BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
0 -
download
0
Transcript of BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------o0o---------
Công trình tham dự Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học Trường Đại học Ngoại thương 2013
Tên công trình
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ
KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Nhóm ngành: KD1
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2013
i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
CI : Chỉ số hỗn hợp
CIA : Cục tình báo trung ương Mỹ
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
EC : Ủy ban châu Âu
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII : Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GNP : Tổng sản phẩm quốc gia
HNX : Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
IIR : Định mức tín nhiệm của Institution Investor Rating
ICOR : Hệ số hiệu quả sử dụng vốn
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NPL : Nợ xấu ở hệ thống ngân hàng
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
PPG : Nợ công nước ngoài và nợ nước ngoài được bảo lãnh
S&P : Tổ chức Standard and Poor’s
UNDTAD : Tổ chức Liên hợp quốc về hợp tác và phát triển kinh tế
USD : Đồng dollar Mỹ
VND : Việt Nam đồng
VBMA : Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam
WB : Ngân hàng thế giới
WEF : Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
ii
DANH MỤC HỘP
Hộp 1: Trích các nhận định của IMF về hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
1989-1998
Hộp 2: Trích các đánh giá của Moody’s đối với khả năng trả nợ nước ngoài của Việt
Nam giai đoạn 2001-2007
Hộp 3: Trích nhận định của Ngân hàng nhà nước về tình hình lạm phát Việt Nam
vào năm 2011
Hộp 4: Trích nhận định của Ủy ban kinh tế Quốc hội về tình hình tỉ giá năm 2011
Hộp 5: Trích các nhận định của Fitch về thực trạng ngân hàng Việt Nam
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Các số liệu về mức nợ công Việt Nam năm 2011
Bảng 2: Ảnh hưởng của định nghĩa lên thời điểm xảy ra khủng hoảng
Bảng 3: Lịch sử Khủng hoảng nợ của các quốc gia được khảo sát
Bảng 4: Các biến vĩ mô được lựa chọn cho mô hình
Bảng 5: Các kết quả thực nghiệm về ngưỡng khả thi
Bảng 6: Bảng quy đổi xác suất thực nghiệm
Bảng 7: Các kết quả thực nghiệm về QPS
Bảng 8: Xếp hạng tín nhiệm của Moody’s cho Việt Nam giai đoạn 2007-2012
Bảng 9: Xếp hạng tín nhiệm của S&P cho Việt Nam giai đoạn 2007-2012
Bảng 10: Các mức rủi ro tương ứng với các mức xác suất xảy ra khủng hoảng
Bảng 11: Các mức rủi ro của Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013
iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Chỉ số hỗn hợp (6) của Việt Nam giai đoạn 1997-2011
Biểu đồ 2: Chỉ số hỗn hợp (6) và chỉ số hỗn hợp 8 biến của Việt Nam
Biểu đồ 3: Nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam giai đoạn 1989-1999
Biểu đồ 4: Đánh giá IIR cho Việt Nam giai đoạn 1994-1999
Biểu đồ 5: Tình hình tài khoản vãng lai Việt Nam giai đoạn 1990-1999
Biểu đồ 6: Tình hình tiền gửi ở hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1992-1999
Biểu đồ 7: Nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam giai đoạn 1999-2007
Biểu đồ 8: Đánh giá về nợ xấu và Z-score của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 1997-2007
Biểu đồ 9: Tình hình tiền gửi-tín dụng ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 2000-2006
Biểu đồ 10: Tình hình các dòng vốn và kiều hối của Việt Nam trong những năm gần
đây
Biểu đồ 11: Tình hình thoái vốn của Việt Nam trong những năm gần đây
Biểu đồ 12: Đánh giá IIR cho Việt Nam giai đoạn 2007-2012
Biểu đồ 13: Tình hình nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn
2000-2011
Biểu đồ 14: Đánh giá về nợ xấu ở hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2006-2012
Biểu đồ 15: Xếp hạng rủi ro của Eonomist Intelligent Unit cho Việt Nam giai đoạn
2008-2012
Biểu đồ 16: Xếp hạng rủi ro của World Economic Forum cho Việt Nam giai đoạn
2008-2012
Biểu đồ 17: Tình hình đấu thầu trái phiếu Kho bạc của Việt Nam giai đoạn
2011-2012
Biểu đồ 18: Chỉ số ICOR của Việt Nam qua từng giai đoạn
v
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ XÂY DỰNG
MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ CHO NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM ............................................................................................................ 1
1.1 Lý luận chung về Khủng hoảng nợ .............................................................. 1
1.1.1 Định nghĩa ............................................................................................... 1
1.1.2 Nguyên nhân ............................................................................................ 5
1.1.3 Hậu quả .................................................................................................. 12
1.2 Xây dựng mô hình cảnh báo sớm cho nền kinh tế Việt Nam ................... 17
1.2.1 Một số mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ ..................................... 17
1.2.2 Lựa chọn mô hình thích hợp cho nền kinh tế Việt Nam .......................... 21
CHƯƠNG II: ÁP DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ
VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ...................................................................... 24
2.1 Lựa chọn các thông số cho mô hình ........................................................... 24
2.1.1 Lựa chọn mẫu ........................................................................................ 24
2.1.2 Lựa chọn ngưỡng khả thi ........................................................................ 26
2.1.3 Xây dựng chỉ số hỗn hợp ........................................................................ 29
2.1.4 Lựa chọn các biến vĩ mô ........................................................................ 31
2.2 Các kết quả thực nghiệm ........................................................................... 32
2.2.1 Các kết quả thực nghiệm về ngưỡng khả thi ........................................... 32
2.2.2 Kiểm tra mức độ hiệu quả của các chỉ số hỗn hợp trên mẫu ................... 34
2.2.3 Chuỗi chỉ số hỗn hợp thực nghiệm của Việt Nam ................................... 35
2.2.4 Chuỗi chỉ số hỗn hợp 8 biến thực nghiệm ............................................... 37
2.3 Đánh giá tính hiệu quả của mô hình đối với nền kinh tế Việt Nam ......... 37
2.3.1 Thực tiễn tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1997-2011 .................... 38
2.3.2 Đánh giá của các tổ chức quốc tế ............................................................ 56
2.3.3 Nhìn nhận xác suất Việt Nam rơi vào Khủng hoảng nợ .......................... 59
CHƯƠNG III: CÁC KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM................................. 61
3.1 Các khuyến nghị về mô hình ...................................................................... 61
vi
3.1.1 Đề xuất tăng tính hiệu quả của mô hình .................................................. 61
3.1.2 Đề xuất thêm các biến mới vào mô hình ................................................. 62
3.2 Các khuyến nghị về chính sách .................................................................. 65
3.2.1 Đề xuất chính sách đối với việc vay và quản lý nợ công ......................... 65
3.2.2 Đề xuất chính sách đối với các vấn đề nội tại trong nền kinh tế .............. 83
vii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay nợ công đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ riêng ở châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản mà còn nhiều quốc gia đang phát triển khác trên thế giới cũng phải đối
mặt, trong đó có Việt Nam. Tính đến năm 2011, tỉ lệ nợ công trên GDP của nhiều
quốc gia đã đạt đến mức đáng báo động1, vượt xa ngưỡng khuyến nghị 75% GDP
do Quỹ tiền tệ quốc tế đưa ra cho các quốc gia phát triển2, trong đó Nhật Bản là
229.8%, Mỹ 102.9%, Hy Lạp 160.8%, Italia 120.1%, Ireland 105.0% và Bồ Đào
Nha là 106.8%. Hệ quả tất yếu của mức nợ cao như trên là cuộc Khủng hoảng nợ
công châu Âu bùng nổ năm 2010, bắt đầu từ Hy Lạp và đã lan ra trên nhiều nước
châu Âu, tác động nghiêm trọng đến cả khu vực kinh tế tài chính lẫn khu vực kinh
tế thực. Trên khu vực kinh tế tài chính, hàng loạt các quốc gia châu Âu bị S&P hạ
bậc tín nhiệm, cùng với đó là sự tăng lên nhanh chóng của lợi suất trái phiếu chính
phủ, sự sụt giảm giá trị của các tài sản tài chính và sự thoái vốn hàng loạt của các
nhà đầu tư. Nhiều quốc gia đã phải nhận các gói cứu trợ từ IMF, ECB và các tổ
chức quốc tế khác với những điều kiện chi tiêu ngặt nghèo cùng với sự giám sát
chặt chẽ của các tổ chức này. Thị trường tài chính đi xuống, sự mất lòng tin của các
nhà đầu tư và nguy cơ tan vỡ của liên minh tiền tệ châu Âu là những hậu quả thấy
được của cuộc khủng hoảng. Trên khu vực kinh tế tế thực, Khủng hoảng nợ công
châu Âu khiến nhiều quốc gia thành viên tăng trưởng GDP âm, đầu tư sụt giảm, lạm
phát và thất nghiệp tăng cao, nền kinh tế nhanh chóng rơi vào suy thoái. Chính phủ
nhiều quốc gia buộc phải thắt lưng buộc bụng, tăng thuế và cắt giảm các phúc lợi xã
hội. Chính trị trở nên bất ổn, dẫn đến các cuộc biểu tình và bạo động liên tục diễn ra
ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia và nhiều quốc gia khác, khiến chính phủ không thể
kiểm soát được tình hình và liên tục tuyên bố sụp đổ. Tất cả những hậu quả trên
chính là cái giá phải trả cho các khoản vay khổng lồ tài trợ cho chi tiêu vượt quá
1 World Economic Forum, “The global competitiveness report 2012-2013”, trang 425, năm 2012. 2 International Monetary Fund, “Fiscal policy as a countercyclical tool”, năm 2008.
viii
khả năng chi trả của chính phủ.
Việt Nam từ khi mở cửa tới nay, vẫn bị xếp vào nhóm các quốc gia đang phát
triển. Quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới và phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ
yếu. Do vậy hiện tại và trong tương lai, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng cũng
như nợ công nói chung là khá cần thiết để Việt Nam có thêm nguồn tài chính đầu tư
cho cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mức nợ công của Việt Nam3 năm
2001 mới chỉ là 10.681 tỉ USD (chiếm 33.4% so với GDP), đã tăng lên gần 6 lần là
61.808 tỉ USD vào năm 2011 (chiếm 51.3% so với GDP), vượt qua mức khuyến
nghị 25% GDP của IMF đối với các nền kinh tế mới nổi4. Xác suất vỡ nợ tích lũy
(cumulative probability of default) của Việt Nam luôn ở mức trên 20% trong giai
đoạn 2011-2012 gần đây; cá biệt trong quý 2 năm 2011, Việt Nam còn đứng thứ 9
trong số những quốc gia có rủi ro vỡ nợ cao nhất5. Đây là những dấu hiệu không tốt
đối với tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay. Nếu một cuộc Khủng hoảng nợ
công như vậy xảy ra thì hậu quả của nó khó mà có thể đánh giá hết và phải mất một
thời gian dài để chúng ta có thể phục hồi lại được nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, việc
xây dựng được một công cụ cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ cho nền kinh tế Việt
Nam là thực sự cần thiết và hữu dụng. Hay nói một cách chính xác hơn là đưa ra
một mô hình qua đó xác định được các dấu hiệu của bất ổn vĩ mô, và từ các dấu
hiệu mất bất ổn đó khuyến cáo các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách để các
chỉ báo vĩ mô trở lại mức an toàn. Điều này đã thôi thúc chúng tôi nghiên cứu và
thực hiện đề tài “Xây dựng mô hình cảnh báo Khủng hoảng nợ và các khuyến nghị
cho Việt Nam”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Về tình hình nghiên cứu trong nước, đã có rất nhiều bài báo và công trình
nghiên cứu đề cập đến vấn đề nợ công ở nước ta, trong đó có thể kể ra một vài bài 3 http://www.economist.com/content/global_debt_clock, truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2012. 4 IMF (2008). 5 Dựa trên các báo cáo “CMA global sovereign debt credit report” của Standard and Poor’s.
ix
viết và bài nghiên cứu tiêu biểu như:
“Nợ công ở Việt Nam-Một số phân tích và thảo luận” của tiến sỹ Nguyễn
Đức Thành, trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và chính sách VEPR.
“Chính sách tài khóa và vấn đề nợ công của Việt Nam” của tiến sỹ Vũ Đình
Ánh, viện Nghiên cứu thị trường và giá cả, bộ Tài chính.
“Nợ công và những tác động của nó đến nền kinh tế” của giáo sư Ngô Thế
Chi, giám đốc Học viện tài chính.
“Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Hữu Tuấn đăng trên tạp chí Phát triển và Hội nhập số 4, tháng 6
năm 2012.
“Khả năng trả nợ và tính bền vững nguồn vốn ODA tại Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Kim Đức đăng trên tạp chí Phát triển và Hội nhập số 1, tháng 11
năm 2011.
“Luận bàn vấn đề nợ công ở Việt Nam” của thạc sỹ Nguyễn Quốc Nghi đăng
trên tạp chí Nghiên cứu tài chính và marketing số 6, năm 2011.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trong nước chỉ dừng lại ở việc
phân tích thực trạng và tính bền vững của nợ công, đưa ra các chính sách tái cơ cấu
nợ công hoặc xem xét ảnh hưởng của nợ công đến sự phát triển kinh tế, mà chưa có
công trình nào đề cập đến việc xây dựng một mô hình cảnh báo sớm khả năng xảy
ra Khủng hoảng nợ ở Việt Nam.
Về tình hình nghiên cứu nước ngoài, việc xây dựng một mô hình cảnh báo sớm
Khủng hoảng nợ đã được các nhà kinh tế học thực hiện từ rất sớm. Các cách thức
định nghĩa Khủng hoảng nợ cũng như phương pháp tiếp cận mô hình cảnh báo sớm
Khủng hoảng nợ vô cùng đa dạng và phong phú. Trong số đó phải kể đến một vài
công trình tiêu biểu như:
Công trình của Paolo Manasse, Nouriel Roubini và Axel Schimmelpfennig
x
(2003)6, các ông định nghĩa một quốc gia lâm vào Khủng hoảng nợ khi quốc
gia đó bị S&P xếp hạng là vỡ nợ (default) và nhận một khoản vay lớn7
không ưu đãi từ IMF (nonconcessional IMF loan). Từ định nghĩa này, các
ông xây dựng được một mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ bằng cách
sử dụng phối hợp phương pháp Logit và phương pháp Tree analysis. Mô
hình cảnh báo sớm được thực nghiệm trên 47 nền kinh tế từ năm 1970 đến
năm 2002.
Công trình của Alessio Ciarlone và Giorgio Trebeschi (2006)8, các ông định
nghĩa một quốc gia lâm vào Khủng hoảng nợ khi có một trong bốn điều kiện
xảy ra9. Từ các định nghĩa này, các ông sử dụng phương pháp Multinomial
Logit để xây dựng nên mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ. Mô hình
cảnh báo sớm được thực nghiệm trên 28 nền kinh tế mới nổi từ năm 1980
đến năm 2002.
Công trình của Ana Maria Feurtes và Elena Kalotychou (2007)10, các ông
định nghĩa một quốc gia bị xếp vào vỡ nợ (default) nếu lượng tiền nợ chưa
trả vượt quá ngưỡng cho phép so với nợ nước ngoài và có sự xuất hiện của
một thỏa thuận giãn nợ, ở đó tổng số nợ được giãn vượt quá vượt quá lượng
tiền nợ đã giảm. Từ định nghĩa này, các ông xây dựng được một mô hình
cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ bằng cách sử dụng phối hợp ba phương pháp
là Logit-M, Logit-R và K-clustering. Mô hình cảnh báo sớm được thực
nghiệm trên 75 nền kinh tế mới nổi và đang phát triển từ năm 1983 đến năm
2000.
6 Paolo Manasse et al, “Predicting sovereign debt crises”, IMF working paper, năm 2003 7 “Khoản vay lớn” ở đây theo Paolo Mansse et al định nghĩa là vượt quá 100% hạn ngạch của IMF. 8 Alessio Ciarlone và Giorgio Trebeschi, “A multinomial approach to early warning system for debt crises”,
Ngân hàng trung ương Italia, năm 2006. 9 Xem thêm ở phần phụ lục 1. 10 Ana Maria Feurtes và Elena Kalotychou, “Optimal design of early warning systems for sovereign debt
crises”, International Journal of Forecasting, năm 2007.
xi
Công trình của Marco Fioramanti (2008)11, ông định nghĩa một quốc gia lâm
vào Khủng hoảng nợ tương tự như trong công trình của Paolo Manasse et al.
Từ định nghĩa này, ông sử dụng phương pháp Artificial neural networks để
xây dựng nên mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ. Mô hình cảnh báo
sớm được thực nghiệm trên tất cả các cuộc Khủng hoảng nợ diễn ra ở các
quốc gia đang phát triển từ năm 1980 đến năm 2004.
Công trình của Tobias Knedlik và Gregor von Schweinitz (2011)12, các ông
sử dụng trái phiếu 10 năm loại AAA làm chuẩn mực để định nghĩa khi nào
một quốc gia lâm vào Khủng hoảng nợ. Từ định nghĩa này, các ông sử dụng
phương pháp Signals Approach để xây dựng nên mô hình cảnh báo sớm
Khủng hoảng nợ. Mô hình cảnh báo sớm được thực nghiệm trên tất cả các
cuộc Khủng hoảng nợ của các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu từ năm
1999 đến năm 2011.
Dựa trên tất cả các công trình nghiên cứu về nợ công đã tham khảo, chúng tôi
quyết định chọn phương pháp Signals Approach để xây dựng nên một mô hình cảnh
báo sớm Khủng hoảng nợ cho nền kinh tế Việt Nam. Về ưu nhược điểm của từng
loại phương pháp đã đề cập và lý do chọn phương pháp Signals Approach sẽ được
nhóm trình bày cụ thể ở các phần sau.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu tình hình kinh tế vĩ mô
của 42 quốc gia trong mẫu nghiên cứu của Reinhart và Rogoff13, và được nhóm
nghiên cứu bổ sung thêm Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là trong khoảng thời gian
từ năm 1990-2010.
11 Marco Fioramanti, “Predicting sovereign debt crises using artificial neural networks: A comparative
approach”, Journal of Financial Stability, năm 2008 12 Tobias Knedlik và Gregor von Schweinitz, “Maccroeconomic imbalances as indicators for debt crises in
Europe”, Viện nghiên cứu kinh tế Halle, năm 2011 13 Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff, “A decade of debt”, Policy Analyses in International Economics,
năm 2011.
xii
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm tính toán thực nghiệm trên tình hình kinh tế của 43
quốc gia được khảo sát, để từ đó rút ra được các “ngưỡng khả thi” cho mô hình
Signal Approach. Từ các ngưỡng khả thi thực nghiệm này, nhóm nghiên cứu sẽ tiến
hành tính toán xác suất xảy ra Khủng hoảng nợ cho nền kinh tế Việt Nam và đưa ra
các chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro khủng hoảng trong tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có tính kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đi
trước nhằm xây dựng một bộ biến tốt nhất cho Việt Nam. Các bộ biến này sẽ được
kiểm tra tính hiệu quả trực tiếp để từ đó có thể loại đi các biến chưa tốt và giữ lại
các biến tốt. Các chỉ báo vĩ mô sẽ được lấy từ cùng một nguồn để hạn chế tối đa
tình trạng không nhất quán của số liệu. Các số liệu về Khủng hoảng nợ cũng sẽ chỉ
được lấy từ nguồn của Reinhart và Rogoff14 để đảm bảo tính tương đồng giữa số
liệu và định nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu, phương pháp phân tích sẽ được sử
dụng chủ yếu, đồng thời kết hợp thu thập dữ liệu, nghiên cứu tình huống để so sánh,
đánh giá hiệu quả của mô hình.
6. Kết quả dự kiến
Trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm, nhóm nghiên cứu kỳ vọng đạt được
một số kết quả sau:
-Xây dựng thành công mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ sử dụng mô hình
Signal Approach cho Việt Nam. Các ngưỡng khả thi tính được của mô hình không
khác nhiều so với các ngưỡng khuyến nghị được đề xuất bởi nhiều học giả trên thế
giới.
-Các kết quả tính toán rủi ro Khủng hoảng nợ của Việt Nam là phù hợp với các báo
cáo của các tổ chức quốc tế uy tín, như Moody’s, Standard and Poor’s hay
Institutional Investors.
14 Số liệu về Khủng hoảng nợ sẽ được lấy từ: http://www.reinhartandrogoff.com/.
xiii
-Trên cơ sở các kết quả tính toán, nhóm nghiên cứu có thể đưa ra được các chính
sách hợp lý nhất nhằm hạn chế tối thiểu rủi ro khủng hoảng trong tương lai.
7. Cấu trúc đề tài
-Chương 1: Lý luận chung về Khủng hoảng nợ và xây dựng mô hình cảnh báo sớm
Khủng hoảng nợ cho nền kinh tế Việt Nam.
-Chương 2: Áp dụng mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ vào nền kinh tế Việt
Nam.
-Chương 3: Các khuyến nghị cho Việt Nam.
1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ XÂY
DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ CHO NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM
1.1 Lý luận chung về Khủng hoảng nợ
1.1.1 Định nghĩa
Định nghĩa về nợ công
Trước khi làm rõ khái niệm Khủng hoảng nợ, chúng ta hãy xem xét về khái
niệm nợ công. Hiện nay có rất nhiều cách để định nghĩa về nợ công, tùy theo cách
thức định nghĩa nợ công và phương pháp sưu tập dữ liệu, mà các tổ chức quốc tế có
những con số thống kê khác nhau. Chẳng hạn, xét riêng Việt Nam vào năm 2011,
bốn tổ chức lớn đã có bốn con số thống kê khác nhau về mức nợ công của Việt
Nam:
Bảng 1: Các số liệu về mức nợ công Việt Nam năm 20111
Tổ chức Mức nợ công của Việt Nam năm 2011 (%GDP)
CIA Factbook 48.8
IMF 38.0
Economist 51.2
Bộ tài chính Việt Nam 55.4
Sự không đồng nhất giữa các số liệu ở bảng trên thể hiện rõ sự khác nhau đáng
kể trong việc định nghĩa và tính toán nợ công của mỗi tổ chức. Tùy từng mục đích
sử dụng và đặc thù kinh tế riêng của mỗi quốc gia mà chúng ta có cách định nghĩa
nợ công riêng. Việc định nghĩa nợ công quá rộng và tính toán nợ công quá cao gây
ra sự phức tạp trong tính toán, khiến nợ công trở nên khó quản lý và không có nhiều
ý nghĩa kinh tế. Thêm nữa, việc tính nợ công ở mức cao còn tạo ra sự hoang mang
trong các nhà đầu tư, khiến việc huy động vốn nước ngoài của chính phủ trở nên
1 Do nhóm nghiên cứu tự tổng hợp, số liệu được lấy trên trang chủ của các tổ chức.
2
khó khăn hơn và đôi khi chi phí phải trả cao hơn. Ngược lại, việc định nghĩa nợ
công ở mức quá hẹp và tính toán quá thấp khiến các các nhà quản lý không lường
trước được rủi ro của các khoản nợ công tiềm tàng, hoặc của các khoản nợ không
được tính đến. Điều này sẽ khiến các khoản nợ ngày càng chồng chất và nguy cơ vỡ
nợ của quốc gia cao hơn.
Như vậy câu hỏi đặt ra là chúng ta phải định nghĩa nợ công như thế nào cho hợp
lý? Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam2, nợ công là khoản nợ bao
gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.
Định nghĩa này hẹp hơn định nghĩa của các tổ chức quốc tế như IMF, WB hay
UNDTAD và vấp phải nhiều tranh cãi trong việc có nên đưa nợ của doanh nghiệp
nhà nước vào trong tính toán nợ công hay không. Còn theo quan điểm rộng hơn của
IMF, nợ công là nợ của toàn bộ khu vực công. Ở đó khu vực công bao gồm chính
quyền (general government) và các tổ chức công (public corporations). So với định
nghĩa của Luật quản lý nợ công Việt Nam, định nghĩa của IMF bổ sung thêm nợ của
ngân hàng trung ương và nợ của doanh nghiệp nhà nước ở tất cả các cấp chính
quyền vào trong tính toán3. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng định
nghĩa nợ công của IMF làm chuẩn mực vì những lý do sau:
-Thứ nhất, định nghĩa nợ công của IMF là một định nghĩa rộng và bao quát
được hầu hết các khía cạnh của nợ công. Định nghĩa này được nhiều quốc gia và tổ
chức quốc tế chấp nhận rộng rãi và được coi là một chuẩn mực để định nghĩa về nợ
công. Các định nghĩa nợ công của các tổ chức quốc tế khác hầu như chỉ tương
đương hoặc hẹp hơn so với định nghĩa của IMF.
-Thứ hai, phương pháp tính toán nợ công theo định nghĩa của IMF được chia
thành nhiều cấp độ và tùy từng đặc thù riêng của nền kinh tế mà chúng ta lựa chọn
được từng cấp độ riêng. Chính vì vậy định nghĩa của IMF khá linh hoạt và có thể áp
dụng được cho mọi nền kinh tế. Thêm nữa, tùy thuộc cấp độ sử dụng mà một nền
2 Luật quản lý nợ công của quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5. Số hiệu 29/2009/QH12, có hiệu lực từ ngày 1
tháng 1 năm 2010. 3 Xem thêm ở phụ lục 3.
3
kinh tế có thể tính ra được nhiều mức nợ công khác nhau, điều này tạo điều kiện
cho các nhà hoạch định chính sách có thêm sự đối chiếu, tham khảo để có thể nắm
rõ hơn về cơ cấu nợ công của quốc gia mình.
-Thứ ba, số liệu về nợ công theo tính toán của IMF khá dồi dào, đầy đủ và liên
tục cho nhiều quốc gia. Bài nghiên cứu của chúng tôi sử dụng nhiều nguồn số liệu,
nhưng chủ yếu là từ IMF và World Bank, chính vì vậy việc sử dụng các định nghĩa
của IMF là khá hợp lý.
Định nghĩa về Khủng hoảng nợ
Cũng giống như khái niệm nợ công, khái niệm Khủng hoảng nợ hiện nay không
cố định và cũng được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa trên các cơ sở khác nhau 4 .
Hiểu theo nghĩa hẹp, thì Khủng hoảng nợ là tình trạng chính phủ của một quốc gia
mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn của mình. Tuy nhiên, trải qua thời gian
dài vận động và phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều cuộc Khủng hoảng nợ mới
đã liên tục nổ ra, các cuộc khủng hoảng sau dường như diễn biến phức tạp và bất
quy luật hơn so với các cuộc khủng hoảng trước đó. Điều này sớm biến các định
nghĩa cổ điển trở nên lỗi thời và đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần phải phát triển các
định nghĩa về Khủng hoảng nợ theo hướng mới rộng và bao quát hơn. Chính vì lẽ
đó, định nghĩa về Khủng hoảng nợ luôn thay đổi nhiền lần và liên tục cải biến.
Nhìn chung, khi nói về Khủng hoảng nợ, thì chúng ta có thể xem xét một vài
định nghĩa tiêu biểu của một số học giả sau:
Theo quan điểm của Detragiache và Spilimbergo (2001)5, các ông cho rằng
một cuộc Khủng hoảng nợ xảy ra khi thõa mãn một trong hai điều kiện: thứ
nhất, các nghĩa vụ nợ phải trả hoặc các khoản lãi vay đối với nước ngoài của
các chủ nợ là ngân hàng hoặc các chủ sở hữu trái phiếu vượt quá hơn 5% số nợ
còn lại; thứ hai, các quốc gia xin giãn nợ hoặc kéo dài thời gian trả nợ đối với
chủ nợ được niêm yết trên danh sách của Trung tâm phát triển tài chính toàn 4 Xem thêm ở phần phụ lục 1. 5 Enrica Detragiache và Antonio Spilimbergo, “Crises and liquidity: Evidence and interpretation”, IMF
working paper, năm 2001.
4
cầu thuộc Ngân hàng thế giới (World Bank’s Global Development Finance).
Theo quan điểm của Knedlik và Schweinitz (2011)6, các ông gọi ��� = ��
� −
����� là hiệu giữa lợi xuất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điển t
của quốc gia k nào đó với lợi xuất trái phiếu Chính phủ loại AAA của các quốc
gia thuộc khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Gọi �� và �� lần lượt là trung
bình và phương sai của chuỗi các giá trị ���, khi đó một quốc gia được coi là
rơi vào Khủng hoảng nợ nếu ��� ≥ �� + 1.6. ��.
Theo quan điểm của Manasse và Roubini (2008)7, các ông cho rằng một quốc
gia được coi như lâm vào Khủng hoảng nợ nếu xảy ra một trong hai điều kiện:
quốc gia đó bị xếp loại vỡ nợ (default) bởi Standard and Poor’s; hoặc nhận một
khoản vay lớn không ưu đãi từ IMF (“khoản vay lớn” ở đây có nghĩa là vượt
quá 100% hạn ngạch của IMF).
Theo quan điểm của Pescatori và Sy (2003)8, các ông cũng định nghĩa một
quốc gia là lâm vào Khủng hoảng nợ nếu ��� vượt quá điểm phân vị 95% ít
nhất là 94.7���9 trong phân phối thực nghiệm của ���.
Như vậy vấn đề đặt ra là chúng ta nên lựa chọn định nghĩa nào thì hợp lý nhất?
Trên thực tế, việc lựa chọn định nghĩa ảnh hưởng rất lớn đến thời điểm xảy ra của
Khủng hoảng nợ. Chẳng hạn khi đối chiếu ba định nghĩa của Knedik và
Schweinitz (2011), Pescatori và Sy (2004) và Manansse và Roubini (2008) lên các
nước châu Âu, chúng ta sẽ thấy sự khác nhau đáng kể trong thời điểm xảy ra
Khủng hoảng nợ giữa các định nghĩa:
6 Tobias Knedlik và Gregor von Schweinitz, “Macroeconomic imbalances as indicators for debt crises in
Europe”, Viện nghiên cứu kinh tế Halle, năm 2011. 7 Paolo Manasse và Nouriel Roubini, “Rule of thumbs for sovereign debt crises”, Journal of International
Economics, năm 2009. 8 Andrea Pescatori và Amadou Sy, “Debt crisises and the development of international capital markets,
International Monetary Fund, năm 2004. 9 Bps là viết tắt của basic points, một đơn vị đo của ��
� .
5
Bảng 2: Ảnh hưởng của định nghĩa lên thời điểm xảy ra Khủng hoảng10
Hy Lạp Ireland Bồ Đào Nha Tây Ban Nha Italia
Knedlik và
Schweinitz 01/01/2010 01/06/2010 01/07/2010 01/06/2010 (chưa xảy ra)
Pescatori và Sy 01/11/2008 01/02/2009 01/05/2010 01/06/2010 01/06/2010
Manasse và
Roubini 01/05/2010 01/12/2010 01/05/2011 (chưa xảy ra) (chưa xảy ra)
Do công trình của chúng tôi sử dụng dữ liệu Khủng hoảng nợ từ các công trình
của Reinhart và Goroff nên để đảm bảo tính nhất quá của số liệu, chúng tôi sẽ sử
dụng định nghĩa của Reinhart và Goroff làm định nghĩa Khủng hoảng nợ xuyên suốt
bài nghiên cứu lần này. Theo Reinhart và Goroff11, sự kiện Khủng hoảng nợ sẽ bao
gồm 2 sự kiện đó là vỡ nợ nước ngoài và vỡ nợ trong nước. Vỡ nợ nước ngoài được
định nghĩa là khi Chính phủ thất bại trong việc trả nợ lãi hoặc nợ gốc đúng hạn với
các chủ nợ nước ngoài. Và nó còn bao gồm cả việc tái cơ cấu nợ nhưng với các điều
khoản ít thuận lợi hơn so với các điều khoản ban đầu. Vỡ nợ trong nước liên quan
đến sự kiện đóng băng các khoản tiền gửi ngân hàng và/hoặc bắt buộc các khoản
tiền gửi đó phải chuyển đổi từ đồng dollar sang đồng bản tệ12.
1.1.2 Nguyên nhân
Nhìn chung, khi quan sát lịch sử và diễn biến của nhiều cuộc Khủng hoảng nợ
trên thế giới13, chúng ta có thể đúc kết được một số nguyên nhân cơ bản sau.
Chính sách tỉ giá cố định cứng nhắc
Nhiều quốc gia lâm vào Khủng hoảng nợ đều có chung một lịch sử đó là: duy
trì tỉ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD trong một thời gian dài.
Chính sách này tạo ra hai rủi ro: Thứ nhất, khi đồng USD tăng giá, đồng bản tệ
được định giá theo USD cũng sẽ tăng giá theo. Điều này dẫn đến xuất khẩu trì trệ và
10 Knedlik và Schweinitz (2011). 11 Carmen Reinhart và Kenneth Goroff, “This time is different: Eight centuries of financial folly”, Princeton
University Press, năm 2010. 12 Trường hợp gần đây nhất đó là sự kiện Khủng hoảng nợ của đảo Síp xảy ra vào tháng 3 năm 2013 vừa rồi,
khi Chính phủ Síp ra lệnh đóng băng tiền gửi ở các ngân hàng lớn trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
toán các khoản nợ trước mắt của quốc gia. 13 Xem thêm phần phụ lục 2.
6
kích thích nhập khẩu, làm giảm nguồn thu cho quốc gia. Thứ hai, khi nhà đầu tư kỳ
vọng rằng chính phủ sẽ phải từ bỏ chính sách tỉ giá cố định trong tương lai, giới đầu
cơ sẽ bắt đầu tấn công đồng nội tệ. Chính phủ sẽ phải tăng lãi suất hoặc bán ra dự
trữ ngoại hối để bảo vệ tỉ giá. Thông thường chính phủ sẽ không chọn phương án
tăng lãi suất vì điều này sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp, mà
chọn phương án đơn giản hơn đó là bán ra ngoại tệ. Tuy nhiên việc bán ra ngoại tệ
sẽ làm dữ trự ngoại hối dần cạn kiệt, buộc chính phủ phải đi vay nợ để bảo vệ tỉ giá
đến cùng. Với quy mô to lớn của các cuộc tấn công tiền tệ trong lịch sử, chính phủ
cuối cùng cũng lựa chọn việc từ bỏ chính sách tỉ giá cố định để giảm thiệt hại cho
nền kinh tế. Khi đó, quốc gia sẽ nhanh chóng rơi vào Khủng hoảng nợ do đã vay nợ
để bù đắp lượng ngoại tệ thiếu hụt, trong khi nguồn thu lớn từ xuất khẩu giảm sút
do một thời gian dài định giá cao đồng bản tệ.
