè tới tham dự buổi tổng kết để
chứng kiến và xem mình thể hiện sự hiểu biết thông qua những vấn đề trong dự án vừa
học. Kết thúc dự án tiến hành với các hoạt động sau:
Tổ chức hoạt động tổng kết: Giáo viên và trẻ tổng kết những sản phẩm đã có
được từ dự án như tranh ảnh, video, tác phẩm tạo hình, sơ đồ, mô hình, công trình, sản
phẩm ngôn ngữ như thơ, truyện, kịch bản văn học, bài hát,… mạng kiến thức trẻ đã
biết được bổ sung khi dự án kết thúc.
Giáo viên thảo luận với trẻ về hoạt động tổng kết dự án, cho trẻ đề xuất cách
thức tổ chức và người mà trẻ muốn chia sẻ. Sau đó, giáo viên tổ chức hoạt động theo
kế hoạch đã thảo luận như triển lãm, làm báo cáo, sách tranh, tổ chức các trò chơi, diễn
Trang 188
kịch, ca nhạc, gửi sản phẩm về nhà, trưng bày trong lớp, làm các tập tin tuyên truyền,
thiết lập chuỗi các hoạt động của dự án để trưng bày.
Đánh giá dự án: Bước này bao gồm giáo viên tự đánh giá việc tổ chức thực hiện
dự án của mình, giáo viên đánh giá sự tham gia hoạt động của trẻ, trẻ tự nhận xét, đánh
giá về mình và phụ huynh đánh giá những hoạt động mà họ tham gia cùng trẻ.
Xây dựng bài học kinh nghiệm và xem xét dự án tiếp theo: Giáo viên xây dựng
bài học kinh nghiệm bằng cách trả lời các câu hỏi: Có kinh nghiệm gì về lựa chọn chủ
đề? Đây có phải là một chủ đề hay không? Trẻ có những hiểu biết và kĩ năng đáp ứng
mục tiêu giáo dục đã đặt ra không? Đã học được gì từ từng giai đoạn, từng bước thực
hiện dự án? Sẽ làm gì khác biệt trong dự án tiếp theo? Có gợi ý gì cho những giáo viên
khác khi tổ chức thực hiện dự án tương tự? Có chủ đề nào mới xuất hiện cho dự án
tiếp theo?...
Sau đó, giáo viên tiến hành tương tự từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 3 theo hướng
dẫn đối với các dự án khác. Tuỳ vào nhu cầu, hứng thú của trẻ và đặc điểm tình hình
thực tế, các bước tổ chức dự án có thể được điều chỉnh phù hợp.
3. Kết luận
Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đã và đang được thực hiện trong giáo
dục mầm non hiện nay đã góp phần quan trọng thúc đẩy các cơ sở giáo dục mầm non
đổi mới hình thức giáo dục, tích cực hoá hoạt động học tập và khám phá của trẻ. Học
tập theo dự án, với những ưu việt đã được chứng minh trên thế giới, là một trong
những hình thức tổ chức hoạt động giáo dục đáp ứng được những yêu cầu của quan
điểm trên. Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình học tập theo dự án vào giáo dục mầm non
ở Lâm Đồng không phải là rập khuôn máy móc mà cần linh hoạt, mềm dẻo để phù hợp
với điều kiện thực tế của cơ sở giáo dục, trình độ chuyên môn của giáo viên, trình độ
nhận thức của trẻ và sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Điều này cần có
sự nghiên cứu nghiêm túc và bài bản về lí luận và thực tiễn để xác lập những luận cứ
khoa học xác đáng cho việc đề xuất những định hướng áp dụng dạy học theo dự án
một cách hiệu quả và khả thi, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ,
đẩy mạnh việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục mầm non theo chủ trương của
Đảng và Nhà nước.
Trang 189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD-ĐT (2015), Điều lệ trường mầm non.
2. Bộ GD-ĐT (2017), Chương trình Giáo dục Mầm non.
3. Bộ GD-ĐT (2017), Kế hoạch 56/KH-BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây
dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016-2020.
4. Bộ GD-ĐT (2018), Chương trình Giáo dục Mầm non.
5. Hoàng Anh Đức, Tô Thuỵ Diễn Quyên (2019), Học tập qua dự án, NXB Giáo dục
Việt Nam.
6. Trần Bá Hoành (2003), Dạy học lấy người học làm trung tâm - Nguồn gốc, bản
chất, đặc điểm, Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số 96/2003, tr 1-5.
Trang 190
PHƢƠNG PHÁP DẠY - HỌC KIỂU TRUYỆN DŨNG SĨ
TRONG TRUYỆN CỔ KƠHO THUỘC CHƢƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN ĐỊA PHƢƠNG LÂM ĐỒNG
Đàm Thị Thắm*
1. Đặt vấn đề
Trong kho tàng văn học dân gian Lâm Đồng, bên cạnh kho tàng tục ngữ và ca
dao, truyện dân gian cũng rất phong phú và đa dạng. Phong phú bởi nguồn truyện dân
gian có được từ ba dân tộc tiêu biểu: Kơho, Mạ và Churu; đa dạng bởi nó phản ánh
nhiều mặt của cuộc sống, con người địa phương. Tuy nhiên, trong vẻ đẹp nhuần nhụy
chung của truyện dân gian, kiểu truyện dũng sĩ của dân tộc Kơho đặc biệt hấp dẫn người
đọc bởi sự độc đáo của nó: vừa mang tính lãng mạn, ảo tưởng của truyện cổ tích thần kì
lại có yếu tố huyền bí của thần thoại. Kiểu truyện về người dũng sĩ được giới thiệu trong
Tài liệu dạy học Ngữ văn - Lịch sử - Địa lí địa phương tỉnh Lâm Đồng(10)cũng là kiểu
truyện chiếm tỉ lệ khá lớn trong tập Truyện cổ Cơ – ho(7). Chính vì vậy, trong bài viết
này,chúng tôi mạnh dạn đề xuất phương pháp khi dạy – học kiểu truyện dũng sĩ trong
truyện cổ Kơho - chương trình Ngữ văn địa phương Lâm Đồng, có sử dụng các phương
pháp và kĩ thuật dạy học hướng tới mục tiêu phát huy năng lực, phẩm chất của người
học, đảm bảo các đơn vị kiến thức cần khai thác trong văn bản.
2. Giải quyết vấn đề
Việc lựa chọn kiến thức, phương pháp cũng như tài liệu hỗ trợ liên quan đến
những đặc điểm kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Kơho đưa vào giảng dạy phải đảm
bảo tính khả thi, có sự thống nhất chung về nội dung và phương pháp tổ chức để việc
dạy và học đạt hiệu quả.
Khi dạy - học kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Kơho - chương trình Ngữ văn
địa phương Lâm Đồng, chúng tôi khai thác các đơn vị kiến thức sau:
2.1. Tìm hiểu nhân vật
Nhân vật của kiểu truyện dũng sĩ là nhân vật chức năng: có đặc điểm phẩm chất
cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt
động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và việc phản ánh đời
sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm”(1)
.
Nhân vật trong kiểu truyện về người dũng sĩ gồm: nhân vật dũng sĩ, lực lượng thần kì,
kẻ ác hãm hại người lương thiện và chia làm hai tuyến: thiện – ác, tốt – xấu. Sự phát
triển của cốt truyện chính là sự phát triển của xung đột giữa hai tuyến đó. Kết thúc
truyện bao giờ cái tốt, cái thiện chiến thắng; cái ác, cái xấu bị trừng trị. Các nhân vật
thường có đặc điểm là:
2.1.1. Nhân vật dũng sĩ – nhân vật trung tâm của truyện
* Giảng viên khoa Xã hội
Trang 191
a. Sự ra đời của nhân vật dũng sĩ:
Họ là con của các vị thần linh: thần Sao, thần Lúa, thần Mặt trời, thần
Nước…được đầu thai vào các gia đình nghèo khó, hiếm muộn con cái, cùng sống cuộc
sống bình thường dân dã nơi thôn quê hay vùng rừng núi. Có khi, dũng sĩ ra đời là do
cha mẹ già hiếm muộn, khao khát có con nên cầu khẩn thần linh, được thần ứng
nhiệm; có khi lại được sinh ra do người mẹ nằm mộng thấy vị thần đặt trên tay mình
một đứa trẻ rất bụ bẫm rồi về nhà có mang; khi khác lại được sinh ra do người mẹ kết
hợp với con vật nào đó: như heo, sóc,… hoặc người mẹ cảm ứng với vật nào đó về nhà
có mang; có khi do người mẹ ăn, uống hay đặt bàn chân mình vào dấu chân của ai đó
đi trước để lại rồi về nhà thụ thai,… (Chàng K‟Hươr dũng cảm, Chàng Ếchvà nàng
công chúa út, Chàng Sóc K‟Prọ, Chàng Heo K‟Sur, Chàng Bầu,...)(8)
.
Một số truyện cổ khác nhân vật dũng sĩ lại có hoàn cảnh xuất thân éo le: mồ côi
cả cha lẫn mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ, hay không rõ nguồn gốc của bản thân, hoặc tính
cách nhân vật trở thành tên riêng của nhân vật, …K‟Chơi (K‟Chơi và Ma Lêng),
K‟Lanh (Chàng K‟Lanh và loài tinh cọp), K‟Huoai (Dòng sông Đạ Huoai), dũng sĩ
Lang (Dũng sĩ Lang và nàng Bian), …
Sự ra đời thần kì của các nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ của dân tộc thiểu số
Tây Nguyên khá đa dạng và phong phú, mang nhiều nội dung cũng như những quan
niệm khác nhau liên quan đến đời sống, tục lệ, tín ngưỡng của người nguyên thủy, tạo
nên sự hấp dẫn, li kì cho câu chuyện. Đặc biệt, sự ra đời kì lạ của nhân vật dũng sĩ còn
là tín hiệu báo trước những hành động phi thường, những chiến công, kì tích bất ngờ,
tài năng kì diệu cùng phẩm chất đáng trân trọng của nhân vật…
Có thể mô hình hóa sự ra đời của nhân vật dũng sĩ như sau:
Trang 192
b. Vẻ đẹp ngoại hình:
Diện mạo của nhân vật dũng sĩ thường mang vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng: mắt
sáng như sao, tóc gợn như thác nước, trẻ đẹp, khỏe mạnh, khôi ngô, vạm vỡ. Vẻ đẹp
của họ thường gắn với quan niệm của nhân dân: những người có nguồn gốc, tướng
mạo không bình thường không thể là những người tầm thường, là dấu hiệu của những
hành động phi thường, tài năng xuất chúng.
c. Phẩm chất, tài năng, trí tuệ:
- Phẩm chất:
Các dũng sĩ trong truyện cổCơ -hođều có cùng phẩm chất, đạo đức như: lòng vị
tha, độ lượng, nhân ái, hướng thiện, tâm hồn trong sáng, thật thà, tốt bụng, không đòi
hỏi, không so đo tính toán thiệt hơn cho mình, luôn vì cộng đồng, vì người thân và
những người xung quanh,... Họ khao khát gắn bó với quê hương, buôn làng. Tình yêu
họ dành cho quê hương, bộ tộc thắm thiết, nồng ấm và sâu sắc,... Họ giàu tình cảm gia
đình: thương mẹ, thương cha, thương em,... Cho dù có cuộc sống giàu sang, quyền quý
nhưng phải xa cha mẹ, anh chị em...họ đều tìm về tổ ấm nơi mình sinh ra và lớn
lên,...(Chàng K‟Lanh và loài tinh cọp, Chàng K‟Hươr dũng cảm, Chàng K‟Pút con
thần Mặt trời,...).
