Post on 27-Jan-2023
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
------------
ÑEÀ TAØI:
CHÍNH SAÙCH QUAÛN TRÒ NHAÂN SÖÏ VAØHOAÏCH ÑÒNH CHIEÁN LÖÔÏC KINH DOANH CUÛA
TAÄP ÑOAØN MICROSOFT
GVHD : T.S NGUYEÃN THANHHOÄINHOÙM SV THÖÏC HIEÄN : NHOÙM 1LÔÙP : Ñ3K16MOÂN : QUAÛN TRÒ HOÏC
Page 1
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
NAÊM 2007
DANH SÁCH NHÓM
DANH SÁCH CAO HỌC LỚP ĐÊM 3 KHÓA 16
STT Họ và Tên Ghi chú
NHÓM 1
1 Trần Thị Trúc Giang
2 Lê Lai
3 Đào Thị Mỹ Linh Nhóm trưởng
4 Cao Hữu Lộc
5 Trần Hồ Quốc Thiện
6 Phan Duy Thượng
7 Nguyễn Hoàng Quốc Thụy
8 Đinh Quốc Tuấn
9 Vũ Mạnh Tùng
10 Đoàn Hoàng Việt
11 Nguyễn Thị Lý TCDN –D3-K15
Page 2
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
12 Đặng Anh Tài TCDN –D3-K15
Lời mở đầu
Từ một công ty sáng lập bởi hai chàng trai trẻ là Bill
Gates và Paul Allen mới ở đầu tuổi 20, sau gần 35 năm Microsoft
đã trở thành công ty lớn nhất thế giới đạt giá trị 500 tỷ đô la
trên thị trường chứng khoán. Thành công vang dội có một không
hai trong lịch sử này chính là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của
ban lãnh đạo Công ty đứng đầu là Bill Gates và hoạt động sáng
tạo, nhiệt tình của một đội ngũ các nhà lập trình và quản lý
cũng còn rất trẻ.
Cùng với sự lớn lên của công ty, hàng ngàn nhân viên
Microsoft đã trở thành triệu phú và trên một chục người đã
thành tỷ phú. Tuy nhiên, sự thành công của Microsoft không chỉ
được đánh giá bằng tiền bạc mà còn bằng những phát minh khoa
học và công nghệ, những sản phẩm trí tuệ, văn hóa tinh thần cao
cho nhân loại.
Ngày nay trên thế giới hàng triệu người, trong đó có chúng
ta, đang sống, làm việc và làm bạn với những sản phẩm của
Microsoft, ngưỡng mộ Bill Gates và những con người đã sáng tạo
Page 3
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
ra chúng. Một cách tự nhiên chúng ta tự hỏi: Đâu là những bí
quyết thành công của Microsoft và Bill Gates?
Trước sự thành công không thể nào phủ nhận được của
Microsoft thì việc nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân dẫn
đến thành công trên rất có ý nghĩa đối với các nhà quản trị,
nhất là các nhà quản trị Việt Nam, khi chúng ta đang chuẩn bị
bước vào quá trình hội nhập toàn cầu hóa với nền kinh tế thế
giới, đang đứng trước khả năng cạnh tranh gay gắt của nền kinh
tế thị trường năng động và khốc liệt này.
Mặc dù có rất nhiều quan điểm cũng như cách nhìn nhận về
các nguyên nhân dẫn đến thành công của Microsoft nhưng do khả
năng và thời gian hạn chế nên trong đề tài này chúng tôi chỉ
xin đề cập đến một số vấn đề chủ yếu xoay quanh hai nội dung:
chính sách quản trị nhân sự và hoạch định chiến lược. Sau đây
là một số vấn đề liên quan đến các nội dung trên.
Page 4
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ MARKETING
I. Đánh giá nguồn lực
Sự cam kết của đội ngũ nhân viên.
Một nhiệm vụ lớn đối với ban lãnh đạo là làm thế nào để mọi
nhân viên hiểu rằng cách tốt nhất đạt được các mục tiêu cá nhân
là giúp doanh nghiệp hòan thành mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ này có
thể đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng nhiều phương cách và
công cụ từ các lĩnh vực có tính nguyên tắc như thay đổi cách
quản trị lãnh đạo và động cơ khuyến khích.
Tinh thần thực hiện.
Tinh thần hăng hái thực hiện phổ biến khắp nọi nơi cũng là
một điều quýí giá, vì nó có nghĩa rằng mọi người có chí hướng
tiến lên phía trước. Một điều lí tưởng là mọi cá nhân đều hăng
hái phấn đấu vì thành tích cá nhân cũng như thành tích của tổ
chức. Thái độ như vậy làm nảy nở tinh thần sẵn sàng hậu thuẫn
và phấn đấu vì các mục tiêu của tổ chức và chấp nhận, thậm chí
có sáng kiến đề ra những thay đổi thích hợp, người công nhân có
y muốn làm việc tốt hơn chứ không phải làm theo lệnh cấp trên.
Điều chỉnh nguồn lực.
Điều chỉnh về số lượng và chất lượng nguồn lực. Có thể phải
nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực để
thực hiện hiệu quả một chiến lược nào đó.
Đảm bảo nguồn lực.
Page 5
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh đạo là đảm bảo sao cho có đủ
nguồn lực phục vụ cho hoàn thành chiến lược. Một sai lầm thường
mắc phải là cung cấp các nguồn lực không tương ứng với các
chiến lược cụ thể nhất định. “Cửa sổ chiến lược” nghĩa là những
cơ hội nhất định chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn.
Nếu doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng để đảm bảo các nguồn
lực cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nói trên thì cửa sổ
sẽ khép lại, chỉ có những tổ chức hành động mau lẹ mới có khả
năng tranh thủ được cơ hội đó.
II. Phân khúc thị trường.
Phân khúc thị trường có thể được định nghĩa là “sự chia nhỏ
thị trường thành các nhóm khách hàng riêng biệt theo nhu cầu và
thói quen mua hàng”. Phân khúc thị trường là một biến số quan
trọng trong việc thực hiện chiến lược vì:
Thứ nhất, những chiến lược phát triển thị trường, phát triển
sản phẩm, thâm nhập thị trường và đa dạng hóa đòi hỏi sự gia
tăng doanh số bán hàng thông qua những sản phẩm và thị trường
mới.
Thứ hai, sự phân khúc thị trường cho phép doanh nghiệp có thể
họat động với những nguồn lực có hạn, ví nó không đòi hỏi phải
sản xuất đại trà, phân phối rộng rãi, và quảng cáo rầm rộ, nên
có thể thúc đẩy một công ty nhỏ cạnh tranh với công ty lớn nhờ
tối đa hóa lợi nhuận trên một đơn vị và doanh số bán hàng trên
một phân khúc. Việc đánh giá các phân khúc thị trường tiềm năng
đòi hỏi các nhà quản trị chiến lược phải xác định đặc điểm và
nhu cầu của người tiêu dùng, phân tích giống nhau và khác biệt
về người tiêu thụ, và phát triển hình ảnh về các nhóm khách
hàng.
Page 6
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
III. Định vị sản phẩm
Một sai lầm nghiêm trọng mà các công ty thường mắc phải là
họ cho rằng họ biết những khách hàng mong muốn cái gì. Nhiều
công ty đã thành công nhờ lấp đầy khỏang trống giữa những gì
khách hàng có nhu cầu và nhà sản xuất cho là một sản phẩm tốt.
Cái mà khách hàng cho là dịch vụ tốt là điều quan trọng nhất
chứ không phải cái mà nhà sản xuất tin rằng đó mới là dịch vụ
tốt. Việc xác định các khách hàng mục tiêu và dựa vào đó để tập
trung các nỗ lực marketing đã thiết lập quyết định: làm như thế
nào để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đặc
biệt, là mục đích của định vị sản phẩm.
Một chiến lược định vị sản phẩm hữu hiệu thỏa mãn 2 tiêu
chuẩn: (1) nó phân biệt doanh nghiệp với các đối thủ cạnh
tranh, và (2) nó khiến cho khách hàng mong đợi một lượng dịch
vụ hơi ít hơn lượng mà công ty có thể cung cấp. Các công ty
không nên tạo ra sự mong đợi lớn hơn lượng dịch vụ công ty có
thể hay sẽ cung cấp. Điều này luôn là một thách thức đối với
các nhà tiếp thị. Các công ty cần thông báo cho khách hàng cái
mà họ mong đợi và sau đó thực hiện tốt hơn lời hứa; hứa ít và
sau đó làm nhiều.
Page 7
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN II: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA MICROSOFT
I. Bước đầu thành lập.
Microsoft là một tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới, được
thành lập năm 1975 bởi Willam H.Gates, III và Paul Allen, hai
người bạn từ thời niên thiếu cùng có chung niềm đam mê đối với
lập trình máy tính. Ngày 01-01-1975, sau khi đọc tờ tạp chí
Điện tử phổ thông đăng tin về việc sản xuất máy tính Altair
8800, Bill Gates – đang là sinh viên năm thứ hai của trường
Harvard – đã gọi cho nhà sản xuất MIST (Micro Instrumentation
and telemetry Systems) đề xuất viết ngôn ngữ lập trình cho máy
này.
Gates chẳng có một trình thông dịch cũng như một hệ thống
Altair nào. Ông và Paul đã phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên
máy tính của trường để hoàn thành bản demo của BASIC – ngôn ngữ
lập trình đầu tiên được viết cho máy tính cá nhân. Kết quả là
bản demo đã chạy tốt và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul Allen
gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm; còn Bill nhận ra
giá trị to lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành công ban
đầu đó, anh hiểu rằng thời cơ của mình đã đến.
Bill quyết định bỏ học và ngày 04-04-1975, Micro-soft (tên
viết tắt của Microcomputer software - Phần mềm cho máy tính cá
nhân) ra đời tại Albuquerque, New Mexico. Không ít bạn bè người
thân khi đó đã chỉ trích việc bỏ học của Bill, nhưng cho tới
bây giờ, thực tế đã chứng minh được rằng Bill đã đúng.
Page 8
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft lần đầu tiên xuất hiện
xuất hiện trong một bức thư của Bill Gates gửi cho Paul Allen.
