1
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI
KHOA DU LICH
Ths. ĐỒNG THI THU HUYỀN
TẬP BÀI GIẢNG
TUYẾN ĐIỂM DU LICH
VIỆT NAM
(Dành cho học sinh, sinh viên chuyên ngành du lịch)
LÀO CAI, 2015
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt hơn 40 năm hình thành và phát triển, du lịch Việt Nam đã có những bước
tiến đáng khích lệ, trở thành ngành kinh tế có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc biệt, kinh doanh lữ hành ở Việt Nam phát triển rất nhanh chóng. Từ một công ty du lịch
ở thời kỳ đầu đến năm 2014, toàn ngành đã có 2532 doanh nghiệp lữ hành (nội địa và quốc
tế) đáp ứng nhu cầu đi du lịch ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước. Và kinh
doanh lữ hành cũng là một trong những ngành kinh doanh chính của kinh doanh du lịch.
Muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao, ngoài kiến thức sâu rộng về ngành du lịch nói chung,
các nhà kinh doanh cần phải có kiến thức về kinh doanh lữ hành nói riêng. Tại các trường
cao đẳng và đại học đào tạo về du lịch, trong hệ thống kiến thức về ngành du lịch, việc
trang bị cho học sinh, sinh viên kiến thức về tuyến điểm du lịch phục vụ cho kỹ năng kinh
doanh lữ hành là điều cần thiết.
Môn học “Tuyến điểm du lịch Việt Nam” là một môn học cốt lõi trong chuyên ngành
đào tạo “Hướng dẫn du lịch” và “Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành” của trường Cao
đẳng Cộng đồng Lào Cai. Mục tiêu của môn học nhằm trang bị cho học sinh, sinh viên các
kiến thức lý luận về tuyến, điểm du lịch và các loại hình du lịch; các tuyến, điểm du lịch của
từng vùng du lịch trên đất nước Việt Nam. Kiến thức của môn học là sự tiếp nối kiến thức
các môn cơ sở của ngành đã được trang bị trước đó.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và yêu cầu của công tác đào tạo, Khoa Du lịch trường
Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai đã tiến hành biên soạn tập bài giảng Tuyến điểm du lịch Việt
Nam phù hợp với nhu cầu và nội dung giảng dạy của ngành đào tạo dành cho hệ TCCN và
cao đẳng. Đồng thời, tập bài giảng đã hệ thống kiến thức và cập nhật mới các thông tin du
lịch của Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại.
Nội dung của tập bài giảng gồm có 4 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về Tuyến điểm
du lịch. Chương 2: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ. Chương 3: Tuyến điểm du lịch
vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Chương 4: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Nam Trung Bộ và
Nam Bộ. Nội dung các chương ngoài kiến thức cơ bản còn cập nhật các kiến thức mới và có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Hi vọng tập bài giảng sẽ là tài liệu hữu ích cho các học sinh, sinh viên thuộc các ngành
liên quan đến du lịch, cũng như tất cả những ai quan quâm tới lĩnh vực này.
Tập bài giảng được tổ chức và biên soạn với thái độ làm việc nghiêm túc nhưng không
thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi hi vọng sẽ nhận được sự đóng góp của các
nhà nghiên cứu và người đọc quan tâm đến lĩnh vực để tập bài giảng ngày càng hoàn thiện
hơn.
TÁC GIẢ
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYẾN ĐIỂM DU LICH
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Điểm du lịch
Điểm du lịch là nhân tố quan trọng hình thành nên các sản phẩm du lịch phục vụ cho
hoạt động kinh doanh lữ hành. Điểm du lịch càng đa dạng thì sản phẩm du lịch càng đa
dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Hiện nay khi đánh giá
điểm du lịch, các nhà khoa học quan tâm nhiều đến giá trị thu hút khách của điểm đến. Và
điểm du lịch có thể là đại diện của một địa phương, một vùng lãnh thổ hoặc của một quốc
gia.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về điểm du lịch, theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007,
Điểm du lịch được định nghĩa như sau: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn,
phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.
Điều kiện và nhân tố hình thành nên điểm du lịch:
Nơi có tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, độc đáo và có sức hấp dẫn đối với du
khách. Ví dụ những nơi có: suối nước khoáng; thảm thực vật và động vật phong phú; có
không gian nghỉ ngơi; có địa điểm cho những hoạt động ngoài trời như đi dã ngoại, chạy bộ,
đi xe đạp; những công trình kiến trúc, văn hóa nghệ thuật có giá trị….
Đảo bảo các điều kiện vệ sinh cần thiết cho du khách.
Có cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, hệ thống điện nước… đang hoạt động tốt.
Có loại hình lưu trú phục vụ du khách như khách sạn, nhà nghỉ, nơi cắm trại, nhà sàn,…
Có hệ thống các cửa hàng bán đồ lưu niệm, đặc biệt là thực phẩm.
Hệ thống dịch vụ được trang bị đầy đủ như nhà luyện tập, câu lạc bộ phục hồi sức khỏe,
khu vui chơi, giải trí.
Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, vòng đời của một điểm du lịch thường trải qua 6
giai đoạn:
Giai đoạn phát hiện: Trong giai đoạn này, một vùng hay một địa danh nào đó được du
khách hoặc người dân, các nhà nghiên cứu ngẫu nhiên phát hiện và được thế giới tán
thưởng, công nhận vẻ độc đáo, hấp dẫn của nó. Trong giai đoạn này chưa có hoạt động kinh
doanh du lịch.
Giai đoạn tham gia: Đây là giai đoạn những người làm du lịch vào cuộc (nhà quản lý du
lịch, đối tác, cộng đồng địa phương, nhà nước…). Họ sẽ tiến hành đưa ra ý tưởng, nghiên
cứu, quy hoạch, xây dựng phương án phát triển. Đây là giai đoạn hoạt động du lịch đã diễn
ra, nhưng chưa nhiều.
Giai đoạn phát triển: Trong giai đoạn này đã bùng nổ lượng khách đến điểm du lịch
mới. Ngay trong giai đoạn này xuất hiện những mâu thuẫn giữa khách du lịch và người dân
địa phương, giữa các cơ sở kinh doanh du lịch trong và ngoài địa phương đó. Đây là những
mâu thuẫn muốn phát triển du lịch bền vững và kéo dài tuổi thọ của một điểm du lịch, rất
cần thiết họ phải bắt tay cùng đưa ra hướng phát triển chung và hiệu quả.
Giai đoạn hoàn chỉnh: Để tiếp tục thu hút nhiều khách du lịch, chủ đầu tư và chính
quyền địa phương tiếp tục hoàn thiện điểm du lịch, mở rộng và nâng cấp các hạng mục và
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Đây cũng là giai đoạn thu hút
khách trong chu kỳ phát triển của một điểm du lịch.
Giai đoạn trì trệ: Trong giai đoạn này, điểm du lịch đã được khai thác vượt quá sức tải
của nó và bắt đầu đi xuống. Khách du lịch lúc này đã quá quen với hình ảnh điểm đến nên
không còn hứng thú một điểm du lịch đã cũ và xuống cấp.
4
Giai đoạn suy tàn: Lượng khách giảm sút mạnh, sức hút của điểm du lịch không còn
như trước. Vào thời điểm này tuy điểm du lịch vẫn còn hoạt động nhưng với quy mô nhỏ và
doanh thu không còn được như trước đây.
Ở Việt Nam cũng như đối với tất cả các nước có hoạt động du lịch, nếu muốn kéo dài
giai đoạn hoàng kim của điểm du lịch cần phải có chiến lược khai thác, quy hoạch, nâng
cấp, mở rộng phù hợp với sự phát triển du lịch của quốc gia đó.
Theo Luật Du lịch Việt Nam, điểm du lịch muốn được công nhận là điểm du lịch quốc
gia cần phải đạt được các tiêu chí sau đây:
- Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn.
- Có khả năng bảo đảm phục vụ tối thiểu một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.
- Có đường giao thông thuận tiện đến điểm du lịch, có các dịch vụ: bãi đỗ xe, có khu vệ
sinh công cộng, phòng cháy chữa cháy, cấp, thoát nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ
khác đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch.
- Đáp ứng các điều kiện về bảo đảm an ninh, an toàn, trật tự, vệ sinh môi trường theo
quy định của pháp luật.
Điểm du lịch quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quyết định, công nhận.
Một số những điểm du lịch hấp dẫn: Sa Pa, chùa Hương Tích, Tam Đảo, Vịnh Hạ Long,
Hội An, Địa đạo Củ Chi, Buôn Đôn,....
1.1.2. Tuyến du lịch
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, tuyến du lịch là nhân tố quyết định đến việc thỏa
mãn nhu cầu của du khách. Dựa vào nhu cầu, sở thích, vị trí địa lý của điểm du lịch và sự
phân vùng lãnh thổ du lịch mà các nhà kinh doanh lữ hành đã tạo ta những tuyến du lịch
phù hợp, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Tuyến du lịch có thể mang tính
chất địa phương hoặc liên vùng tùy thuộc vào điểm đến du lịch và sự phân hóa lãnh thổ du
lịch.
Hiện nay, tuyến du lịch có nhiều cách hiểu khác nhau, ở Việt Nam các nhà nghiên cứu
hay sử dụng khái niệm: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở
cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ,
đường hàng không. Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007.
Như vậy, tuyến du lịch được coi như là một lịch trình được lên sẵn, kết nối các điểm du
lịch, cùng với nó là các dịch vụ phục vụ đi kèm để thực hiện chương trình du lịch. Trong
tuyến du lịch, quan trọng nhất là hành trình (lộ trình) của một chương trình du lịch. Thông
qua tuyến du lịch, các nhà lữ hành có thể tính toán được thời gian của chuyến đi và đặc
trưng nổi bật của sản phẩm du lịch đó.
Ở Việt Nam, để được công nhận là một tuyến du lịch phụ thuộc rất lớn vào kết cấu và
khoảng cách của các điểm du lịch ở trong tuyến đó. Từ đó, phân chia thành tuyến du lịch
quốc gia hay tuyến du lịch nội vùng (địa phương).
Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch quốc gia bao gồm:
- Nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch quốc gia, có
tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế;
- Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch
dọc theo tuyến.
Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch địa phương bao gồm:
- Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương;
5
- Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch
dọc theo tuyến.
Một số tuyến du lịch quan trọng của Việt Nam:
Hà Nội – Hải Dương - Hạ Long – Hải Phòng
Hà Nội – Lào Cai – Sa Pa
Hà Nội – Nghệ An – Quảng Bình – Quảng Trị - Huế
TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – Nha Trang
TP. Hồ Chí Minh – Đồng bằng Sông Cửu Long
TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Côn Đảo
1.2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC DU LICH
1.2.1. Du lịch dã ngoại
Du lịch dã ngoại thích hợp với các hoạt động thanh niên, khảo sát, nghiên cứu và khám
phá. Du lịch dã ngoại cung ứng thỏa mãn các yêu cầu thuộc về tinh thần: thưởng ngoạn vẻ
đẹp hùng vĩ, hoang dã hay thơ mộng của cảnh vật thiên nhiên; tìm tòi những điều mới lạ,
sống gần với tự nhiên để có được những cảm xúc rạt rào, thư thái tâm hồn, với một thể chất
được tập luyện và tái bồi dưỡng bằng không khí trong lành. Ðặc biệt du lịch dã ngoại phát
triển tinh thần cộng đồng giúp mọi thành viên thân thiết với nhau hơn.
Du lịch dã ngoại được hiểu như sau: Là loại hình du lịch cắm trại ngoài trời, kết hợp
những trò chơi để tạo mối thân mật trong đoàn du lịch, thường là những nhóm người trong
cùng một lớp học, đoàn thể, cơ quan và thích hợp cho các đối tượng thanh thiếu niên.
Thực tế, đây là hình thức du lịch dã ngoại có thể mang lại nhiều niềm vui cho con
người, ngay cả những du khách tuổi già, và cả những du khách có hứng thú về trèo non,
vượt suối băng ngàn, những buổi vui chơi rộn rã tiếng "hò dô ta" hoặc là những đêm lửa trại
giữa núi rừng, đồi hoang, đảo vắng, ấm áp tình người với những trò chơi giản dị, hồn nhiên.
Ở Việt Nam, với địa hình đa dạng và có nhiều cảnh vật hoang sơ nên rất thích hợp để
phát triển loại hình du lịch này đối với cả đối tượng khách nội địa và khách quốc tế. Khách
du lịch nước ngoài rất thích thú với các tuyến hành trình bằng xe đạp đi khám phá các vùng
nông thôn hoặc vùng núi, hải đảo. Họ được trải nghiệm những khoảng khắc đẹp trong cuộc
sống thường nhật của những người dân ở mỗi vùng, miền khác nhau trên đất nước Việt
Nam.
Một số các điểm du lịch dã ngoại được du khách yêu thích nhất là Sài Gòn, vùng đồng
bằng sông nước Cửu Long, Ngũ Hành Sơn, các bãi biển, Ðà Lạt, Daklak, Hội An, Huế, Hà
Nội, vịnh Hạ Long, vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc....
1.2.2. Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái để thưởng thức những tài nguyên thiên nhiên (sông, núi, biển, rừng)
thích hợp cho mọi đối tượng khách du lịch đặc biệt là khách nước ngoài.
Nội dung căn bản của du lịch sinh thái là tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người
đối với môi trường. Quan điểm thụ động cho rằng Du lịch sinh thái là du lịch hạn chế tối đa
các suy thoái môi trường do du lịch tạo ra, là sự ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên sinh
thái, văn hoá và thẩm mỹ. Quan điểm chủ động cho rằng du lịch sinh thái còn phải đóng góp
vào quản lý bền vững môi trường lãnh thổ du lịch và phải quan tâm đến quyền lợi của nhân
dân địa phương.
Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về
phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: "Du lịch sinh thái là hình thức du
lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến
6
việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng
đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn".
Trong Luật du lịch năm 2005, định nghĩa du lịch sinh thái được hiểu khá ngắn gọn "Du
lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương
với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững". Theo quy chế quản lý các hoạt
động du lịch sinh thái tại các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông nghiệp và PTNT
ban hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu " Là hình thức du lịch dựa vào thiên
nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa
phương nhằm phát triển bền vững". Tuy nhiên, trong giảng dạy và nghiên cứu thường sử
dụng định nghĩa trong Luật Du lịch được ban hành năm 2005.
Thực tế, khi phát triển loại hình du lịch sinh thái, các nhà nghiên cứu kỳ vọng loại hình
du lịch này sẽ cải thiện được các vấn đề về môi trường, kinh tế, văn hóa – xã hội. Bảo tồn
tài nguyên của môi trường tự nhiên. Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi
trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng. Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa
phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai
thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v...
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài
lòng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du
khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo
đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người
dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập
từ du lịch.
Một số nơi thu hút khách với loại hình du lịch sinh thái như: Hà Nội, Đà Lạt, TP. Hồ
Chính Minh, đồng bằng Sông Cửu Long, Cần Thơ…
1.2.3. Du lịch nghiên cứu
Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch ngày càng phổ biến do nhu cầu kết hợp lý luận
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Một trong những biểu hiện của loại hình này là sinh viên
thuộc các ngành học như địa lý, lịch sử, văn hóa, môi trường… được tổ chức đi nghiên cứu
tìm hiểu thực tế. Ngoài ra, các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực trên họ cũng có nhu cầu
nghiên cứu thực tế tại các điểm phù hợp với nội dung nghiên cứu. Địa điểm đến phải là
những nơi có các đối tượng phù hợp với nội dung học tập như vườn quốc gia, khu dự trữ
sinh quyển, các di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng….
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về hình thức du lịch nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu
được sử dụng nhiều nhất là khái niệm: Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch tổ chức cho
cá nhân hay một nhóm nghiên cứu, tìm hiểu về các tài nguyên thiên nhiên (động thực vật
học, địa chất), các tài nguyên nhân văn (văn hóa, trang phục của các dân tộc).
Một số nơi thu hút khách du lịch đến nghiên cứu: VQG Cúc Phương, VQG Hoàng Liên
Sơn, VQG Tràm Chim, VQG Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Cát Tiên, bảo tàng
Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học, tìm hiểu văn hóa vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên, tìm hiểu
văn hóa người Chăm….
1.2.4. Du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, con người ngày càng có điều kiện
và nhu cầu tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới.
Do đó, việc tổ chức các chương trình du lịch gắn với nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hóa của
một dân tộc, một quốc gia đang là mối quan tâm của các nhà quản lý du lịch.
Nếu như các hình thức du lịch khác thường gắn liền với cả hai loại tài nguyên du lịch,
thì du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa chỉ gắn với tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là, loại
7
hình du lịch tìm hiểu những tài nguyên nhân văn thích hợp cho mọi đối tượng khách tham
quan đến những đình, đền, chùa, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các công trình kỷ niệm
những danh nhân và sự kiện lịch sử.
Một số điểm du lịch văn hóa tiêu biểu
- Điểm du lịch địa đạo Củ chi ( TPHCM )
- Điểm du lịch đình Bình thủy ( tỉnh Cần thơ )
- Điểm du lịch Côn sơn – Kiếp Bạc ( tỉnh Hải dương )
- Khu lưu niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc ( tỉnh Đồng Tháp )
- Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội)
- Cố đô Huế (TP. Huế)
- Phố cổ Hội An (Quảng Nam)
1.2.5. Du lịch vui chơi, giải trí
Mục đích của chuyến du lịch là thư giãn, thoát khỏi công việc căng thẳng thường ngày
để phục hồi sức khỏe. Với mục đích này du khách chủ yếu muốn tìm đến những nơi yên
tĩnh, có không khí trong lành. Tuy nhiên, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi rất cần thiết
có các chương trình vui chơi, giải trí. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại
hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các công viên, các trung
tâm thương mại, sòng bạc….
Chính vì mục đích của chuyến đi nên hình thức du lịch vui chơi, giải trí được hiểu là
loại hình du lịch giúp cho khách tham quan những giây phút được thư giãn về tinh thần sau
một thời gian lao động cực nhọc, tăng cường sức khỏe để tiếp tục công việc.
Ở Việt Nam, loại hình du lịch này mới chỉ phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI. Tuy nhiên, thực tế các khu vui chơi, giải trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế
nước ta còn khó khăn.
- Điểm du lịch tắm bùn và nước khoáng Tháp Bà (tỉnh Khánh hoà).
- Khu du lịch Suối Tiên (TP. HCM).
- Thiên đường Bảo Sơn (TP. Hà Hội)
- Vinpearl Land (Nha Trang)
- Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến (Bình Dương)
1.2.6. Các hình thức khác
Bên cạnh, cách phân loại trên, hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác cũng được các
nhà nghiên cứu sử dụng.
Cách phân loại dựa vào phương tiện vận chuyển có các hình thức:
- Du lịch bằng môtô - xe đạp: Trong loại hình này xe đạp và môtô được làm phương
tiện đi lại cho du khách từ nơi ở đến điểm du lịch. Nó được phát triển ở nơi có địa hình
tương đối bằng phẳng
- Du lịch bằng tàu hỏa: Được hình thành từ những năm 40 của thế kỷ 19.
Ngày nay do sự phát triển của ngành đường sắt, số khách du lịch bằng tàu hỏa ngày
càng đông. Lợi thế của du lịch bằng tàu hỏa là: tiện nghi, an toàn, nhanh, rẻ, đi được xa và
vận chuyển được nhiều người.
- Du lịch bằng tàu thủy: Được phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở những
nước có bờ biển đẹp, có nhiều vịnh, nhiều đảo, hải cảng, sông hồ...
- Du tịch bằng xe hơi: Là loại hình du lịch được phát triển phổ biến và rộng rãi nhất. nó
có nhiều tiện lợi và được nhiều người ưa chuộng: nhanh, du khách có điều kiện gần gũi với
8
thiên nhiên, có thể dừng lại ở bất cứ điểm du lịch nào...
- Du lịch bằng máy bay: Là loại hình du lịch có nhiều triển vọng nhất, nó có nhiều ưu
thế: nhanh, tiện nghi. Vì vậy trong một thời gian ngắn du khách có thể đi được quãng đường
xa hơn, giúp họ đi được nhiều nơi hơn. Tuy nhiên, giá cả tương đối cao không phù hợp với
thu nhập của nhiều người.
Hoặc cách phân loại theo loại hình lưu trú:
- Du lịch ở trong khách sạn: Là loại hình du lịch phổ biến nhất. Loại hình này phù hợp
với những người lớn tuổi, những người có thu nhập cao. Vì ở đây các dịch vụ hoàn chỉnh
hơn, có hệ thống hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn, nhưng giá cả cao hơn.
- Du lịch ở trong Motel: Motel là các khách sạn được xây dựng ven đường xa lộ nhằm
phục vụ cho khách du lịch bằng xe hơi. Ở đây có cả các giữa để xe cho lữ khách. Các dịch
vụ trong Motel phần lớn là tự phục vụ. Du khách tự nhận phòng, tự gọi ăn trong nhà hàng.
Các dụng cụ ở đây là loại sử dụng một lần. Giá cả trong Molel thường rẻ hơn ở trong khách
sạn.
- Du lịch ở trong nhà trọ: Nhà trọ là những khách sạn loại nhỏ của tư nhân, giá cả
thường rất thích hợp với du khách có thu nhập thấp, đặc biệt là các gia đình có con nhỏ đi
cùng.
- Du lịch cắm trại: Là loại hình du lịch được phát triển với nhịp độ cao, được giới trẻ ưa
chuộng. Nó rất thích hợp với khách đi du lịch bằng xe đạp, mô tô, xe hơi. Đầu tư cho du
lịch loại này không cao, chủ yếu sắm lều trại, bạt, giường ghế gấp và một số dụng cụ đơn
giản rẻ tiền. Khách tự thuê lều bạt, tự dựng và tự phục vụ.
Những cách phân loại này tùy theo yêu cầu cụ thể của khách mà có cách thiết kế, tổ
chức các chương trình du lịch phù hợp.
9
CHƯƠNG 2: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH BẮC BỘ
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH BẮC BỘ
2.1.1. Vị trí địa lý
Vùng du lịch Bắc Bộ có diện tích 150.066,8 km2, bao gồm 28 tỉnh, thành phố, kéo dài
từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, với Thủ đô Hà Nội là trung tâm tạo vùng và có tam giác tăng
trưởng du lịch: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vùng là nơi hội tụ đầu đủ các tiềm năng
phát triển du lịch của Việt Nam. Trong số 3 vùng du lịch của cả nước, vùng du lịch Bắc Bộ
có diện tích lớn nhất, với dân số là 41.013,4 nghìn người (2013), chiếm 45,3% diện tích và
45,2% dân số cả nước, mật độ trung bình là 260 người/km2, tương đương với mật độ dân số
toàn quốc.
Vùng du lịch Bắc Bộ có 7 tỉnh ở phía Bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên) tiếp giáp với Trung Quốc; 5 tỉnh phía Tây (Lai
Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) tiếp giáp với Lào, phía đông giáp vịnh Bắc
Bộ với bờ biển dài l.000km và hàng nghìn đảo nhỏ. Trong đó, có các đảo nhỏ dọc theo các
tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng rất có giá trị về mặt du lịch.
Vị trí địa lý của vùng du lịch Bắc Bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho vùng có biểu hiện
đầy đủ nhất về đất nước và con người Việt Nam. Thiên nhiên của vùng rất đa dạng và mang
nhiều nét đặc trưng độc đáo của cảnh quan nhiệt đới gió mùa ẩm. Vùng là cái nôi hình thành
nên dân tộc Việt với nền văn hóa Việt. Bên cạnh đó, vùng núi phía Bắc còn là nơi sinh sống
của cộng đồng dân cư các dân tộc Việt Nam, nên kho tàng văn hóa của mỗi dân tộc đã tạo
nên bức tranh văn hóa đa dạng đầy màu sắc. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển
hoạt động du lịch, đặc biệt ngoài giá trị cho khách nội địa, vùng còn có sức hấp dẫn rất lớn
đối với du khách quốc tế.
2.1.2. Thống kê các điểm du lịch quan trọng của vùng
Vùng du lịch Bắc Bộ bao gồm 28 tỉnh thành, mỗi tỉnh có những điểm du lịch đặc trưng,
tạo nên các sản phẩm du lịch có giá trị lớn đối với hoạt động kinh doanh du lịch. Hệ thống
các điểm du lịch, điểm tham quan quan trọng của vùng bao gồm nhiều điểm có giá trị, được
thống kê chi tiết trong bảng phục lục 1: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du
lịch Bắc Bộ.
2.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Vùng du lịch Bắc Bộ có lịch sử hình thành và phát triển du lịch sớm nhất nước ta do đó,
vùng đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đa dạng phục vụ cho sự
phát triển của ngành. Tại các trung tâm hoặc các điểm du lịch đã xây dựng được hệ thống
nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ của du khách. Hệ thống này ngày
càng đa dạng về loại hình đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách đến từ nhiều quốc gia,
nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống các điểm, khu vui chơi giải trí của
vùng vẫn còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Về hệ thống cơ sở lưu trú, số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 sao trở lên đã
được đầu tư xây dựng tại trung tâm du lịch Hà Nội, các điểm du lịch Hạ Long, Hải Phòng,
Hải Dương, Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh.... Loại hình lưu trú cũng ngày càng đa
dạng. Ngoài hệ thống khách sạn cao cấp, vùng có phát triển hệ thống nhà nghỉ, khu resrot,
homestay, camping... phục vụ tối đa nhu cầu nghỉ dưỡng của các đối tượng khách. Các hình
thức lưu trú này không chỉ tập trung tại trung tâm du lịch Hà Nội mà còn được trải đều ở các
tiểu vùng du lịch. Đây là điều kiện để phát triển du lịch đồng đều giữa các tỉnh thành trong
vùng, nâng cao chất lượng phục vụ du lịch. Các cơ sở lưu trú quan trọng của vùng được
thống kê chi tiết trong phục lục 2: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc
Bộ.
10
Đối với vùng du lịch Bắc Bộ, hệ thống nhà hàng, quán bar phục vụ cho hoạt động du
lịch của vùng trong giai đoạn hiện nay cũng ngày càng phát triển đa dạng. Trong vùng, có
nhiều kiểu nhà hàng phục vụ đa dạng cho các đối tượng khách khác nhau: nhà hàng các món
ăn dân tộc, nhà hàng chuyên món ăn Âu, nhà hàng chuyên món ăn chay, nhà hàng chuyên
món ăn của một số quốc gia trên thế giới (Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,...). Sự phong phú
này giúp cho khách quốc tế có nhiều sự lựa chọn và khách nội địa sẽ được thưởng thức văn
hóa ăn của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế các nhà hàng lớn chỉ tập trung ở
các trung tâm du lịch phát triển như Hà Nội, Hạ Long. Với các điểm du lịch nhỏ cơ sở ăn
uống còn nhỏ lẻ, manh mún chưa có hệ thống nhà hàng chuyên dụng hoặc mới chỉ phát triển
hình thức ăn theo bàn truyền thống (chưa có kiểu Buffet mang lại nhiều sự lựa chọn cho du
khách).
Bên cạnh hệ thống khách sạn, nhà hàng sang trọng, vùng du lịch Bắc Bộ còn có nhiều cơ
sở phục vụ lưu trú và ăn uống với hệ thống nhà nghỉ, quán bar tập trung tại các điểm du lịch
quan trọng của vùng như Nghệ An, Sa Pa, Ninh Bình.... Với sự đa dạng này, đã đáp ứng
được nhu cầu phong phú của du khách với nhiều các loại hình du lịch khác nhau. Tuy nhiên,
có nhiều cơ sở còn hoạt động manh mún vẫn mang tính thời vụ, do đó cần mở rộng kinh
doanh đem lại sự phục vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo cho du khách. Những nhà hàng quan
trọng của vùng được thống kê chi tiết trong phục lục 3: Hệ thống nhà hàng quan trọng của
vùng du lịch Bắc Bộ.
2.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng du lịch Bắc Bộ là du lịch văn hóa, du lịch hội
nghị hội thảo kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu và nghỉ dưỡng.
- Du lịch tham quan nghiên cứu nền văn hóa Việt Nam
+ Các di tích văn hóa – lịch sử của vùng là chứng nhân cho thời kỳ dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
+ Các lễ hội, tâm linh thuộc các nền văn minh, văn hóa của dân tộc.
+ Các di sản, văn hóa nghệ thuật truyền thống của cộng đồng người Việt và các dân tộc
khác.
+ Các làng nghề thủ công truyền thống
- Tham quan nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí tại các vùng có cảnh quan đẹp
+ Vùng biển và hải đảo
+ Các hồ chứa nước lớn và nghỉ mát trên núi
+ Vùng núi đá, hang động karst
+ Vùng núi cao, rừng nguyên sinh
- Du lịch sinh thái
+ Tham quan nghỉ dưỡng tại các khu sinh thái gần trung tâm du lịch Hà Nội
+ Các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển cho phép khai thác phục vụ phát triển du
lịch
- Du lịch hội nghị, hội thảo, hội chợ, công vụ
11
Bản đồ 2.1: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ
2.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LICH QUAN TRỌNG ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG
VÙNG
2.2.1. Tuyến du lịch trung tâm Hà Nội
2.2.1.1. Khái quát về Hà Nội
Hà Nội là thành phố cổ, là thủ đô của nước Việt Nam được xây dựng cách đây hàng
nghìn năm, là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống và nhân tài.
12
Hà Nội thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2, đồng thời cũng là địa
phương đứng thứ nhì về dân số với 7.129.600 người (2014).
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 10
quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai
trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, thuận tiện cho giao thông và trao
đổi kinh tế, văn hóa với các tỉnh thành trong vùng và cả nước. Hà Nội cũng là trung tâm văn
hóa, kinh tế, chính trị của cả nước.
Hà Nội có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch (theo thống kê của Sở Văn hóa Thông
tin Hà Nội, đến năm 2011, Hà Nội có 2.114 di tích văn hóa lịch sử, 579 ngôi đình, 676 ngoi
chùa, 273 ngôi đền với mật độ di tích được xếp hạng cao nhất cả nước, trung bình 42,8 di
tích/km2). Đây là tiền đề quan trọng để du lịch Hà Nội phát triển.
Theo thống kê năm 2013, Hà Nội có 611 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt
động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu
phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội
không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho
phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động
từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia,
Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6
khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.
Về tài nguyên du lịch tự nhiên, Hà Nội có cảnh quan địa hình phân hóa đa dạng từ miền
núi cao khu vực Ba Vì đến vùng đồng bằng trũng. Sự phân hóa địa hình tạo nên nhiều cảnh
quan du lịch hấp dẫn cho thành phố, tiêu biểu như Ba Vì, Hương Sơn, Sóc Sơn… Thành
phố cũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thích hợp cho hoạt động du lịch.
Hệ thống sông hồ cũng là một đặc điểm thu hút khách của thành phố, hấp dẫn du khách
như: sông Hồng, sông Đáy; hồ Tây, hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, hồ suối Hai….Ngoài ra, thành
phố còn có hệ thống cây xanh, vườn quốc gia có giá trị cao đối với hoạt động tham quan,
nghiên cứu, nghỉ dưỡng, tiêu biểu là vườn quốc gia Ba Vì.
Hà Nội tập trung nhiều công trình kiến trúc tâm linh có giá trị như: chùa Một Cột, chùa
Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn, chùa Thầy, chùa Đậu, chùa Mía…Bên cạnh đó, lễ hội cũng là
một tài nguyên đặc sắc, có giá trị rất hấp dẫn khách du lịch. Các lễ hội tiêu biểu: lễ hội
Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, Chùa Hương, An Dương Vương…
Hà Nội có hệ thống bảo tàng đa dạng ở Việt Nam (hơn 10 bảo tàng): Dân tộc học, Lịch
sử, Cách mạng, Quân sự, Mỹ thuật…cùng với nhiều thư viện, trung tâm triển lãm, trung tâm
thông tin…. là những địa điểm tham quan, vui chơi giải trí hấp dẫn du khách trong và ngoài
nước.
Trung tâm du lịch Hà Nội còn là nơi tập trung các làng nghề nổi tiếng như: làng gốm
Bát Tràng, làng Ngũ Xá đúc đồng, làng lụa Vạn Phúc, làng Nón Chuông, sơn mài Hạ
Thái… vẫn còn lưu giữ được những nét văn hóa truyền thống làng nghề. Nơi đây cũng là
những điểm tham quan quen thuộc của du khách quốc tế.
Cùng với tài nguyên du lịch phong phú, thành phố Hà Nội có hệ thống cơ sở vật chất –
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng rất phát triển. Hệ thống khách sạn, nhà hàng, các cơ sở vui chơi, giải
trí phát triển trên khắp thành phố. Hiện tại, thành phố có khoảng 200 khách sạn được xếp
hạng, trong đó có 6 khách sạn chuẩn 5 sao, đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khách
khác nhau. Ngoài ra, thành phố là đầu mối giao thông và có sân bay quốc tế cũng là yếu tố
thuận lợi để du khách dễ dàng di chuyển và thu hút đông đảo hơn nữa du khách trong tương
lai.
13
2.2.1.2. Các điểm tham quan du lịch trong nội thành Hà Nội
a) Khu Phố cổ Hà Nội
Phố cổ Hà Nội được xác định bởi khu 36 phố phường. Khu phố cổ được xây dựng từ thế
kỷ XI khi vua Lý Thái Tổ cho xây dựng kinh thành Thăng Long. Về địa giới, không gian
khu Phố cổ Hà Nội có thể coi như một hình tam giác cân, có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh
phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy
là phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ. Ngày nay, khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận
Hoàn Kiếm, tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng
Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa
Đông, Lý Thái Tổ.
Thời Lý, Phố cổ Hà Nội gồm 36 phố phường, thời nhà Trần Phố cổ Hà Nội được mở
rộng với 61 phố phường. Từ thời Lê đến nay khi nới tới Phố cổ Hà Nội là được xác định bởi
36 phố phường.
Phố cổ Hà Nội được quy hoạch theo hình bàn cờ, có chức năng là nơi kinh doanh và sản
xuất các mặt hàng theo tên gọi. Việc bố trí các phố phù hợp với điều kiện kinh doanh, các
phố buôn bán những mặt hàng cồng kênh cần đường giao thông đều nằm gần mặt đê sông
Hồng. Đặc trưng nổi bật nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng
nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề
của mình. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước,
mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng. Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được
sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc...
Đặc trưng tiếp theo của khu phố cổ là kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Những
nhà cổ chủ yếu là nhà ống, mái ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng buôn bán thò thụt không
đều, được dựng vào thế kỉ XVIII - XIX, trước đó hầu hết là nhà mái tranh, chỉ có một số nhà
giàu có, nhà của Hoa kiều mới lợp mái ngói.
Thời kì toàn quốc kháng chiến, để tránh đụng độ trực tiếp với quân Pháp và lính Lê
dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần
người ta có thể đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần
phải xuống đường. Từ cuối thế kỉ XX, các nhà cổ dần dần biến mất. Thay vào đó là các ngôi
nhà ống xây mới phá vỡ cảnh quan vốn có của phố cổ.
Bên cạnh kiến trúc nhà, khu phố cổ còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa như đình,
đền, chùa, hội quán. Điển hình: Đình Nhân Hội (33 phố Bát Đàn); đình Đông Môn (8 Hàng
Cân); đình Thuận Mỹ (64 Hàng Quạt); chùa Cầu Đông (38B Hàng Đường) ; chùa Kim Cổ
(73 Đường Thành);…. Các di tích lịch sử văn hóa còn hiện hữu tại nơi đây đã thể hiện gốc
gác truyền thống văn hóa của một bộ phận dân cư Thăng Long – Hà Nội xưa.
Khu Phố cổ Hà Nội ngày nay do bị thời gian tàn phá nên đã bị xuống cấp nghiêm trọng,
không còn giữ được những giá trị kiến trúc mỹ thuật, văn hóa như xưa. Do đó, việc trùng tu,
bảo vệ Phố cổ Hà Nội đang rất cấp bách. Trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định dùng khoảng 50 tỷ đồng để tân trang
75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành.
Ngày nay, phố cổ Hà Nội vẫn là nơi lưu giữa văn hóa Thăng Long – Hà Nội xưa, rất hấp
dẫn du khách trong và ngoài nước. Vì vậy, ông F.Mayơ - Tổng giám đốc UNESCO đã nhận
xét rằng: “Khu Phố cổ Hà Nội là một di tích quý giá, đáng được bảo tồn”.
b) Văn miếu Quốc Tử Giám
Văn miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành
phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long xưa. Hiện nay, nơi đây đã được thủ
tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.
14
Cổng chính nằm ở phía nam công trình thuộc phố Quốc tử giám.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám có diện tích 54.331m2 bao gồm: hồ Văn,
khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ
Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức đời Lý Thánh Tông. Ngoài chức năng thờ
tự, Văn miếu còn mang chức năng của một trường học Quốc gia mà học trò đầu tiên là Thái
tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến
năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây
dựng với diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các công trình kiến trúc chính
là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến
trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám.
Cổng Văn miếu là tam quan lớn, xây hai tầng ba cửa, tầng hai có tám mái, bốn mái nóc
uốn cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, tạo kiểu dáng vừa uy nghi, vừa thanh
thoát. Qua cổng tam quan là khu Nhập đạo, có không gian cây xanh thảm cỏ, hồ nước,
đường lát gạch.
Khuê Văn Các (nghĩa là "vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn
mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều
Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân
xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này
phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo.
Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ
đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp
vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất
nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Nằm trong khu Văn miếu còn có giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ là hai công trình rất
có giá trị.
Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn).
Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn
nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô
đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng.
Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn
tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa
giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho
phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2
vườn bia đá ở 2 bên.
Di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của
giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía
giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa
nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm
xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho
của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày
nay, tấm sớm nhất dựng vào năm1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ
khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ
nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể
các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều
Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật
15
đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ
phải gắn chắp lại.
Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành
bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành,
song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía
sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.
Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải
trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to
lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2
bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song
song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề
rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng
cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình
chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.
Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay,
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời
cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào
ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi
kỳ thi.
Ngày 9/5/1962, Bộ Văn hóa đã công nhận Văn miếu Quốc tử giám là di tích lịch sử cấp
Nhà nước.
c) Chùa Một Cột
Chùa Một Cột hay còn gọi là chùa Diên Hựu được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây
dựng vào mùa đông tháng mười (âm lịch) năm 1049.
Tương truyền khi ấy nhà vua cao tuổi mà không có con trai nên thường đến các chùa để
cầu tự. Một đêm, vua chiên bao thấy đức Quan Thế Âm hiện trên đài hoa sen ở một hồ nước
hình vuông phía Tây thành Thăng Long, tay bế đứa con trai đưa cho nhà vua, ít lâu sau
hoàng hậu thụ thai sinh con trai, nhà vua cho dựng chùa có dáng như trong mộng để thờ
Phật và Quan Thế Âm.
Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng cột đá, trên đặt đài sen thờ Phật, các nhà sư đi vòng
để cầu kinh cho nhà vua sống lâu nên chùa có tên là Diên Hựu.
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm. Năm 1105, vua
Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô
chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực
dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng
tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài
mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính
1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống
những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong,
trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Trong quan niệm người Việt, rồng luôn là con vật linh
thiêng, biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh. Và hình ảnh "Lưỡng long chầu nguyệt" trên các
mái đình đền, chùa chiền, không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong
đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ
xưa. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà
Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi
hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can
làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến
trúc nhà Hậu Lê.
16
Chùa Một Cột được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia đặc biệt
vào năm 1962.
d) Quảng trường Ba Đình và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng
Vương và trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quảng trường là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn
quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt, vào ngày 2 tháng 9 năm1945, Chủ tịch Chính
phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường Ba Đình ngày nay có
khuôn viên với chiều dài 320m và rộng 100m, có 240 ô cỏ, xen giữa là lối đi rộng 1,4m.
Giữa quảng trường là cột cờ cao 25m. Đây là nơi diễn ra các cuộc diễu hành nhân dịp các
ngày lễ lớn của Việt Nam, và cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi, dạo mát của du
khách và người dân Hà Nội.
Phía đông Quảng trường là nhà Quốc hội do hai kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện và
Trần Hữu Tiềm thiết kế. Hội trường có sức chưa 1.200 người.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi
hài của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là nhà yêu nước lớn, nhà văn hóa thế giới, đã được
UNESCO tặng danh hiệu là Danh nhân văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc
nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức
khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi
Người đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao
21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm
phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những
hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có
dòng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh" bằng đá hồng màu mận chín. Trong di chúc, Hồ Chí
Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do "theo nguyện vọng và
tình cảm của nhân dân", quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này người
dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng Người.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động nghệ thuật của các nhà khoa học Việt
Nam và Liên Xô.
Khách đến viếng và thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có dịp tham quan quần thể
khu di tích: nơi ở và nơi làm việc của Người, Phủ Chủ tịch, nhà sàn, ao cá và vườn cây với
nhiều loại cây quý. Đây cũng là điểm tham quan hấp dẫn nằm liền kề khu vực Quảng trường
và Lăng Chủ tịch.
e) Hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn
Hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên của thành
phố Hà Nội. Trước kia, hồ còn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh
năm). Tên gọi Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ XV gắn với truyền thuyết vua Lê Thái
Tổ trả gươm báu cho Rùa thần. Tên hồ được lấy để đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội
(quận Hoàn Kiếm) và là hồ nước duy nhất của quận này cho đến ngày nay.
Quá trình hình thành và phát triển của đền Ngọc Sơn qua các thời kỳ lịch sử không đồng
nhất và có sự khác nhau. Thời xưa trên hồ Tả Vọng (Hoàn Kiếm) đã có gò đất cao, tương
truyền các tiên nữ thường về đây ca hát. Thời Lý Thái Tổ gò đất được gọi là Ngọc Tượng
Sơn. Thời Trần gọi là Ngọc Sơn, trên Ngọc Sơn có một ngôi chùa, về sau bị hủy hoại. Đến
thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp
hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội.
17
Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín
Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít năm sau chùa lại
nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại
các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi
tên là đền Ngọc Sơn.
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền.
Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ
Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, nhà nho Nguyễn Văn
Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả
Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút.
Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá
hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một
bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau
ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên,
một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những
người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng
Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu
thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.
Đi từ ngoài vào đền, du khách thấy khá nhiều câu đối có giá trị nói lên ý tưởng của kẻ sĩ
trên đất Thăng Long.
Ngày nay, hồ Hoàn Kiếm đền Ngọc Sơn là điểm tham quan không thể thiếu trong các
chương trình du lịch về Hà Nội. Đặc biệt, nơi đây còn được du khách quốc tế yêu thích
tham quan tìm hiểu mỗi khi đặt chân đến Việt Nam.
g) Một số bảo tàng quốc gia ở Hà Nội
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một viện bảo tàng về lĩnh vực dân tộc học của Việt
Nam, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên.
Bảo tàng được chính thức thành lập vào năm 1995 và khánh thành vào ngày 12 tháng
11 năm 1997. Công trình do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được
thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp).
Hiện nay, bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt
Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273băng ghi
âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom(tính đến năm 2000).
Các hiện vật này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: dân tộc, công dụng, y
phục, trang sức, nông cụ, ngư cụ, vũ khí, đồ gia dụng, nhạc cụ, tôn giáo-tín ngưỡng, cưới
xin, ma chay và nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.
Khu trưng bày thường xuyên trong toà Trống Đồng giới thiệu tất cả 54 dân tộc ở Việt
Nam. Ở đây có nhiều hiện vật thông dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người
dân. Đặc biệt phong phú là đồ vải của các dân tộc, như khố, váy, khăn... được trang trí bằng
các kỹ thuật truyền thống khác nhau; đồ đan, nhất là các loại gùi, giỏ, mâm; những nhạc cụ
bằng tre, vỏ bầu khô; các hiện vật nghi lễ... Cùng với hiện vật, trong các phòng trưng bày
còn có ảnh và phim tư liệu, phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể, phi vật thể, những nét
tiêu biểu trong đời sống và sự sáng tạo của các tộc người.
Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính:
18
Khu trưng bày trong tòa Trống Đồng: không gian trưng bày thường xuyên giới thiệu 54
dân tộc ở Việt Nam trải rộng trên 2 tầng của toàn nhà; 2 không gian giành cho các trưng bày
nhất thời, luôn luôn được đổi mới tuỳ theo chủ đề trưng bày
Khu trưng bày ngoài trời: là một vườn cây xanh trong đó có 10 công trình dân gian với
các loại hình kiến trúc khác nhau.
Khu trưng bày Đông Nam Á: Khởi công xây dựng vào năm 2008. Ngoài ra là khu vực
cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản hiện vật...
Điều đặc biệt khi du khách đến tham quan bảo tàng sẽ được chiêm ngưỡng các khu trưng
bày lưu động được tổ chức theo sự kiện, được xem và khám phá không gian múa rối nước
được biểu diễn hàng ngày phục vụ nhu cầu tham quan của du khách.
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bảo tàng Hồ Chí Minh là một bảo tàng lớn nhất của Việt Nam. Bảo tàng tập trung chủ
yếu vào việc trưng bày những hiện vât, tư liệu về cuộc đời và con người Hồ Chí Minh. Bảo
tàng là công trình văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình Bảo tàng được
khởi công xây dựng ngày 31-8-1985 và khánh thành vào đúng ngày 19-5-1990, nhân kỷ
niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác giả thiết kế công trình là kiến trúc sư
người Nga nổi tiếng - ông Garon Isacovich.
Toà nhà bảo tàng mang biểu tượng bông sen trắng tượng trưng cho cuộc đời giản dị
thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc của
nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, quyết tâm đi theo con đường mà Người đã
lựa chọn cho dân tộc Việt Nam.
Gian mở đầu (còn gọi là gian long trọng) trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng là
tượng trưng cho nhụy của bông sen trắng. Trung tâm của gian là tượng Chủ tịch Hồ Chí
Minh bằng đồng cao 3.5 m, nặng 2.8 tấn. Phía sau tượng là biểu tượng mặt trời và hình ảnh
cây đa tượng trưng cho ánh sáng và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Theo quan niệm
“trời tròn, đất vuông” của triết học phương Đông: trần gian mở đầu được trang trí một vòng
tròn bằng đồng đan xen những chùm đèn tết hoa, tượng trưng cho trời. Giữa sàn của gian
này được trang trí hình vuông với những bông hoa bằng đá ghép lại, tượng trưng cho trái đất
với hình ảnh đất nước Việt Nam. Hai bên cửa gian long trọng là hai bức phù điêu thể hiện
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam dựa trên các truyền thuyết: Bọc
trăm trứng, Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm.
Những biểu tượng nghệ thuật trên đã khái quát chủ đề trưng bày của Bảo tàng: giới thiệu
cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với sự phát triển của dân tộc Việt
Nam và nhân loại.
Trưng bày cố định của Bảo tàng nằm ở tầng 3 với 4000m2. Hai gian triển lãm ở tầng 2
rộng 600m2. Không gian khám phá học đường rộng hơn 150m2.
Kho cơ sở của Bảo tàng có 13 vạn tài liệu, hiện vật; có thư viện chuyên đề sách, báo, tạp
chí…về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kho Tư liệu có hơn 12.000 tài liệu, trong đó có nhiều tư
liệu quí. Thư viện hiện có hơn 6.700 đầu sách với khoảng 25.000 nghìn bản và đầu tạp chí,
báo... Tư liệu - Thư viện đã áp dụng công nghệ thông tin để quản lý, phục vụ bạn đọc tra
cứu.
Bảo tàng có các loại hội trường: 350, 250, 60, 50 chỗ ngồi có thể tổ chức các hội nghị,
hội thảo khoa học, chương trình ca múa nhạc, tổ chức sự kiện... Thường xuyên tổ chức, phối
hợp tổ chức và cung cấp các triển lãm chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có Trung tâm
đảm nhiệm việc nghiên cứu thiết kế trưng bày và xây dựng các dự án bảo tồn tôn tạo và phát
huy di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các di tích lịch sử văn hoá khác.
Trưng bày chính của Bảo tàng Hồ Chí Minh thể hiện 3 nội dung:
19
- Giới thiệu tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tuổi ấu thơ cho đến khi Người qua đời và
nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Người.
- Giới thiệu về cuộc sống, chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
- Giới thiệu một số sự kiện lịch sử thế giới (từ cuối thế kỷ 19 và trong thế kỷ 20) có tác
động và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt
Nam.
Ba nội dung trên là một tổng thể không thể tách rời khắc họa huyền thoại Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn, như tổ chức UNESCO đã
tôn vinh Người tháng 11 năm 1987, một lãnh tụ, một con người luôn gắn với dân tộc, đất
nước và thời đại.
Bên cạnh các điểm tham quan trên, đến với du lịch Hà Nội, du khách sẽ được tham quan,
tìm hiểu một số các điểm du lịch hấp dẫn khác như: chùa Quán Sứ, chùa Láng, Trấn Vũ
Quán, Nhà thờ lớn, đền Hai Bà Trưng, chợ Đồng Xuân, công viên Thống Nhất, vườn thú
Thủ Lệ….Đây cũng là những điểm tham quan quen thuộc rất hấp dẫn du khách quốc tế.
Ngoài những điểm tham quan có giá trị lịch sử, gắn liền với quá trình phát triển của dân
tộc Việt Nam, đến Hà Nội du khách còn được khám phá các trung tâm thương mại
(Vincom, Royal City, Kangnam, Big C, Parkson,…), các điểm vui chơi giải trí như Thiên
đường Bảo Sơn, Công viên nước Hồ Tây…Các điểm tham quan này cũng là địa điểm lý
thú, rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
2.2.1.3. Các điểm tham quan ngoại thành Hà Nội
a) Làng nghề Bát Tràng
Bát Tràng là một làng nghề ven đô, nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc thôn Bát Tràng,
xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Bát Tràng có diện tích 153ha, trong đó đất
canh tác là 46ha, đất ở chiếm 53ha, còn lại là đất bãi, ao hồ.
