Dầu diesel

22
Dầu diesel, còn gọi là dầu gazole, là một loại nhiên liệu lỏng, sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ có thành phần chưng cất nằm giữa dầu hỏa (kesosene) và dầu bôi trơn (lubricating oil). Chúng thường có nhiệt độ bốc hơi từ 175 đến 370 độ C. Các nhiên liệu Diesel nặng hơn, với nhiệt độ bốc hơi 315 đến 425 độ C. Dầu Diesel được đặt tên theo nhà sáng chế Rudolf Diesel, và có thể được dùng trong loại động cơ đốt trong mang cùng tên, động cơ Diesel. Các thông số kỹ thuật của dầu Diesel Các tiêu chuẩn chất lượng của nhiên liệu Diesel Loại nhiên liệu Diesel Phương pháp thử DO 0,5% S DO 1,0% S 1. Chỉ số cetan ≥ 50 ≥ 45 ASTM D 976 2. Thành phần chưng cất, t °C 50% được chưng cất ở 280 °C 280 °C TCVN 90% được chưng cất ở 370 °C 370 °C 2693–95 3. Độ nhớt động học ở 20 °C (đơn vị cSt: xenti-Stock) 1,8 ÷ 5,0 1,8 ÷ 5,0 ASTM D 445 4. Hàm lượng S (%) ≤ 0,5 ≤ 1,0 ASTM D 2622 5. Độ tro (% kl) ≤ 0,01 ≤ 0,01 TCVN 2690–

Transcript of Dầu diesel

Dầu diesel, còn gọi là dầu gazole, là một loại nhiên liệu lỏng, sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ có thành phần chưng cất nằm giữa dầu hỏa (kesosene) và dầu bôi trơn (lubricating oil). Chúng thường có nhiệt độ bốc hơi từ 175 đến 370 độ C. Các nhiên liệu Diesel nặng hơn, với nhiệt độ bốc hơi 315 đến 425 độ C.

Dầu Diesel được đặt tên theo nhà sáng chế Rudolf Diesel, và có thể được dùng trong loại động cơ đốt trong mang cùng tên, động cơ Diesel.

Các thông số kỹ thuật của dầu Diesel

Các tiêu chuẩn chất lượng củanhiên liệu Diesel

Loại nhiên liệu Diesel Phương pháp

thửDO0,5% S

DO1,0% S

1. Chỉ số cetan ≥ 50 ≥ 45 ASTM D 976

2. Thành phần chưng cất, t °C

50% được chưng cất ở 280 °C 280 °C TCVN

90% được chưng cất ở 370 °C 370 °C 2693–95

3. Độ nhớt động học ở 20 °C(đơn vị cSt: xenti-Stock)

1,8 ÷ 5,0

1,8 ÷ 5,0

ASTM D 445

4. Hàm lượng S (%) ≤ 0,5 ≤ 1,0 ASTM D 2622

5. Độ tro (% kl) ≤ 0,01 ≤ 0,01 TCVN 2690–

95

6. Độ kết cốc (%) ≤ 0,3 ≤ 0,3 TCVN6 324–97

7. Hàm lượng nước, tạp chất cơ học (% V)

≤ 0,05 ≤ 0,05 TCVN 2693–95

9. Ăn mòn mảnh đồng ở 50 °C trong 3 giờ

N0 1 N0 1 TCVN 2694–95

10.

Nhiệt độ đông đặc, t °C ≤ 5 ≤ 5 TCVN 3753–95

11.

Tỷ số A/F 14,4 14,4 —

Dầu có nguồn gốc từ động cơ diesel bao gồm khoảng 75% hydrocarbon bão hòa (chủ yếu là parafin bao gồm n, iso,và cycloparaffins), và 25% aromatic hydrocarbons (bao gồm cả naphthalenes và loại alkylbenzen). Công thức hóahọc trung bình cho nhiên liệu diesel thông thường là C12H23, dao động khoảng từ C10H20 để C15H28.