Ngày 26-10-1976, Microsoft chính thức được đăng ký thương hiệu
như chúng ta đã biết ngày nay.
Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng
sản xuất máy tính non trẻ Apple, nhà sản xuất máy tính PET
Comodore và Tandy Corporation chuyên về loại máy tính Radio
Shack TRS-80. Năm 1997, Microsoft cho ra mắt sản phẩm ngôn ngữ
lập trình thứ hai là Microsoft Fortran. Cũng trong năm này,
Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch Microsoft Corp, còn
Paul Allen là phó chủ tịch.
Page 9
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
II. Những bước phát triển.
Trong suốt hơn 30 năm qua, tập đoàn Microsoft đã tăng
trưởng không ngừng với một tốc độ đáng kinh ngạc, luôn nhận
được sự chú ý cũng như ngưỡng mộ của công chúng. Rất nhiều
thanh niên Mỹ đã xem Bill như một tấm gương sáng noi theo. Lịch
sử hình thành và phát triển của Microsoft luôn gắn với những
bước ngoặt mang tính đột phá trong việc tạo ra các sản phẩm
công nghệ phần mềm thế hệ mới.
1. MS – DOS
Năm 1979, Gates và Allen dời công ty tới Bellevue,
Washington. Với 25 nhân công, một vài sản phẩm ngôn ngữ máy
tính mới và doanh thu hàng năm đạt khoảng 2,5 triệu đô la,
Microsoft đã xin được giấy phép sử dụng hệ điều hành UNIX và
phát triển hệ XENIX - hệ điều hành cho máy tính thu nhỏ. Năm
1980, IBM chọn Microsoft viết hệ điều hành cho máy tính cá nhân
của họ. Dưới áp lực về thời gian, Microsoft đã chọn mua lại 86-
DOS từ một công ty nhỏ tên là Settle Computer Products với giá
50000 đô la rồi cải tiến nó thành MS – DOS (Microsoft Disk
Operating System).
Là một phần trong hợp đồng với IBM, Microsoft được phép cấp
phép sử dụng hệ điều hành này cho các công ty khác. tới năm
1984, Microsoft đã cấp phép sử dụng MS – DOS cho 200 nhà sản
xuất máy tính cá nhân, biến MS – DOS trở thành hệ điều hành
chuẩn cho máy PC và giúp Microsoft có bước phát triển vượt bậc
trong thập kỷ 80. Năm 1983, Allen rời khỏi công ty nhưng vẫn
có chân trong ban giám đốc tới năm 2000 và tiếp tục là cổ đông
chính của Microsoft.
2. Phần mềm ứng dụngPage 10
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Cùng với sự thành công của MS – DOS, Microsoft bắt đầu phát
triển các phần mềm ứng dụng cho máy tính cá nhân. Năm 1982, họ
cho ra đời Multiplan, một chương trình bảng tính, năm tiếp theo
là chương trình xử lý văn bản, Microsoft Word. Năm 1984,
Microsoft là một trong số ít các công ty phần mềm phát triển
các ứng dụng cho máy Macintosh – máy tính cá nhân do Apple
Computer sản xuất. Những phần mềm này bao gồm Word, Excel và
Work (Một bộ phần mềm tích hợp) đã đạt được thành công to lớn.
3. Windows
Năm 1985, Microsoft cho ra đời sản phẩm Windows, một hệ
điều hành sử dụng giao diện đồ họa người dùng với những tính
năng mở rộng của MS – DOS trong nỗ lực cạnh tranh với Apple
Computer. Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính
tương thích với IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày
nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được tạo ra cho kiến
trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống
xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất
hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC Alpha.
Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên
phổ biến hơn và ngược lại. Năm 1987, Windows 2.0 ra đời với
cách làm việc được cải tiến và hình thức mới hơn. Năm 1990 là
phiên bản Windows 3.0 mạnh hơn, rồi kế đó là Windows 3.1 và
3.11. Những phiên bản này được cài sẵn trong hầu hết các máy
tính cá nhân nên đã nhanh chóng trở thành hệ điều hành được sử
dụng phổ biến nhất. Trong năm này, Microsoft đã trở thành hãng
sản xuất phần mềm máy tính đầu tiên đạt kỷ lục 1 tỷ đô la doanh
thu hàng năm.
Page 11
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Năm 1993, Microsoft tung ra sản phẩm Windows NT, một hệ
điều hành cho môi trường kinh doanh. Một năm sau đó họ đạt được
thõa thuận với bộ tư pháp trong việc thay đổi cách các hệ điều
hành được đăng ký và bán cho các nhà sản xuất máy tính.
Năm 1995, Windows 95 đã được ra mắt với một giao diện hoàn
toàn mới với nút và menu Start, cho người dùng truy nhập các
chương trình đã cài đặt và nhiều chức năng khác của hệ điều
hành. Hàng triệu bản copy của Windows 95 đã được bán hết chỉ
trong bốn ngày đầu. Vào tháng 9, chính phủ Trung Quốc đã chọn
Windows làm hệ điều hành được sử dụng ở nước này và thõa thuận
với Microsoft chuẩn hóa phiên bản tiếng Trung của hệ điều hành
này.
4. Những thành công gần đây
Bất chấp những rắc rối trên pháp đình về tội lạm dụng độc
quyền, Microsoft vẫn tiếp tục có những thành công bước đường
kinh doanh của mình. Tới giữa thập kỷ 90, Microsoft đã bắt đầu
mở rộng sang các lĩnh vực giải trí, truyền hình và truyền
thông... Năm 1995, Microsoft thành lập Microsoft Network chuyên
cung cấp thông tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho người
dùng máy tính cá nhân.
Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho
ra đời MSNBC. Cũng trong năm này, Microsoft giới thiệu sản phẩm
Windows CE dành cho PDA. Năm 1997, Microsoft trả 425 triệu đô
la để mua WebTV Networks, nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV
với Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1 tỷ đô la vào
Comcast Corporation, nhà điều hành truyền hình cáp ở Mỹ như một
phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nối Internet tốc độ cao.
Page 12
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Tháng 6/1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết
hợp các tính năng hỗ trợ Internet.
Năm 1999, Microsoft trả 5 tỷ cho công ty truyền thông AT&T
Corp để sử dụng hệ điều hànhWindows Ce cho các thiết bị cung
cấp cho khách hàng với truyền hình cáp, điện thoại và các dịch
vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999 công ty phát hành Windows
2000, phiên bản cuối cùng của Windows NT. Tháng một năm 2000,
Bill Gates chuyển giao vai trò điều hành cho Steve Ballmer. Bản
thân Bill Gates vẫn giữ ghế chủ tịch, đồng thời là kiến trúc sư
trưởng chuyên phát triển các sản phẩm và công nghệ mới.
Năm 2001 Microsoft phát hành Windows XP, hệ điều hành cho
người tiêu dùng đầu tiên không dựa trên MS – DOS. Cũng trong
năm này Microsoft giới thiệu Xbox, một thiết bị Video game của
công ty. Trong chiến lược công ty cũng có sự chuyển hướng khi
tuyên bố một chiến lược mới mang tên .Net (Dot Net). Chiến lược
này tìm kiếm khả năng cho phép các thiết bị đa dạng như PC,
PDA, điện thoại di động kết nối với nhau qua Internet, đồng
thời tự động hóa các chức năng của máy tính.
Trong thế kỷ 21, Microsoft sẽ phát triển các chương trình
kinh doanh bao gồm các phiên bản mới của Microsoft Network, kết
nối không dây cho Internet. Năm 2003, công ty bắt đầu chú trọng
vào “máy tính đáng tin cậy” đòi hỏi các lập trình viên phải cải
thiện khả năng bảo vệ của phần mềm trước sự tấn công của virus
và các phần mềm gián điệp. Gần đây nhất là hệ điều hành Windows
Vista đã được khá nhiều người chấp nhận với tốc độ nhanh gấp
hai lần so với Windows XP, cụ thể chỉ trong tháng đầu tiên phát
hành đã bán được 20 triệu bản.
Page 13
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Sự thành công của Microsoft còn được thể hiện qua sự gia
tăng liên tục gấp nhiều lần qua các năm của giá cổ phiếu và các
chỉ tiêu tài chính của công ty như tổng doanh thu và thu nhập
ròng.
Một số chỉ tiêu tài chính của Microsoft trong ba năm gần
đây.
Chỉ tiêu 30 – 06 –
2004
30 – 06 –
2005
30 – 06 –
2006
Tổng doanh
thu
36,835,000 39,788,000 44,282,000
Thu nhập ròng 8,168,000 12,254,000 12,599,000
Từ những thành công trên, người ta thấy được đằng sau nó là
hình bóng của một phong cách quản trị riêng rất Bill Gates, thể
hiện ở nhiều mặt. Sau đây là một số nghệ thuật quản trị của
Microsoft trong lĩnh vực nhân sự và chiến lược.
Page 14
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN III: QUẢN TRỊ NHÂN SỰ
Quản trị nhân sự là một lãnh vực phức tạp và khó khăn, nóbao gồm nhiều vấn đề như tâm lý, sinh lý, xã hội, triết học,đạo đức và thậm chí cả dân tọc học. Nó là một khoa học nghệthuật - nghệ thuật quản trị con người. Đối với Mricosoft quảntrị nhân sự là nhân tố quan trọng đưa đến thành công của côngty. Chính sách quản trị nhân sự chủ yếu nằm trong chính sáchtuyển dụng, kiến tạo môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ.I. Chính sách tuyển dụng
Cũng như một đoàn quân khi ra trận, yếu tố thành bại ở đây
là nhân tố con người với trí thông minh và lòng quả cảm của họ.
Chính sách tuyển dụng người tài bao giờ cũng được đặt lên hàng
đầu tại Microsoft.
Microsoft cố gắng thuê được những người thông minh, hay còn
có thể gọi là khôn ngoan cũng được, tùy theo cách hiểu của mỗi
người về hai từ này. Tiêu chuẩn được nói một cách ước lệ ở đây
là: những người nằm trong số 5% thông minh nhất hành tinh trong
lĩnh vực chuyên môn của họ.