Theo thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian thì nghề gốm Bát Tràng xuất hiện vào thế kỷ
XII dưới thời Lý. Vào thời kỳ đó, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào
Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn
tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) gặp bão, phải nghỉ lại.
Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá
cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào
Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ.
Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu
đỏ màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít
nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang
với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm 1127.
Tên Bát Tràng có từ khoảng 5 thế kỷ nay. Trong thế kỷ XV và XVI, dưới thời Lê và
thời Mạc làng gốm Bát Tràng phát triển thịnh vượng. Đặc biệt dưới thời nhà Mạc do chính
sách khuyến thương, sản phẩm gốm ở đây phong phú, đa dạng, đạt nghệ thuật cao, được lưu
hành rộng rãi, đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của tầng lớp quý tộc và nhân dân trong nước.
Vào thế kỷ XVII, hoạt động thương mại phát triển cùng với sự xuất hiện của các thương
cảng lớn: phố Hiến ở Đàng Ngoài, phố cổ Hội An ở Đàng Trong. Nhiều thuyền buôn ở châu
Âu và khu vực đã tìm đến buôn bán ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho làng gốm Bát
Tràng phát triển sôi động, thịnh đạt, có nhiều sản phẩm tham gia vào quá trình thương mại
quốc tế. Trong nhiều bảo tàng và nhiều gia đình trên thế giới vẫn còn lưu giữ nhiều di vật
gốm cổ Việt Nam trong đó có gốm Bát Tràng.
Từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, do Nhật Bản và Trung Quốc bác bỏ chính sách
cấm vượt biển buốn bán với người nước ngoài. Các nước phương Tây với công nghiệp phát
20
triển đã chuyển hướng thị trường và các mặt hàng buôn bán. Trong nước, chính quyền Trịnh
– Nguyễn cũng có nhiều chính sách hạn chế ngoại thương, cùng với tình hình kinh tế, chính
trị không ổn định đã làm cho việc xuất khẩu gốm Bát Tràng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, ở Bát Tràng có ba xí nghiệp sản xuất gốm xứ gồm: Xí nghiệp gốm sứ Bát
Tràng được thành lập năm 1958, xí nghiệp X5 và xí nghiệp X54 được thành lập năm 1988;
ba xí hợp tác xã gốm HTX Ánh Hồng, 30-4, Hợp Lực, mỗi HTX có 200 công nhân đang
làm việc. Các sản phẩm của các xí nghiệp và HTX có giá trị và chất lượng cao được rất
nhiều du khách trong và ngoài nước yêu thích.
b) Điểm du lịch Ba Vì – Suối Hai
Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 60 km về phía tây Bắc, Ba Vì là vùng đất địa linh,
nhân kiệt, một vùng đất tối cổ, có truyền thống văn hoá lâu đời, độc đáo, đặc trưng bởi 3
dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt. Nhắc tới
Ba Vì có lẽ ấn tượng đầu tiên của du khách sẽ là về một nền văn hoá dân gian vật thể và phi
vật thể độc đáo.
Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có cảnh rừng núi hung vĩ, hòa quyện các tài nguyên
nhân văn, hồ nước, rừng nhân tạo, đình, chùa tạo nên những cảnh đẹp vừa hữu tình, vừa thơ
mộng.
Đây là điểm du lịch có địa hình cao nhất ở Hà Nội nên có khí hậu mát mẻ, không khí
trong lành, nhiệt độ giảm 2-30C hoặc 6-70C so với chân núi nên đây là điều kiện khí hậu
tuyệt vời để phát triển du lịch. Chính vì điều đó nên trong thời kỳ Pháp thuộc đã cho xây
dựng ở khu vực này tới 200 biệt thự và khách sạn để phục vụ cho việc nghỉ ngơi của binh
lính, sĩ quan người Pháp.
Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có rất nhiều điểm tham quan hấp dẫn như: Ao Vua,
Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác
Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị,
VQG Ba Vì… Nơi đây còn có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp
phong phú. Có nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ rất thuận lợi cho phát
triển du lịch nghỉ dưỡng. Với những lợi thế trên Ba Vì thực sự là nơi có tiềm năng để phát
triển nhiều loại hình du lịch nhất là du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng…
Hồ Suối Hai
Cách Hà Nội khoảng 60 km về phía tây, hồ Suối Hai nằm dưới chân núi Ba Vì được tạo
bởi hệ thống đập chính và phụ dài 4 km để giữ nước từ hai suối chính Yên Cư và Cầu Rồng
chảy từ trên núi xuống. Đây cũng là nguồn nước tưới cho trên 7.000 ha, dài 7 km, rộng 4
km, lượng nước chứa trong hồ khoảng 45 triệu m3. Đây là hồ nhân tạo được khởi công xây
dựng năm 1958.
Trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ, với diện tích khoảng 90 ha. Bạn có thể thăm thú
nơi này bằng thuyền nhỏ du ngoạn trên hồ. Trên các đảo và ven hồ, trồng nhiều cây xanh và
vườn cây ăn trái. Nhiều loại chim đến đây sinh sống như chim le le, vịt trời, ngỗng trời,
mòng két, sâm cầm, giang, sếu... Chúng sinh sống trên mặt nước làm khung cảnh thiên
nhiên thêm phong phú. Ngoài ra, trên hồ còn có nhiều bãi tắm nhỏ, đẹp rất được du khách
ưa thích. Hồ cũng là nơi cung cấp cá mối có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao cho du khách.
Trang trại đồng quê Ba Vì
Trang trại Đồng Quê Ba Vì cách trung tâm thành phố Hà Nội 65 km, toạ lạc trên một
khu đồi nhỏ xinh xắn, tựa lưng vào dãy núi Ba Vì. Trang trại nằm trong vùng ngoại thành
phía tây thuộc thủ đô Hà Nội có địa hình thiên nhiên nông nghiệp rất đẹp và đa dạng (rừng,
hồ, ao, suối, sông ngòi) tiêu biểu cho một nền văn minh lúa nước vào hàng cổ đại của thế
giới thuộc châu thổ sông Hồng.
21
Từ trang trại nhìn xuống, quý khách có thể chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa có hình
dạng bậc thang thấp, phía sau là màu xanh ngút ngàn của khu rừng nguyên sinh thuộc dãy
núi Ba Vì với ba đỉnh cao 1100, 1200 và 1300 mét. Đến với Trang trại Đồng Quê Ba Vì
ngoài việc nghỉ ngơi, du khách sẽ được tham quan các làng sản xuất nông nghiệp có truyền
thống lâu đời xung quanh trang trại với các cảnh quan đẹp, được hưởng thụ các đặc sản
thiên nhiên tươi lành trong khung cảnh gia đình ấm cúng.
Cũng như có cơ hội tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch nông nghiệp mang đậm
dấu ấn văn hoá đồng quê Việt Nam chủ yếu dựa vào thi ên nhiên như: cấy lúa, bắt cá cua ốc
bằng những dụng cụ làm bằng tre, trồng và hái các loại rau rừng và rau thảo dược, xem cách
làm mật ong, tự hái và sao chè khô, cho đà điểu, dê, thỏ, bò sữa ăn v.v. Đi thăm những vườn
chè, những cánh đồng ngô bạt ngàn ven các dòng sông mẹ của miền Bắc Việt Nam hàng
nghìn năm đã bồi đắp nên vùng châu thổ sông Hồng. Tại trang trại còn tổ chức những cuộc
giao lưu hát múa với các đội văn nghệ của hai dân tộc thiểu số Mường, Dao sống tại các
làng sát trang trại.
c) Chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian có tên chữ là chùa Quảng Nghiêm còn gọi là chùa Tiên Lữ, nằm trên
một quả đồi cao khoảng 50 m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà
Nội. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông nhà Lý. Đến thời nhà Trần, có hòa thượng Bình
An, quê ở Bối Khê tu ở đây, tương truyền là người có nhiều phép lạ. Sau khi ông mất, dân
làng xây tháp để giữ gìn hài cốt và tôn gọi là Đức Thánh Bối. Ngôi chùa lớn với quy mô
như hiện nay là đã được trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều thời đại.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một
"gian" thì chùa có 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính:
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội,
tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Trèo qua mấy trăm bậc gạch xây là tới cụm thứ hai gồm một toà gác chuông 2 tầng mái,
có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Lại leo 9 bậc đá, hai
bên có lan can chạm hình rồng cuộn khúc thế tới cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái
đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang.
Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1
m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10. Tại
đây có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết
Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình
khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang
trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các tượng Phậttam
thế. Trong chùa còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai,
tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Trong chùa có tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo
quân đánh vào phía nam Thăng Long. Tượng này được phát hiện vào năm 1972. Ngoài ra
còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút
bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
2.2.1.4. Nghệ thuật ẩm thực của Hà Nội
Hà Nội là đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, là nơi hội tụ người và vạn vật tạo nên những
nét văn hóa đặc sắc của người Hà Nội. Nét thanh tao của người Hà Nội không chỉ thể hiện ở
trang phục, ứng xử, phong cách sống, làm việc mà còn được thể hiện qua ẩm thực.
Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều sản vật ngon, có giá trị và rất nổi tiếng như hồng xiêm
(Xuân Đỉnh), bưởi (Diễn), cam (Canh), dưa (La), húng (Láng)….hay các món ăn truyền
22
thống mà chỉ ăn ở Hà Nội mới cảm nhận hết được “cái ngon” trong từng món ăn như: chả
cá Lã Vọng, cốm Làng Vòng, bánh Tôm Hồ Tây, phở Hà Nội, phở cuốn Ngũ Xá, ô mai
Hàng Đường….
Ẩm thực Hà Nội là nơi giao thoa của nhiều nền ẩm thực khác nhau. Cái tinh tế trong ẩm
thực Hà Nội thể hiện ở cách chế biến, cách thưởng thức và cả ở tấm lòng người trao kẻ
nhận. Mỗi món ăn Hà Nội đều có hương vị, nét đẹp riêng và đặc biệt là có truyền thống
trong cách thưởng thức, đó không chỉ là những thức ăn thông thường mà còn được nâng lên
thành nghệ thuật ẩm thực. Những món ăn Hà Nội đã làm nao lòng những người con xa quê
và cả những người khách lần đầu đến Hà Nội.
Phở Hà Nội
Phở không chỉ là món ăn yêu thích của người Hà Nội, mà là còn là món ăn hấp dẫn của
người dân Việt Nam trên mọi miền của tổ quốc. Theo các nhà nghiên cứu, món ăn này có
thể có mặt ở Việt Nam được 100 năm tuổi. Nhưng dựa vào chất liệu các các thưởng thức thì
có lẽ Phở đã có mặt từ lâu đời và trở thành món ăn độc tôn trong văn hóa ẩm thực Việt
Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ thì từ Bắc vào Nam có khoảng 17 món phở vừa bình dân,
vừa sang trọng, được nhiều lưa tuổi yêu thích. Tuy nhiên, phở Hà Nội là được chế biến tinh
tế, thanh tao, trở thành độc đáo. Và Hà Nội cũng được coi là nơi khởi thủy ra món ăn hấp
dẫn, tinh tế này.
Giá trị độc đáo, thanh tao của Phở Hà Nội được thể hiện ở những bí quyết chế biến.
Phở ngon phải có ba thứ: Xương bò, nước mắm và gừng nướng. Phở Hà Nội có cái ngọt
chân chất của xương bò, cái thơm của thịt bò vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai.
Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất
kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm
mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa
xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy lát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại
thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên. Tất cả màu sắc đó như một bức
hoạ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất
thảy vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của
đất trời và con người hợp lại.
Bát, đũa, thìa dùng để ăn phở không những phải được rửa và tráng nước sôi thật sạch
mà phải có hình thức đẹp, đồng bộ. Phở ăn cùng với gia vị là dấm gạo nếp (ngâm với tỏi,
ớt), chanh tươi, chút hồ tiêu xay nhỏ, rau húng láng thì thật là tuyệt vời.
Bát phở Hà Nội tạo cho người ăn thấy “ăn hương, ăn hoa” ăn rồi vẫn cảm thấy ngót
bụng một chút để muốn được ăn thêm. Do đó, không chỉ người dân Việt Nam thích ăn phở
mà cả du khách nước ngoài khi đã đến Việt Nam thì không thể không thưởng thức món ăn
độc đáo này.
Một số địa chỉ ăn phở quen thuộc hấp dẫn du khách: Phở 24: số 1 Hàng Khay, 3 Thi
Sách, 37 Phan Đình Phùng, 191 Bà Triệu Vincom T5, 45 Huỳnh Thúc Kháng; Phở Vui - 13
Hàng Giầy, Phở Thìn - 8 Lê Trực, Phở Lý Sáng - 2 Hàng Gà, Phở Lân - 20 Ông Ích Khiêm,
Phở Bát Đàn - 49 Bát Đàn, Phở Thìn - 13 Lò Đúc, Phở Bò Cồ Cử - 4 Thụy Khuê, 33 Lê Đại
Hành, 30 Nguyên Hồng...
Phở cuốn Ngũ Xá
Ngũ Xã là một làng nghề nằm cạnh hồ Trúc Bạch, phía tây Thăng Long, nay là phố Ngũ
Xã, thuộc địa phận quận Ba Đình, Hà Nội. Nổi danh từ xưa với nghề đúc đồng nhưng gần
đây, nghề truyền thống ấy bị thu hẹp, thay vào đó là khu phố mới với nhiều dịch vụ ẩm thực
23
nổi tiếng, đặc biệt là phở cuốn, món ăn thu hút nhiều năm thanh nữ tú cùng thực khách
trong và ngoài nước đến thưởng thức.
Câu chuyện khai sinh ra món phở cuốn nghe ra cũng thật tình cờ. Chuyện kể rằng, có
một quán phở nằm ở ngã tư giữa phố Ngũ Xã và phố Nguyễn Khắc Hiếu của Hà Nội thường
phục vụ món ăn đêm cho những người thức khuya xem bóng đá hoặc giải trí, món quen
thuộc là phở nước. Một đêm, khách đến nhưng nước dùng đã hết, chỉ còn ít bánh phở. Chiều
khách, chủ quán lấy bánh phở tráng mỏng, để khổ vuông cuốn lẫn thịt bò chín với rau thơm
cho khách ăn kèm với nước chấm. Thật bất ngờ, khách ăn rất lạ miệng và tấm tắc khen
ngon. Tuy nhiên, do thịt bò chín vị khô nên ngấy, về sau chủ quán dùng thịt bò tái lăn. Cửa
hàng chuyển hẳn sang dùng thịt bò tái lăn cuốn bánh phở.
Theo lời kể của các cụ cao tuổi trong làng Ngũ Xã thì trước đây, nhiều gia đình làm
món phở cuốn chỉ để ngồi bán ngoài chợ, rất dân giã và rẻ tiền. Nhiều năm trở lại đây, phở
cuốn bỗng dưng được ưa chuộng như một món ngon đặc trưng của Hà Nội. Đã xuất hiện
những nhà hàng chuyên kinh doanh phở cuốn quy mô hơn và thực khách kéo nhau đến
thưởng thức ngày một đông. Đến nay thì phở cuốn Ngũ Xã đã như một địa chỉ quen thuộc
của khách thập phương và là niềm tự hào của người dân nơi đây.
Ăn phở cuốn chủ yếu để thưởng thức và khám phá một phong vị phở hoàn toàn độc đáo
và mới lạ. Cảm nhận sẽ đặc biệt khi so sánh với món phở nước truyền thống. Cũng bánh
phở, cũng thịt, cũng những rau thơm nhưng phở cuốn ăn khô, không chan nước dùng mà chỉ
chấm bằng nước mắm pha nhạt. Bánh phở để cả tấm, dùng để cuốn thịt và rau chứ không
thái thành sợi nhỏ như phở truyền thống. Chỉ vậy thôi, nghe có vẻ cực kỳ đơn giản nhưng bí
quyết của món ngon này nằm ở khâu ướp thịt và pha nước chấm. Thời gian ướp thịt không
được quá lâu cũng không được nhanh quá, khoảng chừng nửa tiếng là vừa. Còn các gia vị
dùng để ướp thịt là bí quyết riêng của từng nhà hàng để tạo nên một hương vị đặc trưng.
Thứ rau ăn cùng với món phở cuốn là rau xà lách thái khúc, rau mùi, rau húng. Đây là ba
loại rau chính không thể thiếu tạo nên hương vị đặc trưng nhớ đời của món phở cuốn.
Hiện nay, làng Ngũ Xã có hơn 10 nhà hàng làm phở cuốn. Xung quanh làng cũng mọc
lên rất nhiều hàng quán có món này. Thực đơn của các quán hiện khá phong phú. Bên cạnh
món phở cuốn và phở chiên phồng còn có phở xào, phở chiên trứng, mì xào, khoai tây
chiên, phở trộn, chả ngan nướng, ngô chiên. Tuy nhiên, thực khách đến đây dù lần đầu hay
đã thành quen thuộc cũng đều không thể thiếu món phở cuốn trên bàn ăn, rồi mới gọi đến
những món ăn khác.
Một số địa chỉ ăn phở cuốn quen thuộc: Phở cuốn Hương Mai: 27 Ngũ Xã; Vinh Phong:
40 Ngũ Xã; phở cuốn Hà Nội: 24 Ngũ Xã; phở cuốn ngon Hà Nội: 25 Ngũ Xã.
Chả cá Lã Vọng
Món chả cá ra đời cách đây khoảng 100 năm, người chế biến ra món ăn này là một gia
đình họ Đoàn sinh sống tại 14 Hàng Sơn.
Gia đình họ Đoàn thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ
nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã
giúp gia đình mở một quán chuyên bán món ăn ấy, vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm nơi
tụ họp. Lâu dần, hai tiếng “Chả Cá” được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một
ông Lã Vọng - Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá - biểu tượng của người tài giỏi nhưng
đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà
hàng và cũng là của món ăn. Bí quyết làm chả cá chỉ truyền lại cho người con cả họ Đoàn.
Chả cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Đặc
biệt nhất và cũng vô cùng hiếm hoi là chả làm từ cá anh vũ, bắt ở ngã ba Bạch Hạc (Việt
Trì-Phú Thọ). Không có cá lăng thì có thể dùng cá nheo, cá quả. Thịt cá được lọc theo kiểu
24
lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm theo một
phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất 2 giờ đồng hồ, rồi kẹp vào cặp tre (hoặc vỉ nướng chả
có quết một lớp mỡ cho đỡ dính). Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai
mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả nướng đã chín
trút vào chảo mỡ sôi trên bếp than hoa đặt trên bàn ăn, cùng với rau thì là và hành hoa cắt
khúc.
Chả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ (đang sôi) lên trên,
ăn kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng Láng, thì là, hành củ tươi
chẻ nhỏ chấm với mắm tôm.
Cuối năm 2003, hãng tin Mỹ MSNBC đã rút gọn lại và đặt nhà hàng Chả cá Lã Vọng
Hà Nội ở vị trí thứ 5 trong 10 nơi cho rằng thực khách nên biết cùng với 9 địa danh, lễ hội
nổi tiếng khác trên thế giới.
Ngày nay đã có nhiều hàng chả cá được mở tại Hà Nội nhưng căn nhà trên phố Chả Cá
vẫn là cửa hàng chả cá ngon bậc nhất và trở thành thương hiệu nổi tiếng khắp gần xa về
món ăn thơm ngon mang hương vị riêng của người Hà thành xưa.
2.2.1.5. Các tuyến du lịch chủ yếu và mộ số chương trình du lịch của Trung tâm du lịch
Hà Nội
a) Các tuyến du lịch chủ yếu (tuyến tham khảo)
Tuyến nội thành:
- Đền Ngọc Sơn – Phố cổ – Chợ Đồng Xuân – khu Lăng Bác, chùa Một Cột – đền Quán
Thánh – chùa Trấn Quốc – bảo tàng Dân tộc học – Văn miếu Quốc Tử Giám.
- Bảo tàng lịch sử Quân sự quốc gia – khu Lăng Bác – Văn miếu Quốc Tử Giám – bảo
tàng Mỹ Thuật – công viên Thủ Lệ – bảo tàng Dân tộc học.
- Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn – phố Cổ - chợ Đồng Xuân – đền Hai Bà Trưng – công viên
Lê nin.
- Hồ Gươm – Phố cổ – Chợ Đồng Xuân – Triển lãm Giảng Võ – chùa Láng – gò Đống
Đa.
- Hoàng thành Thăng Long – Đền Ngọc Sơn, hồ Gươm – Phố cổ - bảo tàng Lịch sử –
Văn miếu Quốc Tử Giám.
Tuyến ngoại thành:
- Hà Nội – Cổ Loa: Tham quan danh thắng, lễ hội
- Hà Nội – Ba Vì – Suối Hai: Tham quan nghỉ dưỡng, danh thắng
- Hà Nội – Sóc Sơn: Tham quan lễ hội, nghỉ ngơi ngắn ngày
- Hà Nội – Bát Tràng: Tham quan làng nghề truyền thống sản xuất gốm sứ
- Hà Nội – Chùa Hương: Tham quan danh thắng, lễ hội
- Hà Nội – Chùa Thầy – Chùa Tây Phương – làng Lụa Vạn Phúc: Tham quan di tích
lịch sử, làng nghề thủ công truyền thống.
- Hà Nội – làng cổ Đường Lâm: Tham quan làng cổ hai vua, các di tích lịch sử
- Tuyến du lịch sông Hồng
- Tuyến du lịch theo chuyên đề bảo tàng, làng nghề, ẩm thực, chùa, sinh thái của Hà
Nội…..
b) Một số chương trình du lịch chủ yếu, tiêu biểu (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch 1 ngày:
Chương trình: City Tour Hà Nội (1 ngày)
25
Sáng: Tham quan và viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp tục thăm Phủ Chủ Tịch, ao
cá bác Hồ, nhà sàn Bác Hồ, Chùa Một Cột(chùa Diên Hựu). Du khách tiếp tục tham quan
chùa Trấn Quốc nằm trên mặt nước Hồ Tây với ngôi tháp in hình dưới mặt nước lung linh,
đền Quán Thánh.
Chiều: Tham quan bảo tàng Lịch sử, Công viên nước Hồ Tây với các trò chơi: Rồng
thép Thăng Long – những vòng lượn siêu tốc; Đu quay bạch tuộc – cưỡi bạch tuộc, Đu quay
xoắn – bay trong vũ trụ; tàu điện trên không; Phòng chiếu phim ảo; nhà bóng, xe điện đụng,
tắm ở hồ bơi, trượt máng nước...
Chương trình: Hà Nội – Chùa Hương (1 ngày)
Sáng: Xe khởi hành từ Hà Nôi đi Chùa Hương, sau 2 giờ đi ô tô qua thị xã Hà Đông, tới
Vân Đình, đến bến Đục thì dừng xe để chuyển sang đi thuyền dọc suối Yến Vĩ chừng 3km
tới chùa Thiên Trù. Leo núi 2 giờ thăm động Hương Tích nơi chúa Trịnh Sâm đến vãn cảnh
động đã tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động "Nam thiên đệ nhất động" là nơi phong cảnh
hữu tình thờ đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát
Chiều: Thăm quan và thắp hương tại chùa Thiên Trù – Bếp của Trời. Quay trở lại
thuyền về bến lên xe ôtô về Hà Nội.
Chương trình: Hà Nội – Đình, chùa Vạn Phúc – Bát Tràng (1 ngày đi bằng tàu thủy)
Sáng: Tàu rời bến xuôi dòng Sông Hồng, du khách lên thăm Đình và Chùa Vạn Phúc,
ăn trưa trên tàu, thưởng thức ca nhạc dân tộc.
Chiều: Tham quan và mua sắm đồ lưu niệm tại làng gốm Bát Tràng. Sau đó du khách
lên tàu trở về Hà nội
Chương trình du lịch 2 ngày:
Chương trình Hà Nội – Ba Vì – Suối Hai
Ngày 1: Sáng: Đón khách, tham quan chùa Thầy, chùa Tây Phương, ăn trưa tại Hòa Lạc
Chiều: Tham quan hồ Suối Hai, đồi cò Ngọc Nhi, nghỉ đêm tại Ba Vì
Ngày 2: Sáng: Tham quan VQG Ba Vì, ăn trưa tại khu du lịch Thác Đa
Chiều: Tham quan làng cổ Đường Lâm, lăng Ngô Quyền, chùa Mía. Ăn tối và trả khách
về Hà Nội.
Chương trình du lịch nghỉ dưỡng Hà Nội – Tản Đà Resort
Ngày 1: Sáng: Xe đón du khách đến khu Tản Đà Resort. Khách nhận phòng, ăn trưa,
nghỉ ngơi.
Chiều: Du khách trải nghiệm tắm bể bơi nước khoáng, ngâm mình thư giãn. Ăn tối và
nghỉ đêm khu nghỉ dưỡng
Ngày 2: Sáng: Khách ăn sáng, tự do ngắm cảnh bên hồ, sử dụng dịch vụ Spa yêu thích
để thư giãn, xua tan hết mệt mỏi. Ăn trưa và nghỉ ngơi.
Chiều: Du khách tự di đi mua sắm, ngắm cảnh và lên xe trở về Hà Nội.
2.2.2. Tuyến du lịch Hà Nội – Bắc Ninh – Bắc Giang
2.2.2.1. Các điểm tham quan du lịch ở Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, thuộc khu vực đồng bằng Bắc
Bộ. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội,
từ trung tâm du lịch Hà Nội đến Bắc Ninh rất thuận lợi. Đồng thời từ Bắc Ninh đi các tỉnh
Hải Phòng, Quảng Ninh cũng rất dễ dàng. Đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh Bắc Ninh phát
triển du lịch.
Trong suốt quá trình của đất nước, Bắc Ninh là mảnh đất có truyền thống khoa bảng,
truyền thống văn hiến, truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm, nơi sản sinh ra nhiều vị
26
danh nhân, anh hùng dân tộc nổi tiếng. Tất cả những giá trị đó đã tạo cho Bắc Ninh một
tiềm năng to lớn để phát triển du lịch với nhiều loại hình hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là
du lịch văn hóa và du lịch lễ hội.
a) Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn có tên là Pháp Vân, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm cổ xưa
nhất của Phật giáo Việt Nam, là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt
Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.
Theo ghi chép trong sách sử và bia đá, đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, là
nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc
xuống. Chùa được xây dựng từ thế kỉ thứ II (khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành
năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân nên gọi là chùa
Pháp Vân và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với
truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.
Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới Dâu – tức Luy
Lâu tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu – trung tâm Phật
giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa Dâu trở thành trung tâm của Thiền phái Tì
ni đa lưu chi – Thiền phái đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng tu
nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Tháp Hòa
Phong Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già
của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao
khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn
bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4
cửa vòm. Từ "Hoà Phong" có nghĩa là ngọn gió mát mẻ, tốt lành. Trong tháp có treo một
quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên
Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời - cao 1,6 m ở bốn góc.
Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu
đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Điều này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt
không có con cừu. Truyền sử kể rằng: vào thời Luy Lâu còn là trung tâm văn hoá, chính trị,
kinh tế của cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo Phật.
Ông dắt theo 2 con cừu. Một hôm sơ ý để 2 con đi lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc
đến lăng Sĩ Nhiếp (thái thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu
bằng đá ở nơi chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay chùa Dâu có 1 con, lăng Sĩ Nhiếp (cách
đó 3 km) có 1 con.
Trải qua bao biến động lịch sử, thành lũy, đền dài, dinh thự của trung tâm Luy Lâu bị
hoang phế. Nhưng chùa Dâu với tháp Hòa Phong vươn cao và hàng trăm gian chùa cổ kính
vẫn tồn tại với thời gian. Lịch sử đã từng khẳng định vị trí của chùa Dâu trong đời sống văn
hóa, tâm linh dân tộc. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa đã
được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1962.
b) Đền Đô
Đền Đô hay còn gọi Cổ Pháp điện là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua
đầu tiên của nhà Lý, nên đền còn được gọi là Lý Bát Đế. Đền Đô ngày nay thuộc xóm
Thượng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đền thờ tám vị vua nhà Lý, đó là:
1. Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009-1028);
2. Lý Thái Tông (1028-1054);
27
3. Lý Thánh Tông (1054-1072);
4. Lý Nhân Tông (1072-1128);
5. Lý Thần Tông (1128-1138);
6. Lý Anh Tông (1138-1175);
7. Lý Cao Tông (1175-1210) và
8. Lý Huệ Tông (1210-1224).
Từ xa xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng "tam cổ": "Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ
ba Cổ Pháp". Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng
Cổ Pháp được cho là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm.
Đền Đô được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng Ba năm 1030 bởi Lý Thái Tông khi
vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần
trùng tu lớn nhất là vào năm thứ hai niên hiệu Hoàng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm
1602), khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
Đền Lý Bát Đế rộng 31.250 m², với trên 20 hạng mục công trình, chia thành 2 khu vực:
nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc". Cổng vào nội thành
gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con rồng. Trung tâm của Khu
nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện. Chính điện gồm trước tiên là Phương đình
(nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây
có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại "Chiếu dời đô"
của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía
bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng "Nam quốc sơn hà Nam đế cư...". Sau cùng
là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua
nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông,
Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.
Trong nội thành còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao
cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có
nhà bia, nơi đặt "Cổ Pháp Điện Tạo Bi" (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm,
rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc
Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các
vị vua triều Lý.
Khu ngoại thất đền Đô gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc
ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với ao Cả trên và ao Cả dưới và sông
Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao
cong. Thủy đình đền Đô từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình
ảnh in trên giấy bạc "năm đồng vàng" và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay.
Lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ niệm
ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009), ban "Chiếu dời đô". Đây
là ngày hội lớn thu hút nhiều khách hành hương thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của
người dân Việt đối với các vua Lý. Di tích lịch sử văn hóa Đền Đô đã được Nhà nước Việt
Nam công nhận là di tích lịch sử - văn hóa theo Quyết định số 154 của Bộ Văn hóa - Thông
tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ngày 25 tháng 1 năm 1991.
2.2.2.2. Các điểm tham quan du lịch ở Bắc Giang
Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 3.823 km²,
chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Địa hình của tỉnh là vùng chuyển tiếp giữa
28
vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Do địa hình đa dạng nên Bắc Giang
là mảnh đất có vị thế chiến lược về quân sự, có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Yên Thế,
thành Xương Giang, di tích cách mạng Hoàng Vân.
Tuy nhiên, so với nhiều địa phương khác, mức độ tập trung các di tích của tỉnh không
cao, sơ sở vật chất phục vụ cho du lịch còn hạn chế, không có nhiều điểm du lịch tự nhiên
hấp dẫn nên còn hạn chế và gây khó khăn trong việc tổ chức, phát triển các tuyến, điểm du
lịch. Tỉnh Bắc Giang có những điểm tham quan du lịch chủ yếu sau:
Chùa Đức La (Vĩnh Nghiêm tự)
Chùa Đức La, tọa lạc ở làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, là
một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái
Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam, một viên ngọc sáng trong các chùa cổ Việt Nam.
Chùa được xây dựng vào đầu thời Trần, tọa lạc trong một khu vực có vị thế về phong
thuỷ và phong cảnh đẹp. Chùa nằm trên một ngọn đồi thấp, có dãy núi Cô Tiên làm hậu
trẩm, bên trái có sông Lục Nam, phía trước là dãy núi Nham Biền làm tiền án, mặt trước là
đồng ruộng mênh mông tạo nên phong cảnh tuyệt đẹp.
Chùa Vĩnh Nghiêm có quy mô lớn, tọa lạc trên mảnh đất khoảng 1 ha, bao quanh khuôn
viên là luỹ tre dày đặc. Chùa được kiến trúc trên một trục, hướng đông nam gồm 4 khối:
Toà Thiên đường, toà Thượng điện, nhà Tổ đệ nhất, gác chuông, nhà tổ đệ nhị và một số
công trình khác. Mở đầu là cổng tam quan xây gạch, sau đó đi vào hơn 100 m là Bái
đường (chùa Hộ). Từ ngày dựng chùa, hai bên đường được trồng thông để thành chốn tùng
lâm, có cây đường kính gần 1m. Trên sân chùa có một tấm bia to, 6 mặt, dựng năm Hoằng
Định thứ 7 (1606) với nội dung ghi lại việc trùng tu chùa năm đó.
Khối thứ nhất kiểu chữ "Công" gồm Bái đường, nhà Thiêu hương, Thượng điện với
thiết kế khang trang lối tàu bảy, đao lá, mái 4 đao 8 kèo kiểu con chồng, thượng tam hạ tứ.
Bên ngoài chùa trang trí đắp nổi lối “nề ngõa” hình cuốn thư có ba chữ hình kỷ hà, trang trí
hồi văn, hoa lá chạy đường diềm bao quanh. Nội thất của Thiêu hương được trang trí, chạm
khắc lộng lẫy. Trong 3 nếp chùa đều có cửa võng, chạm khắc hoa lá, chim muông, họa tiết
tinh vi mềm mại cầu kỳ được sơn son thiếp vàng, trên là các hoành phi đại tự lớn.
Trong chùa có tất nhiều tượng pháp, đủ loại tượng: Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng
Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán…Trong số những đồ
thờ tự ở đây, có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai
dòng chữ Phạn.
Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ
ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách
cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật
trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại
thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Nhiều kệ ván in kinh vẫn còn. Đó là kho ván khắc in, người
xưa gọi là mộc thư khố là hiện vật minh chứng chùa Đại La từng thống lãnh 72 chốn tùng
lâm. Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản
có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán.
Đặc biệt một số mộc thư giới thiệu cách chữa bệnh bằng thuốc nam, cách châm cứu với
bản sơ đồ chỉ dẫn các huyệt rõ ràng. Hiện nay phòng mạch của nhà chùa vẫn kế thừa các bài
thuốc ghi trong mộc thư để chữa các bệnh về thần kinh, đau xưng khớp và các bệnh về tiêu
hóa.
2.2.2.3. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Hà Nội – Bắc Ninh- Bắc Giang – Lạng Sơn
29
- Hà Nội – Bắc Ninh- Bắc Giang
- Bắc Ninh – Côn Sơn – Kiếp Bạc – Hạ Long – Móng Cái – Trà Cổ
- Hà Nội – Bắc Ninh
- Hà Nội – Bắc Giang
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch Hà Nội – Bắc Ninh (1 ngày bằng đường sông): Xuất phát từ
sông Hồng (7h30), theo sông Đuống thăm làng tranh Đông Hồ, chùa Bút Tháp, ăn trưa tại
TP. Bắc Ninh
Chiều: Nghe hát quan họ trên Sông Cầu, thăm làng nghề Bát Tràng, xuôi thuyền về Hà
Nội.
Chương trình du lịch Hà Nội – Bắc Ninh (1 ngày bằng phương tiện ô tô):
Sáng: 7h30 xuất phát đi thăm quan chùa Dâu, chùa Bút Tháp, làng tranh Đông Hồ, ăn
trưa tại thị trấn Song Hồ.
Chiều: Tham quan chùa Phật Tích, Đền Đô, Đình Bàng, làng nghề Đồng Kỵ. Ăn tối và
trả khách tại Hà Nội
Chương trình du lịch Hà Nội – Bắc Ninh (2 ngày, 1 đêm bằng phương tiện ô tô):
Ngày 1: Sáng: 7h30 xuất phát đi tham quan chùa Dâu, chùa Bút Tháp, làng tranh Đông
Hồ, ăn trưa tại thị trấn Song Hồ.
Chiều: Thăm chùa Phật Tích, chùa Hàm Long
Tối: Nghe hát quan họ trên sông Cầu, ngủ đêm tại TP. Bắc Ninh
Ngày 2: Sáng: 7h30 ăn sáng đi thăm đình Diềm, đền Cô Mễ, văn miếu Bắc Ninh
Chiều: Tham quan chùa Tiêu, đền Đô, Đình Bảng, làng nghề Đồng Kỵ. Về Hà Nội trả
khách.
Chương trình du lịch Hà Nội – Bắc Giang (2 ngày, 1 đêm bằng phương tiện ô tô):
Ngày 1: Sáng: 7h30 đón khách xuất phát đi tham quan đình chùa Thổ Hà, chùa Bổ Đà,
ăn trưa tại TP. Bắc Giang (theo quốc lộ 1A)
Chiều: Tham quan khu du lịch Khuôn Thần, nghỉ đêm tại khu du lịch Khuôn Thần
Ngày 2: Sáng: Ăn sáng, đi thuyền thăm hồ và thăm quan các vườn cây ăn quả quanh hồ.
Ăn trưa tại khu du lịch Khuôn Thần.
Chiều: Khách tự do tham quan, mua sắm, xuất phát về Hà Nội.
2.2.3. Tuyến Hà Nội – Hưng Yên – Thái Bình – Nam Định
2.2.3.1. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Trung tâm
tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam. Thái Bình tiếp
giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở
phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển
Đông. Thái Bình là một vùng sản xuất lúa nổi tiếng, với nhiều sản vật, có chùa Keo, bãi
biển Đồng Châu là những điểm du lịch hấp dẫn du khách.
a) Chùa Keo
Chùa Keo (tên chữ: Thần Quang tự) là một ngôi chùa ở xã Duy Nhất (Vũ Thư, Thái
Bình). Đây là một trong những ngôi chùa cổ, bảo tồn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.
Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông
Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay
thuộc huyện Giao Thủy, tỉnhNam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến
30
năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa
này cũng được gọi là chùa Keo.
Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy,
nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên
ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành
Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định). Một bộ phận dân cư dời sang
tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình và cũng dựng lên một ngôi chùa,
gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng), chính là ngôi chùa Keo đang nói tới ở đây.
Công việc xây dựng ngôi chùa Keo Thượng được bắt đầu từ năm1630 và hoàn thành
vào năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc, vợ
Tuần Thọ hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ.
Toàn bộ chùa Keo có diện tích 58.000 m², gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm
kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian
xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở
ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ
cánh cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt.
Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa
chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê.Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên
24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.
Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình đều làm
bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh
xảo. Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như
mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để
mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã
từng dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa từ xưa.
Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông chùa
Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng
lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12
mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Hai hành lang chạy dài
từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.
Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của
Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như
dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và
giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc
đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong
gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn
bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng
nghệ thuật đầu thế kỷ XVII, với nhiều kiệt tác đặc sắc.
Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân
ngay ở ngôi chùa mang tên làng. Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm
lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu.
b) Bãi biển Đồng Châu
Bãi biển Đồng Châu thuộc xã Đông Minh - huyện Tiền Hải, cách Thành phố Thái Bình
30 km nếu đi theo quốc lộ 39B. Đồng Châu có bãi tắm dài 5 km, mang nhiều nét hoang sơ,
tuy không rộng và đẹp nhưng Đồng Châu hấp dẫn bởi vị trí và cảnh quan.
31
Điều thú vị là từ bãi tắm Đồng Châu du khách có thể đi tàu, xuồng gắn máy ra thăm và
tắm biển ở Cồn Thủ, Cồn Vành cách đất liền 7 km. Cồn Thủ và Cồn Vành nổi lên như 2
ngọn sóng xanh trên cồn cát rộng khoảng 5 ha. Trên cồn có rừng thông, phi lao xanh ngắt,
có những bãi tắm nhỏ yên tĩnh vàthơ mộng. Bãi biển Đồng Châu không đẹp lắm nhưng khí
hậu thật trong lành, rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, đặc biệt hải sản ở đây rất
ngon và rẻ.
Do cát có bùn nên bãi biển cũng thích hợp với việc nuôi trồng hải sản. Do đó, khách du
lịch sẽ được tận mắt thấy những cánh đồng Vạng (ngao) với vô vàn những chòi canh, tạo
nên nét đặc biệt ở Đồng Châu.
Ven biển có rừng ngập mặn, được tổ chức Ramsar nghiên cứu có tới 149 loài chim, 300
loài hải sản, có nhiều loài được ghi vào Sách đỏ như bồ nông, cò mỏ thìa, mòng két đầu đen.
Đây cũng là nét hấp dẫn du khách đến với biển Đồng Châu.
2.2.3.2. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Nam Định
Nam Định là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, có diện tích là 1.669 km². Nam
Định tiếp giáp với tỉnh Thái Bình ở phía bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía nam, tỉnh Hà Nam ở
phía tây bắc, giáp biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía đông. Tỉnh có đường bờ biển dài 72km, thành
phố Nam Định là tỉnh lỵ của tỉnh Nam Định cách Hà Nội 90km. Nam Định là tỉnh có giàu
tiềm năng về du lịch như chùa tháp Phổ Minh, chùa Cổ Lễ, di tích Phù Giầy, hệ sinh thái
ngập mặn VQG Xuân Thủy…. Đây là những điều kiện thuận lợi để Nam Định hình thành
và phát triển du lịch.
a) Chùa Phổ Minh
Chùa Phổ Minh, tên chữ là “Phổ Minh tự” hay còn gọi là chùa Tháp, thuộc thôn Tức
Mặc, xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Chùa được xây dựng dưới vương triều Trần,
niên hiệu Thiệu Long thứ 5 (1262), ở về phía tây cung điện Trùng Quang, nơi các Thái
thượng hoàng nhà Trần sau khi nhường ngôi cho con về ở.
Chùa có quy mô bề thế, là nơi tụng niệm của quan lại, quý tộc cao cấp nhà Trần. Do vậy
mà chùa được coi là đại danh lam của nước Đại Việt ta. Đây là nơi tu hành của Đức quân
vương Trần Nhân Tông (vua thứ 3 triều Trần, 1279-1293) cùng với sư Pháp Loa và Huyền
Quang.
Trần Nhân Tông đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Đầu Đà, một dòng Phật giáo Việt
Nam (thế kỷ 13-14), và ông được xem là “Đệ nhất Tổ”. Sau khi Kim Phật Trần Nhân Tông
viên tịch, vua nối ngôi là Trần Anh Tông đã sai làm cỗ kiệu bát cống bằng đá, đặt bảy trong
hai mươi mốt viên Xá Lợi của vua cha và xây tòa tháp lên trên. Toàn bộ phong cảnh chùa
bao gồm: Tam quan, hai hồ sen, hai nhà bia cân đối cùng các cây cổ thụ có trên 400 năm
tuổi, càng tôn thêm vẻ đẹp của ngôi chùa thêm phần cổ kính.
Đặc biệt, tháp Phổ Minh được xây dựng trước cửa Bái Đường vào năm 1305. Đây là
loại tháp hình hoa sen có 14 tầng, cao 21m. Hai tầng dưới xây bằng các phiến đá xanh có
chạm khắc cánh sen, hoa cúc tinh xảo, 12 tầng trên xây bằng gạch bắt mạch để trần, mỗi đầu
viên gạch có dòng chữ “Hưng Long thập tam niên” và khắc họa con rồng nổi thời Trần, trên
cùng là bút tháp bằng đá. Tháp có hình chóp, đáy vuông, mỗi cạnh dài 5,2m. Các tầng tháp
đều có mái cong ở bốn phía. Trọng lượng tháp nặng khoảng 700 tấn trên một tiết diện nhỏ
30m2, lại ở vùng chiêm trũng nhưng vẫn đứng vững suốt 7 thế kỷ qua.
Xưa kia, ba tầng trên cùng xây bằng đồng, đặt một chum đồng và các di vật cổ, nổi
tiếng là vạc Phổ Minh, một trong “An Nam tứ đại khí” của nước Đại Việt thế kỷ 13-14 đặt
trước cây tháp cổ, rất tiếc đến nay không còn.
Bên cạnh cây tháp cổ, ở chùa Phổ Minh còn có nhiều hiện vật có giá trị. Trước đây chùa
có 120 pho tượng, nhưng do thời gian, khí hậu và chiến tranh hủy hoại, nay chỉ còn hơn 50
32
pho tượng, trong đó có nhiều pho tượng đẹp về hình thể, cân đối về tỷ lệ, mang tính nghệ
thuật cao. Đặc biệt, trên tòa thượng điện có tượng vua tổ Trần Nhân Tông nhập niết bàn.
Pho tượng được đánh giá là một tác phẩm điêu khắc quý giá nhất. Ngoài ra, trong chùa còn
nhiều tượng như: tượng Tam Thế, tượng Di Đà, tượng Di Lạc, tượng Quan Âm, Đức Thánh,
Đức Chúa...
Ngoài tháp và chùa chính, chùa Phổ Minh còn có thêm hệ thống điện nhà thờ tổ, nhà
tăng với quy mô lớn và hệ thống 7 tháp mộ thấp, vuông trang trí hoa lá. Đặc biệt trong đó có
tháp mộ bà chúa Mạc bằng đất nung mang dáng dấp kiến trúc nhà Mạc.
Chùa Phổ Minh từ ngày xây dựng đến nay đã trải qua hơn 700 năm, chùa đã được trùng
tu nhiều lần, nhưng nét đẹp cổ xưa không hề phai mờ, còn lưu giữ nhiều giá trị nghệ thuật
của nhiều thời đại, được du khách thập phương tới tham quan, vãn cảnh chùa.
b) Quần thể di tích Phủ Giầy
Phủ Dầy là tên gọi chung cho các di tích thờ bà chúa Liễu Hạnh thuộc xã Kim Thái
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định . Đây là quần thể di tích được xây dựng trong khu vực địa lý
có nhiều dấu vết văn hóa của cư dân Việt cổ, một vùng đất địa linh nhân kiệt. Cách đó
không xa có núi Lê, núi Gôi, với các hang động - nơi cư trú của người thời tiền sử. Điều
này, dễ dàng giải thích cho việc bảo lưu những dấu vết văn hóa bản địa, những tín ngưỡng
dân gian thuần Việt. Phủ Dầy là một hiện tượng tín ngưỡng dân gian thuần Việt, tồn tại và
có sức hấp dẫn khách hành hương hàng vài ba thế kỷ nay.
Quần thể di tích gồm có 17 công trình, trong đó có phủ Thiên Hương, phủ Vân Cát và
lăng Bà Chúa là 3 công trình lớn và có giá trị nhất.
Phủ Thiên Hương
Phủ Tiên Hương được xây dựng từ thời vua Lê Cảnh Trị (1663-1671), nhưng qua nhiều
lần tu tạo. Năm 1914, Tổng đốc Nam Định Đoàn Triển về hưng công, nên công trình còn lại
đến nay có quy mô bề thế hơn xưa rất nhiều.
Phủ Tiên Hương có 19 tòa với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về
dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ và một sân rộng cùng ba tòa nhà Phương Du dàn
hàng ngang hai tầng, tám mái. Phương Du nơi đón khách tới hành hương, có cấu trúc cân
đối, các mảng chạm khắc trên các cấu kiện rất hài hòa, thanh thoát, thể hiện hình rồng, hình
phượng (hai trong bốn con vật tứ linh).
Phủ Tiên Hương có bốn cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Cung đệ tứ được tập trung
các mảng chạm khắc tinh vi, thể hiện các đề tài: hổ phù, lân hí cầu và rồng phượng, vân ám,
các bức cốn, mê nách được chạm khắc theo các chủ đề "ngũ phúc", "tứ linh", "tứ quý".
Ngoài ra những bức cửa võng, những cuốn thư, câu đối, đại tự... của các Tiến sĩ, Đốc
học bái tiến cũng có ít nhiều giá trị về sử học, văn học và mỹ thuật, như: "Mẫu nghi thiên
hạ" hoặc "Thiên bản nhất kỳ". Điều đáng chú ý là bài trâm trên cuốn thư của Đốc học Ngô
Giáp Đậu:
"...Nhà ở An Thái nơi đất thiêng liêng
Còn nhớ hiển thánh từ niên hiệu Dương Hòa(1642)
Kinh sách đã lặng lẽ thấu suốt những bí quyết tam muội
Ánh sáng của lòng từ rộng khắp vào nhang khói của vạn nhà
Tiếng tăm nước cũ tôn sùng vị vương mẫu"
Cung đệ nhị cũng được trang hoàng lộng lẫy. Đây là nơi thờ "Khải sinh thánh phụ Trần
Quý Công", Khải sinh thánh mẫu Trần môn chính thất" và Trần Đào Lang (là bố, mẹ và
chồng của bà chúa Liễu Hạnh). Cung đệ nhất (chính cung) có một khám thờ, khảm trai, bề
thế và tinh xảo. Bên trong có năm tòa Long cung sơn son thiếp vàng rực rỡ. Đây là nơi đặt
33
năm pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của thế kỷ XIX. Đó là tượng "Thánh phụ thánh mẫu"
và "Tam tòa thánh mẫu".
Lăng bà chúa Liễu
Lăng bà chúa Liễu, được xây dựng vào năm 1938, Theo lời kể của người già, thì lăng bà
chúa được xây dựng do Nam Phương Hoàng hậu hưng công. Lăng được thiết kế xây dựng
bằng đá xanh, trên bình diện 625m2, gồm 5 tầng hình vuông. Mỗi tầng đều để bốn cửa vào
lăng theo bốn hướng: đông- tây- nam - bắc. Các cửa đều có trụ cổng, trên đặt bông sen
chúm chím nở. Toàn bộ có 60 búp sen hồng trông xa dáng như một hồ sen cạn.
Phần mộ ở vị trí trên cùng hình bát giác, có đường chỉ viền chạy xung quay tạo thành 88
núm "vú" như 88 bông hoa chạy viền quanh mộ, mà tương truyền đây là hình tượng "bầu
sữa mẹ". Cũng trong khu lăng còn có hai tòa phương đăng bằng đá xanh được xây dựng rất
công phu. Đây là nơi đặt bàn thờ và văn bia ca ngợi công đức của bà chúa Liễu Hạnh.