Hầu hết nhiên liệu diesel đông lạnh ở nhiệt độ đông thông thường, trong khi nhiệt độ rất khác nhau. [52] Petrodiesel thường đông đặc khoảng nhiệt độ 17,5 ° F (-8.1 ° C), trong khi dầu diesel sinh học đông đặc giữa nhiệt độ 35º đến 60 ° F (15 ° 2º C). [52] độ nhớt của động cơ diesel đáng chú ý tăng lên khi nhiệt độ giảm, thay đổi nó thành dạng gel ở nhiệt độ -19 ° C (-2,2 ° F) đến -15 ° C (5 ° F), có thể không chảy trong hệ

thống nhiên liệu. Nhiên liệu diesel thông thường bốc hơi ở nhiệt độ từ 149 ° C và 371 ° C.

Thông thường điểm cháy diesel khác nhau giữa 52 và 96 °C, mà làm cho nó an toàn hơn xăng và không phù hợp cho động cơ đánh lửa. Không giống như xăng dầu, điểm cháy của nhiên liệu diesel không có liên quan đến hiệu quả của nó trong một động cơ cũng không chất lượng đánh lửatự động của nó.

Giới thiệu về Biodiesel Biodiesel còn được gọi Diesel sinh học là một loại nhiên liệu có tính chất giống với dầu diesel nhưng không phải được sản xuất từ dầu mỏ mà từ dầu thực vật hay mỡ động vật. Biodiesel, hay nhiên liệu sinh học nói chung, là một loại năng lượng sạch. Mặt khác chúng không độc và dể phân giải trong tự nhiên 

Giới thiệu về Biodiesel I. GIỚI THIỆU – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BIODIESEL. - Bản chất của Biodiesel là sản phẩm Ester hóa giữa methanol hoặc ethanol và acid béo tự do trong dầu thực vật hoặc mỡ động vật.- Tùy thuộc vào loại dầu và loại rượu sử dụng mà alkyl Ester có tên khác nhau:* Nếu đi từ dầu cây đậu nành (soybean) và Methanol thì

ta thu được SME (soy methyl Esters). Đây là loại Esters thông dụng nhấtđược sử dụng tại Mỹ.* Nếu đi từ dầu cây cải dầu (rapeseed) và Methanol thì ta thu được RME (rapeseed methyl Esters). Đây là loại Esters thông dụngnhất được sử dụng ở châu Âu.- Theo tiêu chuẩn ASTM thì Biodiesel được định nghĩa: “là các mono alkyl Ester của các acid mạch dài có nguồn gốc từ các lipit có thể tái tạo lại như:dầu thực vật, mỡ động vật, được sử dụng làm nhiên liệu cho động cơ diesel”.- Biodiesel bắt đầu được sản xuất khoảng giữa năm 1800,trong thời điểm đó người ta chuyển hóa dầu thực vật để thu Glycerol ứng dụng làm xà phòng và thu được các phụ phẩm là methyl hoặc ethyl Ester gọi chung là biodiessel.

- 10/08/1893 lần đầu tiên Rudolf Diesel đã sử dụng Biodiesel do ông sáng chế để chạy máy. Năm 1912, ông đã dự báo: “Hiện nay, việc dùngdầu thực vật cho nhiên liệu động cơ có thể không quan trọng, nhưng trongtương lai, những loại dầu như thế chắc chắn sẽ có giá trị không thua gì các sản phẩm nhiên liệu từ 

dầu mỏ và than đá”.Trong bối cảnh nguồn tài nguyên dầu mỏ đang cạn kiệt và những tác động xấu lên môi trường của việc sử dụng nhiên liệu, nhiên liệu tái sinh sạch trong đó có Biodiesel đang ngày càng khẳng định vị trí là nguồn nhiên liệu thay thế khả thi. Để tưởng nhớ nguời đã có công đầu tiên đoán được giá trị to lớn của Biodiesel, Nation Board Biodiesel đãquyết định lấy ngày 10 tháng 8 hằng năm bắt đầu từ năm 2002 làm ngày Diesel sinh học Quốc tế (International Biodiesel Day).- 1900 tại Hội chợ thế giới tổ chức tại Pari, Diesel đãbiểu diễn động cơ dùng dầu Biodiesel chế biến từ dầu Phụng (lạc).- Trong những năm của thập kỷ 90, Pháp đã triển khai sản xuất Biodiesel từ dầu hạt cải. Và được dùng ở dạng B5 (5% Biodiesel với 95% Diesel) và B30 (30% Biodiesel trộn với 70% Diesel).Giới thiệu về Biodiesel I. GIỚI THIỆU – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BIODIESEL. 