Vậy thông minh nhất được hiểu như thế nào? Điều đó tùy
thuộc vào công việc mà họ sẽ làm, là người quản lý sản phẩm
hay lập trình, là luật sư hay kế toán... của công ty. Phải hiểu
là chọn những người khôn ngoan nhất cho công việc của họ và từ
khóa là khôn ngoan chứ không phải biết nhiều.
Người thông minh là người có khả năng khởi động sớm bộ não
để suy nghĩ. Họ có vai trò quan trọng chủ chốt, bởi vì những
người này có thể nắm bắt được lỗi lầm sớm nhất và sẽ bắt kịp
với cách làm việc hiệu quả hơn trong công việc, do vậy tiết
kiệm thời gian trong hoạt động của chính mình cũng như tiết
kiệm thời gian, tiền bạc của công ty.Page 15
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Tại Microsoft phải thật thông minh mới có thể thành công
được. Những con người thông minh chỉ luôn mong được làm việc
với những người thông minh. Các nhân viên tại Microsoft phải là
những người thật giỏi bởi rồi họ sẽ phải làm việc với những
người cũng rất thông minh. Một trong những điều thú vị là làm
việc tại Microsoft cho dù là người thông minh đến mức nào thì
họ vẫn luôn phải cố gắng hàng ngày tương xứng với công việc của
mình.
Để tuyển được các nhân tài cho hãng, bộ phận nhân sự do
David Pritchard làm giám đốc đặt nhiệm vụ áp dụng các biện pháp
hữu hiệu nhất để tuyển và đào tạo ra các siêu nhân. Việc lựa
chọn người được tiến hành dưới nhiều hình thức. Hàng chục nhân
viên làm việc theo kiểu săn đầu người chuyên theo dõi các
chuyên gia giỏi nhất của các hãng nổi trội trong công việc mà
bản lĩnh và tài năng đã được thừa nhận. Các nhân viên của
Microsoft tiếp xúc công khai hoặc bí mật với họ; lôi kéo, mua
chuộc bằng các ưu thế vật chất và tinh thần của Microsoft, vì
biết rằng riêng cái tên Microsoft đã có sức lôi kéo rất lớn đối
với đa số các chuyên gia tin học ở Mỹ cũng như ở nước ngoài.
Những nhân tài này còn có thể tiềm ẩn trong số các sinh viên
của các trường đại học, thông qua bảng điểm và khả năng sáng
tạo qua các kỳ thi hay các hội chợ lớn. Nhưng việc lựa chọn
không chỉ bó hẹp trong ngành chuyên môn tin học. Là một công ty
hàng đầu, năng động, Microsoft còn nhắm cả vào đội ngũ các
chuyên gia tài chính, marketing, tổ chức mạng lưới thương
mại.... Điều bắt buộc đó là những người cực kỳ giỏi vì
Pritchard đã từng nói: Khi tuyển nhầm những người có khả năng
trung bình thì đó là chuẩn bị cho ngày tàn của Microsoft!
Page 16
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Sau khi lọc lựa hàng nghìn hồ sơ để chọn một, nhờ có hệ
thống xử lý thông tin tin học đánh giá một cách tổng hợp, các
ứng cử viên phải qua một đợt phỏng vấn. Một nhóm 4-5 người của
bộ phận nhân sự sẽ tiến hành phỏng vấn đối với những người dự
tuyển. Mỗi người phỏng vấn một giờ và từng người phỏng vấn lần
lượt. Tất nhiên câu hỏi rất khó, có thể làm nản lòng những
người tự tin nhất. Song các giám khảo không cho câu trả lời
đúng hay sai là quan trọng. Cái họ quan tâm là năng lực tư duy
để xác định cách ứng xử thông minh và nhanh nhạy của mỗi ứng cử
viên trước mỗi tình huống khó cần giải quyết. Đối với cuộc
phỏng vấn kỹ thuật có những câu hỏi về lập trình, câu hỏi nọ
nối tiếp câu hỏi kia, trong lúc đó các ứng cử viên này phải
viết ra một chương trình ngắn để trả lời. Đối với vị trí của
người quản lý phần mềm thì thí sinh này được trao cho các tình
huống và cách họ sẽ giải quyết các tình huống đó như thế nào.
Nếu những câu trả lời chung chung thì ứng cử viên sẽ được đẩy
vào các tình huống đặc biệt và chứng tỏ ứng cử viên không biết
rõ chủ đề. Mỗi người phỏng vấn ngay khi cuộc phỏng vấn kết thúc
đều phải gửi e-mail cho tất cả những người phỏng vấn khác với
chỉ một từ “thuê” hay “không thuê”.
Microsoft tuyển dụng nhân viên, đánh giá con người khôngdựa vào bằng cấp của họ bằng chứng là họ tuyển cả người cònchưa tốt nghiệp được trung học cũng như ngành tin học. Nhưngnhững người này lại được trả lương như những người có bằng cấp.Không có lý do gì trong bất kỳ một ngành công nghiệp nào mà lạikhông thuê một người có phẩm chất đơn thuần chỉ vì họ không cóbằng cấp cả, tất cả vấn đề là những người ấy có thể thực hiệncông việc tốt đến đâu.
Được nhận vào Microsoft, có thể ai đó đã tự hào là một nhân
tài rồi đấy. Nhưng chưa phải là đã yên vị, còn phải biết cố
gắng liên tục để giữ ghế. Cứ 6 tháng một lần, mọi người phảiPage 17
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
trải qua các cuộc đánh giá hiệu quả làm việc. Những cuộc đánh
giá như vậy sẽ cho thấy một người có làm tụt hậu công ty không,
nếu có chắc kết quả sẽ là gì rồi. Kết quả đánh giá sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thăng tiến nghề nghiệp của bạn, mức lương,
số cổ phiếu được phân phối.
Để minh chứng cho việc tuyển dụng này xin giới thiệu về quy
trình tuyển dụng của Microsoft, được biết đến với tên gọi “vở
kịch ba màn”. Màn thứ nhất – chỉ đơn thuần là việc phỏng vấn
tuyển lựa sơ bộ qua điện thọai. Người phỏng vấn gọi điện cho
ứng viên và nói chuyện với anh ta khoảng chừng 30 phút. Trong
cuộc phỏng vấn mở màn này, ứng viên thường gặp phải những câu
hỏi truyền thống, còn những bài toán đố rất ít khi được áp dụng
ở đây. Đôi khi, ứng viên cũng sẽ gặp những câu hỏi kiểu như
“Bạn sẽ kiểm nghiệm lọ rắc muối tiêu như thế nào?”. Những câu
trả lời qua điện thoại của ứng viên sẽ giúp nhà tuyển dụng ra
quyết định, liệu có nên mời ứng viên đến trụ sở chính của
Microsoft ở Redmond hoặc ở những nơi khác để tham dự vào các
màn tiếp theo của vở kịch hay không.
Vở kịch phỏng vấn thường kéo dài cả một ngày. Buổi sáng,
các nhân viên tuyển dụng của Microsoft nhận được danh sách ứng
viên mà họ cần phải phỏng vấn, đương nhiên, ứng viên không thể
biết được danh sách này. Thông thường, mỗi một ứng viên sẽ phải
trải qua 6 cuộc phỏng vấn Trong danh sách họ tên của chuyên gia
phỏng vấn cuối cùng thường có kèm thêm dòng chữ “nếu cần
thiết”, nghĩa là trong tất cả các cuộc phỏng vấn trước, nếu ứng
viên đã “trả bài” một cách xuất sắc, gần như chắc chắn là anh
ta sẽ được nhận vào làm. Thông thường, người phỏng vấn “nếu cần
thiết” này chính là sếp của ứng viên mới và là người ra quyết
định cuối cùng có tiếp nhận họ vào làm việc hay không.Page 18
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Trong quá trình phỏng vấn, nhân viên tuyển nhân sự của
Microsoft thường bí mật trao đổi ý kiến với nhau thông qua thư
điện tử hoặc các cách khác mà họ quy ước với nhau. Họ thường
dẫn ứng viên đến phòng làm việc của người phỏng vấn tiếp theo
và có thể trao đổi thông tin qua cái bắt tay. Tín hiệu thường
là ngón tay cái chỉ lên hoặc cụp xuống. Trong mọi trường hợp,
mỗi nhân viên phỏng vấn phải gửi thông tin “phản hồi” cho các
đồng nghiệp. Thông thường, đánh giá tóm tắt về ứng viên được
gửi qua e-mail đến tất cả các phỏng vấn viên đã và sẽ phỏng
vấn. Trong nhiều trường hợp, thông tin đó đến với người nhận
lúc đang giữa cuộc phỏng vấn.
Các đánh giá, nhận xét về ứng viên thường tuân theo một
nguyên tắc nhất định: chỉ có 2 phương án – “nhận” hoặc “không
nhận” vào làm việc. Và sự đánh giá này được mã hóa bằng hai số
0 hoặc 1.
Sau 3 cuộc phỏng vấn đầu mà nếu như nhân viên tuyển dụng
cảm thấy chẳng đi đến đâu, buổi phỏng vấn tiếp theo (được tổ
chức nguyên cả buổi chiều) thường bị hủy mà nguyên nhân thường
được hiểu là do tắc đường, chậm máy bay, sự vắng mặt của nhân
viên hoặc vô vàn các lý do cá nhân đột xuất khác. Những diễn
biến tiếp theo có thể so sánh với một cuộc tìm kiếm vô vọng.
Chuyên gia phỏng vấn với tâm trạng ngao ngán, thất vọng sẽ vẫn
tiếp tục cuộc trò chuyện với ứng viên khi quyết định loại bỏ họ
chưa hoàn toàn trở nên quá lộ liễu. Có thể là hơi lạ lùng, nhưng việc từ
chối thông thường xảy ra vào bữa ăn trưa (người ta mua cho ứng
viên bánh mỳ kẹp thịt, đưa ra vài lý do bào chữa cho việc hoãn
phỏng vấn, và rồi “Chúng tôi có số điện thoại của bạn. Khi cần
chúng tôi sẽ gọi điện”).