Có thể nói toàn bộ khu di tích Phủ Dầy có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đến với Phủ Dầy là đến với một di tích hoàn chỉnh yếu tố
tín ngưỡng dân gian thuần Việt.
2.2.3.3. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Các tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến Hà Nội – Hưng Yên – Thái Bình – Nam Định
- Tuyến Hà Nội – Nam Định
- Tuyến Hà Nội – Hưng Yên
- Tuyến Hà Nội – Nam Định – Thái Bình
- Tuyến du lịch sông Hồng (Hà Nội – Thái Bình – Nam Định).
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình 1 ngày, bằng đường bộ
Chương trình du lịch: Hà Nội – Nam Định – Thái Bình
Sáng: Từ Hà Nội đi tham quan chùa Cổ Lễ, đền và chùa ở Lộc Vượng (Nam Định) theo
quốc lộ 1A và 21. Ăn trưa tại TP. Nam Định
Chiều: Tham quan chùa Keo (Thái Bình). Về Hà Nội (theo quốc lộ 39 và quốc lộ 5)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Nam Định
Sáng: Từ Hà Nội đi tham quan chùa Cổ Lễ, đền và chùa ở Lộc Vượng (Nam Định) theo
quốc lộ 1A và 21. Ăn trưa tại TP. Nam Định
Chiều: Tham quan đền Phủ Giầy. Về Hà Nội (theo quốc lộ 10, quốc lộ 1A)
Chương trình 2 ngày, bằng đường bộ: Hà Nội – Phố Hiến – bãi biển Đồng Châu –
chùa Keo – đền, chùa Lộc Vượng – Hà Nội.
Ngày 1: Hà Nội – Phố Hiến – biển Đồng Châu
Sáng: Tham quan đình, chùa Hiến, đền Mẫu, đền Thiên Hậu, văn miếu Xích Đằng. Ăn
trưa ở Phố Hiến
Chiều: Khởi hành đi bãi biển Đồng Châu, đi ca nô hoặc xuồng ra tắm biển ở Cồn Vành,
Cồn Thủ. Nghỉ đêm tại bãi biển Đồng Châu.
Ngày 2: Biển Đồng Châu – chùa Keo – Nam Định
Sáng: Xuất phát tham quan chùa Keo (Thái Bình), đền chùa ở Lộc Vượng. Ăn trưa tại
TP. Nam Định
Chiều: Tham quan chùa Cổ Lễ. Về Hà Nội
34
2.2.4. Tuyến điểm du lịch Hà Nội – Hải Dương – Hạ Long – Hải Phòng
2.2.4.1. Các điểm du lịch ở tỉnh Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương nằm cách thủ
đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía tây. Phía Tây giáp
tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía
đông giáp thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây giáp tỉnh Hưng
Yên.
Tính đến nay, tỉnh Hải Dương có 1.098 di tích lịch sử, trong đó có 133 di tích được xếp
hạng cấp quốc gia và nhiều di tích được xếp hạng đặc biệt như Côn Sơn, Kiếp Bạc. Vùng
đất Hải Dương cũng là miền đất sinh ra và gắn liền với tên tuổi của nhiều anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hoá thế giới như: danh nhân quân sự thế giới Trần Hưng Đạo, một trong
mười tướng tài trên thế giới, vị anh hùng dân tộc Việt Nam với chiến công hiển hách - ba
lần chiến thắng quân Nguyên. Đây chính là tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh.
Khu du tích Côn Sơn – Kiếp Bạc
Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc là một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của
Việt Nam. Quần thể di tích này thuộc địa bàn thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương. Nơi đây gồm
quần thể các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân
thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến
10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là nơi gắn liền với
thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với
nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm
nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
Chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn tên chữ là "Thiên Tư Phúc Tự", nghĩa là chùa được trời ban cho phước
lành. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi
thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ
các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền
sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang.
Chùa Côn Sơn có từ thời Trần (truyền thuyết cho rằng Chùa có từ thời Đinh), năm Khai
Hựu nguyên niên(1329), được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng tu
này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử chùa Côn Sơn. Chùa Côn Sơn xưa
nay là danh lam cổ tích của đất nước, hiện còn nhiều dấu tích và cổ vật có giá trị.
Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã
từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên
ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa "Thiên Tư Phúc Tự"
trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun.
Thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm - một thiền phái mang
màu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài
Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không
ngừng. Ngày 22 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn
Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong
Tự Tháp "Huyền Quang tôn giả".
Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có công rất
lớn trong việc đánh đuổi giặc Minh giải phóng đất nước. Sau khi cáo quan về ở ẩn, ông đã
sống tại đây. Ông và gia quyến bị kết án oan và bị giết ngày 16 tháng 8 năm 1442. Bảo tàng
Nguyễn Trãi đã được xây dựng trên khu di tích Côn Sơn, đã lưu lại nhiều dấu tích của ông.
35
Chùa Côn Sơn hàng năm có hai mùa hội và tháng giêng và tháng tám. Di tích Côn Sơn
được xếp hạng quốc gia vào năm 1962 và xếp hạng đặc biệt quan trọng vào năm 1994.
Đền Kiếp Bạc
Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi
đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo. Vào thế kỷ 13, đây là
nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ huy
quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Ngày nay, đền
Kiếp Bạc nằm ở địa phận xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương).
Ðền thờ Trần Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ 14, trên một khu đất ở trung tâm
thung lũng Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng thờ Trần Hưng Ðạo, phu
nhân, 2 con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và 4 bài vị thờ 4 con trai. Hàng năm,
hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8 âm lịch).
Đền Nguyễn Trãi
Đền thờ Nguyễn Trãi được khởi công xây dựng ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất
rộng gần 10.000m2, tại chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi
ngày xưa từng có đền thờ bà Trần thị Thái, thân mẫu củaNguyễn Trãi. Phía bên phải là dòng
suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền.
Đền thờ chính, hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn Ngoại, Nhà Bia, Am
hoá vàng, cầu vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng gia hạ kiều để lên
Thạch Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước...
Ngôi đền chính tưa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là
tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối
diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc đã tạo lên thế núi lớp lớp điệp trùng.
Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn -
Kiếp Bạc, kiến trúc theo truyền thống và rất độc đáo. Tại gian tiền tế của đền Kiếp Bạc hiện
còn trưng bày 2 đoạn xương ống chân voi. Tương truyền đây là con voi chiến của Hưng
Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn trong khi ra trận bị sa lầy tại cánh đồng gần tỉnh Thái
Bình, mặc dù quân sỹ dốc sức làm mọi cách để cứu voi khỏi bị sa lầy nhưng vẫn không cứu
nổi. Thắng trận trở về đến cánh đồng nơi voi bị sa lầy nhưng con voi đã chết vì bị chìm lún
xuống bùn. Tương truyền 2 ống xương chân voi hiện đang đặt tại gian tiền tế đền Kiếp Bạc
là xương của con voi trung thành của Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương.
Trong quần thể di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc còn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa có giá
trị như đền bà chúa Tiên Sa – vị nữ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta; đền thờ và trường dạy học của
Chu Văn An trên núi Phượng Hoàng.
2.2.4.2. Các điểm du lịch ở tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, có dáng một con cá sấu nằm chếch
theo hướng đông bắc - tây nam. Phía đông nghiêng xuống nửa phần đầu vịnh Bắc bộ, Phía
tây tựa lưng vào núi rừng trùng điệp. Diện tích của tỉnh Quảng Ninh là 5.938km2. Bề ngang
từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 195 km. Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng 102 km. Phía
đông bắc của tỉnh giáp với Trung Quốc, phía nam giáp vịnh Bắc Bộ, có chiều dài bờ biển
250 km, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, đồng thời phía tây
bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương
Quảng Ninh có địa hình tương đối đa dạng, được ví như một Việt Nam thu nhỏ, vì có
cả biển, đảo, đồng bằng, trung du, đồi núi, biên giới. Quảng Ninh có danh thắng nổi tiếng là
vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và di sản thế
giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Vịnh Hạ Long là địa điêm du lịch lý tưởng của Quảng Ninh
cũng như miền bắc Việt Nam. Ngoài ra, ở tỉnh Quảng Ninh có các điểm tham quan sau đây:
36
a) Yên Tử
Yên Tử là tên một ngọn núi có độ cao 1.068 m, là ngọn núi cao trong dãy núi Đông
Triều vùng đông bắc Việt Nam. Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí,
tỉnh Quảng Ninh. Sở dĩ núi có tên là Yên Tử vì theo truyền thuyết ông tiên Trung Quốc Yên
Kỳ Sinh (An Kỳ Sinh) đã tu ở đây. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có
tên gọi là Bạch Vân Sơn.
Yên Tử vốn được coi là danh sơn và tiền đồn ở miền đông bắc nước ta. Từ núi Yên Tử
có thể bao quát cả vùng biển đông bắc và con đường thủy chiến lược từ mũi Ngọc đến Vịnh
Hạ Long đi vào cửa sông Bạch Đằng. Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ra, mỗi
lần bọn giặc phương Bắc xâm lược chúng đều đi theo con đường này.
Với vẻ đẹp kỳ vĩ nên Yên Tử đã được chọn làm nơi tu hành của nhiều nhà sư, là nơi bái
yết của các tăng ni, Phật tử. Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân
Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của
Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần
Nhân Tông (1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên
Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo.
Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-
1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ
sách Thạch thất mị ngữ và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với
hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như Chùa Quỳnh
Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều... Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền
Quang Lý Đạo Tái (1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.
Ngày 17 tháng 5 năm 2008, Yên Tử và Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đã cùng với chùa
Bái Đính ở Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) là những địa danh của Việt Nam được chọn là những
thắng tích phật giáo cho các đại biểu tham dự đại lễ phật đản thế giới.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai
bờ suối. Cầu dài 10 m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi.
Tục truyền xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi tìm
đến cõi Phật. Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã khuyên ông trở về
cung gấm nhưng không được nên đã gieo mình xuống suối tự vẫn. Vua Nhân Tông thương
cảm cho họ nên lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó con suối mang tên Giải Oan.
Tiếp đó tới chùa Hoa Yên (các tên gọi khác: chùa Cả, chùa Phù Vân, chùa Vân Yên)
nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân
Tông lên tu hành trên Yên Tử. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên
Trúc tự. Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3
m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.
Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn
với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông
Bạch Đằng.
Tuy nhiên, từ khi được xây dựng cho đến ngày nay, mặc dù các công trình ở Yên Tử đã
được trùng tu nhiều lần song do nhiều nguyên nhân khác nhau nên một số các công trình
kiến trúc đã bị phá hủy xuống cấp, rừng thông bị chặt phá bừa bãi. Hiện nay, Yên Tử đã
được Đảng và Nhà nước ta đầu tư bảo tồn, phát huy giá trị của khu di tích.
b) Điểm du lịch Hạ Long
Vịnh Hạ Long (vịnh nơi rồng đáp xuống) là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc
Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ
Long, Thành phố Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn của tỉnh Quảng Ninh. Vịnh
37
Hạ Long được giới hạn với phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía Tây Nam giáp quần
đảo Cát Bà; phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền bằng đường bờ biển khoảng 120 km kéo dài
từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả đến hết huyện đảo Vân
Đồn; phía Đông Nam và phía Nam hướng ra vịnh Bắc Bộ. Trong diện tích 1.553 km² gồm
vùng lõi và vùng đệm, nằm tại các tọa độ từ 106°58'-107°22' Đông và 20°45'-20°50' Bắc.
Vịnh Hạ Long bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng
lõi của Vịnh có diện tích 334 km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo. Lịch sử kiến tạo địa chất đá
vôi của Vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh địa lý rất khác nhau; và
quá trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố như
tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết
hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ
của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ
sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái.
Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này được
gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê Vịnh mang các tên Hoa Phong, Hải Đông,
An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên Hạ Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện
trong một số thư tịch và các bản đồ hàng hải của Pháp từ cuối thế kỷ XIX.
Trên tờ Tin tức Hải Phòng xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh
vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh
Hạ Long, khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy
thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người
Châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu Á, loài vật huyền thoại được
tôn sùng trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước đồng văn châu Á nói
chung.
Những điểm tham quan nổi tiếng:
Núi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi đẹp thuộc tỉnh Quảng Ninh. Trên núi này còn lưu lại các
bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông khắc trên đá năm 1468, và của Trịnh Cương năm 1729.
Các bài thơ này đã đem lại tên gọi cho núi, vì thế nhân dân trong vùng đã gọi tên ngọn núi
này là núi Bài Thơ.
Núi Bài Thơ thuở xưa có tên núi Rọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng Sơn. Tương truyền
rằng, ngày xưa lính thú gác trên núi hễ có giặc giã đến thì đốt lửa báo về kinh thành. Từ đó
xuất hiện tên núi Truyền Đăng.
Năm 1468, vào dịp mùa xuân, năm Quang Thuận thứ 9, đời vua Lê Thánh Tông, cháu
nội của Lê Lợi, đưa quân đi tuần ở vùng biển Đông Bắc, có dừng thuyền ở chân núi Truyền
Đăng, phía giáp với Vịnh Hạ Long, để uống rượu ngâm thơ. Xúc động trước cảnh đẹp sơn
thủy hữu tình của thiên nhiên, nhà thơ - nhà vua Lê Thánh Tông đã cho khắc một bài thơ lên
vách đá tạm dịch ý như sau:
Nước lớn mênh mông, trăm sông chầu vào
Núi non, la liệt rải rác như quân cờ, vách đá liền trời
Có tráng trí, nhưng lúc mới dựng nghiệp vẫn theo người, như quẻ
Hàm hào cửu tam (đã định)
Nay một tay mặc sức tung hoành, quyền uy như thần gió
Phía bắc, bọn giặc giã như hùm beo đã dẹp yên
Vùng biển phía đông, khói chiến tranh đã tắt
Muôn thuở trời Nam, non sông bền vững
Bây giờ chính là lúc giảm việc võ, tu sửa việc văn.
38
261 năm sau, vào năm 1729 chúa An Đô Vương Trịnh Cương, một nhà thơ có tiếng thời
Lê - Trịnh, cũng đem quân đi tuần qua đây. Ông cho đóng quân đồn trú dưới chân núi
Truyền Đăng. Đọc thấy bài thơ của vua Lê Thánh Tông, chúa Trịnh bèn họa lại bằng một
bài thất ngôn bát cú, lấy theo vần "yên" của bài trước, dùng lại 4 chữ "thiên" "quyền" "yêu"
"niên" trong bài của Lê Thánh Tông. Bản dịch của Hà Minh bài thơ họa của Trịnh Cương:
Biển rộng mênh mang, nước dâng đầy
Núi chìm xuống nước, nước tràn mây
Bàn tay tạo hóa sao khéo dựng
Cảnh đẹp thần tiên một chốn này.
Mùi tanh giặc thác còn đâu đó
Cỏ hoa sương khói vẫn còn đây
Ba quân tướng sĩ đều vui vẻ
Bữa tiệc biển khơi chén rượu đầy.
Bài thơ của Trịnh Cương được khắc theo lối chữ hành, trên một vách đá nghiêng xuống
đất, nên tránh được hủy hoại của nước mưa, đến nay còn rõ nguyên, rất dễ đọc. Đến đầu thế
kỷ 20 nhiều tao nhân, mặc khách đi du ngoạn vùng Hạ Long, gặp bài thơ này lại cho khắc 7
bài thơ nữa, có bài chữ Hán, có bài chữ Quốc ngữ trên những vách đá lân cận. Tổng số bây
giờ có chín bài thơ còn lưu truyền trên vách đá.
Vịnh Hạ Long còn nổi tiếng với rất nhiều đảo và các hang động đẹp, đó là các điểm
tham quan sau đây:
Hòn Con Cóc: Hòn Con Cóc nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12 km về phía
Đông Nam, trên vùng vịnh Hạ Long. Đây là hòn núi đá rất đẹp có góc nghiêng và hình dáng
như một con cóc ngồi xổm giữa biển nước, cao khoảng 9m.
Hòn Gà Chọi: Là một trong những hòn đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi
(hay đôi khi gọi là Hòn Trống Mái) nằm gần hòn Đỉnh Hương ở phía Tây Nam của Vịnh,
cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là cụm gồm 2 đảo có hình thù giống như
một đôi gà, một trống một mái, có chiều cao khoảng hơn 10m với chân thót lại ở tư thế rất
chênh vênh. Là biểu tượng trên logo của vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi cũng là biểu tượng
trong sách hướng dẫn du lịch Việt Nam.
Đảo Ngọc Vừng: Nằm cách cảng tàu du lịch khoảng 34 km, thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh, có đặc điểm là một trong số ít đảo đất trên vùng vịnh Hạ Long. Xung quanh
đảo có nhiều bãi biển đẹp, có núi Vạn Xuân cao 182m và có di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá
Hạ Long rộng 45.000m².
Đảo Ngọc Vừng rộng 12 km², có người ở, có bến cảng cổ Cống Yên thuộc hệ
thống thương cảng cổ Vân Ðồn từ thế kỷ XI, và có di tích thành cổ nhà Mạc, thành nhà
Nguyễn. Phía đông của đảo có bãi cát trắng trải ra tới tận bến tàu. Nơi đây cũng là bãi tắm
yêu thích của du khách.
Đảo Ti Tốp: Thời Pháp thuộc đảo mang tên hòn Cát Nàng, nằm trên khu vực vịnh Hạ
Long cách Bãi Cháy chừng 14 km về phía Đông. Đảo được đặt tên Ti Tốp từ khi Hồ Chí
Minh đến thăm vịnh Hạ Long cùng với nhà du hành vũ trụ người Nga Gherman Titov, vào
năm 1962. Đảo Ti Tốp có bờ dốc đứng và bãi cát trắng phẳng hình vầng trăng nằm dưới
chân. Các tour du lịch thường ghé tàu vào đảo để du khách lên bờ leo núi ngắm toàn cảnh
vùng Vịnh, tắm biển, chèo thuyền kay-ắc, kéo phao và kéo dù.
Đảo Tuần Châu: Nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 4 km về phía Tây Nam
trên vùng vịnh Hạ Long. Đảo Tuần Châu là một đảo đất rộng khoảng 3 km², gần bờ, có làng
mạc và dân cư thưa thớt. Trước kia trên đảo các nhà khoa học đã tìm được nhiều di chỉ khảo
39
cổ thuộc nền văn hóa Hạ Long. Từ năm 2001, một con đường lớn đã được xây dựng nối đảo
với đất liền. Một tổ hợp dịch vụ vui chơi, giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng và bãi
tắm sang trọng được xây dựng, đưa vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ Long
từ năm du lịch 2003 tới nay.
Hang Sửng Sốt: Hang động Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm vịnh Hạ Long,
được người Pháp đặt tên "Grotte des surprises" (động của những kỳ quan). Ðây là một hang
động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long. Nằm ở vùng trung tâm du lịch của Vịnh
với hệ thống trong tuyến du lịch bao gồm bãi tắm Ti Tốp - hang Bồ Nâu - động Mê Cung-
hang Luồn - hang Sửng Sốt.
Hang Sửng Sốt là một hang dạng ống, nằm ở độ cao 25m so với mực nước biển hiện tại.
Diện tích khoảng 10.000m2, chiều dài hơn 200m, chỗ rộng nhất 80m, khoảng cách lớn nhất
từ nền tới trần hang xấp xỉ 20m. Hang được chia thành 2 ngăn chính. Do có cửa hang mở
rộng, hang Sửng Sốt được phát hiện khá sớm trên Vịnh Hạ Long (cuối thế kỷ thứ XIX). Tên
của hang mãi đến năm 1946 mới được xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng do
một số đoàn thám hiểm đã đến đây. Năm 1999, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đã đầu tư tôn
tạo Hang Sửng Sốt. Hệ thống đường đi, ánh sáng để du khách có thể quan sát và cảm nhận
được vẻ đẹp của những khối nhũ, măng đá trong lòng hang. Ánh sáng được thiết kế phù hợp
với kiến trúc hang đồng thời hài hoà với ánh sáng tự nhiên từ phía cửa hang.
Động Thiên Cung: Cách thành phố Hạ Long khoảng 8 km và cách bến tàu du lịch 4 km
là đảo Vạn Cảnh, còn gọi là đảo Canh Độc. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: hòn
Canh Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp
Gà, Hòn Mèo, Hòn La.... Ngày nay, qua khảo cứu, đảo Vạn Cảnh có đỉnh cao 189m, hình
dáng như một chiếc ngai ôm hai hang động là hang Đầu Gỗ nằm chênh vênh trên cao
và động Thiên Cung ở cách mép nước không xa. Hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung cách
nhau chừng 100m, được thông nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá rừng.
Động Thiên Cung nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, ở độ cao 25m so với mực nước
biển. Du khách vừa bước vào cửa động Thiên Cung, lòng động đột ngột mở ra không gian
có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ
lệ. Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy
thiên nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem. Đó là là 4 cột trụ to lớn giữa
động mà từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh
sinh hoạt của con người, hoa lá cành; là những thạch nhũmang hình tượng Nam Tào, Bắc
Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông thú đang
dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng vạn năm. Cửa động
nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở lớn
và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Hang Đầu Gỗ: Từ cửa Suốt nhìn vào hòn Canh độc, người ta thấy đầu của hòn núi này
nhô ra trông giống như đầu một cây gỗ nổi lập lờ trên mặt nước. Hai bên "đầu gỗ" có hai
hốc lõm vào, trông tựa như "mắt gỗ" mà thợ sơn tràng thường khoét vào đầu gỗ dể kéo - lôi
khi khai thác. Những cư dân vạn chài của vùng sông nước dã căn cứ vào hình dáng đó mà
đặt tên cho cái hang mà họ thường lưu lại tại đảo này trong những ngày nghỉ ngơi, tránh
mùa dông bão.
Người Pháp sau này khi lập bản đồ khu vực này, cứ y theo lời kể của cư dân sông nước
mà ghi tên thành hang "daugo", cũng như tên "hòn đảo của những búi gai" thành "hongai"
để rồi thành Hồng Gai.
Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: hòn Canh Độc lưng chừng đảo có động
rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn La.... Động nói
40
ở đây chính là hang "Đầu gỗ"; Động Thiên cung chỉ mới được phát hiện vào những năm
tám mươi của thế kỉ trước.
Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước chân sang hang Đầu Gỗ, còn gọi là
hang Giấu Gỗ, một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi Hang Đầu Gỗ (tập trung
gỗ) có từ sau khi tướng Trần Hưng Đạo chỉ huy ba quân giấu các cọc gỗ lim tại đây, trước
khi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để bày thế trận cùng thủy quân đánh úp, đốt
cháy đoàn thuyền tải lương thực của giặc Nguyên Mông vào mùa xuân năm 1288. Hiện các
nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động. Nếu động
Thiên Cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Ðầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng
cũng rất đồ sộ.
Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn
chính. Ngăn phía ngoài hình vòm cuốn tràn ánh sáng tự nhiên, với trần hang như một bức
tranh khổng lồ vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với những đàn voi, những chú hươu
sao, sư tử trong những tư thế sinh động. Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe
cửa hẹp lòng hang mở ra với ánh sáng chiếu vào mờ ảo, những bức tranh đá trở nên long
lanh hơn và những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện. Tận cùng hang là một chiếc giếng nước
ngọt và những hình tượng bằng đá như đang diễn tả một trận hỗn chiến kỳ lạ.
Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Ðịnh lên thăm và cho khắc một tấm văn bia
với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và hang Ðầu Gỗ nói riêng.
Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động tuy chữ đã bị mài mòn.
Các tuyến tham quan trên Vịnh
Do có nhiều phong cảnh đẹp nên điểm du lịch này có nhiều điểm tham quan tùy theo sở
thích và thời gian du khách có thể lựa chọn một trong số các tuyến tham quan vịnh sau:
Các tuyến tham quan 4 giờ
+ Tuyến đảo Tuần Châu, hang Đầu Gỗ, động Thiên Cung
+ Tuyến hang Luồn, hang Bồ Nâu, hang Sửng Sốt
+ Tuyến núi Bài Thơ, hòn Đại Bàng, hòn Mặt Quỷ, hòn Đũa
Các tuyến tham quan 6 giờ
+ Tuyến hang Luồn, hang Sửng Sốt, bãi tắm Ti Tốp
+ Tuyến Hang Trống, động Tiên Nữ
Tuyến tham quan 7 giờ
+ Hồ Ba Hầm – vũng Ba Trái Đào
Tuyến thời gian 1 ngày
+ Đảo Ngọc Vừng – vườn quốc gia Bái Tử Long
2.2.4.3. Các điểm du lịch ở thành phố Hải Phòng
Hải Phòng, còn được gọi là Thành phố Hoa phượng đỏ, cách thủ đô Hà Nội 102 km về
phía Đông Đông Bắc. Thành phố là một thành phố cảng lớn nhất phía Bắc (Cảng Hải
Phòng) và công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam và là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục,
khoa học và công nghệ vùng duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 của Việt
Nam sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tính đến tháng 12/2013, dân số Hải Phòng là
1.907.705 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%,
là thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam.
Hải Phòng có bãi biển Đồ Sơn, quần đảo Cát Bà được công nhận là khu dự trữ sinh
quyển thế giới. Khí hậu của thành phố mát mẻ, thuận lợi cho phát triển du lịch.
41
Hải Phòng là mảnh đất có lịch sử phát triển lâu đời, có di chỉ Cái Bèo (Cát Bà) cách đây
6.000 năm, các di tích khảo cổ ở vùng Thủy Nguyên cách đây trên 2.000 năm. Hải Phòng có
trại An Biên, quê hương của nữ tướng Lê Chân từ thủa đầu dựng nước. Hiện nay, Hải
Phòng còn giữ được nhiều di tích lịch sử có giá trị. Hải Phòng hiện nay đang phát triển ba
điểm du lịch: trung tâm thành phố, bãi biển Đồ Sơn và quần đảo Cát Bà.
Các điểm tham quan ở trung tâm TP. Hải Phòng
Đền Nghè
Đền Nghè tức An Biên cổ miếu toạ lạc ở phố Lê Chân, phường An Biên, quận Lê Chân,
nội thành Hải Phòng. Đây là một quần thể kiến trúc dân tộc mang phong cách thời Nguyễn
gồm hậu cung, nhà thiêu hương, tả vu, hữu vu, nhà bái đường, nhà bia, tam quan...
Quy mô đền tuy không lớn nhưng bố cục cân đối hài hoà. Những mảng điêu khắc gỗ
long, ly, qui, phượng; hoa trái đào, lựu, sen, chanh vẽ chạm công phu tinh tế. Những đầu
đao, nóc mái đắp nổi những rồng bay, phượng múa, cảnh núi Yên Tử, cảnh Hai Bà chỉ huy
quân... càng tôn thêm vẻ uy nghi của ngôi đền. Tương truyền đền dựng từ sau ngày Nữ
tướng hi sinh, nhưng chỉ là một nghè nhỏ bằng tranh tre trên khu gò ở cánh đồng của làng
An Biên. Quần thể kiến trúc hiện nay được xây dựng vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Bằng tấm lòng "hằng tâm, hằng sản" của nhiều thế hệ người Hải Phòng, di tích đền
Nghè ngày một khang trang. Năm 1919, toà hậu cung 3 gian được xây dựng theo lối "chồng
diêm tầng 4 mái". Năm 1926, xây toà thiêu hương, dựng toà tiền tế... Mặt ngoài chồng diêm
của toà hậu cung, nơi có điều kiện phô diễn vẻ đẹp, người ta đắp nổi phù điêu trang trí, mô
phỏng các điển tích như: An Tử Sơn, Ngô vương đề cờ, Trưng Vương dấy quân. Đằng trước
toà hậu cung là toà thiêu hương vuông vức, hai tầng với tám mái đao cong vút, đắp "rồng
chầu, phượng đón" vươn lên trong không trung tựa như những cánh tay thôn nữ trong động
tác múa đèn.
Như vậy, các công trình kiến trúc của đền Nghè tạo thành một tổng thể không gian kiến
trúc khép kín, tuân thủ theo phong cách cổ truyền dân tộc. Thông qua các đồ án trang trí thể
hiện kiến trúc để phản ánh ước mơ, nguyện vọng của người đương thời và là "thông điệp
văn hoá" gửi lại cho đời sau.
Ngoài đền thờ chính, di tích đền Nghè còn có điện Tứ phủ. Điện nhìn ra phố Lê Chân
thông qua cổng chính. Cổng đền Nghè thực sự là một công trình kiến trúc đồ sộ, đẹp và
hoành tráng như cổng các cung điện, lăng tẩm, đền đài thời trung cổ.
Thăm đền Nghè, khi bước qua cổng chính nhìn sang bên hữu, du khách sẽ bắt gặp một
kiến trúc đẹp. Đó là nhà bia được xây và trang trí theo kiểu dáng của long đình. Chính giữa
dựng tấm bia đá cao 1,5m; rộng 0,85m; dày 0,20m. Nội dung minh văn khắc ghi về tiểu sử,
sự nghiệp của bà Lê Chân bằng chữ Hán, nói rõ Nữ tướng quê ở làng Vẻn, tên chữ An Biên,
huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Cha là Lê Đạo, một thầy thuốc nổi tiếng tài năng đức độ. Mẹ là Trần Thị Châu, một phụ
nữ đảm đang phúc hậu. Khi Trưng Trắc dựng cờ nghĩa ở Mê Linh, Lê Chân cùng nghĩa
quân trại An Biên kịp thời hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa thành công, Trưng Trắc lên làm
vua, xưng là Trưng Vương, đóng quân ở Mê Linh. Lê Chân được giao chức Chưởng quản
binh quyền nội bộ kiêm trấn thủ Hải Tần. Thế cùng lực tận, Nữ tướng phải tự vẫn để bảo
toàn danh tiết.
Được tin Nữ tướng hi sinh, dân trang An Biên lập đền thờ, tức đền Nghè - An Biên cổ
miếu ngày nay. Đến đời vua Trần Anh Tông, bà được phong làm Thành hoàng xã An Biên,
huyện An Dương và được ban thần hiệu Nam Hải Uy Linh Thánh Chân công chúa; các triều
đại đều ban sắc tặng. Hàng năm cứ đến ngày sinh 8 tháng 2, ngày hoá 25 tháng chạp, ngày
khánh hạ 15 tháng 8, nhân dân Hải Phòng nô nức đến đền Nghè cùng dân An Biên tưởng
42
niệm vị Nữ tướng khai quốc công thần triều Trưng cũng là người khai sinh trại An Biên, cái
nôi của nội thành Hải Phòng ngày nay.
Trong tín ngưỡng người xưa, lễ vật dâng lên Thánh mẫu Lê Chân thường bao giờ cũng
phải có cua bể và bún. Có lẽ đó là những đồ ăn mà sinh thời bà Lê Chân ưa thích? Dâng lễ
đền Nghè trong dịp đầu năm mới, mọi người không quên mua những gói muối hình củ ấu,
bọc bằng giấy hồng điều để lấy may.
Điểm du lịch Đồ Sơn
Đồ Sơn là một bán đảo được tạo bởi dãy núi chín ngọn vươn ra vịnh Bắc Bộ và một
tách ra đứng một mình là hòn núi Độc, cách trung tâm nội thành Hải Phòng khoảng 20km
về phía đông nam. Đồ Sơn có nhiều điểm tham quan như bến Nghiêng (bến tàu không số),
đảo Hòn Dáu, biệt thự Bảo Đại.
Bến Nghiêng – bến tàu Không số
Bến Nghiêng - Đồ Sơn hiện là bến đỗ của tàu ra thăm đảo Hòn Dáu. Nơi dây cũng là
Cảng xuất phát của tàu du lịch đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long, Móng Cái.
Cách đây hơn 50 năm, ngày 15/5/1955, tại bến Nghiêng, tên lính Pháp cuối cùng đã rút
khỏi miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ - Hiệp định đình chiến giữa chính phủ thực dân
Pháp và nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau 9 năm kháng chiến gian khổ.
Bến tàu Không số ở chân đồi Vạn Hoa cạnh thung lũng xanh, hiện có khách sạn 100
phòng của Công ty Du lịch quốc tế Đồ Sơn. Dấu tích cầu cảng k15 xưa nay chỉ còn lại
những cột bê tông. Cầu cảng này được xây dựng và bảo vệ bí mật, là nơi đỗ của những
chiếc tàu không số, chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam.
Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ chở 30 tấn vũ khí đầu tiên đã xuất phát ở đây. Sau 6
ngày lênh đênh trên biển cả, tàu đã cập bến tại Cà Mau, chuyển giao toàn bộ vũ khí cho
quân khu 9. Tất cả có gần 100 tàu thuyền với tổng số 168 chuyến đi xuất phát tại đây - con
đường được mệnh danh là "đường mòn Hồ Chí Minh trên biển".
“Bến tàu không số”, điểm khởi đầu của con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển,
tại Đồ Sơn, Hải Phòng, vừa được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 2008.
Đảo Hòn Dáu
Hòn Dáu có thể do tiếng địa phương đọc chệch đi từ Hòn Dấu... Đảo như là điểm đánh
dấu để thuyền ra khơi đánh cá quay trở về. Đó là hòn đảo nhỏ cuối cùng tách ra khỏi dãy
núi, cách bán đảo Đồ Sơn chừng 1 km. Người ta ví như chín con rồng đang chầu về viên
ngọc.
Trên đảo có rừng đa thuần nhất, nguyên sinh lâu đời hiếm thấy dọc miền Duyên hải
phía Bắc. Chuyện kể rằng, nếu ai lấy đi một cành cây, hòn đá thì sẽ bị ốm đau, cả nhà bị tai
hoạ. Có lẽ vì tin niệm như vậy, mà rừng được bảo vệ tồn tại cho đến bây giờ, có cây 4 đến 5
người ôm không xuể.
Ngay ở bến tàu lên là đền thờ Nam Hải Thần Vương. Truyền thuyết kể lại rằng: Vào
khoảng thế kỷ thứ 13, dân làng vớt được xác mang chiến bào của tướng nhà Trần. Thi thể
được đặt ở chân đồi của đảo để ngày hôm sau khâm liệm. Sáng hôm sau mối đùn lấp kín thi
thể thành một nấm mộ lớn. Thấy điềm lạ, dân làng lập đền thờ. Đền rất thiêng, dân chài
thường qua đây cầu được an bình mỗi khi ra khơi đánh cá. Hằng năm vào ngày mồng 8
tháng 2 âm lịch, làng mở hội lễ tạ và ra ngủ một đêm trên đảo để hưởng lộc của thần.
Đảo là cửa ngõ của Cảng Hải Phòng. Năm 1884, cây đèn biển (hải đăng) được xây dựng
trên đỉnh núi của đảo. Lúc đầu được xây dựng toàn bằng đá khối với các hoa văn khá đẹp.
Do chiến tranh tàn phá, qua nhiều lần sửa, đèn gần như được xây dựng lại hoàn toàn. Đèn
cao 67m, chiếu sáng 24 hải lý, qua 100 bậc mới lên được đỉnh đèn. Nhà nghỉ người coi đảo
43
còn nguyên vẹn xây dựng năm 1902, hiện nay khu vực này được tu tạo mở rộng để đón
khách tham quan.
Biệt thự Bảo Đại
Biệt thự nằm trên đỉnh đồi Vung cao 36 m so với mặt nước biển, thuộc khu II Đồ Sơn.
Biệt thự được xây từ năm 1928 của Toàn quyền Đông Dương Pafquiere. Ngày 16- 6 -1949,
Toàn quyền Đông Dương tặng cho vua Bảo Đại. Từ đó ngôi nhà này được gọi là biệt thự
Bảo Đại.
Ngay từ năm 1933, sau 1 năm lên cầm quyền, Bảo Đại đã đến đây. Mỗi lần ra kinh lý
miền Bắc, Bảo Đại đều đến Đồ Sơn và nghỉ tại biệt thự này. Đứng ở đây có thể nhìn toàn
cảnh bán đảo Đồ Sơn và thả tầm mắt theo biển mênh mông đến tận chân trời. Hơn nữa, khí
hậu ở đây ôn hòa, nhất là vào mùa hè rất mát mẻ.
Tháng 5 - 1955, miền Bắc được giải phóng, ngôi nhà được giao cho Bộ Quốc phòng
quản lý. Thời gian trôi đi, chiến tranh tàn phá, ngôi biệt thự xuống cấp. Ngày 28 - 3 - 1984,
Bộ Quốc phòng bàn giao cho Công ty Du lịch Hải Phòng, nay là Công ty Cổ phần Khách
sạn Du lịch Đồ Sơn quản lý.
Được phép của Nhà nước, Công ty đã phục chế lại và sau hai năm, ngày 26 - 7 - 1999,
biệt thự mở cửa đón khách tham quan và nghỉ qua đêm. Diện tích toàn khu vực là 900m2.
Biệt thự có phòng tiếp khách, phòng họp, phòng ngủ của Vua, Hoàng hậu, các Hoàng tử và
Công chúa. Các tư liệu và ảnh của Bảo Đại cùng gia đình do nhà Huế học Nguyễn Đắc
Xuân và bà con Việt kiều ở Pháp cung cấp. Du khách đến đây tham quan có thể mặc triều
phục, thưởng thức các loại bánh Huế, dự ngự thiện và mua đồ lưu niệm về biệt thự này.
Điểm du lịch Cát Bà
Quần đảo Cát Bà là một quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh
Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành
phố Hải Phòng 30 km, cách thành phố Hạ Long 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc
huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự
trữ sinh quyển thế giới.
Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải
thành huyện Cát Hải mới. Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải cách cảng
biển Hải Phòng khoảng 75 km. Người dân trên đảo sống bằng nghề khai thác hải sản, lâm
sản, đốt rừng làm rẫy và làm dịch vụ du lịch.
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh
Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời
Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị
đọc trệch thành Cát Bà của ngày nay. Hiên nay, trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh
trên núi đá vôi là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Trên biển xuất
hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng
có nhiều bãi tắm đẹp:
- Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27 km, có nhiều đèo dốc quanh co, men theo mép biển,
xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh kỳ thú, non nước hữu tình.
- Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000 ha rừng, 5.400 ha
biển tạo nên một môi trường sinh thái lý tưởng.
- Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên đảo, có nhiều nhũ
đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng trăm người.
- Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo. Động còn có tên Động
Quân Y vì trong Chiến tranh Việt Nam người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường
nằm ở trong lòng núi.
44
- Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn động Trung Trang.
- Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai Gái, Đường Danh v.v...
là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát trắng mịn, nước biển có độ
mặn cao, trong suốt tới đáy.
Hiện nay, Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc
của Vịnh Bắc Bộ. Trải qua, quá trình khai thác phát triển, hiện nay điểm du lịch này vẫn còn
giữ được những nét hoang sơ. Cùng với việc khai thác phát triển du lịch biển, Cát Bà còn
biết đến là điểm du lịch sinh thái cho nhiều nhà nghiên cứu động thực vật và khách du lịch
trong, ngoài nước.
2.2.4.4. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Hà Nội – Hải Dương – Yên Tử
- Hà Nội – Hải Dương – Yên Tử - Hạ Long – Bái Tử Long
- Hà Nội – Trà Cổ - Trung Quốc
- Hà Nội – Hải Phòng
- Hà Nội – Hải Phòng – Hạ Long – Bái Tử Long
- Hà Nội – Lạng Sơn – Móng Cái – Trà Cổ - Hạ Long
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch 2 ngày 1 đêm
Chương trình du lịch: Hà Nội – Hải Dương – Yên Tử - Hà Nội (phương tiện vận
chuyển ô tô)
Ngày 1: Hà Nội – Yên Tử - Côn Sơn
Sáng: Khởi hành từ Hà Nội đi tham quan Yên Tử, ăn trưa tại Yên Tử
Chiều: Về Côn Sơn, lưu trú tại Côn Sơn
Ngày 2: Côn Sơn – Kiếp Bạc – Hà Nội
Sáng: Tham quan Kiếp Bạc – Côn Sơn, ăn trưa tại Côn Sơn
Chiều: Từ Côn Sơn, đi tham quan TP. Hải Dương, mua sắm và về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Hạ Long – Hà Nội (phương tiện ô tô, kết hợp tàu
thủy)
Ngày 1: Hà Nội – Hạ Long
Sáng: Khởi hành từ Hà Nội đi đến TP.Hạ Long
Trưa: Ăn trưa trên tàu tham quan Vịnh (lựa chọn tuyến tham quan vịnh 4 tiếng)
Tối: Xem biểu diễn nghệ thuật trên đảo Tuần Châu. Về TP nghỉ đêm
Ngày 2: Hạ Long – Côn Sơn – Hà Nội
Sáng: Từ Hạ Long đi tham quan Kiếp Bạc, ăn trưa tại Kiếp Bạc
Chiều: Tham quan Côn Sơn, qua TP. Hải Dương, mua sắm và về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Cát Bà – Hải Phòng – Hà Nội (phương tiện vận
chuyển ô tô hoặc kết hợp với tàu cao tốc)
Ngày 1: Hà Nội – Cát Bà
Sáng: Đi Hải Phòng bằng đường bộ, qua phà Đình Vũ, phà Gót hoặc đi tàu cao tốc Đồ
Sơn đi Cát Bà. Ăn trưa tại Cát Bà
Chiều: Tắm biển ở bãi Cát Cò, Cát Dứa, nghỉ đêm trên đảo
Ngày 2: Cát Bà – Hà Nội
45
Sáng: Tắm biển, tham quan VQG Cát Bà
Chiều: Nghỉ ngơi, từ Cát Bà lên xe về Hà Nội.
Chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm
Chương trình du lịch: Hà Nội – Kiếp Bạc – Côn Sơn – Hạ Long – Cát Bà – Hà Nội
(phương tiện vận chuyển ô tô kết hợp tàu thủy)
Ngày 1: Hà Nội – Côn Sơn – Hạ Long
Sáng: Xuất phát đi tham quan Kiếp Bạc – Côn Sơn, ăn trưa tại Côn Sơn
Chiều: Tham quan đền Cửa Ông, núi Bài Thơ, tắm biển
Tối: Xem biểu diễn nghệ thuật tại đảo Tuần Châu, nghỉ đêm trên đảo hoặc tại thành phố
Hạ Long
Ngày 2: Hạ Long – Cát Bà
Rời Hạ Long, đi thuyền tham quan Vịnh. Ăn trưa trên tàu và khởi hành đi Cát Bà, tham
quan vịnh Lan Hạ. Tối nghỉ đêm trên đảo Cát Bà.
Ngày 3: Cát Bà – Hà Nội
Sáng: Tắm biển, tham quan VQG Cát Bà
Chiều: Nghỉ ngơi, khởi hành về Hà Nội
2.2.5. Tuyến Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn – Cao Bằng – Lạng Sơn
2.2.6.1. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh ở đông bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là tỉnh
nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km² phía
bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía
đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Tỉnh
Thái Nguyên trung bình cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách biên giới Trung Quốc
200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Với vị trí địa lý là một
trong những trung tâm chính trị, kinh tế, giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng
trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa
vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thái Nguyên là địa phương có truyền thống cách mạng, có nhiều di tích lịch sử và nhiều
danh thắng, hấp dẫn du khách và thuận lợi cho việc tổ chức phát triển du lịch.
a) Điểm du lịch Hồ Núi Cốc
Hồ Núi Cốc là tên một hồ nước ngọt nhân tạo tại tỉnh Thái Nguyên,Việt Nam. Đây là
một địa điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Thái Nguyên. Không những thế nó còn được gắn với
huyền thoại về chuyện tình nàng Công và chàng Cốc. Hồ nằm cách trung tâm thành
phố Thái Nguyên 16 km về phía tây, được tạo nên sau khi đập ngăn sông Công được xây
dựng trong các năm 1973 đến 1982. Hồ có độ sâu 35 m diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung
tích của hồ ước 20 -176 triệu m³. Hồ được tạo ra nhằm các mục đích: Cung cấp nước tưới
cho 12.000 ha đất; Cấp 40-70 triệu m³ nước mỗi năm cho công nghiệp và dân sinh; Giảm
nhẹ lũ hạ lưu sông Cầu; Đáp ứng dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng và nuôi cá. Cải thiện môi
trường.
Hồ gồm một đập chính dài 480m và 7 đập phụ. Mặt hồ rộng mênh mông với hơn
89 hòn đảo lớn nhỏ: đảo rừng xanh, đảo cư trú của những đàn cò, có đảo là quê hương của
loài dê đảo núi Cái nơi trưng bày các cổ vật từ ngàn xưa để lại và đảo đền thờ bà Chúa
Thượng Ngàn.
Đến khu du lịch hồ Núi Cốc, khách tham quan sẽ có cơ hội hưởng thụ nhiều hoạt động
dịch vụ vui chơi, giải trí, tham quan và nghỉ dưỡng như: Du thuyền trên mặt hồ thăm các
46
đảo; Thăm huyền thoại cung (nghe kể truyền thuyết câu chuyện tình thuỷ chung chàng Cốc
- nàng Công); Thăm công viên cổ tích, vườn thú, vui chơi ở công viên nước. Tại đây có hệ
thống khách sạn, nhà hàng ăn uống phong phú từ bình dân đến cao cấp...
Bên cạnh núi Cốc, sông Công, núi Văn, núi Võ, núi Quần Ngựa, nơi đây là chỗ tướng
quân Lam Sơn Lưu Nhân Chú luyện binh, tích trữ lương thảo, lấy núi Văn, núi Võ kề bên
làm sân tập, lấy nước sông Công nuôi quân để góp phần vào chiến thắng Chi Lăng năm
1427.
Hiện nay, hệ thống nhà nghỉ, bể bơi, bến thuyền đã được quy hoạch, xây dựng tương
đối tốt, phục vụ khách du lịch đến tham quan, nghỉ ngơi, giải trí.
b) Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam
Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung
tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô Hà Nội hơn 80 km về phía Bắc.
Bảo tàng có diện tích 28.000m2 với hơn 3.000m2 sử dụng cho việc trưng bày, kho bảo quản
hiện vật và các hoạt động khác.
Khi mới được thành lập, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam với tên gọi là Bảo tàng
Việt Bắc với chức năng nhiệm vụ ban đầu là nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống
lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc khu Việt Bắc.
Năm 1976. Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về trực thuộc
Bộ Văn hoá Thông tin quản lý. Đây là giai đoạn chuyển hướng nội dung hoạt động từ Bảo
tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc.
Hiện nay hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam đã hoàn chỉnh
với hệ thống 5 phòng trưng bày được xây dựng trên cơ sở nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn
hoá vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với cảnh quan môi sinh từng vùng cư
trú. Bao gồm một gian long trọng và hệ thống 5 phòng trưng bày.
Phòng số 1: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt - Mường( Việt, Mường, Thổ,
Chứt.
Phòng số 2: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái( Tày, Thái, Nùng,
Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y.
Phòng số 3: Trưng bày văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ H'mông - Dao(
H'mông, Dao, Pà Thẻn), nhóm ngôn ngữ Ka Đai( La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và nhóm
ngôn ngữ Tạng Miến( Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La).
Phòng số 4: Trưng bày văn hoá 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn Khơ mer( Ba Na,
Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H'rê, Kháng, Khơ mer, Khơ
Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng).
Phòng số 5: Trưng bày văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Nam Đảo( Chăm, Gia
Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và nhóm ngôn ngữ Hán( Hoa, Ngái, Sán Dìu).
Từ khi thành lập, bảo tàng đã thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế tham quan,
nghiên cứu, tìm hiều bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam.
2.2.5.2. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía
đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía tây giáp tỉnh Tuyên
Quang. Tỉnh có diện tích 4.795.5km2, dân số tỉnh theo điều tra dân số ngày 01/04/2009 là
294.660 người, là tỉnh ít dân nhất cả nước.
Bắc Kạn là tỉnh miền núi có nhiều phong cảnh đẹp, thơ mộng, hữu tình có nhiều rừng
nguyên sinh với sự đa dạng sinh học cao. Bắc Kạn cũng là một trong những tỉnh có nhiều
47
truyền thống cách mạng, có giá trị văn hóa truyền thống. Do đó, Bắc Kạn là tỉnh có tiềm
năng để phát triển du lịch như chùa Thạch Long, VQG Ba Bể…
a) Vườn quốc gia Ba Bể
Vườn quốc gia Ba Bể là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái
của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể, các thị xã Bắc
Cạn 40 km. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng
11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ.
Vườn có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc, có diện tích 7.610 ha (30
km²), nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ
thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia này cách thị xã Bắc Kạn 50 km và Hà Nội
250 km về phía bắc, thuộc địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia Ba Bể là một
điểm du lịch sinh thái lý tưởng với phong cảnh kỳ thú và sự đa dạng sinh học. Năm 2004,
Ba Bể đã được công nhận là một di sản thiên nhiên của ASEAN. Trước đó, đây từng là Khu
danh lam thắng cảnh và Di tích lịch sử, là Khu rừng cấm hồ Ba Bể.
Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái
Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với chiều dài tới 8 km và chiều rộng 800 m. Nằm trên
độ cao 178 m, hồ Ba Bể là "hồ tự nhiên trên núi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt
Nam". Nằm trên vùng núi đá vôi, vốn có rất nhiều hang động caxtơ….mà hồ vẫn tồn tại với
cảnh đẹp mê người là điều diệu kì, hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng. Ngoài ra, hồ Ba Bể còn
là 1 điểm du lịch nổi tiếng, là “viên ngọc xanh” giữa đại ngàn đã và đang nổi lên là một
điểm du lịch sinh thái lý tưởng với du khách, nhất là vào thời điểm đầu xuân và hè.
Hồ dài hơn 8 km, chỗ rộng nhất khoảng 3 km, sâu khoảng 20 đến 30m. Ðoạn giữa hồ
hơi eo lại. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ, một đảo giống như con ngựa đóng cương đang
lội nước (nên còn gọi là đảo An Mã). Đến Hồ Ba Bể, du khách có dịp được dạo quanh hồ
nước trong xanh bằng thuyền độc mộc rất đặc trưng của dân tộc bản địa hoặc bằng thuyền
máy rồi ra sông Năng và thăm thú nhiều thắng cảnh tự nhiên.