Tác động của cú sốc kinh tế-tài chính trên thế giới
Khi một quốc gia mở cửa và hội nhập một cách sâu rộng với các nền kinh tế
trên thế giới, thì chỉ cần có những bất ổn về kinh tế-tài chính xảy ra với các nền
kinh tế khác, quốc gia đó cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Điều này lý giải tại sao
các cú sốc kinh tế-tài chính từ bên ngoài có thể kéo theo nó là những cuộc Khủng
hoảng nợ trong nước. Thực tiễn đã chứng minh rất nhiều ví dụ như vậy, chẳng hạn
cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933, bắt đầu từ Hoa Kỳ, đã nhanh chóng lan ra trên
toàn cầu. Hậu quả của nó là gần 50% các quốc gia trên thế giới bị lâm vào tình trạng
vỡ nợ hoặc phải tái cơ cấu nợ với các chủ nợ nước ngoài trong suốt những năm
1934-1939 tiếp sau14. Hay sự tăng giá dầu lửa trong những năm 1979-1981 và sự
tăng lãi xuất cho vay trên thế giới trong những năm 1979-1983 cũng đã trực tiếp tạo
ra cuộc Khủng hoảng nợ ở các quốc gia Mỹ Latin 1982. Gần đây nhất là cuộc
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ năm 2008, đã tác động không nhỏ đến nền kinh
tế châu Âu và góp phần tạo ra cuộc Khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2010 kéo
dài cho đến hiện nay. Cơ chế chung của các cuộc Khủng hoảng nợ như thế này đều
14 Reinhart và Rogoff (2010).
7
là: Các quốc gia đi vay quá phụ thuộc vào các dòng vốn nước ngoài, dẫn đến vay nợ
ở mức cao. Khi cú sốc xảy ra, các nguồn thu của chính phủ, đặc biệt là xuất khẩu,
giảm mạnh khiến khả năng trả nợ cũng giảm theo. Ngoài ra, cú sốc tạo ra tâm lý
hoang mang cho các nhà đầu tư nước ngoài, khiến họ đồng loạt rút vốn ra khỏi các
thị trường, hoặc tăng lãi suất cho vay. Hai điều trên xảy ra đồng thời khiến chính
phủ quốc gia đi vay không thể kịp thời điều tiết, dẫn đến buộc phải tuyên bố vỡ nợ
hoặc cầu cứu IMF.
Chính phủ lạm dụng vay nợ
Khi phải đối diện với tình trạng thâm hụt ngân sách, chính phủ các quốc gia trên
thế giới thường có ba phương án chính để đối phó: giảm chi tiêu chính phủ, tăng
thuế hoặc tăng vay nợ. Thông thường, việc giảm chi tiêu chính phủ là rất khó khăn
vì hầu hết các khoản chi của chính phủ là không thể cắt giảm (an sinh xã hội, lương,
đầu tư công, gói kích cầu,…). Tăng thuế cũng không khả thi vì việc này sẽ ảnh
hưởng đến đầu tư và vấp phải sự phản đối của người dân. Chính vì lẽ đó, vay nợ
thường là phương án ưa thích được nhiều chính phủ chọn lựa vì dễ thực hiện và
thường ít để lại hậu quả trong ngắn hạn. Nếu chính phủ kiểm soát được mức vay nợ,
đưa ra được các chương trình bền vững ngân sách và giảm nợ được trong tương lai
một cách hiệu quả thì chắc chắn Khủng hoảng nợ đã không thể xảy ra. Trên thực tế,
nhiều quốc gia đã lạm dụng việc vay nợ để tài trợ cho chi tiêu, sử dụng các khoản
nợ mới để trả các khoản nợ đến hạn mà không cần quan tâm đến các mục tiêu giảm
nợ trong dài hạn. Điều này đẩy các khoản nợ chính phủ dần tăng lên nhanh chóng
và tạo ra ba rủi ro. Thứ nhất, nếu chính phủ cân nhắc thấy khả năng trả được nợ là
thấp, họ sẽ có xu hướng không muốn trả nợ nữa và vay nợ nhiều hơn để xoay vòng
các khoản nợ đến hạn và tài trợ cho chi tiêu15. Điều này trực tiếp làm mức nợ hiện
tại tăng lên, và sự tăng lên này, đến lượt nó lại làm tăng áp lực trả nợ lên chính phủ.
15 Chính phủ sử dụng uy tín để vay nợ do vậy các khoản nợ của chính phủ nằm ngoài luật pháp của một quốc
gia. Nếu chính phủ tuyên bố vỡ nợ, các chủ nợ nước ngoài không còn cách nào khác buộc phải xóa nợ, giảm
nợ hoặc giãn nợ cho quốc gia đó. Điều này khiến nhiều chính phủ, khi cân nhắc thấy không có khả năng trả
được các khoản nợ lớn trước mắt, có xu hướng không muốn trả nợ nữa.
8
Chính phủ lại buộc phải tăng vay nợ để xoay vòng các khoản nợ lớn hơn sắp đáo
hạn. Vòng luẩn quẩn này cứ lặp lại cho tới khi quốc gia đó không thể vay thêm nợ
để xoay vòng nữa thì buộc phải tuyên bố vỡ nợ. Thứ hai, khi mức nợ tăng lên vượt
quá ngưỡng an toàn, tăng trưởng kinh tế và đầu tư sẽ giảm16. Điều này trực tiếp làm
ảnh hưởng đến nền kinh tế và làm tăng rủi ro vỡ nợ quốc gia. Thứ ba, mức nợ cao
cũng có thể khiến quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm trên thị trường. Việc bị hạ bậc tín
nhiệm làm cho việc đi vay của chính phủ thêm khó khăn (do lãi suất đi vay tăng lên
hoặc thậm chí không thể vay thêm được nợ mới), hoặc trường hợp xấu hơn là các
nhà đầu tư rút vốn ra khỏi thị trường. Cả hai điều này đều có thể đẩy một quốc gia
lâm vào tình trạng vỡ nợ.
Hiện tượng “Không dung nạp nợ” (Debt intolerance)
Như đã đề cập ở trên, mức nợ cao là một trong những nguyên nhân chính tạo ra
rủi ro Khủng hoảng nợ của quốc gia. Tuy nhiên trong cuộc khảo sát trên các quốc
gia có thu nhập trung bình trong giai đoạn 1970-2008, Reinhart và Goroff17 đã chỉ
ra rằng: 51.7% các quốc gia vỡ nợ hoặc phải tái cơ cấu nợ khi nợ chỉ mới đạt ở mức
dưới 60% GNP. 60% GNP là một mức nợ trung bình, không phải là cao nếu so sánh
với mức nợ ở các nước phát triển và chưa vỡ nợ tại cùng thời điểm (ví dụ Nhật bản
là 170% GNP). Thậm chí có những quốc gia vỡ nợ hoặc phải tái cơ cấu nợ khi mức
nợ còn nằm trong vùng an toàn, như Chi-lê năm 1972 (31.1% GNP), Ecuador năm
2008 (20.0% GNP) hay Albani năm 1990 (16.6% GNP). Để lý giải cho nghịch lý
này, Reinhart et al 18 đã đưa ra khái niệm “không dung nạp nợ” (debt
intolerance)-đề cập đến sự trì trệ mà nhiều nền kinh tế mới nổi phải trải qua khi nợ
nước ngoài mới chỉ đạt đến mức “an toàn” (an toàn ở đây là mức vẫn còn dễ dàng
quản lý được đối với các quốc gia phát triển). Theo Reinhart, các quốc gia “không
16 Theo các bằng chứng thực nghiệm của: Bauerfreund (1989), Geiger (1990), Afxentiou (1993), Cunnigham
(1993), Deshpande (1997), Fosu (1999), Reinhart và Rogoff (2009), Kumar and Woo (2010), Checherita và
Rother (2010), Balassoni et al (2011), Arkand et al (2011). 17 Reinhart và Rogoff (2010). 18 Carmen Reinhart, Kenneth Rogoff và Miguel Savastano, “Debt intolerance”, National Bureau of
Economic Research, năm 2003.
9
dung nạp nợ” thường có lịch sử thể chế yếu kém và hệ thống chính trị có vấn đề.
Những nhược điểm này khiến các quốc gia đó có xu hướng lạm dụng vay nợ hơn.
Khi vỡ nợ xảy ra, tình trạng khủng hoảng đến lượt nó lại làm trầm trọng thêm các
vấn đề của hệ thống tài chính và tài khóa hiện có, điều này khiến tình trạng vỡ nợ có
nhiều khả năng tái diễn, tạo ra một chuỗi vỡ nợ (serial default). Kết quả là, một mẫu
hình của khả năng quản lý nợ kém, một khi được thiết lập, có xu hướng tồn tại khá
lâu dài. Và trong tương lai, những quốc gia “không dung nạp nợ” có nguy cơ vỡ nợ
tái diễn rất cao ngay cả khi nợ còn đang ở mức tương đối thấp. Cũng theo Reinhart,
mức độ “không dung nạp nợ” và ngưỡng nợ an toàn của một quốc gia có thể được
đánh giá dựa vào các quan sát vỡ nợ và lạm phát trong quá khứ của quốc gia đó.
Rủi ro từ các khoản nợ ẩn (hidden debt)
Nợ ẩn ở đây được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ tiềm tàng của chính phủ (tức là
chỉ trở thành nợ trong những điều kiện nhất định), có thể bao gồm nợ được bảo lãnh
công khai (explicit guarantee), nợ được bảo lãnh ngầm (implicit guarantee), nợ của
ngân hàng trung ương, nợ ngoại bảng (off-balance sheet debts) tạo ra từ thị trường
chứng khoán phát sinh, và tất cả các nghĩa vụ nợ của Chính phủ mà không được
thống kê chính thức. Theo Reinhart và Goroff19, các khoản nợ ẩn thường có quy mô
rất lớn và việc chính phủ không nhận thức được một cách đúng đắn sự tồn tại của
chúng sẽ có thể tạo ra rủi ro vỡ nợ. Có thể chỉ ra rất nhiều ví dụ cho việc chính phủ
sẽ phải gánh chịu rủi ro lớn khi nợ ẩn phát sinh như: Chính phủ Mỹ (2007) bảo lãnh
hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac (bảo lãnh công khai); Thái Lan (1997) che
dấu khoản lỗ lớn do đã can thiệp quá sâu vào thị trường hối đoái kỳ hạn (nợ ngoại
bảng tạo ra từ thị trường chứng khoán phát sinh); Hy Lạp (2008), dưới sự giúp đỡ
của Goldman Sachs, che dấu khoản thâm hụt ngân sách hơn 12% do đã tài trợ cho
khoản lỗ của các doanh nghiệp quốc doanh (bảo lãnh ngầm); Khủng hoảng tài chính
châu Á (1997) với khoản nợ khu vực tư chuyển thành nợ công chiếm tới 34.8%
19 Carment Reinhart và Keneth Rogoff, “From financial crash to debt crisis”, National Bureau of Economic
Research, năm 2010.
10
tổng số nợ. Hay theo như Laeven và Valencia20, chi phí của chính phủ cho việc
đương đầu với các cuộc khủng hoảng ngân hàng phát sinh trong 3 thập kỷ vừa qua
lên tới 16% GDP (nợ ẩn phát sinh). Nhìn chung, lịch sử các cuộc Khủng hoảng nợ
hầu hết đều ghi nhận sự xuất hiện đột biến của nợ ẩn như một trong cách tác nhân
gây ra khủng hoảng. Chúng ta, dù không thể ước đoán chính xác bao nhiêu và khi
nào một khoản nợ ẩn sẽ phát sinh trong tương lai, cũng nên tạo ra các không gian
dự phòng cho các khoản nợ này. Chẳng hạn việc cố gắng duy trì thặng dư ngân sách
sau mỗi năm tài khóa cũng là một trong những biện pháp tốt giúp giảm thiểu rủi ro
của những khoản nợ ẩn đột biến trong tương lai.
Một số nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân chính và và phổ biến đã đề cập ở trên, Khủng hoảng
nợ còn có thể bị gây ra bởi những nguyên nhân khác, gián tiếp và ít quan trọng hơn,
chẳng hạn như:
-Chính phủ có tư duy nhiệm kỳ: Việc tư duy nhiệm kỳ thường khiến chính phủ
có ít trách nhiệm hơn với những quyết định vĩ mô của mình. Họ thường có xu
hướng lạm dụng vay nợ và chi tiêu tràn lan hơn, thậm chí đầu tư vào những dự án ít
lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận để cốt tạo ra các lợi ích chính trị cho bản thân.
Điều này khiến các khoản nợ cứ liên tục tăng lên sau mỗi năm tài khóa, trong khi
việc sử dụng các khoản nợ này thì lại rất kém hiệu quả. Laver và Hunt21 đã từng chỉ
ra rằng, các nhà chính trị các quốc gia Nam Âu, đặc biệt là Hy Lạp, thường mang
nặng tư duy nhiệm kỳ như vậy. Bởi họ biết rằng, người phải gánh chịu hậu quả các
khoản nợ do họ vay, sẽ là các chính phủ kế nhiệm. Thành thử, nợ công ở Hy Lạp cứ
ngày càng chồng chất theo thời gian và thâm hụt ngân sách chính phủ thường tăng
cao đột biến trước mỗi đợt bầu cử.
-Hiện tượng “Original sin”: Original sin là hiện tượng được đưa ra bởi
20 Luc Laeven và Fabian Valencia, “Systemic banking crises: A new database”, International Monetary Fund,
năm 2008. 21 Michael Laver và Ben Hunt, “Policy and party compettion”, Routledge Express, năm 1992.
11
Eichengreen et al22, đề cập tới tình huống nhiều quốc gia không thể đi vay nợ nước
ngoài bằng đồng bản tệ của họ. Tuy hiện tượng này tương đối phổ biến trên thế giới,
nhưng đối với những nền kinh tế kém và đang phát triển, thì đây là một trong những
nguyên nhân quan trọng tạo ra rủi ro vỡ nợ. Orignal sin tạo ra rủi ro vỡ nợ theo
nguyên tắc sau: Các quốc gia kém và đang phát triển thường có nhu cầu vay nợ cao
(đầu tư, chi tiêu, nhập khẩu hàng hóa,…..). Tuy nhiên, do đồng bản tệ của họ là
đồng tiền yếu, nên khi thanh toán các khoản nợ với nước ngoài, họ buộc phải chi trả
bằng ngoại tệ mạnh. Nguồn thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của các
quốc gia kém và đang phát triển thường rất hạn chế vì giá trị và sức cạnh tranh thấp.
Thêm nữa họ cũng không thể phá giá đồng tiền để kích thích xuất khẩu vì như vậy
sẽ làm cho giá trị các khoản nợ nước ngoài cũng tăng lên tương ứng. Như vậy các
quốc gia này không còn cách nào khác đành phải vay thêm nợ mới để trả nợ cũ.
Đây chính là nguyên nhân tạo ra rủi ro vỡ nợ.
-Sự bất ổn của các nhân tố vĩ mô: Sự bất ổn của các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng
đến rủi ro Khủng hoảng nợ theo hiệu ứng dây chuyền. Chẳng hạn, khi giá cả hàng
hóa trên thế giới tăng, sẽ khiến giá trị hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia đó cũng
tăng theo. Điều này góp phần tạo nên lạm phát trong nước. Khi lạm phát trở nên quá
cao và khó kiểm soát sẽ tạo áp lực trượt giá lên đồng bản tệ. Chính phủ, vì những lý
do chính trị và kinh tế riêng, quyết định bán ra dự trữ ngoại hối để ổn định tỉ giá,
tránh đồng tiền trượt giá quá sâu. Điều này góp phần làm giảm lượng dự trữ ngoại
hối quốc gia, khiến rủi ro thanh khoản tăng lên. Ngoài ra, nhiều nhân tố vĩ mô tuy
không phải là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, nhưng cũng có thể được sử dụng
như những chỉ báo trước cho một cuộc khủng hoảng, vì hiệu ứng dây truyền như
trên. Chẳng hạn, theo Reinhart23, khi các dòng vốn vay nợ nước ngoài đổ vào một
quốc gia một cách hào phóng, các ngân hàng trong nước sẽ có xu hướng cho vay nợ
22 Barry Eichengreen, Ricardo Hausmann và Ugo Panizza, “Original sin: the pain, the mystery, and the road
to redemption”, Financial Policy Forum, năm 2002. 23 Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff, “A decade of debt”, Policy Analyses in International Economics,
năm 2011.
12
tràn lan mà không cần xem xét kĩ khả năng trả nợ của người đi vay, dẫn đến tăng
trưởng tín dụng nóng. Khi tín dụng bùng nổ, người dân sẽ đổ tiền vào đầu tư những
thị trường lợi nhuận cao như bất động sản, khiến giá bất động sản cũng nhảy vọt
theo. Tới một lúc nào đó, bong bóng bất động sản vỡ, ngân hàng bị mắc kẹt với
những khoản nợ nước ngoài lớn, trong khi khoản tiền ngân hàng cho vay thì bị
người dân găm giữ trong các tài sản bất động sản đang mất giá. Lúc này, các khoản
nợ khu vực tư (private sector) sẽ dần chuyển thành nợ công và nợ của hệ thống
ngân hàng, làm tăng rủi ro vỡ nợ quốc gia. Chính vì lẽ đó, EC đề xuất “sự tăng giá
nhà thực” (increase in real house prices) hay như ECB đề xuất “sự bùng nổ tín dụng”
như những chỉ báo vĩ mô giúp phán đoán khả năng xảy Khủng hoảng nợ của quốc
gia.
1.1.3 Hậu quả
Khác với những khoản nợ thông thường của các cá nhân là những khoản nợ có
thể thu hồi dựa trên cơ sở luật pháp, nợ của Chính phủ đứng ngoài luật pháp của
một nước. Nó hoàn toàn dựa vào lòng tin và sự tín nhiệm đối với chính phủ đi vay.
Chính vì vậy, có những trường hợp, dù chính phủ vẫn đủ khả năng trả nợ (ability to
repay) nhưng lại không mong muốn trả nợ (unwilling to repay), và tuyên bố vỡ nợ
để giảm các áp lực nợ lên quốc gia, trong khi các khoản tiền không phải trả có thể
sử dụng để chi tiêu trong nước. Như vậy trên lý thuyết, vỡ nợ là một sự kiện có lợi
cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các quyết định tuyên bố vỡ nợ thường là
các quyết định khó khăn, vì cái giá phải trả của nó vượt quá lợi ích mà nó đem lại.
Sau đây là một số hậu quả tiêu biểu mà các quốc gia phải gánh chịu khi lâm vào
tình trạng vỡ nợ.
Sự mất uy tín của chính phủ
Hầu hết các chính phủ trên thế giới sử dụng uy tín quốc gia để đi vay nợ, do vậy,
chúng ta có thể dễ dàng suy luận được rằng khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ
nợ, rủi ro đầu tiên quốc gia đó phải chịu đó chính là việc mất uy tín của chính phủ.
Việc mất uy tín có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức, chẳng hạn có thể là việc
13
bị hạ bậc tín nhiệm trên thế giới, dẫn đến tình trạng tiếp cận các thị trường vốn
trong tương lai gặp nhiều khó khăn24 (không thể vay nợ nhiều như trước hoặc vay
nợ phải chịu lãi suất cao hơn,….); hay sự mất lòng tin ở các chủ thể kinh tế mà
chính phủ ký hợp đồng (các công ty hoặc người lao động,….), dẫn đến tình trạng
sụt giảm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn vì các chủ thể này giảm đầu tư do lo sợ
bị quốc hữu hóa hoặc sự tăng thuế trong tương lai25; hoặc thậm chí các chính sách
vĩ mô của chính phủ trong tương lai cũng sẽ bị giảm hiệu lực vì thị trường sẽ không
kỳ vọng rằng chính phủ đủ khả năng duy trì các chính sách đó tới cùng. Ngược lại,
Sandleris (2008) chỉ ra rằng, việc chính phủ nỗ lực trả nợ sẽ tạo ra hiệu ứng tốt với
các chủ thể kinh tế, giúp họ tin rằng chính phủ cũng sẽ đủ khả năng duy trì các
“nguyên tắc tốt khác” (good fundamentals) như kiểm soát tham nhũng hay duy trì
các quyền sở hữu tài sản (property right). English (1996) và Tomz (2007) củng cố
quan điểm này bằng việc chứng minh uy tín là lý do chính giải thích tại sao các
quốc gia nỗ lực trả nợ tới cùng. Eaton và Gersovitz (1981) thì tin rằng, nếu phải cân
nhắc đánh đổi giữa việc mất uy tín chính phủ và việc thu được khoản tiền ròng từ
tuyên bố vỡ nợ, chính phủ sẽ lựa chọn việc duy trì trả nợ. Nhìn chung, các học giả
khi nghiên cứu về sự kiện vỡ nợ, đều ủng hộ một quan điểm chung đó là: việc vỡ nợ
sẽ khiến chính phủ đi vay mất uy tín, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp
cận các thị trường vốn trong tương lai, làm giảm hiệu lực của các chính sách vĩ mô
và có xu hướng giảm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn vì sự sụt giảm trong đầu tư.
Nếu cân nhắc đánh đổi giữa lợi ích và tác hại của tuyên bố vỡ nợ, thì việc duy trì trả
nợ đến cùng lại là một quyết định khôn ngoan.
Sự trừng phạt của kẻ cho vay
Lịch sử đã ghi nhận nhiều trường hợp, khi kẻ cho vay không thể thu hồi các
khoản nợ với chính phủ, thì sự trừng phạt mà những kẻ cho vay áp đặt lên chính
phủ đó đôi khi vượt quá cả giá trị khoản nợ. Những sự trừng phạt này thường rất đa
24 English (1996); Tomz (2007); Eaton và Gersovitz (1981). 25 Quan điểm của Cole và Kehoe (1998). Ngoài ra các ông cũng chỉ ra rằng, vỡ nợ có thể khiến chính phủ trở
nên không còn đáng tin cậy trong các lĩnh vực khác, nằm ngoài quan hệ tín dụng với người cho vay.
14
dạng và biến đổi trong suốt lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới. Ở thế kỷ 19,
sự trừng phạt có thể là việc gây hấn quân sự với quốc gia không trả được nợ, nếu kẻ
cho vay cũng là quốc gia26 (như trường hợp Anh tấn công Istanbul vì Thổ Nhĩ Kỳ
không trả được nợ năm 1876; Mỹ chiếm Hahiti với lý do thu hồi các khoản nợ năm
1915). Bước vào thời kỳ hiện đại, sự trừng phạt bằng quân sự có xu hướng dần bị
bãi bỏ, thay vào đó là các sự trừng phạt về kinh tế-tài chính-thương mại như: tịch
thu các tài sản và hàng hóa của quốc gia đi vay ở nước ngoài27; gây áp lực lên các
thực thể tài trợ tín dụng thương mại (trade credit) cho quốc gia đi vay, làm cản trở
xuất nhập khẩu28; loại trừ quốc gia đi vay ra khỏi thị trường vốn quốc tế hoặc tăng
lãi suất cho vay, khiến việc đi vay trong tương lai gặp khó khăn29; hay áp đặt các
lệnh cấm vận thương mại lên quốc gia đi vay30. Nhìn chung những sự trừng phạt lên
quốc gia vỡ nợ của kẻ cho vay thường khá hà khắc và gây ảnh hưởng dài hạn lên
nền kinh tế. Chính phủ các nước, ngoài việc cân nhắc đến uy tín chính phủ, cũng
phải cần lường trước những rủi ro trừng phạt mà quốc gia phải gánh khi tính đến
chuyện tuyên bố vỡ nợ. Các hậu quả của sự trừng phạt này lớn đến mức, Eaton và
Gersovitz (1981) khuyên các quốc gia nên nỗ lực trả nợ đến cùng hơn là tuyên bố
vỡ nợ khi vẫn còn đủ năng lực trả nợ.
Làm suy yếu hệ thống ngân hàng
Có rất nhiều bằng chứng cho việc một cuộc Khủng hoảng nợ có thể làm suy yếu
đáng kể hệ thống ngân hàng quốc gia. Thông thường việc này thường được thực
hiện trên 2 cơ chế. Cơ chế thứ nhất, với những cuộc Khủng hoảng nợ phát sinh từ
việc phá giá đồng tiền, theo Kaminsky và Reinhart (1999), việc phá giá đồng tiền sẽ
tạo ra sự mất cân xứng tiền tệ (currency mismatch), nhất là đối với những ngân
26 Reinhart và Rogoff (2010). 27 Theo Bulow và Rogoff (1989), kẻ cho vay thường khó có thể tịch thu các tài sản nằm trong lãnh thổ quốc
gia đi vay, nhưng lại hoàn toàn có thể thực hiện điều này ở quốc gia của họ, hoặc ở các quốc gia khác mà có
hệ thống luật pháp phát triển. 28 Reinhart và Rogoff (2010). 29 Gelos et al (2011); Richmond và Dias (2008). 30 Bulow và Rogoff (1989).
15
hàng vay lượng ngoại tệ lớn từ nước ngoài. Khi sự mất cân xứng tiền tệ kéo dài,
ngân hàng sẽ phải chịu lỗ lớn và với những trường hợp xấu hơn đó là phải chịu rủi
ro phá sản. Điều này được minh chứng rõ ràng ở cuộc Khủng hoảng nợ Nga năm
1998, khi nhiều ngân hàng Nga chủ yếu đi vay USD ở nước ngoài và cho vay ra
dưới dạng Rúp Nga. Khi đồng Rúp bị phá giá, người gửi tiền nhanh chóng chuyển
đổi các khoản tiền Rúp của họ sang USD và rút tiền ồ ạt ra khỏi các ngân hàng, dẫn
đến ngân hàng bị mất thanh khoản. Trong khi với các khoản nợ nước ngoài, ngân
hàng buộc phải sử dụng việc chuyển đổi Rúp sang USD để trả nợ, và việc phá giá
đồng Rúp vô hình chung làm tăng giá trị khoản nợ lên tương ứng. Hai điều này tác
động trực tiếp đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản hoặc phải cầu cứu sự hỗ trợ từ
ngân hàng trung ương. Cơ chế thứ hai, theo Kumhof và Tanner (2005), là do các
ngân hàng thường nắm giữ một lượng lớn nợ của chính phủ dưới dạng trái phiếu.
Nếu chính phủ không thể phân định rạch ròi giữa nợ trong nước và nợ nước ngoài,
thì khi chính phủ tuyên bố vỡ nợ, các ngân hàng trong nước cũng sẽ phải gánh chịu
rủi ro như các chủ nợ nước ngoài. Hoelscher và Quintyn (2003) bổ sung rằng, khi
chính phủ tiến nhanh đến bờ vực vỡ nợ, trong khi các khoản vay nước ngoài ngày
càng khó khăn hơn, chính phủ sẽ có xu hướng tăng vay nợ ở hệ thống ngân hàng
trong nước. Khi tình trạng vỡ nợ xảy ra, hệ thống ngân hàng sẽ trở nên suy yếu và
có nguy cơ lâm vào khủng hoảng. Lúc này, sự mất uy tín của chính phủ đến lượt nó
làm giảm hiệu lực của các chính sách do chính phủ đưa ra, khiến các nỗ lực cứu
cánh hệ thống ngân hàng không còn phát huy được tác dụng31. Nhìn chung dù vận
động theo cơ chế nào thì một cuộc Khủng hoảng nợ cũng làm yếu đi trầm trọng hệ
thống ngân hàng, làm củng cố thêm cho quan điểm “hầu hết các cuộc Khủng hoảng
31 Có thể lấy ví dụ, chẳng hạn khi hệ thống ngân hàng có nguy cơ lâm vào khủng hoảng, người gửi tiền sẽ ồ
ạt rút tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng. Chính phủ có thể giải cứu bằng cách đưa ra các biện pháp bảo lãnh
toàn bộ (blanket gurantee) để ngăn chặn việc rút tiền hoặc phát hành trái phiếu tái cấp vốn (recapitalization
bond). Tuy nhiên người gửi tiền sẽ không tin một chính phủ vỡ nợ đủ uy tín để tiến hành các chính sách bảo
lãnh đó tới cùng hay nhà đầu tư cũng sẽ không tin ở giá trị những trái phiếu mới do một chính phủ vỡ nợ phát
hành. Thành thử các biện pháp giải cứu sẽ không phát huy được hiệu lực.
16
nợ đều có thể kéo theo sau nó là một cuộc Khủng hoảng ngân hàng”32.
Ảnh hưởng xấu đến hệ thống doanh nghiệp
Theo Sandleris (2006), vỡ nợ thường làm giảm mong muốn đầu tư và tăng thắt
chặt tín dụng ở thị trường tín dụng nội địa, khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận với
nguồn vốn trong nước hơn. Arteta và Hale (2006) thì dẫn chứng rằng Khủng hoảng
nợ quốc gia thường song hành với sự sụt giảm mạnh của tín dụng quốc tế dành cho
các doanh nghiệp trong nước33. Agca và Celsun (2009) chỉ ra khi nợ công, nợ nước
ngoài gia tăng, nhất là khi có Khủng hoảng nợ thì chi phí các khoản vay của hệ
thống doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên. Nhìn chung hầu hết các học giả, khi nghiên
cứu về những tác động của hiện tượng vỡ nợ, đều chứng minh được rằng sự khó
khăn trong việc tiếp cận với thị trường tín dụng sau khủng hoảng là nguyên nhân
chính tạo khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Đấy là chưa kể đến các hậu
quả từ hiện tượng “mất cân xứng tiền tệ” ở các doanh nghiệp nếu cuộc khủng hoảng
gây ra sự phá giá đồng tiền34; hay với các doanh nghiệp nước ngoài đặt tại quốc gia
vỡ nợ thì sẽ phải chịu rủi ro bị chưng thu hay quốc hữu hóa tài sản trong tương lai35.
Một số hậu quả khác
Ngoài những hậu quả chính và trực tiếp gây ra cho nền kinh tế đã đề cập ở trên,
Khủng hoảng nợ còn gây ra các hậu quả gián tiếp khác như giảm tăng trưởng GDP,
gia tăng thất nghiệp, bất ổn chính trị, rối loạn xã hội,…. Chẳng hạn, do kỳ vọng
chính phủ sẽ tăng thuế hoặc quốc hữu hóa các doanh nghiệp vốn nước ngoài khi vỡ
32 Genaioli et al (2011); Brutti (2011); Basu (2009) ; Borensztein và Panizza (2009) ; Acharya et al (2011) . 33 Mendoza và Yue (2011) giải thích hiện tượng cắt giảm tín dụng của các nhà đầu tư nước ngoài dành cho
khu vực tư là do họ lo sợ tình trạng kiểm soát vốn và tỉ giá của chính phủ sau khủng hoảng. 34 Sự mất cân xứng tiền tê ở đây là do doanh thu của các doanh nghiệp trong nước thường dưới dạng đồng
bản tệ, trong khi các khoản vay nước ngoài và vay dành cho xuất-nhập khẩu lại là các khoản vay ngoại tệ. 35 Theo Reinhart và Goroff (2010), những công ty nước ngoài tiến hành đầu tư FDI với các quốc gia vỡ nợ
thường sẽ rất lo ngại về việc tài sản, cơ sở vật chất của họ sẽ bị chưng thu trong tương lai. Đây là một rủi ro
rất phổ biến trong suốt những thập niên 60 và 70, với ví dụ điển hình là Chilê đã chưng thu các mỏ đồng của
mình từ các công ty khai khoáng của Mỹ năm 1977 và quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp dầu mỏ do nước
ngoài nắm giữ trong suốt thập kỷ 70.
17
nợ, dòng FDI đổ vào quốc gia đó thường sẽ giảm rõ rệt sau khủng hoảng36. Hay do
sự yếu kém của hệ thống ngân hàng, việc tiếp cận nguồn vốn vay thường khó khăn
hơn hoặc với chi phí cao hơn sau khủng hoảng, điều này đến lượt nó buộc các
doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô, dẫn tới gia tăng thất nghiệp. Borrensztein và
Pannizza (2008) thì lý luận rằng, sự suy giảm chất lượng tín dụng (credit quality) ở
các doanh nghiệp xuất khẩu là nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp này khó
tiếp cận với các dịch vụ tín dụng thương mại hơn sau khủng hoảng, điều này ít
nhiều ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của quốc gia.
1.2 Xây dựng mô hình cảnh báo sớm cho nền kinh tế Việt Nam
1.2.1 Một số mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ
Mô hình Panel Logit
Giả sử chúng ta có 1 mẫu gồm � quốc gia, � = 1, 2, … ,�. Mỗi quốc gia �
được quan sát tại � điểm thời gian, � = 1, 2,… , �. Gọi ��,�∗ là biến đại diện cho
khả năng xảy ra Khủng hoảng nợ của quốc gia � tại thời điểm �. Giả sử rằng ��,�∗
là hàm tuyến tính với một ma trận gồm � biến giải thích ��,�, một hằng số � và
một sai số ngẫu nhiên ��,�. Chúng ta biểu diễn:
��,�∗ = � + ���,� + ��,�
ở đó � là ma trận các tham số.
Giả định các sai số ngẫu nhiên được phân phối theo hàm Logistic chuẩn hóa,
tức là ��,�~��������(0,1). Chúng ta bổ sung thêm biến chỉ báo khủng hoảng ��,�,
ở đó:
��,� = �1����,�
∗ > 0
0����,�∗ ≤ 0
�
Và quy ước thêm rằng, ��,� = 1 nếu quốc xa đó xảy ra Khủng hoảng nợ,
36 Reinhart và Goroff (2010).
18
��,� = 0 với trường hợp còn lại. Khi đó, xác suất xảy ra Khủng hoảng nợ sẽ được
tính theo công thức:
�������,� = 1� = �������,�∗ > 0� = ����(��,� > −� − ���,�)
⇒ �������,� = 1� =exp(�� + ����,�)
1 + exp(�� + ����,�)
ở đó �� =�
√�� và �� =
�
√��.
Tương tự với xác suất không xảy ra Khủng hoảng nợ:
�������,� = 0� =1
1 + exp(�� + ����,�)
Việc ước lượng các tham số �′, �′ sẽ được thực hiện bằng phương pháp
Maximum Likelihood Estimation, cụ thể là cực đại hóa hàm:
� =∏ ∏ exp[(�� + ����,�)��,�]
����
����
∏ ∏ [1 + exp(�� + ����,�)]����
����
Các giá trị của �′, �′ tại điểm cực đại của hàm � sẽ là các giá trị ước lượng
cần tìm.
Mô hình Signal Approach
Giả sử chúng ta có � biến vĩ mô ��,� của một quốc gia được quan sát tại �
điểm thời gian (� ∈ {1, 2, … , �};� ∈ {1, 2, … , �}). Lựa chọn ℎ ∈ � là khoảng thời
gian mà mỗi biến vĩ mô được trông đợi sẽ thể hiện khả năng dự báo khủng hoảng
(khoảng thời gian cửa sổ). Ký hiệu �� là biến chỉ báo khủng hoảng, với quy ước:
�� = �1����������������[�, � + ℎ]
0����ℎ�������
Từ mỗi biến vĩ mô ��, chúng ta xác định được ngưỡng khả thi ��. Nếu một biến
vĩ mô vượt quá ngưỡng khả thi tại một thời điểm � nào đó thì chúng ta nói nó đã
phát ra một tín hiệu cảnh báo khủng hoảng. Ký hiệu ��,� là biến tín hiệu với quy
ước:
��,� = �1����,� ≥ ��
0����ℎ�������
19
Với mỗi biến vĩ mô ��, ta đếm các quan sát ��,� và �� rồi thống kê vào bảng
sau:
�� = 1 �� = 0
��,� = 1 A B
��,� = 0 C D
ở đó:
� là số điểm thời gian � mà �� = 1 và ��,� = 1.