Họ sống thật thà, ngay thẳng; căm ghét điều gian dối như căm ghét loài rắn độc...
Tuy nhiên, nếu kẻ thù độc ác gây ra rất nhiều tội lỗi cho nhân dân nhưng biết ăn năn, hối
lỗi, chúng đều được các dũng sĩ không giết mà tha thứ: (Dũng sĩ Lang và nàng Bian,
Đứa con của nữ thần mặt trời, K‟Chơi và Ma Lêng, Chàng trai K‟Bơng Ong,...). Đối với
tình yêu,dũng sĩ lại là những chàng trai rất chung thủy. Khi đã thề nguyền, ước hẹn hoặc
trao vật làm tin: vòng bạc, vòng đồng, khuyên ngà,...cho người con gái họ yêu, dù hoàn
cảnh có thay đổi, chông gai cách trở, họ vẫn tìm về bên nhau để được chăm sóc, lo lắng
cho nhau, hưởng hạnh phúc sum vầy đến trọn đời (Chàng K‟Pút con thần Mặt trời,
K‟Sách và K‟Giông đi tìm vợ,…). Nhiều khi vì luật tục quy định giữa hai bộ tộc có thù
oán, con cái của hai bộ tộc không được lấy nhau, họ sẵn sàng tìm đến cái chết để được ở
bên nhau mãi mãi, để minh chứng một tình yêu trong sáng, tự do; lòng chung thủy của
trai gái dân tộc Cơ – ho nói riêng và các dân tộc Việt Nam nói chung.
- Tài năng:
Tài năng của nhân vật dũng sĩ được thể hiện rất rõ trong tất cả các truyện kể của
người dân tộc Cơ - ho. Đó là những dũng sĩ Cơ – ho thông minh, nhanh trí, dũng cảm,
có sức khỏe phi thường. Họ có thể chạy nhanh như ánh sao, nhẹ nhàng như gió, nhảy
qua những con suối dữ, nhìn xuyên qua đêm tối, đánh nhau với quỷ ròng rã bảy ngày
bảy đêm mà không biết mệt... (Chàng Sóc K‟Prọ, Chàng heo K‟ Sur và chàng K‟Đrít,
K‟Chơi và Ma Lêng, K‟Sách và K‟Giông đi tìm vợ, Hai anh em Kđrun – Kđru,Chàng
K‟Hươr, Chàng K‟Pút con thần Mặt trời, Dũng sĩ Lang và nàng Bian,…). Các chàng
Trang 193
trai có thể dùng tay nhấc những quả đồi, nhảy qua bảy ngọn núi, bảy quả đồi; uống cạn
cả hồ nước; chém đứt cùng một lúc bảy cây cổ thụ, vung một đường gươm cả một vạt
rừng đổ gục, chém đứt dòng nước, ngăn dòng sông đang chảy; vung giáo đâm chết thú
dữ, vung kiếm chẻ đôi sợi tóc; bắn cung trăm phát trăm trúng; một ngày phát xong
đám rẫy rộng một trăm sải. Họ có thể một lúc ăn hết bảy con trâu, bảy nồi thịt hầm, ăn
hết bảy ống sừng trâu ớt đầy, uống hết bảy ché rượu, đánh bảy chiếc chiêng và trống
vỡ tan tành,... Họ sẵn sàng tuyên chiến với kẻ thù, kể cả những kẻ có uy quyền nhưng
ác độc như vua. Họ không hề run sợ trước những lời đe dọa của kẻ ác...
- Trí tuệ:
Dũng sĩ Cơ – ho có trí tuệ hơn người. Nét đẹp trí tuệ của họ được bộc lộ rõ rệt khi
phải đối diện với những kẻ thù mưu mô nham hiểm, biến hóa như loài tinh cọp, rắn thần,
quỷ dữ, ... Họ nhanh trí, thông minh, biết dùng tên tẩm thuốc độc, trộn thuốc độc vào thức
ăn để giết kẻ thù; hiểu được đặc tính của sừng trâu, sừng hươu, sừng dê khi đun nóng sẽ
dẻo, mềm, thơm nhưng ăn vào uống thêm nước lạnh sẽ bị đông cứng trong bụng.
Nhân phẩm, tài năng, trí tuệ của nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ Cơ – ho luôn
tỏa sáng, khiến mọi người trong thôn xóm, bản làng, bộ tộc, loài cầm thú.. đều khâm
phục. Đặc biệt các thiếu nữ xinh đẹp, công chúa con vua, con gái các thần linh,...
ngưỡng mộ, kính trọng, đem lòng yêu mến và muốn lấy làm chồng.
Lược đồ về vẻ đẹp phẩm chất, tài năng, trí tuệ của nhân vật dũng sĩ:
d. Những chiến công, kì tích:
- Đánh giặc, diệt kẻ ác, giết quỷ, đánh cướp, giết đại bàng,...dũng mãnh giết cọp
dữ; chiến đấu với rắn thần bảy đầu độc ác chuyên ăn thịt người để cứu buôn làng, cứu
người đẹp, cứu cha, tìm vợ, cứu em gái, cứu buôn làng,... là những chiến công của
Trang 194
nhân vật dũng sĩ (Chàng K‟Pút con thần Mặt trời, Chàng trai K‟Bơng, Cậu bé chăn
trâu, Chàng K‟Lanh và loài tinh cọp, Chàng Bầu,...).
- Chiến công của dũng sĩ còn là đắp đập, ngăn nước sông chống hạn giúp dân,
giết quỷ để giữ nguồn nước cho dân làng sinh sống (Dòng sông Đạ Huoai”(8)
.
Người dũng sĩ trong truyện cổ Cơ – ho là con người của chiến công, kì tích oai hùng.
Họ không bao giờ đầu hàng, khuất phục, lùi bước trước bất kì trở ngại nào trong các
cuộc chiến chống cái ác, cái xấu. Con người ấy luôn khao khát chiến thắng và luôn
chiến thắng...
Trong những áng sử thi, người dũng sĩ đi vào cuộc chiến đấu với rắn thần, loài
tinh cọp, quỷ dữ, bọn cướp, vua ác, thần ác,... thường xuất trận trước sự chứng kiến,
thán phục, cổ vũ của hàng trăm, hàng nghìn con người trong vùng, trong buôn xóm,
bản làng,...cùng niềm khát khao phải giành chiến thắng(4). Ở truyện cổ Cơ – ho, các
dũng sĩ đi vào cuộc chiến, lập chiến công, kì tích: cứu người đẹp, cứu công chúa con
vua, cứu em gái, cứu cha, ...hầu như là đơn phương, độc mã. Nhiều khi, chiến công, kì
tích của họ đạt được suýt bị kẻ khác cướp đoạt (Cậu bé chăn trâu,Chàng K‟Pút con
thần mặt trời,...)(6,7)
.
Lược đồ về chiến công, kì tích của nhân vật dũng sĩ
2.1.2. Nhân vật là lực lượng thần kì:
Thần linh: ban cho dũng sĩ các vật thiêng để chiến thắng kẻ thù, kẻ ác độc trong
xã hội. Những vật thiêng trợ giúp cho dũng sĩ tiêu diệt kẻ xấu xa rất đa dạng: cái khăn
đỏ, thanh gươm sắc, cây gậy thần,... Vật thiêng giúp họ khỏe mạnh hơn; có thêm phép
thuật để giết kẻ ác, cứu những người vô tội (Chàng K‟Pút con thần Mặt trời, Chàng
trai K‟Bơng Ong,...).
2.1.3. Nhân vật hãm hại người lương thiện:
Trang 195
Giặc ngoại xâm, vua ác, thầnNước ác độc, bọn cướp, kẻ ác đã giết cha,giết em, loài
tinh cọp, đại bàng, rắn bảy đầu, quỷ dữ,… (Chàng K‟Pút con thần Mặt trời, Chàng trai
K‟Bơng, Cậu bé chăn trâu, Chàng K‟Lanh và loài tinh cọp, Chàng Bầu,... Dòng sông
Đạ Huoai, Chàng Sóc K‟Prọ, Chàng heo K‟ Sur và chàng K‟Đrít, K‟Chơi và Ma Lêng,
K‟Sách và K‟Giông đi tìm vợ, Hai anh em Kđrun – Kđru)(8)
.
2.2. Tìm hiểu kết cấu của truyện
2.2.1. Cốt truyện:
Đơn giản, tương đối ổn định và bền vững, khó hoặc ít thay đổi, thường xoay
quanh ba nhân vật: dũng sĩ, yêu quái (giặc ngoại xâm, vua ác, thầnNước ác độc, bọn
cướp, kẻ ác, loài tinh cọp, đại bàng, rắn bảy đầu, quỷ dữ), người đẹp(công chúa, em
gái,...),…Nhân vật và cốt truyện được vận động trong thế giới của trí tưởng tượng
phong phú, của những yếu tố phi thường.
2.2.2. Mở đầu truyện:
Giới thiệu sự xuất hiện của người dũng sĩ nhưng thường gắn liền với những yếu
tố thần kì.