Tối đến, có thể ngủ lại ở khu nhà gần hồ hoặc ngay tại nhà của người dân tộc Tày,
Nùng. Thác Đầu Đẳng cách thị trấn Chợ Rã (huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn) 16 km. Thác dài
2 km, hòa cùng với phong cảnh rừng nguyên sinh, tạo thành ấn tượng khó quên. Thác Đầu
Đẳng nằm trên dòng sông Năng, là nơi tiếp giáp giữa Bắc Kạn với tỉnh Tuyên Quang. Thác
Ðầu Ðẳng nằm giữa hai dãy núi đá vôi, có độ dốc lớn, là nơi con sông Năng bị chặn lại bởi
những tảng đá lớn, nhỏ xếp chồng lên nhau với độ dốc chừng 500m, tạo thành một thác
nước ngoạn mục kỳ vĩ, hoà với phong cảnh rừng nguyên sinh tạo ra một ấn tượng khó quên.
Không những vậy, tại đây còn xuất hiện loại cá chiên (có những con nặng trên 10 kg) là loại
cá hiếm thấy hiện nay.
Năm 1995, hồ Ba Bể được Hội nghị về hồ nước ngọt thế giới công nhận là một trong 20
hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ.
VQG Ba Bể là một di sản thiên nhiên quý giá, có diện tích 23.340ha. Đây là hệ thống
rừng nguyên sinh trên núi đá vôi bao bọc xung quanh hồ nước trong xanh với 417 loài thực
vật và 299 loài động vật có xương sống. Có nhiều loại động vật quý hiếm như phượng
hoàng đất, gà lôi, voọc mũi hếch… vẫn còn được lưu giữ tại đây.
Một số hệ sinh thái trong VQG Ba Bể
HST rừng thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi, phân bố trên độ cao 400 –
700m, có các loài cây gỗ quý: nghiến, trai, đinh, lát hoa, tràm trắng…
HST rừng thường xanh mưa nhiệt đới ở thung lũng, phân 4 tầng với các loài sấu,
thung…
48
HST rừng thường xanh trên núi đất, phân bố ở độ cao 200 – 800m gồm các loài cây:
dâu, lát, đinh, sấu…
2.2.5.3. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích là 6.690,72 km²,
phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía nam giáp Bắc Kạn và Lạng Sơn. Phía
bắc và phía đông giáp các địa cấp thị Bách Sắc và Sùng Tả của khu tự trị dân tộc
Choang Quảng Tây (Trung Quốc).
Cao Bằng là tỉnh có địa hình đồi núi, khí hậu mát mẻ quanh năm, có nhiều phong cảnh
đẹp nổi tiếng với núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét
hoang sơ, nguyên sinh. Cao Bằng là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, là nơi cội
nguồn của cách mạng Việt Nam, có tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch về nguồn,
kết hợp với du lịch văn hóa các dân tộc, du lịch vùng biên.
a) Di tích Pắc Pó
Di tích lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, cách thị xã
Cao Bằng 50km. Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về
Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 - 1945).
Di tích Pắc Pó cách thị xã Cao Bằng khoảng 60km, đi theo đường tỉnh lộ 203.
Sau 30 năm buôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28 – 1 – 1941 Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nước qua cột mốc 108. Cùng về với người có đồng chí Lê Quảng Ba. Để thuận tiện cho việc
hoạt động cách mạng và giữ bí mật, ngày 8 – 2 – 1941 Bác chuyển ra và làm việc tại hang
Pắc Pó. Bác thường phải đốt củi để sởi ấm, trong hang còn lưu giữ một tấm gỗ là giường
nằm của Bác.
Pác Pó theo tiếng địa phương có nghĩa là “đầu nguồn” và cũng thật trùng hợp nơi đây
được coi là cội nguồn của cách mạng Việt Nam. Các điểm di tích quan trọng:
- Hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”) rộng khoảng 80m2, cửa hang chỉ
một người đi vừa. Đây là nơi Bác và các đồng chí cán bộ cách mạng ở từ
ngày 08/02/1941 đến trung tuần tháng 3 năm 1941. Trong hang hiện còn một bộ bàn ghế mà
Bác đã từng ngồi làm việc với các cán bộ cách mạng và dịch các tài liệu quan trọng.
- Nền nhà ông Lý Quốc Súng: là ngôi nhà Bác Hồ đã ở khi mới trở về Tổ quốc chỉ đạo
cách mạng (từ ngày 28 tháng 01 đến ngày 07/02/1941). Ngôi nhà này được xây dựng
khoảng năm 1937, theo kiểu nhà sàn ở địa phương.
- Hang Lũng Lạn: là nơi Bác ở và làm việc trong khoảng cuối tháng 3 năm 1941. Hang
rộng khoảng 50m2.
- Hang Ngườm Vài: tại đây, năm 1941, Bác trực tiếp dự và hướng dẫn và kết nạp Đảng
cho đồng chí Nông Thị Trưng. Hang rộng khoảng 80m2.
- Suối Lê Nin: thời gian ở Pác Bó, Bác thường ngồi câu cá ở suối này. Đến nay, di tích
vẫn giữ được cảnh quan tương đối nguyên vẹn.
- Nền nhà ông La Thanh: là cơ sở cách mạng quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đây là
nơi đón tiếp các đại biểu toàn quốc về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hiện nay, di
tích chỉ còn lại nền nhà cũ, diện tích rộng 131m2, đã được cắm bia giới thiệu di tích.
- Cột mốc 108: nay là cột mốc số 675, là một trong 314 cột mốc biên giới Việt - Trung
xưa, được làm bằng đá tảng nguyên khối, hình bầu dục, cao khoảng 70cm, bên trên khắc nội
dung bằng tiếng Trung và tiếng Pháp.
- Khu ruộng Goọc Mu: vốn là một xóm trong thôn Pác Bó; sau khi thực hiện chính sách
quy hoạch lại khu cư trú để thành lập hợp tác xã nông nghiệp, xóm Goọc Mu được chuyển
49
về trung tâm Pác Bó. Tại địa điểm Goọc Mu, năm 1940, nhân dân thôn Pác Bó đã từng vào
đây cắt máu ăn thề, nguyện suốt đời đi theo cách mạng.
Ngày nay đến thăm khu di tích lịch sử Pác Pó, du khách còn được tham quan các điểm
tại khu trung tâm như: nhà tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh và sân quảng trường, Cụm di
tích Kim Đồng, Cụm di tích Bó Bẩm, Cụm di tích Khuổi Nặm. Đến thăm điểm du lịch này,
du khách sẽ hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và các chiến sỹ
cách mạng đã sống và làm việc tại nơi đây.
b) Thác Bản Giốc
Thác Bản Giốc, là một hoặc hai thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa
phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc
tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân
tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía
đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km.
Thác Bản Giốc là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng, là một trong những thác nước đẹp
nhất Việt Nam. Từ độ cao trên 30m, những khối nước đổ xuống qua nhiều bậc đá. Khác
với nhiều thác nước khác ở Việt Nam, thác Bản Giốc có chiều rộng lớn tới hàng trăm mét,
giữa các thác nước có các mô đá rộng, phủ đầy cây, khi thác nước chảy xuống, chia thành
ba luồng nước đổ xuống sông Bằng.
Cách thác nước 1km là hang động Ngườm Ngao, động dài khoảng 3km. Động Ngườm
Ngao có cả động khô và động ướt do một dòng sông ngầm chảy qua. Trong động có nhiều
nhũ đá, măng đá, mành đá kỳ ảo.
2.2.5.4. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn có diện tích 8.178,25km2, phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng, Phía đông bắc
giáp Sùng Tả (Quảng Tây, Trung Quốc), Phía nam giáp tỉnh Bắc Giang, Phía đông nam
giáp tỉnh Quảng Ninh, Phía tây giáp tỉnh Bắc Kạn, Phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên.
Lạng Sơn có đường biên giới rất dài với Trung Quốc, có nhiều cửa khẩu quan trọng như
Hữu Nghị, Tân Thanh…
Lạng Sơn là nơi cư trú của nhiều dân tộc, trong đó người Tày và người Nùng chiếm tỷ
lệ cao với nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Những giá trị văn hóa, danh lam thắng
cảnh, cùng nhiều di tích lịch sử văn hóa của tỉnh là điều kiện phát triển các tuyến du lịch.
a) Quần thể động Nhị Thanh, Tam Thanh
Danh thắng Nhị, Tam Thanh nằm trong dãy núi đá vôi hướng vòng cung ở phía Tây Bắc
thành phố Lạng Sơn, thuộc phường Tam Thanh, có diện tích 50 ha. Nơi đây có những hang
động tự nhiên kỳ thú, được bộ Văn hóa Thông tin (nay là bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
xếp hạng di tích quốc gia năm 1962 trong đợt xếp hạng những di tích quốc gia đầu tiên của
nước ta, với những giá trị danh thắng và lịch sử văn hóa tiêu biểu. Khu di tích bao gồm
động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành Nhà Mạc và Núi Vọng Phu. Bốn nét đẹp riêng kết
hợp lại tạo thành một vẻ quyến rũ, đặc biệt cho quần thể di tích được mệnh danh là “đệ nhất
bát cảnh” của Xứ Lạng.
Động Nhị Thanh do danh nhân Ngô Thì Sĩ khám phá và tạo dựng khi ông làm đốc trấn
Lạng Sơn từ năm 1777 – 1780, đây là danh thắng thiên nhiên thiên tạo kỳ bí lại có chùa
Tam Giáo linh thiêng, đặc biệt có số lượng rất lớn bia ma nhai, là nguồn sử liệu quý giá
chuyển tải nội dung văn học sâu sắc, phong phú; lưu lại bút tích của nhiều văn nhân, thi sĩ
và các bậc tiên hiền. Nhị Thanh – một địa danh nổi tiếng ngay khi mới được phát hiện và
mấy trăm năm qua là quà tặng vô giá tạo hóa ban tặng cho người dân Xứ Lạng.
50
Động Nhị Thanh nổi tiếng với những dải nhũ đá rủ xuống khiến du khách liên tưởng
như đang lạc vào một thế giới khác. Chạy dọc theo động là dòng suối Ngọc Tuyên quanh
năm nước xanh biếc, phần đọng lại trước cửa động tạo thành ao Nhất Bình rất thơ mộng.
Nơi đây vẫn còn lưu giữ bút tích của Ngô Thì Sĩ trên các văn bia, bức đại tự, vòm động….
Ngày nay, vòm cửa động là một bức họa vẽ Ngô Thì Sỹ uy nghi, trang trọng. Bức họa là
ước vọng của ông được hòa mình vào hang núi để tiêu dao. Xúc động trước những tình cảm
đó, nhân dân đã lập bàn thờ ông tại đây và gọi là Di Ái đường.
Tại cửa sau của động Nhị Thanh, du khách sẽ được tham quan chùa Tam Thanh (Thanh
Tiên tự) nằm trong động Tam Thanh - di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của Xứ Lạng. Theo
như các nhà nghiên cứu khoa học, di tích này nguyên là nơi thờ tự của Đạo giáo. Sau này,
do ảnh hưởng nhiều yếu tố, Đạo giáo mờ nhạt trong tâm thức nhân dân địa phương. Người
dân địa phương đã đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào di tích này để thờ tự. Hội chùa
được mở vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm. Ngoài ra, chùa Tam Thanh còn gắn liền với
danh thắng tượng đá nàng Tô Thị đã đi vào ca dao của dân tộc. Tượng đá nàng Tô Thị đứng
chếch trên sườn núi trước mặt chùa như một biểu tượng của lòng chung thủy sắt son của
người phụ nữ.
Thành Nhà Mạc nằm cạnh tượng đá nàng Tô thị, dấu tích hiện nay còn lại gồm 2 đoạn
tường thành xây bằng đá giữa hẻm núi. Đây là một di tích kiến trúc quân sự phản ánh một
thời kỳ chiến tranh tương tàn trong lịch sử việt Nam. Sự tồn tại của hàng lợt thành, lũy do
họ Mạc xây dựng đã được sử sách gọi chung một tên là Thành Nhà Mạc, đó phần lớn là
những bức thành phòng thủ, những thành lũy này thường lợi dụng địa hình tự nhiên như 2
sườn núi tạo nên một lòng chảo khá rộng, chỉ việc xây thành bịt ở 2 đầu. Đó là đặc điểm
riêng của Thành Nhà Mạc.
Có thể nói, đến với xứ Lạng không thể tham quan động Nhị, Tam Thanh. Du khách sẽ
được trải nghiệm một thời kỳ lịch sử của dân tộc và càng thêm hiểu, thêm yêu xứ Lạng.
b) Ải Chi Lăng
Ải Chi Lăng là một ải thuộc xã Chi Lăng, huyệnChi Lăng, tỉnh Lạng Sơn trên quốc lộ
1A từ Hà Nội đi Lạng Sơn theo hướng Đông Bắc từ Trung châu Bắc Bộ. Ải Chi Lăng là
một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi, phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài-Thái Họa và
phía Tây là núi đá Kai Kinh (Cai Kinh) dựng đứng. Con sông Thương ngoằn ngoèo chảy
dọc theo thung lũng, bên con đường quốc lộ số 1A mà trước kia là đường cái quan lên biên
giới, xuôi về kinh đô. Nơi đây có địa thế hiểm trở đã diễn ra nhiều trận đánh oanh liệt và
chứng kiến nhiều trận đánh của nhân dân Việt Nam.
Những ngọn núi thấp rải rác dọc thung lũng và trấn ven đường cái quan như núi Hàm
Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi
hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi
Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài 5 km, rộng khoảng 3 km.
Tại Ải Chi Lăng còn có Thành Chi Lăng ở vào cây số 109 tính từ Hà Nội và tới cây số
thứ 154 thì tới tỉnh lỵ Lạng Sơn,[1]theo Đi thăm đất nước của Hoàng Đạo Thúy. Theo Địa
dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược
Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của
thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội (nơi trú đóng của đội quân Hoàng
tráng thứ 20).
Phía nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn, một khối có hình dáng giống như thanh kiếm
khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm (thanh kiếm của vua Lê Thái Tổ) và một tượng đá có hình
dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch (tức đá Liễu Thăng, ám
chỉ tướng Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu tại ải).
51
2.2.5.5. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến Hà Nội – Thái Nguyên
- Tuyến Hà Nội – Bắc Kạn
- Tuyến Hà Nội – Lạng Sơn
- Tuyến Hà Nội – Thái nguyên – Bắc Kạn
- Tuyến Hà Nội – Bắc Kạn – Cao Bằng – Lạng Sơn
- Tuyến Hà Nội – Hạ Long – Trà Cổ – Lạng Sơn – Cao Bằng – Bắc Kạn
b) Một số chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Thái Nguyên (2 ngày, 1 đêm, phương tiện vận
chuyển ô tô, đi theo quốc lộ 1A)
Ngày 1: Hà Nội – hồ Núi Cốc
Sáng: Lên xe, khởi hành đi Thái Nguyên, tham quan Hồ Núi Cốc. Nhận phòng, ăn trưa
tại Hồ Núi Cốc
Chiều: Đi tàu tham quan hồ, tối nghỉ đêm tại Hồ Núi Cốc
Ngày 2: Hồ Núi Cốc – động Phượng Hoàng – Bảo tàng các dân tộc Việt Nam
Sáng: Ăn sáng, trả phòng, lên xe đi tham quan động Phượng Hoàng, về TP. Thái
Nguyên ăn trưa.
Chiều: Tham Bảo tàng các Dân tộc Việt Nam. Về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Lạng Sơn (2 ngày, 1 đêm, phương tiện vận chuyển ô
tô, đi theo quốc lộ 1A)
Ngày 1: Hà Nội – Lạng Sơn
Sáng: Lên xe khởi hành đi Lạng Sơn, tham quan Ải chi Lăng, đến TP. Lạng Sơn ăn
trưa, nhận phòng khách sạn.
Chiều: Tham quan cửa khẩu Hữu Nghị Quan, Động Tam Thanh, Nhị Thanh.
Tối: Uống trà, nghe nhạc
Ngày 2: TP. Lạng Sơn – Mẫu Sơn – Hà Nội
Sáng: Ăn sáng, đi tham quan khu du lịch Mẫu Sơn, ăn trưa tại Lạng Sơn
Chiều: Trả phòng, đi chợ Kỳ Lừa hoặc Đông Kinh. Về Hà Nội
2.2.6. Tuyến điểm du lịch Hà Nội – Hà Nam – Ninh Bình – Thanh Hóa – Nghệ An – Hà
Tĩnh
2.2.6.1. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Hà Nam
Hà Nam là một tỉnh nhỏ nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam, có diện tích
823,1 km². Hà Nam giáp với các tỉnh: phía bắc tiếp giáp với Hà Nội, phía đông giáp với
tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp tỉnh Ninh Bình, đông nam giáp tỉnh Nam
Định và phía tây giáp tỉnh Hòa Bình.
Từ xa xưa, Hà Nam đã là vùng đất học và là quê hương của nhiều danh nhân như
Nguyễn Khuyến, Nam Cao. Hà Nam có nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn du khách như
đền Trúc, Ngũ Động Sơn, hang Luồn, Ao Dong, chùa Bà Đanh, chùa Đọi Sơn….
a) Đền Trúc – Ngũ Động Sơn
Đền Trúc - Ngũ Động Sơn, thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh
Hà Nam. Đền thờ người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Khu danh thắng này có phong
52
cảnh thiên nhiên hữu tình, núi non trùng điệp, có đền Trúc nằm giữa rừng Trúc nên thơ, có
hệ thống hang động độc đáo.
Xưa kia nơi đây bạt ngàn trúc mọc: Trúc xanh như tóc, trĩu xuống khắp miền. Năm
1089, đoàn chiến thuyền của Lý Thường Kiệt khi chinh phạt phương Nam đi qua thôn
Quyển Sơn. Bỗng một trận gió lớn ào ào thổi tới, bẻ gãy cả cột buồm rồi cuốn lá cờ lớn của
đoàn quân lên đỉnh núi. Lý Thường Kiệt bèn cho thuyền dừng lại, cùng quân sĩ lên bờ sửa lễ
tế trời đất cầu đại thắng. Lần đó, thắng lớn trở về, Lý Thường Kiệt đã cùng đoàn quân lên
đây làm lễ tạ ơn, khao thưởng ba quân và mở hội cho dân làng mừng chiến thắng. Lễ hội
kéo dài hàng tháng với đủ mọi trò vui. Sự kiện lá cờ bị gió cuốn đã khiến Lý Thường Kiệt
đặt tên cho ngọn núi là Cuốn Sơn. Về sau, để tưởng nhớ công lao của vị tướng tài, dân làng
Cuốn Sơn đã lập đền thờ Lý Thường Kiệt ở chính nơi ông đã mở hội.
Ngôi đền được dựng giữa khu rừng trúc rộng hàng chục mẫu, nên mang tên đền Trúc.
Sau ngót ngàn năm, rừng trúc giờ không còn nguyên như xưa nữa, nhưng xung quanh đền,
vẫn muôn ngàn bóng trúc. Những cây trúc thân vàng óng, thướt tha trong gió càng tôn cho
phong cảnh nơi đây thêm thơ mộng. Với sự biến đổi của thời gian ngôi đền chỉ còn giữ
được một số nét căn bản.
Ngôi đền được dựng bằng gỗ lim, cao trên 6m. Nhà tiền đường là một công trình 5 gian.
Hệ thống vì kèo biến thể kiểu giá chiêng đồng rường con nhị xuất hiện vào cuối thế kỷ 17
và phổ biến vào cuối thế kỷ 19. Ba gian hậu cung được xây dựng cùng một phong cách với
nhà tiền đường, có 2 đầu bịt đốc lợp ngói nam, xây bằng gạch thất, bắt mạch để trần. Trên
hệ thống cửa có trạm trổ theo các đề tài tứ quí. Về thăm đền Trúc, bạn đừng quên ghé vào
Cuốn Sơn (nay gọi là núi Cấm) kề bên.
Có lẽ vì gắn bó với điềm linh ứng năm xưa nên ngọn núi có ý nghĩa tâm linh với dân
trong vùng. Cũng vì thế mà núi Cấm vẫn giữ được nhiều nét nguyên sơ với hệ sinh thái
phong phú. Trên đỉnh núi Cấm có một bàn cờ thiên tạo bằng đá- nơi các vị tiên thường rủ
nhau về mở hội, uống rưựu chơi cờ và ngắm cảnh trần thế. Ngay cạnh bàn cờ còn có một ô
vuông được gọi là huyệt đế vương.
Núi Cấm còn có hệ thống hang động độc đáo: 5 hang nối liền nhau, tạo thành động liên
hoàn, gọi là Ngũ Động sơn. Cấu trúc các động vô cùng đa dạng với nhiều loại thạch nhũ
muôn hình vạn trạng, gợi cho du khách sức tưởng tượng phong phú: hình bầu sữa mẹ, nồi
cơm mở vung, hình con voi, con rùa... Màu sắc, độ xốp, da nhũ... cũng khác nhau. Phong
cảnh nên thơ, đặc sắc của núi Cấm đã từng làm nao lòng bao mặc khách tao nhân để làm
nên sự lưu luyến bằng những bài thơ hay để lại cho đời. Ngày nay, đến thăm đền Trúc, ghé
Ngũ Động Sơn, du khách sẽ như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh để sang năm, lại muốn lạc
bước tìm về.
b) Chùa Bà Đanh
Chùa Bà Đanh là danh thắng thuộc thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh
Hà Nam. Từ khu danh thắng đền Núi Trúc, du khách có thể du thuyền trên sông Đáy,
khoảng 2km là tới chùa. Nơi đây từ xa xưa đã gắn liền với câu nói nổi tiếng “vắng như chùa
Bà Đanh”.
Chùa Bà Đanh còn có tên chữ là Bảo Sơn tự, cạnh hòn núi Ngọc nổi tiếng thơ mộng và
linh thiêng. Từ bao đời nay, ngôi chùa này được thêu dệt với nhiều truyền thuyết lạ kỳ mà
tâm điểm là tượng Bà Đanh.
Chùa có điện thờ phong phú với các tượng phật, bồ tát, hộ pháp và các tượng của đạo
giáo như Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu… Nhà thờ tổ sư phái thiền tông. Phủ
mẫu thờ các tượng tam hòa, tứ phủ. Đặc biệt trong chùa có pho tượng của tín ngưỡng dân
gian là pháp phong trong “tứ pháp”. Được thờ ở tỉnh Hà Nam (Pháp Vân, pháp vũ, Pháp
53
Điện, Pháp Phong). Ban đầu dân làng lập đền thờ pháp phong còn đơn sơ trong khu rừng
đầu làng ven sông đáy. Đến năm Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông (1676 – 1680) thì xây dựng
ngôi chùa mới khang trang.
Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế,
tượng Ngọc Hoàng và Thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng
Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai
đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và
thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà
giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.
Lễ hội chùa Bà Đanh được tổ chức từ ngày mồng chín đến ngày mười một, tháng hai
(âm lịch) hàng năm. Trong những ngày diễn ra lễ hội tại di tích diễn ra nhiều nghi thức tế lễ
truyền thống. Đặc biệt, có lễ cầu an, rước kiệu, đồng thời còn tổ chức nhiều trò chơi dân
gian như: Chọi Gà, Kéo Co, Bơi Thuyền Chải, Cờ Người…
2.2.6.2. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc và khu vực đồng bằng Bắc
Bộ, Việt Nam, có diện tích 1.400 km². Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ
đô Hà Nội 93 km về phía nam. Tỉnh Ninh Bình cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội,
vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà
Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía đông nam
giáp biển (vịnh Bắc Bộ).
Ninh Bình là tỉnh có địa hình đa dạng, nhiều vùng có phong cảnh đẹp, giàu có về tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Các điểm tham quan chính của tỉnh bao gồm: cố đô
Hoa Lư, Tam Cốc Bích Động, khu du lịch Tràng An, chùa Bái Đính, nhà thờ đá Phát Diệm,
VQG Cúc Phương. Tất cả các điểm du lịch này đã được tổ chức, quy hoạch, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch phục vụ nhu cầu tham quan, lưu trú, ăn uống, mua sắm của du
khách.
a) Quần thể danh thắng Tràng An
Tràng An là một khu du lịch sinh thái nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An thuộc
tỉnh Ninh Bình, đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Nơi đây còn được gọi là thành Nam của cố đô Hoa Lư, gồm hệ thống dãy núi đá vôi có tuổi
địa chất khoảng 250 triệu năm, qua thời gian dài phong hóa bởi sự biến đổi của trái đất, khí
hậu, biển tiến, biển thoái đã mang trong mình hàng trăm thung lũng, hang động, hồ đầm.
Trong danh thắng này còn có nhiều hệ sinh thái rừng ngập nước, rừng trên núi đá vôi và các
di tích gắn với lịch sử của kinh đô Hoa Lư xưa.
Trung tâm bến thuyền Tràng An nằm cách cố đô Hoa Lư 3 km theo hướng nam,
cách thành phố Ninh Bình 7 km theo hướng tây dọc đại lộ Tràng An, cách Hà Nội 96 km
theo hướng nam. Vùng lõi Tràng An có diện tích hơn 4.000 ha, là vùng bảo vệ đặc biệt của
danh thắng. Vùng bảo vệ đặc biệt này nằm trọn trong khu rừng đặc dụng Hoa Lư, thuộc quy
hoạch bảo tồn cố đô Hoa Lư và cũng thuộc quy hoạch khu du lịch Tràng An với diện tích
12.000 ha.
Tràng An là một vùng non nước, mây trời hoà quyện. Đáy nước trong xanh soi bóng
những vách núi đá trùng điệp. Nơi đây có tới 31 hồ, đầm nước được nối thông bởi
48 hang động đã được phát hiện trong đó có những hang xuyên thủy dài 2 km như hang Địa
Linh, hang Sinh Dược, hang Mây... Mỗi hang một vẻ đặc trưng như tên gọi, các hang có
nhiều nhũ đá biến đổi, nước chảy ra từ trần hang làm không khí trong hang mát lạnh. Hang
Tối có lòng hang rộng hẹp biến đổi bất ngờ. Hang Sáng long lanh với những nhũ đá óng ánh
kỳ lạ. Hang Nấu Rượu và hang Cơm với truyền thuyết ông khổng lồ nấu rượu ở đây, mang
54
rượu và cơm ra núi ngồi ăn. Trong hang có mạch nước ngầm sâu hơn 10 m. Hang động
Tràng An có những nét đặc trưng nổi bật của một khu di sản với bốn loại hang động
chính: Hang ngầm cổ, hang nền Karst cổ, hang mái đá và hang hàm ếch.
Trong quần thể danh thắng Tràng An có nhiều hang động được công nhận là di tích
khảo cổ học, chúng đang được các nhà khoa học Anh tiến hành nghiên cứu như: Di tích
hang Trống là hang động có nhiều di vật, dấu tích của người tiền sử từ 3.000-30.000 năm
trước. Di tích hang Bói thuộc nằm giáp gianh giữa hai xã Trường Yênvà Gia Sinh nơi đây
có dấu ấn của cư dân cổ sống cách đây từ 5.000 năm đến 30.000 năm. Di tích Mái đá Thung
Bình (Gia Sinh - Gia Viễn) xuất lộ dấu tích cư dân văn hóa Hòa Bình. Cụm di tích hang Mo;
hang Cò; hang Trâu; hang Hũ Ngoài; hang Hũ Trong; mái đá Thung Bình có dấu ấn văn hóa
Hòa Bình vàvăn hóa Đa Bút. Di tích mái đá Hang Chợ (Ninh Hải - Hoa Lư) có tầng văn hóa
Hòa Bình cách đây trên 10.000 năm.
Thành Nam Tràng An là hệ thống phòng thủ phía Nam của kinh thành Hoa Lư nên nơi
đây còn nhiều đền phủ, dấu tích của các quan lại triều Đinh và nhà Trần sau này. Tại đây
còn khá nhiều di tích lịch sử mà du khách sẽ gặp trên chặng đường hành hương tiêu biểu
như:
Đền Trình là nơi thờ 2 công thần nhà Đinh là Tả Thanh Trù và Hữu Thanh Trù.
Đương triều họ là 2 Giám sát Đại tướng quân cai quản kho vàng, két bạc của vua.[23] Tương
truyền, khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, triều đình rối ren, họ đã mang giấu Đinh Toàn tại
đây để tránh sự truy bắt của Lê Hoàn. Tại đây còn có đền Tứ Trụ thờ 4 vị quan thân cận
củaĐinh Tiên Hoàng Đế là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ.
Đền Trần Ninh Bình do vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với đền Hùng, sau
này vua Trần Thái Tông về đây lập hành cung Vũ Lâm tiếp tục cải tạo bề thế hơn nên được
gọi là đền Trần. Đền Trần là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư tứ
trấn. Đền còn có tên là đền Nội Lâm (ngôi đền trong rừng). Đền Trần Nội Lâm cùng với Vũ
Lâm, Văn Lâm hợp thành Tam Lâm dưới triều đại nhà Trần. Lễ hội đền Trần Ninh Bình
diễn ra vào ngày 18 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Phủ Khống là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với các truyền thuyết khi
vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, 7 vị quan trong triều đình mang nhiều quan tài chôn theo các
hướng rồi cùng tự sát để giữ kín những bí mật về ngôi mộ thật. Một vị tướng trấn giữ thành
nam vô cùng cảm kích trước nghĩa khí của 7 vị trung thần liền lập bát nhang thờ cúng ở đây.
Sau khi vị tướng này mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và trồng cây thị ngay trước
cửa Phủ để tưởng nhớ các bậc trung thần.[26] Cây thị nghìn năm tuổi mà quả có 2 loại: 1 tròn
và 1 dẹt.
2.2.6.3. Các điểm du lịch ở tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Tỉnh có diện tích 11.168km2. Phía Bắc giáp với ba tỉnh
Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn
(nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ.
Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, là một trong những trọng điểm du lịch
quốc gia. Với hàng nghìn di tích lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam và các danh lam thắng cảnh kỳ thú như bãi tắm biển Sầm Sơn, khu nghỉ mát
Hải Tiến (Hoằng Hoá), Hải Hoà (Tĩnh Gia), vườn quốc gia Bến En (Như Thanh), động Từ
Thức (Nga Sơn), suối cá “thần” Cẩm Lương (Cẩm Thuỷ)...
a) Thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ, hay còn gọi là thành Tây Đô. Thành được xây dựng trong thời gian
ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn
55
tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn. Thành
xây trên địa phận hai thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn
nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung
tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao
quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế
giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành bao gồm thành nội và thành ngoại.
Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày
đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.
Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài
870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá
khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo
chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền - hậu - tả - hữu (Cửa Tiền hay còn
gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai). Các cổng
đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa
cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao
1,5 m, nặng chừng 15 tấn).
Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di tích còn lại hiện nay là 4
cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường thành và đặc biệt là Di tích Đàn tế Nam Giao còn khá
nguyên vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính điện chạm một đôi tượng rồng đá
rất đẹp dài 3,62 m.
Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những
phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn
toàn không có bất cứ một chất kết dính nào[2]. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường
thành vẫn đứng vững.
Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với
những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành
Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng
luôn được sử sách đánh giá cao
b) Bãi biển Sầm Sơn
Bãi biển Sầm Sơn là một trong những bãi biển của miền Bắc Việt Nam. Bãi biển thuộc
thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 16 km về phía Đông. Bờ biển
Sầm Sơn dài 10 km, bờ biển bằng phẳng, cát trắng, nên rất được khách du lịch yêu thích.
Bãi biển Sầm Sơn bắt đầu được khai thác cho mục đích tắm biển từ năm 1906 do
người Pháp khai thác. Bãi biển dài khoảng 6 km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ.
Sầm Sơn có nhiệt độ trung bình khoảng 230C nên rất thích hợp để phát triển cho nghỉ
dưỡng, vì đó Sầm Sơn đã nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng cho cả Đông
Dương.
Biển Sầm Sơn nằm trên vùng đất nổi tiếng gắn với nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như lễ
hội Đền Độc Cước (Cầu Phúc,Bánh chưng-bánh dày), Lễ hội An Dương Vương, Lễ hội
chùa Khải Minh…
Vùng biển Sầm Sơn còn có nhiều loài tôm cá quý như tôm he, cá thu, mực và các loại
quả. Các cồn cát, dải rừng ngập mặn là nơi cư trú của các loài chim di cư cũng là những tài
nguyên du lịch hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.
2.2.6.4. Các điểm du lịch ở tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh
Tỉnh Nghệ An có diện tích 16.371km2, dân số 2.912.041người (2009). Tỉnh Hà Tĩnh có
diện tích 6.053km2, dân số là 1.229.197 người (2011). Trong lịch sử phát triển, hai tỉnh
56
thành này đã có nhiều lần được sát nhập, rồi lại được tách ra. Tỉnh có địa giới hành chính
như ngày nay được tính từ năm 1991.
Đây là vùng đất chịu nhiều thiên tai và bom đạn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Song hai tỉnh này có nhiều truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước, là quê hương của nhiều
cuộc khởi nghĩa.
Nơi đây có bờ biển dài, với nhiều bãi biển đẹp cùng với những đặc điểm tự nhiên đa
dạng. Do đó, hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch với nhiều
điểm đã được quy hoạch phát triển như Kim Liên, Nam Đàn, bãi biển Cửa Lò, Xuân Thành,
ngã ba Đồng Lộc…
a) Điểm du lịch Kim Liên – Nam Đàn
Điểm du lịch Kim Liên – Nam Đàn gồm các di tích thuộc làng Sen, làng Chùa (xã Kim
Liên) là quê nội, quê ngoại Bác Hồ; mộ bà Hoàng Thị Loan – xã Nam Giang; núi Thiên
Nhẫn; thành Lục Niên gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi…
Làng Sen
Từ thành phố Vinh theo quốc lộ 15A về hướng Tây khoảng 20 km là đến làng Sen - quê
ngoại Bác. Trong ngôi nhà tranh giản dị có hàng mạc thảo và hàng cau trước ngõ, Bác đã
chào đời.
Ngôi nhà tranh mà Bác đã sống thời niên thiếu này do nhân dân trong vùng góp công
sức dựng nên để mừng cụ Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh ra Bác - đỗ Phó bảng vào năm 1901.
Bên trong ngôi nhà mộc mạc này là những đồ dùng sinh hoạt của một gia đình nhà nho
nghèo: ván nằm, thư án, bút nghiên, ghế ngồi, mâm gỗ... Nơi đây Bác đã sống những năm
tháng tuổi thơ và chứng kiến những buổi bình văn hay luận thời cuộc giữa thân phụ người
với bạn bè như nhà ái quốc Phan Bội Châu, nhà nho Vương Thúc Quý. Ngôi nhà nằm ẩn
dưới dặng tre xanh, trước mặt là vườn hoa trái, kề bên là vườn cây lưu niệm. Trước mặt
ngôi nhà là ngọn núi Chung, nơi Bác thường thả diều, đọc sách.
Ở Làng Sen còn có nhà bảo tàng Kim Liên trưng bày những hiện vật và giới thiệu về
cuộc đời hoạt động của Người. Giếng Cốc là nơi Bác thường ngồi chơi và câu cá với bạn bè.
Năm 1957, Bác trở về thăm lại làng Sen sau 50 năm xa quê. Năm 1961, người lại về thăm
quê lần nữa.
Làng Chùa
Làng Chùa (Hoàng Trù) cách làng Sen khoảng 2 km, cùng thuộc xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; cách thành phố Vinh đi theo khoảng 15 km về phía tây. Nơi đây
có cụm di tích Hoàng Trù, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời. Đây cũng là nơi gắn liền với
những năm tháng tuổi thơ của Bác, cùng câu chuyện cảm động về những bậc sinh thành.
Cụm di tích Hoàng Trù bao gồm: Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép
– ông bà ngoại của Bác Hồ; ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân; và ngôi nhà của ông
Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan – thân sinh Bác Hồ. Cụm di tích Hoàng Trù là một
quần thể rộng 7 sào Trung Bộ (khoảng 3.500m2), mang đậm dấu ấn làng quê Việt.
Cụ Hoàng Đường (1835-1893), ông ngoại Bác Hồ sinh trưởng trong một gia đình Nho
học truyền thống. Cụ làm nghề dạy học và đề cao sự nghiệp giáo dục, trồng người. Cụ bà
Nguyễn Thị Kép làm ruộng và dệt vải. Hai cụ có hai người con gái; bà Hoàng Thị Loan –
thân mẫu Bác Hồ - là con gái đầu lòng.
Vào dịp Tết Mậu Dần, năm 1878, cụ Hoàng Đường trên đường đi chúc Tết, đã gặp một
cảnh tượng cảm động: Một chú bé ngồi trên lưng trâu mải mê đọc sách. Chú bé đó là
Nguyễn Sinh Sắc; mồ côi cả cha và mẹ từ năm 4 tuổi; ở cùng người anh cùng cha khác mẹ.
Cảm thương hoàn cảnh và quý trọng đức hiếu học, cụ Hoàng Đường đã xin phép họ Nguyễn
57
Sinh, đưa Nguyễn Sinh Sắc về nuôi, cho ăn học. Khi đó, Nguyễn Sinh Sắc tròn 15 tuổi.
Nguyễn Sinh Sắc được sự dìu dắt, dạy bảo của cụ Hoàng Đường, càng học càng sáng dạ,
thông minh, nổi tiếng khắp vùng; cùng nhiều đức tính tốt nên được cụ ông, bà Hoàng
Đường yêu quý như con đẻ. Và tới năm 1881, khi Nguyễn Sinh Sắc tròn 18 tuổi, hai cụ đã
thể hiện tình thương yêu và thiện ý chọn Nguyễn Sinh Sắc làm con rể đầu lòng. Lễ hứa hôn
của chàng học trò Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan đã được tổ chức trong ngôi nhà 5
gian của cụ Hoàng Đường. Và hai năm sau, năm 1883, hai người chính thức thành hôn.
Ngôi nhà này đã chứng kiến sự miệt mài đèn sách của người học trò Nguyễn Sinh Sắc,
sự tần tảo thuỷ chung của người vợ; sự ra đời và tuổi ấu thơ của những đứa con. Tại kỳ thi
Hương năm Giáp Ngọ 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ cử nhân trường Nghệ. Năm 1895,
ông vào kinh đô Huế dự kỳ thi Hội khoa Ất Mùi, song không đậu; tiếp tục học ở Trường
Quốc Tử Giám ở Huế để ôn luyện. Thời gian này ông đã đưa cả vợ và hai con trai vào Huế
cùng chung sống. Đây là những năm tháng vất vả và khó nhọc của cả gia đình. Sau khi sinh
người con thứ tư (1900), bà Hoàng Thị Loan đã qua đời trên đất Huế ở tuổi 33 (tháng
2/1901). Khi đó người con trai thứ ba là Nguyễn Sinh Cung mới 11 tuổi và người con út
mới vài tháng tuổi. Cha con ông Nguyễn Sinh Sắc đau buồn rời đất đế đô trở lại làng Hoàng
Trù sinh sống.
Ba tháng sau, tới kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc gửi con lại cho
bà ngoại, rồi lại vào Huế dự thi. Và ông đã báo đáp được ân nghĩa nuôi dạy của nhạc phụ,
nhạc mẫu; tấm tình thuỷ chung tần tảo của người vợ quá cố; kỳ thi này ông đậu Phó bảng,
được vua Thành Thái ban cho tấm biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn vua ban cho gia đình tốt).
Theo truyền thống, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con đã tạm biệt làng Hoàng Trù, trở về
quê nội – Làng Kim Liên (Làng Sen) để vinh quy bái tổ.
Khu di tích Hoàng Trù, ngôi nhà nhỏ ba gian là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; nơi đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ và cũng đầy gian khó, nhọc
nhằn của Người cùng ông bà, cha mẹ, các anh chị em. Cũng chính nơi đây Người đã nhận
được tình yêu thương của những người thân, của quê hương; được chứng kiến sự dạy dỗ tận
tình của ông ngoại với cha mình. Những giá trị tinh thần ấy là khởi nguồn cho một khát
vọng lớn lao; để cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá của đất nước Việt Nam.
b) Bãi biển Thiên Cầm
Biển Thiên Cầm cách Hà Tĩnh 20 km về phía Đông Nam, theo quốc lộ 1A, là bãi biển
mang dáng vẻ hoang sơ. Sát bờ biển là núi Thiên Cầm hùng vỹ, trên núi có bàn cơ tiên, có
dấu chân trái của người khổng lồ in trên phiến đá qua hàng triệu năm giờ vẫn rõ. Trên biển
Thiên Cầm có đảo nhỏ Hòn Én, Hòn Bớ còn rất hoang sơ và đẹp.
Phía tây nam núi Thiên Cầm có chùa Yên Lạc xây dựng từ thế kỷ 13 gần bãi tắm, chùa
có bộ tranh "Thập Điện Diêm Vương" nổi tiếng (sống trên đời và sự trừng phạt dưới âm
phủ). Trên núi Thiên Cầm có đền Cầm Sơn được xây dựng từ trước thế kỷ thứ 13, hay còn
gọi là đền cha con Hồ Quý Ly, nay còn thờ cả phật và có tên là chùa Cầm Sơn. Núi cao 108
m so với mực nước biển, đứng đỉnh núi có thể nhìn rõ toàn bộ bãi biển và đảo gần đó.
Bãi biển Thiên Cầm như hình cánh cung hay giống cây đàn cầm, có tới 3 bãi tắm, bãi
chính dài 3 km đẹp, bãi khác dài khoảng 10 km, bãi cát trắng thoai thoải phẳng ít lồi lõm,
nước biển xanh trong vắt màu ngọc bích, có thể nhìn xuống tận đáy, bờ biển thoai thoải, có
thể tắm ở xa bờ hơn 100 m, nước biển có độ mặn rất cao.
c) Ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc là di tích lịch sử gắn liền với cái chết của 10 nữ thanh niên xung
phong trong chiến tranh Việt Nam. Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc,
58
tỉnh Hà Tĩnh, nằm trên con đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua dãy Trường Sơn ở tỉnh Hà
Tĩnh, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh, thuộc địa phận xã Đồng Lộc,
huyện Can Lộc.
Đây là một trong những điểm giao thông quan trong trong chiến tranh, cho nên quân đội
Hoa Kỳ đã tập trung nhiều máy bay thảbom nhằm cắt đứt đường tiếp tế của người dân miền
Bắc cho chiến trường miền Nam.
Nơi đây có một tiểu đội thanh niên xung phong có nhiệm vụ canh giữ giao điểm, phá
bom và sửa đường thông xe khi bị bom phá. Tiểu đội 4 gồm 10 cô gái trẻ, tuổi từ 17 đến 24.
Trưa ngày 26 tháng 7 năm 1968, như mọi ngày 10 cô ra làm nhiệm vụ. 16h30', trận bom thứ
15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc, 1 quả bom rơi xuống ngay sát miệng hầm, nơi 10 cô
đang tránh bom. Tất cả đã chết khi tuổi đời còn rất trẻ, phần lớn trong số họ chưa lập gia
đình.
Ngày 23/7/2009, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức lễ
khởi công phụng tượng 10 nữ thanh niên xung phong ngã ba Đồng Lộc", đến ngày
19/8/2010 đã tổ chức trọng thể lễ khánh thành cụm tượng đài. Công trình phụng tượng 10
nữ thanh niên xung phong ngã ba Đồng Lộc là công trình có giá trị lịch sử, tâm linh sâu sắc,
được xây dựng bằng sự tự nguyện đóng góp của các các viên chức ngành giáo dục, học sinh,
sinh viên trong cả nước.
2.2.6.5. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch ( tuyến tham khảo)
- Tuyến Hà Nội – Hà Nam
- Tuyến Hà Nội – Ninh Bình
- Tuyến Hà Nội – Thanh Hóa
- Tuyến Hà Nội – Hà Nam – Ninh Bình
- Tuyến Hà Nội – Nghệ An – Hà Tĩnh
- Tuyến Hà Nội – Ninh Bình – Nghệ An – Hà Tĩnh
- Tuyến Hà Nội – Ninh Bình – Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh
b) Một số chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội, đi bằng ô tô theo quốc lộ 1A, các
đường liên tỉnh (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Ninh Bình – Hà Nội (2 ngày, 1 đêm)
Ngày 1: Hà Nội – Tam Cốc – Bích Động – VQG Cúc Phương
Sáng: Khởi hành đi tham quan Tam Cốc – Bích Động. Ăn trưa tại thị trấn Phát Diệm
(Kim Sơn).
Chiều: Tham quan nhà thờ đá Phát Diệm, VQG Cúc Phương
Tối: Giao lưu văn nghệ tại VQG Cúc Phương. Lưu trú tại Ninh Bình
Ngày 2: VQG Cúc Phương – Cố đô Hoa Lư – Hà Nội
Sáng: Tham quan tuyến cây Chò 1000 năm tuổi, hang động người xưa, khu bảo tồn thú
linh trưởng tại VQG. Ăn trưa tại VQG.
Chiều: Tham quan cố đô Hoa Lư, đền vua Đinh, vua Lê. Về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Nghệ An (Quê Bác, Cửa Lò) – đền Cuông (3 ngày, 2
đêm)
Ngày 1: Hà Nội – Quê Bác – thị xã Cửa Lò
Sáng: Từ Hà Nội khởi hành đi Vinh, ăn trưa tại TP. Vinh
Chiều: Tham quê nội, quê ngoại của Bác ở Kim Liên – Nam Đàn. Lưu trú tại Cửa Lò.
59
Ngày 2: Thị xã Cửa Lò
Sáng: Tắm biển, đi thuyền thăm Hòn Ngư, Hòn Mắt
Chiều: Tắm biển. Nghỉ đêm tại Cửa Lò
Ngày 3: Thị xã Cửa Lò – Hà Nội
Sáng: Tắm biển, ăn trưa tại Cửa Lò
Chiều: Tham quan đền Cuông. Về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Nghệ An – Hà Tĩnh (2 ngày, 3 đêm)
Ngày 1: Hà Nội – Nghệ An
Sáng: Lên xe khởi hành đi Nghệ An. Ăn trưa tại TP. Vinh
Chiều: Tham quan quê nội, quê ngoại của Bác. Lưu trú tại TP. Vinh
Ngày 2: TP. Vinh – quê hương Nguyễn Du – Ngã ba Đồng Lộc – Cửa Lò
Sáng: Ăn sáng tại TP. Vinh, lên xe tham quan quê hương đại thi hào Nguyễn Du, ngã ba
Đồng Lộc. Ăn trưa tại Hồng Lĩnh
Chiều: Lên xe về Cửa Lò, nhận phòng, tự do tắm biển
Ngày 3: Cửa Lò – Hà Nội
Sáng: Tắm biển, ăn trưa tại Cửa Lò
Chiều: Về Hà Nội
2.2.7. Tuyến du lịch Hà Nội – Tuyên Quang – Hà Giang
2.2.7.1. Các điểm tham quan du lịch ở Tuyên Quang
Tuyên Quang có diện tích 5.801km2, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông Bắc
giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Bắc Kạn và Thái Nguyên, phía Nam giáp Vĩnh Phúc, phía
Tây-Nam giáp Phú Thọ, phía Tây giáp Yên Bái. Tỉnh lỵ là thành phố Tuyên Quang cách Hà
Nội 165km theo quốc lộ 2.
Tuyên Quang là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, do đó tỉnh là nơi
còn giữ được nhiều di tích lịch sử hấp dẫn du khách như đình Tân Trào, đình Hồng Thái,
cây đa Tân Trào…. Hiện nay, tỉnh đã xây dựng được cơ sở vật vật kỹ thuật du lịch ở một số
vùng có tài nguyên hấp dẫn.
Khu di tích Tân Trào
Khu Di tích lịch sử Tân Trào nằm trong một thung lũng nhỏ thuộc xã Tân Trào, huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Là vùng đồi núi thấp có độ cao khoảng từ 95 đến 814m,
nằm trong lưu vực sông Đáy, cách thành phố Tuyên Quang khoảng 41 km, cách Hà Nội
khoảng 150 km, với diện tích khoảng 6.633 ha. Tân Trào hiện nay có 17 di tích. Với các địa
danh nổi tiếng như:
Đình Tân Trào là một đình nhỏ được xây dựng vào năm 1923 theo kiểu nhà sàn, cột gỗ,
ba gian hai chái, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và là nơi hội họp,
sinh hoạt văn hoá của dân làng. Đình thờ 8 vị thành hoàng làng đại diện cho các thần sông,
thần núi của làng Tân Lập, xã Tân Trào. Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945 đã
họp Quốc dân Đại hội.
Đình Hồng Thái cách Đình Tân Trào gần 1 km trên đường đi Sơn Dương, đình được
xây dựng tại địa phận của làng Cả, xã Tân Trào. Năm 1919, đình có tên là đình Làng Cả hay
đình Kim Trận. Đình Hồng Thái còn là trạm giao liên và là nơi huấn luyện quân sự trong
suốt thời kỳ kháng chiến. Đình còn là điểm dừng chân của các đại biểu toàn quốc về dự
Quốc dân Đại hội, là trạm thường trực của "An toàn khu của Trung ương đóng ở Tân Trào".
60
Lán Nà Lừa đây là một căn lán nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Lừa, cách làng Tân Lập gần 1
km về hướng đông, lán được dựng bằng tre theo kiểu nửa sàn, nửa đất của người miền núi,
dưới các đám cây rậm rạp. Lán do đơn vị giải phóng quân dựng để Chủ tịch Hồ Chí Minh ở
và làm việc từ tháng 6 năm 1945 đến cuối tháng 8 năm 1945. Lán Nà Lừa có hai gian nhỏ,
gian bên trong là nơi Người nghỉ ngơi, còn gian ngoài là chỗ Bác làm việc và tiếp khách.