� là số điểm thời gian � mà �� = 0 và ��,� = 1.
� là số điểm thời gian � mà �� = 1 và ��,� = 0.
� là số điểm thời gian � mà �� = 0 và ��,� = 0.
Từ các thống kê quan sát được, chúng ta xây dựng tham số tín hiệu nhiễu � �
cho mỗi biến vĩ mô �� bằng cách lấy tỉ số:
� � =
�� + �
�� + �
=�(� + �)
�(� + �)
Như vậy chỉ số hỗn hợp (composite indicator) đại diện cho khả năng xảy ra
Khủng hoảng nợ tại thời điểm � sẽ được xác định theo công thức:
��� = �(1
� �
��,�)
�
���
Việc chuyển đổi giá trị của ��� thành xác suất xảy ra Khủng hoảng nợ được
thực hiện dựa trên phép chuyển đổi:
�����������=������ ������ ������ℎ��� < ��� < ������ = 1
������ ������ ������ℎ��� < ��� < �
ở đó (�, �) là khoảng giá trị của ��� mà ở đó xác suất xảy ra Khủng hoảng nợ là
như nhau.
Mô hình Classification and Regression Tree
20
Xét một mẫu � gồm các quan sát về trạng thái Khủng hoảng nợ hoặc Không
Khủng hoảng nợ của � quốc gia tại � điểm thời gian. Giả sử chúng có � biến
vĩ mô ��, � ∈ {1, 2,… , �} sẽ được sử dụng trong việc phán đoán Khủng hoảng nợ
và với mỗi biến chúng ta xác định được một ngưỡng khả thi ��. Với mỗi biến,
chúng ta sẽ phân tích một mẫu thành 2 mẫu con bằng cách trả lời “Yes” hoặc “No”
cho câu hỏi “Liệu có xảy ra �� > �� hay không”. Một mẫu sẽ chứa tất cả các quan
sát cho câu trả lời “Yes” và một mẫu sẽ chứa tất cả các quan sát cho câu trả lời “No”.
Với mỗi mẫu con thu được ở trên, việc đặt câu hỏi “Yes-No” lại được tiếp tục với
các biến khác. Cứ như vậy, từ mẫu quan sát � ban đầu, việc trả lời một loạt các câu
hỏi “Yes-No” sẽ cho chúng ta một sơn đồ phân nhánh, mà mỗi nhánh sẽ tỏa ra hai
nhánh khác thông qua câu trả lời “Yes-No”. Để dễ hình dung, ta lấy ví dụ một
nhánh đơn giản như sau:
Việc lựa chọn các ��, �� hoặc quyết định khi nào ngưng quá trình phân nhánh
không thể dựa vào ý muốn chủ quan của người sử dụng mô hình, mà phải dựa trên
các tiêu chuẩn tối ưu37. Toàn bộ kết quả thực nghiệm của quá trình phân nhánh sẽ
37 Các tiêu chuẩn tối ưu này cũng rất đa dạng, có thể dựa trên tiêu chuẩn đề xuất của Roubini (2009); Savona
và Vezzoli (2012) hoặc Hastie et al (2009).
21
được sử dụng cho việc dự đoán xác suất xảy ra Khủng hoảng trong tương lai. Chẳng
hạn nếu một quốc gia X nằm trong mẫu quan sát, vào năm 2013 có tổng nợ nước
ngoài là 67%, lạm phát 20% thì theo sơ đồ phân nhánh ở trên, xác suất để quốc gia
này lâm vào Khủng hoảng nợ sẽ là 66.8% .
Một vài mô hình khác
Nếu đánh giá dựa trên hiệu quả dự báo, mức độ được sử dụng rộng rãi và tính
đơn giản thì ba mô hình kể trên là được coi là tốt nhất hiện nay dành cho các dự báo
khủng hoảng nói chung38. Có một số mô hình khác cũng có thể được sử dụng để dự
báo sớm Khủng hoảng nợ như Discriminant Analysis; Artificial Neural Network;
Markov-switching approach; K-clustering approach;….Tuy nhiên, những mô hình
này thường mắc các nhược điểm như tính toán phức tạp, ít được sử dụng, ít được
kiểm chứng thực nghiệm hay ít được được đánh giá khách quan về hiệu quả dự báo.
Chính vì những lý do như vậy, chúng tôi sẽ không đề cập sâu đến các mô hình đó
trong bài nghiên cứu lần này.
1.2.2 Lựa chọn mô hình thích hợp cho nền kinh tế Việt Nam
Như vậy việc lựa chọn mô hình thích hợp cho Việt Nam sẽ được nhóm nghiên
cứu cân nhắc trên cơ sở xem xét 3 mô hình: Logit, Classiffication and Regression
Tree (viết tắt là CART) và Signal Approach. Nhóm nghiên cứu quyết định chọn mô
hình Signal Approach cho bài nghiên cứu lần này vì hai lý do cơ bản sau:
-Việc quản lý vĩ mô theo “ngưỡng an toàn” mấy năm gần đây đang dần trở nên phổ
biến và là một công cụ hữu hiệu để các nhà hoạch định chính sách có thể điều hành
nền kinh tế một cách hiệu quả và dễ dàng hơn. Quản lý theo “ngưỡng an toàn” có
nghĩa là, mỗi biến vĩ mô sẽ được khuyến cáo một ngưỡng, khi biến vĩ mô vượt qua
ngưỡng đó thì đồng nghĩa với việc bất ổn. Nhà hoạch định chính sách cần đưa ra
ngay các phương án giải quyết để điều chỉnh biến vĩ mô quay lại dưới ngưỡng an
toàn, tránh tình trạng bất ổn kéo dài có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế. Các ngưỡng 38 Dựa trên nhiều đánh giá, trong đó tiêu biểu như Manasse et al (2003) ; Roubini (2009) ; Savona và Vezzoli
(2012); Makram El Shagi et al (2012) . Riêng trong công trình của Savona và Vezzoli, các ông còn gọi bộ ba
mô hình này là ‘state-of-the-art models’, tạm dịch là những mô hình tốt nhất hiện nay.
22
an toàn tiêu biểu có thể kể đến như: Ngưỡng nợ khuyến nghị 25% GDP đối với các
nền kinh tế mới nổi (của IMF)39; Bộ ngưỡng an toàn của Roubini40; Ngưỡng nợ 90%
GDP của Reinhart41; Bộ ngưỡng an toàn bền vững nợ công (của IMF)42; …. Gần
đây nhất là Bảng điểm bất ổn vĩ mô (Scoreboard of Macroeconomic Imbalances)
được đưa ra bởi EC (đưa ra tháng 2 năm 2012), bảng này gồm một tập hợp các chỉ
báo vĩ mô và các ngưỡng an toàn cho tất cả các quốc gia thuộc EC. Khi một chỉ báo
vĩ mô của một quốc gia vượt qua ngưỡng, quốc gia đó sẽ bị buộc phải thực thi các
chính sách vĩ mô phù hợp để đưa chỉ báo đó trở lại dưới ngưỡng an toàn43. Hoạt
động của mô hình Signal Approach cũng dựa trên các ngưỡng an toàn tương tự như
vậy, do đó mô hình này không những có thể cung cấp cho các nhà hoạch định chính
sách một con số xác suất xảy ra khủng hoảng, mà nó còn cho biết chỉ báo vĩ mô nào
đang trở nên bất ổn và cần phải được điều chỉnh. Thế nên việc sử dụng Signal
Approach là phù hợp với xu thế chung hiện nay.
-Việc xử lý số liệu của mô hình Signal Approach là đơn giản hơn so với 2 mô hình
còn lại vì các thao tác tính toán không phức tạp và hoàn toàn có thể thực hiện được
chỉ trên phần mềm Excel. Mô hình CART cần có số lần thao tác lớn hơn nhiều; theo
tính toán của Roubini44, với một mẫu gồm 14 biến vĩ mô của 43 quốc gia kéo dài
trong suốt 20 năm, thì chỉ để có được một phân nhánh đầu tiên, chúng ta đã phải cần
tới ít nhất là 14 x 43 x 30=18060 lần thực nghiệm để chọn ra được cách phân nhánh
tốt nhất. Cứ như vậy, để chọn được phân nhánh thứ 2, số lần thực nghiệm tiếp tục
cũng sẽ không dưới 15000. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, sự phức tạp
39 International Monetary Fund, “Fiscal policy as a countercyclical tool”, năm 2008. 40 “A survey of experiences with emerging market sovereign debt restructurings”, International Monetary
Fund, năm 2012. 41 Reinhart và Rogoff (2010). Theo các ông, tăng trưởng GDP và mức nợ có mối tương quan nghịch rõ rệt
khi nợ vượt qua ngưỡng trên. 42 “Revisiting the debt sustainability framework for low-income countries”, International Monetary Fund,
năm 2012. 43 Tobias Knedlik, “The European Commission’s Scoreboard of Macroeconomic Imbalances-The impact of
preferences on an early warning system”, Halle Institute for Economic Research, năm 2012. 44 Manasse và Roubini (2009).
23
trong tính toán của mô hình Logit, hay thậm chí là CART, hoàn toàn có thể được
khắc phục bằng việc sử dụng các phần mềm kinh tế lượng chuyên dụng (chẳng hạn
như STATA hay SPSS); tuy nhiên, thực tiễn của cuộc Khủng hoảng nợ công châu
Âu năm 2010 đã chứng minh “các mô hình dự báo có kỹ thuật phức tạp không đồng
nghĩa với hiệu quả45”.Vì thế, nhóm nghiên cứu sẽ thiên về những mô hình có các
tính toán đơn giản mà mà vẫn có thể đưa ra các dự báo đáng tin cậy như mô hình
Signal Approach46.
45 Việc dùng các mô hình CART và Logit để dự báo Khủng hoảng nợ đã có từ lâu, trước cả khi cuộc Khủng
hoảng hoảng nợ công châu Âu nổ ra năm 2010. Tuy nhiên, đã không có mô hình nào cảnh báo sớm được
cuộc khủng hoảng này. Trong nỗ lực tìm ra các kiểu mô hình mới đơn giản và hiệu quả hơn, việc áp dụng
Signal Approach trong cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ đã bắt đầu được các học giả quan tâm và tiến hành
những tháng cuối năm 2011. 46 Quá trình thực nghiệm Signal Approach trên mẫu của Knedlik và Schweinitz (2011) cho QPS lên tới
0.0239 và dự báo chính xác 73.45% các trường hợp.
24
CHƯƠNG II: ÁP DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG
HOẢNG NỢ VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 Lựa chọn các thông số cho mô hình
2.1.1 Lựa chọn mẫu
Chúng ta có 2 phương án để lựa chọn mẫu cho mô hình: lựa chọn mẫu là các
chỉ báo kinh tế của nền kinh tế Việt Nam hoặc lựa chọn mẫu là các chỉ báo kinh tế
của một nhóm gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Nhóm nghiên cứu không tán thành
cách chọn mẫu nhứ nhất vì hai lý do:
-Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam chỉ mới mở cửa cách đây khoảng hơn 2 thập kỷ.
Số liệu về các chỉ báo kinh tế còn rất hạn chế và chưa có hệ thống. Do vậy mẫu thu
được nhỏ và độ tin cậy của mô hình sẽ thấp.
-Thứ hai, việc tính toán độ nhiễu và ngưỡng khả thi của mô hình đòi hỏi quốc gia
được khảo sát phải trải qua Khủng hoảng nợ trong quá khứ. Tuy nhiên, Việt Nam
chưa từng trải qua một cuộc Khủng hoảng nợ nào kể từ năm 1975 đến nay47. Điều
này làm cho việc tính toán các thông số của mô hình trở nên bất khả thi.
Như vậy nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn mẫu là các chỉ báo kinh tế của
một nhóm gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia được nhóm nghiên cứu
lựa chọn đều dựa trên sự tổng hợp từ nhiều nguồn và nhiều công trình nghiên cứu đi
trước, nhưng để đảm bảo tính nhất quán về định nghĩa Khủng hoảng nợ, nhóm
nghiên cứu lấy số liệu khủng hoảng chủ yếu từ nguồn của Reinhart và Goroff48.
Khoảng thời gian được lựa chọn khảo sát là từ năm 1980-2010 để đảm bảo tính cập
47 Chưa từng xảy ra theo quan điểm của IMF. Trường hợp vỡ nợ năm 1975 chúng tôi loại bỏ vì đây là sự vỡ
nợ của Chính quyền Việt Nam cộng hòa khi chính phủ sụp đổ (Reinhart 2009). Ngoài ra nếu theo quan điểm
của các học giả khác thì số cuộc Khủng hoảng nợ này cũng khá ít, chẳng hạn là 2 trường hợp theo quan điểm
của Trebesch (2012), là 1 theo quan điểm của Sturzeneger và Zettelmeyer (2007) hoặc Detragiache và
Spilimbergo (2001). 48 Số liệu được lấy chủ yếu tại công trình “This time is different chartbook: country histories of debt, default,
and financial cirises” của Reinhart (2010) hoặc trang web chính thức của Reinhart và Goroff
(http://www.reinhartandrogoff.com/).
25
nhật của số liệu và hạn chế tối đa tình trạng thiếu số liệu49. Khoảng thời gian cửa sổ
ℎ của mô hình được nhóm lựa chọn là 2 năm dựa việc tham khảo nhiều khuyến
nghị của các học giả50. Sau đây là bảng danh sách các quốc gia được lựa chọn khảo
sát, tương ứng với thời điểm quốc gia đó bị lâm vào Khủng hoảng nợ:
Bảng 3: Lịch sử Khủng hoảng nợ của các quốc gia được khảo sát
Danh sách các quốc gia được khảo sát
STT Tên quốc gia Thời điểm xảy ra
Khủng hoảng nợ STT Tên quốc gia
Thời điểm xảy ra
Khủng hoảng nợ
1 Angola 1985-2003 23 Mexico 1982-1990
2 Algeria 1991-1996 24 Moroco 1983, 1986-1990
3 Argentina
1982-1993,
2001-2005,
2007-2009
25 Myanmar 1984, 1987,
1997-2009
4 Bolivia 1980-1984,
1986-1997 26 Nam Phi
1985-1987, 1989,
1993
5 Brazil 1983-1994, 2002 27 Nga 1980-1986,
1991-2000
6 Chile 1983-1990 28 Nicaragoa 1980-2009
7 China ----- 29 Nigeria 1982-1992, 2001,
2004-2005
8 Colombia ----- 30 Panama 1983-1996
9 Cộng hòa
Dominica 1980-2001, 2005 31 Paragoay
1986-1992,
2003-2004
10 Costa Rica 1981, 1983-1990 32 Peru 1980, 1984-1997
11 Cốt-đi-voa 1983-1998,
2000-2005 33 Philipine 1983-1992
12 Ecuado 1982-1995,
1999-2000, 2008 34 Romania 1981-1983, 1986
13 Ai Cập 1984 35 Sri Lanka 1981-1983, 1996
14 El Sanvado 1981-1996 36 Thái Lan 1997-1998
15 Ghana 1982, 1987 37 Thổ Nhĩ Kỳ 1982, 2001
16 Guantemala 1986, 1989 38 Tusinia 1980-1982
17 Honduras 1981-2010 39 Urugoay 1983-1985, 1987,
1990-1991, 2003
49 Một số công trình gần đây có sử dụng cả số liệu trước năm 1980 như Roubini (2009) sử dụng số liệu từ
1970-2002 hay Sanova và Vezzoli (2012) sử dụng số liệu từ 1975-2002. Tuy nhiên các công trình này đều
gặp khó khăn về vấn đề số liệu không đầy đủ hoặc nguồn số liệu không nhất quán. Thêm nữa việc chọn năm
kết thúc là 2002 khiến mô hình thiếu đi tính cập nhật. 50 Trong đó có thể kể đến Kaminsky et al (2000), Reinhart (2002) hay Knedlik và Schweinitz (2012).
26
18 Ấn Độ 1989-1990 40 Venezuela
1983-1988, 1990,
1995-1998,
2004-2005
19 Indonesia 1997-2000, 2002 41 Việt Nam -----
20 Kenya 1994-2003 42 Zambia 1983-1994
21 Malaysia ----- 43 Zimbabue 2000-2009
22 Manitirus -----
2.1.2 Lựa chọn ngưỡng khả thi
Chúng ta có 3 phương án để lựa chọn ngưỡng khả thi cho mô hình: chọn
ngưỡng khả thi theo quan điểm của Kaminsky và Reinhart (1999); chọn ngưỡng khả
thi theo quan điểm của Alessi và Detken (2011) hoặc dựa trên các ngưỡng khả thi đã
được tính toán từ các công trình đi trước.
Chọn ngưỡng khả thi theo quan điểm của Kaminsky và Reinhart
Như đã đề cập ở chương I, với mỗi ngưỡng khả thi �� được chọn cho biến vĩ
mô ��, các quan sát của ��,� và �� sẽ được thống kê thành bảng. Khi đó tỉ lệ mắc
sai lầm loại 1 và sai lầm loại 2 của biến vĩ mô �� sẽ tương ứng là �
��� và
�
���.
Theo Kaminsky, một ngưỡng khả thi lý tưởng là một ngưỡng mà làm cho biến vĩ
mô �� mắc ít sai lầm loại 1 và loại 2 nhất. Dựa vào điều kiện lý tưởng này, ông đề
xuất chọn các ngưỡng khả thi là ngưỡng mà làm tối thiểu hóa tỉ số tín hiệu nhiễu
51(Noise-to Signal):
��� =������������
1 − �����������=
�(� + �)
�(� + �)
Biến vĩ mô �� chỉ được chấp nhận nếu ��� < 1 để hạn chế các sai lầm loại 1
và loại 2.
Chọn ngưỡng khả thi theo quan điểm của Alessi và Detken
51 Việc xét cực tiểu tỉ số tín hiệu nhiễu đôi khi không hữu dụng vì gặp những trường hợp vô định như khi
Type I errors = 1 hay Type II errors = 0 (khi đó không thể tính được nghịch đảo NSR) ; hoặc các trường hợp
độ tin cậy quá thấp như Type I errors rất gần 1 và Type II errors rất gần 0 (Xem thêm ở Mulder et al 2002 hay
Tinakorn 2002). Do vậy trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ loại những ngưỡng có Type I errors = 1 hoặc
Type II errors = 0. Và chỉ xét các ngưỡng mà Type I errors < 0.5 và 0 < Type II errors < 0.5 đối với các
ngưỡng theo quan điểm của Kaminsky.
27
Ngưỡng khả thi của Kaminsky coi vai trò của sai lầm loại 1 và sai lầm loại 2 là
như nhau. Tuy nhiên theo Alessi và Detken, có những trường hợp mắc sai lầm loại 1
đôi khi phải chịu hậu quả lớn hơn mắc sai lầm loại 252 (và có những trường hợp là
ngược lại), do vậy việc chọn tỉ trọng giữa hai loại sai lầm này phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của người sử dụng. Nếu người sử dụng mô hình cho rằng việc mắc
sai lầm loại 1 nguy hiểm hơn sai lầm loại 2, thì tỉ trọng của sai lầm loại 1 sẽ lớn hơn
(và ngược lại). Dựa vào quan điểm này, Alessi và Detken xây dựng hàm Utility cho
mỗi biến vĩ mô ��, mà biến của hàm chính là tỉ trọng giữa hai loại sai lầm53:
��(�) = min(�, 1 − �) − [��
� + �+ (1 − �)
�
� + �]
ở đó � ∈ [0,1].
Và cũng theo Alessi và Detken, do có nhiều ý kiến trái chiều về việc mắc sai
lầm loại nào sẽ nguy hiểm hơn, các ông coi 2 loại sai lầm này là tương đương nhau
(� = 0.5), đồng thời đề xuất chọn ngưỡng khả thi là ngưỡng mà làm tối thiểu hóa
hàm Utility (tại � = 0.5):
��(0.5) = 0.5�
� + �+ 0.5
�
� + �
Dựa trên các ngưỡng khả thi đã được tính toán từ các công trình đi trước
Ngoài hai phương pháp xác định ngưỡng khả thi được đề cập ở trên, chúng ta
cũng có thể sử dụng ngưỡng khả thi đã được các học giả thực nghiệm trên các mẫu
rất lớn, chẳng hạn sử dụng ngưỡng khả thi được tính toán sẵn trong công trình của
Savona và Vezzoli (2012)54, hoặc lấy ngưỡng khả thi là ngưỡng trung gian của
52 Chẳng hạn, nếu mắc sai lầm loại 1, tức là biến vĩ mô đưa ra cảnh báo có Khủng hoảng, nhưng trên thực tế
lại không, thì cái giá phải trả cho việc này là những chi phí do việc thay đổi các chính sách vĩ mô để điều tiết
nền kinh tế tránh cuộc Khủng hoảng sắp tới (nhưng trên thực tế lại không xảy ra). Ngược lại, cái giá của sai
lầm loại 2 chính là việc nền kinh tế sẽ lâm vào Khủng hoảng nợ với không một sự chuẩn bị trước nào (do các
biến vĩ mô không đưa ra cảnh báo Khủng hoảng nợ nhưng trên thực tế lại xảy ra). 53 Tương tự như ngưỡng theo quan điểm của Kaminsky, chúng tôi sẽ bổ sung thêm điều kiện Type I errors <
0.5 và Type II errors < 0.5 với các ngưỡng theo quan điểm của Alessi nhằm mục đích tăng độ tin cậy của
ngưỡng khả thi tính được. 54 Đây là công trình về cảnh báo Khủng hoảng nợ sử dụng mô hình Signal Approach có mẫu khảo sát lớn
nhất tính cho đến thời điểm hiện tại, bao gồm quan sát của 66 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn từ
1975-2002.
28
nhiều công trình55. Tuy nhiên, chúng tôi loại trừ phương pháp này vì 2 lý do:
- Thứ nhất, ngưỡng khả thi được các nhà nghiên cứu xây dựng dựa trên cơ sở
tối thiểu hóa các sai lầm loại 1 và loại 2. Việc lấy ngưỡng trung gian của nhiều công
trình sẽ làm sai lệch bản chất của ngưỡng khả thi, khiến các kết quả tính toán trở
nên không có ý nghĩa56.
- Thứ hai, ngưỡng khả thi xác định theo phương pháp này được các học giả trên
thế giới sử dụng rất hạn chế57, do vậy nhóm nghiên cứu ít có cơ sở để có thể đánh
giá tính hiệu quả. Trong khi ngưỡng khả thi xác định theo Kaminsky hoặc Alessi đã
được kiểm nghiệm tính hiệu quả trên nhiều công trình58.
Tóm lại, trong bài nghiên cứu lần này, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng ngưỡng khả
thi theo quan điểm của Kaminsky và ngưỡng khả thi theo quan điểm của Alessi để
tính toán thực nghiệm trên mẫu đã lựa chọn. Sau đó tiến hành đối chiếu, so sánh
tính hiệu quả của hai ngưỡng khả thi để từ đó chọn ra ngưỡng khả thi tốt hơn cho
nền kinh tế Việt Nam. Cũng cần chỉ ra thêm rằng, trong quá trình thực nghiệm trên
mẫu, bản thân việc sử dụng ngưỡng khả thi cũng được chia thành 2 phương pháp đó
là sử dụng ngưỡng khả thi tuyệt đối hoặc sử dụng các ngưỡng khả thi tương đối. Sử
dụng ngưỡng khả thi tuyệt đối là việc chỉ sử dụng một ngưỡng khả thi duy nhất
chung cho toàn mẫu, còn sử dụng các ngưỡng khả thi tương đối là việc sử dụng
55 Đây là phương pháp được Huỳnh Ngọc Huy và Nguyễn Ngọc Duy (2009) sử dụng trong công trình về
cảnh báo Khủng hoảng tiền tệ sử dụng mô hình Signal Approach. Các tác giả đã sử dụng ngưỡng khả thi là
ngưỡng trung bình cộng theo các ngưỡng được tính sẵn trong Kaminsky và Reinhart (1999), Edison (2000)
và Kaminsky, Goroff và Reinhart (2000). 56 Chẳng hạn, ngưỡng khả thi của biến Tài khoản vãng lai so với GDP trong công trình của Knedlik và
Schweinitz (2011) là 0.3241, và trong công trình của Sanova và Vezzoli (2012) là 0.9018. Công trình của
Knedlik dựa trên mẫu là các quốc gia thuộc liên minh châu Âu, còn Sanova dựa trên mẫu là 66 nền kinh tế
mới nổi. Trị số trung bình cộng của hai kết quả này không có giá trị thống kê trên 2 mẫu đơn lẻ tạo nên nó.
Thêm nữa, Việt Nam không nằm trong các mẫu nói trên nên việc sử dụng các giá trị tính sẵn, hoặc các giá trị
trung gian của nhiều công trình cũng đều không có ý nghĩa thống kê khi áp dụng cho Việt Nam. 57 Cho tới hiện nay mới chỉ có 2 công trình sử dụng phương pháp này, đó là của Heun và Schlink (2004) và
Huỳnh Ngọc Huy và Nguyễn Ngọc Duy (2009). 58 Có thể kể ra được ít nhất 15 công trình sử dụng các ngưỡng khả thi được xác định theo Kaminsky hoặc
Alessi. Tiêu biểu có thể kể đến Reinhart (2002), Knedlik và Schweinitz (2011), Tambunan (2002), Lestano và
Kupper (2003), Savona và Vezzoli (2012), Berti et al (2012).
29
ngưỡng khả thi riêng lẻ cho từng quốc gia (các ngưỡng khả thi này có thể khác
nhau). Cả 2 phương pháp đều được các học giả sử dụng một cách phổ biến59, tuy
nhiên, trong bài nghiên cứu này chúng tôi chọn phương pháp sử dụng ngưỡng khả
thi tuyệt đối vì lý do không thể tính được ngưỡng khả thi tương đối của Việt Nam
một cách riêng lẻ (đã đề cập ở phần trên).
2.1.3 Xây dựng chỉ số hỗn hợp
Cũng giống như ngưỡng khả thi, đại lượng “chỉ số hỗn hợp” được các học giả
đề xuất theo nhiều cách khác nhau dựa trên những quan điểm khác nhau. Không có
một cơ sở lý luận chung nào cho việc xây dựng những “chỉ số hỗn hợp” như vậy.
Trong bài nghiên cứu lần này, chúng tôi chỉ điểm qua những phương pháp xây dựng
“chỉ số hỗn hợp” phổ biến nhất, trong đó có thể kể đến đề xuất của Kaminsky
(1998), của Berti et al (2012) và của Knedlik và Schweinitz (2012).
Xây dựng chỉ số hỗn hợp theo đề xuất của Kaminsky
Trong công trình nghiên cứu năm 1998, sau khi tính toán được các ngưỡng khả
thi thực nghiệm trên mẫu khảo sát, Kaminsky đã đề xuất 4 cách xây dựng chỉ số
hỗn hợp60:
���(1) = ���,�
�
���
���(2) = �(�� �,� + 2���,�)
�
���
���(3) = ����,���
�
���
�
���
���(4) = �(1
� �
��,�)
�
���
59 Sử dụng ngưỡng khả thi tương đối có thể kể đến một vài công trình như Kaminsky (1998), Reinhart et al
(2000) hay Hemming et al (2003). Sử dụng ngưỡng khả thi tuyệt đối tiêu biểu có Knedlik và Schweinitz
(2011), Berti et al (2012) hay Sanova và Vezzoli (2012). 60 Phần này sẽ không giải thích rõ từng chỉ số hỗn hợp, đọc giả có thể xem thêm chi tiết ở “Currency and
banking crises: the early warnings of distress”, Graciela Kaminsky, năm 1998.
30
Các kết quả tính toán mức độ hiệu quả của Kamninsky cho thấy, ���(4) là tốt
nhất trong việc đưa ra các dự báo chính xác, cũng như có số dự báo sai thấp nhất.
Các công trình của các học giả về sau, khi sử dụng mô hình Signal Approach và
quan điểm của Kaminsky, cũng đều sử dụng ���(4) như một chỉ số hỗn hợp mặc
định cho mô hình Signal Approach61. Cần nói thêm rằng cũng có một số học giả sử
dụng ���(5) = ∑ (����,�)���� thay vì ���(4), tuy nhiên ở đây việc chọn �� =
�
� �
∑�
� �
����
chỉ là thao tác chuẩn hóa các hệ số �
� �, mà không làm thay đổi cấu trúc của
���(4), nên có thể nói, ���(5) về bản chất vẫn chính là ���(4)62.
Xây dựng chỉ số hỗn hợp theo đề xuất của Berti et al
Dựa trên ý tưởng về hàm Utility của Alessi và Detken năm 2011, Berti et al đã
xây dựng ngưỡng khả thi bằng việc cực tiểu hóa tổng (����������� +
������������)63 và đề xuất hệ số “năng lực tín hiệu” (signaling power) cho mỗi
biến vĩ mô:
�� = 1 − (����������� + ������������)64
Đại lượng chỉ hỗn hợp theo đề xuất của Berti et al sẽ là:
���(6) = �(��
∑ ������
��,�)
�
���
Xây dựng chỉ số hỗn hợp theo đề xuất của Knedlik và Schweinitz
Knedlik và Schweinitz xây dựng ngưỡng khả thi theo đúng quan điểm của
Alessi và Detken (2011), bằng cách cực tiểu hóa hàm Utility tại 0.5:
61 Trước khi có đề xuất về hàm Utility của Allessi, tất cả các công trình về Signal Approach sau này đều sử
dụng ���(4) của Kaminsky làm chỉ số hỗn hợp. 62 Mục đích chuẩn hóa để đưa ���(4) ∈ [0,1]. 63 Về bản chất không khác gì việc cực tiểu hóa hàm Utility của Alessi và Detken. Chú ý rằng ��(0.5) =
�
�(����������� + ������������).
64 Các biến vĩ mô có năng lực tín hiệu âm sẽ bị loại.
31
�� ≔ ��(0.5) =1
2(����������� + ������������)
Đồng thời sử dụng các hàm Utility này để xây dựng nên chỉ số hỗn hợp:
���(7) = �(��
∑ ������
��,�)
�
���
Do chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào so sánh tính hiệu quả giữa các
chỉ số hỗn hợp được đề xuất bởi các học giả nêu trên, nên nhóm nghiên cứu chưa có
cơ sở đầy đủ để có thể khẳng định chỉ số hỗn hợp nào là “tốt nhất” có thể được sử
dụng cho mẫu khảo sát và cho Việt Nam. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu quyết định
sẽ sử dụng cả 3 chỉ số hỗn hợp ���(5), ���(6) và ���(7)(các chỉ số đã được
chuẩn hóa) để tiến hành thực nghiệm trên mẫu, và từ kết quả thu được sẽ đánh giá
xem chỉ số hỗn hợp nào là “tốt nhất” có thể được sử dụng cho Việt Nam.
2.1.4 Lựa chọn các biến vĩ mô
Nhóm nghiên cứu dựa trên việc tham khảo nhiều công trình đi trước về Khủng
hoảng nợ, cũng như cân nhắc các yếu tố như tính sẵn có của số liệu, hiệu quả cảnh
báo của các biến, mức độ đơn giản trong tính toán…. đã chọn ra được bộ các biến
sau dùng để xây dựng mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ cho Việt Nam. Về ý
nghĩa của từng biến, cũng như cụ thể quá trình chọn lựa các biến, đọc giả có thể
xem thêm ở phần phụ lục 4:
Bảng 4: Các biến vĩ mô được lựa chọn cho mô hình
STT Tên biến Ký hiệu và đơn
vị Nguồn
Đặc điẻm thống kê
Min Max Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
1 Tổng nợ nước
ngoài theo GDP TED_GDP (%) WB 3.632 1071.756 58.386 69.921
2
Tổng nợ ngắn hạn
nước ngoài theo dự
trữ ngoại hối
SED_Res (%) WB 0 26089.99 222.400 1289.957
3
Tổng nợ ngắn hạn
nước ngoài theo
GDP
SED_GDP (%) WB 0 241.487 8.272 12.775
4 Tổng các dịch vụ
nợ nước ngoài tính DES_Res (%) WB 0.843 6835.727 142.734 546.310
32
theo dự trữ ngoại
hối
5 Tỉ lệ lạm phát Inf (%) WB -1.710 11749.64 72.167 550.013
6 Độ mở của nền
kinh tế Open (%) WB 0.308 220.406 65.127 35.132
7 Tốc độ tăng trưởng
GDP thực RGDP_Gro (%) WB -23.478 13611.63 82.153 675.399
8 Tỉ lệ giữa cung tiền
và dự trữ ngoại hối M2_Res WB 3.182 7427.44 63.723 540.592
9 Tốc độ thay đổi tỉ
giá Exch_Gro (%) WB -28.233 262676.7 310.482 8007.198
10 Lãi suất tín phiếu
kho bạc Mỹ USTbill (%)
US
Federal
Reserve
0.32 14.8 5.9 3.17
11 Tốc độ thay đổi dự
trữ ngoại hối Rese_Gro (%) WB -79.603 1026.820 17.193 54.286
12 Tốc độ thay đổi
dòng vốn FDI Fdi_Gro (%) WB -6136.84 15667.01 62.938 765.713
13 Tốc độ thay đổi giá
trị xuất khẩu Exp_Gro (%) WB -45.78 94.109 6.819 11.639
14 Tài khoảng vãng lai Curr (%) WB -42.893 32.543 -2.232 6.479
2.2 Các kết quả thực nghiệm
2.2.1 Các kết quả thực nghiệm về ngưỡng khả thi
Như đã đề cập ở phần 2.1, nhằm tránh tình trạng ngưỡng khả thi theo quan điểm
của Kaminsky rơi vào các trường hợp vô định, và cũng để tăng độ tin cậy của các
biến vĩ mô được khảo sát, nhóm nghiên cứu đề xuất thêm tiêu chuẩn Type I errors <
0.5 và 0 < Type II errors < 0.5 cho các ngưỡng khả thi theo quan điểm của
Kaminsky.; tiêu chuẩn Type I errors <0.5 và Type II errors < 0.5 cho các ngưỡng
khả thi theo quan điểm của Alessi. Những ngưỡng khả thi nào, dù thõa mãn điều
kiện cực tiểu của Kaminsky (hay Alessi) nhưng không thõa mãn các tiêu chuẩn đề
ra ở trên, cũng sẽ bị loại. Tương tự, biến vĩ mô nào mà không có các ngưỡng khả thi
thỏa mãn những tiêu chuẩn như vậy, chứng tỏ năng lực dự báo khủng hoảng của
biến đó không cao nên cũng sẽ bị loại. Quá trình thực nghiệm đã loại ra hai biến
RGDP_Gro và M2_Res do các ngưỡng khả thi tính được không thỏa mãn các tiêu
33
chuẩn kể trên. Với những biến vĩ mô còn lại, các kết quả thực nghiệm được báo cáo
lại ở bảng sau65:
Bảng 5: Các kết quả thực nghiệm về ngưỡng khả thi
Kết quả tính toán ngưỡng khả thi thực nghiệm
Theo quan điểm của Alessi Theo quan điểm của Kaminsky
STT Ký hiệu
biến vĩ mô
Phát ra
tín hiệu
khi so
sánh với
ngưỡng
Ngưỡng
khả thi
Hàm
Utility STT
Ký hiệu
biến vĩ mô
Phát ra
tín hiệu
khi so
sánh với
ngưỡng
Ngưỡng
khả thi
Tỉ số tín
hiệu
nhiễu
1 TED_GDP Cao hơn 45.175 0.299 1 TED_GDP Cao hơn 64.598 0.289
2 SED_Res Cao hơn 56.157 0.328 2 SED_Res Cao hơn 75.639 0.447
3 SED_GDP Cao hơn 7.788 0.376 3 SED_GDP Cao hơn 7.788 0.503
4 DES_Res Cao hơn 66.925 0.372 4 DES_Res Cao hơn 76.599 0.501
5 Inf Cao hơn 14.684 0.363 5 Inf Cao hơn 14.684 0.454
6 Open Thấp
hơn 61.299 0.425 6 Open
Thấp
hơn 55.395 0.727
7 Curr Thấp
hơn -2.262 0.454 7 Curr
Thấp
hơn -2.7533 0.859
8 Exch_Gro Cao hơn 10.598 0.386 8 Exch_Gro Cao hơn 10.598 0.547
9 Rese_Gro Thấp
hơn 11.665 0.461 9 Rese_Gro
Thấp
hơn 11.665 0.865
10 FDI_Gro Thấp
hơn 9.302 0.467 10 FDI_Gro
Thấp
hơn 9.302 0.873
11 Exp_Gro Thấp
hơn 5.662 0.451 11 Exp_Gro
Thấp
hơn 5.662 0.806
12 USTbill Cao hơn 6.450 0.350 12 USTbill Cao hơn 6.450 0.417
Bảng quy đổi xác suất thực nghiệm:
Bảng 6: Bảng quy đổi xác suất thực nghiệm
Bảng quy đổi xác suất thực nghiệm
Theo đề xuất của Kaminsky Theo đề xuất của Berti Theo đề xuất của Knedlik
Khoảng giá trị
của ���(5)
Xác suất xảy ra
Khủng hoảng
nợ (%)
Khoảng giá trị
của ���(6)
Xác suất xảy ra
Khủng hoảng
nợ (%)
Khoảng giá trị
của ���(7)
Xác suất xảy ra
Khủng hoảng
nợ (%)
0-0.1 8.77 0-0.1 6.43 0-0.1 8.05
0.1-0.2 14.52 0.1-0.2 15.79 0.1-0.2 13.64
0.2-0.4 28.57 0.2-0.4 23.91 0.2-0.4 25.96
65 Nhiều kết quả có tới 5-6 chữ số sau dấu phẩy. Để thuận tiện trong quá trình sử dụng số liệu, các số liệu sẽ
được làm tròn đến 3 chữ số sau dấu phẩy.