Page 19
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Hiển nhiên, các ứng viên khi đến dự phỏng vấn ở Microsoft
đều không thể biết rằng màn diễn đó thường xuyên xảy ra. Tình
huống này cũng xuất hiện trong danh sách dài ngoằng những lời
khuyên dành cho ứng viên chuẩn bị phỏng vấn ở Microsoft trên
trang web của tập đoàn: “Nếu trong tiến trình phỏng vấn bạn có ý nghĩ muốn
đánh giá xem việc trả lời của mình diễn ra có thuận lợi hay không, thì hãy cố quên nó
đi. Đừng thất vọng nếu bạn trả lời không đúng một câu hỏi nào đó... có thể cảm giác
của bạn khác với sự thật. (Chuyện này vẫn thường xảy ra trong các cuộc thi, khi mà
bạn cảm thấy mình đang làm sai bét nhưng thực tế lại không hẳn vậy, hoặc ngược
lại). Đừng đánh mất bản thân – những ứng viên như vậy mới chính là những người
mà chúng tôi cần”.
II. Môi trường làm việc
1. Sự liên kết các nhóm nhỏ năng động
Người ta thường nói đến Microsoft như là một công ty độc
quyền khổng lồ sẵn sàng nuốt chửng những gì nó gặp phải trên
đường tiến. Tuy nhiên, do quy mô lớn, các công ty loại này
thường kém năng động hoặc chậm thay đổi để thích nghi với thị
trường hơn các công ty nhỏ, dẫn tới việc các công ty lớn thường
trì trệ, tăng trưởng chậm. Còn Microsoft lại là ngoại lệ, mặc
dù có quy mô khá lớn nhưng công ty lại tăng trưởng như những
công ty nhỏ. Vậy bí quyết nằm ở đâu?
Rõ ràng là nếu coi hiệu suất công việc là quan trọng thì
nhóm làm việc nhỏ là cách tổ chức tốt nhất. Các nhóm làm việc
nhỏ thường có rất nhiều sáng tạo trong công việc, đổi mới công
nghệ, cải tiến để làm tăng hiệu suất chung. Cấu trúc tổ chức
được thiết kế theo nhóm dự án là hợp lý, vừa sát với công việc
lại rất dễ dàng đổi mới khi cần thiết. Vì vậy, Microsoft được
tổ chức như là tập hợp các nhóm làm việc nhỏ gọn. Công ty dành
Page 20
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
mọi ưu tiên tối đa về thời gian và nguồn lực, phương tiện cho
các nhóm. Trong công ty chỉ có vài bộ phận như bộ phận làm
nhiệm vụ thư tín-điện thoại, thông tin quản lý hay trung tâm
quảng cáo, luật để đảm bảo sự hiện diện của công ty như một bức
tranh thống nhất. Các bộ phận này được quản lý bởi một trung
tâm điều hành, theo dõi sự phối hợp giữa các nhóm trong công ty
mẹ. Công ty cũng cai quản các dự án theo nghĩa trong khi từng
nhóm kiểm soát công việc của mình trong dự án thì nó cũng nằm
cả trong một chiến lược lớn của công ty.
Công ty lớn nhưng hoạt động vẫn linh hoạt như một công ty
nhỏ, đấy chính là một bí quyết của sự tăng trưởng nhanh chóng
của Microsoft.
2. Đoàn kết là sức mạnh
Tinh thần của toàn công ty là một ưu thế cạnh tranh cực kỳ
lớn của Microsoft. Khi cần tham gia một trận đánh lớn thì lúc
đó tinh thần toàn công ty gồm trên 30.000 người được bộc lộ
mãnh liệt nhất, như đã thể hiện trong việc cho ra đời phần mềm
Internet Explorer trong một thời lượng kỷ lục là 9 tháng để
đuổi kịp và vượt Netscape Navigator. Với tinh thần đoàn kết đó,
tất cả đều cố gắng để hoàn thành bất kỳ việc gì, đều tập trung
để đạt đến cùng một mục tiêu.
Để gắn kết mọi người với công ty, Microsoft có một chính
sách để tất cả các nhân viên đều sở hữu một phần dự án của
mình. Hiển nhiên là tất cả những người này đều phải làm việc
với nhau nhưng mỗi người vẫn sở hữu riêng một phần kết quả công
việc của mình.
Điều chủ chốt tượng trưng cho tinh thần của toàn công ty là
sự tập trung tối đa vào một đề án của mỗi người. Sự tập trung
Page 21
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
này tạo cho mỗi nhân viên một cái gì đó để sống và chết. Các
nhân viên có thể sống, ăn, ngủ và thở theo dự án của họ và họ
sẽ làm như vậy. Điều này không phải là nói quá. Mọi người tại
Microsoft vào mọi lúc sẽ làm một chút ít gì đó khác hơn là việc
ngủ và làm việc. Họ thường làm việc ngoài giờ mà đấy là sự tình
nguyện của họ chứ không phải bởi vì họ được yêu cầu phải làm.
Cách làm việc tập trung cũng cho phép nhân viên đạt được hiệu
suất hơn. và một môi trường hiệu suất giúp tái tạo ra tinh thần
toàn công ty bởi vì mọi người hạnh phúc hơn, sung sướng hơn.
Trong công ty thường tổ chức những buổi họp, sinh hoạt
chung với mục đích duy nhất là giải trí, và ở đó đã diễn ra
nhiều trò chơi như những cuộc đấu gươm giữa những người quản lý
cấp dưới và cấp trên chẳng hạn. Mọi người đều cùng cười vui với
nhau, mọi người đều có điều gì đó để nói về những ngày sắp tới,
tham dự vào những sự kiện chung là một phần chủ chốt để xây
dựng nên tinh thần của toàn công ty bên trong tổ chức. Phần lớn
những cuộc chơi này đều kết thúc với một bữa tiệc với những
thức ăn tươi, ngon.
Điều này làm cho mọi người một cơ hội phụ để nói chuyện với
nhau và xây dựng nên tinh thần nhóm. Chạy quanh và bắn bóng hay
súng phun nước trong các phòng hoặc làm một cái gì đó rất thú
vị là chuyện bình thường ở công ty. Mọi người đang làm việc
cũng đều cảm thấy vui vẻ. Vấn đề là họ quyết định làm theo cách
của riêng mình nên mọi sự họ làm nói chung không thể tìm thấy
được làm ở đâu khác nữa.
3. Nơi làm việc là nhà bạn
Từ những ngày đầu thành lập công ty, Bill Gates và Paul
Allen đã đưa tác phong làm việc của chính mình thành “chuẩn
Page 22
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
mực” của Microsoft. Họ muốn làm cho các nhân viên của mình thật
là thoải mái, đạt hiệu suất và sung sướng nhất có thể trong
công việc. “Chuẩn mực” đó là gì vậy? Câu trả lời tìm ở đâu?
Bạn hãy nhìn về gia đình. Mọi người thiết kế gia đình của
mình để thành một nơi mình cảm thấy thoải mái và thích thú
nhất. Họ thiết kế văn phòng của gia đình để là một nơi có thuận
tiện, dễ dàng làm việc, dễ đạt hiệu suất cao.
Microsoft tạo cho tất cả các nhân viên làm việc chính thức
có văn phòng riêng của mình, còn những người làm việc hay thực
tập nội trú thì dùng chung một văn phòng thay cho phòng riêng
cho mỗi người. Trong đó, tất cả mọi người đều có không gian
riêng tư của mình. Đó là của họ. Họ có thể đóng cửa lại, bật
nhạc lên, điều chỉnh ánh sáng và làm việc.
Tại Microsoft, văn phòng mới nói chung giống nhau cho tất
cả mọi người. Các tay lập trình, thiết kế và phó chủ tịch có
được văn phòng rộng gấp đôi. Các nhân viên có quyền tạo ra môi
trường làm việc ưa thích riêng của mình, họ có thể bày biện văn
phòng của mình để ứng với nhu cầu đặc biệt của họ. Bạn có thể
treo lên những bức tranh ảnh, kim loại nặng lên tường, các đèn
lên trên bàn làm việc của mình, rồi các bức tranh, đồ hoạ...
lên cửa nếu bạn quyết chọn như vậy.
Nhiều văn phòng ở Microsoft đều có cửa sổ. Một lần nữa điều
này lại tuân theo hướng dẫn về việc tưởng tượng ra một văn
phòng gia đình vì thực tế không ai có một văn phòng gia đình
lại không có một cửa sổ nào cả. Theo quan điểm đó, gần đây
Microsoft xây thêm các toà nhà nhỏ hơn chứa khoảng 200 văn
phòng và được thiết kế để sao một nửa các văn phòng có cửa sổ.
Kích cỡ toà nhà nhỏ giúp cho duy trì được môi trường thân thiện
Page 23
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
hơn. Toàn bộ tổ dự án Windows 95 có một toà nhà riêng, nó có
thể vận hành về mặt vật lý như một đơn vị tách biệt.
Trong khi tại một số công ty lớn chẳng hạn như IBM nhân
viên phải tuân theo những quy tắc ăn mặc rất nghiêm ngặt và sử
dụng những loại xe vừa phải thì tại Microsoft không có luật quy
định về ăn mặc tại Microsoft. Thay cho các bộ comlê và carvat
mà ta thấy ở các công ty khác, ở Microsoft, trong mùa hè, ra
lại thấy các kiểu áo cộc, áo phông và mọi thứ khác. Cũng như
vậy, bản tin MicroNewws của công ty có đưa ra một lời thông báo
rằng đi chân đất ở mọi nơi đều chấp nhận được, thậm chí khi vào
quán cafe. Tóm lại, làm việc tại nhà bạn mặc gì thì các nhân
viên có thể cũng mặc theo cách như thế ở chỗ làm việc. Mặc dù
chưa thấy ai mặc một bộ đồ tắm để làm việc, nhưng điều đó chắc
cũng được chấp nhận.
Ở Microsoft có một phòng cung cấp luôn mở. Bất kỳ thứ gì
thông dụng đều có sẵn để cho mọi người lấy dùng. Máy photocopy
nếu bạn cần có thể tới đó. Với bất kỳ cái gì ít được sử dụng
thường xuyên thì nhận viên gửi e-mail tới chỗ cung cấp và thứ
yêu cầu đó sẽ được giao vào ngày hôm sau.