Tại đây, ngày 4 tháng 6 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ để
củng cố căn cứ địa cách mạng, thành lập Khu giải phóng và Quân giải phóng, chuẩn bị Hội
nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội.
Cây đa Tân Trào cách đình Tân Trào khoảng 500 mét về phía Đông. Dưới bóng Cây đa
này, chiều 16 tháng 8 năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân đã làm lễ xuất quân và Võ
Nguyên Giáp đọc bản Quân lệnh số 1.
Hang Bòng là nơi làm việc của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Bắc trong thời kỳ chống Pháp (1946-1954). Hang cách không
xa Hồng Thái, Tân Trào. Từ 1950 đến 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở hang này, trực tiếp đi
chỉ đạo Chiến dịch Biên Giới (1950) và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai (tháng 2 năm
1951).
Ngoài ra, Khu Di tích Tân Trào còn có những di tích có giá trị lịch sử và du lịch khác
như: Bản Khuổi Kịch, đình Thanh La, Vực Thia, làng Tân Lập, lán Cảnh Vệ - Điện Đài, lán
Đồng Minh, sân bay Lũng Cò, đèo Chắn, Đồng Man - Lũng Tẩu, Khấu Lẩu - Vực Hồ, Ban
Tuyên huấn Trung ương, hang Thia, hang Bòng, thôn Lập Binh, xã Trung Yên, hầm An
toàn của Bác, hầm Trung ương Đảng, hầm Chính phủ và Bảo tàng Tân Trào.
Mặc dù đã trải qua 68 mùa Thu, kể từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng
mỗi khi đến thăm Tân Trào, về lại chiến khu xưa, mỗi người dân Việt Nam dường như vẫn
cảm nhận được không khí hào hùng của những ngày Thu Tháng Tám lịch sử năm xưa.
2.2.7.2. Các điểm tham quan du lịch ở Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam, có diện tích 7.831km2, phía đông
giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía nam giáp tỉnh Tuyên
Quang. Về phía bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc
tỉnh Vân Nam.
Hà Giang là mảnh đất địa đầu cực Bắc của tổ quốc, có điểm cực Bắc ở xã Lũng Cú,
huyện Mèo Vạc. Tỉnh có địa hình đa dạng, phức tạp, có nhiều núi đá cao, độ dốc lớn, bị chia
cắt, có nhiều thung lũng, sông suối. Tỉnh còn có nhiều khu rừng nguyên sinh với nhiều cây
gỗ và dược liệu quý, có sự đa dạng sinh học cao.
a) Cao nguyên đá Đồng Văn
Cao nguyên đá Đồng Văn nằm trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng
Văn, Mèo Vạc và được công nhận là Công viên địa chất Toàn cầu vào năm 2010. Cao
nguyên có nhiều khu vực núi đá vôi nằm sát chí tuyến Bắc, có độ dốc khá lớn. Các thung
lũng, sông, suối bị chia cắt nhiều. Diện tích của cao nguyên Đồng Văn: 574,35 km² với độ
cao trung bình từ 1.000 – 1.600 m.
Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những
dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ quả đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc
sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng
cư dân. Nhiều mẫu hóa thạch của các loài đã được tìm thấy có tuổi cách đây 400 - 600
triệu năm. Cao nguyên Đồng Văn là một vùng núi đá có tuổi khác nhau từ kỷ Devon cho
đến Pecmi, được bao quanh bởi các núi đất. Ở đây có mưa từ tháng 4 đến tháng 9, nhưng
thiếu nước vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 4).
61
Hiện khu vực cao nguyên đá Đồng Văn là nơi cư ngụ của khoảng 250.000 người dân
thuộc 17 dân tộc thiểu số khác nhau của Việt Nam, đặc biệt là các dân tộc Mông, Lô Lô, Pu
Péo, Dao.. Những dân tộc này có truyền thống văn hóa lâu đời, hiện nay vẫn còn nguyên giá
trị. Đây là những đặc điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Cao nguyên đá cũng là nơi có nhiều di tích danh thắng quốc gia đã được công nhận
như: Di tích kiến trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, núi
Đôi Quản Bạ… Đồng Văn còn nổi tiếng về các loại hoa quả: đào, mận, lê, táo, hồng... về
dược liệu: tam thất, thục địa, hồi, quế.
b) Chợ tình Khâu Vai
Chợ tình Khâu Vai (theo tiếng Tày, Nùng có nghĩa là đèo gai) còn gọi là chợ Phong
Lưu, được hình thành từ năm 1919. Chợ nằm ở xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, Hà Giang và
chỉ họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch.
Sự tích chợ tình bắt nguồn từ truyền thuyết về chàng Ba, cô Út. Chàng Ba người dân tộc
Nùng, nhà ở Khâu Vai, khôi ngô tuấn tú, hát hay, thổi sáo giỏi nhưng nhà nghèo. Cô Út
xinh đẹp là con một tộc trưởng người Giáy. Hai người yêu nhau nhưng gia đình cô Út không
đồng ý vì chàng nghèo và khác dân tộc không cùng con ma, không cùng phong tục tập
quán; con trai người Nùng không thể lấy con gái người Giáy làm vợ.
Chàng và nàng trốn nhà đưa nhau lên hang núi Khâu Vai sống. Gia đình, họ tộc cô gái
vác súng kíp, cung nỏ sang nhà trai chửi mắng chàng Út phá lệ đưa cô gái ra rừng. Gia đình
chàng trai cũng mang gậy gộc, súng, dao ra chửi bới nhà gái. Từ hang núi nhìn xuống cảnh
máu chảy, đâm chém nhau giữa hai họ. Thương cha, thương mẹ, thương dân bản hai làng
bỗng trở nên thù hận nhau chỉ vì tình yêu của mình nên chàng trai và cô gái chia tay nhau về
làng, thề kiếp sau sẽ thành vợ thành chồng. Ngày họ chia tay là ngày 27/3, người dân trong
vùng lấy ngày đó làm ngày họp chợ.
Khi đôi trai gái chia tay nhau, họ đã cắt máu thề: Dù không lấy được nhau nhưng mỗi
năm, cứ đến ngày 27/3 họ lại lên Khâu Vai hát cho nhau nghe, kể với nhau những thầm kín
ấp ủ trong lòng trong suốt một năm xa nhau.
Khi đầu, chợ gần như không có người bán, người mua hàng hóa đúng nghĩa mà chỉ có
một số người bán đồ ăn uống phục vụ cho những người về đây họp chợ. Vì đây là địa điểm
để người ta tìm đến nhau, sau một năm (cũng có thể là nhiều năm) xa cách, chủ yếu là
những người có mối tình chắc trở, yêu thương nhau thực sự, nhưng vì một lý do nào đó
không lấy được nhau, nay mỗi người đều có duyên phận riêng của mình. Đúng ngày này, họ
hẹn nhau về đây để tâm sự, thông báo cho nhau cuộc sống riêng của mỗi người, ôn lại
những tình cảm xưa. Có rất nhiều đôi vợ chồng cùng nhau đến chợ; đến nơi, vợ đi tìm bạn
của vợ, chồng đi tìm bạn của chồng, họ không ghen tuông, không bực bội, mà tôn trọng
nhau, tôn trọng bạn của vợ, của chồng mình; họ coi đó là sự linh thiêng, là bổn phận và
trách nhiệm trước cuộc sống tinh thần của người bạn đời.
Nhưng khoảng 20 năm trở lại đây, do nhu cầu của cuộc sống nên ngoài việc hẹn hò, gặp
gỡ, tâm tình, chợ Khau Vai còn là nơi trao đổi hàng hóa, sản vật vùng cao.
2.2.7.3. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến du lịch Hà Nội – Tuyên Quang
- Tuyến du lịch Hà Nội – Hà Giang
- Tuyến du lịch Hà Nội – đền Hùng – Tuyên Quang
- Tuyến du lịch Hà Nội – Thái Nguyên – Tuyên Quang
62
Trong các tuyến trên, tuyến du lịch Hà Nội – Thái Nguyên – Tuyên Quang, do địa hình
đồi núi hiểm trở, đường nhỏ, có nhiều đoạn cua gấp, không thuận lợi cho việc vận chuyển
du khách bằng những loại xe lớn. Hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh Hà Giang đang
được hoàn thiện dần, để phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành du lịch.
b) Một số chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội (chương trình tham khảo) (phương
tiện vận chuyển bằng ô tô)
Chương trình du lịch: Hà Nội – TP. Hà Giang – Đồng Văn – Hà Nội (2 ngày, 1 đêm,
theo quốc lộ 2 và 4C)
Ngày 1: Hà Nội – TP. Hà Giang
Sáng: Từ Hà Nội đi TP. Tuyên Quang, ăn trưa tại Tuyên Quang.
Chiều: Từ Tuyên Quang đi Hà Giang, ghé thăm động Phương Thiện, hang Chui, sau khi
tham quan về TP. Hà Giang nhận phòng, ăn tối tại khách sạn.
Ngày 2: TP. Hà Giang – Đồng Văn
Sáng: Từ TP. Hà Giang theo quốc lộ 4C thăm cao nguyên đá Đồng Văn, dinh thự họ
Vương (Lũng Cú). Ăn trưa tại thị trấn Đồng Văn
Chiều: Từ cao nguyên Đồng Văn đi tham quan Mèo Vạc. Lưu trú, ăn uống tại khách sạn
ở thị trấn Đồng Văn.
Ngày 3: Đồng Văn – Lũng Cú
Sáng: Tham quan điểm cực Bắc – Lũng cú. Ăn trưa tại thị trấn Đồng Văn, dừng chân
ngắm cảnh Cổng Trời.
Chiều: Về TP. Hà Giang. Tối lưu trú và ăn tối tại TP. Hà Giang
Ngày 4: TP. Hà Giang – Hà Nội
Sáng: Đi chợ Hà Giang, sau đó từ TP. Hà Giang thăm thắng cảnh động, suối Tiên, tắm
suối khoáng và ăn trưa tại khu du lịch Thanh Hà.
Chiều: Về Hà Nội
2.2.8. Tuyến du lịch Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên
2.2.8.1. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Hòa Bình
Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng tây bắc Việt Nam, có diện tích là
4.662.5 km², với vị trí ở phía nam Bắc Bộ, tỉnh lỵ là thành phố Hòa Bình nằm cách trung
tâm thủ đô Hà Nội 73 km.
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có 6 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm
63,3%; người Việt (Kinh) chiếm 27,73%; còn lại là người Hoa, Mông, Tày, Thái sống rải
rác ở các địa phương trong tỉnh. Hòa Bình là tỉnh được coi là thủ phủ của người Mường, vì
phần lớn người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây.
Hòa Bình là vùng đất giàu tiềm năng du lịch, có nhiều cảnh quan thiên nhiên và nhân
văn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước như thủy điện Hòa Bình, Mai Châu, Thung
Nai….
a) Điểm du lịch Mai Châu
Mai Châu là một huyện miền núi thuộc tỉnh Hoà Bình, từ TP. Hòa Bình phải đi thêm
60km nữa theo đường đi dốc Cun. Mai Châu tiếp giáp với tỉnh Sơn La – vì vậy đây có thể
coi là cửa ngõ đi sang vùng Tây Bắc.
Mai Châu nằm ở độ cao 1.000m, trên đỉnh đèo Cun du khách có thể ngắm nhìn thung
lung Vãng, một bức tranh với nhiều màu sắc, đó là những cánh đồng lúa xanh mướt, những
mái nhà sàn nằm san sát nhau của người Thái, những dòng suối uốn lượn quanh co bên cạnh
những cánh đồng. Tất cả tạo nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp, hấp dẫn.
63
Mai Châu hiện có 12 di tích, danh thắng, trong đó có 5 di tích được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch công nhận đó là: Hang Khoài (Xăm Khòe), Hang Chiều (thị trấn Mai Châu),
Hang Nhật, Hang Láng, Hang Mỏ Luông (Chiềng Châu). Ngoài ra, Mai Châu còn là địa
phương lưu giữ kho tàng văn nghệ dân gian phong phú với những nét đặc trưng của dân tộc
Thái, Mông qua các hoạt động của người xưa trong các lễ hội như: lễ hội “Cầu mưa”, lễ hội
“Chá chiêng” của dân tộc Thái và lễ hội “Gầu tào” của dân tộc Mông…Mai Châu có các
khu du lịch cộng đồng như: Bản Lác, Bản Poom Coọng, Bản Văn…, du lịch sinh thái Bản
Bước (Xăm Khòe), Bản Vặn (Piềng Vế)…
Mai Châu cũng là mảnh đất hội tụ, giao lưu của nhiều dân tộc anh em sinh sống. Mỗi
dân tộc có bản sắc, phong tục tập quán riêng góp phần tạo nên sự đa dạng phong phú cho
nền văn hóa Việt Nam (đặc biệt là bản Lác, bản Văn, bản Pon Coọn). Đến thăm các bản
làng này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp văn hóa trên thổ cẩm, thưởng thức giá trị
đời sống tinh thần của người Thái qua các làn điệu hát khắp, cồng chiêng, trống đồng, các
món cơm Lam, thịt nướng…
Các bàn miền núi ở Mai Châu được xây dựng theo một quy hoạch mang tính đô thị.
Nhà sàn được dựng dọc hai bên đường, nhà nọ đối diện với nhà kia. Nhà cao ráo, khang
tranh, sạch sẽ. Ngoài mục đích dùng để ở, nhà sàn còn được sử dụng để kinh doanh du lịch,
phát triển hình thức du lịch cộng đồng (homestay).
Đến tham quan thung lũng du lịch Mai Châu sẽ mang lại cho du khách những phút giây
thư giãn thoải mái, tự nhiên mà không thể tìm thấy ở nơi nào khác. Một lần đến đây, du
khách sẽ nhớ mãi mảnh đất yên bình này.
b) Thung lũng Thung Nai
Thung Nai là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, nằm trong lòng hồ sông
Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km.
Tên Thung Nai - khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai
nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống
của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh
nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt
tên cho vùng đất này.
Trung tâm của Thung Nai là một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng
trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác
thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá
nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Vì thế nơi đây cũng
được ví như là “một Hạ Long trên cạn”.
Động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong
lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua
nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào
động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt.
Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc
núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng
chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng
bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc.
Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc
đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé
đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác
Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung
Nai.
64
Hiện nay, Thung Nai đang là điểm đến thú vị của nhiều bạn trẻ thích khám phá, của
những gia đình muốn thay đổi không khí, và của các tập thể muốn có một chuyến du lịch
sinh thái dã ngoại, kết nối cộng đồng.
2.2.8.2. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Sơn La
Sơn La là tỉnh miền núi nằm ở phía tây bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125 km²
chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam. Sơn La có giới hạn địa lý: phía bắc giáp các tỉnh Yên
Bái, Điện Biên, Lai Châu; phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía tây giáp với
tỉnh Điện Biên; phía nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và tỉnhHuaphanh (Lào); phía tây nam
giáp tỉnh Luangprabang (Lào).
Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh,
97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên Mộc Châu và Sơn
La - Nà Sản, địa hình tương đối bằng phẳng. Tỉnh là địa bàn sinh sống của 12 dân tộc, các
dân tộc sinh sống tại tỉnh vẫn còn giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc sắc.
a) Cao nguyên Mộc Châu
Cao nguyên Mộc Châu, thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, cách Hà Nội 200 km theo
quốc lộ 6. Cao nguyên có độ cao trung bình 1.050 m so với mực nước biển, mang đặc trưng
của khí hậu cận ôn đới, đất đai màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây chè, cây ăn
quả (mận, đào) và chăn nuôi bò sữa.
Tạo hóa thiên nhiên đã ban cho mảnh đất này đặc ân, đó là những dải đất bazan màu mỡ
cùng với khí hậu cũng rất hài hòa. Thế nên bốn mùa ở Mộc Châu thường gắn liền với những
loài hoa khác nhau, có lẽ bởi vậy mà du khách đi du lịch Mộc Châu không căn cứ theo mùa
trong năm mà dựa theo mùa hoa nở. Vẻ đẹp của hoa cỏ thiên nhiên nơi đây luôn tươi mới, lạ
lẫm, đặc biệt thu hút du khách.
Mộc Châu những ngày đầu mùa đông xanh ngắt từ màu trời đến tấm áo của núi đồi và
những cánh đồng mênh mông hoa cỏ. Những vườn đào, vườn mận không còn rạng rỡ kiêu
sa như mùa xuân mà trở nên êm ả và thanh bình với tông màu xanh dịu dàng và mướt mát.
Đặc biệt, tại Mộc Châu với đặc trưng nổi bật là những đồi chè xanh chạy dài hết quả đồi này
đến quả đồi kia. Những đồi chè trải dài miên man, bát ngát đã biến Mộc Châu trở thành một
viên ngọc xanh thơ mộng. Và cây chè cũng ngày càng gắn bó với cuộc sống của các dân tộc
nơi đây. Chè Mộc Châu có hương thơm dịu và vị rất thanh, có lẽ nó đã ngâm vào trong
mình cái giá lạnh của cao nguyên cao nhất Việt Nam này.
Buổi tối trên cao nguyên cũng thật thanh thản và yên bình, Mộc Châu lặng im trong cái
rét của mùa đông. Mọi người cùng nhau ngồi quây quần bên bếp lửa trong nhà sàn, thưởng
thức các món ăn đặc sản ở đây như thịt bê chao, cá suối nướng, xôi ngũ sắc,...cùng chúc
nhau những ly rượu đông ấm lòng người.
b) Nhà tù và bảo tàng Sơn La
Di tích nhà tù và Bảo tàng Sơn La nằm ở thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nhà tù Sơn La
do người Pháp xây dựng năm 1908 trên đồi Khau Cả. Nơi giam giữ nhiều chiến sỹ cách
mạng Việt Nam.
Ban đầu là một nhà tù Sơn La nhỏ hàng tỉnh, được mở rộng quy mô vào những năm
1930 – 1940. Giai đoạn từ 1930 – 1945 tại đây giam cầm 1.207 chiến sỹ cách mạng. Trong
đó, có nhiều vị là cán bộ chủ chốt của cách mạng Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh,
Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng, Song Hào, Xuân Thủy…
Đến với di tích Nhà tù Sơn La, thăm các xà lim ngầm, xà lim chéo, trại ba gian cùng với
hàng trăm hiện vật, du khách sẽ chứng kiến hoàn cảnh sống cơ cực của tù nhân, càng khâm
phục ý chí kiên cường của họ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc.
65
Du khách sẽ không khỏi xúc động đứng trước cây đào mang tên Tô Hiệu, bên tường đá
nhà ngục cây đào luôn xanh tươi – biều tượng cho ý chí bất khuất của người cộng sản.
Nhà tù Sơn La bị máy bay Pháp ném bom vào năm 1952 và bị máy bay Mỹ ném bom
vào năm 1965 nên rất nhiều công trình đã bị phá hủy. Năm 1995, Nhà nước ta đã đầu tư để
phục chế lại một số bộ phận của khu di tích.
Bên cạnh khu di tích nhà tù là Nhà Bảo tàng tổng hợp của tỉnh Sơn La, nơi trưng bày
nhiều hiện vật quí giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12 dân tộc đoàn
kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam.
Di tích nhà tù Sơn La được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng năm 1962. Hàng năm đón
hơn trăm nghìn lượt du khách đến tham quan.
2.2.8.3. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Điện Biên
Điện Biên là một tỉnh nằm ở vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam, giáp với các tỉnh Lai
Châu và Sơn La của Việt Nam, Vân Nam của Trung Quốc ở phía Bắc, Phongsaly của Lào ở
phía Tây, các huyện Pak Xeng, Pak Ou thuộc tỉnh Luangprabang của Lào ở phía Tây Nam.
Tỉnh có 21 dân tộc sinh sống, chủ yếu là người Thái, người H'Mông và Kinh.
Quần thể di tích này là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát triển du lịch không
những của tỉnh Điện Biên, của Tây Bắc mà còn của cả nước.
a) Di tích lịch sử cách mạng Điện Biên Phủ
Khu di tích chiến trường Ðiện Biên Phủ là một quần thể các di tích lịch sử ghi lại chiến
công của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm
lược. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng
23 di tích quốc gia đặc biệt. Các di tích nổi bật của chiến trường Ðiện Biên năm xưa là đồi
A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu và sân bay Mường
Thanh, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Catri.
Đồi A1
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, là cứ
điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đồi
A1 nằm dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm 2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m,
Đông Nam cao hơn 493m. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi. Sáng ngày
7/5/1954 quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
Hiện nay, trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm được xây theo kiểu “Tam sơn”,
ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đạo. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm
bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ, xung quanh là vòng tương hoa.
Bên cạnh đài kỷ niệm là xác một trong hai chiếc xe tăng nặng 18 tấn mà tên Quan Ba
Hécvuê đưa từ trung tâm Mường Thanh lên để phản kích quân đội Việt Nam. Một di tích
quan trọng nữa là cái hố hình phễu to bằng cái “ao đình” cạn. Đó là dấu tích trận nổ khối
bộc phá nghìn cân của quân ta mà chiến sĩ ta thường gọi “đào hầm để trị hầm”, trị cả hầm,
cả lô cốt cố thủ của giặc.
Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát
Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc
cánh đồng Mường Thanh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Cấu trúc và cách bố trí, sắp xếp của căn hầm vẫn còn được giữ nguyên. Xung quanh
hầm là hàng rào phòng thủ với hệ thống dây kẽm gai dày đặc và bốn chiếc xe tăng. Hầm Đờ
Cát dài 20m và rộng 8m, bao gồm bốn gian dùng cho cả nơi ở và làm việc.
Tại căn hầm này, tướng Đờ Cát đã tiếp đón nhiều quan chức cấp cao như: thủ tướng
Pháp Joseph Laniel, tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower, thủ tướng Anh Winston
66
Churchill cũng như các nhà báo. Vào lúc 17h30 ngày 7/5/1954, Tạ Quốc Luật, chỉ huy
trưởng đại đội 360, trung đoàn 209, sư đoàn 312 đã bắt sống tướng Đờ Cát tại bàn làm việc.
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ nằm trong một khu rừng nguyên sinh tại địa phận
xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cáchthành phố Điện Biên Phủ 25 km về
phía đông. Đây là nơi làm việc của các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái… Gần
với Sở chỉ huy có đài quan sát trên đỉnh núi độ cao trên 1.000m, từ đài quan sát này có thể
bao quát hoạt động và diễn biến ở thung lũng Mường Thanh. Sở chỉ huy gồm: Chòi canh
gác số 1; Hầm thông tin liên lạc; Đài quan sát; Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp; Lán ở và làm việc của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái; Đường hầm xuyên núi dài
96m nối liền lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái;
Hầm của ban cố vấn Trung Quốc; Nhà hội trường; Hầm ban chính trị.
Bảo tàng Điện Biên Phủ
Bảo tàng Điện Biên Phủ nằm đối diện với nghĩa trang liệt sĩ trên đồi A1, ở trung
tâm thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào
năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Vào cuối năm 2003,
bảo tàng Điện Biên Phủ đã tiến hành nâng cấp và chỉnh lý lại khu trưng bầy. Đến nay bảo
tàng có 5 khu trưng bầy với 274 hiện vật và 122 bức tranh theo từng chủ đề sau: Vị trí chiến
lược của Điện Biên Phủ; Tập đoàn cứ điểm của địch tại Điện Biên Phủ; Đảng chuẩn bị
đường lối chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ; Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên
Phủ; Điện Biên Phủ ngày nay.
2.2.8.4. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Hòa Bình
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Điện Biên
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Yên Bái – Lào Cai – Sa Pa – Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình
Trong số các tuyến du lịch trên, tuyến Hà Nội – Điện Biên nếu đi bằng phương tiện ô tô
nằm trong khu vực có địa hình núi cao và hiểm trở nhất nước ta. Đường ô tô ở tuyến này có
chiều ngang hẹp với khúc cua nguy hiểm nên việc vận chuyển khách bằng các phương tiện
vận tải lớn sẽ không thuận tiện. Đồng thời, khi thực hiện các chương trình du lịch, cần tính
toán các cung đường và thời gian để lựa chọn những điểm dừng chân, nghỉ ngơi, ăn uống
phù hợp.
b) Một số chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Hòa Bình – Hà Nội (2 ngày, 1 đêm, phương tiện vận
chuyển ô tô)
Ngày 1: Hà Nội – thủy điện Hòa Bình – hồ Hòa Bình
Sáng: Lên xe khởi hành đi thăm thủy điện Hòa Bình. Nhận phòng, ăn trưa tại khách sạn
ở TP. Hòa Bình.
Chiều: Đi tàu tham quan hồ Hòa Bình, thăm đền Thác Bờ, hang Lung.
Tối: Ăn tối, thưởng thức ca nhạc dân tộc Mường
Ngày 2: Hòa Bình – Mai Châu – Hà Nội
Sáng: Từ Hòa Bình đi Mai Châu tham quan các bản người Thái, bản Lác, bản Văn, bản
Poc Coọn. Ăn trưa tại bản Lác.
Chiều: Mua sắm, về Hà Nội
67
Chương trình du lịch: Hà Nội – Thung Nai – Hà Nội (2 ngày, 1 đêm, phương tiện
vận chuyển ô tô)
Ngày 1: Hà Nội – Thung Nai
Sáng: Lên xe, khởi hành đi Thung Nai. Đến Thung Nai lên thuyền đi tham quan các đảo
nhỏ trên hồ. Ăn trưa tại nhà nghỉ Cối Xay Gió.
Chiều: Đi thuyền ngao du thăm cảnh núi non, sau đó đi tắm thác thư giãn. Ăn tối tại
Thung Nai.
Tối: Tham gia hoạt động đốt lửa trại, nghỉ đêm tại nhà nghỉ
Ngày 2: Thung Nai – Hà Nội
Sáng: Xuống tàu khởi hành xuôi trong lòng hồ về mạn phía bắc, thăm quan đền Thác
Bờ của người Mường và người Dao, ngôi đền được người dân bản địa cho là linh thiêng
nhất vùng lòng Hồ. Tiếp tục tham chợ Bản Bờ của người Dao họp trên thuyền vào sáng chủ
nhật hàng tuần và bè cá nổi. Ăn trưa tại nhà nghỉ
Chiều: Du khách nghỉ ngơi, trả phòng, về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên – Hà Nội (5 ngày, 4
đêm, phương tiện vận chuyển ô tô)
Ngày 1: Hà Nội – TP. Điện Biên (theo quốc lộ 6 và 279)
Xe từ Hà Nội đi Điện Biên, ăn trưa tại Sơn La, chiều tối đến TP. Điện Biên Phủ, nghỉ
đêm ăn tối tại khách sạn Mường Thanh.
Ngày 2: Tham quan Điện Biên Phủ
Sáng: Tham bảo tàng Bảo tàng Điện Biên Phủ, đồi A1, và viếng nghĩa trang liệt sỹ trên
đồi A1. Tham quan cầu Mường Thanh, hầm Đờ Cát, sân bay Mường Thanh, ăn trưa tại
khách sạn.
Chiều:Tham quan bản người Thái, tìm hiểu đời sống văn hóa đồng bào dân tộc, xem
múa xòe, uống rượu cần. Ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn.
Ngày 3: TP. Điện Biên – Mường Păng – TP. Sơn La
Sáng: Ăn sáng, trả phòng, đi tham quan Sở chỉ huy ở xã Mường Păng. Ăn trưa tại Tuần
Giáo.
Chiều: Đi ô tô về TP. Sơn La, viếng các liệt sỹ ở nghĩa trang Gốc ổi, thăm nhà tù Sơn
La. Ăn tối và lưu trú tại TP. Sơn La
Ngày 4: TP. Sơn La – Mai Châu
Sáng: Đi ô tô về bản Lác, Mai Châu. Ăn trưa tại bản Lác
Chiều: Tham qua bản Văn, bản Po Coọn, bản Lác. Ăn trưa tại bản
Tối: Xem văn nghệ các dân tộc
Ngày 5: Bản Lác – Kim Bôi – Hà Nội
Sáng: Sau khi ăn sáng, trả phòng đi Kim Bôi. Ăn trưa tại Kim Bôi
Chiều: Tắm nước khoáng nóng tại Kim Bôi. Về Hà Nội
2.2.9. Tuyến du lịch Hà Nội – Vĩnh Phúc – Phú Thọ - Sa Pa
2.2.9.1. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ
a) Điểm du lịch Đại Lải
Khu du lịch Đại Lải nằm trên địa bàn của thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội
50km, cách Việt Trì 50km. Đây là điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
Trước đây, khi khu du lịch chưa được quy hoạch, nơi đây mới chỉ là một vùng hồ là một
thung lũng cằn cỗi nằm giữa một bên là dải núi Thằn Lằn, một bên là các đồi trọc trải dần ra
68
từ phía chân dãy Tam Đảo. Mùa mưa lũ, nước ở các con suối chảy dồn về như thác, đồng
thời lại rút đi rất nhanh, bào mòn lớp đất canh tác, làm cho đồng ruộng bị xói mòn, đất đai
bạc màu vì khô cằn. Vì vậy, Nhà nước đã giao các ngành chức năng nghiên cứu, xây dựng
hồ chứa nước Đại Lải với nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ tưới tiêu cho các địa phương lân
cận. Công trình được khởi công vào năm 1959, đến năm 1963 cơ bản hoàn thành, lòng hồ
rộng lớn có diện tích mặt nước thiết kế lớn nhất 525ha, chứa 26,4 triệu m3 nước, mực nước
hồ có thể lên cao tới cốt 21m.
Công trình hồ Đại Lải mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế, xã hội, phục vụ tưới tiêu
cho hàng ngàn ha đất canh tác. Ở đây, nguồn lợi thủy sản phong phú, đặc biệt tổng quan
vùng hồ là một không gian rộng mở, thoáng mát, phong cảnh sơn thủy hữu tình. Tỉnh Vĩnh
Phúc nhận ra rằng tiềm năng du lịch ở đây rất lớn và đã có những chính sách, cơ chế để kêu
gọi các nhà đầu tư, thu hút các dự án lớn đi vào xây dựng, hoạt động.
Hiện nay, khu vực hồ đã được quy hoạch xây dựng thành một khu du lịch với nhiều đặc
trưng, nhiều điểm tham quan quan trọng:
Hồ Đại Lải nằm giữa một màu xanh ngút ngàn. Phía Bắc hồ là dãy Tam Đảo xanh thẳm,
hùng vĩ. Ba phía vòng quanh hồ, gò đồi và núi Thằn Lằn nối với nhau bao quanh. Vào mùa
mưa, nước từ các con sông, suối phía Nam của dãy núi Tam Đảo như sông Vực Tuyền, sông
Tôn, sông Bá Hạ, suối Đồng Câu, Đồng Chão... dồn chảy vào lòng hồ. Nguồn nước sông,
suối được giữ lại, điều tiết ở mực an toàn cho bờ đập và cung cấp tưới tiêu cho nông nghiệp
mùa khô hạn. Đi thuyền trên hồ, du khách sẽ phát hiện rất nhiều cảnh quan kỳ thú do các
thung lũng tự nhiên, các triền đồi bát úp cùng các hẻm núi còn hoang sơ nhô ra, tạo nên các
eo, các bán đảo hết sức đa dạng. Có những quần đảo nhỏ nằm trong lòng hồ như đảo chim,
đảo Ngọc.
Từ bãi tắm dưới hồ, du khách có thể đi bộ lên đỉnh núi Thằn Lằn, phóng tầm mắt nhìn
về thủ đô Hà Nội và tham quan đồn Thằn Lằn, nơi ghi dấu một trong những trận đánh quyết
liệt, chiến thắng hào hùng của lực lượng vũ trang chiến khu Ngọc Thanh những năm chống
Pháp.
Những ai thích leo núi có thể ngược lên phía Bắc, luồn rừng qua đèo Nhe (một thời là
con đường liên lạc trọng yếu giữa chiến khu Ngọc Thanh và căn cứ địa Việt Bắc) sang đất
Thái Nguyên thăm hồ Suối Lạnh; tới đèo Khế thăm khe núi Đá Đen - địa điểm đặt kho bạc
nhà nước thời kháng chiến, hay rẽ sang núi Mỏ Quạ mạo hiểm thử sức leo lên những vách
đá dựng đứng...
Bên cạnh vẻ đẹp của núi rừng, của thiên nhiên vùng hồ, hồ Đại Lải còn có hàng loạt
công trình, dự án, điển hình như khu nghỉ dưỡng Flamingo Đại Lải Resort, Sân golf Đại
Lải, khu biệt thự, ẩm thực cao cấp đảo Ngọc, Nhà nghỉ lão thành cách mạng, Trại sáng tác
văn học...
Đặc biệt, tỉnh Vĩnh Phúc đã Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 dự án
trồng rừng kết hợp khu du lịch sinh thái cao cấp núi Thằn Lằn, thuộc thị xã Phúc Yên - tỉnh
Vĩnh Phúc. Địa điểm và vị trí quy hoạch thuộc địa giới hành chính các xã Ngọc Thanh; Cao
Minh và phường Xuân Hòa với tổng diện tích quy hoạch hơn 208ha.
Khu dự án trồng rừng kết hợp du lịch sinh thái cao cấp núi Thằn Lằn nằm trong khu du
lịch hồ Đại Lải, gắn với khu vực phát triển đô thị Xuân Hòa của thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc. Trong khuôn khổ dự án, các khu biệt thự nghỉ dưỡng, nhà vườn sinh thái gồm khu căn
hộ du lịch ven hồ Đại Lải, khu biệt thự nhà vườn và căn hộ du lịch phía Bắc trên núi, khu
biệt thự nhà vườn phía Nam khu du lịch sẽ được xây dựng.
Các khu đất đồi rừng sinh thái, cây xanh, công viên, mặt nước bao gồm các khu đồi
rừng hiện có được giữ nguyên để cải tạo, các khu vườn ươm cây nằm ven chân núi về phía
69
Tây được tổ chức thành các trang trại quy mô nhỏ; hệ thống hồ chứa nước được xây dựng
dưới chân đồi rừng, tại các điểm tụ thủy để chứa nước thoát tự nhiên, tạo cảnh quan và cải
thiện môi trường sinh thái cho khu vực.
b) Khu di tích Đền Hùng (Phú Thọ)
Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - huyện Lâm Thao - tỉnh
Phú Thọ, đây là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt
Nam. Đền Hùng cách trung tâm thành phố Việt Trì 7 km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội
90 km.
Đền Hùng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia, được xây dựng
trên núi Hùng - thuộc đất Phong Châu - vốn là đất kế đô của Nhà nước Văn Lang 4.000
năm trước đây. Toàn bộ Khu di tích có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng hài hoà trong cảnh thiên
nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ.
Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng (còn gọi là núi Cả theo tiếng địa phương hay
còn có nhiều tên gọi khác nhau: Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo
Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn,…), có độ cao 175 m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng,
núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam , mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi
Trọc, núi Pheo,….
Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn núi Hùng là
rậm rạp xanh tươi với 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn sót lại một số cây đại
thụ như chò, thông, lụ,…và một vài giống cây cổ sơ như kim giao, thiên tuế,..
Từ chân núi, du khách sẽ được chiêm ngưỡng lần lượt các di tích kiến trúc như:
Cổng đền: Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm cuốn
cao 8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột
trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi hai con
Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người
cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao
sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh”
(Đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.
Đền Hạ: Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100
người con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng
“Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền.
Đền Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII - XVIII. Kiến trúc kiểu chữ
“nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ
kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường
với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không
trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp
hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột
bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc
tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945: “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” .
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu): Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc
hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng
thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh
chưng, bánh dày. Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam,
70
dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường,
bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua
Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông
nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân
khang vật thịnh. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người
tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua
Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào
thờ cúng. Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời) còn có tên
là “Cửu trùng tiên điện” (Điện giữa chín tầng mây). Trong Đền Thượng có bức đại tự
đề “Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam). Đền được làm kiểu chữ Vương,
kiến trúc đơn giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác nhau
gồm: nhà chuông trống (cấp I), đại bái (cấp II), tiền tế (cấp III) và hậu cung (cấp IV).
Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện nay.
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông
Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa
là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7
(1922) trùng tu lại. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng
mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng
đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái đắp ngói ống, cổ diêm, 3 phía
đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân,
xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lăng có mộ Vua
Hùng.
Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh): Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và
Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh
lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập
đền thờ phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam,
kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ và 2 nhà
oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với hậu cung.
Đền Tổ mẫu Âu Cơ: Được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng
12/2004. Đền được xây dựng trên núi ốc Sơn (núi Vặn) theo kiến trúc truyền thống với
cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát.
Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh. Đường đi lên đền được xây bằng
553 bậc đá Hải Lựu.
Bảo tàng Hùng Vương: Bảo tàng Hùng Vương được khởi công xây dựng vào năm
1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi (2003) do Tổng
Bí thư Đỗ Mười cắt băng khánh thành. Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000
hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò
đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ
chủ đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch
sử”.
Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng
Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
- Giới thiệu việc hình thành khu di tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích Đền
Hùng của nhân dân cả nước.
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của người đứng đầu Nhà nước phong kiến trước
đây, của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
71
Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt quan
trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về
dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam.
2.2.9.2. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Yên Bái
Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc của Việt Nam, có diện tích 6.808km2. Tỉnh có phía đông
bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây
nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai.
Địa hình chủ yếu của tỉnh là đồi núi, có hệ thống sông suối dày đặc, trong đó có 2 sông
lớn là sông Chảy và sông Hồng. Tỉnh là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người sinh sống
(30 dân tộc) như: Tày, Nùng, Dao, Phù Lá, H’mông, Giáy… Tỉnh Yên Bái không có nhiều
điểm tham quan du lịch hấp dẫn, chỉ có một số điểm tham quan chính như khu di tích
Nguyễn Thái Học và hồ Thác Bà.
Điểm du lịch hồ Thác Bà
Hồ Thác Bà thuộc hai huyện Lục Yên và Yên Bình (Yên Bái), là một trong ba hồ nước
nhân tạo rộng nhất Việt Nam được hình thành khi xây dựng Nhà máy thủy điện Thác Bà,
cách Hà Nội 180km theo Quốc lộ 2.
Diện tích vùng hồ khoảng 23.400ha, diện tích mặt nước 19.050ha, chiều dài 80km, mực
nước sâu 20-29m. Hồ không chỉ là thắng cảnh, hồ còn góp phần rất lớn vào việc bảo vệ và
cải tạo môi trường làm cho mùa hè nhiệt độ giảm từ 1 đến 2oC tăng độ ẩm tuyệt đối vào
mùa khô lên 20% và lượng mưa từ 1.700 đến 2.000 mm tạo điều kiện cho thảm thực vật
xanh tốt.
Hồ Thác Bà có hơn 1.300 đảo lớn nhỏ. Các dãy núi đá vôi đã tạo ra một hệ thống hang
động rất đẹp trên hồ. Động Thủy Tiên, nằm trong lòng núi đá dài khoảng 100 m với những
nhũ đá lấp lánh khi được chiếu sáng tạo ra muôn hình vạn trạng trong đó có hình chín nàng
tiên mỗi người một vẻ gắn với truyền thuyết tình yêu ly kỳ hấp dẫn. Động Xuân Long nằm
ẩn trong núi đá. Đi sâu vào trong động du khách không khỏi ngỡ ngàng trước những tượng
đá tự nhiên kỳ lạ. Các nhũ đá rủ xuống cùng với những giọt nước long lanh với bầu không
khí mát lạnh lan tỏa khiến mọi người sảng khoái.
Núi Cao Biền là dãy núi lớn và dài nhất của thắng cảnh hồ Thác Bà, có thể đứng trên
đỉnh núi phóng tầm mắt ngắm cảnh hồ chìm trong sương với vẻ đẹp lung linh huyền ảo.
Khu vực hồ thuộc huyện Lũng Yên lại có nhiều di tích lịch sử đền Đại Cại, hang Ma-mút,
chùa São, núi Vua Áo Đen... Tại đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những dấu vết của
người Việt cổ.
Khu vực làng ven hồ vẫn giữ được nét hoang sơ cùng bản sắc văn hóa của các dân tộc
Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan... Nhiều lễ hội đặc sắc thường diễn ra như: Lễ hội
mừng cơm mới của người Tày tổ chức vào ngày 9-10 âm lịch khi tiết trời sang thu, mùa thu
hoạch lúa nếp đến, mùi thơm lan tỏa khắp bản làng. Du khách sẽ cảm nhận được chất trữ
tình trong những điệu dân ca, dân vũ đậm chất núi rừng. Lễ Tết nhảy của dân tộc Dao với
các điệu múa miêu tả cuộc sống của cộng đồng, như cấy lúa, làm nương... với hình thức
mang đậm nét dân gian độc đáo.
2.2.9.3. Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng Tây Bắc của Việt Nam, giáp ranh
giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía Bắc Lào Cai giáp Trung Quốc, phía Tây giáp
tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái.
Lào Cai là tỉnh thành có địa hình bị chia cắt mạnh và có khí hậu bị ảnh hưởng rõ nét từ
độ cao ở nước ta. Trong đó, thị trấn Sa Pa từ lâu đã được biết đến như một đô thị du lịch
miền núi điển hình, một điểm du lịch hấp dẫn du khách với nhiều sản phẩm du lịch đặc
72
trưng rất hấp dẫn. Tỉnh Lào Cai còn có những vùng quanh năm có sương mù giăng mờ ảo,
khí hậu trong lành, mát mẻ nên rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch nghỉ dưỡng, khám
phá. Rất nhiều loại hình du lịch mạo hiểm của tỉnh đã được hình thành và được du khách
đón nhận.
Tỉnh Lào Cai là địa bàn cư trú của 25 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh
đất phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử. Trong số các dân tộc khác thì
đông hơn cả là Người H'Mông, Tày, Dao, Dáy, Hoa… chiếm tỉ lệ đáng kể. Chính sự phong
phú về đời sống các dân tộc đã tạo nên một bản sắc riêng của Lào Cai. Nhiều các làng bản
đã được quy hoạch để phục vụ cho việc phát triển du lịch.
a) Điểm du lịch Sa Pa
Sa Pa là đô thị du lịch nghỉ dưỡng, là điểm tham quan du lịch núi nổi tiếng ở miền Bắc.
Từ Hà Nội có thể lên Sa Pa bằng ô tô hoặc tàu hỏa đến Lào Cai, sau đó theo quốc lộ 4D
(Lào Cai – Lai Châu) là đến thị trấn Sa Pa.
Sa Pa có độ cao trung bình 1.500m so với mực nước biển, nằm ở sườn đông của dãy
Hoàng Liên Sơn. Nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm nên thuận tiện để phát triển du lịch
nghỉ dưỡng. Đây còn là địa bàn cư trú của dân cư 6 dân tộc Kinh, H'Mông, Dao
đỏ, Tày, Giáy, Xã Phó. Các dân tộc này có nhiều giá trị truyền thống đặc trưng rất thu hút
khách du lịch trong nước và quốc tế.
Một số các điểm tham quan chính ở Sa Pa: núi Hàm Rồng, nhà thờ cổ, bản Cát Cát, bản
Tả Phìn, bản Tả Van, bản Hồ, thung lũng Mường Hoa, bãi đá cổ Sa Pa, thác Bạc, thác Tình
Yêu….
Khu du lịch sinh thái Hàm Rồng
Cách trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 2 km, ngay sau khách sạn Hàm Rồng có một dãy
núi cao gần 2000 m, gồm nhiều dãy đá nhấp nhô mang nhiều dáng vẻ khác nhau đó là núi
Hàm Rồng. Cả dãy núi giống như một con rồng khổng lồ đang uốn khúc, nằm phục. Trên
địa hình này, khu du lịch sinh thái Hàm Rồng đã được quy hoạch xây dưng phục vụ du
khách.
Núi Hàm Rồng gắn với một sự tích về ba anh em nhà Rồng: Từ xa xưa mọi sinh vật đều
sống hỗn độn. Một hôm Ngọc Hoàng ban lệnh tất cả các sinh vật hãy lập lấy địa phận của
mình. Các sinh vật tranh nhau tìm chỗ trú ngụ. Lúc này ba anh em nhà rồng đang sống trong
hồ lớn, khi nghe tin vội chạy sang hướng đông thì đã hết chỗ, họ bèn chạy sang hướng tây.
Hai người anh chạy nhanh hơn nên ở đó chờ người em. Người em chạy chậm đã lạc vào
đám đông toàn sư tử, hổ báo. Người em sợ quá rùng mình co người, há mồm để tự vệ. Vừa
lúc đó lời ban của Ngọc Hoàng đã hết hạn. Thế là hai người anh nhà Rồng hóa thành đá
quay về hướng Lào Cai, còn người em út hóa đá có dáng đầu ngẩng cao mồm há to nhe răng
nhìn về dãy Hoàng Liên Sơn và được gọi là núi Hàm Rồng.
Để lên được đỉnh núi Đầu Rồng, du khách phải leo qua đoạn đường dài hơn 1km. Dọc
đường đi, du khách sẽ được tham quan, chiêm ngưỡng vẻ đẹp tại các khu vườn lan 1, vườn
lan 2, trạm vi ba, vườn hoa châu Âu, cổng trời. Trên đỉnh núi Hàm Rồng có nhiều cảnh quan
đẹp, nhiều hang động, núi đá nhấp nhô rất ngoạn mục, lý thú. Đỉnh Hàm Rồng cũng là điểm
ngắm toàn cảnh đẹp nhất Sa Pa. Từ đây, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát cảnh núi
non, sông suối và thị trấn Sa Pa mờ ảo trong làn mây trắng xóa, như lạc vào thế giới tiên
cảnh yên lạc.
Thác Bạc
Thác Bạc là một thắng cảnh thu hút nhiều du khách thuộc xã San Sả Hồ, huyện Sa
Pa của tỉnh Lào Cai, nằm ngay cạnh quốc lộ 4D, tuyến đường huyết mạch để đến tỉnh Lai
73
Châu và chỉ cách khu vực trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 12 km về hướng tây nên khá
thuận lợi để thăm quan.
Thác Bạc có độ cao hơn 200 mét là thượng nguồn của dòng suối Mường Hoa với độ cao
1.800 m nằm dưới chân đèo Ô Quy Hồ. Đứng trên đỉnh núi Hàm Rồng ở trung tâm thị trấn
Sa Pa có thể nhìn thấy thác Bạc trắng xóa vào những hôm trời quang và đây cũng là nguồn
gốc tên gọi của thác. Từ trên khe núi cao, dòng nước ầm ầm đổ xuống, bọt tung trắng xoá
như những đóa hoa vì vậy được người dân gọi là thác Bạc. Khu vực Thác Bạc là một trong
những nơi tuyết rơi dày nhất tại Sa Pa, vào tháng 3 năm 2011, khu vực thác có tuyết phủ
dày tới trên 10 cm.
Khu du lịch Thác Bạc có hai đường lên xuống tách biệt, đường lên ở phía bên phải, đến
lưng chừng thác, du khách sẽ đia qua một chiếc cầu để sang phần bên trái. Ở khu vực gần
cầu Thác Bạc trên tuyến quốc lộ 4A có mọt số hàng quan bán đồ ăn và đồ lưu niệm. Tình
trạng vứt rác thải bừa bãi của du khách và các hàng quán đã khiến cho môi trường khu lịch
Thác Bạc không còn được trong sạch.
Bản Cát Cát: đây là một bản lâu đời của người H’Mông, cách trung tâm thị trấn Sa
Pa 2km. Nơi đây còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống như trồng bông, lanh, dệt
vải… Bản Cát Cát ở gần thị trấn Sapa nên thu hút rất đông du khách ghé thăm. Hiện nay nơi
đây đã được xây dựng thành khu du lịch Cát Cát.
Bản Tả Phìn: cách trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 17km về hướng Đông. Nơi đây có
cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của người Dao
Đỏ với nghề thổ cẩm nổi tiếng. Đến bản Tả Phìn, du khách có thể ghé thăm hang động Tả
Phìn ngay gần đó. Trong hang có nhiều nhũ đá tạo nên những hình thù kỳ thú như hình tiên
múa, đoàn tiên ngồi, cánh đồng xa, rừng cây lấp lánh…
Thung lung Mường Hoa thuộc xã Hầu Thào, cách thị trấn Sa Pa khoảng 8km về phía
Đông Nam. Từ thị trấn Sa Pa, vượt qua một con đèo men theo dãy núi cao (có trạm thu phí
80.000 VND/người), bạn sẽ đến thung lũng Mường Hoa. Điều đặc biệt tại thung lũng này là
bãi đá cổ có khắc nhiều hình khác nhau, nằm xen giữa cỏ cây và những thửa ruộng bậc
thang của đồng bào dân tộc. Hàng trăm tảng đá sa thạch có khắc những hình vẽ, những ký
tự kỳ lạ đến nay vẫn chưa xác định được nguồn gốc và ý nghĩa. Ngày nay, khu chạm khắc
cổ này đã được xếp hạng di tích quốc gia, là di sản độc đáo của người Việt cổ. Tại thung
lũng Mường Hoa còn có con suối nhỏ xinh đẹp trải dài khoảng 15 km, qua các xã Lao Chải,
Tả Van, Hầu Thào và kết thúc ở Bản Hồ.
b) Đỉnh Fansipan
Fansipan là ngọn núi cao nhất Việt Nam, cũng là cao nhất trong ba nước Đông
Dương nên được mệnh danh là "Nóc nhà Đông Dương" (3.143 m) thuộc dãy núi Hoàng
Liên Sơn, cách thị trấn Sa Pa khoảng 9 km về phía tây nam, nằm giáp hai tỉnh Lào
Cai và Lai Châu thuộc vùng Tây bắc Việt Nam. Theo tiếng địa phương, núi tên là "Hủa Xi
Pan" và có nghĩa là phiến đá khổng lồ chênh vênh.