34
0.4-0.5 50.38 0.4-0.5 33.87 0.4-0.5 38.20
0.5-0.6 63.55 0.5-0.6 57.50 0.5-0.6 49.38
0.6-0.7 64.81 0.6-0.7 58.82 0.6-0.7 56.82
0.7-0.8 82.72 0.7-0.8 71.82 0.7-0.8 74.12
0.8-1 84.78 0.8-1 87.63 0.8-1 86.36
2.2.2 Kiểm tra mức độ hiệu quả của các chỉ số hỗn hợp trên mẫu
Để kiểm tra mức độ hiệu quả của các chỉ số hỗn hợp trên mẫu, nhóm nghiên
cứu sẽ tính toán “điểm xác suất bậc 2” (quadratic probability score) QPS của mỗi
chỉ số hỗn hợp. Đây là phương pháp có cách tính toán khá đơn giản và đã được sử
dụng rộng rãi trong nhiều công trình nhằm kiểm tra mức độ hiệu quả của mô hình
trên mẫu khảo sát66. Chỉ số QPS của mô hình càng thấp càng thể hiện mô hình hiệu
quả (trên mẫu khảo sát). Công thức để tính điểm xác suất bậc 2 như sau:
��� =∑ 2(����� − ��)
�����
�
Ở đó �� là giá trị của biến chỉ báo khủng hoảng của quan sát thứ � và �����
là xác suất xảy ra Khủng hoảng nợ tương ứng với quan sát đó. � là tổng số quan
sát của toàn mẫu (trong bài nghiên cứu lần này là 1081 quan sát).
Kết quả tính toán QPS của ba chỉ số hỗn hợp được báo cáo lại ở bảng sau:
Bảng 7: Các kết quả thực nghiệm về QPS
Chỉ số hỗn hợp Quadric probability score
���(5) 0.360
���(6) 0.351
���(7) 0.389
Chỉ số hỗn hợp đề xuất bởi Berti có giá trị QPS thấp nhất (0.351) chứng tỏ đây
là chỉ số hỗn hợp có khả năng dự báo hiệu quả nhất trong mẫu khảo sát lần này.
Như vậy nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng chỉ số hỗn hợp ���(6) để áp dụng vào nền
kinh tế Việt Nam.
66 QPS từng được sử dụng bởi nhiều học giả trong việc kiểm tra mức độ hiệu quả của mô hình lên mẫu khảo
sát, chẳng hạn như Candelon et al (2010) hay Wallis et al (2011). Riêng về mô hình Signal Approach, việc sử
dụng QPS để lọc ra các bộ chỉ số vĩ mô, cũng như những chỉ số hỗn hợp tốt nhất cho mẫu đã được thực hiện
bởi Kaminsky (1998) hay Knedlik và Scheweintz (2011).
35
2.2.3 Chuỗi chỉ số hỗn hợp thực nghiệm của Việt Nam
Dựa vào các số liệu về kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong suốt giai đoạn
1997-2011, nhóm nghiên cứu đã tính ra chuỗi chỉ số hỗn hợp của Việt Nam như ở
bảng sau (tính theo chỉ số ���(6)):
Biểu đồ 1: Chỉ số hỗn hợp (6) của Việt Nam giai đoạn 1997-2011
Nhận xét sơ lược về chuỗi chỉ số hỗn hợp CI(6) của Việt Nam
-Giai đoạn 1997-1999: Đây là giai đoạn ngắn ngay sau Khủng hoảng tài chính châu
Á năm 1997. Tuy Việt Nam không nằm trong những nước bị rơi vào khủng hoảng
nhưng nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng ít nhiều trong giai đoạn này. Nợ
nước ngoài ở mức cao, thâm hụt tài khoản vãng lai cũng như sự sụt giảm trong vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là những nhân tố góp phần làm chỉ số CI của Việt
Nam tăng cao. Năm 1997 cũng là năm đánh dấu Việt Nam “gần vỡ nợ” với các chủ
nợ thương mại nước ngoài67 và phải dàn xếp bằng các trái phiếu Brady vào tháng
12 năm 199768. Đồng hành cùng sự tăng lên của chỉ số CI là việc Moody’s hạ bậc
tín nhiệm của Việc Nam từ Ba3 năm 1997 xuống mức B1 năm 1998. Nhìn chung
trong giai đoạn này, chỉ số CI cho kết quả cảnh báo rủi ro cao là khá phù hợp với
thực tiễn.
67 Xem chi tiết ở Trebesch (2011) hoặc Papaioannou và Trebesch (2012). 68Theo dữ liệu từ Moody’s.
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
1996 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Vietnam CI 6
Vietnam CI 4
36
-Giai đoạn 2000-2007: Đây là giai đoạn phát triển ổn định nhất của Việt Nam sau
những năm mở cửa do nền kinh tế Việt Nam đã hồi phục trở lại cùng với đà tăng
trưởng nhanh của các nền kinh tế châu Á sau khủng hoảng. Tăng trưởng GDP thực
đạt bình quân gần 6%, tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP giảm xuống gần một nửa, kim
ngạch xuất khẩu cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào tăng đều đặn trong
suốt giai đoạn là những tín hiệu đáng mừng cho sự hồi phục của nền kinh tế. Với
những cam kết cải tổ xa hơn nền kinh tế trong năm 2001 của chính phủ, Moody’s đã
thay đổi đánh giá triển vọng của nền kinh tế Việt Nam từ tiêu cực (negative) lên ổn
định (stable) năm 2001. Năm 2005, song hành cùng với chỉ số CI xuống mức 0,
Moody’s tiếp tục tăng bậc tín nhiệm cho Việt Nam từ mức B1 lên mức Ba3. Có thể
nói, chỉ số CI ở mức thấp và ổn định trong suốt giai đoạn này phản ánh chính xác
thời kỳ “vàng son” của nền kinh tế Việt Nam, cũng như các đánh giá của các tổ
chức quốc tế.
-Giai đoạn 2008-2011: Đây là giai đoạn bất ổn của nền kinh tế thế giới với 2 cuộc
khủng hoảng tiêu biểu là Khủng hoảng nợ dưới chuẩn Mỹ 2008 và Khủng hoảng nợ
công châu Âu 2010. Tuy tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP giữ tương đối ổn định (dưới
50%) trong giai đoạn này, nhưng ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế trên
thế giới lên nền kinh tế Việt Nam có thể thấy rõ rệt thông qua kênh xuất nhập khẩu:
cán cân tài khoản vãng lai thâm hụt triền miên. Ngoài ra, lạm phát cao (bình quân
trên 14%) và sự tăng lên của tỉ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối cũng là một
trong những nhân tố góp phần đẩy CI của Việt Nam tăng lên trong suốt thời kỳ.
Song hành cùng với những đợt tăng của CI là những đợt hạ bậc tín nhiệm của
Moody’s đối với Việt Nam: 2008, hạ mức triển vọng kinh tế Việt Nam từ tích cực
(positive) xuống tiêu cực (negative); 2010, hạ tín nhiệm của Việt Nam từ mức Ba3
xuống mức B1, tiếp tục triển vọng tiêu cực; 2011, tiếp tục triển vọng tiêu cực. Có
thể nói sự biến động của CI trong giai đoạn này phản ánh chính xác xu hướng đi
xuống của nền kinh tế, cũng như sự tăng lên của rủi ro Khủng hoảng nợ theo các
báo cáo của Moody’s.
37
2.2.4 Chuỗi chỉ số hỗn hợp 8 biến thực nghiệm
Như đã đề cập ở mục 2.2.1, nhóm nghiên cứu đặt ra thêm tiêu chuẩn Type I
errors < 0.5 và Type II errors < 0.5 nhằm mục đích loại đi những biến vĩ mô có độ
tin cậy thấp ra khỏi mô hình. Mức chặn trên (ở đây là 0.5) càng thấp chứng tỏ các
biến vĩ mô hoạt động càng tốt, nhưng cũng đồng nghĩa với việc càng nhiều biến vĩ
mô không tốt bị loại. Sau khi xem xét mô hình ở các mức chặn trên 0.2 (tất cả các
biến đều bị loại), 0.3 (13 biến bị loại), 0.4 (11 biến bị loại) và 0.45 (6 biến bị loại).
Nhóm nghiên cứu đã quyết định xây dựng thêm một mô hình mới chỉ gồm 8 biến (6
biến bị loại) với mức chặn trên mới là 0.45. Các tính toán QPS cho thấy mô hình 8
biến này hoạt động hiệu quả hơn trên mẫu so với mô hình 12 biến kia (với
QPS=0.348). Tuy nhiên những tính toán về chỉ số hỗn hợp của mô hình 8 biến này
khi áp dụng cho Việt Nam cũng cho kết quả không khác nhiều so với những tính
toán của mô hình 12 biến:
Biểu đồ 2: Chỉ số hỗn hợp (6) và chỉ số hỗn hợp 8 biến của Việt Nam
2.3 Đánh giá tính hiệu quả của mô hình đối với nền kinh tế Việt Nam
Từ các dữ liệu kinh tế đầu vào của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2011, mô
hình Signal Approach cho ra những kết quả cảnh báo tương đối cao cho về rủi ro
Khủng hoảng nợ của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới (������(6) = 0.562). Tuy
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
1996 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012
CI new
CI 4
38
nhiên, dù bất kỳ mô hình cảnh báo nào được đưa ra, nó cũng sẽ có những ưu điểm
và hạn chế nhất định. Chính vì vậy, để kiểm chứng những cảnh báo của mô hình có
phù hợp với thực tiễn hay không, nhóm nghiên cứu sẽ so sánh kết quả tính toán với
các đánh giá cũng như dự báo của nhiều tổ chức phân tich kinh tế tài chính uy tín
khác nhau trên thế giới. Để từ đó đưa ra đánh giá khách quan về năng lực dự báo
của mô hình.
2.3.1 Thực tiễn tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1997-2011
Giai đoạn 1997-1999:
Việt Nam trong giai đoạn 1997-1999 nói riêng, và trong suốt giai đoạn
1986-1999 nói chung, là những giai đoạn có tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP cao. Đây
là những năm đầu sau Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vừa mới chuyển mình từ nền
kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, do vậy tốc độ tăng trưởng GDP còn
hạn chế và chưa có những chuyển biến đáng kể. Trong khi đó, với nhu cầu cao về
nguồn vốn để đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong nước, cũng như
nhu cầu về ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, Việt Nam buộc phải thực hiện các
khoản vay nợ lớn với nước ngoài. Điều này lý giải trong suốt giai đoạn, Việt Nam
có một tỉ lệ nước ngoài trên GDP khá cao. Riêng giai đoạn 1997-1999, tỉ lệ nợ nước
ngoài trên GDP giữ được mức ổn định khoảng 80%, tuy nhiên đây vẫn là một con
số không hề nhỏ.
Biểu đồ 3: Nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam giai đoạn 1989-199969
69 Số liệu được lấy từ World Bank.
39
Trái ngược với một tỉ lệ nợ nước ngoài cao như vậy, trong suốt giai đoạn
1989-1999, xuất khẩu Việt Nam luôn nằm ở mức khiêm tốn với giá trị xuất khẩu
ròng (net export) âm trong cả thời kỳ, thâm hụt tài khoản vãng lai diễn ra triền miên.
Đây là những dấu hiệu không tốt cho khả năng trả nợ của quốc gia, do phần lớn
lượng ngoại tệ dùng để trả nợ là thu được từ xuất-nhập khẩu. Điều này khiến các
báo cáo về rủi ro vỡ nợ của các tổ chức quốc tế luôn đánh giá Việt Nam ở mức rủi
ro cao. Thực tiễn đã chứng minh70, sau cuộc vỡ nợ năm 1982, Việt Nam luôn nằm
trong tình trạng hoãn trả nợ từ năm 1982-1993. Tháng 12/1993, Việt Nam thương
lượng thành công với Câu lạc bộ Paris, đồng ý cho Việt Nam tái cơ cấu nợ và giảm
nợ. Quá trình trả nợ tiếp tục cho đến khi tình trạng hoãn nợ lại tái diễn vào năm
1995, và chỉ kết thúc vào tháng 12 năm 1997 khi Việt Nam buộc phải xử lý nợ bằng
các trái phiếu Brady. Trong suốt giai đoạn 1994-1999, Institutional Investors đánh
giá mức tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam luôn ở mức thấp71:
70 Nhóm nghiên cứu tổng hợp số liệu từ các công trình của: Trebesch (2011) và Trebesch (2012),
Borensztein và Panizza (2008). 71 Chỉ số tín nhiệm quốc gia của Institutional Investors có thể đặc trưng cho khả năng vỡ nợ nước ngoài của
quốc gia đó. Chỉ số này càng thấp chứng tỏ rủi ro càng cao, thang đo là từ 0-100, mức từ 0-30 là mức rủi ro
cao.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
External debt (%GDP)
External debt (%GDP)
40
Biểu đồ 4: Đánh giá IIR cho Việt Nam giai đoạn 1994-199972
Biểu đồ 5: Tình hình tài khoản vãng lai Việt Nam giai đoạn 1990-199973
Tình trạng nợ nước ngoài ở mức cao cũng như rủi ro vỡ nợ lớn cũng góp phần
không nhỏ làm suy yếu hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn này. Mặc dù
việc đóng băng các khoản tiền gửi chưa từng diễn ra trong suốt thời kỳ, tuy nhiên
các đánh giá của Moody’s cho rủi ro của sự kiện này cho Việt Nam lên tới các mức
72 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của Institution Investors. 73 Số liệu được lấy từ World Bank.
0
5
10
15
20
25
30
35
1994 1995 1996 1997 1998 1999
Institution Investors Credit Rating
Institution Investors Credit Rating
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Net export (%GDP)
Current account (%GDP)
41
B1, B3, B3 cho các năm 1997, 1998 và 199974 đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ.
Riêng năm 1997, Việt Nam còn rơi vào một cuộc Khủng hoảng ngân hàng khi 2
trong số 4 ngân hàng quốc doanh (chiếm 51% tín dụng của cả hệ thống ngân hàng)
lâm vào tình trạng phá sản, 2 ngân hàng quốc doanh còn lại cũng gặp các khó khăn
tương tự và phải đối mặt với rủi ro phá sản cao. Một vài ngân hàng cổ phần cũng
lâm vào tình cảnh khó khăn tài chính lớn; nợ xấu ngân hàng đạt mức 18% vào cuối
năm 199875.Tuy nhiên vẫn không có dấu hiệu về sự đóng băng các khoản tiền gửi
trong suốt giai đoạn khủng hoảng 1997-1998.
Biểu đồ 6: Tình hình tiền gửi ở hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
1992-199976
Hộp 1: Trích các nhận định của IMF về hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 1989-199877
“Sau cải tổ, hệ thống ngân hàng mở rộng một cách đáng kể và các ngân hàng bắt đầu cung cấp
được nhiều loại dịch vụ ngân hàng hơn.Tuy nhiên cải tổ tiến triển quá nhanh chóng trên vẻ bề
74 Số liệu từ thống kê của Moody’s. Mức B1 và B3 là các mức rủi ro cao. 75 Luc Laeven và Fabian Valencia, “Systemic banking crises: a new database”, International Monetary Fund,
năm 2012. 76 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của IMF. 77 “Vietnam-selected issues and statistical annex”, International Monetary Fund, năm 1998.
0
20
40
60
80
100
120
140
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Foreign currency deposits (trillions vnd)
Local currency deposits (trillions vnd)
42
ngoài, hơn là về mặt cốt lõi. Các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chiếm tới 80% lượng tiền
gửi của cả hệ thống, và các khoản cho vay của họ chủ yếu được định hướng chính trị. Các doanh
nghiệp quốc doanh thì tiếp tục được vay nợ một cách độc quyền, bao gồm các khoản vay không thế
chấp, dễ dàng tiếp cận nguồn vay ngoại tệ hơn và với mức lãi suất được bao cấp. Chuẩn mực kế
toán khiến các đánh giá tín dụng trở nên có vấn đề và các khoản nợ ngoại bảng (đặc biệt là thư tín
dụng) trở thành các nguồn rủi ro lớn. Các nguyên tắc thế chấp loại trừ đất ở khu vực thành phố ra
khỏi danh sách và khiến việc cưỡng chế tài sản thế chấp trở nên gần như bất khả thi. Ngân hàng
hầu như có rất ít kim nghiệm trong việc vận hành các hệ thống tài chính theo cơ chế thị trường.
Một số lớn các ngân hàng cổ phần phải gánh chịu rất nhiều khó khăn vì đã tăng trưởng tín dụng
quá nhanh, trong khi chỉ xem xét sơ sài về rủi ro tín dụng.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác được giám sát bởi Ngân
hàng trung ương. Các quy định thận trọng đặt ra giới hạn của việc cho vay, cũng như vốn tối thiểu.
Tuy nhiên hệ thống giám sát lại gặp khó khăn trong việc thi hành những quy định trên. Việc cho
vay quá giới hạn là một vấn đề thường gặp ở các ngân hàng cổ phần, do các quy định thường dễ
dàng bị lách luật. Có sự chậm trễ trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế ở các ngân
hàng lớn, làm cản trở quá trình đánh giá tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng cũng như làm
khó khăn hơn quá trình tái cấu trúc.”
Đánh giá chung cho cả giai đoạn 1997-1999, chúng ta có thể nhận thấy rủi ro
một cuộc Khủng hoảng nợ ở mức cao, thể hiện trên hai góc độ:
-Rủi ro vỡ nợ nước ngoài: Việt Nam trong giai đoạn này chịu rủi ro vỡ nước ngoài
cao do tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP luôn ở mức báo động. Trong khi quốc gia lại bị
mất đi một nguồn thu lớn từ xuất-nhập khẩu do giá trị xuất khẩu ròng âm triền miên.
Tình trạng hoãn nợ, vỡ nợ và tái cơ cấu nợ diễn ra liên tục trong suốt giai đoạn từ
1982-1997 càng làm xấu đi các đánh giá về mức tín nhiệm quốc gia của nhiều tổ
chức quốc tế đối với Việt Nam.
-Rủi ro vỡ nợ trong nước: Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1989-1999 còn
khá non trẻ do mới được cải tổ thành hệ thống ngân hàng hai cấp vào năm 1989.
Trong khi các luật mới liên quan đến sự hoạt động của ngân hàng trung ương và các
43
ngân hàng thương mại chỉ thực sự có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998. Như vậy trong
giai đoạn này, việc tăng trưởng tín dụng quá nhanh cũng như thiếu các định chế
pháp luật chặt chẽ trong lĩnh vực ngân hàng khiến hệ thống ngân hàng Việt Nam trở
nên rủi ro cao.
Như vậy, các tính toán chỉ số hỗn hợp ���(6) cao đột biến trong giai đoạn này
phản ánh chính xác rủi ro Khủng hoảng nợ mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Giai đoạn 2000-2007:
Đây là giai đoạn ổn định của nền kinh tế Việt Nam sau hơn gần 1 thập kỷ cải tổ
và đổi mới. Giờ đây rủi ro vỡ nợ nước ngoài của quốc gia đã được cải thiện đáng kể,
sau khi mức nợ nước ngoài trên GDP thuyên giảm hơn một nửa, và giữ ổn định
trong suốt cả giai đoạn. Mặc dù tình hình về xuất-nhập khẩu vẫn chưa chuyển biến
nhiều so với thời kỳ trước, xuất khẩu ròng vẫn âm và cán cân thương mại vẫn có
dấu hiệu thâm hụt trong phần lớn thời gian; tuy nhiên bù lại, lượng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI đã có dấu hiệu tăng trưởng nhanh dần đều, thể hiện những
đánh giá tích cực của nhà đầu tư quốc tế đối với Việt Nam. Năm 2002, lần đầu tiên
Fitch và S & P đánh giá mức tín nhiệm cho khả năng trả nợ nước ngoài của Việt
Nam, với các mức BB-/ triển vọng tích cực đối với Fitch và BB-/ triển vọng ổn định
đối với S & P78, đây là một tin tốt đối với nền kinh tế vì chúng ta không còn nằm
trong nhóm các quốc gia có mức rủi ro vỡ nợ nước ngoài cao như trong thập kỷ
trước nữa. Ngoài ra, giai đoạn 2000-2007 cũng đánh dấu hàng loạt các tín hiệu tích
cực như việc Việt Nam gia nhập thành công WTO, ký kết thành công các Hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ, IMF thông qua các khoản cho vay xóa đói
giảm nghèo và phát triển kinh tế, trở thành nước xuất siêu dầu thô và nằm trong top
những nước có kim ngạch xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Những tín hiệu trên đã
góp phần củng cố khả năng trả nợ quốc gia lên một mức đáng kể.
Hộp 2: Trích các đánh giá của Moody’s đối với khả năng trả nợ nước ngoài của
78 Mức BB- là mức rủi ro trên trung bình (tương đương với mức Ba3 theo thang đo của Moody’s), nhưng
vẫn chưa thuộc nhóm rủi ro cao, theo cả 2 thang đo của Fitch và S & P.
44
Việt Nam giai đoạn 2001-200779
-Năm 2001: “Moody’s thay đổi mức triển vọng đối với trần trái phiếu huy động bằng ngoại tệ của
Việt Nam từ tiêu cực lên ổn định do những cam kết mới của chính phủ trong việc thúc đẩy cải tổ
cấu trúc nền kinh tế, vượt qua những điểm vốn trước đây được coi là không thể chấp nhận được về
mặt chính trị. Những cải tổ tập trung vào hệ thống tài chính, các doanh nghiệp quốc doanh, và
thương mại quốc tế đã giúp khôi phục lại những sự hỗ trợ từ IMF và World Bank đối với Việt Nam.
Giờ đây Việt Nam hoàn toàn đủ tư cách để khai thác những nguồn tài nguyên của các tổ chức tài
chính quốc tế. Ngoài ra, sự tích lũy ngoại hối cũng như tái cơ cấu các khoản nợ còn tồn đọng cũng
đã đưa khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia lên một tầm cao hơn.”
-Năm 2003: “Moody’s thay đổi mức triển vọng đối với trần trái phiếu huy động bằng ngoại tệ của
Việt Nam từ ổn định lên tích cực do đã khôi phục lại được sự hỗ trợ từ IMF và World Bank, cũng
như những cam kết mới trong việc cải tổ toàn diện nền kinh tế và những tiến triển xa hơn trong
việc trả nợ nước ngoài. Moody’s cũng tin rằng, cải tổ sẽ giúp quốc gia tạo ra một văn hóa tín dụng
bền vững, giúp ngăn chặn sự chậm trễ hoặc trì hoãn trong việc trả nợ như Việt Nam đã từng mắc
phải trước đây.”
-Năm 2005: “Moody’s nâng mức tín nhiệm đối với trần trái phiếu huy động bằng ngoại tệ của Việt
nam từ mức B1 lên Ba3 do những cải thiện trong hoạt động quốc tế sau khi ký kết Hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ, cũng như khả năng Việt Nam gia nhập WTO trong tương lai.
Chuyến thăm của thủ tướng Phan Văn Khải tới Hoa Kỳ đã thúc đẩy sự ủng hộ của Washington
trong việc đưa Việt Nam trở thành thành viên của WTO, một bước tiến mà theo dự đoán có thể sẽ
làm tăng kim ngạch xuất khẩu, cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI. Cũng theo Moody’s,
xuất khẩu, các khoản kiều hối, FDI và các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài tăng lên trong thời gian
này đã giúp Việt Nam duy trì sự ổn định suốt thời kỳ thâm hụt cán cân thương mại, cũng như cải
thiện khả năng trả nợ của quốc gia.”
-Năm 2007: “Moody’s tiếp tục thay đổi mức triển vọng đối với trần trái phiếu huy động bằng ngoại
tệ của Việt Nam từ ổn định lên tích cực do những thành công trong chính sách phát triển hướng
ngoại, cũng như sự ổn định tình trạng tài khóa của chính phủ. Cũng theo Moody’s, sự gia nhập
79 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của Moody’s.
45
thành công WTO của Việt Nam trong tháng 1 đã thúc đẩy dòng vốn FDI đổ vào ngày càng nhiều,
giúp đảm bảo cho khả năng trả nợ trong dài hạn của quốc gia. Với khả năng thu hút vốn FDI liên
tục, trong khi giữ được tỉ lệ tiết kiệm cao, Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng nhanh và ấn tượng
trong thời gian tới.”
Biểu đồ 7: Nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam giai đoạn 1999-200780
Song hành cùng những tín hiệu tốt trong khả năng trả nợ của quốc gia, hệ thống
ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn này cũng đạt được những bước tiến lớn khi tỉ
lệ nợ xấu (NPL ratio) trong hệ thống đã tụt xuống mức một con số và tiếp tục giảm
xuống dưới 5% trong những năm 2003-2007. Luồng ngoại tệ lớn thu được từ xuất
khẩu dầu thô, cũng như việc thặng dư cán cân vốn trong cả giai đoạn đã làm tăng dự
trữ ngoại hối, cũng như tăng tính thanh khoản ngoại tệ của hệ thống. Đặc biệt, cơ
cấu cán cân vốn của Việt Nam trong thời kỳ này cũng khá lành mạnh với các khoản
vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay nợ trung và dài hạn dưới hình thức ODA là chủ yếu,
do vậy dòng vốn có tính ổn định cao và không chịu rủi ro rút vốn đột ngột. Tỉ giá
hối đoái ít biến động trong cả giai đoạn cũng đã góp phần làm giảm đáng kể rủi ro tỉ
80 Số liệu lấy từ World Bank.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
External debt (%GDP)
External debt (%GDP)
46
giá của hệ thống ngân hàng. Như vậy có thể thấy, rủi ro vỡ nợ trong nước của Việt
Nam đã được thuyên giảm đáng kể so với thời kỳ trước nhờ những tín hiệu tích cực
về tình hình dự trữ ngoại hối, cũng như sự ổn định trong tỉ giá. Đánh giá về rủi ro
vỡ nợ trong nước của Việt Nam trong giai đoạn này, năm 2005, Moody’s nâng mức
tín nhiệm của trần các khoản tiền gửi ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng Việt Nam từ
mức B3 lên mức B1, và giữ ổn định như vậy trong cả thời kỳ. Mặc dù vẫn nằm
trong mức rủi ro cao, tuy nhiên việc được tăng lên 2 bậc trong hệ thống xếp hạng
của Moody’s cũng là một tín hiệu đáng mừng cho những thành quả của quá trình cải
tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Biểu đồ 8: Đánh giá về nợ xấu và Z-Score của hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 1997-200781
Biểu đồ 9: Tình hình tiền gửi-tín dụng ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 2000-200682
81 Số liệu về Z-Score được lấy từ World Bank. Riêng số liệu về nợ xấu của hệ thống ngân hàng: từ năm
1997-2001 lấy từ công trình “The impacts of financial development on economic activities in Vietnam” của
Nguyen Dinh Phan (2008); từ năm 2002-2005 lấy từ “Vietnam banking sector report” của Vietcombank
(2011); từ năm 2005-2007 lấy từ IMF. 82 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo về Việt Nam của IMF.
0
5
10
15
20
25
30
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Z-Score
NPL ratio (%)
47
Đánh giá chung cho cả giai đoạn 2000-2007, chúng ta có thể thấy rủi ro Khủng
hoảng nợ của Việt Nam đã thuyên giảm đáng kể so với thời kỳ trước. Thể hiện trên
2 góc độ:
-Rủi ro vỡ nợ nước ngoài: Việc cải tổ toàn diện nền kinh tế, mở cửa với nước ngoài
cũng như gia nhập WTO là những tín hiệu tốt thể hiện sự thành công trong chính
sách hướng ngoại và hội nhập của quốc gia ở giai đoạn này. Các nguồn thu từ xuất
khẩu dầu thô, gạo, thủy sản… cùng với các dòng vốn FDI và ODA đổ vào Việt Nam
ngày càng nhiều đã góp phần gia tăng dự trữ ngoại hối, cải thiện khả năng trả nợ
của quốc gia.
–Rủi ro vỡ nợ trong nước: Sau hơn một thập kỷ đổi mới và cải tổ, hệ thống ngân
hàng Việt Nam giờ đây đã bước vào giai đoạn phục hồi và phát triển ổn định. Nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng đã giảm một cách đáng kể. Nguồn ngoại tệ dồi dào từ
dự trữ ngoại hối, cũng như sự ổn định trong tỉ giá hối đoái đã cải thiện khả năng
thanh khoản ngoại tệ của hệ thống, giúp giảm rủi ro vỡ nợ trong nước.
Như vậy, chỉ số hỗn hợp ���(6) sụt giảm và giữ mức ổn định trong cả giai
đoạn phản ánh chính xác sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế, cũng như sự sụt
giảm trong rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia.
Giai đoạn 2008-2011:
Đây là giai đoạn khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam do tình hình kinh tế thế
0
50
100
150
200
250
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Foreign currency deposit (trillions vnd)
Foreign currency credit (trillions vnd)
48
giới trong giai đoạn này có nhiều biến động bất lợi, như cuộc Khủng hoảng nợ dưới
chuẩn Mỹ năm 2008, suy thoái kinh tế thế giới 2009, Khủng hoảng nợ công châu
Âu năm 2010, thiên tai ở Nhật Bản năm 2011, …Tất cả những nhân tố tiêu cực này
đều ảnh hưởng xấu đến Việt Nam một cách to lớn do độ mở của nền kinh tế đã lên
tới 160%. Cụ thể, những diễn biến không tốt của nền kinh tế quốc gia được thể hiện
rõ ràng nhất thông qua các dấu hiệu sau:
-Lạm phát: Suy thoái kinh tế thế giới năm 2009 đẩy giá cả nhiều loại hàng hóa
tăng cao, đặc biệt là giá lương thực, các loại hàng hóa cơ bản và nhiên nguyên vật
liệu. Trong khi đó, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, với việc nhập khẩu các loại
nhiên nguyên liệu đầu vào như kim loại thô, thép, xăng dầu, chất dẻo,… vẫn chiếm
tỉ trọng lớn83. Do vậy, sự tăng giá các loại hàng hóa này trên thế giới cũng sẽ góp
phần đẩy giá cả nhiều loại mặt hàng trong nước tăng theo. Ngoài ra, chính sách tiền
tệ mở rộng cùng tăng trưởng tín dụng trong thời gian dài nhưng đầu tư kém hiệu
quả đã khiến dòng tín dụng chảy vào các thị trường tài sản và cũng góp phần làm
lạm phát leo thang84. Hệ quả là, trong bốn năm liên tiếp, Việt Nam có mức lạm phát
cao nhất châu Á, với trung bình lên đến 16% một năm trong cả giai đoạn
2008-2011.
Hộp 3: Trích nhận định của Ngân hàng nhà nước về tình hình lạm phát Việt
Nam vào năm 201185
“Lạm phát năm 2011 tăng cao so với năm trước do chịu tác động đồng thời từ các yếu tố bên cung
(chi phí đẩy) và bên cầu (cầu kéo), bao gồm: (1) Chỉ số giá nhập khẩu tăng cao 20.18%, trong khi
năm 2010 chỉ số này chỉ ở mức 5.6% chủ yếu từ tác động của giá thế giới; (2) Nhà nước điều chỉnh
tăng giá một số mặt hàng quan trọng thiết yếu (điện, than, xăng dầu, tiền lương tối thiểu, học phí),
tác động lan truyền tăng giá hàng hóa khác và lạm phát kỳ vọng; (3) Thiên tai, dịch bệnh trong
83 Theo Hải quan Việt Nam, nhóm 10 hàng hóa nhập khẩu chính của quốc gia (tính đến tháng 12 năm 2012)
bao gồm: Máy móc, hàng điện tử, nguyên liệu ngành dệt may, điện thoại, xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, các
phương tiện vận chuyển và kim loại thô. 84 Báo cáo kinh tế vĩ mô, “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”, Ủy ban kinh tế ECNA, năm 2012. 85 “Báo cáo thường niên”, Ngân hàng nhà nước, năm 2011.
49
nông nghiệp làm giảm nguồn cung lương thực thực phẩm; (4) Tác động trễ của chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ nới lỏng trong năm 2009-2010; (5) Lạm phát kỳ vọng tăng cao; (6) Các yếu tố
nội tại của nền kinh tế chưa được cải thiện như năng suất lao động, hiệu quả đầu tư ở mức thấp.