Ở Microsoft không có việc quy định giờ làm việc với các nhà
lập trình và điều hành. Tuy nhiên, một số vị trí cần làm đúng
giờ như nhân viên hỗ trợ kỹ thuật, nhân viên tiếp tân của toà
nhà. Các nhân viên có thể chọn giờ làm việc của mình nhưng phải
có những khoảng thời gian xác định hàng ngày. Mọi người có thể
bắt đầu vào những thời gian khác nhau và làm việc theo những
giờ khác nhau mỗi ngày. Liệu điều này có dẫn đến mọi người làm
việc ít hơn không? Ngược lại phần lớn mọi người đều làm ít nhất
10 giờ một ngày. Không có hệ thống ghi hay kiểm tra giờ giấc
Page 24
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
nhân viên. Nhân viên được đánh giá dựa trên công việc họ phải
hoàn thành. Không cần đòi hỏi nhiều hơn cũng không ít hơn.
Microsoft có nhiều quán cafe tại chỗ. Điều này quan trọngvì chúng giúp các nhân viên không cần phải rời khỏi chỗ để điăn. Trong quán có cả món đặc sản, cafe trong một toà nhà nàythì ăn chay,nơi khác phục vụ người sành ăn bánh pizza, hay mónăn dân tộc. Tất nhiên cũng có những quán cafe cung cấp bánh mỳkẹp thịt, xa lát... ăn tại chỗ giúp ích cho công việc. Một lợiích phụ xuất hiện là các nhóm làm việc trên một dự án hoặc cócuộc họp mở rộng thì có thể kéo nhau tới một quán cafe để thảoluận ở đó, không có sự gián đoạn trong những luồng suy nghĩnhóm, với cafe, thức ăn ngon lành, không khí thoải mái họ khôngcó các đặc điểm như ở khách sạn bốn sao nhưng phục vụ thì tốthơn nhiều. Giống như nước uống được cung cấp miễn phí, cafecũng được dùng thoải mái trong môi trường tốt hơn ở nhà vớinhiều thứ dễ chọn. Bill cũng ăn trong những quán cafe hay ngaytại phòng làm việc. Không có các phòng ăn cho khách đặc biệt vìcác chế độ đặc biệt cho các nhân viên cao cấp chỉ gây hại chođạo đức công ty. Vì vậy Bill không đi xe sang trọng, đi máy baycũng chỉ ngồi ghế thường thay vì ngồi ghế hạng nhất. Phòng làmviệc của Bill cũng nhỏ và khiêm tốn, thậm chí trong thời giandài Bill đã không chấp nhận bãi đỗ xe dành riêng cho mình, chođến đầu thập niên 90.
Cách tổ chức nơi làm của công ty chỉ nhằm một mục đích là
làm tăng thêm tinh thần làm việc của nhân viên và do đó tăng
thêm năng suất của từng thành viên. Chế độ trả lương trực tiếp
cũng giữa cho họ tập trung vào công việc. Thực tế các nhân viên
trong hãng sẽ dành nhiều giờ hơn cho công việc của họ, do đó,
Microsoft đã nhận được ích lợi tối đa từ từng nhân viên của
mình.
III. Chính sách đãi ngộ
1. Quan niệm về sai lầm
Ông cha ta thường nói: "Một lần ngã là một lần bớt dại, ai
nên khôn mà chẳng dại đôi lần !". Ở Microsoft người ta không sợPage 25
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
thất bại và sai lầm, và đôi khi còn hơn thế nữa: sai lầm được
coi là tất yếu, điều có thể xảy ra với tất cả mọi người. Nói
cách khác, thượng đế không ban cho ai đặc quyền tránh được sai
lầm hay thất bại. Các nhà lập trình làm sao lại không phạm lỗi
vô ý nào đó trong chương trình máy tính được? Những lỗi này là
do các điều kiện họ đã không xem xét tới, không hiểu một cách
đầy đủ vấn đề hay hệ thống, sai phạm khi gõ vào máy.... Các
công ty phần mềm phải chấp nhận rằng các nhân viên của mình
không phải lúc nào cũng tuyệt đối hoàn hảo và rằng sai hỏng là
một phần thường xuyên của công việc tạo ra các phần mềm. Và
chừng nào chúng không ngây ngô quá đáng thì về cơ bản chúng sẽ
bị quên đi và bỏ qua. Vấn đề mấu chốt là tìm ra các hỏng hóc
nhanh chóng nhất có thể được và tìm mọi cách để khắc phục
chúng.
Để hiểu về những sai lầm được chấp nhận hay thậm chí còn
được khuyến khích ở Microsoft ta hãy hình dung một tình huống
có thể xảy ra tại các doanh nghiệp khác về việc tổ chức triển
lãm của hãng. Nếu người điều hành chấp thuận một cuộc triển lãm
và thế rồi cuộc triển lãm đó thất bại thì thường người này sẽ
bị sa thải, nhưng nếu người đó không chấp nhận việc triển lãm
thì công việc của người đó chẳng có rủi ro gì xảy đến cả. Đa số
những công ty kinh doanh lớn đền làm việc và đánh giá nhân viên
theo phương châm: "Thành công là tốt, nhưng thất bại thì không
thể chấp nhận được".
Tại Microsoft nếu thất bại là nhanh chóng thì được chấp
nhận nhưng thất bại chậm chạp thì lại không chấp nhận được.
Nhưng thậm chí còn không chấp nhận được hơn là không thất bại.
Nếu người ta không bao giờ thất bại thì người ta không thể cố
gắng vươn lên. Thất bại có nghĩa là phải cố gắng làm theo mộtPage 26
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
cách khác hay làm một cái khác trước. Trong phần lớn các trường
hợp, bạn sẽ tìm ra một cách tiếp cận khác, một hệ thống khác,
một giải pháp khác tốt hơn mà sẽ phải áp dụng.
Thất bại nhanh chóng thông thường là dẫn tới việc tìm ra
một giải pháp khác thành công một cách nhanh chóng mà không
đóng lại toàn bộ dự án. Phần lớn dự án thất bại thì được coi là
không thất bại vì không còn cách nào có thể làm cho chúng đi
đến thành công. Chúng ta đã đi sai đường và không ai có thể
thay đổi hướng đi một khi đã thành một điều hiển nhiên rằng con
đường đó mang định mệnh duy nhất - thất bại.
Một việc trình bày về trạng thái của dự án cho cấp quản lý
cũng phải bao gồm một điều là các nhân tố rủi ro hiện có của dự
án và các rủi ro thực tế sẽ được đo lường như thế nào? Không ai
trong cấp quản lý lại có thể chấp nhận một báo cáo trạng thái
mà không có một danh sách các rủi ro được biết tới và chính
yếu. Tại Microsoft thất bại là được dự kiến, không ai đã thành
công ở đó mà không có một thất bại điển hình nào. Trong một vài
trường hợp người chịu trách nhiệm cho thất bại lại đáng được
nêu gương bởi những điều họ học được từ các thất bại đó. Có
những thất bại có thể tránh được. Đôi khi kết quả của việc
không có khả năng hoặc là của yếu kém, điều chủ chốt là bạn
hiểu tại sao các thất bại đó xuất hiện.
Tại Microsoft không có sự trừng phạt cho những thất bại
không thể hiểu được. Trên con đường đi tới thành công, bên cạnh
những điều ngu dốt quá đáng là những phần thưởng xứng đáng cho
sự thành công, cho nên những nhân viên của Microsoft sẽ cố gắng
hết sức từ thành công này đến thành công kia mà không phải quá
lo lắng về những nỗ lực đó có thể không dẫn tới thành công.
Page 27
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Điều quan trọng nữa là các nhân viên sẽ không phí phạm nhiều
thời giờ vào các nhiệm vụ mà không có hiệu suất, được mang
nghĩa bao quát bất kỳ sự khiển trách nào về những sai lầm dẫn
đến thất bại.
Ngay lập tức sau khi mỗi dự án được hoàn tất, Microsoft
cũng như nhiều công ty kỹ nghệ cao sẽ họp tổng kết dự án. Trong
các cuộc họp, người ta luận về mọi điều đã làm, làm đúng hay
sai và những điều có thể để làm tốt hơn. Mục đích cuộc họp là
để vạch ra cách thức tiến hành đó tốt hơn, ít sai lầm nhất vào
lần sau.
Các bài học về sai lầm được phổ biến rộng rãi cho mọi người
rút kinh nghiệm. Thu được bài học từ những sai lầm của người
khác bai giờ cũng phải trả giá thấp nhất. Trong công ty có quy
tắc bất thành văn là một tin tức xấu đều phải được phát tán,
loan báo nhanh chóng. Mọi điều cảnh báo chỉ có giá trị khi ta
biết trước khi chúng có thể xảy đến.
Tại Microsoft, các nhân viên không phải lo lắng gì về sự
bất đồng đơn giản có lý do hợp lý đều được trông đợi và mọi
người đều thực hiện điều đó. Sự sẵn sàng tranh đấu này và việc
không có bất đồng nghiêm trọng với cấp quản lý đen lại cho các
nhân viên quyền lực phi thường. Khi có sự bất đồng thì người
nhân viên phải có một lý dio hợp lệ, cụ thể hỗ trợ và phải đưa
ra được giải pháp tốt hơn. ở đây, bất đồng với thủ trưởng không
phải là điều đáng sợ, mà sợ nhất là mình không nhìn ra sai lầm
của chính mình.
2. Chính sách đãi ngộ
Không có nhiều phần thưởng được trao tại Microsoft. Phần
thưởng trong mọi trường hợp là cổ phiếu Microsoft bổ sung. Việc
Page 28
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
mua bán cổ phiếu không phải là mục tiêu chủ chốt để xây dựng
nên tinh thần toàn công ty, nhưng là cách hiệu quả nhất và dễ
dàng thực hiện nhất. Việc mua bán cổ phiếu cũng quan trọng
tương đương trong việc giữ mọi người ở lại công ty. Có một thực
tế là hơn 5000 nhân viên Microsoft đã trở thành các triệu phú
thông qua hoạt động cổ phiếu ưu đãi (stock-option) - một điều
chưa từng có ở bất kỳ một công ty nào trên thế giới.