Fansipan có hệ thực vật khá phong phú, với 1.680 loại cây chia làm 679 chi thuộc 7
nhóm. Có một số loại thuộc nhóm quý hiếm. Từ chân núi lên đến đỉnh các hệ thực – động
vật chia thành nhiều tầng khác nhau tùy thuộc vào độ cao và khí hậu.
Hiện nay, đỉnh Fansipan là điểm hẹn của nhiều nhà leo núi. Việc chinh phục đỉnh núi
này có thể được thực hiện qua các tour của các công ty du lịch lữ hành chuyên nghiệp hoặc
tự túc với sự dẫn đường của người bản xứ. Lộ trình leo núi có thể bắt đầu từ Hà
Nội đến Lào Cai bằng tàu hỏa trên quãng đường dài 333 km; rồi từ Lào Cai lên Sa
Pa bằng ô tô qua 38 km; sau đó từ Sa Pa đến đỉnh đèo Trạm Tôn hoặc ít phổ biến hơn là khu
74
du lịch Cát Cát bằng ô tô hoặc xe ôm. Tại đây có số người dân tộc Mông, Dao làm nghề cửu
vạn phục vụ khách leo núi đông nhất.
Thời gian tổng cộng của chuyến leo núi chỉ còn 3 ngày, thậm chí 2 ngày hoặc với những
người thành thạo và sức khỏe tốt thì có thể thực hiện trong một ngày. Nhưng hành trình phổ
biến nhất với khách du lịch là ba ngày. Thời điểm leo núi thích hợp là từ tháng 9 năm truớc
đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên đường lên Phan Xi Păng đẹp nhất là khoảng cuối tháng 2,
khi các loài hoa núi bắt đầu nở rộ. Du khách vừa chinh phục đỉnh núi lại vừa ngắm và trải
nghiệm sự rực rỡ của núi rừng Tây Bắc.
2.2.9.4. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Đền Hùng
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Tam Đảo
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Đền Hùng – Tam Đảo
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Sa Pa – Hà Khẩu – Yên Bái
- Tuyến du lịch: Hà Nội – Sa Pa – Yên Bái – Đền Hùng
b) Một số chương trình du lịch xuất phát từ Hà Nội (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Tam Đảo (2 ngày, 1 đêm, phương tiện vận chuyển ô
tô)
Ngày 1: Hà Nội - Tam Đảo
Sáng: Xuất phát đi Tam Đảo, nhận phòng nghỉ ngơi ăn trưa
Chiều: Tham quan thác Bạc, tháp truyền hình
Ngày 2: Tam Đảo – Hà Nội
Sáng: Tham quan đền Mẫu, Tây Thiên. Ăn trưa tại thị trấn Tam Đảo
Chiều: Về Hà Nội
Chương trình du lịch: Hà Nội – Lào Cai – Sa Pa – Hà Khẩu – Hà Nội (4 ngày, 3 đêm,
phương tiện vận chuyển ô tô)
Ngày 1: Hà Nội – Sa Pa
Sáng lên xe khởi hành đi Sa Pa, ăn trưa tại phố Ràng. Chiều tối, nhận phòng khách sạn
tại Sa Pa, ăn tối ngủ đêm tại Sa Pa
Ngày 2: Tham quan Sa Pa
Sáng: Tham quan núi Hàm Rồng, bản Cát Cát, ăn trưa tại thị trấn Sa Pa
Chiều: Tham quan Thác Bạc, Cầu Mây, động Tả Phìn, mua sắm tại chợ Sa Pa
Ăn tối và nghỉ đêm tại Sa Pa
Ngày 3: Sa Pa – TP. Lào Cai
Sáng: Xuất phát đi tham quan bản Tả Phìn. Lên xe về TP. Lào Cai ăn trưa.
Chiều: Tham quan và mua sắm tại Hà Khẩu – Trung Quốc. Ăn tối và nghỉ đêm tại TP.
Lào Cai
Ngày 4: TP. Lào Cai – Hà Nội
Sáng: Ăn sáng, trả phòng khách sạn, tham quan đền Thượng và đền Mẫu. Lên xe khởi
hành về Hà Nội. Ăn trưa tại thị trấn Phố Ràng.
Chiều: Về Hà Nội
76
CHƯƠNG 3: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH BẮC TRUNG BỘ
3.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH BẮC TRUNG BỘ
3.1.1. Vị trí địa lý
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ nằm ở vị trí trung gian của đất nước, gồm 6 tỉnh, thành phố:
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, và Đà Nẵng, với
diện tích 34.743km2, chiếm 10,5%; dân số 6.257,3 nghìn người, chiếm 7,3% dân số cả
nước. Phía bắc của vùng giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp với các tỉnh Bình Định, Gia
Lai và Kom Tum, phía tây giáp Lào, phía đông là Biển Đông.
Vùng nằm trên mảnh đất đầy biến động suốt chiều dài lịch sử của đất nước nên đã ảnh
hưởng sâu sắc đến cả tự nhiên, lịch sử và kinh tế - xã hội của vùng, với nhiều địa danh nổi
tiếng như sông Gianh (Quảng Bình) là chiến tuyến gần một thế kỷ trong suốt thời kỳ Trịnh -
Nguyễn phân tranh. Thực dân Pháp đã nổ súng đầu tiên ở cửa Hà (Đà Nẵng) mở màn cho
cuộc chiến tranh xâm lược ở nước ta. Sông Bến Hải là giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai
miền Nam - Bắc trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vì nằm ở vị trí trung tâm đất nước,
gần kề với núi và biển nên Huế đã được chọn làm thủ phủ Đàng trong dưới thời chúa
Nguyễn, kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và dưới thời các vua Nguyễn. Huế còn là
một trong những trung tâm Phật giáo của miền Trung và cả nước.
Từ thế kỷ IV, Mỹ Sơn đã là kinh đô của vương quốc Chămpa và Hội An là một trong
những thương cảng sầm uất của vương quốc Chămpa với tên Đại Chiêm Hải Khẩu.
Do dãy Hoành Sơn, Bạch Mã đâm ngang ra biển, trở thành ranh giới của khí hậu, tạo
nên sự khác biệt về khí hậu giữa phía Bắc và phía Nam, giữa các địa phương trong vùng. Ở
Huế có lượng mưa trung bình năm tới 2.800mm và có mùa đông lạnh, nhưng Đà Nẵng
lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 2.000mm và có khí hậu nóng quanh năm. Đây cũng
là một đặc điểm tạo nên sự khác biệt giữa các tỉnh trong vùng.
Nơi đây còn lưu giữ nhiều di sản (Hội An, thánh địa Mỹ Sơn), di tích lịch sử văn hoá và
hàng trăm ngôi chùa, đền, miếu. Bên cạnh đó, những địa danh một thời là chiến trường ác
liệt như đường 9 Khe Sanh, địa đạo Vĩnh Mốc, thành cổ Quảng Trị, Núi Thành, đường Hồ
Chí Minh; những danh thắng đã đi vào thơi ca, nhạc họa ngợi ca vẻ đẹp quê hương đất nước
như Đèo Ngang, Lăng Cô, Hải Vân, sông Hương, núi Ngự, Non Nước... Đây cũng chính là
tiềm năng du lịch quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ, rất thu hút khách du lịch trong
và ngoài nước.
3.1.2. Thống kê các điểm du lịch trong vùng
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên, là đối tượng tham
quan, nghỉ ngơi, thể thao tắm biển nghiên cứu khoa học, rất hấp dẫn du khách trong nước và
quốc tế. Một số các điểm du lịch, điểm tham quan quan trọng của vùng được thống kê chi
tiết trong phục lục 4: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
3.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ là vùng hiện nay có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
du lịch tương đối tốt. Toàn vùng có hệ thống cơ sở lưu trú, ăn uống, khu nghỉ dưỡng có chất
lượng cao. Trong đó, TP Huế, TP Đà Nẵng, Quảng Nam là những nơi có nhiều khách sạn
được xếp sao, nhiều nhà hàng sang trọng đáp ứng nhu cầu dịch vụ có chất lượng cao cho du
khách.
Về hệ thống cơ sở lưu trú, vùng có nhiều khách sạn và khu nghỉ dưỡng mới xây dựng có
chất lượng và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Những công trình này hầu như đều mới được xây dựng
nên còn mới. Hệ thống phòng khách sạn đạt chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của du
77
khách. Một số cơ sở lưu trú quan trọng và tiêu biểu của vùng được thống kê chi tiết trong
phục lục 5: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
Song song với việc xây dựng các khi nghỉ dưỡng, khách sạn cao cấp, vùng du lịch Bắc
Trung Bộ còn tập trung xây dựng các nhà hàng sang trọng nằm ngay trong khách sạn, khu
nghỉ dưỡng hoặc những nơi có địa hình đẹp, phục vụ nhu cầu ăn uống của khách du lịch và
người dân địa phương. Nét đặc trưng của hệ thống nhà hàng ở vùng du lịch Bắc Trung Bộ là
chuyên phục vụ các món ăn hải sản (đặc biệt là hải sản biển cao cấp). Ngoài ra, Huế cũng là
nơi có nghệ thuật ẩm thực đạt tới trình độ cao, nơi đây cũng là địa điểm thu hút khách du
lịch tới thưởng thức những món ăn hoàng cung. Một số nhà hàng quan trọng của vùng được
thống kê chi tiết trong phục lục 6: Một số nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung
Bộ.
3.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ là du lịch thể thao giải
trí, nghỉ dưỡng biển, tham quan các di tích văn hóa – lịch sử cách mạng, đặc biệt là các
Di sản văn hóa thế giới kết hợp với du lịch khám phá hang động.
- Du lịch thể thao giải trí, tham quan nghỉ dưỡng biển
+ Du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển
+ Du lịch khám phá biển đảo, cảnh quan biển
+ Nghỉ dưỡng chữa bệnh bằng nước khoáng
- Du lịch tham quan nghiên cứu di tích văn hóa – lịch sử
+ Tham quan di tích lịch sử cách mạng
+ Tham quan, nghiên cứu các di sản văn hóa (vật thể, phi vật thể)
- Du lịch khám phá hang động
- Du lịch hội nghị, hội thảo
3.2. Một số tuyến du lịch đang phát triển trong vùng
3.2.1. Tuyến du lịch Huế - Quảng Trị - Quảng Bình
3.2.1.1. Các điểm du lịch ở Huế
Thừa Thiên - Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam có tọa độ
ở 16-16,8 Bắc và 107,8-108,2 Đông, diện tích của tỉnh là 5.053,990 km², dân số là
1.087.579 người (2009). Thừa Thiên-Huế cách Hà Nội 654 km, Nha Trang 627 km
và Thành phố Hồ Chí Minh 1.071 km.
Thừa Thiên – Huế là tỉnh có sự đa dạng về cảnh quan, có nhiều phong cảnh đẹp, có vị
trí chiến lược và giao thương thuận tiện. Vì vậy, Huế có vị trí chiến lược trong lịch sử hình
thành và phát triển của Việt Nam. Nơi đây được chúa Nguyễn chọn là trấn phủ của Đàng
Trong, được vua Quang Trung chọn làm kinh đô của triều Nguyễn. Trong hơn 400 năm,
Huế đã là trung tâm chính trị, văn hóa của nhà nước phong kiến Việt Nam. Do đó, đến nay
tỉnh còn lưu giữ hàng trăm di tích lịch sử văn hóa như kinh thành, cung điện, lăng tẩm,
chùa… Hiện nay, Huế trở thành trung tâm du lịch, thu hút nhiều du khách trong và ngoài
nước.
a) Quần thể di tích cố đô Huế
Quần thể di tích cố đô Huế là những di tích lịch sử - văn hoá do triều Nguyễn chủ
trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trên địa
bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc
tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam. Quần thể di tích này đã được UNESCO công nhận là Di
78
sản Văn hoá Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993 về những giá trị văn hóa, nghệ thuật,
kiến trúc độc đáo. Những điểm tham quan chính bao gồm:
Kinh thành Huế
Kinh Thành Huế là tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều nhà
Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Kinh thành được vua Gia Long tiến hành
khảo sát từ năm1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều
vua Minh Mạng. Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía nam
giáp đường Trần Hưng Đạo và Lê Duẩn; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp
đườngTăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu.
Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam,
với diện tích mặt bằng 520 ha. Vòng thành có chu vi gần 10 km, cao 6,6m, dày 21m được
xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại
bác, kho đạn; thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây
gạch. Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài. Riêng hệ thống
sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường
thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An
Hòa, đoạn phía Đông là sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).
Thành có 10 cửa chính gồm: Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh
Thành); Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây); Cửa Chính Tây; Cửa Tây-Nam
(cửa Hữu, bên phải Kinh Thành); Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ
Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long); Cửa Quảng Đức; Cửa Thể Nhơn (tức cửa
Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông); Cửa
Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong
cửa); Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây); Cửa Đông-Bắc (còn
có tên cửa Kẻ Trài).
Ngoài ra Kinh Thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc
của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Môn. Hai cửa bằng
đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy
Quan và Tây Thành Thủy Quan. Chính giữa mặt trước thành có cột cờ, được gọi là Kỳ Đài.
Bên trong kinh thành là các công trình phục vụ cho đời sống của vua, các quan lại với
những công trình tiêu tiểu sau đây:
Hoàng Thành
Hoàng Thành là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các
cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử
Cấm Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được
gọi chung là Đại Nội.
Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh
Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình. Hoàng
Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày
1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía
Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu
và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối
xứng, trong đó trục chính giữ được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở
hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả
nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự
“tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).
79
Hoàng thành có diện tích 38h (ngoại trừ Tử Cấm Thành ở trong lòng Hoàng thành), mặt
bằng hoàng thành chia ra làm nhiều khu. Đó là các khu sau:
- Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào),
cầu và đài quan sát.
- Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình: Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành -
nơi tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa),lễ Ban Sóc (ban lịch
năm mới); Điện Thái Hòa - nơi cử hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 1
và 15 Âm lịch), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh... Đây là nơi diễn ra các lễ
đăng quang, khánh thọ, nguyên đán, duyệt binh….
- Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành
theo thứ tự từ trong ra gồm: Triệu Tổ Miếu ở bên trái thờ Nguyễn Kim; Thái Tổ Miếu thờ
các vị chúa Nguyễn; Hưng Tổ Miếu ở bên phải Nguyễn Phúc Luân; Thế Tổ Miếu thờ các vị
vua nhà Nguyễn.
- Khu vực dành cho Hoàng Thái Hậu, gồm hệ thống cung Trường Sanh (dành cho các
Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).
- Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn...
(phía sau, bên trái).
Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia
(phía trước vườn Cơ Hạ).
Tử Cấm Thành
Tử Cấm thành có vị trí sau lưng điện Thái Hòa, được khởi xây năm Gia Long thứ 3
(1804) ban đầu gọi là Cung thành, sau đó đến thời vua Minh Mạng được đổi tên thành Tử
Cấm Thành. Xét về bình diện, Tử Cấm thành là một hình chữ nhật có cạnh là 324 x
290,68m, chu vi là 1.229,36m, thành cao 3,72m, dày 0,72m xây hoàn toàn bằng gạch vồ.
Tử Cấm thành có 7 cửa: nam là Đại cung (Đại Cung môn) kết cấu hoàn toàn bằng gỗ,
lợp ngói hoàng lưu ly; đông là của Hưng Khánh và cửa Đông An, về sau lấp cửa Đông An,
mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đông Duyệt Thị Đường, ở mặt này cũng mở thêm cửa Cấm
Uyển nhưng rồi lại lấp; tây là cửa Gia Tường và Tây An; bắc là cửa Tường Loan và Nghi
Phụng (trước năm 1821 mang tên Tường Lân), dưới thời Bảo Đại, sau khi xây lầu Ngự Tiền
Văn Phòng mở thêm cửa Văn Phòng.
Bên trong Tử Cấm thành bao gồm hàng chục công trình kiến trúc với qui mô lớn nhỏ
khác nhau, phân chia làm nhiều khu vực. Đại Cung môn là cửa chính vào Tử Cấm thành
được xây vào năm 1833. Sau Đại Cung môn là một sân rộng rồi đến điện Cần Chánh, là nơi
vua làm việc và thiết triều. Cách bố trí, sắp đặt trong điện Cần Chánh cũng tương tự điện
Thái Hòa, gian giữa đặt ngai vua, tả hữu treo bản đồ thành trì các tỉnh.
Hai bên điện Cần Chánh có nhà Tả Vu, Hữu Vu là nơi các quan ngoài chờ và sửa sang,
chỉnh đốn quan phục trước khi thiết triều. Chái bắc Tả Từ Vu là viện Cơ Mật, chái nam là
phòng Nội Các, nơi đây tập trung phiến tấu của các Bộ, nha trình vua ngự lãm. Sau lưng
điện Cần Chánh trở về bắc là phần Nội Đình là khu vực ăn ở, sinh hoạt của vua và gia đình
cùng những người phục vụ. Điện Càn Thành là nơi vua ở, trước điện có cái sân rộng, ao sen
và bức bình phong chắn điện Càn Thành và điện Cần Chánh.
Cung Khôn Thái nằm ở phía bắc điện Càn Thành, bao gồm điện Khôn Thái, điện Trinh
Minh... là nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng Quí Phi và các phi tần mỹ nữ thuộc Nội Cung.
Nguyên dưới triều Gia Long tên là cung Khôn Đức, đến triều Minh Mạng thứ 14 (1833),
vua đổi tên là Khôn Thái.
Sau cung Khôn Thái là lầu Kiến Trung, trước đây là lầu Minh Viễn do Minh Mạng làm
năm 1827, lầu có 3 tầng cao 10.8m, lợp ngói hoàng lưu ly, trên lầu có kính viễn vọng để vua
80
quan sát cảnh từ xa. Năm Tự Đức thứ 29, lầu Minh Viễn bị triệt giải, đến năm 1913, vua
Duy Tân cho làm lại lầu khác theo kiểu mới gọi là lầu Du Cửu. Năm Khải Định thứ nhất
(1916), cải tên lại là lầu Kiến Trung.
Phần lớn các công trình kiến trúc trong Tử Cấm Thành vì nhiều lý do hiện nay đã không
còn nữa, chỉ còn lại Thái bình lâu, Duyệt thị đường đã được trùng tu phục hồi lại.
Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh được làm từ thời nhà Nguyễn, là chín đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế
miếu, trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông
năm1835 và khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837.
Lấy ý tưởng từ Cửu đỉnh của nhà Hạ ở Trung Quốc, vua Minh Mạng ban chỉ dụ cho Nội
các vào tháng 10 âm lịch năm Ất Mùi (1835), ra lệnh cho Nội các cùng bộ Công đôn đốc
công việc đúc Cửu Đỉnh. Tháng 5 âm lịch năm Bính Thân (1836), phần thô của chín đỉnh
đúc xong. Nhưng phải mất gần 8 tháng sau, Cửu Đỉnh mới được chính thức hoàn thành.
Buổi đại lễ diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 để đặt đỉnh ở sân Thế Miếu dưới sự chủ trì
của vua Minh Mạng. Trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương rồi chiến tranh Việt Nam, theo
đó là suy thoái của thời kỳ bao cấp (1945 - 1981), Cửu Đỉnh vẫn không dời chuyển và còn
nguyên vẹn tới ngày nay.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của
mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17 bức họa tiết và 1
bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí,...tập hợp thành
bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông,
tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người
đứng đầu thiên hạ. Do đó, số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu
Đỉnh cho triều đại mình : tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9.
Cửu Đỉnh có thể coi là một cuộc triển lãm những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế của
những nghệ nhân tài hoa, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước Đại
Nam và ước mơ triều đại mãi vững bền, hùng mạnh. Tất cả 162 mảng hình trên Cửu Đỉnh là
162 bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm
nổi đồ đồng của Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, là bách khoa thư về
cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ XIX.
Điện Long An (Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế)
Điện Long An được vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1845 ở bờ Bắc sông Ngự Hà
(gần cầu Vĩnh Lợi phường Tây Lộc). Hiện nay, điện Long An nằm trên đường Lê Trực,
phường Thuận Thành, thành phố Huế, tỉnhThừa Thiên - Huế.
Điện được xây dựng vào năm 1845, thời vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long An
trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc (Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ Tịch
điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới, nghỉ ngơi,
đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh,... Trong thời kỳ thất thủ kinh đô (1885), quân Pháp đã tràn
vào ngôi điện, làm mất đi sự tôn nghiêm của một nơi thờ phụng. Vì thế, sau biến cố này, bài
vị của vua Thiệu Trị được đưa vào thờ tại điện Phụng Tiên bên trong Đại Nội.
Sở dĩ ngôi điện ở vị trí hiện nay (số 3 Lê Trực, Huế) trong khu vực Thành nội, vì năm
1885, sau trận đánh úp đồn Mang Cá của Pháp do Tôn Thất Thuyết chỉ huy bị thất bại, vua
Hàm Nghi và tam cung chạy khỏi Hoàng Thành, ra Quảng Trị. Kinh thành Huế thất thủ,
quân Pháp chiếm cung Bảo Định làm sở chỉ huy, lục soát thô bạo điện Long An và tiếp đó
ngôi điện bị triệt hạ, vật dụng được xếp vào kho.
81
Cho đến năm 1909, đời vua Duy Tân, ngôi điện được chuyển ra vị trí mới hiện nay và
phục dựng làm Tân Thơ Viện lưu giữ hàng ngàn tư liệu bằng chữ Hán, Pháp, Anh,... chủ
yếu phục vụ cho học sinh trường Quốc Tử Giám. Ngày 24/8/1923, Khâm Sứ Trung kỳ và
vua Khải Ðịnh cùng ban sắc dùng Ðiện Long An làm Bảo tàng Khải Ðịnh. Hiện nay, điện
Long An còn gọi là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, là nơi trưng bày cổ vật cung đình
Huế.
Điện Long An có trang trí nội ngoại thất phong phú, giàu tính nghệ thuật, lộng lẫy và
thanh nhã, khéo léo điểm sáng những chi tiết chính, tô mờ những chỗ phụ là một công trình
kiến trúc độc đáo, mang đậm phong cách kiến trúc Nguyễn. Các sưu tập ở đây phong phú và
đa dạng, phần lớn tập trung vào mảng đề tài mỹ thuật thời Nguyễn (1802-1945), gồm sưu
tập y phục của hoàng gia, sưu tập đồ sứ, các đồ dùng trong sinh hoạt nơi cung cấm, những
bộ tranh vẽ trên gương có tuổi thọ trên 150 năm, những bộ nhạc khí dùng trong các cuộc lễ
hội chốn cung đình... Có lẽ, đây là bảo tàng duy nhất của Việt Nam hiện có một số lượng
hiện vật khổng lồ của thời Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Điện chứa đựng một bộ sưu tập khá phong phú và quý hiếm bởi số hiện vật được trưng
bày tại đây. Có những cổ vật chỉ còn duy nhất một bản và một số cổ vật thuộc hàng "độc"
như đầu hồ gắn liền với một trò chơi đã lui vào quá khứ. Ngoài ra, bảo tàng còn lưu giữ 80
hiện vật Chăm được sưu tầm từ vùng châu Ô, châu Lý và từ kinh đô Trà Kiệu sau cuộc khai
quật năm 1927. Đây là các cổ vật được các nhà nghiên cứu đánh giá là những di sản văn hóa
quý hiếm ở Việt Nam và trên thế giới.
b) Lăng tẩm Huế
Triều Nguyễn (1802 -1945) có đến 13 vị vua, nhưng vì những lý do khác nhau nên hiện
nay ở Huế chỉ còn 7 khu lăng tẩm. Đó là các lăng: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, Dục Đức, Đồng Khánh và Khải Định. Vị trí các lăng nằm ở phía tây kinh thành Huế.
Theo quan niệm phương Đông, vua là đấng chí tôn, được biểu trưng bằng hình ảnh Mặt trời.
Khi Mặt trời lặn về phía Tây nên đây là lý do vì sao các lăng được xây dựng ở phía Tây
kinh thành.
Theo quan niệm “tức vị trị lăng” nên phần lớn các lăng tẩm đều được xây dựng khi vua
còn ở trên ngai vàng. Các khu lăng tẩm đều được thiết kế xây dựng tuân theo quy luật
phong thủy. Một số lăng tẩm có kiến trúc và giá trị nghệ thuật tiêu biểu là:
Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng, nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng
là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách
TP Huế 12 km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn
thành.
Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc
là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu,
nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ
Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính
Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích
18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao
bọc.
Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9
m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá
chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng
chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải
qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
82
Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai
hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên
Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn bia
của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng sân rộng tiếp theo
chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh
mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.
Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình
vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được
coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau)
như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng
hậu.
Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của
hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng
lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô
biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm
mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ
Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi từ
quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát,
là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là “bộ
ngực kiêu hãnh” của “con người” được ví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể
hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai
tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau
là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình
thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.
Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của
thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố
“Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm
của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.
Cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp đẫn vào nơi
yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn
bởi Bửu Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng,
được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện
khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.
Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện
nay, các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần
Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên
Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.
Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có
gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh
Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt
Nam đầu thế kỷ XIX.
Lăng Khải Định
Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng) là lăng mộ của vua Khải Định (1885-1925), vị
vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài
kinh thành Huế. Lăng được xây dựng năm 1920 và hoàn thành năm 1931.
83
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều,
với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để
xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho
thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.
Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc
truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng... tạo
ra từ phong cách kiến trúc.
Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập
của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... đã để lại
dấu ấn trên những công trình cụ thể: Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn
Độ; Trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo; Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu;
Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể... Điều này là kết
quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá
tính của Khải Định.
Phần quan trọng nhất trong lăng là Cung Thiên Định. Cung này ở vị trí cao nhất là kiến
trúc chính của lăng, được xây dựng công phu và tinh xảo. Toàn bộ nội thất trong cung đều
được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý,
bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện... kể cả những vật dụng rất hiện đại như đồng
hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa... cũng được trang trí nơi đây. Công trình này gồm 5
phần liền nhau: Hai bên là Tả, Hữu Trực Phòng dành cho lính hộ lăng; Phía trước là
điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định; Chính giữa là bửu tán, pho
tượng nhà vua ở trên và mộ phần phía dưới;Trong cùng là khám thờ bài vị của vua.
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2
người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi
hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía
sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng
Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa “Cửu long ẩn vân” lớn
vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
c) Một số di tích lịch sử văn hóa khác ở Huế
Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê,
tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây.
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn
Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Dưới thời chúa Quốc-Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được
xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới
trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa
Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện
Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền...
mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài
văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở
đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng
Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công
lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng
một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.
84
Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở
thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã
từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm1788), rồi được trùng tu tái
thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao
21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có
thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây
có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân
(bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi
gió thổi).
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình
Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho
xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ
giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và
một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước
Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa
Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về
nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam
Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son
của chùa Thiên Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày.
Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô -
di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối
chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng
của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp
đời.
d) Nghệ thuật ẩm thực Huế
Một trong những đặc trưng văn hóa của xứ Huế là những giá trị văn hóa ẩm thực mang
màu sắc dân tộc. Đối với người Huế, cách chế biến món ăn và phong cách thẩm mỹ được
coi là nghệ thuật ẩm thực. Nó không chỉ dừng lại ở giá trị ẩm thực đơn thuần mà đã vươn tới
đỉnh cao của nếp sống văn hóa cổ truyền, đầy ắp triết lý sâu xa. Chính vì vậy nên món ăn
Huế đã trở thành danh tiếng, định hình như một chuẩn mực về công nghệ chế biến và phong
cách thưởng thức món ăn, không gian và thời gian ăn uống. Một số món ăn nổi tiếng của
người Huế:
Tôm chua Huế
Tôm chua, một trong những đặc sản của đất Cố đô. Khách phương xa lần đầu đến Huế,
khi được mời ngồi vào bàn ăn, nhác thấy chủ nhà dọn tôm chua ra, ắt không tránh khỏi cảm
giác bỡ ngỡ. Cái bỡ ngỡ trước tiên là không hiểu những con tôm được chế biến theo kiểu gì,
bởi thoạt nhìn, thấy chúng tươi lắm, tươi đến độ làm ta nhầm những con tôm mới được nấu
tức thì trong bếp. Khi biết đó là tôm chua, khách sẽ còn lúng túng hơn, bởi không hiểu sẽ ăn
như thế nào.
Tôm chua đúng "điệu" (hay nghệ thuật làm tôm chua) phải được làm từ những con tôm
nước lợ thật tươi, nhất là tôm từ Cầu Hai đưa lên thì tuyệt. Chọn những con tôm đều nhau
và tương đối to. Tôm được ngắt đầu, rửa sạch, ngâm một lát trong rượu. Sau đó vớt ra để
ráo, trộn đều với các thứ phụ gia: riềng, tỏi, ớt đỏ, măng non, xôi nếp, nước mắm ngon.
85
Trong các thứ phụ gia thì riềng đóng vai trò quan trọng nhất nên phải dùng nhiều hơn cả.
Tỏi to thái mỏng, ớt thái vát dài và mỏng, riêng và măng thái thành sợi mảnh. Tôm được ủ
tốt nhất là trong vại sành. Khi nào chín đem ra trộn với một ít mật ong. Có thể gia tăng thêm
ít riềng rồi đóng vào các lọ thuỷ tinh hoặc lọ nhựa. Như vậy trong một lọ tôm chua ta thấy
đủ các sắc màu: trắng, vàng, hồng, đỏ; đủ các vị: ngọt, béo, bùi, cay, chua, đắng, vừa nóng
lại vừa mát, nghĩa là vừa có dương, vừa có âm. Tất cả hoà trộn tạo nên một mùi thơm đầy
quyến rũ. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 7-10 ngày, để trong phòng sạch sẽ, thoáng mát hoặc
được chôn xuống đất.
Thưởng thức tôm chua phải có 3 thứ cơ bản đi liền nhau: thịt heo phay (ba chỉ) thái
mỏng-tôm chua-dưa giá. Ngoài ra còn có quả vả hoặc chuối chát, khế chua thái mỏng cùng
rau quế, ớt tươi. Thêm một phần nữa các sắc màu lại hoà trộn trong lúc ăn; âm dương lại
giao hoà. Cảm giác ngon miệng bắt đầu từ màu sắc. Rồi được lan toả từ cái béo ngậy của
thịt; ngọt, bùi, chua thơm của tôm; vừa cay, vừa nóng, vừa thơm của riềng, ớt, tỏi; cái chua
dìu dịu của dưa giá; vị chát của vả, vị chua thanh của khế, rồi còn mùi thơm rau quế, tạo nên
cái cảm giác chỉ ăn một lần mà rồi nhớ mãi không quên.
Cơm hến Huế
Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Từ những nguyên liệu đơn giản, người Huế đã
chế biến thành món ăn cầu kỳ, tao nhã, nổi tiếng.
Hến ở Huế ngon nhất là hến Cồn. Sau khi lấy về, hến được ngâm nước gạo một thời
gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến mở vỏ. Lấy nước luộc sau khi
đã để lắng, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến.
Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra thì cũng không thể thiếu các
loại gia vị đi kèm. Các phần khác gồm có: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, bạc hà
(dọc mùng), bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối mè, ớt tượng, tóp mỡ,
da heo phơi khô chiên phồng, mắm ruốc sống, đậu phộng rang vàng nguyên hạt, ớt bột tao
dầu. Tất cả đều để nguội. Duy có nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được
trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật
cay mới đúng vị; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (tức là không chan
nước hến khi ăn).
Trước đây, cơm hến đặc trưng bởi vị cay đến chảy nước mắt. Song, món cơm hến mà
chúng ta ăn ở Cồn Hến bây giờ không cay. Bù lại, trên bàn có đủ loại thức cay: tương ớt, ớt
xắt lát, ớt dằm, ớt tươi, ớt khô, ớt hiểm... để tùy du khách thưởng thức theo gia vị riêng. Tuy
không cay cùng cay cực như món cơm hến được những người yêu Huế mô tả, nhưng bạn
yên tâm, đó vẫn là cơm hến.
Mỗi suất cơm hến luôn kèm 1 bát nước hến màu trắng đục nghi ngút khói. Có người
chan ngay nước hến vô tô cơm. Người khác thì húp cái roạt rồi gật gù: "Ngọt! Ngọt thật!".
Sự cộng hưởng của các gia vị trong cơm hến sẽ đưa mùi thơm dâng lên mũi, vị ngọt thấm
vào đầu lưỡi, chất béo lan trong miệng... Cứ thế, không chỉ ăn mà bạn sẽ được thưởng thức
hương vị của từng sản phẩm. Mọi tế bào của khứu giác, xúc giác, vị giác đang cộng hưởng,
tạo nên một cảm giác đặc biệt thật khó quên.
e) Một số bãi biển và danh thắng ở Huế
Bãi biển Thuận An
Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An, nơi dòng sông Hương đổ ra phá
Tam Giang rồi thông ra biển. Bãi biển chỉ cách thành phố Huế 15 km và du khách có thể đi
đến đó bằng ô tô.
Du khách có thể đến Thuận An bằng đường bộ qua những xóm làng trù phú, cây trái um
sùm, những cánh đồng lúa bát ngát. Hoặc có thể xuôi theo dòng sông Hương Giang lướt qua
86
những cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, diễm lệ ở đoạn cuối con sông. Đặt chân đến đây, du
khách sẽ không khỏi thán phục về vẻ đẹp của một vùng trời, biển đặc biệt là khi bình minh
lên. Khi mặt trời ló rạng, những tia nắng như được đánh thức sau một giấc ngủ dài, oằn
mình vươn vai bên sương muối mịt mờ của sóng biển tạo nên bức tranh không gian ba
chiều.
Biển Thuận An vẫn giữ được nguyên vẻ đẹp với làn nước biển trong vắt, bờ cát trắng
thoai thoải trải dài, sạch sẽ. Có hai điều khiến du khách thấy khá lạ ở đây là : bãi cát sạch
tinh không có vỏ ốc và nước biển có vị mằn mặn hơn bình thường. Suốt từ sáng đến 3h
chiều nước biển có màu xanh ngắt và bãi cát trắng lóng lánh tạo nên một bức tranh thiên
nhiên tuyệt đẹp, hiếm có .Bãi biển Thuận An kéo dài gần 1km, cát trắng mịn màng. Hoạt
động náo nhiệt nhất ở Thuận An là vào mùa tắm biển từ tháng 4 đến tháng 9.
Biển Thuận An mang nét bí ẩn như tính cách người Huế thêm một chút hoang sơ do
dịch vụ du lịch chưa phát triển. Bạn có thể lang thang dọc bờ biển đêm, hoặc thưởng thức
hương vị rượu nếp làng Chuồn, những món hải sản tươi nguyên như tôm, sò huyết,
mực…nướng trên bếp than thơm lừng tại bãi biển và các món ăn truyền thống của người
dân địa phương như bánh lộc, bánh nậm. …..
Du khách không những chỉ bị Thuận An hút về bãi tắm mà có bị hút bởi sự đam mê về
tâm linh. Ở đây có miếu Thái Dương với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết
lòng sùng kính; thăm miếu thờ thần cá voi, con vật linh thiêng cùa cư dân miền biển. Tích
xưa kể rằng, một hôm bỗng có một khối đá dạt vào bờ biển Thuận An. Bởi là một khối đá
nên không ai quan tâm. Vào một đêm, chàng ngư dân đi biển về mệt quá nằm lên trên khối
đá ấy ngủ. Đêm ấy, chàng nằm mơ có người đàn bà hỏi rằng: “Sao ngươi lại nằm trên mình
ta mà ngủ?” Chàng hỏi lại: “Nàng là ai?”, nàng đáp: “Ta là Thai Dương phu nhân người
nước Nhật Bản, bị bão, chết chìm dạt vào đây”. Thương cảm, dân Thuận An lập miếu thờ.
Từ đó, Thai Dương phu nhân phù hộ dân Thuận An làm ăn phát đạt. Năm ấy trời hạn hán dữ
quá, lo mất mùa, nhà vua xuống cúng xin Thai Dương phu nhân giúp đỡ. Trời đổ cơn mưa
lớn. Dân không mất mùa nữa. Ngay năm ấy, nhà vua cho xây đền thờ Thai Dương phu
nhân.
Gần cửa biển có thành cổ Trấn Hải, hình tròn, chu vi 285 m, có hào bao quanh. Trên
thành có 99 ụ súng, có đài và lầu Quan Hải và đình Thái Dương có quy mô lớn, tường và
cột trụ đều khảm sành sứ.Vào ngày 11,12 tháng Giêng, Thuận An diễn ra lễ hội “ Lễ Cầu
Ngư” tại sân đình Thái Dương rồi rước qua bãi biển Thuận An theo hướng đập đá Vĩ
Dạ. Ngày hội thì khỏi phải nói, ngư dân các nơi đổ về nườm nượp, cờ xí ngợp trời. Khói
hương nghi ngút. Ai cũng lên thắp một nén hương xin được thủy thần phù hộ, che chở.
Đèo Hải Vân
Trên con đường xuyên Việt ra Bắc vào Nam, Hải Vân luôn luôn là một địa danh ấn
tượng. Đây là đèo cao nhất trong các đèo ở Việt Nam (khoảng 500m so với mực nước biển),
đầy hiểm trở và cũng là đỉnh núi cuối cùng của một mạch Trường Sơn đâm ngang ra biển.
Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc
từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
Hơn 6 thế kỷ trước, vùng đất này thuộc về 2 châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa, được
vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân đời Trần. Hiện nay,
đèo Hải Vân là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng.
Ngay trên đỉnh dèo, dấu vết tiền nhân vẫn còn để lại: những cửa đèo và thành lũy đắp
ngang. Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ: Hải Vân Quan, cửa trông xuống Quảng
Nam đề Thiên hạ đệ nhất hùng quan (đây là từ đề tặng của vua Lê Thánh Tôn khi dừng chân
ngắm cảnh nơi này). Thật vậy, từ Nam chí Bắc, không có nơi nào đèo cao chênh vênh, cảnh
đẹp lung linh, huyền ảo như Hải Vân. Đường đèo quanh co, khúc khuỷu men theo triền núi,
87
uốn lượn như dãi lụa vắt ngang giữa trời mây. Chỉ căn cứ vào tên gọi, cũng đủ hình dung
Hải Vân là thế giới của gió và mây. Gió như đàn ngựa giong ruổi dặm trường, mây như từ
trên trời tuôn xuống. Bước chân người đến đây như lạc vào cõi nào khác lạ, huyền ảo khói
sương. Cao Bá Quát, một nhà thơ một đời chỉ biết lạy hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái hoa
mai) cũng đã phải sững sờ: Nhất bích ngưng vi giới, Trùng vân nhiễu tác thành (Biếc một
dãi làm mốc, Mây muôn trùng dựng thành). Cũng từ đây, vào những ngày đẹp trời, du
khách có thể thấy rõ toàn cảnh thành phố Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa - Bán đảo Sơn Trà, Cù
Lao Chàm... và những bãi cát vàng chạy dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.
Những gì thiên nhiên ban tặng, qua thời gian và qua bàn tay con người, sẽ trở thành
những giá trị nhân văn. Đến Hải Vân là đến với nơi giao thoa giữa hai vùng đất, là thỏa mãn
tâm lý chiếm lĩnh đỉnh cao, hòa mình trong âm vọng sử thi của bao dấu chân người Việt xưa
đi mở cõi, bồi hồi thương nhớ quá khứ thẳm sâu của một khúc ruột miền Trung.
3.2.1.2. Các điểm du lịch ở Quảng Bình
Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, có diện tích tự
nhiên là 8.065,27 km. Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất
hình chữ S của Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông).
Tỉnh này giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng
Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là
tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên.
Tỉnh có di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng. Đây là nơi có phong cảnh
đẹp, sự đa dạng sinh học cao, có giá trị về khoa học. Tỉnh có nhiều bãi biển đẹp như Đá
Nhảy, Nhật Lệ, các danh thắng như đèo Ngang… rất hấp dẫn du khách. Một số những điểm
tham quan du lịch nổi tiếng như sau:
a) Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
VQG Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trong khu vực tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. VQG này
có hệ thống hang động đá vôi phức tạp cũng như hệ sinh thái đa dạng. Năm 2003, vườn
quốc gia này được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở
một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ
Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích
vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. VQG được thiết
lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo
tồn hệ sinh thái bắcTrường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ.
Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm
và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang
động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh
và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở
khu vực Kẻ Bàng.
Thực vật trên núi đá vôi, dạng thực vật điển hình tại VQG Phong Nha-Kẻ Bàng là một
bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn. Cho đến nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là
rừng thường xanh ẩm, rậm nhiệt đới trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2%
diện tích khu vườn quốc gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7%
(110.476 ha) khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao
dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên
800 m; 8,3% (12.220 ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất núi đất có cao độ dưới 800 m, 1,3%
(1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950 ha) là cỏ, bụi cây và cây rải
rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa và mây song; thảm cây nông nghiệp 521 ha.
88
Ở VQG này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên đỉnh núi đá vôi có diện
tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở
vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3
loài bách xanh đã được nhận diện. Đây là quần thể bách xanh núi đá (Calocedrus rupestris)
lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định tại công văn số
3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho nghị định 48 của Chính phủ,
thuộc nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác.
Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú thuộc 31 họ và 10 bộ, nổi bật
nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có ít nhất 43 loài
nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư
(18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài bướm; 72 loài cá,
trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt
Nam. Linh trưởng có 10 loài linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng
ởViệt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang.
Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn
quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới.
Động Phong Nha – Kẻ Bàng
Thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách
thành phố Đồng Hới 50km về phía tây bắc, động Phong Nha được coi là "Thiên Nam đệ
nhất động" của Việt Nam, được che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới. Đây là một trong
những niềm tự hào của người dân Quảng Bình và là một điểm tham quan kỳ thú hấp dẫn du
khách.
Động Phong Nha, dài 7.729 mét, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 mét mới
lung linh kỳ ảo và rực rỡ nhất. Cửa động cao khoảng 10 mét, rộng 25 mét. Từ phía trên, nhũ
đá nhỏ xuống trông như những giọt sương khổng lồ đang tan chảy…
Hang động Phong Nha được biết đến từ thế kỷ X, khi người Chăm đã đến đây, lập bàn
thờ và viết bia. Hiện nay, còn có 97 chữ Chăm cổ trong hang và hang đó được gọi là hang
Bi ký. Đến năm 1898, một người Pháp có tên là Hangry Cadie đã đến thám hiểm động
Phong Nha đi sâu được 600m. Sau này, người Anh và các nhà khoa học của trường ĐH
Quốc gia đã nghiên cứu, khám phá các hang động.
Động Phong Nha có hai phần: động khô và động nước. Động khô nằm ở độ cao 200m,
theo các nhà địa lý học, từ xa xưa dòng sông ngầm đã cạn nước, chỉ còn lại những vòm đá
trắng và cột đá xanh ngọc bích. Các thạch nhũ trong động Phong Nha trải qua hàng triệu
năm kiến tạo từ đá vôi dạng karst, bị nước mưa thẩm thấu, hoà tan và chảy xuống từ nóc
hang tạo thành những nhũ đá vô cùng lạ mắt như sư tử, ngai vàng, Đức Phật... Nước mưa
tiếp tục rơi xuống đáy hang, kết canxi tạo ra măng đá. Những phiến đá, măng đá, nhũ đá,
sông ngầm muôn hình muôn vẻ lung linh kỳ vĩ. Dường như Phong Nha là nơi hội tụ tất cả
vẻ đẹp hoàn mỹ nhất của thiên nhiên và là nơi trí tưởng tượng được thăng hoa nhất.
Vào tháng 4 - 1997, một cuộc hội thảo khoa học về di tích danh thắng Phong Nha -
Xuân Sơn được tổ chức tại Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu khảo sát cho biết Phong Nha
có 7 cái nhất:
1. Hang nước dài nhất (Hang Vòm-28km)
2. Cửa hang cao và rộng nhất
3. Bãi cát và đá rộng đẹp nhất
4. Hồ ngầm đẹp nhất
5. Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất
6. Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam (13.969 m)
89
7. Hang khô rộng và đẹp nhất.
Cho đến nay, các nhà khoa học đã khảo sát 44,5 km hang động nhưng du khách bình
thường chỉ có thể vào được 1500 m. Hệ thống động Phong Nha có các hang động đáng chú
ý sau:
Hệ thống hang động bao gồm:
Hang Tối: nằm trên thượng lưu sông Son. Hang này có chiều dài 5.258 m và cao 83
m,dài 736 m.
Hang Chà An: dài 667 m và cao 15 m.
Hang Thung: có sông ngầm dài 3351 m.
Hang Én: dài 1645 m và cao 78,6 m, có bãi cát bên trong, là nơi sinh sống của én.
Hang Khe Tiên: tọa lạc phía nam Phong Nha, dài 520 m.
Hang Khe Ry: tọa lạc ở phía nam Phong Nha.
Hang Khe Thi.
Hệ thống động Vòm:
Hang Vòm: dài 15,05 km và cao 145 m có nhiều thạch nhũ và măng đá đẹp.
Hang Đai Cao: dài 1645 m và cao 28 m.
Hang Duột: dài 3,927 m và cao 45 m, có bãi cát mịn.
Hang Cá: dài 1.500 m cao 62 m.
Hang Hổ: dài 1.616 m và cao 46 m
Hang Over: dài 3.244 m và cao 103 vời chiều rộng trong khoảng 30–50 m.
Hang Pygmy: dài 845 m.
Hang Rục Caroòng: nơi sinh sống của người thiểu số Arem. Họ sống trong hang động
và săn bắn hái lượm tự nhiên.
Động Tiên Sơn
Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong Nha-Kẻ
Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng 1.000 m, ở độ cao so
với mực nước biển khoảng 200m. Động Tiên Sơn có chiều dài là 980 m. Từ cửa động đi vào
khoảng 400m có một vực sâu chừng 10m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500
m, khá nguy hiểm nên du khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới
khoảng cách 400m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư
dân địa phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó. Sau này động
Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động nước.
Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động
Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ các phiến đá và cột đá khi được
gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Động được hình thành cách đây
hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi
Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ
xuống khiến các khối đá đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên.
Còn phần có sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha.
Hang Sơn Đoòng
Sơn Động hay Sơn Đoòng là một trong những hang mới nhất được phát hiện tại khu
vực Phong Nha-Kẻ Bang. Hang này do nhóm thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng
gia Anh tiến hành thám hiểm. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang
lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m. Với kích thước này,
90
hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn
gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Do dòng nước của sông ngầm ở
động này chảy xiết nên các nhà thám hiểm Anh không thể thám hiểm hết động này. Họ đã
ước lượng chiều dài của hang bằng cách sử dụng đèn nháy. Đoàn thám hiểm đã báo cáo
chính quyền tỉnh Quảng Bình về phát hiện này nhưng cho rằng chưa thể khai thác du lịch
ngay. Họ sẽ quay lại khám phá hang này vào năm 2011. Trên thực tế, một người dân địa
phương tên là Hồ Khanh đã phát hiện ra hang này năm 1991 nhưng ông không nhớ lối vào
hang cho đến tháng 1 năm 2008. Từ cuối tháng 3 đến 11 tháng 4 năm 2009, ông đã giúp
đoàn thám hiểm Anh vượt rừng, núi khoảng 10 km để đến cửa hang.
Phong Nha không giống như những điểm du lịch khác ở Việt Nam, động nằm trong khu
rừng nguyên sinh Kẻ Bàng dường như còn nguyên sơ và tinh khôi. Trong con mắt của
những vị du khách du lịch, những cư dân bản địa nơi đây mang một phong cách rất riêng.
Bởi vì đây là khu vực cư trú của các tộc người Chứt gồm các nhóm: Sánh, Mày, Rục, Arem
và Vân Kiều. Họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa, đặc sắc riêng. Một số tộc người có dân số ít
nên đây là một trong những đặc trưng tiêu biểu hấp dẫn khách du lịch.
Một số tuyến tham quan quan trọng trong VQG Phong Nha – Kẻ Bàng
- Động Phong Nha và động Tiên Sơn. Tour vào động Phong Nha có bổ sung tour khám
phá mạo hiểm hang động sâu hơn. Giá vé được quy định bởi tỉnh Quảng Bình theo bảng giá
vé. Mỗi thuyền chỉ chở tối đa 14 người và tối thiểu là 1 người. Tất cả các thuyền đều được
điều phối bởi trung tâm du lịch văn hóa- sinh thái Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng
nên không có hiện tượng cò mồi, phe vé hoặc lừa đảo du khách.
- Trung tâm du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng cho khách khám phá 1.500m chiều sâu bí ẩn
của động Phong Nha. Với đèn pin đội đầu, các thiết bị chuyên dụng, thuyền kayak hay độc
mộc, du khách trở thành những nhà thám hiểm chuyên nghiệp để đi vào sông ngầm trong
động Phong Nha.
- Động Thiên Đường, 70 km về phía tây bắc Đồng Hới, đi theo nhánh tây đường Hồ Chí
Minh. Thời gian tham quan 3-4 tiếng, giá vé tham quan 120.000 đồng/người/lượt.
Chày Lập homestay.
- Tour sinh thái suối Nước Moọc, mỗi người lớn 50.000 VNĐ/ người/ lượt.; học sinh/
sinh viên: 30.000 VNĐ/ người/ lượt, trẻ em dưới 6 tuổi được miễn vé.
- Khám phá thiên nhiên thung lũng Sinh Tồn - hang Thủy Cung. Khám phá thung lũng
và hang Thủy Cung với màu nước xanh ngắt, nằm trong lòng núi đá vôi giữa khu rừng rậm
này.