2.2.3. Diễn biến truyện:
Những biến cố bắt đầu và không ngừng xảy ra (một hoặc nhiều biến cố) nhằm
thử thách để người dũng sĩ bộc lộ tài năng, ý chí và phẩm chất.
2.2.4. Kết thúc truyện:
- Thường có hậu; người dũng sĩ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách, giết
kẻ ác độc (Giặc ngoại xâm, vua ác, thầnNước ác độc, bọn cướp, kẻ ác đã giết cha, giết
em, loài tinh cọp, đại bàng, rắn bảy đầu, quỷ dữ,…), chinh phục được người đẹp và
sống hạnh phúc; được sự ngưỡng mộ, biết ơn tuyệt đối của tất cả mọi người. Nhân dân
các buôn làng. lấy tên của họ để đặt tên cho dòng sông, ngọn núi như là sự tri ân: sông
Đạ Huoai (Dòng sông Đạ Huoai), núi Lang Bian (Dũng sĩ Lang và nàng Bian)(9)
.
- Lí giải sự hình thành và tên gọi của địa danh nào đó ở Lâm Đồng; thể hiện sự
phản kháng mãnh liệt của đồng bào dân tộc thiểu số về những luật tục lạc hậu và niềm
mong ước chung sống hòa bình giữa các dân tộc (Dòng sông Đạ Huoai, Dũng sĩ Lang
và nàng Bian),...
2.2.5. Không gian trong truyện:
- Không gian trần thế: buôn xóm, bản làng bình dị,...
- Không gian kì ảo phi trần thế: thiên đình và địa phủ,...
Không gian trần thế và không gian kì ảo phi trần thế có sự kết hợp với nhau làm
cho truyện vừa gần gũi vừa xa vời; vừa bay bổng lãng mạn lại vừa phi lí song không
hoàn toàn vô lí.
2.2.6. Thời gian trong truyện:
- Thời gian của ngày xửa ngày xưa, thủa xưa, ngày xưa,ngày ấy,..., là thời gian
ước lệ, tưởng tượng, thời gian tuyến tính.
Trang 196
- Không gian và thời gian trong truyện biểu hiện tính bất biến của thực tại và nhân vật
trong truyện đã tạo ra thế giới kì diệu của truyện cổ, song cuộc sống của họ không
vượt ra ngoài cuộc sống bình dị, đời thường.
- Những công thức cố định trong lời mở đầu của truyện:ngày xửa ngày xưa,
thủa xưa, ngày xưa,ngày ấy,...ở một làng nọ, ở một buôn nọ, một nhà nọ, có hai vợ
chồng già nghèo,...có hai anh em,...tạo ra chất cổ kính xa xưa của lời kể, tạo cho câu
chuyện có giọng điệu đơn giản, dễ hiểu.
2.3. Xung đột trong truyện
Xung đột cơ bản của kiểu truyện dũng sĩ: là xung đột giữa nhân vật dũng sĩ với
các thế lực tự nhiên, hay các thế lực xã hội. Tính chất gay gắt của xung đột trong các
truyện là khác nhau nhưng nhìn chung tất cả đều nhằm để nhân vật bộc lộ phẩm chất,
tài năng, trí tuệ của mình.
2.4. Ý nghĩa giáo dục của truyện
- Vẻ đẹp (ngoại hình, phẩm chất, tài năng, trí tuệ) của các dũng sĩ là minh
chứng khẳng định giá trị của chính nhân vật, luôn tỏa sáng khiến cho mọi
ngườingưỡng mộ, kính trọng, yêu mến, loài cầm thú khâm phục,..
- Đó còn là một thông điệp: tài năng, trí tuệ, nhân phẩm của con người cần được
đề cao, tôn trọng, ngợi ca...Những chàng dũng sĩ xứng đáng đại diện cho lòng tốt và sự
hướng thiện trong xã hội vẫn còn cái ác, cái xấu xa tội lỗi đang ngự trị.
- Những chiến công, kì tích của dũng sĩ thể hiện khát vọng, mong đợi của quần
chúng nhân dân theo quan niệm, triết lí nhân sinh: ác giả - ác báo, chính nghĩa thắng
gian tà, thiện thắng ác, ở hiền gặp lành; người tốt sẽ được hưởng hạnh phúc, những kẻ
độc ác, xấu xa sẽ bị trừng trị đích đáng do tội lỗi của mình gây ra...
3. Kết luận
Như vậy, dù dạy bất kì kiểu truyện dũng sĩ nào trong truyện cổ Cơ – ho, người
thầy không thể không thể không lưu ý tới các yếu tố: kết cấu truyện, các nhân vật
trong truyện: nhân vật dũng sĩ(xuất thân, đặc điểm nhân vật,...các thử thách, các chiến
công,...), nhân vật thần linh, nhân vật phản diện..., làm rõ không gian, thời giannghệ
thuật của truyện, xung đột trong truyện, ý nghĩa giáo dục của truyện. Yêu cầu học sinh
tìm dị bản của kiểu truyện dũng sĩ và đối chiếu các dị bản với nhau để rút ra nhận xét.
Thậm chí, trong phần tìm tòi, mở rộng kiến thức, giáo viên nên yêu cầu học sinh sưu
tầm các truyện cổ dân gian của dân tộc mình (sắp xếp theo nhóm) từ đó giúp học sinh
thêm hiểu biết, gìn giữ và tự hào về các giá trị: văn học, lịch sử, văn hóa địa phương.
Trang 197
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thu Hương (2006), Truyện cổ Cơ - ho, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Lê Hồng Phong (1996), Truyện cổ Mạ - K’Ho Lâm Đồng, Luận án Thạc sĩ khoa học
Ngữ văn, Trường Đại học khoa học Xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
3. Tạ Văn Thông và Võ Quang Nhơn(1984), Truyện cổ Cơ – ho, NXB Văn hóa, Hà Nội.
4. Cil Trinh (2002), Dịch và hiệu đính truyện cổ tích Cơ - ho, Luận văn tốt nghiệp,
Trường Đại học Đà Lạt.
5. Truyện cổ tích Mạ - K‟ho (2003), Sở Văn hóa thông tin tỉnh Lâm Đồng.
6. Tài liệu dạy học Ngữ văn – Lịch sử - Địa lí địa phương tỉnh Lâm Đồng (2015), (Dùng
cho học sinh Trung học cơ sở), NXB Giáo dục Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh.
7. Tài liệu tập huấn Phương pháp và kĩ thuật tổ chức hoạt động học theo nhóm và
hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn (Dành cho cán bộ quản lí, giáo viên trung
học phổ thông), Hà Nội, tháng 7/2017.
Trang 198
SỬ DỤNG TRÕ CHƠI NGÔN NGỮ HIỆU QUẢ
TRONG GIỜ DẠY TIẾNG ANH
Nguyễn Đức Linh Phương*
1. Đặt vấn đề
Đối với hầu hết sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên trong trường Cao đẳng
Sư phạm nói riêng, Tiếng Anh là một môn học không thật sự quan trọng, là một môn học
quá khó, học là chỉ để đối phó với các kỳ thi. Vì vậy, việc áp dụng những phương pháp
tích cực để biến việc học nặng nề thành niềm vui, để sinh viên có hứng thú và có động lực
trong việc học tiếng Anh là việc làm cần thiết của từng giảng viên. Một trong những
phương pháp trong dạy học tích cực chính là tích hợp trò chơi trong dạy học. Phương
pháp này được áp dụng rộng rãi trong các giờ học tiếng Anh giúp cho sinh viên có thể nhẹ
nhàng và vui vẻ tiếp thu được bài học của mình như quan điểm của Cross (1995): “Người
học có thể luyện tập và tiếp thu vốn từ vựng và các cấu trúc ngữ pháp một cách hiệu quả
thông qua các trò chơi ngôn ngữ”. Đồng thời, giảng viên vẫn có thể đạt được mục tiêu dạy
học đã đặt ra khi lồng trò chơi ngôn ngữ vào giờ học Tiếng Anh.
Việc sử dụng các trò chơi ngôn ngữ (language games) trong dạy học tiếng Anh ở
trường Cao đẳng Sư phạm là một trong những phương pháp hữu hiệu, tạo hứng thú
cho người học và làm tăng động cơ học tập, một trong những yếu tố quyết định đến
thành công trong giờ dạy tiếng Anh.
2. Hiệu quả của trò chơi ngôn ngữ trong giờ học Tiếng Anh
- Trò chơi ngôn ngữ tạo động lực học tập cho sinh viên. Hầu hết sinh viên không
tìm thấy sự thú vị trong môn tiếng Anh và thường bị áp lực khi phải tiếp thu khối kiến
thức lớn và giải quyết quá nhiều bài tập dẫn đến không còn động lực học. Byrne
(1980) cho rằng sử dụng trò chơi trong quá trình dạy học là một trong những cách hữu
hiệu nhất để tăng cường động lực học tập cho sinh viên. Trò chơi giúp cho sinh viên có
hứng thú học tập, là một trong những yếu tố giúp cho sinh viên nhìn thấy được sự thú
vị của tiếng Anh. Khi được học tập trong không khí thân thiện vả chia sẻ, sinh viên sẽ
trở nên tự tin hơn và có nhiều động cơ để tham gia vào trò chơi hơn cũng như thực
hiện các hoạt động học tập hiệu quả hơn.
- Trò chơi ngôn ngữ chính là phương tiện hiệu quả giúp cho sinh viên ôn luyện
và kiểm tra kiến thức. Thông thường sinh viên ôn tập hoặc giảng viên kiểm tra đánh
giá mức độ hiểu bài của sinh viên thông qua các bài viết hoặc bài nói. Tuy nhiên, hình
thức đánh giá này có thể tạo áp lực cho sinh viên cũng như đòi hỏi phải mất nhiều thời
gian trong việc soạn đề và đánh giá. Một hình thức ôn tập và kiểm tra hiệu quả khác
nhưng thú vị hơn là sử dụng trò chơi ngôn ngữ. Thông qua các trò chơi, sinh viên có
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 199
thể ôn tập và giảng viên có thể kiểm tra kiến thức đã học của sinh viên một cách không
chính thức mà không cần phải yêu cầu sinh viên làm bài kiểm tra giấy trong không khí
quá nghiêm túc, hay phải giải quyết một lượng lớn các bài tập trên giấy một cách
nhàm chán và mệt mỏi. Hình thức đánh giá theo hướng vừa học vừa chơi này đặc biệt
hiệu quả và có sức thu hút đối với sinh viên.