Lương không phải là điều hấp dẫn nhất tại Microsoft. Bill
Gates từng nói: “Tôi không trả lương cao cho nhân viên, nhưng
ai nấy đều thấy khoan khoái vì có cảm giác rằng mình là người
đang thay đổi thế giới”. Thực tế, tiền lương Microsoft trả cho
nhân viên kém các công ty khác đến 15%. Nhưng không sao, cái
quan trọng là thu nhập từ stock-option mà tổng trị giá lên đến
25 tỷ.
Vốn đầu tư của Microsoft tăng lên liên tục, giá cổ phiếu -
do công ty ăn nên làm ra tăng không ngừng. Trong không đầy 3
năm, giá cổ phiếu tăng từ 23,4 USD lên khoảng 140 USD hiện nay.
Các phân phối stock-option của Microsoft cũng làm các nhân viên
toàn tâm, toàn ý với công ty dốc lòng, dốc sức đưa công ty đi
lên.
Nhìn chung, cách quản trị nhân sự của Microsoft từ quy
trình tuyển dụng khắt khe cho đến phong cách quản lý nhân viên
làm việc đều nhằm hướng đến mục tiêu tuyển chọn và sử dụng
những nhân tài, những người có tài năng thực sự. Đây có thể là
những người thông minh nhất trong các lĩnh vực vì vậy cách thức
quản lý họ cũng phải phù hợp để có thể giữ được họ phục vụ cho
công ty. Mỗi người trong công ty sẽ cùng nhau làm việc, trở
thành những đồng nghiệp của nhau, do đó không ai được trở thành
Page 29
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
gánh nặng cho người khác. Microsoft cho rằng chất lượng nhân sự
là quan trọng nhất, quyết định đến năng suất của công ty. Không
có hệ thống quản lý nào dù tốt đến đâu có thể bù đắp được sự
thiếu thốn lực lượng nhân viên giỏi, nhưng có thể ngược lại.
Page 30
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN IV: HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC
I. Chính sách “sản phẩm hướng người dùng”.
Trong một nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển
mỗi công ty phải chọn cho mình một chiến lược tạo, củng cố,
phát triển và cao nhất là chiếm lĩnh thị trường. Đấy luôn là
vấn đề mang tính nguyên tắc số một cần phải giải quyết. Trong
trào lưu toàn cầu hoá kinh tế, nhất là đối với các công ty tầm
cỡ toàn cầu, vấn đề chịến lược cạnh tranh và chinh phục thị
trường lại mang một ý nghĩa quyết định.
Microsoft, dưới sự lãnh đạo của Gates, đã đặt nhiệm vụ
trọng tâm là liên tục tạo ra và cải tiến các phần mềm sao cho
chúng ngày càng "thân thiện" hơn, hiệu quả cao hơn do đó là hấp
dẫn hơn đối với người sử dụng. Đấy là chính sách "sản phẩm
hướng người dùng". Với chính sách này, Gates và Microsoft đã và
sẽ tham gia vào mọi cuộc chơi trong các trận đấu phần mềm cho
máy PC và giải pháp mạng, sẽ làm bất kỳ những gì cần thiết để
giành chiến thắng. Công ty đã mở rộng, thiết lập hàng chục mối
quan hệ với các đối tác và mua lại được nhiều sản phẩm nổi
tiếng để phát triển đáp ứng các yêu cầu đa dạng của khách hàng.
Trong quá trình phát triển thần tốc hơn 20 năm, công ty
Microsoft luôn đặt nhu cầu của khách hàng lên vị trí hàng đầu
trong chiến lược phát triển của công ty, chính vì họ luôn tập
trung vào các nhu cầu của khách hàng, phát triển ra thị trường
phần mềm máy tính rộng lớn như ngày hôm nay, từ đó làm cho công
ty Microsoft trở thành người ban hành quy tắt cho ngành công
nghiệp phần mềm máy tính. Với Bill Gates khách hàng mãi mãi là
thượng đế, hàng loạt các phần mềm do ông phát triển, kể cả các
Page 31
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
phần mềm nhỏ bé, cũng luôn quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của
khách hàng. Không chỉ có vậy, vào lúc quan trọng khi mà công ty
Microsoft phải đối mặt với nguy cơ liên quan đến vụ kiện “độc
quyền” của toà án Mỹ, Bill Gates vẫn luôn nhìn nhận sự mê hoặc
của những khách hàng của Microsoft đối với công ty có thể bị
thay đổi là một số vấn đề vô cùng quan trọng. Do đó chủ tịch
hội đồng quản trị Bill Gates và tổng giám đốc kiem CEO, Steve
Ballmer đã gửi thư cho các khách hàng của công ty vào ngày 6
tháng 9 năm 2000. Trong thư đã chỉ ra cho đến nay 38000 nhân
viên của công ty này vẫn đoàn kết nhất trí, cùng nhau làm việc
để cung cấp cho khách hàng những công nghệ mới nhất, và những
công nghệ mới này sẽ liên kết mọi người bằng một phương thức
mới, nâng cao hiệu quả đối với việc giáo dục trẻ em và người
lao động trí óc, đồng thời có lợi cho việc thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế Mỹ. Trong vụ kiện chống độc quyền của toà án,
Bill Gates hiểu rằng, người quyết định vận mệnh của Microsoft
quyết không phải là toà án Mỹ mà chính là những khách hàng rộng
lớn của Microsoft. Gates coi trọng nhất hai đối tượng, một là
bạn hợp tác, hai là các khách hàng sử dụng phần mềm. Nếu nói,
đối với các đối tác Bill Gates đã thực hiện rắn mềm đủ cả (hết
dỗ dành đến đánh đập), thì ngược lại, Microsoft chăm sóc khách
hàng rất chu đáo. Tháng 12 năm 1994, Microsoft quyết định hoãn
thời gian ra mắt sản phẩm Window 95 đến tháng 8 năm 1995 để
tiến hành kiểm tra thử nghiệm ngặt hơn, mặc dù việc trì hoãn
làm cho mức tăng trưởng thu nhập của Microsoft trong quý 1 và
quý 2 năm 95 giảm xuống 5%, lại còn tiêu tốn hết cả triệu đô la
trong năm có mức thu nhập tiềm năng.
Trong một số sản phẩm do Microsoft sản xuất, những ý kiến
khách hàng từ lâu đã là những điểm xuất phát quan trọng cho
Page 32
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
công tác nghiên cứu phát triển; chẳng hạn việc kiểm nghiệm đã
được bắt đầu năm 1992, cũng không lâu sau khi công ty Microsoft
cho ra đời Window 3.1. Người sử dụng do các công ty lựa chọn
lập thành các tổ nhóm chuyên môn nghiên cứu thảo luận cùng các
kỹ sư, đưa ra những kiến nghị mới đối với những chức năng và
đặc tính của máy tính, căn cứ những kiến nghị này, các kỹ sư đã
thiết kế 10 loại lệnh cho Window 95, gồm cả các biểu đồ giúp
người sử dụng cảm thấy thân thiện hơn.
Để có thể lấy ý kiến từ các khách hàng Gates đã vận dụng
triệt để triết lý chu kỳ phản hồi tích cực. Triết lý này có
nghĩa là một sản phẩm khi có nhiều khách hàng, sản phẩm đó sẽ
trở nên có giá trị hơn, điều này sẽ lại làm cho sản phẩm trở
nên có giá trị hơn, làm tăng tính hấp dẫn của sản phẩm đối với
nhiều khách hàng hơn. Càng thu hút nhiều khách hàng thì càng có
nhiều thông tin phản hồi và giảm khả năng rủi ro vì thiếu thông
tin kinh doanh. Ông đã cho tiến hành các cuộc điều tra thực
nghiệm để lấy các thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Chính
nhờ những thông tin phản hồi này, Bill Gates mới có thể thu
được những bí quyết cạnh tranh chiến thắng được các đối thủ
khác, đón ý và làm vừa lòng người sử dụng máy tính.
Đối với từng loại sản phẩm, Microsoft đã tạo ra một phạm vi
thử nghiệm rộng rãi sản phẩm với đông đảo người dùng để hoàn
thiện sản phẩm của mình. Ví dụ bản Windows 95 bêta, Microsoft
từng lấy ý kiến của hơn 400.000 khách hàng. Tại Microsoft, tất
cả các nhân viên đều dùng thử sản phẩm của hãng. Khi một sản
phẩm được đưa vào kiểm thử (bêta test) thì toàn bộ công ty sẽ
chuyển sang được dùng sản phẩm đó kể cả những người quản lý cấp
cao. Như khi phiên bản cuối cùng của Word được công bố chính
thức, Bill và giới quản lý cấp cao đều đã dùng nó trong nhiềuPage 33
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
tháng để kiểm tra, đánh giá nhằm đưa ra các điều chỉnh, hoàn
thiện cuối cùng. Để so sánh, ta hãy nhìn vào một công ty sản
xuất ôtô bất kỳ. Những nhà quản lý cấp cao ở đó chẳng gặp vấn
đề gì hay sự bất tiện nào với xe cộ của họ cả, mặc dù có những
sự trục trặc đã xảy ra với các ô tô mà họ cho xuất xưởng. Giờ
đây, Microsoft vẫn đi đầu trong các hoạt động nghiên cứu và
phát triển. Hàng năm 25% tổng doanh thu của Microsoft (3-4 tỷ
đôla) vẫn tập trung cho việc nghiên cứu triển khai để tăng
cường chất lượng của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
II. Đi trước một bước để luôn dẫn đầu
Sản xuất phần mềm là một ngành luôn phải đối mặt với một
thị trường mà tính đặc thù của nó không có ở bất cứ một thị
trường nào trước đó trong lịch sử loài người. Đó là sự cạnh
tranh gay gắt mang tính sống còn hàng ngày. Một thất bại trong
lĩnh vực này có khi kéo theo sự sụp đổ của cả một công ty lớn.
Lịch sử tuy ngắn của công nghiệp phần mềm nhưng đã có không ít
những thí dụ để chứng minh điều đó.
Nhiều công ty lớn đang thống trị thị trường đột nhiên sụp
đổ hay bị công ty khác mua lại, "nuốt mất". Lý do có nhiều, có
thể là do nó không nhận ra một cơ hội đang xuất hiện cho sản
phẩm mới và cơ hội đó bị đối thủ tiềm tàng của mình giật mất,
cũng có thể là nó nhận ra cơ hội những không đủ sức để tận dụng
cơ hội đó.