II. Ưu nhược điểm của nhiên liệu Biodiesel Ngoại trừ năng lượng thuỷ điện và năng lượng hạt nhân, phần lớn năng lượng trên thế giới đều tiêu tốn nguồn dầu mỏ, than đá và khí

tự nhiên. Tất cả các nguồn này đều có hạn và với tốc độ sử dụng chúng như hiện nay thì sẽ bị cạn kiệt hoàn toàn vào cuối thế kỷ 21. Sự cạn kiệt của nguồn dầu mỏ thế giới và sự quan tâm về môi trường ngày càng tăng đã dẫn đến sự nghiên cứu và phát triển nguồn năng lượng thay thế cho năng lượng có nguồngốc dầu mỏ. Biodiesel là một sự thay thế đầy tiềm năng cho diesel dựa vào những tính chất tương tự và những ưu điểm vượt trội của nó. Giới thiệu về Biodiesel 

Ưu Điểm. Về mặt môi trường.–Giảm lượng phát thải khí CO2, do đó giảm được lượng khíthải gây ra hiệu ứng nhà kính.–Không có hoặc chứa rất ít các hợp chất của lưu huỳnh (<0,001% so với đến 0,2% trong dầu Diesel) –Hàm lượng các hợp chất khác trong khói thải như: CO, SOX, HC chưa cháy, bồ hóng giảm đi đáng kể nên có lợi rất lớn đến môi trường và sức 

khoẻ con người.–Không chứa HC thơm nên không gây ung thư.–Có khả năng tự phân huỷ và không độc (phân huỷ nhanh hơn Diesel 4 lần, phân huỷ từ 85 ¸ 88% trong nước sau 28 ngày).–Giảm ô nhiễm môi trường nước và đất.–Giảm sự tiêu dùng các sản phẩm dầu mỏ.Giới thiệu về Biodiesel 

Về mặt kỹ thuật–Có chỉ số cetan cao hơn Diesel.Biodisel rất linh động có thể trộn với diesel theo bất kì tỉ lệ nào.–Biodiesel có điểm chớp cháy cao hơn diesel, đốt cháy hoàn toàn, an toàntrong tồn chứa và sử dụng.–Biodiesel có tính bôi trơn tốt. Ngày nay để hạn chế lượng SOx thải ra không khí, người ta hạn chế tối đa lượng S trong dầu Diesel. Nhưng chính những hợp chất lưu huỳnh lại là những tác nhân giảm ma sát của dầu 

Diesel. Do vậy dầu Diesel có tính bôi trơn không tốt vàđòi hỏi việc sử dụng thêm các chất phụ gia để tăng tính bôi trơn. Trongthành phần của Biodiesel có chứa Oxi. Cũng giống như S, O có tác dụng giảm ma sát. Cho nên Biodiesel có tính bôi trơn tốt.–Do có tính năng tượng tự như dầu Diesel nên nhìn chung khi sử dụng không cần cải thiện bất kì chi tiết nào của động cơ (riêng đối với các hệ thống ống dẫn, bồn chứa làm bằng nhựa ta phải thay bằngvật liệu kim loại)Giới thiệu về Biodiesel 

Về mặt kinh tế.–Sử dụng nhiên liệu Biodiesel ngoài vấn đề giải quyết ô nhiễm môi trường nó còn thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển, tận dụng tiềm năng sẵn có của ngành nông nghiệp như dầu phế thải, mỡ động vật, các loại dầu khác ít có giá trị sử dụng trong thực phẩm.–Đồng thời đa dạng hoá nền nông nghiệp va tăng thu nhập ở vùng miền 

nông thôn.–Hạn chế nhập khẩu nhiên liệu Diesel, góp phần tiết kiệmcho quốc gia một khoảng ngoại tệ lớn. Giới thiệu về Biodiesel 

Nhược điểmBiodiesel có nhiệt độ đông đặc cao hơn Diesel một ít gây khó khăn cho các nước có nhiệt độ vào mùa đông thấp. Tuy nhiên đối với các nước nhiệt đới, như Việt Nam chẳng hạn thì ảnh hưởng này không đáng kể.Biodisel có nhiệt trị thấp hơn so với diesel. Trở ngại lớn nhất của việc thương mại Biodiesel trước đây là chi phí sản suất cao. Do đó làm cho giá thành Biodiesel khá cao, nhưng với sự leo thang giá cả nhiêu liệu như hiện nay thì vấn đề này không còn là ràocản nữa.Hiện nay Biodiesel thường được sản xuất chủ yếu là theomẻ. Đây là điều bất lợi vì năng suất thấp, khó ổn định được chât lượng sản phẩm cũng như các điều kiện của quá trình phản ứng. Một phương pháp có thể tránh hoặc tối thiểu khó khăn này là sử dụng quá trình sản xuất liên tục. 