- Trò chơi ngôn ngữ tăng cường khả năng hợp tác và cạnh tranh khi làm việc nhóm.
Sự cộng tác và tính cạnh tranh là yếu tố cần thiết làm tăng động cơ học tập cho người
học. Sinh viên thường yêu thích các trò chơi mang tính cạnh tranh; vì vậy, khi tham
gia trò chơi theo nhóm, sinh viên được kích thích khả năng cạnh tranh giữa các nhóm
với nhau và tăng cường sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm của mình. Trong
quá trình tham gia, người chơi sẽ tập trung chú ý đến cách giao tiếp tự nhiên để dành
điểm cho nhóm. Điều này thúc đẩy cơ hội giao tiếp một cách tự nhiên giữa các sinh
viên với nhau và đây chính là mục đích của quá trình giảng dạy tiếng Anh.
- Trò chơi ngôn ngữ có thể tạo ra môi trường học tập vui vẻ. “Trò chơi ngôn
ngữ có thể xua tan sự buồn tẻ của giờ học thay vào đó là tạo ra môi trường học tập vui
vẻ làm tăng sự hứng thú của sinh viên đối với việc học, khiến họ luôn sẵn sàng tham
gia giờ học.” Lee (1979). Sinh viên có thể hoạt động theo cặp, theo nhóm hay là sự
tham gia của cả tập thể lớp học, cùng kết hợp với nhau để thực hiện yêu cầu của trò
chơi, và để ghi được càng nhiều điểm càng tốt. Thông qua những trò chơi này, sinh
viên có động cơ để ôn lại những kiến thức đã học, cũng như để tiếp nhận kiến thức
mới một cách hứng khởi, trong bầu không khí thư giãn, thoải mái do trò chơi tạo ra,
việc tiếp thu thực sự mới diễn ra, và người học sử dụng được những ngôn ngữ mà họ
đã được học và đã thực hành trước đó. Trong khi đó, giảng viên cố gắng khích lệ để tất
cả cùng tham gia, kích thích sự hứng thú của sinh viên với trò chơi mà vẫn giúp cho họ
nắm chắc kiến thức liên quan thông qua các trò chơi này.
3. Một số trò chơi ngôn ngữ ứng dụng trong giờ Tiếng Anh
Ứng dụng trò chơi ngôn ngữ là một hoạt động không thể thiếu trong giảng dạy,
đặc biệt là trong giờ dạy Tiếng Anh. Tuy nhiên, giảng viên cần phải xác định rõ thời
điểm nào và lý do ra sao để có thể thực hiện các trò chơi một cách phù hợp và hiệu quả.
Trong bài viết này, các trò chơi được gợi ý chia ra làm ba nhóm chính để áp dụng
trong các giờ tiếng Anh: (1) Nhóm các trò chơi làm quen – Ice-breakers, (2) Nhóm các
trò chơi làm nóng giờ học - Warmers, và (3) Nhóm các trò chơi lấp thời gian trống –
Fillers. Trong mỗi nhóm trò chơi, vài hoạt động được giới thiệu để minh hoạt cho mục
đích và yêu cầu của nhóm trò chơi đó.
3.1. Nhóm các trò chơi làm quen (ice breakers)
Nhóm các trò chơi này được dùng để làm quen nhau trong giờ học đầu tiên hay
dùng để xây dựng mối quan hệ giữa những người học với nhau cũng như mối quan hệ
giữa người dạy và người học.
Trang 200
3.1.1. Tự giới thiệu bản thân với một ngôi sao (Introduction with a star)
- Mục tiêu: Giảng viên tự giới thiệu bản thân trong buổi học đầu tiên.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp trở lên
- Cách thực hiện:
+ Vẽ một ngôi sao lớn lên bảng, viết các thông tin chính về bản thân vào sáu
phần của ngôi sao.
+ Cho sinh viên trong lớp đặt các câu hỏi về thông tin đã được giới thiệu để dự
đoán thông tin đó liên quan gì đến bản thân giảng viên.
+ Lắng nghe và cho sinh viên biết dự đoán của họ đúng hay không.
+ Sau khi sinh viên đã dự đoán hết các thông tin được đưa ra, giảng viên một
lần nữa giới thiệu cho cả lớp học một cách tổng quát về tất cả các thông tin vừa đề cập.
3.1.2. Tìm người (Find someone who…)
- Mục tiêu: Sinh viên làm quen nhau trong buổi học đầu tiên
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp trở lên
- Cách thực hiện:
+ Phát cho mỗi sinh viên một bảng câu hỏi liên quan đến một chủ đề cụ thể.
+ Yêu cầu sinh viên đi quanh lớp làm quen và phỏng vấn các bạn, ghi chú tất cả
tên của những người được phỏng vấn.
+ Giới thiệu một số sinh viên lên báo cáo lại kết quả đã thực hiện với lớp.
3.1.3. Ba điều về tôi (Three things about me)
- Mục tiêu: Giới thiệu về bản thân trong buổi học đầu tiên.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp.
- Cách thực hiện:
+ Dành 3 phút cho từng sinh viên suy nghĩ một số đặc điểm về bản thân.
+ Đề nghị mỗi sinh viên lên giới thiệu tên, sau đó giới thiệu bản thân với lớp
bằng cách nêu ra hai câu đúng sự thật và một câu sai sự thật.
+ Các thành viên còn lại trong lớp lắng nghe và suy đoán đâu là thông tin thật,
đâu là thông tin không đúng sự thật.
3.2. Nhóm các trò chơi khởi động (Warmers)
Nhóm trò chơi này thường phải ngắn và ấn tượng, có thể dùng để khởi động giờ học
hay lồng vào giữa giờ học để tạo không khí thoải mái, tạo hứng thú cho người học tiếp
thu hay ôn tập kiến thức.
3.2.1. Mua sắm (Shopping bag)
- Mục tiêu: Giúp sinh viên ôn lại từ vựng vả cấu trúc đồng thời cũng giúp sinh
viên luyện kỹ năng nghe và nói trong không khí thư giãn.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp trở lên.
- Các bước thực hiện:
Trang 201
+ Tạo những nhóm chơi từ 8-10 sinh viên (Mỗi sinh viên đều có cơ hội sử dụng
tiếng Anh khi làm việc trong nhóm nhỏ).
+ Nhóm trưởng mỗi nhóm sẽ bắt đầu câu chuyện bằng cách đặt một câu phù
hợp, tùy thuộc vào nhóm từ vựng và cấu trúc muốn ôn tập.
o Ví dụ: “Yesterday I went to the market and I bought some fish…”
+ Sinh viên tiếp theo lập lại câu nói trước và thêm vào ý của mình.
o Ví dụ: “Yesterday I went to the market and I bought some fish and some
bananas….”
+ Các thành viên tiếp theo làm tương tự: Lập lại câu trước đó và thêm ý của mình
vào. Vốn từ vựng của các thành viên càng nhiều thì trò chơi có thể kéo dài càng lâu.
3.2.2. Sắp xếp từ (Jumble words)
- Mục tiêu: Giúp sinh viên ôn lại từ vựng vả cấu trúc đồng hoặc làm bài tập
trong không khí thư giãn.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở mọi cấp độ.
- Các bước thực hiện:
+ Chọn số lượng sinh viên bằng với số lượng từ có trong câu muốn sắp xếp.
+ Cho nhóm người chơi đã được chọn lên đứng trước lớp và phát mỗi người
một tấm bảng nhỏ chứa một từ hoặc cụm từ trong câu. Cần nhớ là cho người chơi đang
cầm bảng từ đứng ở vị trí sai so với vị trí của từ trong câu hoàn chỉnh.
+ Các thành viên còn lại trong lớp có cơ hội lên sắp xếp vị trí các người chơi để
tạo thành câu hoàn chỉnh.
* Giảng viên cũng có thể dùng cách khác bằng cách dán bảng từ lên bảng cho sinh
viên lên sắp xếp và chọn câu sắp xếp tùy thuộc vào cấp độ của sinh viên.
3.2.3. Mô tả tranh (Picture dictation)
- Mục tiêu: Giúp sinh viên ôn từ vựng, cấu trúc và phát triển kỹ năng nghe cũng
như tạo không khí vui vẻ trong giờ học.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ trung cấp trở lên
- Các bước thực hiện:
+ Chọn một bức tranh phù hợp với trình độ của sinh viên.
+ Một sinh viên được cử lên quan sát và mô tả bức tranh.
+ Các thành viên còn lại trong lớp lắng nghe và vẽ lại bức tranh.
+ Sau khi việc mô tả kết thúc, các thành viên chia sẻ sản phẩm với nhau và
cùng so sánh với bản gốc của bức tranh.
3.2.4. Thì thầm (Whispers)
- Mục tiêu: Giúp sinh viên luyện phát âm và phát triển kỹ năng nghe.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp trở lên.
- Các bước thực hiện:
Trang 202
+ Chia lớp ra làm 2 – 4 nhóm tùy vào số lượng sinh viên có trong lớp. Mỗi
nhóm cử ra một nhóm trưởng.
+ Các nhóm trưởng được giáo viên cung cấp một câu có độ dài vừa phải và có
trách nhiệm phải nhớ đầy đủ để truyền cho thành viên tiếp theo của nhóm.
+ Các thành viên còn lại lần lượt truyền câu nghe được cho thành viên kế tiếp
cho đến thành viên cuối cùng.
+ Thành viên cuối cùng lên viết lại câu nghe được lên bảng.
+ Nhóm chiến thắng là nhóm có câu hoàn chỉnh nhất và hoàn thành trong thời
gian nhanh nhất.
3.3. Nhóm các trò chơi lấp thời gian trống (Fillers)
Nhóm trò chơi này thường phải ngắn và có thể kết thúc bất cứ lúc nào, được dùng để
lấp khoảng thời gian còn thừa vào cuối giờ học.
3.3.1. Simon says
- Mục tiêu: Sinh viên có thể luyện câu mệnh lệnh, phát triển kỹ năng nghe và
tạo không khí năng động với việc kết hợp câu mệnh lệnh và động tác của cơ thể.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp trở lên
- Các bước thực hiện:
+ Giáo viên đọc câu lệnh và yêu cầu sinh viên lắng nghe và thực hiện.