- Tour khám phá hang Sơn Đoòng: Tour này không thể tự đi, phải đi theo nhóm có
hướng dẫn viên, chi phí mỗi người 3000 đô la Mỹ, thời gian khoảng 1 tuần, đăng ký tại
Công ty Oxalis
3.2.1.3. Các điểm du lịch ở Quảng Trị
Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh có khu
phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam, do đó cũng là
một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 -
1975). Tỉnh có phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía
tây giáp với nước Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành
phố Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành
phố Hồ Chí Minh.
Quảng Trị có nhiều công trình kiến trúc lịch sử văn hóa được bảo tồn như thành cổ
Quảng Trị, văn hóa Chăm… Nơi đây cũng là địa bàn có nhiều di tích lịch sử cách mạng
nhất nước ta như cầu Hiền Lương, địa đạo Vĩnh Mốc, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn… Đây
91
là những di tích lịch sử quan trọng, tạo nên những tuyến điểm du lịch đặc trưng của tỉnh.
Một số các điểm tham quan quan trọng sau đây:
a) Sông Bến Hải – Cầu Hiền Lương
Sông Bến Hải
Sông Bến Hải bắt nguồn từ núi Động Chân thuộc dãy Trường Sơn và chảy dọc theo vĩ
tuyến 17 từ Tây sang Đông rồi đổ ra cửa Biển Cửa Tùng. Sông Bến Hải có tổng chiều dài
gần 100 km, nơi rộng nhất khoảng 200m, nơi hẹp nhất khoảng 20 -30m, là ranh giới giữa
hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của tỉnh Quảng Trị.
Sông Bến Hải lúc đầu có tên Minh Lương. Vào thời vua Minh Mạng do trùng với chữ
“Minh” phạm phải kiêng húy tên của Vua (chữ “Húy” đồng ngĩa với “Kỵ” tức là kiêng kỵ ,
theo luật phong kiến trong phạm vi quốc gia mọi thần dân kiêng kị tên huý của vua không
được phép dùng để đặt tên cho con cái trong gia đình… cũng như không được phép dùng
trong văn tự hay trong lời nói hàng ngày). Do vậy tên làng, tên sông đều đổi thành Hiền
Lương. Sông Bến Hải cũng còn được gọi là sông “Bến Hói”, tiếng địa phương “hói” có
nghĩa là dòng sông nhỏ, từ Bến Hói đọc lệch ra là Bến Hải.
Đến năm 1954 Hiệp định Giơnevơ ký kết quy định lấy vĩ tuyến 17 sông Bến Hải làm
giới tuyến quân sự tạm thời; sau hai năm sẽ thực hiện cuộc Tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước Việt Nam (quy định vào tháng 7/1956). Trong tuyên bố chung của Hội nghị Giơnevơ
1954 ghi rõ: "Đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như là
một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ".
Đế quốc Mỹ với âm mưu từ trước đã ra sức thực hiện ý đồ độc chiếm miền Nam Việt
Nam, nhằm tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương. Mỹ đã hất cẳng pháp khỏi miền nam Việt
Nam, ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt
Nam. Cả dân tộc ta phải thực hiện một cuộc trường chinh kéo dài hơn 20 năm chia cắt.
Một dòng sông rộng không quá 100 mét, một chiếc cầu dài 178 mét, với 894 tấm ván
bắc qua mà dân tộc Việt Nam phải đi suốt 21 năm ròng, đổi không biết bao xương máu của
hàng vạn cán bộ chiến sĩ và đồng bào ta đã ngã xuống. Có những trận chiến ác liệt với bom
đạn, và cũng có những trận chiến ác liệt nhưng không một tiếng súng. Những cuộc đấu trí,
đấu lý rất gay gắt và quyết liệt giữ ta và Địch bên lề giới tuyến 17. Đến cuối cùng, quân và
dân Việt Nam đã giành thắng lợi.
Cầu Hiền Lương
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Thời kỳ chiến tranh, cầu Hiền Lương là ranh giới chia cắt Việt
Nam thành hai quốc gia (trong suốt 21 năm, từ năm1954 đến năm 1975). Còn ngày nay nó
đã trở thành biểu tượng của "nỗi đau chia cắt".
Trước khi chưa có cầu bắc qua sông Bến Hải, đoạn sông rộng chưa đầy 100m này chỉ
có một bến phà. Cầu Hiền Lương đầu tiên được xây dựng năm 1928 do phủ Vĩnh Linh huy
động nhân dân trong vùng đóng góp công sức xây dựng. Cây cầu này được làm bằng gỗ,
đóng cọc sắt, rộng 2m, trọng tải chỉ đủ cho người đi bộ. Năm 1931, cây cầu này được thực
dân Pháp sửa chữa lại nhưng xe cộ muốn qua sông thì vẫn phải đi bằng phà. Đến
năm 1943, cầu được nâng cấp thêm một lần nữa, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua
được.
Năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp đã cho xây lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài
162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Cây cầu này tồn tại được hai năm thì bị du kích Việt
Minh đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của địch. Tháng 5, năm 1952 thực dân
Pháp xây lại một chiếc cầu mới gồm 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu
bằng thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải cầu tối
92
đa là 18 tấn. Cầu Hiền Lương là biểu tượng trực tiếp của sự chia cắt Bắc – Nam. Đáng lẽ
theo lệ thường, cầu làm chức năng nối liền giữa hai miền Nam – Bắc thì chiếc cầu lại là
chứng tích của sự chia cắt. Cầu tồn tại trong 15 năm (1952 - 1967) thì bị quan đội Mỹ ném
bom đánh sập.
Trong suốt 15 năm tồn tại, mặc dù cầu Hiền Lương bắc qua sông nhưng không có ai
được qua lại để thăm viếng người thân. Chỉ có lực lượng quân đội được bước qua để làm
nhiệm vụ trực ban. Chỉ từ năm 1972 đến 1974, để phục vụ chiến trường miền Nam, công
binh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã bắc chiếc cầu phao dã chiến cách cầu cũ
20m về phía Tây. Đến năm 1974, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây
dựng lại bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang cho người đi bộ rộng 1,2m.
Chính chiếc cầu này mang trong mình ý nghĩa như “Chiếc cầu thống nhất đất nước”.
Đến sau này, khi đất nước tái thống nhất, một chiếc cầu mới bắc qua sông Hiền Lương
được xây dựng lại. Lúc này, chiếc cầu đã làm đúng chức năng của nó là nối liền hai miền
Bắc – Nam của nước ta lại. Do đó, nó mang trong mình ý nghĩa là chiếc cầu thống nhất
giống như những năm gần ngày giải phóng đất nước.
b) Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Nghĩa trang được xây dựng tại khu vực Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc địa phận
xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách thành phố Đông Hà, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng
Trị khoảng 38 km về phía tây bắc. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn là nơi quy tập phần mộ
các liệt sĩ trên tuyến đường Trường Sơn, bao gồm: các thanh niên xung phong, bộ đội, dân
công hỏa tuyến, những người đã xây dựng và chiến đấu bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh
trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước trong những năm chiến tranh thống nhất đất nước.
Nghĩa trang được xây dựng từ ngày 24/10/1975 và hoàn thành ngày 10/4/1977, đây là
nghĩa trang có quy mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống đa
phần nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam. Đây là khu an nghỉ của 10.333 anh hùng liệt sĩ.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1999 nhân kỉ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn.
Chính phủ nhà nước quyết định nâng cấp và tân trang khu liệt sĩ để một phần nào thể hiện
lòng biết ơn đối với những người đã khuất, đã hy sinh vì đồng bào tổ quốc.
Nghĩa trang có diện tích 140.000m², nằm trên 3 quả đồi ở cạnh thượng nguồn sông Bến
Hải, ranh giới cắt chia hai miền Bắc - Nam thời kháng chiến chống Mỹ. Đây là nơi Bộ tư
lệnh Binh đoàn Trường Sơn đã chọn. Đây là một trong 72 nghĩa trang liệt sỹ của tỉnh Quảng
Trị. Các phần mộ được chia thành 10 khu vực theo địa phương: Hà Nội, Bình Trị Thiên, Hà
Nam Ninh, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Bắc, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng
Ninh, Vĩnh Phú, Hải Phòng, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tiên... nơi liệt sĩ sinh ra và một
khu dành cho 68 liệt sĩ khuyết danh. Các phần mộ được xây kiên cố, có sơ đồ mộ chí, được
21 quản trang trông nom, giữ gìn chu đáo.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các anh hung liệt
sĩ mà còn là nơi suy tôn, là biể tượng sang ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh
thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Đây cũng
là địa danh người dân Việt Nam và cả bạn bè quốc tế thể hiện công việc đền ơn – đáp nghĩa,
hành hương về tường nhớ những anh hùng có công với đất nước, theo truyền thống: uống
nước nhớ nguồn.
3.2.2. Tuyến du lịch Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam
3.2.2.1. Các điểm du lịch ở trung tâm du lịch Đà Nẵng
Đà Nẵng là một thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh
tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Đà Nẵng hiện là một trong 13 đô thị loại 1 đồng thời là một trong 5 thành phố trực thuộc
93
Trung ương ở Việt Nam, cách đô Hà Nội 764 km về phía bắc, cách thành phố Hồ Chí
Minh 964 km về phía nam.
Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Vùng núi cao
và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi
thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Thành phố nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen
giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới n miền Nam, với tính trội là khí hậu
nhiệt đới ở phía nam, nên Đà Nẵng không có mùa đông lạnh như các tỉnh thành miền bắc.
Đà Nẵng là một thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Một số điểm tham
quan quan trọng của Đà Nẵng là:
a) Bán đảo Sơn Trà – Non Nước – Ngũ Hành Sơn
Bán đảo Sơn Trà
Sơn Trà là tên một bán đảo – một ngọn núi thuộc quận Sơn Trà (tên quận đặt theo tên
bán đảo), thành phố Đà Nẵng, nằm cách trung tâm thành phố Ðà Nẵng 10 km về hướng
Ðông Bắc. Bán đảo Sơn Trà được mệnh danh là cánh rừng già duy nhất ở Việt Nam nằm
trong lòng TP Đà Nẵng, nơi đây được ví như viên ngọc quý của Đà Nẵng khi có diện tích
60 km², chiều dài 13 km, chiều rộng 5 km, nơi hẹp nhất 2 km, với độ cao 693m so với mực
nước biển giống như hình một cây nấm, mà đầu nấm là núi Sơn Trà, còn thân là những bãi
cát vàng trải dài. Bán đảo Sơn Trà cùng với đèo Hải Vân bao bọc thành phố Đà Nẵng
và vịnh Đà Nẵng.
Bán đảo Sơn Trà, sở hữu 289 loài thực vật bậc cao thuộc 217 chi, 90 họ, trong đó có
những loài cây đặc hữu của bán đảo Đông Dương mà ngày nay chỉ còn tìm thấy ở Sơn Trà
như cây dầu lá bóng, cây chò chai.
Về động vật, đây là nơi quần tụ của họ hàng nhà khỉ. Hiện nay Sơn Trà còn khoảng gần
400 con voọc chà vá cùng nhiều loài khỉ đuôi dài, gà tiền mặt đỏ, những giống thú quý hiếm
có nguy cơ tuyệt chúng đã được ghi tên vào sách đỏ.
Bao quanh bán đảo Sơn Trà là vòng cung bờ biển tuyệt đẹp với các bãi như Tiên Sa, Đá
Đen, bãi Rạng, bãi Bụt, bãi Xếp, bãi Đa, bãi Nam, bãi Bắc, bãi Con, bãi Trẹm. Chân núi ăn
sâu ra biển đã hình thành nên các vùng biển có rạn san hô quý hiếm, đa dạng về chủng loại.
Đến Sơn Trà, du khách vừa có thể lên rừng, xuống biển khi tham gia một loạt các tour trên
cạn như khám phá Sơn Trà, khám phá rừng già giữa lòng phố trẻ, tham quan Đà Nẵng - Sơn
Trà bằng trực thăng, tuyến “Không gian Xanh”… và tham gia các tour dưới nước như câu
cá cùng ngư dân, lặn biển ngắm san hô...
Non nước – Ngũ Hành Sơn
- Bãi biển Non Nước là một bãi biển đẹp, nằm kề sát danh thắng Ngũ Hành Sơn, thuộc
dải bờ biển Đà Nẵng, cách thành phố Đà Nẵng 8km về phía đông nam. Đây là gạch nối du
lịch giữa Ngũ Hành Sơn và 3 di sản văn hóa thế giới: phố cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn
và cố đô Huế.
Bãi biển Non nước dài 5km có khu du lịch với đồi thông thoáng mát dưới Ngũ Hành
Sơn. Cát trắng mịn, phía Nam giáp vùng biển Điện Ngọc, phía Bắc giáp vùng biển Bác Mỹ
An. Bãi tắm có độ dốc thoai thoải, sóng êm. Nước biển không bị ô nhiễm, trong sạch, ít chịu
ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên rất cuốn hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Biển Non Nước thuộc biển Đà Nẵng đã được tạp chí Forbes, bình chọn là một trong
những bãi biển đẹp nhất hành tinh năm 2005. Nơi đây hiện đang được tập đoàn Sandy
Beach Resort đầu tư xây dựng.
94
Từ biển Non Nước, chỉ cần đi bộ ít phút, du khách sẽ đến thăm chiêm ngưỡng danh
thắng Ngũ Hành Sơn, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1980.
Ngũ Hành Sơn hay núi Non Nước là tên chung của một danh thắng gồm 5 ngọn núi đá
vôi nhô lên trên một bãi cát ven biển, trên một diện tích khoảng 2 km2, bao gồm: Kim
Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn (lớn, cao và đẹp nhất), Hỏa Sơn (có hai ngọn) và Thổ Sơn, tượng
trưng cho 5 yếu tố của vũ trụ (Ngũ Hành).
Núi Ngũ Hành Sơn hiện nay nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về
phía Đông Nam, ngay trên tuyến đường Đà Nẵng – Hội An; nay thuộc phường Hòa
Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Trong lòng núi có nhiều chùa chiền cổ, hang
động thâm nghiên, huyền bí.
Ngũ Hành Sơn nằm giữa vùng cát trắng mịn từ biển Non Nước kéo dài đến bán đảo
Tiên Sa. Đặc biệt, đá cẩm thạch tại đây có màu ngũ sắc, phân chia theo từng núi: đá ở Thủy
Sơn thường có màu hồng, ở Mộc Sơn thường có màu trắng, ở Hỏa Sơn thường có màu đỏ, ở
Kim Sơn thường có màu thủy mặc và ở Thổ Sơn thường có màu nâu. Quanh Ngũ Hành
Sơn, về phía đông có biển Đông với bãi cát mịn trắng chạy dọc ven biển; ở phía tây và nam
là sông Cổ Cò chảy qua hòa vào nhánh sông Cẩm Lệ. Ở thế kỷ 17-18, nhánh sông này là
đường thủy thông thương huyết mạch giữa Đà Nẵng với Hội An, về sau bị bồi lấp dần.
Ngoài các giá trị cảnh quan, Ngũ Hành Sơn còn có lễ hội “Quán Thế Âm” tổ chức vào
ngày 19/2 hàng năm thu hút rất đông du khách khắp nơi về trẩy hội. Trước đây, núi Ngũ
Hành có nhiều tên gọi khác nhau (Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn, Cẩm Thạch, Tam Thai). Đến
đầu thế kỷ XIX, vua Minh Mạng đã đặt tên là Ngũ Hành Sơn và tên đó được dùng cho đến
ngày nay.
Dưới chân núi Ngũ Hành Sơn còn tập trung các nghệ nhân với nghề chạm khắc đá tinh
xảo nổi tiếng từ lâu đời. Nhiều sản phẩm với kích thước và hình dạng khác nhau đã trở
thành những món quà lưu niệm rất được du khách yêu thích.
Đến tham quan, du lịch tại tiểu vùng du lịch phía Nam Bắc Trung Bộ du khách còn có
thể tham quan nhiều điểm du lịch hấp dẫn khác như: biển Lăng Cô, A Lưới, vườn quốc gia
Bạch Mã, biển Sa Huỳnh…
b) Bà Nà
Bà Nà – Núi Chúa là một trong những ngọn núi đẹp nhất của TP. Đà Nẵng, nằm cách
trung tâm thành phố 25 km về phía Tây Nam, ở độ cao 1487m so với mực nước biển, Bà Nà
được xem là “lá phổi xanh” của miền Trung, là “hòn ngọc về khí hậu” của Việt Nam. Trước
đây, trong thời Pháp thuộc Bà Nà một khu nghỉ mát núi cao được người Pháp yêu thích.
Bà Nà có những giá trị sinh thái và du lịch to lớn. Càng lên cao, nhiệt độ càng giảm và
độ ẩm càng tăng. Năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ thiên nhiên,
đối tượng bảo vệ và là rừng nhiệt đới gồm nhiều loại động thực vật quý hiếm cần được bảo
vệ như trầm hương, gụ, lậu, sến mặt, thông, chàng, trĩ sao. Bà Nà có nhiều khu rừng nguyên
sinh được phân bổ theo các sườn dốc khá hiểm trở.
Hiện nay, tại núi Bà Nà có một số các điểm tham quan sau đây:
Chùa Linh Ứng: Được hoàn thành vào ngày 5 - 3 - 2004, chùa có rất nhiều nét giống
với Chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn), đặc biệt, ngôi chùa có một bức tượng Đức Bổn Sư cao
27 m màu trắng. Xung quanh đế tượng có 8 mặt thể hiện 8 giai đoạn của cuộc đời Đức Phật.
Chùa còn có Vườn Lộc Uyển - nơi đức Phật thuyết giáo lần đầu tiên.
Khu nghỉ mát Bà Nà
Trên núi Bà Nà, các khu vực nghỉ mát của binh lính Pháp đã xuất hiện từ đầu thế kỷ
20 mà hiện giờ tồn tại qua các phế tích giữa rừng, ngày nay, các ngôi biệt thự, nhà nghỉ đã
được xây dựng lại và xuất hiện trong các khu resort: Bà Nà by night, Lê Nim, Biệt thự
95
Hoàng Lan,... Và trong những năm gần đây, thành phố Đà Nẵng vẫn đang tiếp tục khôi phục
và xây dựng một số biệt thự cổ, khu văn hóa Phật giáo, hầm rượu và hàng loạt khách sạn,
biệt thự, quán bar, sân tennis, sân cầu lông...
Khi đi Cáp treo Bà Nà để đi lên đỉnh Vọng Nguyệt, nhiều du khách có thể nhìn xuống
dưới và nhìn thấy suối Mơ đang chảy ở bên dưới. Vào mùa hè, suối Mơ trở nên rất đông
khách du lịch vì nơi đây có ngọn thác Tóc Tiên 9 tầng trông giống như mái tóc của một
nàng tiên
Cáp treo Bà Nà - Núi Chúa
Công trình xây dựng trên tổng thể 30 ha do Công ty Cổ phần Dịch vụ cáp treo Bà
Nà tiến hành xây dựng vào năm 2007 với các hạng mục: nhà ga đi và đến nối từ An Lợi cho
đến đỉnh Vọng Nguyệt, khu kỹ thuật, nhà điều hành, và các công trình phụ trợ. Tổng vốn
đầu tư hơn 300 tỷ đồng. Toàn bộ tuyến cáp treo bao gồm 22 trụ, 94 cabin, công suất 1500
khách/giờ,vận tốc trung bình 6m/s. Ngày 25 - 3 - 2009, Cáp treo Bà Nà chính thức được
khánh thành, lập 2 kỷ lục Guinness:
Cáp treo 1 dây dài nhất (Longest non - stop cable car): 5.042,62 m
Cáp treo có độ cao chênh lệch giữa ga trên và ga dưới lớn nhất (The highest non - stop
cable car): 1.291,81 m.
Cáp treo Bà Nà không chỉ phục vụ vận chuyển hành khách lên xuống mà còn là một sản
phẩm du lịch rất hấp dẫn. Bà Nà nhìn từ cáp treo là bức tranh hoàn mỹ, đầy màu sắc với bốn
bề mây phủ điệp trùng. Ngồi trên cabin cáp treo lơ lửng giữa lưng chừng mây, nhìn xuống
bạt ngàn núi rừng phía dưới, du khách sẽ được chiêm ngưỡng cảnh núi rừng, thác nước…
rất hùng vĩ, ngoạn mục. Đặt chân tới Bà Nà, điều mà du khách cảm nhận đầu tiền là có cảm
giác mát lạnh, sảng khoái… và ngạc nhiên vì được đi tung tăng trong mây! Một trong những
điểm khác biệt so với nhiều khu vui chơi giải trí khác là Bà Nà không có hàng quán, café,
chợ đêm…
3.2.2.2. Các điểm du lịch ở tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh là vùng
đất còn lưu giữ nhiều dấu tích của nền Văn hóa Chămpa. Tổng diện tích đất tự nhiên của
Quảng Nam là 1.043.836,96 ha, dân số là 1.435.629 người (2010); giáp với các tỉnh: Thừa
Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi; phía tây giáp với nước Lào; phía đông giáp với biển
Đông.
Quảng Nam là vùng đất có bề dày lịch sử và văn hóa, là nơi có nền văn hóa Sa Huỳnh,
Chămpa xưa. Vùng đất còn gìn giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc như các
làng nghề (làng gốm Thanh Hà, đúc đồng Phước Kiều…), các loại hình văn hóa nghệ thuật
(hát bội, hát bài chòi, hát lý…)
Đặc biệt, Quảng Nam còn giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị như đền đài, thành
cổ, phố cổ. Trong đó, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách.
a) Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven
biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những
yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp
gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ XVII và
XVIII.
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này ngày
nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả
phương Tây, những cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... từng xuất hiện nhiều lần.
96
Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm
1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương,
người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An. Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành
từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông
Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến
trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, phần bố dọc theo những trục
phố nhỏ hẹp. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi
nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp.
Với những giá trị nổi bật, UNESCO đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn
hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí: Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền
văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế; Hội An là điển hình tiêu biểu về
một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.
Một số giá trị và đặc điểm nổi bật của phố cổ Hội An
Hội An cho đến nay vẫn bảo tồn nguyên vẹn quần thể di tích kiến trúc đa dạng về loại
hìh, phong phú về số lượng. Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh
thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ
thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ.
Phố cổ Hội An được xây dựng theo hình bàn cờ, đường phố hẹp, các phố chạy dọc theo
chiều đông tây hoặc bắc nam. Những giá trị về kiến trúc mỹ thuật của phố cổ Hội An thể
hiện ở sự giao thoa giữa văn hóa Trung Hoa, văn hóa Nhật Bản và văn hóa bản địa, tạo nên
sắc thái văn hóa độc đáo.
Một số di tích tiêu biểu của đô thị cổ Hội An có thể kể đến như chùa Cầu – biểu tượng
của Hội An, nhà cổ Quân Thắng (số 77 Trần Phú), nhà cổ Tân Ký (số 10 Nguyễn Thái
Học), nhà cổ Phùng Hưng (số 4 Nguyễn Thị Minh Khai), Hội quán Phúc Kiến (46 Trần
Phú), Hội quán Triều Châu (157 Nguyễn Duy Hiệu), Hội quán Quảng Đông (17 Trần Phú),
chùa Ông (24 Trần Phú), Quan Âm Phật tự Minh Hương (7 Nguyễn Huệ), nhà thờ tộc Trần
(21 Lê Lợi), bảo tang Lịch sử - Văn hóa, bảo tang gốm sứ Mậu Dịch (80 Trần Phú).
Nhà cổ Tân Kỳ
Nhà cổ Tân Kỳ tuy không phải là nhà cổ xưa nhất (được xây dựng năm 1741), nhưng là
một trong những nhà cổ được bảo tồn tốt nhất với vị trí nằm ngay trung tâm thành phố, ở
địa chỉ 101 Nguyễn Thái Học.
Nhà cổ gồm nhiều nếp nối với nhau, nếp thứ nhất có 6 hàng cột tạo thành 3 gian nhà, 2
gian hai bên và gian giữa. Xuất xứ của những tảng đá tròn nằm bên dưới những cây cột
được chở về từ Thanh Hóa, chỉ có loại đá chắc khỏe này mới giúp cho những thanh cột
tránh được mục ruỗng, điều đó cũng lý giải vì sao đã mấy trăm năm nay, ngôi nhà cổ này
vẫn còn như nguyên trạng.
Còn các cột hiên hình vuông lắp ghép với các thanh gỗ đây tạo thành mảng tường mặt
tiền vừa giữ chức năng che chắn mưa gió cho ngôi nhà vừa làm cho ngôi nhà kín đáo hơn.
Mí cửa gắn 2 con mắt kia là "hình xoáy âm dương lá đề", đôi mắt của ngôi nhà cũng giống
như đôi mắt của con người vậy, nó là thần thái của ngôi nhà cổ, là niềm mong ước thương
mãi phát đạt và đầm ấm đời sống gia đình".
Hiện nay, trong ngôi nhà còn có hai câu đối:
Bích xích thùy dương thiên lý vũ
Thập phân minh nguyệt nhất lầu thư
Tạm dịch:
97
Một dãy dương liễu chỉ dài trăm thước đón được cơn mưa từ ngàn dặm
Một mảnh trăng chỉ rộng mười phân rọi sáng cả một căn gác đầy sách
Điều đặc biệt về nghệ thuật chạm khắc là trên nét những chữ Hán này, in đúng 100 con
chim như muốn như không nâng cánh lên bầu trời.
Vì những giá trị nghệ thuật đó, ngôi nhà cổ Tân Kỳ là ngôi nhà cổ đầu tiên được Bộ
Văn hoá – Thông tin cấp bằng di tích lịch sử – văn hoá quốc gia năm 1985.
Nhà cổ Phùng Hưng
Nhà cổ Phùng Hưng là nơi chứng kiến sự ra đời của tám thế hệ của gia đình Phùng
Hưng. Nó đã được xây dựng trên hai trăm năm qua và nó là một mẫu nhà đẹp nhất của lối
kiến trúc kiểu này ở Hội An. Ngôi nhà tọa lạc ở số 4 Nguyễn Thị Minh Khai.
Nhà cổ Phùng Hưng là kiến trúc tổng hợp của ba trường phái kiến trúc: Việt Nam, Nhật
Bản và Trung Quốc. Hệ thống ban công và cửa chớp là của người Trung Hoa, mái nhà ở
gian giữa có bốn hướng gọi là mái “tứ hải” là kiến trúc của Nhật (giống mái của chùa Cầu).
Còn lại là hệ thống sườn gỗ, hệ thống xà ngang, xà dọc, mái truyền thống hai hướng ở gian
trước và gian sau là kiến trúc Việt Nam. Nhà này rộng và cao nhất ở trong vùng. Với hệ
thống 80 cột gỗ lim tất cả được đặt trên chân đá để tránh việc tiếp xúc giữa chân cột và mặt
đất. Khu vực này gần sông nên mỗi năm thường xảy ra lụt lội, nước lên tới 0.5m.
Gian giữa có trang thờ thờ những vị thần biểu phù hộ. Người xưa người ta thường dùng
tàu để vận chuyển hàng buôn đi các nơi và thông thương với nước ngoài. Trước mỗi lần đi
biển buôn bán người ta tụ họp lại làm lễ cúng thần. Thuyền trưởng thay mặt cho đoàn thả
bảy con súc sắc trong tô để thử vận may cho đoàn. Họ được thả ba lần, nếu có một lần họ
được bốn mặt đỏ trở lên có nghĩa là may mắn thì họ sẽ ra khơi còn không họ nhất định hoãn
chuyến đi lại.
Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà Phùng Hưng có kết cấu khá độc đáo với phần gác cao
bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu
giữa các phong cách kiến trúc Á Ðông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa
đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp thương nhân ở thương cảng Hội An xưa. Nhà
Phùng Hưng được cấp bằng di tích Lịch sử – Văn hóa quốc gia vào ngày 29/6/1993.
Chùa Cầu
Chùa Cầu (chùa Nhật Bản) nằm tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần
Phú – Hội An, là công trình kiến do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây
dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVI - XVII. Chùa Cầu với chức năng vừa là cầu, vừa là nơi
thờ thần bảo hộ có chiều dài khoảng 18 m, có mái che, bắt qua lạch nước chảy ra sông Thu
Bồn.
Chùa có một kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu.
Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều (có
nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến) – tên do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt trong một
lần viếng thăm Hội An vào năm 1719. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công
phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu
là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (có lẽ được xuất phát từ nghĩa cây cầu xây từ năm thân,
xong năm tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa.
Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa)
thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ – vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con
người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu
mong mọi điều tốt đẹp.
Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị
phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng
98
khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù –
một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản và
mỗi lần Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài việc xây cầu
để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống
yên bình.
Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An. Cùng
với chức năng giao thông, cầu còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng có liên quan đến truyền
thuyết về việc trấn yểm thủy quái, thủy tai giữ gìn sự yên bình cho phố xá và cộng đồng cư
dân Hội An.
b) Thánh địa Mỹ Sơn
Khu đền tháp Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, nằm cách thành phố Hội
An 45km về phía Tây, cách thành phố Đà Nẵng 70km về phía Tây Nam, trong một thung
lũng kín đáo
Bắt đầu từ những thế kỷ đầu công nguyên, trên dải đất miền Trung - Việt Nam đã nảy
sinh và phát triển rực rỡ một nền văn hoá Chămpa độc đáo. Trong đó, vùng đất Quảng Nam
với tên gọi xưa là Amaravati, được các văn bia cổ nhắc đến như là trái tim của vương quốc
Chămpa trong một giai đoạn khá dài. Khu đền tháp là mang đậm văn hóa của Ấn Độ giáo.
Những đền thờ chính thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Silva, đáng bảo hộ của
vua Chămpa.
Năm 1898, một người Pháp tên là M.C Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín
đáo trong một thung lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp. Sau đó không lâu, những nhà
khoa học của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã đến nghiên cứu các bia ký và công trình kiến
trúc, điêu khắc ở Mỹ Sơn. Cũng chính họ đã vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn và cho thấy
đây là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục
trong suốt hơn 1000 năm. Được khởi công từ thế kỷ 4 bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ
năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ 13, đầu thế kỷ 14 dưới triều vua Jaya
Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều
phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc
Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn đều chịu ảnh
hưởng của Ấn Độ giáo.
Mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang một phong cách riền. Mỗi đền tháo được xây dựng
vào những triều đại khác nhau đã tạo nên những đường nét kiến trúc đầy dấu ấn. Khu đền
tháo Mỹ Sơn là quần thể kiến trúc, di tích đền đài được xây dựng để thờ các thần linh như
thần Lửa (Agnt), thần Sáng tạo (Brahma), thần Hạnh phúc (Genesa), thần Hủy diệt và Tạo
dựng (Silva), thần Bảo tồn (Visnu)…
Vật liệu xây dựng khu đền tháp bằng gạch nung, ghép với những mảnh trang trí điêu
khắc khá độc đáo. Những ngọn tháo gạch xây dựng không dung vôi vữa, tự như ta xếp liền
nhau mà vẫn đứng vững hang nghìn năm, được thử thách qua nắng mưa, bão gió. Cho đến
nay, kỹ thuật kết dính vật liệu không có mạch hồ trong việc xây dựng đền tháp ở Mỹ Sơn
vẫn là một bí ẩn luôn kích thích sự tìm tòi, nghiên cứu và đam mê khám phá của các nhà
khoa học cũng như đối với mỗi chúng ta.
Tháng 12 năm 1999 khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO ghi tên vào danh mục các
di sản văn hóa thế giới.
3.2.2.3. Một số tuyến du lịch chính và chương trình du lịch
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến Huế – Quảng Bình
- Tuyến Đà Nẵng – Huế – Quảng Bình
99
- Tuyến Đà Nẵng – Hội An – Huế - Quảng Bình
- Tuyến Huế - Đà Nẵng – Hội An
- Tuyến Hà Nội – Nghệ An – Quảng Bình – Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam
- Tuyến Hà Nội – Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam
- Tuyến Hà Nội – Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam – TP. Hồ Chí Minh –
- Tuyến Huế - TP. Hồ Chí Minh
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch: Hà Nội – Đà Nẵng – Hội An – Huế - Hà Nội (4 ngày, 3 đêm,
phương tiện vận chuyển máy bay)
Ngày 1: Hà Nội - Phố biển Đà Nẵng
Sáng: Đón khách ra sân bay Nội Bài đáp chuyến bay sáng vào Đà nẵng.
Trưa : Đón quý khách tại sân bay Đà Nẵng hoặc theo điểm hẹn tại Đà Nẵng đưa đi dùng
bữa trưa với đặc sản nổi tiếng Đà Nẵng “Bánh tráng thịt heo 2 đầu da & Mỳ Quảng”. Nhận
phòng khách sạn ghỉ ngơi.
Chiều: Tham quan Bảo Tàng Chăm, bán Đảo Sơn Trà, viếng chùa Linh Ứng, thưởng
ngoạn vẻ đẹp biển Mỹ Khê Đà Nẵng (Được tạp chí Forbes bình chọn là 1 trong những bãi
biển quyến rũ nhất Hành Tinh).
Tối: Ăn tối, khách tự do khám phá phố biển Đà Nẵng về đêm: Cầu Quay sông Hàn,
Trung Tâm Thương Mại, Khu phố ẩm thực, Café - Bar - Discotheque,...
Ngày 2: Ngũ Hành Sơn - Đô Thị cổ Hội An
Sáng : Ăn sáng, tham quan khu di tích – danh thắng Ngũ Hành Sơn (khám phá các hang
động, vãn cảnh đẹp non nước trời mây, viếng những ngôi chùa thiêng), Làng Nghề Điêu
Khắc Đá và biển Non Nước. Khởi hành đến Đô Thị Cổ Hội An - Di Sản Văn Hoá Thế Giới,
nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi.
Chiều: Tham quan Phố Cổ với các di tích: Chùa Cầu Nhật Bản, Bảo tàng văn hóa Sa
Huỳnh, Nhà Cổ hàng trăm năm tuổi, Hội Quán Phúc Kiến & Xưởng thủ công mỹ nghệ -
thưởng thức ca nhạc truyền thống lúc 15h15. Tham quan và tắm biển Cửa Đại. Nghỉ đêm tại
Hội an.
Ngày 3: Hội An - Cố Đô Huế
Sáng: Rời Hội An đi Cố Đô Huế - Di sản văn hoá Thế Giới, xuyên hầm đường bộ đèo
Hải vân, dừng chân chụp ảnh làng Chài Lăng Cô.
Chiều : Tham quan Đại Nội (Hoàng Cung của 13 vị vua triều Nguyễn, triều đại phong
kiến cuối cùng của Việt Nam: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà, Tử Cấm Thành, Thế Miếu, Hiển
Lâm Các, Cửu Đỉnh) và Chùa Thiên Mụ cổ kính, xây dựng từ những năm đầu của thế kỉ
XVII.
Tối : Ăn tối nhà hàng với đặc sản xứ Huế (Bánh bèo, lọc, nậm, khoái,...). Ngồi thuyền
Rồng nghe CA HUẾ và thả hoa đăng cầu may trên dòng Hương thơ mộng.
Ngày 4: Huế - Hà Nội
Sáng: Ăn sáng, quý khách tự do dạo chơi tham quan thành phố Huế (tham quan chợ
Đông Ba). Ăn trưa tự túc (khách thưởng thức đặc sản Huế: Cơm hến, bún bò…).
Chiều: Lên xe ra sân bay, đáp chuyến bay về Hà Nội. Kết thúc chương trình
101
CHƯƠNG 4: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH
NAM TRUNG BỘ VÀ NAM BỘ
4.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH NAM TRUNG BỘ VÀ NAM BỘ
4.1.1. Vị trí địa lý
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ bao gồm một lãnh thổ rộng lớn ở phần phía
Nam của đất nước; với các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội rất đa dạng. Phía bắc giáp với
vùng du lịch Bắc Trung Bộ, phía cây giáp với Lào và Campuchia, phía đông và đông nam
giáp với Biển Đông.
Vùng gồm lãnh thổ của 29 tỉnh thành: 5 tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, 5 tỉnh Tây
Nguyên, 6 tỉnh thành Đông Nam Bộ và 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng du
lịch có diện tích 146.334,4km2, chiếm 44,2% diện tích cả nước, với tổng số dân là 40.940,1
nghìn người (2009), chiếm 47,5% dân số của cả nước.
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ bao gồm 2 á vùng du lịch: á vùng du lịch Nam
Trung Bộ (10 tỉnh) và á vùng du lịch Nam Bộ (gồm 6 tỉnh thành Đông Nam Bộ và 13 tỉnh
thành Đồng bằng sông Cửu Long). Trung tâm du lịch của vùng là TP. Hồ Chí Minh với tam
giác tang trưởng du lịch là TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang – Đà Lạt.
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ là vùng có diện tích lớn thứ hai của cả nước
với địa hình đa dạng, chứa đựng nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đặc sắc.
Vùng có Đà Lạt thơ mộng, có Tây Nguyên hùng vĩ, có dải đất ven biển với nhiều bãi tắm lý
tưởng, có đồng bằng sông Cửu Long với hệ sinh thái kênh rạch đặc sắc. Nam Trung Bộ và
Nam Bộ là vùng du lịch tiềm năng sẽ có nhiều phát triển vượt bậc trong tương lai.
4.1.2. Thống kê các điểm quan trọng của vùng
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn. Do đặc điểm tự nhiên và lịch sử hình thành nên vùng du lịch này có
nhiều điểm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc trưng vùng miền, rất thu hút khách du lịch. Hệ
thống các điểm tham quan quan trọng của vùng được thống kê chi tiết trong Phục lục 7: Hệ
thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
4.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ có lịch sử hình thành và khai phá muộn hơn so
với hai vùng du lịch còn lại. TP. Hồ Chí Minh – trung tâm du lịch của vùng mới có lịch sử
hình thành hơn 300 năm. Điều đó một phần lý giải tại sao các công trình kiến trúc của vùng
còn có tuổi đời khá trẻ. Song song cùng với nó là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho ngành du lịch mới được đầu tư xây dựng nên nhìn chung còn khá tốt. Tại một số các
trung tâm, các điểm, đô thị du lịch hệ thống các nhà hàng, khách sạn tương đối tốt đáp ứng
nhu cầu nghỉ ngơi, ăn uống của khách du lịch. Nhất là tại TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà
Lạt, Vũng Tàu, Bình Dương, Cần Thơ…
Về hệ thống cơ sở lưu trú, TP. Hồ Chí Minh được coi là nơi có nhiều tụ điểm vui chơi
giải trí với nhiều khách sạn cao cấp nhất nước ta. Bên cạnh TP. Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Nha
Trang… cũng là nơi có nhiều khách sạn hạng sang phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch.
Ngoài ra, mỗi điểm du lịch lại có hệ thống cơ sở lưu trú phù hợp với sản phẩm du lịch đặc
trưng của vùng tạo nên sự hấp dẫn du khách. Một số khách sạn cao cấp và sang trọng của
vùng được thống kê chi tiết trong Phục lục 8: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du
lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ
Bên cạnh hệ thống cơ sở lưu trú và ăn uống, vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ có
cơ sở hạ tầng phát triển phục vụ cho sự phát triển của ngành du lịch. Mạng lưới đường giao
thông là sự kết hợp giữa nhiều loại hình giao thông: đường bộ, đường sắt, đường hàng
không, đặc biệt là hệ thống đường sông. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Với
102
hệ thống đường sông đặc thù ở miền Nam Bộ đã tạo ra sản phẩm du lịch đặc trưng sông
nước điển hình, rất hấp dẫn du khách.
4.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ là tham
quan, nghỉ dưỡng biển và trên núi kết hợp với du lịch sông nước và du lịch sinh thái.
- Du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và trên núi
+ Cảnh quan ven biển, thể thao dưới nước trên cát, tắm biển..
+ Tham quan, nghỉ dưỡng cảnh quan bên hồ, tắm khoáng…
- Du lịch sông nước và du lịch sinh thái
+ Du lịch vùng sông nước, miệt vườn
+ Tham quan nghiên cứu khu vực rừng ngập mặn, ngập phèn, các vườn quốc gia, khu
dự trữ sinh quyển
- Tham quan nghiên cứu văn hóa các dân tộc vùng Tây Nguyên và Nam Bộ
4.2. Một số tuyến du lịch quan trọng đang phát triển trong vùng
4.2.1. Tuyến du lịch trung tâm TP. Hồ Chí Minh
4.2.1.1. Khái quát về TP. Hồ Chí Minh
TP. Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, với tổng diện tích
2.095,06 km², dân số năm 2011 là 7.521.138 người; phía bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây
Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Trung tâm thành phố
cách Hà Nội 1.730 km.
TP. Hồ Chí Minh là địa danh lịch sử, nơi mở đầu cho cuộc kháng chiến chống quân
Pháp xâm lược và là nơi kết thúc thắng lợi quá trình giành độc lập của dân tộc Việt Nam với
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975).
Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, hàng năm thu hút tới
70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Sở dĩ như vậy, nơi đây sở hữu cơ sở hạ tầng khá
tốt, giao thông tương đối thuận tiện, thành phố lại là một nơi có tài nguyên du lịch phong
phú. Nơi đây là một vùng đất gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ
khi thực dân Pháp đặt chân lên Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại ra đi tìm đường cứu nước (1911).. Tổng số bảo tàng của thành phố tính đến
năm 2011 là 11 (cao nhất so với cả nước), với 1.000 đình, chùa, đền, miếu được xây dựng
qua nhiều thời kỳ lịch sử mang kiểu kiến trúc và tín ngưỡng riêng của vùng Nam Bộ.
Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, thành phố Hồ Chí Minh có nhiều công trình
kiến trúc cổ mang đậm dấu ấn của nghệ thuật phương Tây như : Nhà hát lớn, Bưu điện, hệ
thống các nhà thờ cổ (Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...). Đây còn là nơi hội
tụ nhiều dòng chảy văn hoá, là "cơ cấu kiến trúc" Việt - Hoa - châu Âu, đó là : hệ thống các
ngôi chùa cổ (chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Giác Viên...), nhà Rồng, đền
Quốc Tổ…
Một trong những điểm du lịch độc đáo nhất của thành phố là Địa đạo Củ Chi, Khu dự
trữ sinh quyển Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức hoặc đài quan sát Saigon SkyDeck ở tòa nhà
Bitexco Financial. So với các địa phương khác trong cả nước, TP. Hồ Chí Minh có khá
nhiều khu vui chơi giải trí, đa năng thuộc loại hiện đại nhất. Khu vui chơi Đầm Sen, khu du
lịch Suối Tiên, khu du lịch Bình Quới, Văn Thánh….có nhiều các trò chơi từ dân gian đến
hiện đại, hơn nữa không gian thoáng đãng, cảnh quan đẹp được thiết kế với nhiều các chủ
đề khác nhau tạo sự mới mẻ cho du khách, vừa vui chơi lại vừa có thể thư giãn.
103
TP. Hồ Chí Minh có cơ sở vật chất (khách sạn, nhà hàng, dịch vụ vui chơi giải trí…) và
cơ sở hạ tầng phát triển nhất nước ta. Hệ thống khách sạn, bao gồm những khách sạn cao
cấp do tập đoàn quốc tế hàng đầu như: Accor, Furama, Mariot, Sheraton… đều phục vụ có
tính chuyên nghiệp, mỗi khách sạn đều lựa chọn một ấn tượng riêng (Caravelle – khách sạn
thương nhân tuyệt hảo, Rex – ngôi nhà Việt Nam hay Majestic với vẻ thanh lịch cổ điển
phương Tây…) Ngay cả những khách sạn nhỏ cũng có phong cách phục vụ tận tâm, đáp
ứng rất tốt yêu cầu của du khách. Đây cũng được coi là nơi có dịch vụ tốt nhất Việt Nam.
4.2.1.2. Các điểm tham quan ở TP. Hồ Chí Minh
TP. Hồ Chí Minh là một thành phố trẻ với hơn 300 năm hình thành và phát triển với
nhiều công trình kiến trúc cổ, nhiều di tích, hệ thống bảo tàng phong phú và nền văn hóa đa
dạng của nhiều dân tộc. Với vị trí địa lý thuận lợi, Sài Gòn – nơi một thời được mệnh danh
là “hòn ngọc Viễn Đông” đã là trung tâm kinh tế, thương mại nổi tiếng không chỉ trong lãnh
thổ Việt Nam mà còn ở cả các nước Đông Nam Á.
Là nơi hội tụ của nhiều dân tộc với nhiều sắc thái văn hóa độc đáo nên đặc trưng văn
hóa của TP. Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống dân tộc với văn hóa
phương Đông, phương Tây tạo nên phong cách sống và lối sống, tính cách con người Sài
thành. Đây cũng chính là nét văn hóa đặc sắc riêng biệt có sức hấp dẫn lớn đối với du khách
trong và ngoài nước.
Bảng 4.1: Một số điểm tham quan chủ yếu ở nội thành TP. Hồ Chí Minh
TT Địa danh Nội dung
1 Dinh Độc Lập (Thống Nhất) Di tích lịch sử, công trình kiến trúc, địa điểm du lịch
2 Chùa Vĩnh Nghiêm Di tích lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo
3 Chùa Giác Lâm Di tích lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo
4 Công viên văn hóa Đầm Sen Khu vui chơi giải trí, công viên văn hóa
5 Làng du lịch Bình Quới Khu vui chơi giải trí, du lịch sinh thái
6 Thảo cầm viên Khu vui chơi giải trí, du lịch sinh thái
7 Vườn cò Thủ Đức Du lịch sinh thái, nghiên cứu
8 Chợ Bến Thành Trung tâm mua sắm, công trình kiến trúc lịch sử
9 Khu du lịch Suối Tiên Khu vui chơi giải trí
10 Nhà thờ Đức Bà Di tích lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo
a) Điểm tham quan trong nội thành
Dinh Thống Nhất (Dinh Độc Lập)
Dinh Thống Nhất được xây dựng trên nền đất cũ của dinh Nôrôđôm. Lễ đặt viên đá đầu
tiên xây dựng dinh là vào ngày 23-2-1868. Đây là viên đá vuông rộng 50cm, được lấy từ
Biên Hòa, có lỗ rỗng bên trong, chứa những đồng tiền hiện hành bằng vàng, bạc, đồng chạm
hình Napôlêông. Mặt tiền của tòa nhà rộng 80cm bên trong có sức chưa 800 người. Năm
1954, Ngô Đình Diệm và gia đình đã ở và làm việc tại đây.
Vào năm 1963, Mỹ ném bom phá hủy dinh thự. Ngô Đình Diệm quyết định xây dựng
dinh thự mới gọi là dinh Độc Lập trên nền dinh Thống Nhất cũ. Diện tích dinh mới rộng
12ha gồm: 1 tầng nền, 2 tầng chính, 2 tầng gác lửng, 1 sân thượng để máy bay trực thăng có
thể lên xuống dễ dàng và 1 tầng hầm kiên cố có 100 phòng. Ngoài tòa chính dinh thự còn có
hồ bán nguyệt, bồn hoa, vườn cây cảnh. Công trình mới này được xây dựng trong 4 năm.
Theo các nhà phong thủy, mặt tiền dinh hình chữ “Đế”, xung quanh tạo thành biểu tượng
cho Ngũ hành.
104
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dinh Độc Lập bị ném bom làm sập cánh trái.
Đến 10h30 ngày 30-4-1975 lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên nóc dinh Độc Lập báo
hiệu giờ phút giành chiến thắng của quân dân Việt Nam. Tháng 11-1975 dinh Độc Lập được
đổi tên thành dinh Thống Nhất. Ngày nay, dinh Thống Nhất đã trở thành điểm tham quan
thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc ở số 339 đường Nam Kỳ - Khởi Nghĩa, trên đường sân bay
Tân Sơn Nhất về thành phố. Chùa được xây dựng năm 1964 và hoàn thành năm 1971, theo
thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng.
Chùa là một công trình kiến trúc được xây dựng theo kiểu hiện đại ở phía Nam. Mặc dù
ngôi chùa được xây dựng trên diện tích rộng nhưng vẫn mang kiến trúc phương Đông. Chùa
có diện tích khoảng 6.000 m2, kiến trúc chùa theo lối cổ miền Bắc Việt Nam, nhưng bằng
kỹ thuật và vật liệu xây dựng thời hiện đại. Ðây là một trong số công trình tiêu biểu cho
kiến trúc Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ 20. Tổng thể kiến trúc gồm các hạng mục chính là
Tam quan, tòa nhà trung tâm và các Bảo tháp.
Tòa nhà trung tâm là một công trình kiên cố, rộng lớn, bao gồm một tầng lầu và một
tầng trệt. Tầng trệt có hai phần: phần ngoài nằm bên dưới sân thượng, cao 3,20 m; phần
trong nằm dưới Phật điện, cao 4,20 m. Tầng trệt được chia làm nhà thờ Tổ (bên trong có bàn
thờ Bồ Đề Đạt Ma), giảng đường, văn phòng, thư viện (là một trong 3 thư viện của Thành
hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh), phòng tăng, lớp học và phòng học (vì chùa là cơ sở
của trường cơ bản Phật học). Từ dưới sân có ba cầu thang rộng gồm 23 bậc, dẫn lên tầng
trên bao gồm sân thượng, Phật điện và Tháp Quán Thế Âm.
Tiếp theo là hệ thống tháp trong chùa:
Tháp Quán Thế Âm nằm bên trái (từ cổng nhìn vào trong) Phật điện, gồm 7 tầng, cao
gần 40 m, được xây cùng lúc với chùa. Tháp hình vuông, mỗi cạnh đáy 6 m. Ðỉnh tháp có 9
bánh xe vòng tròn và những hình khối tròn gọi là Long xa và Quy châu. Đây là ngôi tháp đồ
sộ thuộc hàng bậc nhất trong các ngôi bảo tháp của Phật giáo Việt Nam.