Giới thiệu về Biodiesel 

Quá trình chuyển hóa Biodiesel Ở đây chúng ta đề cập về bản chất biodiesel là sản phẩmester hóa giữa methanol hoặc ethanol và acid béo tự do trong dầu thực vật hoặc mỡ cá tra100 kg dầu mỡ + 10 kg methanol -> 100 kg biodiesel + 10kg glycerol Phương trình chuyển hóa biodiesel cơ bản như sau:

Trong đó R1, R2, R3 là các acid béo no hoặc không no chứa trong mỡ cá tra, dầu thực vật, các acid hữu cơ chiếm chủ yếu trong dầu mỡ động vật như:Trong đó palmitic acid chứa 16 C, stearic acid có 18 C,oleic acid 18 C và có nối đôi.Để thực hiện phản ứng chuyển hóa này cần có chất xúc tác như NaOH, hoặc KOH. 

Quá trình chuyển hóa Biodiesel 

Vai trò của các chất xúc tác này rất quan trọng vì nó phản ứng với Methanol trước để tạo tiền chất cho phản ứng:–Phản ứng 1: Tạo Alkoxide–

Trong môi trường có nước alkoxide phân ly tạo CH3O-- vàNa+, CH3O-- tiếp tục thực hiện phản ứng tiếp theo –Phản ứng 2: Tạo Triglyceride amion Quá trình chuyển hóa Biodiesel 

Phản ứng 3: Tạo diglyceride và CH3O-- tiếp tục cho các phản ứng dây chuyền tiếp theo để tạo ra monoglyceride, methyl ester và cuối cùng tạo glycerol methyl ester Như vậy: trong quá trình này cứ 01 phân tử Triglyceridetác dụng với 03 phân tử CH3O-H tạo ra 01 phân tử glycerol và 03 phân tử methyl ester (2) 

Hỗn hợp của dầu diesel sinh học và dầu diesel hydrocarbon dựa trên thông thường là những sản phẩm phổbiến nhất là phân phối để sử dụng trên thị trường nhiênliệu diesel bán lẻ. Phần lớn thế giới sử dụng một hệ thống được gọi là "B" yếu tố để biết số tiền của dieselsinh học trong bất kỳ hỗn hợp nhiên liệu: [4]

100% diesel sinh học được gọi là B100

20% diesel sinh học, 80% petrodiesel được dán nhãn B20

B5 5% diesel sinh học, 95% petrodiesel được dán nhãn

2% diesel sinh học, 98% petrodiesel được dán nhãn B2

Hỗn hợp của 20% diesel sinh học và thấp hơn có thể đượcsử dụng trong các thiết bị động cơ diesel không có, hoặc chỉ thay đổi nhỏ, [5] mặc dù các nhà sản xuất nhấtđịnh không mở rộng phạm vi bảo hành nếu thiết bị bị hư hỏng bởi những hỗn hợp. Các B6 để hỗn hợp B20 được bao phủ bởi các đặc điểm kỹ thuật ASTM D7467. [6] Diesel sinh học cũng có thể được sử dụng ở dạng nguyên chất (B100), nhưng có thể yêu cầu thay đổi động cơ nhất địnhđể tránh bảo trì và thực hiện vấn đề này. [7] Trộn B100với diesel dầu mỏ có thể được thực hiện bằng cách:

Trộn trong thùng vào thời điểm sản xuất trước khi giao hàng cho xe tải chở dầu

hỗn hợp bắn tóe trong xe tải chở dầu (thêm tỷ lệ phần trăm cụ thể của dầu diesel sinh học và dầu diesel)

hỗn hợp Trên dây chuyền , hai thành phần đến xe tải chởdầu cùng một lúc.

Bơm trộn, dầu diesel và dầu diesel sinh học có đồng hồ đo mét được thiết lập để tổng khối lượng X, bơm chuyển kéo từ hai điểm và kết hợp được hoàn tất vào để bơm.