Tuy nhiên nhìn chung, các nhân tố bên cung là nguyên nhân chủ yếu đẩy mức lạm phát năm 2011
tăng cao.”
-Tỉ giá: Tỉ giá hối đoái Việt Nam bắt đầu biến động mạnh kể từ năm 2007, khi
Việt Nam gia nhập thành công WTO khiến dòng vốn quốc tế đổ vào đột ngột gây áp
lực tăng giá lên Việt Nam đồng. Cụ thể là từ giai đoạn tháng 10/2007 đến 3/2008,
thị trường dư cung về USD khiến Việt Nam đồng lên giá trong giai đoạn này. Tuy
nhiên, lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, cùng những bất ổn vĩ
mô và khủng hoảng kinh tế thế giới từ giữa năm, đã khiến các dòng vốn đầu tư vào
Việt Nam đảo chiều, đặc biệt là vốn đầu tư gián tiếp FII đảo chiều mạnh. Điều này
góp phần làm sụt giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, khiến Việt Nam đồng bắt đầu có
xu hướng sụt giá. Ngoài ra, nền kinh tế bất ổn trong năm cũng khiến nhu cầu nắm
giữ vàng và ngoại tệ của người dân tăng cao, càng gây áp lực mất giá lên tiền đồng.
Hệ quả là, Ngân hàng nhà nước (NHNN) phải nới rộng biên độ tỉ giá liên tục từ
0.75% vào năm 2007 lên mức 5% vào năm 2009 sau 4 lần điều chỉnh. Cuối năm
2009 phá giá Việt Nam đồng 5.4%. Tuy nhiên, bất chấp hàng loạt các biện pháp
hành chính được NHNN đưa ra trong suốt giai đoạn 2010-2011 nhằm ngăn chặn
tình trạng trượt giá của đồng Việt Nam, tình hình không cải thiện nhiều khi nền kinh
tế năm 2010-2011 vẫn chứng kiến các xu hướng tương tự trên thị trường ngoại hối
như năm 2009, tiền đồng vẫn liên tục mất giá, trong khi cầu về ngoại tệ ngày càng
tăng nhanh và dự trữ ngoại hối thì đang dần sụt giảm.
Hộp 4: Trích nhận định của Ủy ban kinh tế Quốc hội về tình hình tỉ giá năm
201186
“Tháng 2/2010, NHNN tiếp tục phá giá tiền đồng 3.3% và ban hành hàng loạt các biện pháp hành
86 Vũ Quốc Huy và các cộng sự, “Tỉ giá hối đoái giai đoạn 2000-2011: mức độ sai lệch và tác động đối với
xuất khẩu, Ủy ban kinh tế Quốc hội, năm 2012.
50
chính như đóng cửa sàn vàng, chấm dứt các giao dịch vàng trên các tài khoản nước ngoài của các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, thu
hẹp đối tượng cho vay ngoại tệ, cũng như điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 8% trong bối cảnh lạm phát
tăng cao.
Tháng 8/2010, NHNN tiếp tục tăng tỉ giá thêm 2.1% do áp lực trả nợ ngoại tệ của doanh nghiệp,
hoạt động đầu cơ tỉ giá của người dân, lạm phát tiếp tục tăng cũng như sự lên giá kỷ lục của vàng
thế giới trong giai đoạn này.
Tháng 2/2011, NHNN phá giá mạnh Việt Nam đồng 9.3%, tuy nhiên áp lực tỉ giá vẫn có xu hướng
lặp lại tương tự năm 2010 khi nhu cầu trả nợ bằng ngoại tệ vẫn cao và nhu cầu găm giữ tài sản còn
lớn hơn do nền kinh tế ngày càng bất ổn.
Trong những tháng cuối năm 2011, thị trường lại phải chứng kiến sự tăng lên nhanh chóng của
cầu về ngoại tệ do: (i) nhu cầu mua ngoại tệ để trả các khoản vay đáo hạn của các doanh nghiệp tận
dụng chênh lệch lãi suất trong hai quý đầu năm 2011; (ii) nhu cầu nhập khẩu thường tăng cao vào
cuối năm cộng thêm nhu cầu nhập khẩu vàng nhằm kiếm lời từ sự chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và giá vàng quốc tế; (iii) NHNN thắt chặt tín dụng ngoại tệ; (iv) lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng
cao, lên 5%/năm; và (v) hoạt động đầu cơ gia tăng.”
-Các dòng vốn: Nếu như giai đoạn tiền khủng hoảng, Việt Nam thu hút được
các dòng vốn đầu tư nước ngoài rất mạnh mẽ, thì sau khủng hoảng, dòng vốn đầu tư
có sự phục hồi nhưng không thể dồi dào được như trước nữa. Cụ thể, theo Tổng cục
thống kê, tổng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2008 lên tới 71.73
tỉ USD, tuy nhiên con số này tụt giảm đáng kể chỉ còn tương ứng 23.11 tỉ, 19.89 tỉ
và 15.60 tỉ vào các năm sau đó. Trong khi đó, một phần tỉ trọng lớn vốn FDI chủ
yếu chảy vào các khu vực phi sản xuất, như thị trường bất động sản, làm thị trường
này tăng trưởng nóng và nguy cơ đổ vỡ rất cao87. Về vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FII), đây cũng là giai đoạn chứng kiến các nhà đầu tư thoái vốn khỏi Việt
87 Theo báo cáo về tình hình đầu tư nước ngoài của Bộ kế hoạch và đầu tư, tỉ trọng vốn FDI chảy vào các
hoạt động bất động sản lên tới 35.38% vào năm 2009, và 36.79% vào năm 2010. Chỉ khi thị trường này đóng
băng vào năm 2011, tỉ trọng mới sụt giảm xuống mức 5.75%, và phục hồi nhẹ lên 12.11% vào cuối năm
2012.
51
Nam một cách rất mạnh mẽ. Chỉ tính riêng giai đoạn 2010-2011, thặng dư FII giảm
tới 40%, tính riêng dòng FII chảy vào Việt Nam sụt giảm tới 55.4% trong năm 2011.
Điều này cho thấy xu hướng rút vốn mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài khỏi các
thị trường mới nổi do ảnh hưởng của cuộc Khủng hoảng nợ công châu Âu. Ngoài ra,
thị trường chứng khoán trong nước liên tục suy giảm cũng là một nguyên nhân làm
nền kinh tế giảm sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Biểu đồ 10: Tình hình các dòng vốn và kiều hối của Việt Nam trong những năm
gần đây88
Biểu đồ 11: Tình hình thoái vốn ở Việt Nam trong những năm gần đây89
88 Số liệu về FDI và kiều hối do nhóm nghiên cứu tổng hợp từ số liệu của World Bank. Riêng số liệu về
ODA: từ năm 2000-2010 lấy từ World Bank, số liệu năm 2011 lấy từ OECD. 89 “Báo cáo phát triển Việt Nam 2012: Kinh tế thị trường khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình”, World Bank, năm 2012.
0
2
4
6
8
10
12
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
FDI (billions USD)
Remittance (billions USD)
ODA (billions USD)
52
Như vậy có thể thấy, giai đoạn 2008-2011 là giai đoạn đầy bất ổn với nền kinh
tế Việt Nam. Việc thâm hụt cán cân vãng lai triền miên, cũng như sự thoái vốn hàng
loạt của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường đã góp phần làm suy yếu dự trữ
ngoại hối quốc gia. Dự trữ ngoại hối mỏng đến lượt nó khiến hiệu lực của chính
sách tỉ giá cũng như lòng tin vào năng lực điều hành của NHNN suy giảm. Hệ quả
là, nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này chứng kiến một mức lạm phát cao,
trong khi đồng tiền trượt giá liên tục. Ngoài ra, việc tăng vay nợ ngắn hạn trong khi
dự trữ ngoại hối suy giảm, cộng hưởng cùng với những bất ổn vĩ mô, góp phần đẩy
rủi ro vỡ nợ nước ngoài của Việt Nam lên một mức cao hơn. Đánh giá về rủi ro vỡ
nợ nước ngoài của Việt Nam, Institution Investors cho điểm “rủi ro tăng” trong giai
đoạn này:
Biểu đồ 12: Đánh giá IIR cho Việt Nam giai đoạn 2007-201290
90 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của Institution Investors.
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
20
10
20
11
Capital flight (billions USD)
Capital flight (billions USD)
53
Biểu đồ 13: Tình hình nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn
2000-201191
Cùng với những bất ổn vĩ mô trong nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong gian đoạn này cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề đe dọa đến tính ổn định của
toàn hệ thống như thanh khoản kém, sai lệch cơ cấu tiền gửi hay tỉ lệ nợ xấu cao92.
Ngoài ra, rủi ro của các khoản tiền gửi ngoại tệ cũng tăng cao đáng kể, do ảnh
hưởng từ sự sụt giảm trong dự trữ ngoại hối, cũng như tín dụng ngoại tệ tăng nhanh
91 Số liệu lấy từ World Bank. 92 Báo cáo kinh tế vĩ mô, “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”, Ủy ban kinh tế ECNA, năm 2012.
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
2007 2008 2009 2010 2011 2012
Institution Investors Credit Rating
Institution Investors Credit Rating
0
5
10
15
20
25
30
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
External short term debt (billions USD)
Total reserve (billions USD)
54
và các quy định về giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ. Hệ quả là,
giai đoạn này đánh dấu sự hạ bậc tín nhiệm hàng loạt của Moody’s đối với nhiều
ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điển hình như năm 2008,
Moody’s thay đổi triển vọng đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ của ngân hàng
BIDV, ACB và TCB từ tích cực xuống tiêu cực93. Năm 2009, Moody’s tiếp tục hạ
bậc tín nhiệm đối với các khoản tiền gửi ở ngân hàng ACB, BIDV, TCB và VIB94.
Năm 2010, Moody’s hạ bậc tín nhiệm đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ ở 6 ngân
hàng Việt Nam95 xuống mức B2, tiếp tục triển vọng tiêu cực. Tình hình không có
tiến triển khi vào các năm 2011 và 2012, mức tín nhiệm của các khoản tiền ở 8 ngân
hàng lớn96 tiếp tục bị hạ xuống mức B3, mức rủi ro cao. Như vậy nhìn chung, đồng
hành cùng với rủi ro vỡ nợ nước ngoài tăng lên trong giai đoạn này, rủi ro vỡ nợ
trong nước của Việt Nam cũng leo thang đáng kể do những ảnh hưởng bất lợi từ các
thông tin vĩ mô quốc gia, cũng như diễn biến không tốt trong tình hình kinh tế thế
giới. Nếu trong tương lai gần, 2 vấn đề nổi cộm của nền kinh tế là dự trữ ngoại hối
suy giảm và nợ xấu trong hệ thống ngân hàng không được giải quyết, thì viễn cảnh
của một hệ thống ngân hàng trì trệ, trong khi rủi ro vỡ nợ nước ngoài cao như
những năm thập niên 90 có nguy cơ tái diễn, và sự hạ bậc tín nhiệm quốc gia là điều
khó tránh khỏi.
Hộp 5: Trích các nhận định của Fitch về thực trạng ngân hàng Việt Nam97
“Fitch tin rằng những báo cáo về nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã bị đánh giá thấp hơn so với thực tế do
tính minh bạch thông tin kém, có nghĩa là tình trạng vốn hóa ở hệ thống ngân hàng có thể còn yếu hơn so với
báo cáo. Khoảng một nửa số vốn trong hệ thống đang nằm trong tình trạng rủi ro, dựa trên sự xác nhận của
Ngân hàng nhà nước đó là tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống có thể lên tới 10%. Trong khi đó cạnh tranh tín dụng có
93 Theo số liệu từ Moody’s. 94 ACB, BIDV và TCB từ mức Ba2 xuống Ba1 đối với các khoản tiền gửi nội tệ, VIB từ mức Ba3 xuống
Ba2 đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ và nội tệ.
95 Bao gồm ACB, BIDV, MB, SHB, TCB và VIB. 96 Bao gồm ACB, BIDV, MB, SHB, STB, TCB, VIB và VTB. 97 “2013 outlook: Vietnamese banks”, Fitch Ratings, năm 2012.
55
thể đẩy tỉ lệ tín dụng/tiền gửi đạt gần đến hoặc vượt qua con số 100% đối với hầu hết các ngân hàng Việt
Nam.” Với thực trạng như vậy, Fitch đánh giá cho triển vọng ngân hàng Việt Nam trong năm 2013: 75% khả
năng giữ triển vọng ổn định, và 25% bị tụt triển vọng xuống tiêu cực.
Biểu đồ 14: Đánh giá về nợ xấu ở hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2006-201298
Đánh giá chung cho cả giai đoạn 2008-2011, chúng ta có thể nhận thấy rủi ro
của một cuộc Khủng hoảng nợ đang có dấu hiệu tăng dần, thể hiện trên hai góc độ:
-Rủi ro vỡ nợ nước ngoài: Những biến động bất lợi trong tình hình kinh tế thế giới
thời kỳ khủng hoảng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn
này. Hàng loạt các bất ổn vĩ mô xuất hiện đồng thời như nội tệ trượt giá, lạm phát
tăng cao, thâm hụt thương mại, dự trữ ngoại hối suy giảm…đã góp phần đẩy nền
kinh tế lâm vào tình cảnh khó khăn. Sự bất ổn trong các nhân tố vĩ mô đến lượt nó
làm suy yếu đáng kể khả năng trả nợ của quốc gia, khiến rủi ro vỡ nợ nước ngoài
98 Số liệu được lấy từ các báo cáo của Fitch. VAS là chuẩn mực kế toán Việt Nam, IFRS là chuẩn mực kế
toán quốc tế. Riêng số liệu năm 2012 là do Fitch ước đoán (5% theo VAS), tuy nhiên con số thực tế do
NHNN Việt Nam đưa ra cũng không khác nhiều (khoảng 4.9% tính đến tháng 11 năm 2012).
56
Việt Nam trong giai đoạn này luôn nằm ở mức cao.
-Rủi ro vỡ nợ trong nước: Những bất ổn vĩ mô như tỉ giá biến động mạnh, dự trữ
ngoại hối suy giảm, lạm phát cao… cộng hưởng cùng những vấn đề nội tại trong hệ
thống ngân hàng (nợ xấu cao, tỉ lệ tín dụng/tiền gửi cao,…) góp phần đẩy hệ thống
rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương. Rủi ro của các khoản tiền gửi qua đó cũng tăng
lên, khiến rủi ro vỡ nợ trong nước cũng có dấu hiệu leo thang tương ứng.
Như vậy, chỉ số hỗn hợp ���(6) có dấu hiệu tăng dần trong giai đoạn này thể
hiện chính xác xu hướng tăng lên của rủi ro Khủng hoảng nợ mà Việt Nam đang
phải đối mặt.
2.3.2 Đánh giá của các tổ chức quốc tế
Chỉ số hỗn hợp ���(6) tăng lên trong giai đoạn 2007-2011 cho chúng ta thấy
rằng nền kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây đang có xu hướng đối mặt với rủi ro
Khủng hoảng nợ cao hơn. Những phản ánh của chỉ số ���(6) là khá tương đồng
với các báo cáo của các tổ chức quốc tế trong giai đoạn này.
Đánh giá của Moody’s và Standard and Poor’s
Theo Moody’s, mức tín nhiệm của trần trái phiếu huy động bằng ngoại tệ có thể
phản ánh rủi ro một quốc gia hoãn nợ hoặc vỡ nợ đối với nước ngoài; mức tín
nhiệm của trần các khoản tiền gửi ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng có thể phản ánh rủi
ro quốc gia đó đóng băng các khoản tiền gửi ngoại tệ nhằm mục đích duy trì lượng
ngoại tệ đang dần cạn kiệt. Trên thực tế, các động thái của Moody’s trong suốt giai
đoạn 2007-2012 đều cho thấy xu hướng hạ bậc liên tục của Moody’s đối với 2 tiêu
chí kể trên, thể hiện những rủi ro Khủng hoảng nợ tăng dần mà Việt Nam đang phải
đối mặt:
Bảng 8: Xếp hạng tín nhiệm của Moody’s cho Việt Nam giai đoạn 2007-201299
2007 2008 2010 2012
Trần trái phiếu Ba3/positive Ba3/negative B1/negative B1/negative
Trần tiền gửi B1/positive B1/negative B2/negative B3/stable
Động thái của Moody’s so ----- hạ triển vọng hạ bậc tín hạ bậc tín
99 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của Moody’s, số liệu cập nhật đến ngày 30/7/2012.
57
với năm liền trước nhiệm nhiệm
Tương tự như các đánh giá của Moody’s, Standard and Poor’s cũng cho thấy
các mức xếp hạng tín nhiệm ngoại tệ đối với Việt Nam đang có xu hướng giảm
trong giai đoạn này:
Bảng 9: Xếp hạng tín nhiệm của Standard and Poor’s cho Việt Nam giai đoạn
2007-2012100
2007 2008 2010 2011 2012
Tín nhiệm
ngoại tệ BB+/stable BB+/negative BB/negative BB-/negative BB-/stable
Động thái của
S&P so với năm
liền trước
----- hạ triển vọng hạ bậc tín
nhiệm
hạ bậc tín
nhiệm
tăng triển
vọng
Đánh giá của Economist Intelligent Unit:
Theo Economist Intelligent Unit (viết tắt là EIU), điểm rủi ro quốc gia
101(sovereign risk score) có thể phản ánh rủi ro mà quốc gia đó vỡ nợ công, nợ trong
nước và nợ nước ngoài; điểm rủi ro khu vực ngân hàng (banking sector ris score)
phản ánh rủi ro khủng hoảng của hệ thống ngân hàng. Bảng sau tổng hợp các đánh
giá của EIU đối với 2 loại rủi ro trên trong giai đoạn từ tháng 2 năm 2008 đến tháng
2 năm 2012 của Việt Nam:
Biểu đồ 15: Xếp hạng rủi ro của Economist Intelligent Unit cho Việt Nam giai
đoạn 2008-2012102
100 “Sovereign rating and country T&C assessment histories”, Standard and Poor’s Ratings Services, năm
2013. 101 Theo EIU, việc quy đổi điểm rủi ro thành xác suất xảy ra khủng hoảng như sau: 0-40: 0%; 41-50: 1.4% ;
51-60: 14.1%; 61-70: 57.9%; 71-80: 90.4%; 81-90: 100%; 91-100: not available. 102 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo của EIU.
58
Dựa vào bảng trên ta có thể thấy xu hướng tăng lên của rủi ro quốc gia, cũng
như rủi ro của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn này. Đặc biệt, riêng rủi ro quốc
gia của năm 2011 sau khi quy đổi sang xác suất của EIU là 57.9%, tương đồng với
con số tính toán của chỉ số ���(6) sau khi quy đổi sang xác suất của nhóm nghiên
cứu là 57.5%. Hai con số này đều ở mức cao là điều đáng quan ngại cho nền kinh tế
Việt Nam hiện nay.
Đánh giá của World Economic Forum:
Các kết quả đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (viết tắt là WEF) đối với nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012 cũng cho thấy sự ổn định của hệ thống
ngân hàng đang có dấu hiệu suy giảm dần, trong khi đồng hành với nó là sự tăng lên
của rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia:
Biểu đồ 16: Xếp hạng rủi ro của World Economic Forum cho Việt Nam giai
đoạn 2008-2012103
103 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo “The financial development report” của WEF từ
năm 2008-2012.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Feb
-20
08
May
-20
08
Au
g-2
00
8
No
v-2
00
8
Feb
-20
09
May
-20
09
Au
g-2
00
9
No
v-2
00
9
Feb
-20
10
May
-20
10
Sep
-20
10
Dec
-20
10
Mar
-20
11
Au
g-2
01
1
No
v-2
01
1
Feb
-20
12
Sovereign risk score
Banking sector risk score
59
2.3.3 Nhìn nhận xác suất Việt Nam rơi vào Khủng hoảng nợ
Do các dữ liệu từ World Bank chưa thể cập nhật hết cho năm 2012 nên việc tính
toán chỉ số hỗn hợp ������(6) gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên như đã đề cập ở trên,
mô hình lần này của nhóm nghiên cứu có thời gian cửa sổ là 2 năm, do vậy các cảnh
báo của chỉ số ������(6) là hoàn toàn có giá trị cho tới năm 2013. Dựa vào bảng
quy đổi xác suất, chúng ta có thể thấy xác suất để Việt Nam rơi vào Khủng hoảng
nợ trong giai đoạn 2011-2013 là khoảng 57.5%.
Để dễ hình dung các rủi ro mà chỉ số hỗn hợp phản ánh, nhóm nghiên cứu đề
xuất việc dùng 5 màu: xanh đậm, xanh nhạt, vàng, da cam và đỏ cho 5 mức xác suất
xảy ra Khủng hoảng nợ:
Bảng 10: Các mức rủi ro tương ứng với các mức xác suất xảy ra khủng hoảng
Xác suất xảy ra Khủng hoảng
nợ (%) Màu sắc Mức rủi ro
6.43 rất thấp
15.79 thấp
23.91-33.87 trung bình
57.5-71.82 cao
87.63 nguy hiểm
Khi đó các mức cảnh báo khủng hoảng đối với Việt Nam trong giai đoạn
0
1
2
3
4
5
6
2008 2009 2010 2011 2012
Risk of sovereign debt crisis
Banking system stability
60
2007-2013 sẽ là:
Bảng 11: Các mức rủi ro của Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Cảnh báo (dự đoán) (dự đoán)
61
CHƯƠNG III: CÁC KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
3.1 Các khuyến nghị về mô hình
3.1.1 Đề xuất tăng tính hiệu quả của mô hình
Do việc gặp khó khăn về số liệu nên nhóm nghiên cứu buộc phải dựa trên số
liệu theo năm để xây dựng mô hình, do vậy hiệu quả của cảnh báo là chưa cao. Mô
hình sẽ hiệu quả hơn và cập nhập hơn nếu có thể được xử lý số liệu theo quý hoặc
theo tháng. Điều này là có thể thực hiện được trong tương lai gần, nhờ vào hệ thống
dữ liệu đang được xây dựng và phát triển bởi IMF. Chẳng hạn, với số liệu về nợ
nước ngoài, hệ thống dữ liệu QEDS104 của IMF có thể cung cấp các số liệu về nợ
nước ngoài của nhiều quốc gia theo từng quý. Tương tự, với các biến vĩ mô khác
như cán cân thương mại, tỉ giá hối đoái, tài khoản vãng lai,…số liệu theo quý có thể
được tìm thấy ở cơ sở dữ liệu PGI105.Việc hoàn thiện được các cơ sở dữ liệu như
vậy cũng sẽ giải quyết được một vấn đề khác của mô hình đó là sự nhất quán của số
liệu. Tại thời điểm nghiên cứu, các số liệu mà nhóm nghiên cứu thu thập không
được đầy đủ, do vậy nhóm phải sử dụng số liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này
tạo ra sự không nhất quán và xuất hiện độ lệch giữa các nguồn. Trong tương lai, một
nguồn số liệu nhất quán, đầy đủ và cập nhật của IMF có thể giải quyết được hai vấn
đề nan giải này, giúp cải thiện năng lực dự báo của mô hình.
Ngoài ra, vấn đề chọn các quốc gia để khảo sát cũng khá quan trọng, vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến năng lực dự báo của từng biến vĩ mô. Chẳng hạn, việc chọn các
quốc gia khảo sát gồm nhiều thành phần, bao gồm cả các quốc gia phát triển, đang
phát triển và kém phát triển có thể làm giảm năng lực dự báo của biến Nợ nước
ngoài trên GDP do xuất hiện hiện tượng “không dung nạp nợ” ở nhóm các quốc gia
kém và đang phát triển. Điều này có thể tránh được bằng cách chọn các quốc gia
khảo sát tương đồng với nhau về mặt kinh tế, ví dụ như mô hình của Knedlik và
104 Viết tắt của Quarterly External Debt Statistics, đây là cơ sở dữ liệu được xây dựng dựa trên sự hợp tác
của IMF và World Bank. 105 Viết tắt của Principle Global Indicators.
62
Schweinitz106 chỉ khảo sát những quốc gia phát triển thuộc Euro zone, QPS của mô
hình lên tới 0.0234. Với mô hình của Sanova và Vezzoli107 chọn 66 nền kinh tế mới
nổi thì QPS của mô hình là 0.2082.
Vấn đề cuối cùng mà nhóm nghiên cứu muốn cải thiện đó chính là “ngưỡng khả
thi”. Trong bài nghiên cứu lần này, mỗi biến vĩ mô chỉ có một ngưỡng khả thi duy
nhất và khi số liệu vượt qua ngưỡng này thì sẽ phát ra một tín hiệu tác động đến chỉ
số hỗn hợp. Tuy nhiên, bất cập của các biến vĩ mô chỉ dùng một ngưỡng khả thi đó
là: khi các số liệu đã vượt qua ngưỡng, thì dù cao hay thấp đều chỉ phát ra một tín
hiệu như nhau, điều này là không thực tế. Chẳng hạn với biến Nợ nước ngoài trên
GDP, ngưỡng khả thi của biến này là 45%. Một nền kinh tế, với các nhân tố khác
không đổi, dù có mức Nợ nước ngoài trên GDP là 46% hay 200%, chỉ số hỗn hợp
đều cho mức cảnh báo rủi ro như nhau. Trên thực tế, rủi ro của mức nợ 200% sẽ lớn
hơn nhiều so với rủi ro của mức nợ 46%. Để khắc phục tình trạng bất cập này, trong
tương lai, nhóm nghiên cứu sẽ đề xuất nhiều ngưỡng khả thi cho mỗi biến vĩ mô.
Các ngưỡng khả thi này sẽ được phân thành các khoảng rủi ro chẳng hạn như
khoảng an toàn, khoảng rủi ro trung bình và khoảng rủi ro cao. Các số liệu rơi vào
khoảng rủi ro cao sẽ phát ra tín hiệu mạnh hơn của khoảng rủi ro trung bình, và
tương tự khoảng rủi ro trung bình sẽ phát ra tín hiệu mạnh hơn khoảng an toàn. Việc
làm này sẽ cải thiện năng lực dự báo của mô hình do chỉ số hỗn hợp đưa ra được
các thông tin đa dạng hơn về rủi ro, giúp người sử dụng mô hình có cái nhìn rõ hơn
về mức độ rủi ro mà quốc gia đang phải đối mặt.
3.1.2 Đề xuất thêm các biến mới vào mô hình
Trong quá trình nghiên cứu, do những khó khăn trong việc thu thập số liệu một
cách đầy đủ và nhất quán nên có nhiều biến vĩ mô hiệu quả chưa được nhóm nghiên
cứu khảo sát. Trong đó phải kể đến một số biến vĩ mô sau, mà theo nhóm nghiên
cứu, sẽ là những biến vĩ mô có năng lực dự báo khá tốt nếu có thể được đưa vào mô 106 Knedlik và Schweinitz (2011). 107 Roberto Sanova và Marika Vezzoli, “Fitting and forcasting sovereign defaults using multiple risk signals”,
Ca’ Foscari University of Venice, năm 2012.
63
hình:
-Biến Institution Investors Rating (Ký hiệu IIR): IIR là một chỉ số định mức tín
nhiệm do tổ chức Institutional Investors đưa ra vào mỗi tháng 3 và tháng 9 hằng
năm cho từng quốc gia và có thể đặc trưng cho khả năng vỡ nợ nước ngoài của quốc
gia đó. Trong công trình nghiên cứu của Reinhart et al (2003)108, các ông còn tìm
thấy mối tương quan mạnh giữa IIR với lịch sử về vỡ nợ và lạm phát của quốc gia.
Quốc gia nào càng có nhiều sự kiện vỡ nợ và số năm lạm phát cao trong quá khứ thì
chỉ số IIR càng thấp. Như vậy có thể khẳng định IIR có khả năng phản ánh mức độ
“không dung nạp nợ” của một quốc gia một cách khá chính xác. Việc đưa biến này
vào mô hình có thể cải thiện đáng kể năng lực dự báo do triệt tiêu được những sai
lệch mà hiện tượng “không dung nạp nợ” gây ra ở nhóm các quốc gia kém và đang
phát triển.
-Biến Contagion (Ký hiệu Cont): Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh Khủng
hoảng tài chính nói chung (và Khủng hoảng nợ nói riêng) có khả năng lây lan từ
quốc gia này sang hàng loạt quốc gia khác. Nhiều quốc gia khả năng tài chính ổn
định vẫn bị rơi vào tình trạng khủng hoảng do sự thoái vốn hàng loạt của các nhà
đầu tư vì những thông tin bất lợi trên thị trường, sự rút vốn đột ngột của người gửi
tiền do sự kích động tâm lý của “đám đông hỗn loạn” hay những kỳ vọng tiêu cực
của người dân về viễn cảnh nền kinh tế của đất nước. Bằng chứng về việc hiện diện
của sự lây lan như một nguyên nhân của khủng hoảng có thể được tìm thấy ở nhiều
công trình như Reinhart và Rogoff (2010), Lizarazo (2012), Glover và Shubik (2012)
hay Luck và Schempp (2012). Biến Contagion có thể được xác định một cách đơn
giản bằng tổng số quốc gia lâm vào Khủng hoảng nợ trong năm được khảo sát109,
hoặc có thể xây dựng bằng các phương pháp phức tạp hơn như đánh giá về sự biến
động của giá dầu thế giới, đánh giá về mức độ thoái vốn của các nhà đầu tư trên các
thị trường trong khu vực hay đánh giá về mức độ tương quan giữa rủi ro Khủng
108 Reinhart et al, “Debt intolerance”, National Bureau of Economic Research, năm 2003. 109 Đây là cách xác định biến Contagion trong công trình của Sanova và Vezzoli (2012), ý nghĩa thống kê
của biến trong công trình này lên tới mức 0.001.
64
hoảng nợ của quốc gia được khảo sát với các quốc gia khác trong quá khứ. Nhìn
chung việc đưa thêm biến này vào mô hình sẽ giúp chúng ta lường trước được các
rủi ro về sự lây lan trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, ngay cả khi nền kinh
tế quốc gia đang ở mức ổn định.
-Biến Bank deposit freeze (Ký hiệu BDFree): Như đã đề cập ở phần định nghĩa, rủi
ro của Khủng hoảng nợ quốc gia bao gồm hai thành phần là rủi ro vỡ nợ trong nước
và rủi ro vỡ nợ nước ngoài. Hạn chế của mô hình hiện nay đó chính là chưa có một
biến cụ thể nào mô tả được rủi ro của vỡ nợ trong nước một cách chính xác (đây
chính là rủi ro của việc đóng băng các khoản tiền gửi), mà vẫn phải đo lường nhờ
các nhân tố gián tiếp như Tốc độ tăng trưởng dự trữ ngoại hối, Tốc độ tăng trưởng tỉ
giá hay Tỉ lệ giữa cung tiền và dự trữ ngoại hối. Mô hình có thể được cải thiện khả
năng dự báo và nắm bắt được các rủi ro của khủng hoảng nợ trong nước nếu biến
Bank deposit freeze có thể được đưa vào mô hình. Biến này có thể được xác định
bằng tỉ lệ tín dụng trên tổng huy động của nền kinh tế, tỉ lệ dự trữ bắt buộc trên tiền
gửi, biến động doanh số tiền gửi rút trước kỳ hạn hoặc bằng các phương pháp đánh
giá khác của Moody’s.
-Bộ các biến được sử dụng trong công trình của Knedlik và Schweinitz (2012):
Công trình sử dụng mô hình Signal Approach để cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ
quốc gia của Knedlik và Schweinitz có khảo sát và sử dụng 4 bộ biến được đề xuất
bởi Heise, BMWi, EC và ECB. Điều đáng chú ý đó là, việc sử dụng các bộ biến như
vậy khiến mô hình có năng lực dự báo rất cao, chẳng hạn việc sử dụng bộ biến của
Heise tạo ra QPS lên tới mức 0.0234 và đưa ra phán đoán chính xác tới 73.45% các
trường hợp. Tuy nhiên, dữ liệu về các biến như vậy chỉ tương đối đầy đủ với các
nước thuộc khu vực châu Âu, việc chọn các quốc gia khảo sát rộng và nhiều thành
phần như nhóm nghiên cứu đã thực hiện khiến việc sử dụng các biến này là bất khả
thi. Trong tương lai, việc hoàn thiện các cơ sở dữ liệu trên thế giới có thể giúp nhóm
nghiên cứu đưa được các biến này vào trong mô hình, góp phần cải thiện năng lực
dự báo của mô hình lên một mức đáng kể.
65
3.2 Các khuyến nghị về chính sách
Từ các kết quả thu được của mô hình, chúng ta có thể nhận thấy rằng rủi ro
Khủng hoảng nợ quốc gia không chỉ phụ thuộc vào mức độ vay nợ của quốc gia đó,
mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như các bất ổn vĩ mô, các vấn đề nội tại
trong nền kinh tế, cơ cấu của khoản vay,….Do vậy, để giảm thiểu rủi ro của khủng
hoảng, chúng ta không chỉ đưa ra các chính sách trong vấn đề vay và quản lý nợ, mà
còn phải cân nhắc đến việc điều chỉnh hài hòa các nhân tố khác, gắn liền việc vay
nợ với các chính sách tiền tệ và tài khóa, chứ không chỉ xem xét việc vay nợ như
một nhân tố độc lập. Sau đây là một vài khuyến nghị chính sách mà nhóm nghiên
cứu đề xuất dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia đã thành công trong vấn đề quản
lý nợ nói riêng, cũng như ổn định được bất ổn vĩ mô trong nước nói chung.
3.2.1 Đề xuất chính sách đối với việc vay và quản lý nợ công
Công khai minh bạch trong quản lý nợ công
Việc công bố thông tin và minh bạch trong chính sách liên quan đến ngân sách
nhà nước và tình hình nợ công là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay, nó có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến tâm lý của các nhà đầu tư cũng như sự ổn định trên thị trường
trong nước. Hiện nay các kỹ thuật và tiêu chuẩn trong vấn đề công khai minh bạch
thông tin về nợ công và tài khóa đã được IMF hướng dẫn cụ thể trong hai văn bản là
Hướng dẫn quản lý nợ công110 và Cẩm nang minh bạch tài khóa111. Đây là hai văn
bản phổ biến trên thế giới và đã trở thành thông lệ trong lĩnh vực này. Trong đó,
cẩm nang khuyến nghị các quốc gia nên đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề sau:
-Khu vực chính phủ (Government sector) nên được tách bạch rõ ràng với phần
còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế. Các chính sách cũng như
vai trò quản lý trong khu vực công phải rõ ràng và được công bố một cách công
khai.
-Pháp luật trong quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân,
110 “Guidelines for public debt management”, International Monetary Fund, năm 2003. 111 “Manual on fiscal transparency”, International Monetary Fund, năm 2007.
66
thường là Bộ trưởng Bộ tài chính trong việc: lựa chọn các công cụ cần thiết cho
việc vay nợ, đưa ra các chiến lược vay nợ, đưa ra giới hạn vay nợ, thành lập và chỉ
đạo các tổ chức chịu trách nhiệm về việc quản lý nợ, ban hành các quy định liên
quan đến vấn đề quản lý nợ.