+ Người chơi chỉ thực hiện câu lệnh khi giáo viên bắt đầu câu “Simon says”;
Khi không có câu “Simon says” người chơi không được phép thực hiện động tác.
+ Trò chơi có thể được dừng lại ngay lập tức khi giờ học kết thúc.
3.3.2. Câu đố (Riddles)
- Mục tiêu: Sinh viên có thể luyện kỹ năng nghe và tập luyện suy nghĩ nằng
Tiếng Anh.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ trung cấp trở lên.
- Các bước thực hiện:
+ Giáo viên ra câu đố bằng tiếng Anh, câu đố mẹo là sự lựa chọn thú vị mang
tính giải trí.
+ Sinh viên trong lớp lắng nghe câu hỏi và đưa ra câu trả lời.
3.3.3. Tìm từ theo chuỗi (Chain Spelling)
- Mục tiêu: Sinh viên có thể ôn từ vựng và sự nhạy bén trong việc chọn từ vựng
phù hợp.
- Cấp độ phù hợp: Người học ở cấp độ sơ cấp.
- Các bước thực hiện:
+ Giáo viên bắt đầu trò chơi bằng cách đọc lên một từ bất kỳ.
+ Ném trái banh nhỏ vào bất kỳ sinh viên nào, sinh viên nhận được trái banh sẽ
đọc từ tiếp theo, bắt đầu bằng chữ cái cuối cùng của từ trước đó.
+ Trò chơi tiếp diễn tương tự cho đến khi giáo viên muốn kết thúc.
Trang 203
Ví dụ: T: chair S1: rent S2: teacher rope…
4. Kết luận
Harmer (2002) đã khẳng định: “Có ba yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú của
người học là mục tiêu học tập, môi trường học tập và sự thú vị của bản thân các giờ
học”. Sử dụng trò chơi ngôn ngữ là một trong những phương pháp tạo nên sự thú vị
cho giờ học. Việc học ngoại ngữ là một quá trình đòi hỏi sinh viên phải nỗ lực liên tục
và trò chơi ngôn ngữ tạo ra môi trường học tập vui vẻ và thư giãn giúp tăng cường và
duy trì hứng thú học tập cho họ. Đồng thời trò chơi ngôn ngữ cũng làm tăng động cơ
học tập, giúp sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động học tập, giảm áp lực trong
giờ Tiếng Anh.
Việc sử dụng các trò chơi ngôn ngữ một cách hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao
trong dạy và học tiếng Anh, giảng viên nên xem việc sử dụng trò chơi là một phần
không thể thiếu trong giờ học, thường xuyên tổ chức các trò chơi để sinh viên tham gia
trên lớp, tạo bầu không khí học tiếng Anh vui vẻ, thư giãn, hứng khởi và chia sẻ. Đây
chính là mục tiêu cuối cùng của quá trình dạy học ngoại ngữ: Sinh viên có thể dùng
được tiếng Anh không những trong giờ học mà còn dùng được trong cuộc sống thực tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David, C. (1995), A practical Handbook of Language Teaching, Phoenic ELT
2. Byrne, D. (1978), Teaching Oral English. Longman, London.
3. Harmer J. (2002), The Practice of English Language Teaching, Oxford Press.
4. Kuang-wu Lee Lee, W.R. (1979), Language Teaching Games and Contexts, Oxford
Press.
5. Rixon, S. (1981), How to use games in language teaching, Macmillan Education.
6. Đậu Thị Bích Loan, Hoàng Thị Quỳnh Ngân, Vận dụng trò chơi ngôn ngữ trong dạy
học tiếng Anh http://huc.edu.vn/chi-tiet/2033/Vai-tro-cua-tro-choi-ngon-ngu-trong-
giang-day-tieng-Anh.html
7. Mai Lan Anh, Vai trò của trò chơi ngôn ngữ trong giảng dạy Tiếng Anh,
http://portal.huc.edu.vn/vai-tro-cua-tro-choi-ngon-ngu-trong-giang-day-tieng-anh-
1470-vi.htm
Trang 204
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
CÂU LẠC BỘ TIẾNG ANH TẠI TRƢỜNG CĐSP ĐÀ LẠT
V Nhật Linh*
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển ngày nay, Tiếng Anh đã trở
thành một ngôn ngữ quan trọng bậc nhất trên thế giới, trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Việc sử dụng Tiếng Anh một cách thuần thục đã trở thành một yêu cầu không
thể thiếu đối với mỗi người, muốn nâng cao trình độ, muốn du học nước ngoài, hay
đơn giản là tiếp cận và khai thác một cách tối ưu nhất những thành tựu khoa học kĩ
thuật công nghệ, bạn cần phải biết Tiếng Anh. Trình độ Tiếng Anh càng cao, bạn càng
có nhiều cơ hội để phát huy năng lực của mình.
Một vấn đề đặt ra là: Ngoại ngữ không phải là một môn học theo công thức
nhưng trong thực tế, khi học Ngoại ngữ, hầu hết sinh viên Việt Nam thường chú trọng
vào ngữ pháp hơn là giao tiếp. Kết quả là nhiều sinh viên có thể nắm chắc ngữ pháp
Tiếng anh còn hơn cả người bản ngữ nhưng khi giao tiếp thì họ lại tỏ ra lúng túng và
rất kém. Ở các nước khác thì có phần ngược lại, người ta thường quan tâm nhiều tới
việc học nghe, học nói trước, sau đó mới đến học ngữ pháp.
Nằm trong xu thế đổi mới giáo dục hiện nay, Trường CĐSP Đà Lạt đang áp
dụng hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, vì vậy, việc cần có những biện pháp cụ thể
để học tốt môn Tiếng Anh càng trở nên cấp thiết. Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
cũng phải chung tay cùng nhà trường tổ chức các hoạt động bổ trợ đoàn viên, sinh viên
tự học nâng cao chất lượng năng lực sử dụng ngoại ngữ. Một trong những cách tự học
Tiếng Anh hiệu quả của đoàn viên, sinh viên là tham gia Câu lạc bộ Ngoại ngữ (CLB
Tiếng Anh), tăng cường giao tiếp mọi lúc, mọi nơi.
Câu lạc bộ Tiếng Anh, theo nghĩa phổ biến, là một cộng đồng người cùng có
chung sở thích về ngoại ngữ, cùng nhau tạo ra một môi trường không những để rèn
luyện Tiếng Anh mà còn là nơi giao lưu, gặp gỡ của các thành viên. Câu lạc bộ Tiếng
Anh mang đến một môi trường cho các thành viên học tập, hướng đến hoàn thiện các
kĩ năng Tiếng Anh. Hơn thế nữa, Câu lạc bộ Tiếng Anh còn mang đến cho các thành
viên cơ hội để rèn luyện các kĩ năng “mềm” như kĩ năng phản xạ khi giao tiếp, kĩ năng
thuyết trình, khả năng phản biện trước đám đông… Câu lạc bộ Tiếng Anh còn có thể
tạo ra môi trường cho các sinh viên phát huy hết khả năng của mình trong quá trình tự
học, tự nghiên cứu, tự thể hiện và khả năng làm việc theo nhóm.
Câu lạc bộ Tiếng Anh được Hội sinh viên trường CĐSP Đà Lạt tổ chức là mô
hình học tập ngoại khóa được tổ chức theo hình thức thảo luận theo chủ điểm, cuộc thi
tìm hiểu hay sự kiện văn hóa – văn nghệ… Khi gặp bất cứ một khó khăn nào liên quan
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 205
đến việc học hay sử dụng Tiếng Anh, mọi thành viên đều có thể nêu nó ra như một vấn
đề để mọi người cùng nghiên cứu, thảo luận và tìm ra giải pháp. Nó có thể là một bài
tập, một cấu trúc câu, một tình huống giao tiếp trong cuộc sống, một nội dung nào đó
của chương trình học, một bài hát, một bộ phim hay một phong tục, tập quán của
người nước ngoài…
Tuy nhiên trong thời gian qua, CLB Tiếng Anh không được duy trì tổ chức
thường xuyên với một số nguyên nhân cơ bản sau:
Sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc trau dồi kỹ năng ngoại
ngữ qua việc tham gia sinh hoạt CLB tiếng Anh. Trong quá trình tham gia sinh hoạt ,
một số sinh viên ngại giao tiếp bằng tiếng Anh, chỉ tham gia trò chơi tiếng Anh mà
không phải luyện nói.
Nội dung sinh hoạt chưa phong phú, chưa thu hút được động đảo sinh viên
tham gia. Đa số các trò chơi tiếng Anh sử dụng hành động nhiều hơn là ngôn ngữ.
Công tác tuyên truyền, giới thiệu về CLB tiếng Anh còn hạn chế cho nên nhiều
sinh viên không biết và không hứng thú tham gia.
Đội ngũ cốt cán đứng ra tổ chức CLB tiếng Anh luôn biến động vì sinh viên
phải ra trường nên CLB gặp không ít khó khăn trong việc triền khai, điều hành hoạt
động trong thời gian sau.
Để nâng cao chất lượng hoạt động CLB Tiếng Anh trong thời gian sắp tới,
chúng ta cần phải đưa ra những giải pháp thiết thực:
Thứ nhất, hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt cần phải phong phú, thiết thực
với nhu cầu đoàn viên, sinh viên để mỗi khi đến với CLB Tiếng Anh, mọi người đều
có cơ hội bình đẳng như nhau trong giao tiếp, thảo luận giải quyết vấn đề, thể hiện
năng lực và năng khiếu của bản thân; rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng thuyết trình trước
đám đông, kỹ năng tổ chức sự kiện,… mỗi người đều được nói, được lắng nghe và tự
rút ra cho mình những kết luận, những kinh nghiệm riêng về việc học ngoại ngữ và cả
về cuộc sống; không phân biệt sinh viên chuyên ngữ hay không chuyên, năm thứ nhất
hay sắp ra trường mà tất cả đều là những thành viên trong cộng đồng nói tiếng Anh.
Thứ hai, CLB Tiếng Anh phải thực sự trở thành môi trường học tập hết sức hiệu
quả, mang lại những lợi ích thiết thực hỗ trợ cho quá trình tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên. Hội sinh viên trường cần triển khai kế hoạch tổ chức sinh hoạt CLB Tiếng
Anh từ chi đoàn, chi hội đến các liên chi đoàn .Chia cấp độ sinh hoạt theo trình độ
chuyên Anh văn và không chuyên Anh văn nhằm giúp đoàn viên sinh viên tự tin sử
dụng tiếng Anh để giao tiếp từ trình độ sơ cấp đến trung cấp.