Phản ứng thị trường nhanh nhạy, khả năng ứng biến cao, nắm
vững được xu hướng phát triển của tương lai chính là đặc điểm
nổi trội của “chiến hạm Microsoft” do Gates cầm lái. Ông quan
niệm cần phải cố gắng liên tục để tạo ra các sản phẩm mới vì
Page 34
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
không lưu tâm sẽ bị lạc hậu. Ngày 13/02/2000, Microsoft tung ra
sản phẩm Trình duyệt di động Microsoft nền tảng (Microsoft
Mobile Explorer) kết nối mạng không dây tạo khả năng cho người
sử dụng nhận được các thông tin cần thiết dù ở bất cứ đâu, bất
cứ thời gian nào và sử dụng bất cứ loại máy móc nào.
Ngày 20/04/2000, hãng lại tung ra phần mềm kiểu mới thế hệ
thứ ba dành cho máy tính xách tay; sự kiện này đã đặt ra thách
thức lớn cho 3Com. Với ông thị trường là vấn đề sống còn đối
với một doanh nghiệp liên tục sản xuất các sản phẩm mới công
nghệ cao. Mục tiêu của Microsoft là viết và cung cấp các phần
mềm cá nhân cho đa số các máy tính cá nhân chưa có và có mối
liên hệ trực tiếp về mặt chế tạo và tiêu thụ phần cứng của máy
tính. Giá sử dụng phần mềm thuộc bản quyền của Microsoft thấp,
với niềm tin chỉ cần chú ý tới số lượng là có thể có được giá
rẻ.
Microsoft luôn biết vận dụng phát minh và biến hoá máy tínhthành nhiều loại sản phẩm mới và kết nạp vô số người sử dụngmới. Ông luôn không hài lòng với các sản phẩm hiện tại, luônđòi hỏi phải tốt hơn.. Microsoft đã luôn chủ động "giết" cácsản phẩm của mình, không bao giờ dành việc đó cho các đối thủ.Nói đúng hơn là họ thường xuyên cải tiến hoàn thiện những sảnphẩm của mình dù nó đang chiếm lĩnh tuyệt đối thị trường, nhưtrường hợp Word và Excel. Hoặc thay thế hoàn toàn một sản phẩmnào bằng một sản phẩm khác hẳn, tức là chủ động "giết" các sảnphẩm đó một khi họ thấy là cần thiết. Vì khi sản phẩm pháttriển đến một giai đoạn nào đó thì sẽ có một sản phẩm khác thaythế, nếu không là của Microsoft thì của hãng khác tất yếu sẽ rađời, và khi đó sự tồn tại của Microsoft sẽ chấm dứt.
Những sản phẩm của Microsoft luôn bị diệt ở giai đoạn tăngtrưởng như việc phủ định DOS và sáng tạo ra Windows chẳng hạn.Như chúng ta đã biết Microsoft thường được gọi là ngôi nhà đượcdựng lên từ sản phẩm MS-DOS. MS-DOS đã từng là nguồn lợi tứcchủ yếu của Microsoft trong tất cả những năm đầu và MS-DOS đã
Page 35
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
chiếm tới 70-80% thị trường hệ điều hành cho máy PC hồi đó. Thếnhưng Microsoft đã chủ động loại trừ MS – DOS bằng một sản phẩmmới với giao diện đồ họa là Windows và đem lại những thành côngto lớn. Một ví dụ khác là khi Windows 95 đang giành được nhữngthành công lớn thì Microsoft lại phát triển Windows NT, sau đólà Win XP và mới đây nhất là Win Vista.
Gates cho rằng trong cạnh tranh thương mại, thời gian chính
là hiệu quả, thời gian chính là sinh mệnh và phần mềm máy tính
với tính chất là sản phẩm hiện đại nhất càng là một loại sản
phẩm có tính thời gian lâu dài, chỉ cần lại hậu so với người
khác thì sẽ phải đối mặt với những nguy cơ thất bại. Ông cho
rằng đáp ứng liên tục các yêu cầu của con người trong thời đại
mới, làm cho những đổi mới công nghệ của bạn trở nên tiện lợi
khi sử dụng, như vậy là bạn có thể chiếm được thị trường, và
lấy nó làm động lực và phát triển không ngừng.
III. Chiếm lĩnh thị trường là mục tiêu tối hậu
Microsoft luôn đặt mục tiêu chiếm lĩnh toàn bộ 100% thị
phần sản phẩm mà nó đang bước vào. Tuy nhiên, đó phải là thị
phần của số đông người dùng. Mục tiêu này được thể hiện ở mọi
quyết định, trong mọi cuộc họp, trong mọi khâu từ phân tích,
thiết kế đến sản xuất. Mục đích chung này đã cổ vũ mọi nhân
viên Microsoft gắn kết với nhau tạo nên một lực lượng hùng
mạnh, có thể động viên vào một cuộc chiến một mất một còn. Để
thực hiện điều này, trong mọi cuộc họp, câu hỏi đầu tiên và
quan trọng nhất luôn là :"Chúng ta cần làm gì để tăng thị phần
lên ?".
Tinh thần này ngấm vào mọi nhân viên của công ty động viên
họ chấp nhận mọi rủi ro trong cuộc đấu tranh. Khẩu hiệu này
luôn được nhắc đến từ những lá mail mà Bill thường xuyên gởi
truyền lửa cho nhân viên hay những cuộc hội họp gặp gỡ nhânPage 36
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
viên hằng năm. Như trong cuộc họp năm 1991 Steve Ballmer đã hô
hét lên “Chiến thắng! Dzô! chiến thắng! Dzô” “Đó là thị phần!
Đó là thị phần! Đó là thị phần!...” đến nỗi ông phải nhập viện
để chữa cuống họng. Ông gào lên “Vì nếu chúng ta có thị phần,
về mặt cơ bản, chúng ta đã loại được đối thủ”, “Chỉ có Thị
phần, thị phần và thị phần mới là đáng kể – bởi vì nếu nắm được
thị phần, các bạn đã làm cho những đối thủ còn lại sống ngắc
ngoải. Giữ cho các đối thủ ngắc ngoải là những gì chúng ta phải
duy trì”.
Tại Microsoft người ta viết phần mềm không đặt mục tiêu vì
tiền mà vì niềm vui tột đỉnh của việc đưa một công ty phần mềm
máy tính lớn nhất này chiếm lĩnh thêm một thị trường, một trận
địa mới. Đấy cũng chính là lời phát biểu của Chris Peter, lãnh
đạo nhóm lập trình Excel: "Chúng tôi không viết Excel để kiếm
tiền, chúng tôi chỉ muốn đẩy công ty phần mềm lớn nhất lúc đó
ra khỏi thị trường của chính nó". Có thể hiểu lời phát biểu đó
bằng nhiều cách, nhưng có một cách lôgic hơn cả: đúng là nhiều
khi việc tung mọi nỗ lực để chiếm lĩnh thị trường thì thường
mâu thuẫn với lợi nhuận trước mắt.. Thí dụ, để lấy thị trường
trình duyệt từ tay của hãng Netscape, Internet Explorer đã được
Microsoft cung cấp miễn phí. Nhưng xét về lâu dài, với việc
chiếm được thị trường trong tương lai, công ty sẽ thu được
những lợi nhuận khổng lồ thừa đủ đền bù mọi chi phí trong cuộc
chiến giành giật thị trường đó, như việc nối mạng bằng Internet
Explorer đã tăng thêm giá trị cho Windows, mà không tốn phí gì
cho người tiêu dùng.
Đặt mục tiêu chiếm lĩnh thị trường là trên hết, Microsoft
đã xác định một chính sách có thể gọi là :"sẵn sàng trả giá"
gây rủi ro lợi nhuận "để làm tăng thị phần của công ty".Page 37
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Mạnh dạn không có nghĩa là thiếu thận trọng. Đôi khi
Microsoft có thể rút lui ra khỏi thị trường, hoặc do thị trường
đang co lại, hoặc là do sự cạnh tranh không còn đáng với cái nỗ
lực của họ hoặc vô số các lý do khác. Nhưng một điều có tính
nguyên tắc là Microsoft sẽ không bao giờ rút lui ra khỏi thị
trường chiến lược chủ chốt.
Vậy phải làm gì đây? Câu trả lời là: Hãy xác định thị trường chiến
lược cho mình. Với mỗi thị trường được xác định hãy vạch ra cách thức chiếm lĩnh
chúng.
Do vậy thông tin ở đây có ý nghĩa hết sức quan trọng, thông
tin về môi trường, thông tin về đối thủ, về các cơ hội và đe
dọa mà Microsoft phải đối mặt. Bill luôn chú tâm vào việc nghe
ngóng tín hiệu thị trường của các đối thủ cạnh tranh. Estelle
mathers – trợ lý của Bill nói : Anh ấy có trí nhớ phi thường
(có thể đọc 1 mạch) và nhớ từng chi tiết kế họach kinh doanh
của các đối thủ.
Cũng như Marquardt đã nói về ông “gã(Bill Gates) này biết
nhiều về sản phẩm của hang cạnh tranh hơn là họ biết về anh
ta. Anh ta hiểu rõ thương trường và những khỏan hoa hổng có thể
thu được khi thâm nhập thị trường đó.
Microsoft luôn hiểu rõ những quy luật vận động khắt khe đầy
những sôi động và biến chuyển khó lường hết của thị trường và
luôn trông chờ những kết quả mới của bạn ở phía trước chứ không
nhìn vào những cái bạn đã làm. Một tín hiệu thi trường là bất
cứ hành động nào của đối thủ cạnh tranh liên quan trực tiệp hay
gián tiếp đến mục tiêu của họ. Gates cho biết cách duy nhất có
thể tiên lên là phải hiểu cạnh tranh như chính bản thân họ. Ông
nói “Tôi muốn nhân viên của tôi thức tỉnh và hãy nghỉ về cạnh
Page 38
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
tranh, tôi hy vọng anh chàng Reff Raikes của chúng tôi biết đến
nhiều về bọn Wordperfect đến mức anh ta có thể kể tên con cái
của đối thủ và cho họ biết cả ngày sinh của chúng”.