-Pháp luật trong quản lý nợ nên xác định vai trò của Ngân hàng trung ương như
một cơ quan tài khóa của chính phủ sao cho việc phát hành trái phiếu kho bạc
(treasury securities) không bị nhầm lẫn với các chính sách tiền tệ. Tất cả các khoản
vay phải được ghi lại tại một tài khoản ngân hàng và chịu sự quản lý của Bộ tài
chính. Các nghĩa vụ nợ phát sinh cũng như các điều khoản vay nợ phải được hoàn
toàn công khai trước công chúng.
-Pháp luật trong quản lý nợ nên đặt ra các yêu cầu phải báo cáo hằng năm về
tổng nợ và các dòng chu chuyển nợ, bao gồm cả dữ liệu về nợ được chính phủ bảo
lãnh, đến các cơ quan lập pháp và công chúng. Việc báo cáo càng thường xuyên
càng có lợi. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy các hoạt động trong vấn đề quản lý nợ
nên được kiểm toán hằng năm bởi một tổ chức kiểm toán độc lập.
-Pháp luật trong quản lý nợ nên bao quát hết tất cả các giao dịch và bảo lãnh nợ,
kể cả của chính quyền địa phương, các quỹ ngoài ngân sách và các tổ chức công. Ở
một số quốc gia, nhằm hạn chế các rủi ro tài khóa, chính phủ thường cấm các thực
thể nêu trên vay nợ trực tiếp, mà phải vay gián tiếp thông qua chính phủ . Ở một số
quốc gia khác, các giao dịch nợ của các thực thể kể trên phải được sự cho phép của
chính phủ, hoặc chính phủ định ra giới hạn nợ tối đa mà các thực thể đó có thể đi
vay.
-Minh bạch tài khóa đòi hỏi quản lý nợ công phải có một cơ sở luật pháp vững
chắc, được củng cố bằng các quy định và văn bản dưới luật rõ ràng. Các văn bản
dưới luật này có thể dưới dạng hướng dẫn thủ tục chính thức, thông tư, nghị định
hoặc dưới các dạng khác, nhưng phải bao quát hết được các chi tiết trong quá trình
quản lý nợ, cũng như kiểm soát hoạt động và trình tự báo cáo. Các văn bản dưới
luật cũng nên quy định các hạn chế trong các vấn đề chẳng hạn như loại công cụ
67
quản lý nợ, thông số rủi ro, chiến lược nợ trung hạn, phương pháp phân tích nghĩa
vụ nợ dự phòng và rủi ro bảo lãnh chính phủ, cũng như chuẩn mực kế toán và các
yêu cầu báo cáo và kiểm toán. Nếu luật có quy định về giới hạn bảo lãnh thì các văn
bản dưới luật nên quy định rõ các tiêu chí để xem xét và phê chuẩn bảo lãnh.
-Luật cũng nên nêu rõ trách nhiệm của đơn vị quản lý nợ, và xác định rõ đơn vị
này đặt dưới quyền của Bộ tài chính, Ngân hàng trung ương, hay nó là một đơn vị
độc lập. Ngoài ra luật cũng phải xác định rõ mục tiêu của đơn vị đó, bao gồm giảm
thiểu chi phí trả nợ và quản lý các rủi ro liên quan.
Như vậy các kỹ thuật và chuẩn mực trong vấn đề công khai và minh bạch trong
quản lý nợ công đã được IMF hướng dẫn khá tỉ mỉ và cụ thể, vấn đề bây giờ chỉ là
chúng ta cần có lộ trình và thời gian để có thể đưa vào áp dụng các thông lệ tốt này
trong quản lý nợ công ở Việt Nam. Trên thực tế, mấy năm gần đây nước ta đã có
những bước tiến rất lớn trong vấn đề công khai và minh bạch trong quản lý nợ công.
Luật Quản lý nợ công112 được ban hành và có hiệu lực kể từ năm 2010 đã cụ thể
hóa được những tư tưởng của IMF, trong đó phân biệt được khá rạch ròi vai trò giữa
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước….từ khâu
hoạch định chủ trương cho đến các khâu cụ thể thuộc quy trình quản lý nợ. Các văn
bản dưới luật như Thông tư Hướng dẫn phương pháp tính toán các chỉ tiêu giám sát
và tổ chức hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài quốc gia113, Thông tư
Hướng dẫn mẫu biểu báo cáo và công khai thông tin về nợ công và nợ nước
ngoài114, Nghị định Về nghiệp vụ quản lý nợ công115, Nghị định Về cấp và quản lý
bảo lãnh chính phủ116, Nghị định Về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của
Chính phủ117….. đã cung cấp những hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể nhất cho các cơ quan,
tổ chức tham gia quá trình quản lý nợ có thể dễ dàng thực thi các mục tiêu của mình.
112 Luật 29/2009/QH12, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2010. 113 Thông tư 56/2011/TT-BTC, có hiệu lực kể từ ngày 1/8/2011. 114 Thông tư 53/2011/TT-BTC, có hiệu lực kể từ ngày 1/8/2011. 115 Nghị định 79/2010/NĐ-CP, có hiệu lực kể từ ngày 30/8/2010. 116 Nghị định 15/2011/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 5/4/2011. 117 Nghị định 78/2010/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 30/8/2010.
68
Các văn bản dưới luật này còn cụ thể hóa các quy định về trách nhiệm trong quy
trình quản lý nợ công đến từng chính quyền địa phương, cụ thể hóa các quy định về
công cụ quản lý nợ, chiến lược trung-dài hạn, cụ thể hóa các kế hoạch vay-trả nợ
chi tiết của Chính phủ, cụ thể hóa các tiêu chuẩn và điều kiện bảo lãnh vay nợ, cụ
thể hóa quá trình vay lại nợ của Chính phủ….. Như vậy nhìn chung, hệ thống văn
bản pháp luật về quản lý nợ công ở nước ta rất đầy đủ và chi tiết, đúng theo chuẩn
mực của IMF. Việc cần làm của Chính phủ bây giờ chỉ là tăng cường công tác chỉ
đạo và giám sát, để đảm bảo các cơ quan có trách nhiệm trong quy trình quản lý nợ
công thực hiện đúng những quy định mà luật đã đề ra. Ngoài ra, cũng có thể tăng
mức độ công khai và minh bạch bằng cách thực hiện theo một số gợi ý của IMF
chẳng hạn như Bộ tài chính nên tăng số kỳ báo cáo về tình hình nợ công hằng năm
để Quốc hội có thể theo sát và kịp thời điều chỉnh những bất ổn trong vấn đề nợ
công, Bộ tài chính nên cập nhật các thông tin vệ nợ công thường xuyên hơn và chi
tiết hơn trên trang web chính thức của Bộ để công chúng có thể dễ dàng truy cập và
theo dõi tình hình nợ công của quốc gia,…
Tăng cường giám sát và quản lý rủi ro các khoản nợ công
Việc vay nợ và quản lý nợ công phải có chiến lược và lộ trình cụ thể, dựa trên
cơ sở cân nhắc cẩn thận các rủi ro về đồng tiền, rủi ro tỉ giá, rủi ro lãi suất,….cũng
như xem xét kỹ lưỡng khả năng trả nợ của quốc gia trong tương lai, tránh tình trạng
“thiếu đâu vay đấy” làm cho nợ công thiếu tính bền vững và quy mô nợ ngày càng
lớn. Cụ thể, Chính phủ nên cân nhắc đến một số rủi ro cơ bản như:
i/ Rủi ro tỷ giá
Đây là rủi ro của các khoản vay nợ nước ngoài, xuất hiện khi vnd bị trượt giá so
với đồng tiền được định danh cho khoản nợ, làm quy mô nợ tăng lên. Để giảm thiểu
rủi ro tỷ giá, chúng ta nên chọn loại tiền định danh khoản nợ là các loại tiền mạnh,
mức độ biến động tỉ giá không lớn. Đa dạng hóa các loại tiền vay nợ cũng là một
cách khác có thể giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Nhìn chung, tình hình vay nợ nước ngoài
của Việt Nam những năm gần đây đã thể hiện được sự thận trọng của Chính phủ đối
69
với loại rủi ro này. Tính đến 6 tháng cuối năm 2010, tình hình vay nợ nước ngoài
của Việt Nam được phân bổ tương đối đều giữa các loại tiền, và tiền định danh
khoản nợ chủ yếu là các loại tiền mạnh: 38.8% Yên Nhật, 9.2% Euro, 22.2% USD,
27.1% tiền của IMF và 2.7% các loại tiền khác118. Với cơ cấu vay nợ như vậy, cùng
với xu hướng trượt giá của đồng Yên Nhật và USD trong tương lai do các gói nới
lỏng định lượng khổng lồ của chính phủ119, rủi ro tỉ giá đang có chiều hướng giảm
dần và diễn biến tích cực đối với tình hình vay nợ của Việt Nam. Tuy nhiên Chính
phủ vẫn nên cẩn trọng và giám sát chặt chẽ loại rủi ro này, vì tỉ giá là một đại lượng
biến đổi khá thất thường, sự tăng giảm đột ngột nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính
phủ giai đoạn 2010-2012 của tỉ giá vnd-USD là một minh chứng cho rõ ràng nhất
cho sự thất thường này.
ii/ Rủi ro lãi suất
Đây là rủi ro khi Chính phủ tiến hành vay nợ với lãi suất thả nổi, hoặc vay nợ
lãi suất cố định nhưng ở thời điểm lãi suất đang ở mức cao. Khi đó mọi biến động
bất lợi trong xu hướng của lãi suất đều có thể khiến Chính phủ phải chịu nhiều áp
lực hơn đối với các khoản tiền trả lãi, hoặc với chi phí cơ hội cao hơn. Để giảm
thiểu rủi ro lãi suất, Chính phủ nên tiến hành vay nợ dưới dạng lãi suất cố định và
hợp lý, chỉ nên vay nợ lãi suất thả nổi vào những thời kỳ lãi suất trên thị trường diễn
biến ổn định và ít có biến động lớn, tăng cường các khoản vay ưu đãi và ODA,….
Nhìn chung, cơ cấu vay nợ nước ngoài của Chính phủ mấy năm gần đây, đặc biệt là
cuối năm 2010, thể hiện sự an toàn của việc vay nợ đối với loại rủi ro này, khi loại
hình vay nợ lãi suất cố định từ 1-2.99% chiếm tới 76.4% tổng số nợ nước ngoài120,
trong đó ODA chiếm tới hơn 70%121. Với cơ cấu nợ như vậy, các cú sốc về lãi suất
trên thế giới sẽ ít có thể ảnh hưởng đến tình hình nợ của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng
cần khuyến cáo thêm rằng, việc quá phụ thuộc vào các nguồn vốn vay ưu đãi nước 118 “Bản tin nợ nước ngoài số 7”, Bộ tài chính Việt Nam, năm 2011. 119 Theo bản tin Reuters: “Bank of Japan to pump $1.4 trillions into economy in unprecedented stimulus”
phát hành ngày 4/4/2013. Và “G20 promises unlikely to end devaluation debate” phát hành ngày 16/3/2013. 120 “Bản tin nợ nước ngoài số 7”, Bộ tài chính Việt Nam, năm 2011. 121 Báo cáo kinh tế vĩ mô, “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”, Ủy ban kinh tế ECNA, năm 2012.
70
ngoài và ODA không phải là một phương án bền vững lâu dài. Nhật Bản và EU vốn
là hai chủ nợ viện trợ ODA chủ yếu cho Việt Nam, tuy nhiên với tình hình khó khăn
của EU trong cuộc khủng hoảng nợ công những năm gần đây, sự suy thoái của nền
kinh tế Nhật Bản, cũng như việc Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình, cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi và ODA của chúng ta trong thời gian
tới sẽ có thể gặp rất nhiều khó khăn hơn, nếu không nói là đang có xu hướng giảm
rõ rệt. Như vậy cần có kế hoạch trong tương lai để thay thế sự sụt giảm trong nguồn
vốn ODA này, trong đó chúng ta nên cân nhắc một số phương án như:
-Tìm nguồn vay mới: Sự sụt giảm trong vốn vay ODA và các khoản vay ưu đãi
buộc chúng phải phải tìm nguồn vay mới để bù đắp cho sự thiếu hụt vốn vay. Tuy
nhiên trên thực tế, việc tìm các nguồn vay mới có mức độ an toàn như ODA là một
điều bất khả thi trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi lãi suất trên thế giới đang có
dấu hiệu biến động rất bất lợi. Khủng hoảng kinh tế thế giới và suy thoái kinh tế
quốc gia càng khiến các “đại gia” về ODA giữ chặt nguồn tiền của mình hơn, và có
xu hướng giảm ODA để quay về đầu tư trong nước và hỗ trợ thất nghiệp. Như vậy
có lẽ nguồn vay trong nước sẽ trở thành một kênh vay nợ tiềm năng và duy nhất có
thể thay thế ODA trong thời gian tới. Chính phủ cần đẩy mạnh phát triển thị trường
nợ trong nước, chuyển đổi cơ cấu nợ công từ nợ nước ngoài thành các khoản nợ
bằng nội tệ, như vậy sẽ tạo ra nguồn vốn vay dồi dào bù đắp lượng thiếu hụt ODA,
làm giảm bớt rủi ro Khủng hoảng nợ công122 và giúp rút ngắn khoảng cách giữa tiết
kiệm-đầu tư.
-Tăng cường uy tín của Chính phủ: Việc cải thiện uy tín của Chính phủ có thể góp
phần nâng cao khả năng khả trả nợ của quốc gia trong mắt các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Điều này giúp việc phát hành trái phiếu Chính phủ trở nên hấp
122 Vay nợ bằng nội tệ thì rủi ro vỡ nợ sẽ thấp hơn, do Chính phủ hoàn toàn có thể tăng thuế, in thêm tiền
hoặc trả nợ dưới dạng trái phiếu mới…. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể dùng được những phương
án như vậy, vì cần có sự đánh đổi giữa tác hại của lạm phát (do in thêm tiền) và tác hại của việc vỡ nợ nội tệ
(do không trả được nợ), hoặc đánh đổi giữa tác hại của việc mất uy tín do vỡ nợ nội tệ và tác hại của việc mất
uy tín do trả nợ bằng trái phiếu mới thay vì nội tệ. Khuôn khổ của bài nghiên cứu sẽ không đi sâu vào việc
đánh đổi này.
71
dẫn hơn và dễ dàng hơn trong tương lai; Chính phủ có nhiều cơ hội để tiếp cận với
các nguồn vốn vay hơn và với lãi suất đi vay thấp hơn. Thông thường uy tín của
Chính phủ trong mắt các nhà đầu tư được đánh giá trên nhiều cơ sở, phổ biến nhất
là các định mức tín nhiệm do các tổ chức quốc tế uy tín đưa ra để làm tham chiếu,
chẳng hạn định mức trần trái phiếu của Chính phủ do Moody’s công bố. Mọi sự
thay đổi trong định mức tín nhiệm có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng vay nợ
và tiếp cận nguồn vốn của Chính phủ trong tương lai. Chúng ta có nhiều cách để
nâng định mức tín nhiệm của quốc gia, trong đó có thể làm theo những khuyến cáo
và hướng dẫn trong chính các báo cáo của cơ quan đưa ra định mức tín nhiệm, hoặc
cải thiện một số yếu tố quan trọng trong khả năng trả nợ quốc gia như: tăng cường
dự trữ ngoại hối, hạn chế thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, tăng
tính minh bạch thông tin, cải thiện hiệu quả của thể chế, ổn định các nhân tố vĩ mô,
trả nợ đầy đủ và đúng hẹn,…… Tính đến ngày 29/3/2013, định mức tín nhiệm trái
phiếu của Việt Nam đang ở mức BB- theo đánh giá của S&P và B1 đối với trái
phiếu ngoại tệ, Ba2 đối với trái phiếu nội tệ theo đánh giá của Moody’s123, đây vẫn
còn là các mức khiêm tốn trong thang đo tín nhiệm. Trong tương lai, việc Chính phủ
đẩy mạnh hơn nữa các công tác xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, xúc tiến
nhanh quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường phát triển thị
trường nợ trong nước….. có thể sẽ cải thiện được đáng kể định mức tín nhiệm của
quốc gia.
iii/ Rủi ro thanh khoản
Đây là loại rủi ro khi Chính phủ không đủ tính thanh khoản tức thời để trả nợ
cho các khoản tiền lãi đến hạn hoặc các khoản nợ ngắn hạn đáo hạn. Nguyên nhân
chính của rủi ro thanh khoản là do các nguồn thu của Chính phủ thường mang tính
chu kỳ, nhiều nguồn thu lớn có thể chỉ xuất hiện trong tương lai, do vậy trong ngắn
hạn, Chính phủ mất khả năng chi trả các khoản tiền này. Ngoài ra các cú sốc về vĩ
mô cũng có thể khiến khả năng thanh khoản của Chính phủ suy giảm, do đã sử dụng
123 Số liệu được lấy từ trang chủ của Standard and Poor’s và Moody’s.
72
một lượng tài chính lớn để ổn định tình hình bất ổn. Thông thường với các khoản
vay trong nước bằng nội tệ, rủi ro thanh khoản là không đáng lo ngại do Chính phủ
hoàn toàn có thể phát hành tín phiếu kho bạc để huy động một lượng tiền ngắn hạn
giải quyết vấn đề thanh khoản trước mắt; ngược lại, rủi ro thanh khoản của các
khoản vay ngoại tệ lại cần phải rất thận trọng, vì trong nhiều định nghĩa của các học
giả, chẳng hạn như định nghĩa của Reinhart và Goroff hay định nghĩa của Standard
and Poor’s, chỉ cần mất tính thanh khoản tức thời với các khoản tiền lãi đến hạn thì
quốc gia đó đã bị coi là vỡ nợ, và sẽ bị hạ bậc tín nhiệm ngay lập tức. Để hạn chế
rủi ro thanh khoản của nợ công, chúng ta nên hạn chế vay nợ ngắn hạn, hoặc nếu
tăng vay nợ ngắn hạn thì cũng phải tăng dự trữ ngoại hối để luôn đảm bảo cho tính
thanh khoản của các khoản nợ này, giảm số kỳ trả lãi, trích lập các quỹ dự
phòng,….. Cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện tại vẫn an toàn với loại rủi ro này, do
phần lớn nợ nước ngoài của chúng ta là nợ dài hạn và với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên
mấy năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn 2008-2011, tỉ giá vnd-USD biến động khá
mạnh làm Ngân hàng nhà nước phải sử dụng dự trữ ngoại hối để ổn định tỉ giá,
khiến dự trữ ngoại hối có xu hướng giảm. Trong khi đó, nợ ngắn hạn trong giai
đoạn này lại tăng lên khiến tỉ lệ nợ ngắn hạn/dự trữ ngoại hối trở nên ít an toàn hơn,
gây đe dọa đến khả năng thanh khoản quốc gia. Đây là một trong năm lý do chính
khiến Moody’s hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam năm 2010124. Trong tương lai, Chính
phủ nên củng cố hơn nữa dự trự trữ ngoại hối quốc gia, cũng như giảm bớt vay nợ
ngắn hạn, để góp phần giảm giảm bớt rủi ro thanh khoản của nợ công, cũng như cải
hiện định mức tín nhiệm.
iv/ Rủi ro thanh toán
Đây là rủi ro khi Chính phủ không đủ khả năng chi trả các nghĩa vụ nợ, bao
gồm cả gốc và lãi, tại thời điểm đáo hạn. Rủi ro thanh toán thường được đánh giá
dựa trên cơ sở so sánh quy mô của khoản nợ với các nguồn dùng để trả nợ như cán
cân ngân sách Chính phủ hay cán cân thương mại, hoặc so sánh với GDP, giá trị 124 Dữ liệu lấy từ báo cáo của Moody’s: “Moody’s lowers Vietnam’s rating to B1; maintain negative
outlook”, năm 2010.
73
xuất khẩu, giá trị xuất khẩu cộng kiều hối….. Nếu một Chính phủ có thể đảm bảo
được khả năng thanh toán của mình đối với các khoản nợ trong tương lai mà không
phải bằng cách vay thêm nợ mới, thì khoản nợ đó được coi là bền vững. Theo các
tiêu chuẩn của IMF125, với một quốc gia có chỉ số chính sách quản lý nợ cao như
Việt Nam126, nợ công nước ngoài và nợ công nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh
(viết tắt là PPG) sẽ đảm bảo được tính bền vững nếu giá trị hiện tại của PPG không
vượt quá ngưỡng: 50% so với GDP, 200% so với giá trị xuất khẩu và 300% so với
tổng thu ngân sách; giá trị hiện tại của các dịch vụ nợ (debt service) của PPG không
vượt quá ngưỡng: 25% giá trị xuất khẩu và 35% tổng thu ngân sách. Như vậy để
hạn chế rủi ro thanh toán, cũng như duy trì được tính bền vững của nợ công, Chính
phủ cần phải luôn giám sát chặt quá trình vay nợ và duy trì ổn định các nguồn thu
của mình; luôn giữ vững tỉ lệ nợ/nguồn thu ở dưới các ngưỡng an toàn mà IMF
khuyến cáo. Ngoài ra việc trích lập các quỹ trả nợ cũng rất quan trọng, quỹ này nên
được tạo lập từ chính nguồn thu nhập của các dự án đầu tư mà sử dụng nguồn vốn
vay nợ công, như thế vừa đánh giá được hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, vừa có
nguồn thu tài chính để giúp giảm nợ hiệu quả. Trên thực tế, theo các đánh giá của
nhiều công trình trong mấy năm gần đây, rủi ro thanh toán của Việt Nam vẫn đang
giữ được mức khá thấp, nợ công vẫn trong trạng thái bền vững127. Việc thành lập
Quỹ tích lũy trả nợ tháng 1 năm 2013128 vừa qua là một bước tiến lớn trong quản lý
nợ của Chính phủ, qua đó đảm bảo cho khả năng giảm nợ tích cực trong tương lai,
cũng như thể hiện quyết tâm kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu và hiệu quả sử dụng 125 “Revisiting the debt sustainability framework for low-income countries”, International Monetary Fund,
năm 2012. 126 Chỉ số chính sách quản lý nợ CPIA cho biết mức độ hiệu quả của các chiến lược quản lý nợ trong việc
giảm thiểu rủi ro ngân sách, cũng như đảm bảo tính bền vững của nợ dài hạn. Thang đo từ 1 (chính sách yếu
nhất) cho đến 6 (chính sách mạnh nhất). Với CPIA ≥ 3.75 được coi là chính sách mạnh. Việt Nam có CPIA
giữ ổn định ở mức 4 trong suốt từ 2008-2011. 127 Số liệu ước lượng có thể xem thêm ở: Vũ Thành Tự Anh, “Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam”,
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbỉght, năm 2012. Hoặc “Vietnam debt sustainability analysis”,
International Monetary Fund, năm 2012. 128 Quyết định 01/2013/QĐ-TTg, “Ban hành quy chế lập, sử dụng và quản lý quỹ tích lũy trả nợ”, có hiệu
lực từ ngày 1/3/2013.
74
vốn trong các dự án sử dụng nguồn vay lại và bảo lãnh của Chính phủ.
Phát triển thị trường nợ trong nước
Trong các văn bản hướng dẫn quản lý nợ công của IMF, cũng như trong các
phân tích về rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia, chúng ta đều thấy có mặt của thị
trường nợ trong nước như một kênh dẫn vốn quan trọng và an toàn. Thực tiễn đã
chứng minh nhiều quốc gia đã hạn chế được đáng kể rủi ro của Khủng hoảng nợ,
điển hình như Nhật Bản hay Brazil, chỉ bằng cách tăng tỉ trọng của các khoản nợ
trong nước và tăng cường phát triển thị trường nợ nội địa. Vì vậy, điều này đặt ra
tính cần thiết phải phát triển thị trường nợ trong nước nói chung, và thị trường trái
phiếu Chính phủ nói riêng cho nhu cầu vốn của Việt Nam hiện nay, cũng như để
giảm thiểu các rủi ro về vay nợ nước ngoài (như rủi ro tỉ giá, rủi ro thanh khoản,….).
Ngoài ra, một khi thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển, nó cũng sẽ là động lực
để thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, giúp các doanh
nghiệp tiếp cận tốt hơn với các nguồn vốn vay trong nước, hạn chế được sự phụ
thuộc vào các nguồn vốn vay ngân hàng và vay nước ngoài.
Nhìn toàn cảnh thị trường nợ trong nước mấy năm gần đây, đặc biệt là thị
trường trái phiếu Chính phủ, chúng ta nhận thấy những thành quả đáng tự hào trong
việc phát triển thị trường này như một kênh dẫn vốn quan trọng. Những thành quả
đạt được thể hiện qua các tín hiệu tích cực như:
-Quy mô huy động bằng trái phiếu nội tệ tăng dần: Theo các báo cáo của ADB129,
giai đoạn 2010-2012 đánh dấu sự tăng lên nhanh chóng của quy mô các khoản huy
động bằng nội tệ của trái phiếu Chính phủ. Tính đến tháng 4 năm 2011, tổng giá trị
của trái phiếu Chính phủ huy động nội tệ mới chỉ đạt con số 14.2 tỉ USD; thì đến
cuối tháng 12 năm 2012, con số này đã chạm mức 25 tỉ USD. Với tốc độ tăng
trưởng thị trường trái phiếu nội tệ năm 2012 gần 43% so với cùng kỳ năm trước(mà
phần lớn là đóng góp của trái phiếu Chính phủ), Việt Nam đã trở thành thị trường có
tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. 129 Số liệu dựa trên sự tổng hợp của các báo cáo: “ASEAN +3: Bond market guide”, Asian Development
Bank, năm 2012 và “Asia bond monitor”, Asian Development Bank, các năm 2011, 2012 và 2013.
75
Biểu đồ 17: Tình hình đấu thầu trái phiếu Kho bạc của Việt Nam giai đoạn
2011-2012130
-Khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của
thị trường nợ trong nước nói chung, và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng.
Mấy năm gần đây, Chính phủ đã rất nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý,
cũng như ban hành thêm nhiều văn bản dưới luật mới để đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng và phức tạp của thị trường trái phiếu trong nước. Dựa trên cơ sở của
Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật Quản lý nợ công năm 2010, Luật Sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Chứng khoán131 đã ra đời, qua đó lược bỏ, cải thiện một
số điểm còn bất cập trong luật năm 2006, cũng như bổ sung thêm nhiều điểm mới
mà luật năm 2006 còn chưa thể hiện chặt chẽ. Ngoài ra còn có hàng loạt các văn
bản dưới luật được ban hành, quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của từng
thành viên tham gia thị trường, cũng như quy định chi tiết vai trò của các cơ quan
quản lý và giám sát: Thông tư Giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường
chứng khoán132, Thông tư Hướng dẫn về giao dịch chứng khoán133, Thông tư Quy
130 Số liệu được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo “Asian bond monitor” của ADB từ năm 2011 đến
2012. 131 Luật 62/2010/QH12, có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. 132 Thông tư 13/2013/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 8/3/2013.
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
Mar-2
01
1
May-2
01
1
Jul-2
01
1
Sep-2
01
1
No
v-20
11
Mar-2
01
2
May-2
01
2
Jul-2
01
2
Sep-2
01
2
No
v-20
12
Treasury bonds (billions vnd)
Treasury bonds (billions vnd)
76
định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh
chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính134,…. Tương tự, dựa trên
các điều luật bổ sung của Luật Chứng khoán, nhiều văn bản dưới luật đối với thị
trường trái phiếu nói riêng cũng liên tục được sửa đổi và cập nhật, qua đó phân biệt
được rạch ròi trách nhiệm và quyền hạn của từng loại chủ thể phát hành trái phiếu,
cũng như cung cấp các quy định cụ thể trong quản lý các giao dịch trái phiếu trên
thị trường: Thông tư Hướng dẫn về phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh135,
Thông tư Hướng dẫn phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tại thị trường
trong nước136, Thông tư Hướng dẫn quản lý giao dịch trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương137,….. Đánh
giá chung, hệ thống văn bản luật đối với thị trường nợ trong nước của Việt Nam đã
khá hoàn chỉnh và theo sát thị trường.
-Đã có hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ chuyên biệt138: Hệ thống đấu thầu
trái phiếu Chính phủ chuyên biệt điện tử đã được Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
triển khai thành công kể từ ngày 6/8/2012. Ngay sau đó là việc tín phiếu kho bạc
được đưa ra giao dịch thành công trên thị trường thứ cấp ngày 28/4/2012. Tiếp nối
thành công đó, Hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ phiên bản 2 đã được khai
trương ngày 6/3/2013, đây là một hệ thống đã tích hợp rất đầy đủ các công nghệ về
hệ thống thông tin trái phiếu, hệ thống đường cong lợi suất, bond website, hệ thống
giao dịch tín phiếu kho bạc……cùng với nhiều tính năng nổi trội phục vụ cho nhiều
loại giao dịch, bao gồm giao dịch đa thị trường, giao dịch đa tiền tệ, giao dịch repo
nhiều mã,… qua đó giúp thị trường trái phiếu Chính phủ càng tiến gần hơn đến các
chuẩn mực của quốc tế.
-Thị trường đang được định hướng đúng đắn: Việc định hướng cho thị trường trái
133 Thông tư 74/2011/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 1/8/2011. 134 Thông tư 226/2010/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 1/4/2011. 135 Thông tư 34/2012/TT-BTC, có hiệu tực từ ngày 18/4/2012. 136 Thông tư 81/2012/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 10/7/2012. 137 Thông tư 234/2012/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 18/3/2013. 138 Theo tin của Tạp chí tài chính: http://www.tapchitaichinh.vn.
77
phiếu trong nước cho năm 2013 nói riêng, cũng như tầm nhìn đến năm 2020 nói
chung đã được Bộ Tài chính xúc tiến thực hiện, thông qua việc ban hành Quyết định
Phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020139. Quyết
định bao gồm các hướng dẫn, quy định chi tiết về: định hướng phát triển thị trường,
mục tiêu cụ thể, lộ trình thực hiện và trách nhiệm của các đơn vị liên quan. Trong
đó các giải pháp được đưa ra trong Quyết định mang tính toàn diện và đồng bộ, từ
khuôn khổ pháp lý cho tới kế hoạch phát triển thị trường sơ cấp, thứ cấp. Phân khúc
trái phiếu doanh nghiệp cũng được Bộ quan tâm một cách đúng đắn và cũng có các
phương án phát triển riêng. Riêng lộ trình thực hiện được lên kế hoạch khá tỉ mỉ, chi
tiết đến từng đơn vị chủ trì, cũng như các đơn vị phối hợp và khung thời gian triển
khai140. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc phát triển thị trường
trái phiếu thành một “kênh huy động vốn quan trọng, an toàn, hiệu quả cho nền kinh
tế” như trong mục tiêu đã đề ra. Về phía Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (viết tắt
là HNX) và Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (viết tắt là VBMA), được sự
định hướng từ Bộ tài chính, hai tổ chức này cũng đang có những kế hoạch hành
động chi tiết cho năm 2013 nhằm thúc đẩy thị trường phát triển sôi động hơn.
Chẳng hạn, VBMA đang khẩn trương xây dựng trung tâm thông tin cho trái phiếu
doanh nghiệp, xây dựng Cẩm nang tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp, xây
dựng các hợp đồng repo, nhân rộng dự án BOM141,… HNX thì tiếp tục nghiên cứu
nâng cấp và phát triển hệ thống đường cong lợi suất, nghiên cứu các sản phẩm mới
when-issued hay cross-currency repos, nghiên cứu triển khai chỉ số trái phiếu, liên
kết hệ thống với Bloomberg,…. Như vậy có thể nói, thị trường trái phiếu Việt Nam
trong tương lai đang được phát triển đúng hướng nhờ tầm nhìn chiến lược của
Chính phủ, cũng như sự nỗ lực của các đơn vị liên quan.
139 Quyết định 261/QĐ-BTC, ký ngày 1/2/2013. 140 Chẳng hạn, về kế hoạch hoàn thiện tất cả khuôn khổ pháp lý sẽ được dự kiến thực hiện trong giai đoạn
2012-2018. Riêng việc ban hành cơ chế, chính sách về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty định mức
tín nhiệm sẽ giao cho Vụ Tài chính ngân hàng chủ trì, đơn vị phối hợp là Ủy ban chứng khoán, Cục Tài chính
doanh nghiệp và Vụ Pháp chế hỗ trợ, và sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2012-2013. 141 BOM là viết tắt của Bộ cẩm nang hoạt động tác nghiệp giao dịch trái phiếu.
78
Những thành tựu đã đạt được của thị trường trái phiếu Việt Nam cho thấy
thành công bước đầu trong nỗ lực thực hiện mục tiêu “tăng tỉ trọng dư nợ trái phiếu
lên 38% GDP đến năm 2020” của Chính phủ, cũng như quyết tâm biến thị trường
này thành một kênh vay nợ an toàn và quan trọng thay thế nguồn vay nợ nước ngoài
trong tương lai. Việc cần làm của Chính phủ bây giờ chỉ là, phối hợp với các đơn vị
liên quan để cùng nhau xúc tiến những mục tiêu và kế hoạch đã đề ra; tiếp tục đưa
ra các định hướng mới và tầm nhìn xa hơn cho thị trường trái phiếu Việt Nam, dựa
trên việc xem xét những gì còn hạn chế và những gì chưa làm được. Để thực hiện
được điều này, Chính phủ nên quan sát và học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường trái
phiếu phát triển trong khu vực như Nhật Bản hay Trung Quốc; hoặc dựa trên các
phân tích báo cáo chi tiết của các tổ chức uy tín trên thế giới, chẳng hạn như ABD,
Moody’s hay S&P, để từ đó đưa ra lộ trình đúng đắn. Ví dụ, theo như ADB142, một
số điểm lớn còn hạn chế của thị trường trái phiếu Việt Nam tính đến năm 2012 so
với khu vực, cần được thay đổi là:
-Việt Nam đã có khái niệm về Bondholder Meeting nhưng chưa thực hiện được một
cách có hệ thống; chưa có khái niệm về Commissioned company, Bond
representative hay Trustee.
-Việt Nam chưa có các quy định về tín nhiệm đối với việc phát hành trái phiếu.
Trung tâm định mức tín nhiệm Việt Nam thành lập năm 2005 bị tạm dừng sau 1
năm hoạt động.
-Việt Nam chưa nghiên cứu sử dụng các loại hợp đồng Global Master Repo, ISDA
Master; chưa có thị trường hoàn chỉnh cho các hợp đồng hoán đổi lãi suất, hợp đồng
tương lai.
-Việt Nam nên miễn trừ thuế đối với các hình thức nắm giữ trái phiếu; nên sử dụng
tiêu chuẩn kiểm toán ISA, tiêu chuẩn kế toán IFRS143 đối với các hoạt động chào
bán trái phiếu xuyên quốc gia.
Ngoài ra cũng còn có nhiều hạn chế khác chúng ta cần phải quan tâm và khắc 142 “ASEAN +3: Bond market guide”, Asian Development Bank, năm 2012. 143 Đây là các tiêu chuẩn kiểm toán và tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế.