Thứ ba. tại mỗi buổi sinh hoạt định kỳ hàng tuần, cần định hướng cho các bạn
đoàn viên, sinh viên tham gia thảo luận về một chủ đề phù hợp, ví dụ như: How to
improve your conversation skills? (Làm thế nào để cải thiện kỹ năng giao tiếp?); A
day in my life (Một ngày trong cuộc đời bạn); The favourite food (Thức ăn ưa thích).
Trang 206
Ngoài ra tại buổi sinh hoạt, nên tổ chức cho các bạn đoàn viên, sinh viên tham gia
những trò chơi tiếng Anh đa dạng, phong phú như (giải đáp ô chữ), học thành ngữ Việt
Nam bằng tiếng Anh (Proverb of the week), kể câu chuyện vui bằng tiếng Anh (Funny
story). Trong một học kỳ, cần tổ chức cho các bạn đoàn viên, sinh viên tham gia thi
hát karaoke các bài hát tiếng Anh nổi tiếng thế giới nhằm giúp đoàn viên sinh viên
tăng cường kỹ năng nghe và phát âm tiếng Anh.
Thứ tư, tổ Anh văn cần cử giảng viện tham gia làm tư vấn hoạt động CLB, định
hướng nội dung hoạt động; chỉnh sửa những lỗi sinh viên hay gặp nhằm giúp sinh viên
nâng cao kiến thức, rèn luyện các kỹ năng ngoại ngữ ngày càng thuần thục.
Thứ năm, CLB Tiếng Anh các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố
Đà lạt nên tổ chức các buổi sinh hoạt giao lưu với nhau để đoàn viên, sinh viên của các
trường có dịp học hỏi, giao lưu và kết bạn cùng góp phần nâng cao kỹ năng sử dụng
tiếng Anh và Hội sinh viên các trường sẽ cùng chia sẽ những kinh nghiệm tổ chức, các
nội dung sinh hoạt CLB.
Thứ sáu, các thành viên tham gia sinh hoạt CLB tiếng Anh nên tạo một nhóm
trên facebook hoặc zalo để có thể thường xuyên trao đổi, chia sẽ các tài liệu học tiếng
Anh, chia sẽ các websites luyện nghe nói tiếng Anh. Các thành viên có thể tán gẫu với
nhau bằng tiếng Anh trong những thời gian rãnh rỗi nhằm trau dồi thêm ngữ pháp, từ
vựng và cấu trúc câu.
Cuối cùng, các thành viên chủ nhiệm CLB phải thường xuyên trau đồi kiến
thức và tích cực rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Anh để mỗi thành viên khi đứng ra tổ
chức các buổi sinh hoạt cảm thấy tự tin và thu hút được các bạn đoàn viên, sinh viên
tham gia. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tổ chức sinh hoạt, rèn luyện
kỹ năng quản trò các trò chơi tiếng Anh , kỹ năng làm trọng tài.
Có thể nói, Tiếng Anh là một công cụ không thể thiếu trên con đường hội nhập
và phát triển cùng với bạn bè khắp nơi. Và như đã được nêu ở trên, một phương pháp
học Tiếng Anh theo học chế tín chỉ hiệu quả là tham gia các Câu Lạc bộ Tiếng Anh.
Chính vì vậy, với tinh thần ham học hỏi, tính sáng tạo cao, cùng với lòng nhiệt huyết
của tuổi trẻ và sự năng động truyền thống, các cấp cán bộ đoàn-hội sẽ tạo ra một Câu
lạc bộ Tiếng Anh - một môi truờng - một sân chơi - một nơi kết nối giữa các thành
viên với nhau và thực sự xứng đáng với vai trò “Điểm hẹn của sinh viên chuyên ngữ
và không chuyên ngữ”. Hi vọng rằng, trong thời gian tới, CLB tiếng Anh sẽ có nhiều
thay đổi để thu hút nhiều đoàn viên, sinh viên tham gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Salameh,Z.(2017), How to use knowledge and skills among students in the English
speaking club.
2. Cau lac bo tieng anh.com.vn/vai-tro-cua-cau-lac-bo-tieng-anh-doi-voi..việc nâng
cao tiếng Anh cho sinh viên.
Trang 207
MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP HỌC TẬP ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
TRONG KÌ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2019 MÔN ĐỊA LÍ
Nguyễn Thị Dung*
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi đại học, cao đẳng (nay gộp
chung là kỳ thi THPT Quốc gia) có nhiều đổi mới nhằm đáp ứng việc dạy và học cũng
như để phù hợp với thực tế cuộc sống. Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 tiếp tục có
nhiều điểm mới. Để đáp ứng yêu cầu của kỳ thi, các trường THPT trên khắp cả nước
đã kịp thời có những điều chỉnh phù hợp, tích cực cho học sinh ôn luyện, hướng tới
một kỳ thi đạt kết quả cao.
Địa lí là một môn trong bài thi tổ hợp Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo
dục công dân). Trong đó, đề thi của mỗi môn là 40 câu với thời gian 50 phút. Đây là
vấn đề khá mới mẻ và đặt ra không ít những băn khoăn, trăn trở cho giáo viên cũng
như học sinh trong quá trình ôn thi. Đa số giáo viên Địa lí chưa quen với phương pháp
dạy học và hình thức ra đề thi 100% trắc nghiệm khách quan. Học sinh cũng cũng
chưa quen với ôn thi trắc nghiệm Địa lí.
Trước những thay đổi này, để học sinh có được kết quả tốt nhất cho kỳ thi sắp
tới, đổi mới phương pháp dạy học chính là giải pháp căn cơ được các nhà trường
hướng tới. Đổi mới của kỳ thi đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên
cần kết hợp hình thức dạy vừa tự luận vừa trắc nghiệm để học sinh vừa có kiến thức
chắc chắn, vừa có kỹ năng làm bài tốt.
2. Nội dung
2.1. Cấu trúc đề thi môn Địa lí
Qua nghiên cứu đề thi của năm 2017, 2018 và đề thi minh họa vừa được công
bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2019, cấu trúc đề thi môn Địa lí như sau:
Đề thi minh họa môn Địa lý có 25 câu lí thuyết và 15 câu thực hành.
Theo đó, câu hỏi lí thuyết nhằm vào kiến thức các phần trong chương trình môn
Địa lí 12 và 1 đến 2 câu của Địa lí 11, phù hợp với khối lượng kiến thức của mỗi phần
trong chương trình gồm: Địa lí khu vực và quốc gia; 2 câu; Địa lí tự nhiên: 5 câu; Địa
lí dân cư: 2 câu; Địa lí kinh tế ngành: 6 câu; Địa lí kinh tế vùng: 10 câu; Câu hỏi kĩ
năng: 15 câu. Với cơ cấu và số lượng câu hỏi của đề minh hoạ nêu trên, rất phù hợp
với thời gian làm bài 50 phút.
Câu hỏi kĩ năng nhằm vào các kĩ năng cơ bản của môn Địa lí 12 và 2 câu của Địa
lí 11: Đọc Atlat Địa lí Việt Nam, nhận xét biểu đồ, phân tích bảng số liệu thống kê.
* Giảng viên Khoa Xã hội
Trang 208
Đề thi cho sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
từ năm 2009 đến nay trong khi làm bài thi.
Nhìn chung, đề thi đã bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình môn
Địa lí lớp 12, đảm bảo tính vừa sức của học sinh, phù hợp với đổi mới phương pháp dạy
học, kiểm tra đánh giá trong nhà trường THPT hiện nay và có tính phân hóa rõ ràng.
Đặc biệt, đề thi trong năm 2017 và 2018 đã đề cập đến những kiến thức phổ
thông, cơ bản, cần thiết về đặc điểm tự nhiên, dân cư và tình hình phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam và thế giới mà học sinh được học trong chương trình lớp 11 và
12; những vấn đề đặt ra đối với cả nước nói chung và các vùng, đề minh hoạ đã sử
dụng số liệu thống kê được cập nhật mới nhất.
2.2. Tính phân hóa của đề thi
Các câu hỏi của đề thi được sắp xếp tăng dần theo 4 mức độ nhận thức: Nhận
biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao: Mức độ nhận biết và thông hiểu: 60%
(24 câu), trong đó nhận biết 35% (14 câu), thông hiểu 25% (10 câu); Mức độ vận dụng
(thấp, cao): 40%; trong đó vận dụng thấp 30% (12 câu), vận dụng cao 10% (4 câu).
Mức độ phân hóa của đề thi năm 2017 và 2018 khá rõ ràng và đảm bảo được
tính kế thừa về độ phân hóa của đề thi THPT quốc gia năm 2016.
Cụ thể, ở mỗi phần (Địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, địa lí kinh tế ngành, địa lí
kinh tế vùng, kĩ năng) đều phân bố các câu hỏi theo tỉ lệ 60% (nhận biết và thông hiểu)
và 40% (vận dụng thấp và vận dụng cao).
Các câu hỏi của đề thi được sắp xếp tuần tự từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng
thấp, vận dụng cao thuận tiện cho học sinh trong khi làm bài thi với mục tiêu khác
nhau (chỉ thi tốt nghiệp, vừa thi tốt nghiệp vừa thi vào đại học, chỉ thi vào đại học).
Tính phân hóa của đề thi năm 2019:
Chuyên đề
Cấp độ nhận thức
Tổng Nhận
biết
Thông
hiểu
Vận
dụng
Vận dụng
cao
1. Địa lí Khu vực và Quốc
gia
0 2 0 0 2
2. Địa lí tự nhiên 3 2 0 0 5
3. Địa lí dân cư 1 1 0 0 2
4. Địa lí các ngành kinh tế 1 1 3 1 6
5. Địa lí các vùng kinh tế 0 1 5 4 10
6. Thực hành kĩ năng địa lí 8 3 2 2 15
7. Tổng câu 13 10 10 7 40
2.3. Một số phương pháp để học tập đạt hiệu quả cao kì thi THPTQG 2019 trong
môn Địa lí
Trang 209
Đề thi trắc nghiệm môn Địa lí không chỉ đơn thuần là ghi nhớ máy móc mà có
cả sự tư duy lôgic có chiều sâu thể hiện trong nhiều câu hỏi khó. Ở một số trường,
điểm thi trung bình bài thi trắc nghiệm khách quan năm 2017 – 2018 ở một số kì thi
thử thấp hơn so với các kì thi với hình thức tự luận trước đây. Nguyên nhân chủ yếu là
do tâm lí chủ quan và chưa quen với việc ôn tập thi trắc nghiệm môn Địa lí.