Diesel sinh học là một loại nhiên liệu có tính chất tương đương với nhiên liệu dầu diesel nhưng không phải được sản xuất từ dầu mỏ mà từ dầu thực vật hay mỡ động vật. Diesel sinh học nói riêng, hay nhiên liệu sinh họcnói chung, là một loại năng lượng tái tạo. Nhìn theo

phương diện hóa học thì diesel sinh học là methyl este của những axít béo.

Để sản xuất diesel sinh học người ta pha khoảng 10% mêtanol vào dầu thực vật và dùng nhiều chất xúc tác khác nhau (đặc biệt là hiđrôxít kali, hiđrôxít natri vàcác ancolat). Ở áp suất thông thường và nhiệt độ vào khoảng 60 °C liên kết este của glyxêrin trong dầu thực vật bị phá hủy và các axít béo sẽ được este hóa với mêtanol. Chất glyxêrin hình thành phải được tách ra khỏi dầu diesel sinh học sau đấy.

Thông qua việc chuyển đổi este này dầu diesel sinh học có độ nhớt ít hơn dầu thực vật rất nhiều và có thể đượcdùng làm nhiên liệu thay thế cho dầu diesel mà không cần phải cải biến động cơ để phù hợp.

Chữ đầu tự dùng cho tất cả các methyl este từ dầu thực vật theo DIN EN 14214 là PME (có giá trị toàn châu Âu từ 2004).

Tùy theo loại của nguyên liệu cơ bản người ta còn chia ra thành:

RME: Mêthyl este của cây cải dầu (Brassica napus) theo DIN EN 14214 (có giá trị toàn châu Âu từ 2004)

SME: Mêthyl este của dầu cây đậu nành hay dầu cây hướngdương.

PME: Mêthyl este của dầu dừa hay dầu hạt cau.

Bên cạnh đó còn có mêthyl este từ mỡ nhưng chỉ có nhữngsản phẩm hoàn toàn từ dầu thực vật (PME và đặc biệt là RME) là được dùng trong các loại xe diesel hiện đại, khi được các nhà sản xuất cho phép.

Khi muốn chuyển sang sử dụng diesel sinh học thì chính sách thông tin của nhà sản xuất xe có thể trở thành mộtvấn đề lớn. Thường thì chỉ sau khi tốn nhiều thời gian kiên trì đặt câu hỏi người ta mới nhận được thông tin về việc là liệu một kiểu xe nhất định đã được cho phép dùng diesel sinh học hay không và mặc dù là diesel sinhhọc đã có trên thị trường từ 10 năm nay nhưng phần lớn các ô tô được sản xuất hằng loạt đều không thích nghi với diesel sinh học.

Khi dùng nhiên liệu diesel sinh học cho một xe cơ giới không thích nghi với PME, diesel sinh học sẽ phá hủy các ống dẫn nhiên liệu và các vòng đệm bằng cao su. Nguyên nhân là do diesel sinh học có tính chất hóa học của một chất làm mềm, chất cũng có trong các ống dẫn nhiên liệu và vòng đệm bằng cao su. Diesel sinh học sẽ thay thế các chất làm mềm trong các ống và vòng đệm này, vật liệu lúc đầu sẽ phồng lên, lúc này nếu dùng dầu diesel có nguồn gốc từ dầu mỏ thì dầu diesel này sẽ

rửa sạch diesel sinh học. Không có chất làm mềm vật liệu sẽ cứng và bị thẩm thấu nước.

Một vấn đề khác là việc nhiên liệu đi vào nhớt động cơ tại các động cơ Diesel có bộ phun nhiên liệu trực tiếp.Vấn đề này thường xảy ra trong thời gian vận hành khi động cơ được vận hành có những thời gian chạy không tảilâu dài. Lượng nhiên liệu phun càng ít thì chất lượng phân tán của miệng phun càng giảm và vì thế có xu hướnghình thành những giọt nhiên liệu không cháy bám vào thành của xi lanh nhiều hơn và sau đó là đi vào hệ thống tuần hoàn bôi trơn. Tại đây độ bền hóa học kém của RME là một nhược điểm: RME bị phân hủy dần trong hệtuần hoàn bôi trơn vì nhiệt độ cao tại đây, dẫn đến cácchất cặn thể rắn hay ở dạng keo. Vấn đề này và tính bôitrơn kém đi của nhớt động cơ khi có nồng độ nhiên liệu cao có thể dẫn đến việc động cơ bị hao mòn nhiều hơn, vì thế mà người ta khuyên là khi vận hành bằng PME nên rút ngắn thời kỳ thay nhớt.