79
phục trong tương lai.
Đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao hiệu quả đầu tư công
Tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu là việc tạo ra nhiều của cải kinh tế hơn
nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội. Để đạt được tăng trưởng kinh tế, một quốc gia có
thể lựa chọn cách thức: tăng trưởng theo chiều rộng (gia tăng các yếu tố đầu vào
như vốn, lao động,…); hoặc tăng trưởng theo chiều sâu (nâng cao hiệu quả kỹ thuật,
hiệu quả phân bổ, phát triển khoa học công nghệ…). Theo báo cáo của Ủy ban kinh
tế144, nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn đang tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng,
phần lớn dựa vào việc liên tục gia tăng các nguồn lực đầu vào, đặc biệt là thâm
dụng vốn đầu tư145. Trong khi đó, chúng ta vẫn đang là quốc gia có thu nhập trung
bình thấp nên tỉ lệ tiết kiệm không cao. Hệ thống các doanh nghiệp còn yếu nên
việc đầu tư vẫn chủ yếu dựa vào đầu tư công và đầu tư nước ngoài. Sự phụ thuộc
quá lớn vào vốn đầu tư để tăng trưởng dẫn tới việc, muốn duy trì mức tăng trưởng
cao, quốc gia buộc phải gia tăng đầu tư công và phụ thuộc hơn vào nguồn vốn nước
ngoài. Khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu suy giảm hoặc không ổn
định, Chính phủ buộc phải chấp nhận thâm hụt ngân sách để duy trì mức độ tăng
trưởng. Như vậy có thể nói, mô hình tăng trưởng kiểu cũ chính là một trong các
“mầm mống” của thâm hụt ngân sách Chính phủ, cũng như gia tăng vay nợ nước
ngoài.
Dựa trên các phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy việc thay đổi mô hình tăng
trưởng là một trong các vấn đề cần phải giải quyết để hướng tới mục tiêu tăng
trưởng bền vững nói chung, cũng như giảm thiểu nguy cơ Khủng hoảng nợ quốc gia
nói riêng. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng và mang tầm vĩ mô, cần phải có
những chiến lược dài hạn và những cải cách mang tính toàn diện trên nhiều mặt như
kinh tế, chính trị, pháp luật,…. do vậy sẽ vượt quá khuôn khổ của bài nghiên cứu.
Chúng tôi sẽ chỉ đề xuất chính sách xoay quanh một khía cạnh nhỏ trong mục tiêu
144 Báo cáo kinh tế vĩ mô, “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”, Ủy ban kinh tế ECNA, năm 2012. 145 Theo số liệu của Ủy ban kinh tế, vốn chiếm tới 84.1% tỉ trọng trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
năm 2009.
80
giảm thiểu rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia, cũng như làm tăng chiều sâu của tăng
trưởng, đó chính là vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Do nợ công là một trong những nguồn cấu thành nên đầu tư công146, do vậy
việc tăng hiệu quả đầu tư công không những góp phần làm tăng chiều sâu của tăng
trưởng, mà còn tạo ra dòng tiền ổn định để đảm bảo cho việc trả nợ công. Thông
thường để đánh giá hiệu quả đầu tư công, chúng ta có thể đánh giá một cách đơn
giản thông qua tính hệ số ICOR147 cho từng giai đoạn. Nhìn vào số liệu của ICOR
mấy năm gần đây (giai đoạn 2006-2010), có thể thấy đầu tư công ở Việt Nam đang
có xu hướng giảm tính hiệu quả, đặc biệt là chỉ bằng một nửa so với khu vực ngoài
nhà nước.
Bảng 18: Chỉ số ICOR của Việt Nam qua từng giai đoạn148
Lý giải cho vấn đề đầu tư kém hiệu quả có thể có rất nhiều nguyên nhân, tuy
nhiên theo theo chúng tôi, có 3 nguyên nhân cơ bản sau:
-Đầu tư dàn trải: Tính quân bình trong phân bổ vốn ngân sách đã hạn chế khả năng
tập trung vốn đầu tư vào những vùng có lợi thế địa lý-kinh tế-chính trị cao, làm hạn 146 Theo Ủy ban kinh tế, năm 2010, khoảng 36.6% tỉ trọng trong vốn đầu tư công là từ vốn vay nợ công. 147 Viết tắt của Incremental Capital Output Ratio, được tính bằng tỉ lệ giữa sự thay đổi trong đầu tư ở thời kỳ
trước và sự thay đổi trong đầu ra ở thời kỳ sau (theo World Bank). 148 Theo Bùi Trinh (2011).
81
chế hiệu quả đồng vốn. Chẳng hạn theo Tiến sĩ Võ Đại Lược149, hai tuyến phát triển
Hà Nội-Hải Phòng và Hồ Chí Minh-Vũng Tàu tập trung tới 80% giá trị sản lượng
công nghiệp của cả nước nhưng cho đến nay vẫn chưa có đường bộ cao tốc hay
đường sắt tốc độ cao…. Ngoài ra đầu tư dàn trải còn khiến việc đầu tư trở nên: (i)
thiếu dứt điểm do nhiều dự án bị thiếu vốn dẫn đến đình trệ, chậm tiến độ gây lãng
phí tiền của nhà nước; (ii) thiếu đồng bộ dẫn tới hiệu quả bổ trợ lẫn nhau giữa các
dự án không cao, không hoạt động được hết công suất.
-Hạn chế về mặt quản lý địa phương: Ngoại trừ những dự án lớn do Trung ương
quản lý và giám sát, thì những dự án nhỏ (thường có quy mô trên 200 tỉ đồng) sẽ
được phân chia cho các địa phương tự xét duyệt và triển khai. Do số lượng dự án
nhỏ khá lớn nên việc giám sát, kiểm soát của cơ quan Trung ương không thể sâu sát
và chỉ mang tính hình thức. Điều này khiến việc quản lý sử dụng đồng vốn ở cấp
địa phương trở nên kém hiệu quả.
-Hạn chế về quản lý các doanh nghiệp nhà nước: Các doanh nghiệp nhà nước (viết
tắt là DNNN) là một trong các đơn vị sử dụng vốn nhà nước, cũng như các khoản
vay bảo lãnh của Chính phủ khá lớn. Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các DNNN, thiếu đi các cơ chế thẩm định và giám sát chặt chẽ của Chính phủ
đã khiến khiến việc đầu tư của khu vực này trở nên kém hiệu quả và thường xuyên
thua lỗ.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư công, dựa trên việc phân tích 3 nguyên
nhân cơ bản ở trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp chính sách như:
-Cần đánh giá lại hiệu quả đầu tư công: Việc cần làm nhất hiện nay đó là đánh giá
lại một cách chính xác tình hình hiệu quả đầu tư công ở nước ta. Các chỉ tiêu về
ICOR thường quá đơn giản và mang nhiều hạn chế, khó phản ánh được chính xác
hiệu quả đầu tư công150. Chúng tôi khuyến nghị việc dùng Chỉ số hiệu quả đầu tư
149 Võ Đại Lược, “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý đầu tư công trong quá trình tái cấu trúc đầu tư công”,
Viện kinh tế và chính trị thế giới, năm 2012. 150 Chỉ số ICOR còn quá đơn giản để có thể phản ánh hết hiệu quả đầu tư công, do có nhiều hạn chế như: (i)
nhiều dự án đầu tư mà dòng tiền chỉ tạo ra sau một thời gian dài; (ii) không phải tất cả đồng vốn đầu tư đều
82
công151 để có cái nhìn rõ hơn về đầu tư công, cũng như có thể làm thước đo trung
gian trong việc so sánh với hiệu quả đầu tư công ở các quốc gia khác trong khu vực.
Chỉ số này sẽ được tính dựa trên việc cho điểm 4 tiêu chí: Định hướng chiến lược
và thẩm định dự án; Lựa chọn dự án và lên kế hoạch ngân sách; Thực thi dự án;
Đánh giá dự án và kiểm toán. Nếu một tiêu chí có điểm số thấp hơn so với các nước
khác trong khu vực, thì tức là tiêu chí đó còn có nhiều yếu kém và cần phải xem xét
cải thiện. Chỉ số tổng hợp từ cả 4 tiêu chí phản ánh hiệu quả đầu tư công của cả
quốc gia. Chẳng hạn tính đến năm 2011, Thái Lan đang có điểm Chỉ số hiệu quả
đầu tư công là 2.87 và Lào là 0.90.
-Đầu tư tập trung và đồng bộ: Cần tăng tỉ trọng đầu tư công vào những vùng có ưu
thế về địa lý-kinh tế-chính trị; tăng tỉ trọng đối với những dự án trọng điểm, có khả
tạo ra hiệu quả kinh tế cao và ảnh hưởng lớn tới xã hội. Đối với các dự án còn đang
chậm tiến độ hoặc đình trệ, cần đưa ra bộ tiêu chí để đánh giá tầm quan trọng và
tính khả thi của từng dự án theo mức độ từ cao đến thấp, rồi có thể đưa ra quyết
định như rút vốn đầu tư ở những dự án ít quan trọng để tập trung vốn hoàn thành
dứt điểm những dự án quan trọng; hoặc thay thế nhà thầu hiện tại bằng các nhà thầu
khác có năng lực hơn. Tăng tính đồng bộ trong đầu tư công, tránh đầu tư manh
múm, cục bộ làm các dự án triển khai không phát huy được hết hiệu xuất sử dụng
(chẳng hạn đầu tư xây dựng cầu cảng thì cũng cần đầu tư về đường cao tốc xung
quanh khu vực đó,….)
-Tăng đầu tư cho phát triển khoa học-kỹ thuật-con người: Đầu tư cho khoa học kỹ
thuật và con người có thể không đem lại lợi ích kinh tế trong ngắn hạn, nhưng trong
dài hạn, đây sẽ là tiền đề để chúng ta có thể xúc tiến các dự án đầu tư hàm lượng
chất xám cao, cũng như hiệu quả kinh tế lớn. Ngoài ra, khi khoa học kỹ thuật và con
người phát triển, đến lượt nó lại sẽ hỗ trợ hiệu quả đầu tư công, thông qua việc tăng
nhất thiết chuyển thành tài sản đầu ra hữu hình; (iii) không phải tất cả các dự án đầu tư đều là đầu tư cho sản
xuất. 151 Chỉ số được đề xuất trong công trình: Era Dabla-Norris et al, “Investing in public investment: an index of
public investment efficiency”, International Monetary Fund, năm 2011.
83
hiệu quả quy hoạch, tăng năng xuất lao động, rút ngắn thời gian triển khai dự án,….
-Tăng cường quản lý vốn cấp địa phương và DNNN: Cần tăng cường giám sát hơn
nữa đối việc sử dụng đồng vốn chính phủ ở khu vực DNNN và khu vực chính
quyền địa phương. Không nên “khoán trắng” các dự án cho các chính quyền địa
phương tự quản lý, tự triển khai, tự giám sát, cũng như các dự án của DNNN. Chính
phủ có thể thực hiện điều này, bằng cách tăng cường đội ngũ thanh tra, giám sát đối
với các dự án nhỏ trực thuộc địa phương, các dự án sử dụng nguồn vay bảo lãnh
chính phủ của DNNN; tái cơ cấu DNNN; tăng thêm các chế tài, quy định trong việc
quản lý vốn đầu tư ở 2 khu vực trên, soạn thảo Luật Đầu tư công; tạo điều kiện cho
nhân dân được tham gia giám sát các dự án thuộc chính quyền xã, huyện;…..
3.2.2 Đề xuất chính sách đối với các vấn đề nội tại trong nền kinh tế
Xử lý nợ xấu ở hệ thống ngân hàng
Nợ xấu ở hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang là “cụ máu đông” gây tắc
nghẽn dòng lưu chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm khả năng thanh khoản của
hệ thống. Thông thường nợ xấu hoặc nợ của các ngân hàng thương mại (viết tắt là
NHTM) sẽ không thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của nhà nước; thậm chí nợ của
chính NHNN cũng không được tính vào nợ công (theo định nghĩa nợ công của Việt
Nam). Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, đây chính là các khoản nợ ẩn tiềm tàng,
mà khi hệ thống ngân hàng trở nên yếu kém hoặc lâm vào khủng hoảng, thì chính
nhà nước sẽ là người phải đứng ra cứu cánh. Đến lúc đó, rủi ro của hệ thống ngân
hàng sẽ chuyển thành rủi ro của Khủng hoảng nợ quốc gia, do chi phí để giải quyết
hậu quả của hệ thống là rất lớn. Trong Báo cáo tính bền vững của nợ công Việt
Nam152, chính IMF đã cảnh báo chúng ta rằng “trong trường hợp xấu nhất, các ước
lượng về nợ xấu của toàn hệ thống có thể tăng lên đến 23.5% GDP. Và nếu kịch bản
này xảy ra, nợ công cũng sẽ bị tăng lên tương ứng tới mức 78.5% GDP”. Đây cũng
là 1 trong 2 lý do chính khiến Moody’s153 (sau đó là cả S&P và Fitch) hạ bậc tín
152 “Vietnam debt sustainability analysis”, International Monetary Fund, năm 2012. 153 Báo cáo của Moody’s: “Moody’s downgrades Vietnam’s government bond to B2, outlook stable”,
84
nhiệm đối với trái phiếu Việt Nam, do “những khoản nợ ẩn đang ngày càng tạo rủi
ro hơn đối với ngân sách Chính phủ, bắt nguồn từ những yếu kém trong hệ thống
ngân hàng”. Như vậy, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng là một vấn đề cần giải quyết
trong mục tiêu giảm rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia hiện nay.
Trên thực tế, các phương án giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng được
đề xuất rất đa dạng. Trong số chúng, nhiều phương án đã được đưa vào thực hiện và
thu được một số thành công. Chúng ta có thể dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia
đi trước đã thành công trong xử lý nợ xấu, để từ đó đưa ra phương án phù hợp nhất
cho Việt Nam. Trong số đó có thể kể đến một vài phương án nổi bật như:
-Thành lập công ty quản lý tài sản: Việc thành lập các công ty quản lý tài sản đã
từng được thực hiện ở nhiều quốc gia như Hàn Quốc (công ty KAMCO), Thái Lan
(công ty TAMC), Malaysia (công ty Danhrta),…. Các công ty này sẽ đứng ra mua
lại các khoản nợ xấu từ NHTM với các mức chiết khấu khác nhau tùy thuộc vào
chất lượng khoản nợ đó. Sau đó tiến hành phân loại và dựa vào từng trường hợp cụ
thể sẽ có phương án giải quyết (chẳng hạn bán lại cho các đối tác khác trong nền
kinh tế, đem ra đấu thầu quốc tế,….).
-Thành lập tổ chức tái cấp vốn ngân hàng: Từng được thực hiện ở Indonesia (tổ
chức IBRA), Thái Lan (công ty Danamodal),…Hệ thống các ngân hàng sẽ được
kiểm tra, đánh giá lại về chất lượng và năng lực. Sau đó, các ngân hàng yếu kém sẽ
bị buộc phá sản hoặc sát nhập với các ngân hàng lớn hơn. Các ngân hàng đủ tiêu
chuẩn còn lại sẽ được tái cấp vốn để tăng quy mô tài sản và tăng tính thanh khoản,
sau đó các khoản nợ xấu sẽ được tự giải quyết theo phương án riêng của từng ngân
hàng (xóa nợ, thương lượng trả nợ,….).
-Thành lập các “ngân hàng xấu” (bad banks): Từng được thực hiện ở Thụy Điển
(ngân hàng Securum), Ireland (ngân hàng NAMA), Đức (ngân hàng BIH),…. Nợ
xấu từ ngân hàng ban đầu sẽ được chuyển sang một ngân hàng mới thành lập (gọi là
ngân hàng xấu), phần tài sản tốt còn lại sẽ được giữ lại và ngân hàng ban đầu tiếp
Moody’s Investors Service, năm 2012.
85
tục công việc cho vay của mình (giờ được gọi là ngân hàng tốt). Ngân hàng xấu, với
sự trợ giúp vốn từ Chính phủ, sẽ tiến hành xử lý các khoản nợ xấu này (bán lại nợ,
siết tài sản thế chấp, thương lượng đòi nợ….). Mục đích của việc làm này là khiến
các ngân hàng ban đầu, vốn đang gặp khó khăn với các khoản nợ xấu, trở thành một
ngân hàng tốt và tạo lập lại được lòng tin đối với nền kinh tế, để có thể tiếp tục lại
hoạt động cho vay của mình.
Việc chúng ta cần làm bây giờ chỉ là đánh giá một cách thận trọng tình hình
hiện tại của nền hệ thống ngân hàng để chọn ra phương án áp dụng phù hợp. Nếu cứ
để tình trạng nợ xấu quá kéo dài thì cái giá phải trả sẽ là không nhỏ đối với ngân
sách Chính phủ154.
Tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là các doanh nghiệp sử dụng một phần hoặc toàn bộ
vốn nhà nước, cũng như các khoản vay bảo lãnh của Chính phủ để đầu tư, kinh
doanh. Vì vậy, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến vốn và thu ngân sách của Chính phủ cũng như tình hình nợ công (do vay
bảo lãnh của Chính phủ sẽ được tính vào nợ công). Nhiều DNNN hoạt động theo
nguyên tắc “tự vay-tự trả”, tuy nhiên vì quy mô cũng như tầm quan trọng của ngành
nghề mà doanh nghiệp đó đang hoạt động, nên nhiều trường hợp DNNN làm ăn
thua lỗ, Chính phủ vẫn phải đứng ra cứu cánh. Vì vậy có thể nói, hiệu quả hoạt
động của các DNNN cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro Khủng hoảng nợ
quốc gia. Trong Báo cáo tính bền vững của nợ công Việt Nam155, IMF cũng đề cập
đến sự kém hiệu quả trong hoạt động của các DNNN có thể tạo ra nguồn nợ ẩn đáng
kể đe dọa đến tính bền vững của nợ công quốc gia. Moody’s thì hạ bậc tín nhiệm
của trái phiếu Chính phủ Việt Nam năm 2010156 với lý do “các doanh nghiệp công
154 Theo Dziobek và Pazarasioglu (1998), việc xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Kuwait năm
1992 diễn ra chậm chạp đã khiến Chính phủ tiêu tốn hết 45% GDP chi ngân sách (không bao gồm các khoản
thu hồi chi phí), trường hợp của Chi lê năm 1983 là 33% GDP với tiến độ trung bình. 155 “Vietnam debt sustainability analysis”, International Monetary Fund, năm 2012. 156 Báo cáo của Moody’s: “Moody’s lowers Vietnam’s rating to B1; maintain negative outlook”, Moody’s
Investors Service, năm 2010.
86
đang làm tăng thêm nguồn nợ ẩn cho cán cân ngân sách Chính phủ” và “việc vỡ nợ
nước ngoài của Vinashin có thể làm khả năng vay nợ nước ngoài của Chính phủ
trong tương lai trở nên khó khăn hơn”. Tóm lại, việc tái cấu trúc các DNNN là việc
quan trọng cần làm thứ hai hiện nay trong mục tiêu giảm rủi ro Khủng hoảng nợ
quốc gia, cũng như tăng hiệu quả đầu tư công.
Cũng giống như vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng, vấn đề tái cơ cấu DNNN
cũng cần phải được tiến hành một cách thận trọng và cân nhắc dựa trên nhiều lý
thuyết kinh tế khác nhau. Trong đó có thể tập trung vào một số mục tiêu như:
-Cần tách bạch rõ ràng các DNNN hoạt động vì mục đích lợi nhuận với các DNNN
hoạt động vì mục đích điều tiết vĩ mô. Nếu các DNNN thực hiện cả 2 mục đích này
sẽ dẫn đến việc hoạt động không hiệu quả và gây ra mâu thuẫn lợi ích.
-Đối với các ngành ít quan trọng, không phải là xương sống của quốc gia thì Chính
phủ có thể tiến hành cổ phần hóa các DNNN hoạt động trong ngành, nhằm mục
đích tự do hóa thị trường, đối xử với các DNNN tương đương như các thành phần
kinh tế khác trong xã hội, tránh đặc quyền, đặc lợi.
-Nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động ở các DNNN; tăng cường
minh bạch thông tin, cũng như tăng cường các hoạt động giám sát của nhà nước,
đặc biệt là với các DNNN sử dụng nguồn vay bảo lãnh của Chính phủ.
-Nhà nước cần thoái vốn hơn nữa đối với nhiều DNNN để tạo thêm cơ hội đầu tư
cho khu vực tư nhân, cũng như để các DNNN được vận động theo cơ chế thị trường.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phân biệt rõ các khoản vay bảo lãnh, với các khoản
vay “tự trả” của DNNN, để tránh sự ỷ lại và tạo ra gánh nặng cho nợ công quốc gia.
Nếu đề án tái cơ cấu các DNNN được thực hiện thành công, thì trong tương lai,
hiệu quả đầu tư công của quốc gia sẽ được cải thiện đáng kể, cũng như định mức tín
nhiệm trái phiếu Việt Nam sẽ có triển vọng thoát khỏi nhóm B để trở thành trái
phiếu có mức an toàn cao hơn-trái phiếu nhóm A.
87
PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc Khủng hoảng nợ công châu Âu đang càng ngày lan rộng trên toàn bộ khu
vực đồng tiền chung và vẫn không có dấu hiệu dừng lại bất chấp nhiều biện pháp
khắc khổ và cứu trợ đã được đưa ra. Mới đây nhất, Síp đã trở thành nạn nhân tiếp
theo trong cơ bão khủng hoảng này, đánh dấu sự bắt đầu cho một thời kỳ đen tối của
nền kinh tế Síp và càng làm rạn nứt thêm mối quan hệ giữa các quốc gia khu vực
Eurozone vốn đã sứt mẻ từ năm 2010. Sức mạnh tàn phá và những ảnh hưởng sâu
rộng, lâu dài của nó lên cả hệ thống kinh tế-chính trị-xã hội của khu vực Euro càng
cảnh báo chúng ta rằng: cần phải có một công cụ nào đó để có thể dự báo trước
được những cuộc Khủng hoảng nợ như vậy, hay ít nhất là đưa ra được những “tín
hiệu” của sự bất ổn trong nền kinh tế, để từ đó Chính phủ có thể kịp thời can thiệp,
tránh rơi vào tình trạng kiệt quệ như Hy Lạp hay Italia hiện nay. Sự thất bại của
nhiều mô hình cổ điển trong việc dự báo cuộc Khủng hoảng nợ năm 2010 đã khiến
chúng tôi thiên về việc lựa chọn các mô hình mới được xây dựng những năm gần
đây và đơn giản về mặt tính toán. Mô hình Signal Approach đã được lựa chọn vì
phù hợp với những tiêu chí như vậy.
Quá trình tính toán trên nền kinh tế Việt Nam đã cho chúng tôi những cảnh báo
rủi ro cao về một cuộc Khủng hoảng nợ có thể xảy ra trong thời gian tới, phù hợp
với nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế. Điều này gợi ý rằng, Chính phủ cần phải
hành động ngay để giảm bớt tình trạng căng thẳng cho nền kinh tế, tránh để những
bất ổn kéo dài có thể tạo ra rủi ro khủng hoảng. Một trong các biện pháp hợp lý nhất
hiện tại đó là: điều chỉnh các bất ổn vĩ mô đã được cảnh báo trong mô hình Signal
Approach trở về dưới ngưỡng an toàn, chẳng hạn như kìm hãm lạm phát xuống
dưới ngưỡng 14%, tăng dự trữ ngoại hối ít nhất là 12%, kìm hãm mức độ phá giá
vnd xuống dưới 10%,…..
Cũng cần phải nói thêm rằng, những biện pháp tức thời thì cũng chỉ thu được
các kết quả tức thời. Để có thể giảm thiểu rủi ro Khủng hoảng nợ trong dài hạn,
cũng như ổn định được nền kinh tế vĩ mô một cách lâu dài, Chính phủ cần phải có
88
những chính sách cải tổ toàn diện nền kinh tế trên nhiều mặt. Trong số đó phải kể
đến việc tăng cường phát triển thị trường nợ trong nước, thay đổi mô hình tăng
trưởng, cải tổ hệ thống ngân hàng và tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước. Đây là
những vấn đề cốt lõi mà nếu chúng ta có thể thực hiện thành công, Việt Nam sẽ sớm
đạt được tăng trưởng nhanh và bền vững, cũng như được nâng bậc tín nhiệm bởi
nhiều tổ chức trên thế giới; rủi ro Khủng hoảng nợ cũng vì thế sẽ trở thành vấn đề
không còn đáng lo ngại nữa.
i
Phụ lục 1: Một vài định nghĩa Khủng hoảng nợ tiêu biểu1
Định nghĩa của Fuertes và Kalotychou: Các ông cho rằng một quốc gia lâm
vào Khủng hoảng nợ nếu xảy ra đồng thời 2 sự kiện sau:
i/ Độ tăng của khoản tiền không trả được (arrears) vượt quá ngưỡng cho
phép so với tổng nợ nước ngoài.
ii/ Một hợp đồng hoãn nợ được thực hiện và tổng số nợ được hoãn vượt quá
độ giảm của khoản tiền không trả được.
Định nghĩa của Ciarlone và Trebeschi: Các ông cho rằng một quốc gia lâm
vào Khủng hoảng nợ nếu xảy ra ít nhất 1 trong 4 sự kiện sau:
i/ Quốc gia đó chính thức tuyên bố tạm hoãn trả nợ công hoặc nợ nước ngoài,
hay ký vào một hợp đồng tái cấu trúc nợ hoặc hợp đồng hoãn nợ với các chủ
nợ.
ii/ Quốc gia đó không trả được nợ lãi và/hoặc nợ gốc của nợ nước ngoài, với
số lượng vượt quá 5% các dịch vụ nợ (debt service) phải trả hằng năm.
iii/ Quốc gia đó có tổng khoản tiền không trả được lũy kế vượt quá 5% tổng
nợ nước ngoài.
iv/ Quốc gia đó phải nhận sự hỗ trợ lớn từ IMF, với định nghĩa “sự hỗ trợ lớn”
ở đây là vượt quá 100% hạn ngạch của IMF.
Định nghĩa của Beer và Chamber: Đây cũng chính là định nghĩa được sử
dụng bởi Standard and Poor’s. Ở đó, các ông định nghĩa một quốc gia lâm
vào Khủng hoảng nợ là khi quốc gia đó thất bại trong việc trả nợ lãi hoặc
nợ gốc đúng hạn được quy định trong hợp đồng ban đầu. Cụ thể hơn, Khủng
hoảng nợ quốc gia là khi xảy ra ít nhất một trong các sự kiện sau:
i/ Đối với trái phiếu, giấy tờ có giá và tín phiếu (nội tệ và ngoại tệ) phát hành
bởi Chính phủ và được nắm giữ bên ngoài khu vực công của quốc gia.
Khủng hoảng nợ xảy ra khi Chính phủ thất bại trong việc chỉ trả các dịch vụ
1 Do nhóm nghiên cứu tổng hợp và dịch từ nhiều công trình khác nhau.
ii
nợ đúng hạn, hoặc đề nghị hoán đổi bằng nợ mới với các điều khoản ít ưu đãi
hơn so với ban đầu.
ii/ Đối với các nghĩa vụ nợ bằng nội tệ phát hành bởi Ngân hàng trung ương,
Khủng hoảng nợ xảy ra khi giấy bạc được chuyển đổi sang một loại tiền tệ
mới có mệnh giá thấp hơn so với ban đầu.
iii/ Đối với các khoản vay ngân hàng khu vực tư của Chính phủ, Khủng
hoảng nợ xảy ra khi Chính phủ thất bại trong việc chi trả các dịch vụ nợ đúng
hạn, hoặc thương lượng với các chủ ngân hàng về một kế hoạch hoãn nợ với
các điều khoản ít ưu đãi hơn so với ban đầu.
Định nghĩa của Moody’s: Moody’s định nghĩa một quốc gia lâm vào Khủng
hoảng nợ khi xảy ra ít nhất 1 trong 3 sự kiện sau:
i/ Quốc gia đó chậm trả hoặc hoãn trả nợ đối với các khoản tiền nợ lãi và nợ
gốc được quy định trong hợp đồng.
ii/ Quốc gia đó đề xuất một sự hoán đổi bằng (1) nợ mới, nợ được tái cấu
trúc, hoặc một gói chứng khoán mới, tài sản hoặc hiện vật mà giá trị tài chính
của nó thấp hơn so với giá trị tài chính của nghĩa vụ nợ ban đầu; và (2) sự
hoán đổi giúp quốc gia đó tránh được sự vỡ nợ trong tương lai.
iii/ Quốc gia đó đề xuất thay đổi các điều khoản chi trả trong hợp đồng nhằm
mục đích giảm giá trị tài chính của các nghĩa vụ nợ, chẳng hạn như bằng một
loại tiền tệ có mệnh giá khác hoặc thay đổi kỳ hạn, thay đổi chỉ số của hợp
đồng ban đầu.
Định nghĩa của Fitch: Fitch định nghĩa một quốc gia lâm vào Khủng hoảng
nợ khi xảy ra ít nhất 1 trong 3 sự kiện sau:
i/ Quốc gia đó thất bại trong việc chi trả các khoản nợ lãi và/hoặc nợ gốc
đúng hạn.
ii/ Các nghĩa vụ nợ bằng ngoại tệ khác của quốc gia đó, chẳng hạn các khoản
nợ với Câu lạc bộ Paris hoặc Câu lạc bộ Luân Đôn, bị Fitch xếp hạng là “vỡ
nợ”.
iii
iii/ Quốc gia đó đề xuất hoán đổi nghĩa vụ nợ bằng chứng khoán với giá trị
tài chính thấp hơn so với nghĩa vụ nợ ban đầu.
Định nghĩa của Lestano và Kuper: Các ông cho rằng, một quốc gia lâm vào
Khủng hoảng nợ nếu ít nhất 1 trong 3 sự kiện sau xảy ra:
i/ Một kế hoạch hoãn nợ và xác định lại thời điểm trả nợ được thông qua.
ii/ Một thỏa thuận upper-tranche của IMF được thực hiện.
iii/ Tổng số tiền không trả được lũy kế vượt quá một ngưỡng xác định trước.
Ngoài các định nghĩa nổi bật được nêu ở trên, định nghĩa Khủng hoảng nợ cũng
được nhiều học giả khác nghiên cứu và đưa ra như Berg và Sachs (1988), Lee
(1991), Beim và Calomiris (2000) hay Marchesi (2003),…. Tùy mục đích nghiên
cứu và đứng trên các góc độ khác nhau mà chúng ta sử dụng các định nghĩa khác
nhau. Tính cho đến thời điểm hiện tại, định nghĩa được sử dụng rộng rãi và nhiều
nhất hiện nay chủ yếu vẫn là định nghĩa của Standard and Poor’s và định nghĩa của
Manasse và Roubini (2008) do bộ số liệu về Khủng hoảng nợ theo các định nghĩa
này là đầy đủ nhất.
iv
Phụ lục 2: Một vài cuộc khủng hoảng nợ tiêu biểu
Trong lịch sử kinh tế thế giới, các cuộc Khủng hoảng nợ xuất hiện và diễn biến
rất phức tạp. Tùy từng khu vực và tùy từng thời kỳ mà những cuộc Khủng hoảng nợ
khác nhau lại có những nguyên nhân khác nhau. Chính vì vậy, để tìm ra được những
nguyên nhân chung nhất cho sự kiện này, chúng ta cần xem xét qua một vài cuộc
Khủng hoảng nợ tiêu biểu trong lịch sử những năm gần đây.
Khủng hoảng nợ ở các nước quốc gia Mỹ Latin (1982)
Trong những năm đầu của thập kỷ 70, giá dầu thế giới liên tục tăng mạnh, điều
này khiến nhiều quốc gia trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu (OPEC) trở nên
giàu có. Các quốc gia OPEC liên tục gửi những khoản thặng dư ngoại tệ khổng lồ
của mình vào các ngân hàng quốc tế. Tính đến năm 1974, khoảng 41% thặng dư
ngoại tệ của OPEC được ký gửi ở các ngân hàng2. Trước sức ép tiền gửi ngày một
tăng lên từ phía OPEC, các ngân hàng phải liên tục tìm cho ra các con nợ mới để
cho vay, và Mỹ Latin trở thành mục tiêu đầu tư hàng hàng đầu nhờ sự tăng giá
nguyên liệu thô lúc bấy giờ do các quốc gia này xuất khẩu. Ngược lại, các quốc gia
Mỹ Latin, với nhu cầu lớn về vốn để ổn định nền kinh tế và mở rộng phát triển, coi
các ngân hàng phương Tây như một nguồn vay vốn dồi dào3.
Khi kẻ cho vay thừa tiền và con nợ khát vốn gặp nhau, hàng loạt các hợp đồng
vay nợ đã được ký kết, hầu hết trong số đó là các hợp đồng vay nợ ngắn hạn với lãi
suất ở mức rất thấp và thả nổi. Cứ như vậy, trong khoảng từ năm 1973 đến 1983,
các khoản nợ nước ngoài của Mỹ Latin tăng lên nhanh chóng từ 48 tỉ USD lên đến
350 tỉ USD, chiếm 58% tổng sản phẩm khu vực4. Tuy đang phải gánh một khối nợ
khổng lồ, nhưng trước nguồn vốn vay quá dễ dàng và triển vọng tăng trưởng ấn
tượng, các quốc gia Mỹ Latin liên tục vay nợ nhiều hơn. Còn các ngân hàng thương
2 Robert Devlin và Ricardo French Davis, “The great Latin America debt crises: a decade of asymmetric
adjustment”, Revista de Economia Politica, năm 1995. 3 Jessica Miller, “Solving the Latin American sovereign debt crisis”, Journal of International Economic Law,
năm 2001. 4 Rory Mac Milan, “The next sovereign debt crisis”, Stanford Journal of International Law, năm 1995.
v
mại, do cả tin vào khả năng trả nợ của chính phủ các quốc gia Mỹ Latin, vẫn tiếp
tục cho vay nhiều hơn.
Trong khoảng từ năm 1979 đến năm 1981, giá dầu thế giới tiếp tục tăng nhanh
đẩy nhiều quốc gia nhập khẩu dầu phải tăng vay nợ để thích ứng, trong đó có cả Mỹ
Latin. Đến đầu những năm 1980, thế giới rơi vào tình trạng suy thoái sâu sắc, bảo
hộ mậu dịch ở các nước công nghiệp khiến kim ngạch xuất khẩu ở Mỹ Latin sụt
giảm, khả năng trả nợ của các quốc gia này cũng sụt giảm theo. Và cú sốc xảy ra
khi lãi suất danh nghĩa trên thế giới tăng mạnh sau năm 1979 kết hợp với sự giảm đi
về tỉ lệ lạm phát năm 1982, khiến mức lãi suất cho vay trên thực tế tăng lên đáng kể.