Để đạt điểm cao bài thi trắc nghiệm Địa lí, học sinh cần chú ý một số vấn đề
sau đây:
2.3.1. n tập phần lí thuyết
- Ghi nhớ kiến thức một cách hệ thống và vững chắc
Trong quá trình học tập, các em cần có các phương pháp học tập sao cho hiệu
quả, đảm bảo hiểu và ghi nhớ nội dung kiến thức một cách có lôgic và hệ thống. Nội
dung môn Địa lí có nhiều mối quan hệ lôgic với nhau, trong quá trình học các em cần
liên hệ, so sánh, phân tích và tổng hợp từ đó mới có thể hiểu rõ, hiểu đầy đủ về nội
dung của vấn đề. Một số phương pháp ôn tập lí thuyết nên được sử dụng như: Làm
bảng hệ thống hóa kiến thức, làm sơ đồ tư duy, ôn tập lí thuyết gắn với bản đồ, tóm tắt
nội dung kiến thức.
Thi trắc nghiệm không những đòi hỏi các em phải nắm chắc kiến thức mà còn
phải hiểu sâu sắc về vấn đề. Tóm tắt, sơ đồ hóa kiến thức, lập bảng biểu có thể được
làm theo bài hoặc theo chủ đề. Mỗi bài ghi những nội dung chính, sau đó cần đọc lại
để ghi nhớ những ý cơ bản, hiểu những ý chính và mạch lôgic của kiến thức. Sau đó
xem xét lại xem mỗi ý chính lại có bao nhiêu ý phụ, các ý của bài có quan hệ lôgic với
nhau như thế nào, sự giống và khác giữa chúng, có quan hệ với các bài học khác như
thế nào.
Vd: Thiên nhiên Việt Nam phân hóa đa dạng gồm:
+ Thiên nhiên phân hóa theo Bắc – Nam
+ Thiên nhiên phân hóa theo Đông – Tây
+ Thiên nhiên phân hóa theo độ cao
+ Các miền địa lí tự nhiên
- Tránh học tủ
Đối với bài thi trắc nghiệm, kiến thức lí thuyết sẽ phủ kín chương trình sách
giáo khoa nên học sinh cần có phương pháp ôn tập khác so với ôn thi tự luận trước
đây. Thay vì tập trung vào những nội dung cơ bản, trọng tâm và thiên về phân tích và
diễn đạt ở bài thi tự luận trước đây, đối với bài thi trắc nghiệm, các em cần thiên hơn
về nhớ và hiểu kiến thức ở phạm vi rộng hơn rất nhiều. Nội dung học cũng phải bao
quát hết toàn bộ chương trình, tuyệt đối không học tủ.
- Ghi nhớ những nội dung đặc biệt
Có nhiều câu hỏi trắc nghiệm hướng tới những vấn đề mang tính nổi bật, đặc
trưng của một vấn đề nào đó. Vì vậy, bên cạnh việc chú ý hệ thống kiến thức theo tư
Trang 210
duy lôgic, nhớ các ý chính thì các em cần nhớ đến những nội dung đặc biệt (ví dụ: lớn
nhất, nhỏ nhất, khó khăn nhất, thuận lợi nhất, cơ bản nhất,…).
Ví dụ:
- Bể dầu lớn nhất Việt Nam: Nam Côn Sơn
- Đồng bằng sông Hồng: + Mật độ dân số cao nhất
+ Số dân đông nhất
- Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm để ôn tập và học nhóm
Các em nên tự ra những câu hỏi trắc nghiệm là một giải pháp khá tốt trong ôn
thi môn Địa lí. Khi các em ra câu hỏi để đố nhau trong nhóm, không chỉ tạo nên không
khí sôi nổi, hào hứng đối với học sinh trong quá trình học tập mà còn giúp các em có
khả năng ghi nhớ nội dung bài học khá hiệu quả. Qua việc ra câu hỏi, các em có điều
kiện nghiên cứu kĩ nội dung bài học, có khả năng phán đoán những đáp án khác nhau
cho mỗi câu hỏi. Qua đó không chỉ giúp các em học và ghi nhớ kiến thức mà còn tạo
phản xạ nhanh với những dạng câu hỏi khác nhau.
- Làm các bài tập trắc nghiệm ngay sau mỗi bài học
Tăng cường kiểm tra nội dung kiến thức và các kĩ năng học được sau mỗi bài học
nhằm tạo dấu ấn ghi nhớ nội dung bài học ngay sau mỗi tiết học. Bên cạnh đó còn có thể
giúp các em rèn luyện kĩ năng tư duy vấn đề một cách mở rộng hơn, đa dạng hơn.
2.3.2. Chú ý rèn luyện kĩ năng khai thác Atlat Địa lí Việt Nam
Cấu trúc đề thi có 10 câu hỏi khai thác Atlat Địa lí Việt Nam. Bên cạnh đó,
Atlat cũng có thể sử dụng được để tái hiện kiến thức hoặc các số liệu cho các em ở
nhiều câu hỏi khác. Đây là phần có ý nghĩa quan trọng để các em khai thác và gỡ điểm
vì các em được mang Atlat Địa lí Việt Nam vào phòng thi. Khi rèn luyện kĩ năng khai
thác Atlat Địa lí Việt Nam cần chú ý một số vấn đề sau:
- Nắm chắc các ký hiệu: Kí hiệu chủ yếu ở trang 3 của Atlat, cũng có một số kí
hiệu riêng của một số bản đồ trong các trang Atlat cụ thể.
Học sinh cần nắm chắc các ký hiệu chung về khoáng sản, nông nghiệp, công nghiệp,
lâm ngư nghiệp... ở trang 3 của quyển Atlat, vì một số bản đồ trong Atlat không in chú
thích kèm theo bản đồ như bản đồ khoáng sản trang 8, bản đồ công nghiệp chung trang
21, nông - lâm nghiệp trang 18, 19...
- Biết khai thác biểu đồ trong Atlat: Các biểu đồ trong Atlat là một công cụ hữu
hiệu để học sinh nhớ lại lí thuyết hoặc cung cấp những số liệu cần thiết giải quyết phần
nào vấn đề phải ghi nhớ quá nhiều số liệu trong môn Địa lí. Thông thường mỗi bản đồ
ngành kinh tế đều có từ 1 đến 2 biểu đồ (cột, đường, tròn...) bên cạnh thể hiện sự tăng,
giảm về giá trị tổng sản lượng, về diện tích (đối với các ngành nông-lâm nghiệp) của
các ngành kinh tế.
Trang 211
- Biết sử dụng đủ số bản đồ trong Atlat cho một câu hỏi trắc nghiệm: Những
câu hỏi ở mức độ đơn giản chỉ cần một trang Atlat để trả lời nhưng cũng có những câu
hỏi cần chồng xếp một số trang mới có câu trả lời chính xác.
Ví dụ: Khi đánh giá tiềm năng của ngành công nghiệp năng lượng, học sinh không những
chỉ sử dụng bản đồ khoáng sản để thấy khả năng phát triển các ngành công nghiệp này mà
còn sử dụng bản đồ công nghiệp để thấy vai trò của ngành này với các ngành công nghiệp
khác, sử dụng bản đồ sông ngòi để thấy tiềm năng phát triển thủy điện...
2.3.3. Rèn luyện kĩ năng khai thác bảng số liệu và biểu đồ
Trong đề thi trắc nghiệm, yêu cầu đối với phần kĩ năng biểu đồ thường thiên về
nhận dạng biểu đồ, phân tích nội dung biểu đồ. Đối với bảng số liệu là vấn đề đọc
bảng số liệu, xử lí số liệu và phân tích bảng số liệu. Đôi khi kĩ năng khai thác bảng số
liệu cũng đi kèm với kĩ năng biểu đồ.
- Kĩ năng khai thác bảng số liệu: Các em cần rèn luyện các kĩ năng đọc bảng số
liệu như diễn biến tăng hay giảm, giá trị lớn nhất hay nhỏ nhất, sự khác biệt của từng
đối tượng,... Các câu hỏi ở mức độ khó hơn thường yêu cầu biết cách xử lí số liệu để
tìm cơ cấu, tốc độ tăng trưởng, tỉ trọng,… của đối tượng và phân tích mới lựa chọn
được đáp án cho câu hỏi.
- Kĩ năng biểu đồ: Các em cần chú ý rèn luyện kĩ năng biểu đồ hướng tới các
dạng câu hỏi sau đây: Nêu tên biểu đồ (cho hình vẽ biểu đồ yêu cầu chỉ ra tên biểu đồ),
nhận xét biểu đồ (cho biểu đồ và nhận xét sự tăng lên hay giảm đi của đối tượng qua
các năm, so sánh giá trị giữa các đối tượng, nhận xét hoặc so sánh tốc độ gia tăng của
các đối tượng,…), nhận dạng biểu đồ (cho bảng số liệu và yêu cầu vẽ biểu đồ để học
sinh lựa chọn biểu đồ phù hợp).
2.3.4. Chú ý kĩ năng làm bài thi
Công việc ôn tập là yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo các em có đủ kiến
thức, kĩ năng tự tin bước vào phòng thi. Tuy nhiên, kĩ năng làm bài thi cũng là vấn đề
không kém phần quan trọng mà các em cần lưu ý để đảm bảo vững vàng tâm lí khi thi
nhằm đạt được điểm cao nhất.
- Chuẩn bị chu đáo đồ dùng để làm bài thi. Đồ dùng cần thiết đối với thi trắc
nghiệm môn Địa lí là bút chì mềm, tẩy, máy tính và Atlat Địa lí Việt Nam. Nếu thiếu
đồ dùng cần thiết để làm bài thi sẽ dẫn đến thiếu chủ động và ảnh hưởng đến tốc độ trả
lời câu hỏi.
- Phân bố thời gian hợp lí. Với thời gian cho môn thi là 50 phút với 40 câu hỏi,
mỗi câu hỏi các em có 1 phút và 15 giây. Tuy nhiên các em cần có thời gian để soát lại
bài. Vì vậy cần tận dụng thật hiệu quả thời gian mình có, chú ý đọc nhanh toàn bộ đề
thi sau đó làm những câu hỏi từ dễ đến khó. Những câu hỏi dễ hơn làm nhanh và làm
trước, dành thời gian nhiều hơn cho câu hỏi khó.