Một ưu điểm của PME có thể lại trở thành nhược điểm khiđược sử dụng thực tế ở các loại xe cơ giới: dễ bị phân hủy bằng sinh học và đi cùng là không bền lâu. Ô xi hóavà nước tích tụ sẽ làm xấu đi các tính chất của PME saumột thời gian tồn trữ. Vì thế mà PME thường ít được khuyên dùng cho các xe ít được vận hành.

Ngoài ra thì vì việc đốt cháy khác nhau nên các động cơmới không được chứng nhận là thích nghi với PME có thể có vấn đề với các bộ phận điện tử của động cơ, những thiết bị mà đã được điều chỉnh để dùng với diesel thôngthường. Đặc biệt là những xe cơ giới được trang bị bộ lọc muội than trong khí thải thường hay có vấn đề vì những hệ thống này đã được điều chỉnh trước để tăng lượng nhiên liệu phun sau mỗi 500 đến 1.000 km nhằm đốtcác hạt muội than trong bộ lọc. Điều tốt và có lý nếu dùng diesel thông thường này lại trở thành điều xấu khidùng diesel sinh học: nếu sử dụng diesel sinh học thì việc tăng lượng nhiên liệu phun sẽ làm loãng nhớt động cơ. Nếu sử dụng thuần túy diesel sinh học thì việc đốt các hạt muội than trong bộ lọc trở thành không cần thiết nữa. Vì thế trong tương lai sẽ có những thiết bị cảm biến nhiên liệu dùng để nhận biết chất lượng của nhiên liệu. Lượng và thời điểm phun nhiên liệu đều có thể được tối ưu hóa.

Kinh nghiệm trong lãnh vực xe chuyên chở cho thấy là việc sử dụng diesel sinh học nhiều năm có thể dẫn đến hư hỏng bơm nhiên liệu, đặc biệt là ở những động cơ có bộ phận bơm–phun nhiên liệu trực tiếp. Xe này tuy đã được cho phép vận hành với diesel sinh học nhưng nhà sản xuất bộ phận bơm phun (Bosch AG) thì lại không cho phép công khai dùng với RME. Người ta nói là vì phân tửRME có độ lớn khác với diesel thông thường và các phân tử RME trong các kênh dẫn tinh vi không có khả năng bôi

trơn đầy đủ ở áp suất cao và vì thế là nguyên nhân dẫn đến hao mòn nhanh hơn.

Sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu[sửa | sửa mã nguồn]

Với điều kiện ở châu Âu thì cây cải dầu (Brassica napus) với lượng dầu từ 40% đến 50% là cây thích hợp đểdùng làm nguyên liệu sản xuất diesel sinh học. Dầu đượcép ra từ cây cải dầu, phần còn lại được dùng trong côngnghiệp sản xuất thức ăn cho gia súc. Trong một phản ứnghóa học đơn giản giữa dầu cải và mêtanol có sự hiện diện của một chất xúc tác, glyxêrin và mêtanol trao đổivị trí cho nhau, tạo thành methyl este của axít béo và glyxêrin.

Ưu và nhược điểm đối với môi trường[sửa | sửa mã nguồn]

Quy trình sản xuất không có chất thải vì tất cả các sảnphẩm phụ đều có thể được tiếp tục sử dụng. Bã cây cải dầu được dùng làm thức ăn gia súc và glyxêrin có thể được tiếp tục dùng trong công nghiệp hóa (thí dụ như trong mỹ phẩm).

Thế nhưng cây cải dầu phải được trồng luân canh, tức làchỉ có thể trồng cây cải dầu trên cùng một cánh đồng từ3 đến 5 năm một lần. Vì nguyên nhân này mà việc tiếp tục tăng sản xuất cải dầu là một việc khó khăn.