Tình trạng đi vay tiền nước ngoài với lãi suất gần như bằng 0 của những năm đầu
1970 biến mất, thay vào đó, các quốc gia đi vay phải đối mặt với các khoản nợ nước
ngoài đến hạn với lãi suất thực tế trên 10%. Các khối nợ ngày càng lớn, lãi suất vay
nợ cao và các nguồn thu từ xuất khẩu giảm sút khiến tình hình kinh tế Mỹ Latin
nhanh chóng rơi vào suy thoái và bế tắc. Tháng 8 năm 1982, Mexico tuyên bố sẽ
không trả các khoản vay nợ của mình nữa. Sau tuyên bố của Mexico, các quốc gia
khác bao gồm Brazil, Venuezuela, Argentina, và Bolivia cũng tuyên bố họ không
còn khả năng thực hiện các nghĩa vụ nợ với các chủ nợ nước ngoài5 6. Và như vậy,
cuộc Khủng hoảng nợ Mỹ Latin bắt đầu.
Khủng hoảng nợ ở Argentina (2001)
Tình hình kinh tế Argentina vào những năm cuối 1980 vô cùng rối rem. Dưới
quyền lãnh đạo của tổng thống Raul Alfonsin, Argentina phải chịu tình trạng nợ
nước ngoài cao, lạm phát lên tới 200% một tháng và tiền lương thực tế ở mức thấp
nhất trong vòng 50 năm. Điều này kéo theo việc tăng giá của hàng loạt các loại
hàng hóa thiết yếu và sự bùng nổ nhanh chóng của các cuộc bạo động trên khắp đất
nước. Do không thể kiểm soát được tình trạng hỗn loạn, tổng thống Raul Alfonsin
đã buộc phải rời nhiệm sở sớm 6 tháng và bàn giao lại quyền lãnh đạo đất nước cho
5 “Khủng hoảng nợ ở các nước đang phát triển”, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, năm 2003. 6 Jessica Miller, “Solving the Latin American sovereign debt crisis”, Journal of International Economic Law,
năm 2001.
vi
tổng thống Carlos Menem7.
Để vượt qua hoàn cảnh khó khăn trước mắt, tổng thống Carlos Menem đã thực
hiện hàng loạt các cải cách lớn. Tháng 4 năm 1991, ông ban hành luật
Convertibility Law. Luật này quy định mức neo tỉ giá 1 Peso đổi 1 USD của
Argentina, và giới hạn việc in ấn đồng Peso để chính sách tỉ giá cố định có hiệu lực.
Ông còn phát triển hệ thống tiền tệ kép (bimonetary) để đảm bảo vai trò ngang nhau
giữa đồng Peso và USD trên thị trường. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ của mình, Carlos
Menem tư nhân hóa nhiều ngân hàng nhà nước ở các cấp địa phương và nhiều
doanh nghiệp quốc doanh quan trọng như hàng không và bưu điện; cắt giảm thuế và
bãi bỏ hầu hết cách hàng rào phi thuế quan; tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư
bản mà không có bất kỳ hạn chế nào8. Với những cải cách toàn diện như vậy, nền
kinh tế Argentina dần đi vào ổn định và đạt được tăng trưởng bước đầu.
Tuy nhiên, trong thời gian tại nhiệm của Carlos Menem, trên thế giới xảy ra
hàng loạt các bất ổn kinh tế khiến thời kỳ ổn định của Argentina kéo dài không
được bao lâu. Năm 1994, cuộc khủng hoảng Tequila xảy ra ở Mexico buộc quốc gia
này phải phá giá đồng tiền. Điều này tạo ra một làn sóng lo sợ Argentina cũng sẽ
làm điều tương tự với đồng Peso. Giới đầu cơ bắt đầu tấn công đồng Peso buộc
chính phủ Argentina phải tung ra một gói tài chính lớn nhằm bảo vệ chính sách tỉ
giá cố định. Gói tài chính được chính phủ vay từ các tổ chức tài chính quốc tế và
các nhà đầu tư tư nhân khiến mức nợ nước ngoài của Argentina tăng dần. Năm 1995,
Argentina rơi vào tình trạng suy thoái sâu. Năm 1997, Khủng hoảng kinh tế xảy ra ở
châu Á và Khủng hoảng nợ xảy ra ở Nga một năm sau đã làm nhiều nhà đầu tư lo
sợ rút vốn ồ ạt ra khỏi các thị trường mới nổi, điều này bất ngờ đẩy chi phí vay nợ
nước ngoài của Argentia tăng nhanh. Năm 1999, Barazil (đối tác thương mại quan
trọng của Argentia) phá giá đồng Real 29% và đồng USD cũng tăng giá trong thời
7 Jim Saxton, “Argentina’s economic crisis: Causes and cures”, Joint Economic Committee United States
Congress, năm 2003. 8 Mario Damill, Roberto Frenkel và Martin Rapetti, “Lessons from the Argentine case of debt accumulation,
crisis and default”, UNCTAD, năm 2005.
vii
gian này khiến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Argentina suy yếu. Sự sự giảm
giá hàng hóa thế giới trong những năm cuối thập kỷ 90, đặc biệt là nông sản và kim
loại, lại tiếp tục giáng thêm một đòn mạnh cho ngành xuất khẩu vốn đã mất ưu thế
của Argentina, khiến nguồn thu từ xuất khẩu sụt giảm đáng kể.
Với các nguồn thu từ thuế và từ xuất khẩu giảm sút, Argentina không còn cách
nào khác ngoài việc tăng vay nợ nước ngoài để bù đắp các khoản thâm hụt ngân
sách ngày càng lớn của mình, bất chấp lãi suất vay nợ những năm cuối thập kỷ 90
luôn ở mức cao. Cứ như vậy, các khoản vay nợ bắt đầu tăng lên từ 35% GDP năm
1995 lên tới gần 65% năm 2001. Khi các khoản vay nợ càng ngày càng phình to và
các nguồn thu chính của chính phủ ngày càng giảm sút, các nhà đầu tư bắt nghi ngờ
về khả năng trả được nợ của Argentina và sự tồn tại của chính sách tỉ giá cố định.
Ngày 5 tháng 11 năm 2001, IMF tuyên bố không cho Argentina vay thêm nữa.
Người dân hoảng sợ ồ ạt rút 1.2 tỉ USD từ các tài khoản ngân hàng. Bạo động, biểu
tình, nổi loạn nổ ra ở khắp nơi. Ngày 23 tháng 11 năm 2001, do không thể cải thiện
được tình trạng hỗn loạn và lượng ngoại tệ của chính phủ đang dần cạn kiệt, tổng
thống mới Rodriguez Duhalde tuyên bố Argentina vỡ nợ91011.
Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp (2010)
Xuyên suốt thời gian dài trong lịch sử, nợ công luôn là một vấn đề nan giải đối
với Hy Lạp. Kể từ khi giành độc lập từ đế quốc Ottoman năm 1832 cho đến tận năm
2011, hơn một nửa khoảng thời gian đó nền kinh tế quốc gia này luôn trong trạng
thái vỡ nợ (default)1213. Chính vì vậy, có thể coi sự yếu kém trong quản lý nợ công
9 Mario Damill, Roberto Frenkel và Martin Rapetti, “Lessons from the Argentine case of debt accumulation,
crisis and default”, UNCTAD, năm 2005. 10 Jim Saxton, “Argentina’s economic crisis: Causes and cures”, Joint Economic Committee United States
Congress, năm 2003. 11 J.H. Hornbeck, “Argentina’s defaulted sovereign debt: dealing with the “Holdouts””, International Trade
and Finance, năm 2010. 12 Rebecca Nelson, Paul Belkin and Derek Mix, “Greece’s debt crisis: Overview, policy responses and
implications”, Congressional Report Service, trang 2, năm 2011. 13 Carmen Reinhart and Kenneth Rogoff, “This time is different: Eight centuries of financial folly”,
Princeton University Press, trang 99, năm 2009.
viii
là một căn bệnh cố hữu lâu đời của Hy Lạp, và cuộc Khủng hoảng nợ năm 2010 chỉ
là một hệ quả tất yếu không thể tránh khỏi của sự yếu kém này. Chúng ta hãy điểm
qua nền kinh tế-chính trị Hy Lạp từ năm 1980 đến năm 2010 để hiểu rõ hơn những
tác động của chính sách vĩ mô trong nước và bất ổn kinh tế thế giới đến sự hình
thành cuộc Khủng hoảng nợ này.
Bắt đầu từ năm 1978, Hy Lạp từ bỏ chính sách tài khóa mang tên Quy tắc vàng
(golden rule) trong quản lý ngân sách và theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng,
việc này khiến chính phủ chi tiêu thoáng tay hơn và gây ra sự tăng lên đột biến của
thâm hụt ngân sách trong những nhiệm kỳ kế tiếp. Cụ thể là từ năm 1981 cho đến
năm 1990, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp luôn ở mức cao (trên 6% GDP), và đạt
đỉnh 16% vào năm 1990. Song hành cùng với thâm hụt ngân sách, nợ công của Hy
Lạp cũng tăng lên đều đặn từ mức 20% GDP năm 1981 lên đến 70% GDP vào năm
1990, nguyên nhân chính là do chính phủ vay nợ để bù đắp thâm hụt, trong khi
nguồn thu lớn từ thuế thì bị cắt giảm để kích thích đầu tư.
Tình hình có khả quan hơn khi chính phủ mới được bầu năm 1990 đưa ra các
chương trình bền vững tài khóa và tái cấu trúc toàn diện nền kinh tế, nhằm mục đích
chuẩn bị cho việc gia nhập đồng tiền chung châu Âu. Cùng với đó là việc Hy Lạp
ký vào hiệp ước Maastricht cuối năm 199114, thâm hụt ngân sách chính phủ bắt đầu
có dấu hiệu giảm dần, từ mức 16% GDP năm 1990 giảm xuống còn 3% năm 1999.
Nợ công tuy vẫn ở mức cao do sự lũy kế từ các nhiệm kỳ trước, nhưng trong giai
đoạn từ 1992 đến 1999, vẫn giữ được sự ổn định và chỉ giao động nhỏ quanh mức
khoảng 95% GDP15. Những thông tin lạc quan này tạo tiền đề cho việc Hy Lạp nộp
đơn xin gia nhập Eurozone năm 2000.
14 Về mặt kinh tế, Hiệp ước Maastricht định ra các tiêu chuẩn về lạm phát, lãi suất, tỉ giá hối đoái, ngân sách
chính phủ và mức nợ công. Các quốc gia muốn gia nhập Liên minh tiền tệ châu Âu thì phải điều chỉnh chính
sách để thỏa mãn các tiêu chuẩn này. 15 Cách tính nợ công ở đây được dựa trên nguồn số liệu từ trang web thống kê chính thức của Liên minh
châu Âu (http://appsso.eurostat.ec.europa.eu/nui/show.do). Một số tổ chức khác sử dụng cách tính khác nên
sẽ có những số liệu không tương đồng, ví dụ nếu tính nợ công theo cách định nghĩa của Hiệp ước Maastricht
thì nợ công ở giai đoạn này giao động quanh mức khoảng 115%.
ix
Năm 2001 đánh dấu việc Hy lạp gia nhập thành công Eurozone, mở ra nhiều cơ
hội phát triển cho nền kinh tế với các dòng vốn đầu tư ồ ạt chảy vào và sự lưu thông
thương mại giữa các quốc gia châu Âu. Tuy nhiên, thay vì cải tổ cơ cấu chính trị
vốn trì trệ và nền kinh tế đang mất dần lợi thế cạnh tranh, chính phủ Hy Lạp lại chỉ
quan tâm đến việc vay nợ nhiều hơn để chi tiêu. Điều này nhanh chóng thể hiện rõ ở
việc gia tăng thâm hụt ngân sách từ 4.55% GDP năm 2001 lên 7.5% năm 2004. Nợ
công cũng tăng 31.316 tỉ euro trong khoảng thời gian này. Trong khi đó, thâm hụt tài
khoản vãng lai diễn ra triền miên từ -9.4 tỉ USD năm 2001 lên đến -13.5 tỉ USD
năm 2004. Trốn thuế cũng khiến cho Hy Lạp thất thoát một nguồn thu không nhỏ
cho quốc gia, với tỉ lệ trốn thuế thuộc những nước đứng đầu châu Âu17. Điều này
càng làm tình trạng thâm hụt thêm trầm trọng.
Nhận thấy tình trạng thâm hụt ngân sách ở Hy Lạp ngày càng lớn và vượt quá
mức quy định của Hiệp ước Maastricht, Liên minh châu Âu buộc phải yêu cầu Hy
Lạp thực hiện các biện pháp tiết giảm thâm hụt ngân sách (Exessive Deficit
Procedure) và phải điều chỉnh thâm hụt quay lại mức chuẩn quy định chậm nhất là
vào cuối năm 2005. Bằng một số biện pháp tức thời như cắt giảm chi tiêu chính phủ
và tăng thuế, chính phủ Hy Lạp đã báo cáo tình trạng thâm hụt ngân sách năm 2006
chỉ còn là 2.6% GDP. Do đã đạt được mục tiêu đề ra, EPD kết thúc vào tháng 6 năm
2007.
Tuy nhiên, những biện pháp tức thời thì cũng chỉ có kết quả tức thời. Khi sự yếu
kém trong nền kinh tế không được giải quyết tận gốc, chỉ cần có cú sốc trên thế giới
xảy ra, các dấu hiệu bất ổn sẽ bắt đầu xuất hiện. Năm 2008, cuộc Khủng hoảng kinh
tế thế giới bùng nổ, nền kinh tế Hy Lạp cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. GDP bắt đầu
có dấu hiệu tăng trưởng âm, kèm với đó thu nhập của chính phủ cũng sụt giảm từ
40.0% GDP năm 2007 xuống còn 37.5% GDP năm 2009. Thâm hụt ngân sách ở
mức cao có nguy cơ tái diễn. Tháng 8 năm 2008, S&P và Fitch cảnh báo nếu Hy
16 Số liệu này được lấy bằng cách lấy tổng nợ công năm 2004 trừ đi tổng nợ công năm 2001. Nguồn số liệu
từ IMF. 17 “OECD Economic Surveys: Greece”, OECD, năm 2009.
x
Lạp không quản lý tốt việc chi tiêu công và giảm mức nợ công, chỉ số tín nhiệm
quốc gia của Hy Lạp sẽ bị hạ. Tháng 10 năm 2009, tân thủ tướng mới Papandreou
của Hy Lạp cáo buộc chính phủ tiền nhiệm đã gian lận trong việc tính toán thâm hụt
ngân sách. Theo ông thâm hụt trong năm tài khóa 2009 phải ở mức 12.5% GDP
thay vì 3.7% như những gì đã báo cáo. Sau nhiều lần xem xét, Eurostat ước tính con
số này có thể lên tới 13.6% GDP18 và xác định Hy Lạp cũng đã che giấu thâm hụt
thực tế trong nhiều năm trước đó. Giới đầu tư hoàn toàn bị sốc và dần mất hết lòng
tin vào chính phủ. Ngày 22 tháng 11 năm 2009, Fitch hạ bậc tín nhiệm của Hy Lạp
và chẳng bao lâu sau S&P và Moody’s cũng làm việc tương tự. Điều này khiến
spread19 của trái phiếu chính phủ Hy Lạp, chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 12 năm
2009 đến tháng 3 năm 2010, tăng lên gấp đôi từ 235 điểm lên đến 477 điểm. Với
khối nợ công hơn 140% GDP, thâm hụt ngân sách trên 10% và sự mất lòng tin hoàn
toàn của các nhà đầu tư, giờ đây chính phủ Hy Lạp đã không còn khả năng trả nợ và
buộc phải cầu cứu IMF. Như vậy cuộc Khủng hoảng nợ Hy Lạp bắt đầu2021.
18 Một số nguồn điều chỉnh lên 15.4% sau khi bao gồm cả tình hình tài chính của các doanh nghiệp quốc
doanh vào trong tính toán. 19 Spread là sự chênh lệch lợi tức giữa hai loại trái phiếu, thường là hai trái phiếu khác nhau về độ tín nhiệm
(credit quality). Trong trường hợp này, spread ở đây là sự chênh lệch lợi tức giữa trái phiếu chính phủ Hy Lạp
với trái phiếu chính phủ Đức. 20 Basil Manessiotis, “The root-causes of the Greek sovereign debt crisis”, Bank of Greece, năm 2011. 21 George Alogoskoufis, “Greece’s sovereign debt crisis: Retrospect and prospect”, European Institute, năm
2012.
xi
Phụ lục 3: Định nghĩa và tính toán nợ công của IMF22
Theo định nghĩa của IMF, nợ công sẽ là nợ của toàn bộ khu vực công; ở đó,
khu vực công bao gồm chính quyền (general government) và các tổ chức công
(public corporation). Sơ đồ của toàn bộ khu vực công được IMF cụ thể hóa như sau:
Sơ đồ toàn bộ khu vực công của IMF
Khu vực chính quyền được chia nhỏ hơn gồm 3 bộ phận chính là Chính phủ
(central government), chính quyền các bang (state government) và chính quyền địa
phương (local government). Các tổ chức công được chia thành 5 phần nhỏ hơn là
các tổ chức tài chính công (public financial corporations), Ngân hàng trung ương
(central bank), các tổ chức công nhận tiền gửi không phải là Ngân hàng trung ương 22 Do nhóm nghiên cứu tổng hợp và dịch từ 2 công trình: (1) “Public sector debt statistics: Guide for
compliers and users”, International Monetary Fund, năm 2011; (2) Robert Dippelsman et al, “What lies
beneath: The statistical definition of public sector debt”, International Monetary Fund, năm 2012.
xii
(public deposit-taking corporations except the central bank), các tổ chức công phi
tài chính (public nonfinancial corporations) và các tổ chức tài chính công khác
(other public financial corporations).
Việc tính nợ công theo nguyên tắc tính nợ của toàn khu vực công là vô cùng
cồng kềnh và phức tạp, vì định nghĩa của IMF là quá rộng và số liệu thường không
sẵn có. Để dễ hình dung mức độ phức tạp của nợ công, chúng ta sẽ lấy một ví dụ
đơn giản trong quá trình tính toán nợ công của IMF khi được chia theo nhiều cấp độ
khác nhau.
Trước hết, về độ bao quát trong tính toán nợ công, IMF chia thành 5 mức độ
chính quyền (level of government):
-GL1: chỉ bao gồm ngân sách Chính phủ.
-GL2: GL1 + các đơn vị ngoài ngân sách Chính phủ (extra-budgetary central
government) và các quỹ chứng khoán xã hội (social security funds).
-GL3: GL2 + chính quyền các bang và chính quyền địa phương.
-GL4: GL3 + các tổ chức công phi tài chính.
-GL5: GL4 + các tổ chức tài chính công.
Về độ bao quát của khái niệm “nợ”, IMF chia thành 4 mức độ công cụ nợ (debt
instruments):
-D1: chỉ bao gồm các khoản nợ dưới dạng chứng khoán (debt securities) và các
khoản vay trực tiếp (loans).
-D2: D1 + quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) + tiền lưu thông và tiền gửi (currency and
deposits).
-D3: D2 + các tài khoản phải trả khác (other accounts payable).
-D4: D3 + các khoản bảo hiểm (insurance), lương hưu (pension) và các kế hoạch
bảo đảm được tiêu chuẩn hóa (standardized guarantee schemes).
Bây giờ các quốc gia hoàn toàn có thể sử dụng các cấp độ chính quyền nêu trên
và độ bao quát của khái niệm “nợ” để tính toán nợ công cho mình tùy theo mục đích
sử dụng. Thông thường theo thông lệ, các quốc gia hay sử dụng độ bao quát
xiii
GL3/D1 trong tính toán và báo cáo nợ công do tính đơn giản của phương pháp này.
Tuy nhiên điều này cũng tạo ra nhiều rủi ro vì độ bao quát D1 của khái niệm “nợ” là
hẹp và không bao gồm được các khoản nợ tiềm ẩn trong tương lai như nợ chi trả
cho lương hưu, các khoản tiền bảo hiểm hay các tài khoản phải trả khác.
Độ lớn của nợ công theo từng mức độ bao quát
Sơ đồ nợ công theo độ bao quát GL1/D1 và GL3/D1
xiv
Ngược lại, các quốc gia như Canada đang có kế hoạch sẽ sử dụng độ độ bao
quát GL3/D4 để làm tiêu chuẩn trong báo cáo nợ công của mình. Độ bao quát D4
của khái niệm “nợ” là đủ bao hàm được hầu hết tất cả các khía cạnh rủi ro của nợ
công, tuy nhiên đổi lại, nó lại khiến nợ công bị thổi phồng.
Các mức nợ công của Canada năm 2010 theo từng độ bao quát23
GL1 GL2 GL3
D1 38.2 38.3 66.8
D2 38.6 38.6 67.2
D3 43.4 43.5 90.6
D4 52.5 52.6 104.2
Dựa vào bảng trên ta có thể thấy, việc chuyển từ độ bao quát GL3/D1 lên
GL3/D4 có thể khiến nợ công bị thổi phồng hơn 40% GDP. Đặc biệt, nếu tiếp tục
chuyển từ độ bao quát GL3/D4 lên GL5/D4 thì thậm chí nợ công có thể tăng lên
nhiều hơn nữa.
Theo khuyến cáo, với các quốc gia mà tính minh bạch thông tin chưa cao và các
hệ thống tính toán, thống kê nợ công chưa chưa hoàn toàn phát triển, thì quốc gia đó
nên báo cáo nợ công ở độ bao quát GL3/D1 là đủ hợp lý. Với các quốc gia phát
triển có hệ thống tính toán, thống kê nợ công tốt và minh bạch, thì quốc gia đó nên
báo cáo nợ công ở độ bao quát GL3/D4 để có thể lường hết các khía cạnh rủi ro của
nợ công, cũng như tạo lòng tin cho thị trường về năng lực kiểm soát nợ công của
Chính phủ.
23 Đơn vị là % GDP.
xv
Phụ lục 4: Lựa chọn các biến cho mô hình
Khác với các công trình sử dụng mô hình Signal Approach trong cảnh báo sớm
Khủng hoảng tiền tệ và ngân hàng vốn đã được nghiên cứu từ lâu và có số lượng
lớn (không dưới 20 công trình), các công trình sử dụng mô hình Signal Approach
trong cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ chỉ được các học giả nghiên cứu cách đây vài
năm và số công trình còn rất hạn chế. Tính cho đến thời điểm hiện tại, mới chỉ có
công trình của Knedlik và Schweinitz (2011) và Savona và Vezzoli (2012) là thực
hiện về vấn đề này. Do vậy, để tăng tính hiệu quả cho mô hình, ngoài việc lấy 2
công trình kể trên làm cơ sở tham khảo chính, nhóm nghiên cứu còn tiến hành xem
xét thêm các công trình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ khác mà không sử dụng mô
hình Signal Approach để làm cơ sở cho việc lựa chọn các biến, điển hình như công
trình của Fuertes và Kalotychou (2004), Fioramanti (2006) hay Manasse và Roubini
(2009)…..
Dựa trên các tiêu chí đặt ra cho các biến của mô hình như: số liệu của biến phải
sẵn có, việc tính toán các biến phải đơn giản, biến phải thể hiện sự hiệu quả trong
các công trình đi trước,….. Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn ra được 14 biến tiềm
năng cho mô hình và phân nó thành bốn nhóm như sau:
Các biến đại diện cho rủi ro thanh toán:
-Biến Tổng nợ nước ngoài theo GDP: Khả năng thanh toán được phản ánh một cách
đơn giản thông qua tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP, tỉ lệ này càng cao, quốc gia đó
càng chịu rủi ro thanh toán lớn.
-Biến Tổng nợ ngắn hạn nước ngoài theo GDP: Trong một số trường hợp, tổng nợ
nước ngoài trên GDP cao, nhưng nếu cơ cấu nợ lại chủ yếu gồm nợ dài hạn, thì
quốc gia đó sẽ ít chịu rủi ro thanh toán trong ngắn hạn. Vì thế biến này được tạo ra
nhằm mục đích phản ánh rủi ro thanh toán trong ngắn hạn của quốc gia đang xét.
- Biến Tốc độ thay đổi giá trị xuất khẩu: Xuất khẩu là một trong các nguồn thu lớn
của đất nước. Các dấu hiệu bất ổn trong giá trị xuất khẩu đều có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng trả nợ của quốc gia.
xvi
- Biến Tốc độ thay đổi dự trữ ngoại hối: Nguồn dự trữ ngoại hối giúp Chính phủ
điều chỉnh chính sách tỉ giá, thực hiện thanh toán quốc tế, điều chỉnh giá vàng,….
Mọi dấu hiệu bất ổn trong tình hình dự trữ ngoại hối đều có thể làm giảm khả năng
thanh toán quốc gia, cũng như khả năng kiềm chế các bất ổn vĩ mô của Chính phủ.
Các biến đại diện cho rủi ro thanh khoản:
-Biến Tổng nợ ngắn hạn nước ngoài theo dự trữ ngoại hối: Như đã đề cập ở trên,
dự trữ ngoại hối là một nguồn quan trọng giúp Chính phủ đảm bảo khả năng thanh
toán nợ nước ngoài của nền kinh tế, vì vậy tỉ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối có
thể phản ánh một cách đơn giản rủi ro thanh khoản của quốc gia.
- Biến Tổng các dịch vụ nợ nước ngoài tính theo dự trữ ngoại hối: Trong một số
trường hợp, đôi khi nợ ngắn hạn bản thân nó chưa phản ánh được hết tất cả các rủi
ro thanh khoản mà quốc gia phải đối mặt trong một năm vì nó chưa bao hàm được
cả các khoản trả lãi nợ dài hạn, trả lãi nợ ngắn hạn và nhiều khoản phải trả khác. Vì
thế biến này được tạo ra để nắm bắt các rủi ro thanh khoản của những khoản tiền
phải trả mà biến Tổng nợ ngắn hạn nước ngoài theo dự trữ ngoại hối không phản
ánh được.
Các biến đại diện cho rủi ro từ các bất ổn vĩ mô:
- Biến Tỉ lệ lạm phát: Lạm phát cao làm méo mó nền kinh tế và là mầm mống cho
nhiều bất ổn vĩ mô khác. Chẳng hạn, lạm phát có thể làm xấu đi cán cân thương mại,
gây sức ép lên tỉ giá, làm tăng lãi xuất danh nghĩa của nợ nội tệ,…. Như vậy gián
tiếp ảnh hưởng đến rủi ro Khủng hoảng nợ quốc gia.
- Biến Tốc độ tăng trưởng GDP thực: GDP thực chững lại hoặc sụt giảm là những
dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang chịu nhiều bất ổn và có nguy cơ suy thoái; điềm
báo trước cho các cuộc khủng hoảng.
- Biến Tỉ lệ giữa cung tiền và dự trữ ngoại hối: Trong trường hợp đồng nội tệ bị
trượt giá quá sâu và dự trữ ngoại hối ngày càng sụt giảm. Người dân sẽ có nhu cầu
chuyển đổi các khoản tiền nội tệ của họ sang ngoại tệ, hoặc rút các khoản tiền gửi
ngoại tệ ra khỏi hệ thống ngân hàng. Vì tỉ số này phản ánh khả năng mà Ngân hàng
xvii
trung ương có thể đáp ứng được như cầu ngoại hối, nên nó cũng sẽ phản ánh được
rủi ro đóng băng tiền gửi ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng.
- Biến Tốc độ thay đổi tỉ giá: Tỉ giá hối đoái biến động quá mạnh có thể khiến nợ
bằng ngoại tệ và hệ thống ngân hàng phải chịu rủi ro tỉ giá lớn. Ngoài ra, việc đồng
tiền mất giá quá sâu cũng khiến dự trữ ngoại hối bị bào mòn, làm tăng rủi ro thanh
khoản.
- Biến Tài khoản vãng lai: Cán cân vãng lai thâm hụt có thể là dấu hiệu thể hiện sự
suy giảm trong: tình hình xuất khẩu, kiều hối hoặc thu nhập từ các khoản đầu tư
nước ngoài….. Sự suy giảm trong bất kỳ một nhân tố nào trong cán cân vãng lai
đều có thể ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn thu của Chính phủ, cũng như khả năng
trả nợ quốc gia.
- Biến Tốc độ thay đổi dòng vốn FDI: Dòng vốn FDI đảo chiều hoặc suy giảm đều
là các dấu hiệu thể hiện nhà đầu tư quốc tế đang giảm dần lòng tin vào thị trường
trong nước, và các dòng vốn đang có xu hướng bị rút ra khỏi thị trường.
Các biến đại diện cho khả năng lây lan từ các cú sốc trên thế giới:
- Biến Độ mở của nền kinh tế: Được tính bằng tổng của giá trị xuất khẩu và giá trị
nhập khẩu trên GDP. Độ mở càng cao thể hiện sự hội nhập giao thương mua bán
của quốc gia đó với thế giới càng lớn, do vậy các cú sốc kinh tế-tài chính trên thế
giới càng có thể ảnh hưởng mạnh hơn tới quốc gia đang xét.
- Biến Lãi suất tín phiếu kho bạc Mỹ: Đây là biến đại diện cho xu hướng chung của
lãi suất cho vay trên thế giới. Việc lãi suất này tăng lên cũng sẽ khiến lãi suất các
khoản vay nợ khác trên thế giới tăng theo, dòng vốn có thể bị đảo chiều và niềm tin
của chủ nợ vào các thị trường mới nổi suy giảm.
xviii
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh, Vũ Thành Tự, “Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam”, Chương trình giảng
dạy kinh tế Fulbritght, năm 2012.
Alessi, Lucia và Carsten Detken, “Quasi real time early warning indicators for
costly asset price boom/bust cycles: a role for global liquidity”, European
Journal of Political Economy, năm 2011.
Asian Development Bank, “ASEAN 3+ : bond market guide”, năm 2013.
Asian Development Bank, “Asia bond monitor”, năm 2013.
Anh, Phạm Thế, Đinh Tuấn Minh, Tô Trung Thành và Nguyễn Trí Dũng, “Nợ công
Việt Nam: quá khứ, hiện tại và tương lai”, Ủy ban kinh tế Quốc hội, năm 2012.
Berti, Katia, Matteo Salto và Matthieu Lequien, “An early-detection index of fiscal
stress for EU countries”, Economic and Financial Affairs, năm 2012.
Bộ Tài chính Việt Nam, “Bản tin nợ công số 1”, năm 2013.
Ciarlone, Alessio và Giorgio Trebeschi, “A multinomial approach to early warning
systems for debt crises”, Bank of Italy, năm 2006.
Ciarlone, Alessio và Giorgio Trebeschi, “Designing an early warning system for
debt crises”, Elsevier Emerging Markets Review, năm 2005.
Dũng, Phạm Văn, “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011.
Dũng, Trịnh Tiến, “Một vài kinh nghiệm tốt trên thế giới trong quản lý nợ công”,
Kiểm toán nhà nước, năm 2010.
Dippelsman, Robert, Claudia Dziobek và Carlos Gutierrez Mangas, “What lies
beneath: the statistical definition of public sector debt”, International Monetary
Fund, năm 2012.
Detragiache, Enrica và Antonio Spilimbergo, “Crises and liquidity: evidence and
interpretation”, International Monetary Fund, năm 2001.
Eichengreen, Barry, Ricardo Hausmann và Ugo Panizza, “Original sin: the pain, the
mystery, and the road to redemption”, Financial Policy Forum, năm 2002.
xix
El-Shagi, Makram, Tobias Knedlik và Gregor von Schweinitz, “Predicting financial
crises: the statiscal significance of signal approach”, Halle Institute for
Economic Research, năm 2012.
Fioramanti, Marco, “Predicting sovereign debt crises using artificial neural net
works: a comparative approach”, Journal of Financial Stability, năm 2008.
Fuertes, Ana Maria và Elena Kalotychou, “Optimal design of early warning systems
for sovereign debt crises”, International Journal of Forecasting, năm 2007.
Huy, Vũ Quốc, Nguyễn Thị Thu Hằng và Vũ Phạm Hải Đăng, “Tỉ giá hối đoái giai
đoạn 2000-2011: mức độ sai lệch và tác động đối với xuất khẩu”, Ủy ban kinh
tế Quốc hội, năm 2013.
International Monetary Fund, “Vietnam debt sustainability analysis”, năm 2012.
International Monetary Fund, “Public sector debt statistic: guide for compliers and
users”, năm 2010.
International Monetary Fund, “Manual on fiscal transparency”, năm 2007.
Knedlik, Tobias và Gregor von Schweinitz, “Macroeconomic imbalances as
indicators for debt crises in Europe”, Halle Institute for Economic Research,
năm 2011.
Kaminsky, Graciela, “Currency and banking crises: the early warning of distress”,
International Monetary Fund, năm 1998.
Long, Vũ Minh, “Khủng hoảng nợ công tại một số nền kinh tế trên thế giới: nguyên
nhân, diễn biến, hậu quả, biện pháp khắc phục và những hàm ý chính sách cho
Việt Nam”, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, năm 2013.
Luật Quản lý nợ công 2009.
Laeven, Luc và Fabian Valencia, “Systemic banking crises: a new database”,
International Monetary Fund, năm 2008.
Manasse, Paolo, Nouriel Roubini và Axel Schimmelpfennig, “Predicting sovereign
debt crises”, International Monetary Fund, năm 2003.
Mankiw, Gregory, “Macroeconomics seventh edition”, Havard University Press,
xx
năm 2010.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, “Báo cáo thường niên”, năm 2011.
Pescatori, Andrea và Amadou Sy, “Debt crises and the development of international
capital markets”, International Monetary Fund, năm 2004.
Roubini, Nouriel và Paolo Manasse, “Rules of thumbs for sovereign debt crises”,
Journal of International Economics, năm 2009.
Reinhart, Carmen và Kenneth Rogoff, “From financial crash to debt crisis”,
National Bureau of Economic Research, năm 2010.
Reinhart, Carmen, Vincent Reinhart và Kenneth Rogoff, “Debt overhangs: past and
present”, Natioanl Bureau of Economic Research, năm 2012.
Reinhart, Carmen và Kenneth Rogoff, “A decade of debt”, National Bureau of
Economic Research, năm 2011.
Reinhart, Carmen và Kenneth Rogoff, “This time is different: eight centuries of
financial folly”, Princeton University Press, năm 2010.
Reinhart, Carmen, Kenneth Rogoff và Miguel Sanvastano, “Debt intolerance”,
National Bureau of Economic Research, năm 2003.
Savona, Roberto và Marika Vezzoli, “Fitting and forecasting sovereign defaults
using multiple risk signals”, Ca’Foscari University of Venice, năm 2012.
Seidler, Jakub và Petr Jakubik, “The Merton approach to estimating loss given
default: application to the Czech Republic”, Czech National Bank, năm 2009.
Thành, Nguyễn Đức, “Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2012: đối diện thách
thức tái cơ cấu kinh tế”, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, năm
2013.
Trinh, Bùi, “Đánh giá về hiệu quả đầu tư”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, năm 2011.
Tiến, Nguyễn Văn, “Giáo trình kinh tế tiền tệ ngân hàng”, Nhà xuất bản Thống kê,
năm 2010.
World Economic Forum, “The global competitiveness report 2011-2012”, năm 2012