Trang 212
- Đọc kĩ, nắm chắc từng ý của câu hỏi mới chọn phương án trả lời. Kĩ thuật ra
câu hỏi trắc nghiệm hướng tới các đáp án đều đúng về nội dung nhưng chỉ có một đáp
án phù hợp nhất với câu hỏi. Vì vậy, nếu không đọc kĩ câu hỏi, không nắm chắc kiến
thức dễ dẫn đến lựa chọn đáp án không chính xác.
- Tuân thủ kĩ thuật làm bài thi trắc nghiệm. Bài thi của thí sinh hoàn toàn được
chấm bằng máy, nếu trả lời nhiều phương án, thí sinh sẽ bị mất điểm. Các đáp án phải
được tô rõ ràng. Điểm của bài thi được tính theo phương pháp thống kê căn cứ trên số
câu mà thí sinh đánh dấu đúng. Các em cũng không được bỏ trống câu hỏi nào. Câu
hỏi khó để lại sau cùng để làm. Nếu không chọn được đáp án thì chúng ta sử dụng
phương pháp phỏng đoán, loại trừ. Những cơ sở để các em phỏng đoán đáp án cho câu
hỏi có thể dựa vào những từ thường được lựa chọn cho đáp án đúng như cơ bản, chủ
yếu, thông thường, tất cả,… Phương pháp loại trừ có thể được sử dụng để loại trừ dần
những đáp án sai để cuối cùng chọn ra đáp án đúng nhất.
3. Kết luận
Để môn Địa lí đạt được kết quả cao trong kì thi trung học phổ thông quốc gia
2019 cả giáo viên và học sinh cần quan tâm tới giải pháp đổi mới phương pháp ôn tập,
kiểm tra, đánh giá; tăng cường cho học sinh kiểm tra sau mỗi phần, mỗi chương, mỗi
kỳ; phương thức kiểm tra theo hướng kết hợp tự luận và trắc nghiệm khách quan. Sau
mỗi đợt thi các tổ nhóm chuyên môn đánh giá chất lượng đề thi, mức độ tiếp cận và
phân loại trình độ học sinh. Từ đó rút kinh nghiệm cách dạy cho giáo viên và cách học
cho học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atlat Địa lí Việt Nam (2017), Công ty bản đồ - tranh ảnh giáo khoa, Nhà xuất bản
Giáo Dục.
2. Lê Thông (Tổng Chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh (Chủ biên), Nguyễn Kim Chương -
Phạm Xuân Hậu - Đặng Duy Lợi - Phạm Thị Sen - Phí Công Việt (2009), Địa lí 12,
Nhà xuất bản Giáo Dục.
3. Đề thi minh họa THPTQG môn Địa lí của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2019.
Trang 213
KINH DOANH ĐA CẤP DƢỚI CÁI NHÌN TOÁN HỌC
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*
Kinh doanh đa cấp xuất hiện trên thế giới từ những năm đầu thế kỉ 20. Đầu thế
kỉ 21, kinh doanh đa cấp bắt đầu bước chân vào thị trường Việt Nam. Từ đây, kinh
doanh đa cấp tạo nên một làn sóng mạnh mẽ, thu hút nhiều tầng lớp tham gia. Tuy
nhiên, tồn tại được một thời gian ngắn, kinh doanh đa cấp bộc lộ những vấn đề gây
tranh cãi. Câu hỏi đặt ra là, cơ sở của mô hình kinh doanh đa cấp là gì? Liệu mô hình
kinh doanh này có khả thi? Dưới cái nhìn Toán học, bài viết sau đây sẽ giải đáp phần
nào câu hỏi trên.
Hình thức kinh doanh đa cấp còn gọi là bán hàng kiểu kim tự tháp. Mô hình
hoạt động là: người tổ chức hoặc kinh doanh đa cấp thông qua việc phát triển nhân
viên, yêu cầu nhân viên tuyến dưới phát triển thêm những nhân viên mới khác, hình
thành cái gọi là quan hệ tuyến trên tuyến dưới. Và căn cứ vào các dữ liệu như số lượng
phát triển tuyến dưới, chi phí tuyến dưới, thành tích bán hàng của tuyến dưới để tính
toán và chi trả thù lao cho tuyến trên.
Mô hình này cơ bản giống với mô hình quốc vương ban thưởng thóc cho thuật
sỹ phát minh ra cờ vua. Thuật sỹ muốn được ban thưởng số thóc bằng với số thóc trên
bàn cờ vua, với cách thức xác định số lượng thóc như sau: đặt 1 hạt thóc lên ô số 1, ô
số 2 đặt 2 hạt, ô thứ ba 4 hạt, và số hạt thóc mỗi ô sau tăng 2 lần số hạt trong ô trước
đó, cho đến khi đặt đầy tất cả 64 ô trong bàn cờ. Quốc vương cảm thấy yêu cầu của
thuật sỹ không cao bèn đáp ứng. Nhưng quốc vương nhanh chóng nhận ra, số hạt thóc
trong mỗi ô tăng nhanh không thể tưởng tượng, và do đó số thóc trên bàn cờ là một
con số rất lớn. Mô hình này thực chất là cụ thể hóa của cấp số nhân 1, 2, 4, 8, 16… với
công bội 2. Theo tính toán, phần tử thứ n của cấp số nhân có giá trị 2n-1 , và tổng của n
phần tử đầu tiên của dãy số trừ phần tử đầu tiên là 2(2n-1
- 1). Giá trị này lớn gấp nhiều
lần so với giá trị của phần tử đầu tiên. Đây cũng là cơ sở của “hiệu ứng bội tăng” trong
kinh tế học.
Các nhân viên bán hàng đa cấp thường lấy
“hiệu ứng bội tăng” này để tuyên truyền, kích thích,
lôi kéo người tham gia vào tổ chức của mình: chỉ
cần trong một tháng bạn phát triển 2 tuyến dưới,
mỗi tuyến dưới của bạn cũng bỏ ra khoảng thời gian
một tháng tự phát triển 2 tuyến dưới thế hệ hai
giống như bạn, mỗi tuyến dưới thế hệ hai lại tự phát
triển thành hai tuyến dưới thế hệ ba, cứ như thế dần
* Phụ trách Khoa Tự nhiên
Trang 214
dần hình thành một kết cấu giống kim tự tháp.
Nhẩm tính sơ lược, sau một năm, bạn sẽ có ít nhất 2(211
– 1) = 4094 tuyến
dưới, sau hai năm sẽ có 16.777.214 tuyến dưới, sau ba năm là 68.719.476.734 tuyến
dưới, sau bốn năm…, số tuyến dưới của bạn sẽ tăng lên nhanh chóng như số hạt thóc
trên bàn cờ, thu nhập của bạn có từ tuyến dưới cũng tăng lên rất nhanh. Đây có lẽ là là
kế hoạch tích lũy của cải hấp dẫn? Câu trả lời là không.
Trước hết, muốn tham gia tổ chức đa cấp, bạn phải nộp một khoản phí, và mỗi
tháng còn phải mua của tuyến trên một lượng sản phẩm nhất định. Do đó, bạn vừa là
người bán hàng, vừa là người tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của bạn phụ thuộc vào
lượng sản phẩm bạn bán ra và số tuyến dưới bạn phát triển được. Chỉ có một phần nhỏ
lợi nhuận thu được từ những khách hàng bán lẻ không tham gia vào mô hình kim tự
tháp, còn phần lớn lợi nhuận được tạo từ những người là tuyến dưới của bạn.
Theo “hiệu ứng bội tăng” mà các nhà kinh doanh đa cấp tuyên truyền, một
nhân viên đa cấp rất nhanh có thể có rất nhiều tuyến dưới, thu nhập có được cũng tăng
mạnh. Tuy nhiên, dựa trên công thức cấp số nhân, muốn thực sự “bội tăng” số người
tuyến dưới, tuyến dưới của bạn cần hình thành một “cây hai cành” hoàn chỉnh.Trong
thực tế, do rất nhiều tuyến dưới có thể không tìm được bất kì tuyến dưới nào hoặc chỉ
tìm được một tuyến dưới, nên có những tuyến dưới của bạn chỉ hình thành nên được
“cây hai cành” không hoàn chỉnh, không thể nào thực hiện được sự “bội tăng”. Nếu số
người tuyến dưới thực sự có thể “bội tăng” thì độ khó khăn của tuyến dưới trong việc
phát triển tuyến dưới nữa cũng sẽ “bội tăng”. Do đó để phát triển hai tuyến dưới là
công việc cực kì khó khăn. Vì thế, sự “bội tăng” trong trường hợp này không khả thi.
Trở lại câu chuyện ban thưởng của quốc vương, giả sử 1000 hạt thóc nặng 20
gram (cho dù ít hơn thực tế) thì khối lượng thóc là
gram1000
)12(20 64
369 tỉ tấn. Nếu
đem rải đều số thóc này lên bề mặt trái đất thì sẽ được một lớp thóc dày 9mm. Ngay cả
khi gom hết thóc trong vương quốc để ban thưởng thì cũng không thể nào đáp ứng
được yêu cầu của thuật sỹ.
Theo đó, giả sử sự “bội tăng” thực hiện được thì 3 năm sau số người tuyến
dưới của bạn sẽ là trên 68 tỉ người. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, dân số năm
2018 trên toàn thế giới cũng chỉ trên 7.5 tỉ, điều đó có nghĩa là toàn bộ người trên thế
giới đều là tuyến dưới của bạn. Liệu điều này có khả thi?
Như vậy, dưới cái nhìn của Toán học, rõ ràng mô hình hoạt động thu lợi nhuận
của các công ty đa cấp là mô hình không khả thi. Thực tế đã cho thấy, những công ty đa
cấp ngày càng bộc lộ những nhược điểm, gây mất lòng tin ở nhân viên và khách hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa lớp 11.
2. Các bài viết về Kinh doanh đa cấp trên các báo điện tử.
Trang 215
Lễ công bố Quyết định Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng trường CĐSP Đà Lạt
Đồng chí Phan Văn Đa Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng
Phát biểu trong lễ Khai giảng năm học mới 2018 - 2019