Một hạn chế khác là diện tích canh tác. Hiện nay (2006)ở Đức có hơn 1,2 triệu hecta, tức 1/10 diện tích canh tác nông nghiệp, được dùng để trồng cây cải dầu. Theo nhiều chuyên gia, việc mở rộng diện tích canh tác lên khoảng 1,5 triệu hecta là điều không thể. Do đó, tối đanước Đức chỉ có thể sản xuất được vào khoảng 2 triệu tấn diesel sinh học. Trong khi đó nhu cầu dầu mỏ hiện nay của nước Đức là vào khoảng 130 triệu tấn hằng năm.

Ngoài ra, việc sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu cần dùng rất nhiều năng lượng cho phân bón và xử lý tiếp theo và vì thế tiêu hủy một phần lớn tiềm năng tiết kiệm năng lượng.

Tiềm năng thị trường của diesel sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Diesel sinh học được tạo thành từ một phản ứng hóa học rất đơn giản. Diesel sinh học có nhiều ưu điểm đối với môi trường so với diesel thông thường: Diesel sinh học từ cây cải dầu phát sinh khí thải ít hơn rất nhiều so với nhiên liệu hóa thạch. Bụi trong khí thải được giảm một nửa, các hợp chất hyđrocacbon được giảm thiểu đến 40%. Diesel sinh học gần như không chứa đựng lưu huỳnh,không độc và có thể được dễ dàng phân hủy bằng sinh học. Diesel sinh học hiện nay được coi là một trong những nhiên liệu thân thiện với môi trường nhất trên thị trường. Mặc dầu hiện nay có thể mua diesel sinh học

tại rất nhiều trạm xăng (riêng tại Đức là 1.900 trạm) nhưng diesel sinh học chưa được người tiêu dùng sử dụngnhiều do có nhiều nguyên nhân: Nhiều người tiêu dùng không tin tưởng vào loại nhiên liệu mới này vì không tưởng tượng được là có thể lái xe dùng một nhiên liệu hoàn toàn từ thực vật. Một vấn đề khác là rất nhiều người không biết chắc chắn là liệu ô tô của họ có thể sử dụng được diesel sinh học hay không.

Thiếu thông tin cho người tiêu dùng và các câu hỏi về hư hỏng sau này do diesel sinh học gây ra có thể là những vấn đề lớn nhất cho việc chấp nhận rộng rãi việc dùng diesel sinh học. Tại châu Âu đã nhiều lần có ý kiến cho là nên pha thêm vào nhiên liệu diesel thông thường khoảng từ 3% đến 5% diesel sinh học vì phần diesel sinh học này được coi là không có hại ngay cả cho những xe cơ giới chưa được trang bị thích hợp. Ở Pháp việc này đã được thực hiện từ lâu: Diesel thông thường được pha trộn thêm lượng diesel sinh học mà nôngnghiệp nước Pháp có khả năng sản xuất. Tại Pháp chất lượng diesel thông thường có thành phần diesel sinh họclà 5%, tránh được các nhược điểm kỹ thuật.

Từ đầu năm 2004 các trạm xăng ARAL và Shell ở Đức đã bắt đầu thực hiện chỉ thị 2003/30/EC của EU mà theo đó từ ngày 31 tháng 12 năm 2005 ít nhất là 2% và cho đến

31 tháng 12 năm 2010 ít nhất là 5,75% các nhiên liệu dùng để chuyên chở phải có nguồn gốc tái tạo.

Tại Áo một phần của chỉ thị của EU đã được thực hiện sớm hơn và từ ngày 1 tháng 11 năm 2005 chỉ còn có dầu diesel với 5% có nguồn gốc sinh học là được phép bán.

Các lựa chọn khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài ra cũng cần phải nhắc đến các lựa chọn thích hợp khác cho diesel sinh học. Người ta cũng có thể sử dụng nhiên liệu dầu thực vật trực tiếp không cần phải chuyểnđổi este. Tùy theo loại động cơ mà phải thay đổi một sốthông số cho động cơ Diesel để điều chỉnh thích ứng vớicác tính chất vật lý khác đi.

Trong tương lai sẽ còn có nhiên liệu sinh khối lỏng (tiếng Anh: Biomass to Liquids) thay vì là dầu thực vậtsẽ sử dụng toàn bộ khối lượng của cây như là nguồn cungcấp năng lượng. Các thử nghiệm đầu tiên với nhiên liệu sinh học tổng hợp này đã được tiến hành từ tháng 4 năm 2003 tại Đức. Loại nhiên liệu này, gọi là SunDiesel, được sản xuất từ gỗ và các loại sinh khối khác.