IV. Quảng cáo và xúc tiến thương mại
Năm 1995, bản Windows 95 do Microsoft đưa ra được tăng
thêm nhiều tiện ích mạng. Microsoft đang nổ lực phát triển
“Mạng Microsoft”, Microsoft đã dùng đến 500 triệu đô la Mỹ cho
hoạt động xúc tiến Windows 95. Đây là lần xúc tiến thương mại
quảng cáo chưa từng có từ trước đến thời điểm đó, tạo ra thành
công vang dội.
Trong quá trình nghiên cứu Windows, Microsoft đã liên tục
tổ chức các cuộc họp báo, giới thiệu với mọi người về ý tưởng
thiết kế và những tiện ích chủ yếu của Windows. Sách lược này
đã giúp Microsoft chiếm lĩnh được thị trường.
Các thoả thuận tiêu thụ về xúc tiến thương mại và bán buôn
đã giúp Microsoft xác lập được địa vị của mình, đồng thời cũng
giúp cho một số sản phẩm của công ty trở thành các tiêu chuẩn
công nghiệp. Và sự ảnh hưởng đối với kết cấu sản phẩm mà một
nhà cung cấp tiêu chuẩn công nghiệp tranh thủ lợi dụng được
chính là để duy trì và khuyến khích khuếch trương địa vị thị
trường của nó hoặc bán các sản phẩm mới vào thị trường mới.
Năm 1995, khi phần mềm duyệt web Navigator của Netscape độc
chiếm thị trường phần mềm mạng máy tính, để đoạt lại thị
trường, Microsoft đã kiên trì chính sách miễn phí đối với sản
phẩm duyệt web Explorer của mình, khách hàng còn có thể tải
trực tiếp về sử dụng.
Page 39
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Khi Explore 3.0 ra đời, Microsoft còn sáng tạo ra một
phương pháp chào hàng tiếp thị mới, tặng thêm dịch vụ sử dụng
báo điện tử của “Nhật báo phố Won”, truyền hình cáp, kênh âm
nhạc MTV và kênh thể thao ESPN, thu hút các cư dân mạng sử
dụng. Đồng thời, công ty Microsoft còng tặng thêm rất nhiều áo
thun, khuyến khích người sử dụng lên mạng download.
Sở dĩ các sản phẩm của Microsoft từ trước đến nay có thể
tấn công cho đối thủ thất bại thảm hại nhờ vào ưu thế thị
trường mạnh mẽ là vì họ có một đội ngũ tiếp thị bán hàng ưu tú
nhất của toàn nước Mỹ. Biện pháp kinh doanh dùng “Lễ” cũng
chính là các mà Microsoft đã tiếp thị Windows 95, cũng là chiến
lược thị trường mà Microsoft thường xuyên áp dụng trong vài năm
gần đây, bởi vì sau khi sản phẩm máy tính của Microsoft được
phổ cập sẽ mang lại những thay đổi gì, đây cũng là một điểm
thắng thế của Microsoft. Ở Mỹ công ty Microsoft đã bỏ ra rất
nhiều tiền bán quảng cáo, chi phí dự toán khiến người ta kinh
ngạc, nhưng đồng thời công ty cũng thu được những hiệu quả xứng
đáng.
Như việc nhằm tranh thủ những khách hàng từ Lotus chuyển
sang Excel, tháng 5 năm 1988, Microsoft đã tuyên bố khi mua bộ
phầm mềm Excel trước ngày 31 tháng 5 năm 1990, khách hàng có
thể trả lại hàng bất cứ lúc nào và được nhận lại tiền. Biện
pháp xúc tiến bán hàng này quả thật linh nghiệm. Đến năm 1990,
Excel đã đánh bại hoàn toàn Lotus trên thị trường.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng chính sách quảng cáo và
xúc tiến thương mại của Microsoft đã góp một phần rất lớn vào
thành công vang dội của nó. Điều này chứng tỏ khả năng quản trị
tốt của Bill ở các lĩnh vực từ chính sách quản trị nhân sự đến
Page 40
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
việc hoạch định chiến lược sản phẩm sao cho chiếm lĩnh thị
trường cũng như công tác các tiêu thụ sản phẩm đó.
Page 41
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN V: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO CÔNG TÁC QUẢN TRỊ Ở CÁC DN VIỆT NAM
Qua những thành công của Microsoft, chúng ta có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm quản trị cho các doanh nghiệp cũng
như công tác quản lý nhà nước của Việt Nam:
Về quản lý vĩ mô của nhà nước, ta thấy để có được một
Microsoft thành công vĩ đại như ngày hôm nay thì sau lưng nó
một môi trường kinh doanh tốt, thể hiện qua môi trường pháp lý
thông thoáng đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là
việc bảo hộ các quyền sở hữu tài sản nói chung cũng như quyền
sở hữu trí tuệ nói riêng. Bên cạnh môi trường pháp lý thì môi
trường tài chính cũng đóng vai trò rất quan trọng, môi trường
tài chính cần chấp nhận các khoản đầu tư mạo hiểm cần thiết cho
các ý tưởng sáng tạo, từ đó khuyến khích cho các ý tưởng luôn
luôn được phát triển dồi dào. Như tình hình hiện nay ở Việt Nam
khi mà quyền sở hữu tài sản và nhất là quyền sở hữu trí tuệ còn
chưa được quan tâm đúng mức thì chuyện có thể bảo vệ các quyền
lợi chính đáng cho các công ty về phần mềm là một điều nan
giải. Vì vậy, để hội nhập với xu hướng quốc tế hóa, Việt Nam
cần thiết lập một khung pháp lý chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ lợi
ích chính đáng của các tác giả cũng như các công ty sản xuất
kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin này
Về quản trị vi mô, có một số vấn đề cần chú ý ở các doanh
nghiệp Việt Nam:
Tránh chủ nghĩa hình thức, quản lý con người bằng thời
gian. Đây là một chính những điều thường thấy ở các doanhPage 42
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Như chúng ta đã thấy trong phong cách quản trị nhân sự của
Microsoft thì thời gian làm việc không phải là mục tiêu chính
của họ, cái mà họ cần là hiệu quả công việc. Không phải khi nào
quản lý thời gian cũng là hiệu quả, nếu như không tạo ra được
động lực làm việc cho các nhân viên.
Phát huy khả năng làm việc theo nhóm, nâng cao ý thức đoàn
kết giữa những người lao động. Một điều thường thấy ở các nhân
viên là họ đôi khi tỏ ra rất xuất sắc trong làm việc độc lập
nhưng lại gặp nhiều khó khăn khi làm việc theo nhóm. Khi cần
phải tổ chức làm việc theo tổ đội thì đây cũng là một vấn đề
cần phải được quan tâm đến.
Tạo môi trường làm việc đoàn kết, năng động, chống chủ
nghĩa cá nhân. Căn bệnh thành tích ngày nay đang là một đề tài
thường được nhắc đến, nó cũng một phần nào phát sinh từ chủ
nghĩa chạy theo thành tích và lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích
tập thể. Để có được một tập thể lành mạnh và phát triển thì
công việc đầu tiên của các nhà quản trị là phải tạo ra mối quan
hệ tốt đẹp giữa các thành viên, từ đó đẩy lùi chủ nghĩa cá
nhân, thói ích kỷ, tư lợi.
Người quản trị phải nhanh nhạy, có khả năng phán đoán chính
xác, hướng sản phẩm của mình phục vụ lợi ích tối đa cho người
tiêu dùng để tạo khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh
nghiệp. Đối với nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội
nhập vào bối cảnh toàn cầu hóa thì đây thực sự là một yêu cầu
hết sức cấp thiết cho các nhà quản lý nhằm đảm bảo khả năng
cạnh tranh và sự tồn vong cũng như phát triển của doanh nghiệp.
Page 43
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Bố trí công việc phù hợp với khả năng người lao động. Một
thực tế thường xảy ra là việc bố trí công việc không phù hợp
với năng lực và trình độ của người lao động, dẫn đến tình trạng
làm việc không hiệu quả, không phát huy được khả năng của họ,
làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Coi trọng và biết sử dụng nhân tài, tránh chảy máu chất
xám, loại bỏ suy nghĩ nghi ngại và trù dập cấp dưới giỏi hơn
mình. Việc sử dụng chất xám ở các doanh nghiệp nước ta gần đây
đã có những tiến triển tốt, cụ thể cách nhìn nhận về nguồn nhân
lực trình độ cao đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp Nhà nước tình trạng bảo thủ, phe
cánh vẫn còn là một thực trạng đáng báo động, chính sách đãi
ngộ chưa xứng đáng đã làm cho tình trạng chảy máu chất xám vốn
đã nghiêm trọng nay còn nghiêm trọng hơn.
Page 44
Tiểu luận Quản trị học Nhóm 1 – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
LỜI KẾTCó thể nói, mẫu hình doanh nghiệp Microsoft thực sự là mẫu
hình kinh tế thành công chói lọi của thế kỷ XX. Sự sáng suốt,
tầm nhìn trí tuệ và những bài học quản lý của Microsoft, Bill
Gates có thể ví như một "ngọn hải đăng" soi rọi cho hoạt động
kinh doanh trong bất kỳ ngành nào.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, các diễn
biến kinh doanh luôn vận động và biến đổi liên tục không ngừng.
Các yếu tố tác động đến doanh nghiệp thường thay đổi rất nhanh,
phức tạp và khó kiểm soát. Không chuyên gia hàng đầu nào có thể
dự đoán chính xác và kiểm soát được các biến động của thị
trường, vì vậy việc các doanh nghiệp ngày nay cần có những
phương cách quản trị cho thích hợp để có thể ứng phó kịp thời
với tình hình trên.
Mặc dù ở mỗi doanh nghiệp tình hình cụ thể có những nét đặc
trưng khác nhau nhưng qua những thành công của Microsoft, chúng
ta có thể hy vọng rằng các nhà quản trị của chúng ta có thể học
hỏi được một số kinh nghiệm để vận dụng vào thực tiễn quản lý
góp phần đưa doanh nghiệp của mình đi đến thành công.
Page 45