Tháp Xá Lợi Cộng Đồng xây phía sau, bên trái (từ cổng nhìn vào trong) Phật điện, có 4
tầng, cao 25 m dựng năm 1982, hoàn thành năm 1984. Tháp cũng được xây theo một kiểu
khá độc đáo. Có các cầu thang từ sân dẫn lên trên. Đây là nơi để lọ đựng tro thi hài người
chết mà thân nhân của họ gởi và gìn giữ ở chùa.
Tháp đá Vĩnh Nghiêm (vừa qua cổng, tháp ở bên phải) được khánh thành vào tháng
12 năm 2003, cao 14 m, là tháp thờ cố Đại lão Hoà thượng Thích Thanh Kiểm, một trong
hai vị cao tăng có công sáng lập chùa. Đây được xem là ngôi tháp đá đầu tiên ở miền Nam,
và cũng là ngôi tháp đá lớn nhất, cao nhất Việt Nam từ trước đến nay (2013).
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có Khu Phương trượng nằm ở phía trong cùng,
gồm dãy nhà hình chữ L, ôm bọc một hồ sen dùng cho khách thập phương nghỉ ngơi và tăng
xá cùng một dãy dùng làm thành trai đường.
Làng du lịch Bình Quới
Làng du lịch Bình Quới là một tổ hợp trực thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, được
thành lập năm 1994, gồm nhiều đơn vị cơ sở như:
- Khu du lịch Bình Quới 1
- Khu du lịch Bình Quới 2
- Tàu nhà hàng Sài Gòn
- Khu du lịch Tân Cảng
- Khi du lịch Văn Thánh
105
- Quán Xưa
- Nhà hàng Tre Xanh
Trong các địa điểm nêu trên, khu du lịch Bình Quới 1 và 2 là nơi có nhiều du khách đến
tham quan, vui chơi, nghỉ ngơi nhất.
Khu du lịch Bình Quới 1 có tổng diện tích 34.635 m2, tiếp giáp với sông Sài Gòn về
phía Tây Bắc nên có khí hậu thoáng mát trong lành. Với lợi thế mặt bằng rộng, không gian
yên lành, Bình Quới như một làng quê thanh bình ngay trong lòng thành phố. Đây cũng là
nơi thường xuyên tổ chức các chương trình hoạt động lễ hội như Lễ hội Văn hoá Đất
Phương Nam, Gala Dinner Giáng sinh, Khám phá văn hoá và ẩm thực dân gian Việt Nam,
lễ hội Kỳ Yên, Đám cưới truyền thống Việt Nam…
Chương trình đặc sắc nhất của Khu du lịch Bình Quới 1 là Ẩm thực khẩn hoang Nam
Bộ, bắt đầu từ cuối tháng 12/1998, đến nay đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng du khách với
các món ăn dân dã, mộc mạc của vùng đất Nam Bộ. Khu ẩm thực có diện tích hơn 3000m2,
phục vụ các tiệc buffet với trên 80 món đặc sản của vùng đất phương Nam như heo nướng
lu, gà giò nướng xôi chiên phòng, ốc bươu hấp hèm, bánh nghệ bì, cháo lươn đậu xanh…
Ngoài việc thưởng thức món ăn, du khách có thể tham dự các trò chơi dân gian như đi cầu
thăng bằng, chọi gà, đi cà kheo…
Ngoài các chương trình lễ hội và văn nghệ, du khách trong và ngoài nước đến đây vui
chơi còn có thể tham dự lướt ván, câu cá, quần vợt, bơi lội…
Cách khu khu lịch Bình Quới 1 là Khu du lịch Bình Quới 2 với diện tích 25.380m², mặt
tiếp giáp sông Sài Gòn dài khoảng 300m. Đây là một điểm du lịch lí tưởng để du khách nghỉ
ngơi, thư giãn.
Chương trình đặc sắc nhất của Khu du lịch Bình Quới 2 là ẩm thực buffet Món ngon
miền biển với mong muốn bảo tồn và phát huy những món ngon của các địa phương ven
biển. Buffet Món ngon miền biển được tổ chức hàng tuần vào thứ 7 và chủ nhật, từ 17h đến
21h. Giá vé: Người lớn: 130.000 đồng; trẻ em: 90.000 đồng.
Chợ Bến Thành
TP. Hồ Chí Minh có rất nhiều chợ, nhưng chợ lớn nhất, nhiều hàng hóa và được nhiều
du khách đến tham quan mua sắm nhất là chợ Bến Thành. Chợ nẳm ở cửa Nam (nằm giữa
các đường Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh - Lê Thánh Tôn - Công trường Quách Thị
Trang) - Phường Bến Thành - Quận 1, có diện tích 13.056 m².
a) Điểm tham quan trong ngoại thành
Địa đạo Củ Chi
Địa đạo Củ Chi nằm ở ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách trung tâm
TP. Hồ Chí Minh 70km về phía tây bắc.
Địa đạo Củ Chi được xây dựng trên vùng đất được mệnh danh là “đất thép”, nằm ở
điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở,
nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống địa đạo
dài khoảng 200 km và có các hệ thống thông hơi vào các vị trí các bụi cây.
Địa đạo được đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít bị sụt lở. Hệ
thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được sức công phá của các loại bom tấn
lớn nhất của quân đội Mỹ. Không khí được lấy vào địa đạo thông qua các lỗ thông hơi. Các
khu vực khác nhau của địa đạo có thể được cô lập khi cần. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 -
8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có
giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Hệ thống địa
đạo gồm 3 tầng, từ đường “xương sống” toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau,
106
có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức
nặng của xe tăng, xe bọc thép.
Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt
đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên
trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên
hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng
nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp
thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ.
Ngày nay, địa đạo Củ Chi còn khoảng 120 km được bảo vệ và đã trở thành một điểm du
lịch hấp dẫn cho du khách đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điểm tham quan hấp
dẫn đặc biệt là cựu chiến binh. Du khách được trải nghiệm cuộc sống dưới địa đạo như
những cư dân thực thụ trước đây (được thăm quan, ăn uống những món ăn của cư dân địa
đạo trước đây). Đặc biệt các hướng dẫn viên của địa đạo đều ăn mặc như ngày chiến tranh.
Đây chính là điểm nhấn tạo sức hấp dẫn cho điểm tham quan này.
Khu rừng Sác ngập mặn Cần Giờ
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm các loài động,
thực vật rừng trên cạn và thuỷ sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các
cửa sông Đồng Nai, Sài gòn và Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây. UNESCO đã công nhận đây
là khu dự trữ sinh quyển thế giới với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng
ngập mặn.
Khu dự trữ sinh quyển rừng mặn Cần Giờ nằm ở cửa ngõ Đông Nam TP. Hồ Chí
Minh Tọa độ: 10°22’ – 10°40’ độ vĩ Bắc và 106°46’ – 107°01’ kinh độ Đông, cách trung
tâm TP. Hồ Chí Minh khoảng 70 km. Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn
Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó: vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển
tiếp 29.880 ha.
Rừng ngập mặn Cần Giờ có điều kiện môi trường rất đặc biệt, là hệ sinh thái trung gian
giữa hệ sinh thái thủy vực với hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái
nước mặn. Rừng Cần Giờ nhận một lượng lớn phù sa từ sông Đồng Nai, cùng với ảnh
hưởng của biển kế cận và các đợt thủy triều mà hệ thực vật nơi đây rất phong phú với trên
150 loài thực vật, trở thành nguồn cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ cho rất nhiều loài thủy
sinh, cá và cácđộng vật có xương sống khác.
Về thực vật: nhiều loại cây, chủ yếu là bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi -
bần trắng cùng xu ổi, trang, đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, ô rô, dừa lá, ráng,
v.v… Thảm cỏ biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và Thalassia sp.; đất
canh tác nông nghiệp với lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa, các loại cây ăn quả.
Năm 2000, khu du lịch sinh thái Rừng Sát nằm trong vùng lõi của khu dự trữ sinh
quyển Cần Giờ được thành lập, tháng 2/2003 đã được chức du lịch thế giới cũng công nhận
là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của thế giới ở nước ta. Ở đây có
nhiều hoạt động du lịch thú vị như tham quan đầm dơi, đi thuyền trên sông, thăm sân chim
với rất nhiều loài chim sinh sông, tiếp xúc với đàn khỉ hoang dã, tìm hiểu về hệ thực vật -
động vật nơi đây.
4.2.1.3. Một số tuyến và chương trình du lịch trong TP. Hồ Chí Minh
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến Dinh Thống Nhất – nhà thờ Đức Bà – chợ Bến Thành – bảo tàng Lịch sử Việt
Nam – Chùa Vĩnh Nghiêm – bến cảng Nhà Rồng.
- Tuyến chùa Giác Lâm – Giác Viên – công viên Đầm Sen
- Tuyến tham quan Công viên nước
107
- Tuyến trung tâm thành phố - khu du lịch Suối Tiên – vườn cò Thủ Đức
- Tuyến du lịch sông Sài Gòn – khu du lịch Bình Quới
- Tuyến trung tâm thành phố - địa đạo Củ Chi
- Tuyến trung tâm thành phố - khu rừng Sác ngậm mặn Cần Giờ.
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch City tour TP. Hồ Chí Minh (1 ngày, phương tiện vận chuyển ô
tô)
Sáng: Đón khách, khởi hành đi tham quan chùa Giác Lâm (chùa cổ nhất TP. Hồ Chí
Minh), chợ Bến Thành, đền Thiên Hậu, ngắm cảnh bên bờ sông Sài Gòn và thăm quan bến
cảng Nhà Rồng. Ăn trưa nghỉ ngơi
Chiều: Tham quan dinh Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà, bưu điện thành phố, bảo tàng lịch
sử. Kết thúc chương trình.
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Tây Ninh – Địa đạo Củ Chi (1 ngày,
phương tiện vận chuyển ô tô)
Sáng: Đón khách khởi hành đi tỉnh Tây Ninh (Cách TP. Hồ Chí Minh khoảng
100km). Đến Tây Ninh, tham quan Toà Thánh Cao Đài - Quần thể kiến trúc độc đáo với sự
kết hợp hài hoà giữa mỹ thuật Á Đông và phong cách phương Tây và tìm hiểu thêm về đạo
Cao Đài, một tôn giáo riêng của địa phương và tham dự lễ cầu kinh lúc 12:00 trưa. Ăn trưa
nghỉ ngơi.
Chiều: Đi tham quan địa đạo Củ Chi (Địa danh nổi tiếng trong kháng chiến chống
mỹ), bảo tàng vũ khí chiến tranh, hệ thống địa đạo bao gồm những con đường ngoằn
nghoèo dài khoảng 200km - một làng quê thu nhỏ dưới lòng đất trong suốt những năm chiến
tranh. Kết thúc chương trình.
4.2.2. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – biển duyên hải Nam Trung Bộ
4.2.2.1. Các điểm du lịch tại TP. Nha Trang và tỉnh Khánh Hòa
a) Các điểm du lịch tại TP. Nha Trang
Khái quát về TP Nha Trang
TP. Nha Trang có diện tích tự nhiên là 251 km², dân số 392.279 (2009). Phía Bắc giáp
thị xã Ninh Hòa, phía Nam giáp huyệnCam Lâm, phía Tây giáp huyện Diên Khánh, phía
Đông giáp Biển Đông. Trung tâm TP cách Hà Nội 1.450km, cách TP. Hồ Chí Minh 450km.
Nha Trang có địa hình khá phức tạp có độ cao trải dài từ 0 đến 900 m so với mặt nước
biển được chia thành 3 vùng địa hình: Vùng đồng bằng duyên hải và ven sông; vùng chuyển
tiếp và các đồi thấp có độ dốc từ 3⁰ đến 15⁰ chủ yếu nằm ở phía Tây và Đông Nam; vùng
núi có địa hình dốc trên 15⁰ phân bố ở hai đầu Bắc-Nam thành phố, trên đảo Hòn Tre và
một số đảo đá chiếm 31,43% diện tích toàn thành phố. Dạng địa hình phức tạp tạo nên
những cảnh quan hấp dẫn với lợi thế biển đảo, phát triển du lịch.
TP. Nha Trang có nhiều di tích lịch sử văn hóa và những điểm tham quan mang đậm nét
văn hóa của dân tộc Chăm như tháp Bà Ponagar, chùa Long Sơn, thành Diên Khánh. Một số
những điểm tham quan hấp dẫn của Nha Trang bao gồm:
a) Tháp Bà (Ponagar)
Tháp Bà là ngôi đền Chăm Pa nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 10-12 mét
so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang), cách trung tâm thành phố khoảng
2 km về phía bắc, nay thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi"Tháp Po Nagar" được dùng để
chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao
khoảng 23 mét. Ngôi đền này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang
108
cường thịnh khi Chămpa trong giai đoạn có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng nữ
thần có hình dạng của Umar, vợ của Shiva.
Tổng thể kiến trúc của Po Nagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên:
Tầng thấp: Ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có
những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa.
Tầng giữa: Nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5
cột có đường kính hơn 1 mét và cao hơn 3 mét. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột nhỏ và
thấp hơn, tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1 mét. Dựa vào cấu trúc này người
ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn có mái ngói, là nơi để khách hành hương nghỉ
giải lao và sắm sửa lễ vật trước khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này, lại
có một dãy bậc thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng trên cùng.
Tầng trên cùng: Là nơi các tháp được xây dựng, ngay trước mặt ngôi tháp chính. Những
bậc thang này từ lâu đã không hề được sử dụng. Bậc thang bằng đá ong thấy hiện nay ở phía
nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập niên 1960 do nhu cầu du lịch gia tăng.
Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức tường đá mà nay chỉ còn lưu
lại tường phía tây và nam mà thôi. Dãy tháp phía trước có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn có
dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn 1, chúng chạy song song với nhau. Cả 4
tháp còn lại được xây dựng theo kiểu tháp của người Chăm, gạch xây rất khít mạch, không
nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh, cửa tháp quay về hướng đông.
Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, là tháp Po Nagar, mà ta hay
gọi là tháp Bà, thờ thần Po Nagar (Umar), vợ của thần Siva. Tháp Bà xây 4 tầng, mỗi tầng
đều có cửa, tượng thần và hình thú bằng đá, ở 4 góc có 4 tháp nhỏ. Bên trong là tượng nữ
thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước đó là gỗ trầm hương, và xa hơn nữa
là bằng vàng) ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề.
Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và
chạm nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng, nay chỉ còn đầu tượng bằng xi măng vẽ mặt.
Rải rác quanh di tích còn có một số tượng người, tượng thú... Trên đỉnh tháp có tượng thần
Siva cỡi ngưu thần Nandin, và các tượng linh vật như chim thiên nga, dê, voi…
Mặt ngoài tường tháp lại được trang trí bởi những hình điêu khắc vào đá như những vũ
công, người chèo thuyền, xay gạo hay đi săn với cung tên. Cửa chính ở phía đông dẫn vào
một tiền sảnh, ở hai bên cửa có hai trụ đá được khắc truyền ký, đỡ một phiến đá hình thuẫn
có khắc hình nữ thần Durga đang múa giữa hai nhạc công. Bên trong tháp tối và lạnh. Cuối
tháp có một bệ thờ bằng đá bên dưới tượng Bà Po Nagar với mười cánh tay. Hai bàn tay
dưới đặt trên hai đầu gối, các bàn tay khác thì cầm những vât dụng như đoản kiếm, mũi tên,
chùy và cây lao ở bên phải và chuông, đĩa, cung và tù và ở bên trái.
Từ ngọn đồi với khu tháp có thể ngắm sông Bóng, đảo dừa và những hòn đảo hoa
cương nhỏ, xinh xắn.
b) Khu vui chơi giải trí Vinperl Land
Khu Du lịch và Giải trí Vinpearl Land nằm trên vịnh Nha Trang, một trong 29 vịnh đẹp
nhất thế giới, là một dự án lớn của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Vinpearl.
Với mục tiêu xây dựng Vinpearl Land thành một trong những điểm đến hàng đầu của
du lịch Việt Nam, trong những tháng cuối của năm 2006, nhiều hạng mục mới của Vinpearl
Land liên tiếp được khánh thành và đưa vào sử dụng với quy mô và chất lượng ngày càng
cao, hướng tới đẳng cấp khu vực và quốc tế. Khu du lịch vui chơi giải trí được khởi công
xây dựng từ tháng 4/2002, đến tháng 12/2003, khu nghỉ mát 5 sao Sofitel Vinpearl Resort &
Spa đã được khánh thành và đưa vào sử dụng. Với tổng diện tích trên 150ha và 700m bãi
biển tự nhiên, đây là khu du lịch, nghỉ mát cao cấp 5 sao lớn nhất Việt Nam.
109
Với 500 phòng nghỉ các tiêu chuẩn khác nhau, có những khu biệt thự đặc biệt nhằm
phục vụ nhu cầu ăn ở, nghỉ ngơi cho khách đi theo nhóm hoặc gia đình, Sofitel Vinpearl
Resort & Spa được biết đến như thiên đường của du lịch nghỉ dưỡng cao cấp. Nằm ngay
trong khuôn viên khách sạn, hệ thống bể bơi với diện tích 5.000 m2, hiện là bể bơi ngoài
trời lớn nhất Đông Nam Á. Sở hữu bãi cát trắng dài 700m thoai thoải đều ra biển, Sofitel
Vinpearl Resort & Spa lãng mạn, hiền hòa với nhiều dịch vụ sang trọng phục vụ các nhu
cầu vui chơi, giải trí như sân tennis, nhảy dù, lặn biển khám phá đại dương... Hệ thống các
nhà hàng với sự đa dạng về khẩu vị, phong cách tạo cho du khách cảm giác được sống trong
không gian vừa hiện đại, vừa thân thiện bởi thiên nhiên bao bọc.
Nổi bật trong các hạng mục vui chơi thuộc Công viên Giải trí Vinpearl là khu sân khấu
nhạc nước và biểu diễn ngoài trời có sức chứa 5.000 khán giả với thiết kế hiện đại, mái lợp
bằng vật liệu Teflon – một vật liệu đẹp, hiện đại lần đầu tiên được sử dụng tại Việt Nam.
Sân khấu này có thể di chuyển và hệ thống âm thanh ẩn bên trong núi. Hàng đêm Vinpearl
Land còn mang đến cho đông đảo du khách trong và ngoài nước các chương trình biểu diễn
nhạc nước vô cùng độc đáo và hoành tráng.
Đến Vinpearl Land, các bạn trẻ sẽ vô cùng thỏa thích bởi Khu vui chơi giải trí phục vụ
giới trẻ với nhiều trò chơi mới lạ, phong phú và hấp dẫn:
Khu trò chơi ngoài trời: Bao gồm những trò chơi cảm giác mạnh như nhào lộn, đoàn tàu
tốc độ cao, đu quay… độc đáo nhất VN từ được ứng dụng từ công nghệ của Đức, Argentina,
Ý… mang đến cho quý khách thoả mãn mong muốn được chinh phục, khẳng định sự gan dạ
và lòng dũng cảm.
Khu trò chơi trong nhà nằm trong một núi giả nhân tạo với cụm chiếu phim 3 chiều, 4
chiều sẽ đưa du khách ngược về quá khứ, khám phá lịch sử của con người và thiên nhiên
hoang dã. Du khách sẽ có cơ hội gần gũi, vui chơi với những chú khủng long khổng lồ qua
hình ảnh phim 4 chiều của Vinpearl; Khu trò chơi điện tử, các trò chơi thế giới ảo, xe điện
đụng, vườn cổ tích, khu thiên đường trẻ em…
Làng ẩm thực: với sự đa dạng về ẩm thực bốn phương như VN, Trung Quốc, Pháp… sẽ
mang đến những bữa ăn đầm ấm cho quí khách cùng với gia đình. Toàn bộ hệ thống nhà
hàng này được trải dài theo bờ biển, tạo cho thực khách một không khí yên bình, trong lành
và rất lãng mạn.
Khu phố mua sắm: tổng diện tích tới hơn 6.000m2 bao gồm hơn 100 gian hàng có diện
tích linh hoạt từ 24-160m2 được chia thành các khu vực với bốn nhóm sản phẩm khác nhau.
Sản phẩm chủ yếu được bày bán trong phố mua sắm là các mặt hàng thời trang, mỹ phẩm
cao cấp, nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới. Các vật lưu niệm, trang trí và đặc trưng
truyền thống từ khắp các làng nghề Việt Nam cùng các mặt hàng đa dạng khác đáp ứng và
hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho du khách.
Vũ trường Exotica: có diện tích 1.000 m2, được thiết kế độc đáo trong lòng một quả núi
nhân tạo với hệ thống âm thanh, ánh sáng hiện đại.
Công viên nước Vinpearl: được đưa vào hoạt động vào tháng 08/2007 rộng hơn
60.000m2 với dòng sông lười dài 1.200m có đoạn chảy qua hang rùng rợn, khu Hải Dương
học, khu lặn biển, các bãi tắm, các môn thể thao dưới nước và trò chơi dưới nước… Quy mô
rộng lớn này cũng giúp Công viên nước Vinpearl xếp vào hàng đầu trong khu vực.
Điểm nổi bật và thu hút nhất tại Khu Du lịch và Giải Trí Vinpearl Land là tuyến cáp
treo vượt biển có chiều dài 3.310 m, nối đất liền ra đảo Hòn Tre. Với chiều dài này, cáp treo
Vinpearl sẽ là tuyến cáp treo qua biển dài nhất thế giới hiện nay. Từ độ cao lý tưởng, ngồi
trong cabin, du khách có thể thấy toàn cảnh thành phố Nha Trang xinh đẹp với những bãi
110
biển uốn lượn ôm gọn lấy thành phố biển, cũng như được chiêm ngưỡng phần nào Vịnh
Nha Trang, là 1 trong 29 vịnh nổi tiếng và đẹp nhất thế giới.
Là công trình được đầu tư công phu, Vinpearl Land ra đời đánh dấu một sự phát triển
vượt bậc của ngành du lịch Việt Nam, chuyển khai thác du lịch lên một mức độ cao hơn là
đầu tư theo chiều sâu, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời có trách nhiệm hơn với sự
phát triển bền vững của kinh tế xã hội, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
4.2.2.2. Các điểm du lịch tại tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận
a) Điểm du lịch Cà Ná (Ninh Thuận)
Cà Ná là một bãi biển đẹp, cách Phan Rang 32km, cách Phan Thiết 114km. Cà Ná
không chỉ nổi tiếng với bãi cát đẹp, hoang sơ, quyến rũ mà còn là địa danh rất quen thuộc và
nổi tiếng khắp cả nước nhờ nguồn lợi muối biển dồi dào và tốt vào bậc nhất nước ta.
Biển Cà Ná quanh năm trong xanh suốt đáy, sâu trung bình từ một đến hai mét, nhưng
có lắm đá ngầm, rất nguy hiểm cho tầu thuyền qua lại. Có lẽ vậy mà người Chăm mới gọi
nơi đây là Cà Ná chăng? Theo tiếng Chăm, Cà Ná có nghĩa là đá ngầm. Bãi biển Cà Ná dài
trên 3 km, cong cong hình lưỡi liềm bị chia cắt thành từng ô, bởi những gộp đá hoa cương
to lớn, đủ hình đủ dạng nằm xếp chồng lên nhau, tạo nên cảnh quan nơi đây vừa lạ mắt vừa
độc đáo.
Phơi mình sương gió dãi dầu,
Tảng nằm, tảng đứng gối đầu chênh vênh.
Cà Ná cũng là nơi núi rừng Trường Sơn đâm ra sát tận biển Đông, là nơi tuyến đường
sắt Bắc- Nam và Quốc lộ 1A gặp nhau ở đây, tại khúc quanh Cà Ná thơ mộng – với một bên
là biển cả mênh mông, sóng vỗ lao xao và một bên là núi Điện Bà cao ngất, phảng phất linh
khí nhiệm màu. Tít tắp ngoài khơi về hướng Đông Nam, lờ mờ hiện ra ở chân trời một hải
đảo nho trông như chú rùa biển đang nô đùa với sóng nước. Đó là hòn Lao mà ngày xưa
người Pháp gọi nó bằng cái tên rất “Tây” là Poulo Cécir Terre. Hòn Lao nổi tiếng với giếng
Tiên và thạch động bảy đầu lâu. Đây cũng là trạm nghỉ chân hàng ngày của các ngư dân
vùng Phan Rang, Phan Rí, Long Hương, La Gàn... Và ngày nay, hòn Lao là điểm du lịch dã
ngoại của Bình Thuận – Phan Thiết thu hút nhiều du khách đến đây nghỉ ngơi, cắm trại và
tắm biển trong những ngày hè oi ả, nóng bức.
Ngoài tiềm năng du lịch, Cà Ná còn nổi tiếng là “kho muối” lớn nhất ở nước ta với hơn
một ngàn hecta ruộng muối trải dài theo bờ biển. Diêm dân đã dựa vào các gộp đá trên bờ
để đắp thành những ô ruộng muối. Mỗi ô có thể rộng đến hàng chục hecta.
Theo các nhà chuyên môn, muối Cà Ná được xem là loại muối tốt nhất ở Đông Nam á,
tỷ lệ Clorua Natri (muối nguyên chất) lên đến 95% và hàng năm sản xuất trên dưới 200.000
tấn. Muối Cà Ná được chế biến thành các chất như xút, axit clohydric, clo... cần dùng trong
kỹ nghệ làm giấy và xà phòng. Muối Cà Ná được dùng nhiều trong công nghiệp thực phẩm,
đặc biệt là nước mắm và muối ăn. Ngoài ra, từ một tấn muối có thể lấy ra được 10 kg thạch
cao, một hóa chất rất cần cho kỹ nghệ xi măng.
Ngoài ra, Cà Ná còn là một ngư trường lớn, nên sản lượng hải sản đánh bắt thật dồi dào.
Du khách đến đây ngoài thú tham quan, tắm biển, leo núi còn tha hồ thưởng thức các món
ngon đặc sản được chế biến từ rong câu, tôm, cua, cá, sò, ốc, mực... Đặc biệt, ở đây còn có
món thịt giông, vừa lạ miệng vừa bình dân, là món ăn đặc trưng của vùng đất Ba Phan ở
vùng duyên hải cực nam Trung Bộ.
Về đêm, Cà Ná thật yên tĩnh. Đẹp nhất là vào mùa trăng. Trăng lên từ biển cả soi rọi
vào cả đất trời lồng lộng. Không gian tĩnh lặng chỉ còn tiếng sóng vỗ rì rào và tiếng gió reo
vi vu trên các cành cây, ngọn cỏ khiến cho du khách liên tưởng đến những tiếng đàn, tiếng
sáo của hàng trăm cung tần mỹ nữ Chiêm Thành nổi lên giữa đêm khuya u tịch để Chiêm
111
Vương Chế Mân cùng Công chúa Huyền Trân đắm chìm vào cõi mộng cách đây gần chục
thế kỷ.
b) Điểm du lịch Mũi Né (Bình Thuận)
Mũi Né là tên một mũi biển, một trung tâm du lịch nổi tiếng ở Phan Thiết, cách trung
tâm thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc, thuộc tỉnh Bình Thuận. Địa danh Mũi
Né nổi tiếng với những hình ảnh là những cồn cát có một không hai ở Việt Nam.
Tên gọi Mũi Né xuất phát từ việc ngư dân đánh cá, mỗi khi đi biển gặp bão, thường đến
đây nương náu. "Mũi" là cái mũi đất đưa ra biển; "Né" có nghĩa là để né tránh. Nơi đây có
sự hài hòa giữa màu vàng của cát, màu óng của nắng và màu xanh thẳm của biển tạo cảm
giác ấm áp và trong lành, thu hút rất nhiều du khách. Tên gọi xuất phát từ công chúa Út của
vua Chăm là công chúa Chuột - tương truyền vùng đất này của người Chăm, xưa kia lau sậy
mọc um tùm. Công chúa Chăm năm 16 tuổi mắc bệnh nan y, về sau xây dựng miếu Am để
tu tại Hòn Rơm. Từ đó lấy biệt danh là bà Nà Né - lâu dần người dân đọc trại chữ Nà Né
thành Mũi Né. Né là tên của công chúa Út - Mũi là mũi đất đưa ra biển.
Với thời tiết nắng nhiều, đồi cát sẽ là điểm đến đầu tiên của du khách khi đặt chân đến
Mũi Né. Khoảng thời gian thích hợp nhất là từ 7 – 8h sáng khi nhiệt độ chỉ từ 25 – 27 độ C.
Lúc này, những đồi cát chưa bị đốt nóng nên bạn có thể thoải mái chân trần bước đi trên cát
ngắm nhìn vẻ đẹp Mũi né. Bạn cũng có thể thuê xe zíp chạy một vòng tham quan đồi cát.
Những đồi cát trắng trải dài, rộng mênh mông ở Mũi Né là một danh thắng nổi tiếng đã trở
thành biểu tượng và hình ảnh đẹp tiêu biểu cho vùng đất Bình Thuận. Dưới ánh nắng vàng
như mật cùng luồng gió mát mang theo vị mặn của biển, những đồi cát trắng, cát vàng nối
tiếp nhau nhấp nhô, gợn sóng và thay đổi hình dạng từng giờ càng tôn lên vẻ đẹp hoang sơ,
tinh khôi và quyến rũ cho Mũi Né.
Không chỉ nổi tiếng với những đồi cát trắng, Mũi Né còn gây ấn tượng với du khách bởi
những rặng dừa xanh tốt trải dài theo bờ biển thành hình vòng cung. Những thân dừa cao
vút, ngã mình ra bờ biển tạo nên một khung cảnh thơ mộng cho biển Mũi Né. Bạn có thể
ngồi dưới những hàng dừa xanh mát để tận hưởng cảm giác khoan khoái từ những cơn gió
biển thổi lồng lộng.
Đặc biệt, nếu du khách là người yêu thích các môn thể thao biển như lướt ván, đua
thuyền buồm hay dù lượn thì Mũi Né chính là địa chỉ nghỉ dưỡng lý tưởng. Đến tham quan
Mũi Né, du khách sẽ được nghỉ ngơi trong những dãy Bungalow xinh xắn, hay những gian
village sang trọng, những khu resort tiện nghi, cao cấp.
Ngoài các địa danh biển kể trên, đến với tiểu vùng du lịch duyên hải Nam Trung Bộ, du
khách còn có thể tham quan các điểm du lịch hấp dẫn khác: vịnh Cam Ranh, vịnh Nha
Phú… hoặc các bãi biển hoang sơ trên biển Ninh Thuận, Bình Thuận…
4.2.2.3. Một số tuyến và chương trình du lịch
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Mũi Né
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang – Huế - Hà Nội
- Tuyến Hà Nội – Đà Nẵng – Huế - Hội An – Nha Trang – Đà Lạt – TP. Hồ Chí Minh
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang (3 ngày, 2 đêm phương tiện vận
chuyển máy bay, ô tô)
112
Ngày 1: TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang
Sáng: Khởi hành ra sân bay Tân Sơn Nhất đáp chuyến bay đi Nha. Đến sân bay Nha
Trang, ăn sáng. Lên tàu tham quan Vịnh Nha Trang (một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới),
tham quan Hòn Mun nơi bảo tồn san hô quí hiếm của Việt Nam, Hòn Một, ăn trưa trên tàu
Chiều: Du khách vừa tham quan, vừa tham gia chương trình ca nhạc đặc sắc và ấn
tượng và cùng nhau khiêu vũ trên tàu , cùng thưởng thức Bar dưới Biển (uống rượu,
cocktail trên biển miễn phí). Tàu tiếp tục ghé Bãi Tranh tham quan tắm Biển, thưởng thức
bữa tiệc trái cây trên tàu. 16h00:Đoàn lên tàu về lại đất liền. Nghỉ ngơi tự do. Nghỉ đêm tại
TP. Nha Trang.
Ngày 2: Nha Trang – Vinpearl land
Sáng: Ăn sáng, xe đưa quý khách đi yang Bay. Trên đường đi đoàn nghe thuỵết minh
về thành cổ Diên khánh. Đến KDL Yang Bay, chinh phục Yang Bay 1: hành quân trong
rừng, khám phá rừng nguyên sinh. Thăm hang chiến khu H1, khe Sửng Sốt và hang 2. Tham
quan thác Yang Khang, dừng chân tại Bến Lội tắm thác…đến tham quan khu nuôi cá sấu,
khu nuôi gấu, xem đua heo (tự túc). Ăn trưa
Chiều: Xe đưa quý khách ra cảng Phú Quý, lên cáp treo vượt biển dài nhất thế giới, qua
KDL giải trí Vinpearl Land – Hòn Ngọc Việt, Quý Khách tham gia những trò chơi hấp dẫn
và thú vị. Xem chương trình nhạc nước hoành tráng và ấn tượng có một không hai tại Nha
Trang và cả nước. Nghỉ đêm tại Nha Trang.
Ngày 3: Nha Trang – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Ăn sáng, khách tự do tắm biển, mua sắm. Ăn trưa. Xe đón khách đưa đến sân bay
Nha Trang, về TP. Hồ Chí Minh. Kết thúc chương trình.
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang – Đà Lạt (5 ngày, 4 đêm phương
tiện vận ô tô)
Ngày 01: TP.HCM – Phan Thiết – Chùa Từ Vân – Nha Trang
Sáng: Khởi hành đi Nha Trang. Ăn sáng tại ngã ba Dầu Giây. Tiếp tục lộ trình đến Phan
Thiết, tham quan bãi biển. Theo con đường ven biển ngoạn cảnh quần thể
tháp Poshanư, Lầu Ô, rặng dừa Hàm Tiến, làng chài Mũi Né, đến bãi biển Cà Ná: Dừng
chân chụp hình lưu niệm. Ăn trưa
Chiều: Tham quan chùa Từ Vân-đây là ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo, có lối đi vào
18 tầng địa ngục và được lắp ghép từ những vỏ sò. Đến Nha Trang, nhận phòng. Dùng cơm
chiều.
Ngày 02: Nha Trang – Dốc Lết – Vinpearl Land
Sáng: Dùng điểm tâm. Khởi hành đi Dốc Lết – 1 trong những bãi tắm đẹp nhất miền
trung. Tắm biển, thưởng thức hải sản tươi sống : Cua, Ghẹ, Mực Một Nắng,… Ăn trưa
Chiều: Khởi hành tham quan Vinpearl: Tham gia trò chơi ngoài trời: đu quay cảm giác
mạnh, đu quay dây văng, đu quay thú nhún, đu quay con voi, tàu lượn siêu tốc, đu quay
vòng xoay, xe đạp bay, tàu hải tặc, thành phố vui nhộn, thú nhún, xiếc thú, xem phim 4D, xe
đụng, vườn cổ tích, thiên đường trẻ em, siêu thị game, phòng karaoke…
Ngày 03: Nha Trang – Đà Lạt
Sáng: Ăn sáng. Tham quan City Nha Trang: Tháp Bà Ponagar: một công trình có quy
mô lớn nhất và có vai trò quan trọng trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc tôn giáo Chăm; Chùa
Long Sơn: ngôi chùa nổi tiếng nhất Nha Trang, mua sắm tại chợ Đầm. Ăn trưa, trả phòng.
Chiều: Khởi hành đi Đà Lạt, du khách đi theo con đường mới ngang qua Thành Cổ
Diên Khánh, nhà máy nước khoáng Đảnh Thạnh, làng dân tộc Kờ Tu, ngoạn cảnh thiên
nhiên và những Đồi Thông.
113
Tối: Đến Đà Lạt nhận phòng. Ăn tối, tự do khám phá Đà lạt , thưởng thức cà phê Thủy
Tạ
Ngày 04: Đà Lạt – Domain – Đồi Mộng Mơ – Lang Biang
Sáng: Quý khách dùng bữa sáng. Tham quan Nhà Thờ Domain, Đồi Mộng Mơ với Vạn
Lý Trường Thành thu nhỏ, giao lưu văn hóa cồng chiêng.Ăn trưa
Chiều: Tiếp tục chinh phục đỉnh Langbiang với độ cao 2.169m – Nghe kể chuyện về
tình yêu của chàng Lang dũng cảm và nàng Biang xinh đẹp. Ngắm tòan cảnh Cao Nguyên
Langbiang, Hồ Đankia, Suối Vàng, Suối Bạc.
Tối: Quý khách tham dự đêm lửa trại, uống rượu cần, văn nghệ cồng chiêng, giao lưu
văn hóa với người Tây Nguyên, nghỉ đêm tại Đà Lạt.
Ngày 5: Đà Lạt – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Dùng điểm tâm, trả phòng, đoàn tham quan mua sắm tại Chợ Đà Lạt. Khởi hành
về TP.HCM, trên đường đi, quý khách ghé tham quan Thác Datanla – quý khách đi máng
trượt. Đoàn đến Bảo Lộc, Thưởng thức trà và cà phê miễn phí.
Trưa: Đoàn dùng cơm trưa tại Bảo Lộc. Chiều: Về đến TP.HCM.
4.2.3. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – VQG Yok Đôn
4.2.3.1. Các điểm tham quan tại Đà Lạt
Đà Lạt là một thành phố trực thuộc tỉnh và tỉnh lị tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên
Lâm Viên, ở độ cao 1.500 m so với mặt nước biển, có diện tích tự nhiên: 393,29 km². Phía
Bắc tỉnh Lâm Đồng, Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và
Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm
Hà và Đức Trọng.
Đà Lạt có nghĩa là con suối của người Lạt hay nước của người Lạt. Đà Lạt là thành phố
có phong cảnh trữ tình, thơ mộng, khí hậu mát mẻ. Nơi đây được ví như một Tiểu Paris và
du lịch tuy là một thế mạnh song cũng là yếu tố làm thay đổi Đà Lạt theo hướng đô thị hóa.
Lấy hồ Xuân Hương làm trung tâm, trong vòng bán kính 15km, Đà Lạt có tới 99 danh
thắng. Với những thác nước đẹp hùng vĩ, những hồ nước êm ả, thơ mộng. Đà Lạt còn có
rừng thông bạt ngàn với nhiều ngôi chùa cổ kính, thâm nghiêm, nhiều biệt thực và nhà thờ
có giá trị về kiến trúc.
Hiện nay, tại Đà Lạt còn 3000 biệt thự, nhiều ngôi chùa cổ kính. Những công trình kiến
trúc mỹ thuật có sự kết hợp hài hòa với phong cảnh thiên nhiên tạo nên phong cảnh lãng
mạn, thơ mộng. Một số điểm tham quan chủ yếu của Đà Lạt bao gồm:
a) Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một hồ nhân tạo nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ có chu vi
chừng 5 km, rộng 25ha, có hình trăng lưỡi liềm kéo dài gần 7 km đi qua nhiều địa danh du
lịch của thành phố Đà Lạt như: Vườn hoa thành phố, Công viên Yersin, Đồi Cù.
Hồ là trái tim của thành phố Đà Lạt và là một trong những thành phố hiếm hoi có hồ
nằm ngay trung tâm. Công trình kiến trúc nổi bật gắn liền với hồ Xuân Hương là Thuỷ Tạ.
Thời Pháp thuộc có tên là "La Grenouillère" (đầm ếch). Không hiểu vì sao lại có tên này?
Nhưng qua cấu trúc thì thấy có tháp để nhảy xuống nước như ở hồ bơi. Tên gọi Hán Việt
"Thuỷ Tạ" có khi còn hiểu là "Thuỷ toạ", có nghĩa là một kiến trúc nằm trên nước.
Nhìn từ xa, công trình Thủy Tạ thấp thoáng như dáng một chiếc du thuyền sang trọng.
Từ trước đến nay, Thuỷ Tạ vẫn là một café bar nhỏ, xinh xắn. Ngày nay, màu trắng của kiến
trúc cũng vẫn luôn được giữ không thay đổi. Để đáp ứng cho nhu cầu khách, phía đối diện,
một café bar khác được mở ra. Đó là "Thanh Thuỷ". Tên gọi này (nước xanh) cũng rất gắn
liền với hồ Xuân Hương. Mặt bằng ở đây rộng hơn nên tiếp được rất nhiều khách. Cũng vì
114
lẽ đó mà Thuỷ Tạ vẫn mang một nét riêng không hề bị trộn lẫn với Thanh Thuỷ. Đến Thuỷ
Tạ và Thanh Thuỷ uống cà phê cũng là cốt để ngắm mặt hồ. Nhưng cảm giác tâm lý khi
ngồi trên Thuỷ Tạ vẫn là một cái gì êm đềm, thanh thoát.
Hồ Xuân Hương là một trong những phong cảnh đẹp của Đà Lạt, nơi đây có nhiều góc
chụp hình rất đẹp, rất được du khách yêu thích.
b) Dinh Bảo Đại
Bảo Đại - vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, đồng thời cũng là vị hoàng đế cuối
cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau khi người Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm
quyền từ 1948 rồi thành lập “Hoàng triều cương thổ” vào 1950, nơi đây còn được gọi là biệt
điện Quốc trưởng.
Dinh Bảo Đại được xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến năm 1938, do một kiến
trúc sư người Pháp và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế. Dinh được đánh giá là dinh thự
đẹp đẽ và trang nhã nằm giữa một rừng thông thuần chủng, gắn liền với các tiểu cảnh kiến
trúc công viên, vườn Thượng Uyển, rừng Ái Ân và một hồ nước nhỏ hòa quyện vào nhau
một cách rất hợp lý và thơ mộng. Dinh được bố trí trên một đỉnh đồi mà trong dự án chỉnh
trang Đà Lạt của KTS Hébrard dành cho dinh toàn quyền. Ngọn đồi này có độ cao 1539m ở
đường Triệu Việt Vương ngày nay.
Về hình thức kiến trúc, Dinh Bảo Đại là một trong những công trình chịu ảnh hưởng của
trào lưu cách tân về kiến trúc ở châu Âu. Điểm đáng lưu ý ở đây là phía bên phải cổng vào
và phía sau dinh có một vườn hoa nhỏ theo kiểu vườn hoa ở các cung điện của Pháp, bố cục
theo hình kỷ hà. Tại đây trồng nhiều cây cảnh được cắt tỉa đẹp, những cụm hồng quý nở
quanh năm theo những bố cục đối xứng qua hai trục. Có một bồn hoa rộng phía trước dinh
được chăm sóc chu đáo. Những con đường đi dạo nhỏ quanh dinh nằm ẩn mình dưới những
tán lá thông, xen kẽ giữa các đám cỏ xanh.
Dinh Bảo Đại là một công trình đồ sộ với hệ thống mái bằng, các mảng - khối được bố
cục cân đối nhưng không đối xứng một cách cứng nhắc. Phía trước sảnh chính cũng có mái
hiên đưa ra che vị trí đậu xe. Tầng trệt là phòng khách, các phòng làm việc, văn phòng của
vua Bảo Đại, thư viện, các phòng giải trí và một phòng ăn lớn. Đặc biệt, các phòng làm việc
đều được gắn với các tiểu cảnh kiến trúc, các không gian trong và ngoài liên hệ với nhau
qua các cửa đi và cửa sổ bằng kính khung thép, tạo ra một khung cảnh hài hòa giữa kiến
trúc và thiên nhiên.
Toàn bộ tầng hai được dùng cho sinh hoạt gia đình, gồm các phòng sinh hoạt, các phòng
ngủ của vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương, các công chúa và hoàng tử. Từ phòng ngủ
của vua Bảo Đại có một cửa ra sân thượng còn gọi là Vọng Nguyệt Lầu. Đứng ở đây có thể
ngắm nhìn vườn hoa, đường đi dạo, đồi thông và cả thung lũng phía xa xa. Ván gỗ vẫn là
vật liệu chính để ốp cầu thang, sàn lầu và làm các vật dụng nội thất của dinh. Dinh là một
công trình kiến trúc đẹp, gắn liền với một giai đoạn lịch sử đặc biệt của nước ta.
c) Khu du lịch Lang Biang
Langbiang hay còn gọi là núi Bà, cao 2.167 nằm ở phía Bắc TP. Ðà Lạt và cách thành
phố khoảng 12km, thuộc địa bàn huyện Lạc Dương. Dưới chân núi là nơi định cư của bản
làng dân tộc Lạt, Chil,.. còn lưu giữ khá nhiều nét văn hoá truyền thống của các dân tộc Tây
Nguyên.
Cùng với sự phát triển của TP, diện mạo của cao nguyên Lang Biang thay đổi nhiều.
Từ trung tâm TP. Ðà Lạt, sau 15 phút đi bằng xe máy hoặc xe ôtô, du khách đã có thể đến
chân núi Lang Biang huyền thoại. Ngày nay người Lạch đến định cư ở đây nên buôn làng
gắn bó với ngọn núi này. Từ tháng 11/1999, khu vực này đã được giao cho Công ty du lịch
tỉnh Lâm Ðồng, với tên gọi là khu du lịch Lang Bian.
115
Ðịa hình của Lang Bian rất thích hợp cho kiểu du lịch dã ngoại để tìm một chút hơi lạnh
của miền sơn cước. Tại chân núi có nhiều khu đón khách. Ngoài những cơ sở nghỉ ngơi cao
cấp, còn có khu cắm trại và nhiều dịch vụ cần thiết cho du khách. Họ dừng lại đây để nghỉ
dưỡng tham quan thắng cảnh. Một số cắm trại qua đêm, quây quần bên ánh lửa với ché
rượu cần, nghe những khúc hát cùng những âm thanh của nhạc cụ cổ truyền người Lạch. Họ
ăn uống, ca hát, nhảy múa suốt đêm. Ban ngày xem các cô gái Lạch ngồi dệt thổ cẩm, du
khách có thể mua những đặc sản của họ như chiếc gùi, những vóc thổ cẩm nhiều màu sắc.
Ngoài những chương trình du lịch dã ngoại, du lịch leo núi, chinh phục đỉnh Lang
Biang, dù lượn...cũng phát triển. Có ba cách lên tới đỉnh-nơi đặt logo Du lịch Ðà Lạt: đi xe
Uoát, đi bộ hoặc leo bằng dây. Ngoài ra còn có một đường xuyên rừng khoảng 2km cũng
lên tới đỉnh. Vài năm gần đây, trên đỉnh Lang Bian có loại hình dù lượn, xuống núi bằng
dây. Cảm giác thú vị nhất của du khách là được ngự trị trên đỉnh đồi Rađa cao hơn 2.000m,
thả hồn theo những đám mây đang bồng bềnh trôi. Ðứng ở đây có thể ngắm trọn vẹn thành
phố Ðà Lạt mộng mơ, hiện ra như một bức tranh thủy mặc, phía tây là hồ Dankia-Suối Vàng
trông như một tấm lụa đào khổng lồ nổi bật giữa màu xanh bạt ngàn của núi đồi.
d) Một số thác nước đẹp của Đà Lạt
Thác Đatala
Thác Đatanla nằm khoảng giữa đèo Prenn, cách thành phố Đà Lạt 5km. Thác Đatanla
tuy không hùng vĩ, ồn ào như nhiều dòng thác khác của Đà Lạt nhưng lại có một sức cuốn
hút đặc biệt đối với những ai thích mạo hiểm phiêu lưu. Đatanla hay Đatania do các từ K'Ho
ghép lại: "Đà-Tàm-N'ha" có nghĩa là "nước dưới lá"- liên hệ đến cuộc chiến tranh Chăm-
Lạch - Chil thế kỷ XV - XVII.
Theo truyền thuyết, do thác có vực sâu nằm lọt thỏm giữa một vùng đồi núi nên đã từng
là nơi lánh nạn của một cánh quân của người dân tộc bản địa trong các cuộc chiến tranh với
người Chăm từ cách đây hàng trăm năm trở về trước. Nhờ có ngọn thác này nên một cánh
quân đã trụ lại và bảo toàn được lực lượng. Thác đổ xuống từ ghềnh cao 20m, len lỏi qua
nhiều tầng nấc trong các khe đá rồi lẫn khuất đâu đó trong rừng sâu tạo thành một dòng
suối, lúc ẩn lúc hiện như mời gọi thách thức bước chân khách lãng du.
Đi xa xuống phía dưới, du khách sẽ gặp một hẻm vực sâu hun hút được gọi là vực Tử
Thần.
Cái tên vực Tử Thần cùng tiếng thác đổ ầm ào, hơi nước mịt mùng và vách núi trơn trượt
gây áp lực tâm lý đối với du khách, tuy nhiên dịch vụ “đi dây” được tổ chức khá công phu,
đảm bảo an toàn, đặc biệt có dây bảo hiểm để huấn luyện viên kịp thời giúp đỡ du khách khi
cần thiết.
Hiện nay, để phục vụ cho phát triển du lịch hệ thống máng trượt tại Đatanla được xem
là máng trượt duy nhất của Đà Lạt. Máng có chiều dài 1.000m uốn lượn quanh các sườn núi,
có hệ thống phanh cảm biến để hãm bớt tốc độ của những xe đi quá nhanh nhằm giữ khoảng
cách an toàn giữa các xe. Trượt trên máng ống là những chiếc xe đôi dành cho 2 người, có
tay phanh để điều chỉnh tốc độ theo ý muốn. Tốc độ trung bình là 10-20km, tốc độ nhanh là
40km. Trước đây muốn xuống thác Datanla phải vất vả vượt qua hàng trăm mét đường dốc
thẳng đứng và chỉ có cách duy nhất là đi bộ với thời gian từ 10- 15 phút, nay có thể lên hoặc
xuống thác rất nhanh từ 1,5- 2 phút. Leo dây mạo hiểm là môn thể thao mới khai trương tại
thác nhằm khám phá và thử sức can đảm tại hang Tử Thần.
Thác Liên Khương
Thác Liên Khương có tên cũ là Liên Khàng, nằm ngay ngã ba Liên Khương, thuộc
huyện Đức Trọng, cách thành phố Đà Lạt gần 27 km, bên cạnh quốc lộ 20 nên rất thuận lợi
cho du khách tham quan thưởng ngoạn.
116
Thác có bề mặt rộng khoảng 200m, cao 50m đây là một ngọn tháp hùng vĩ ở Lâm Đồng,
gắn liền với những truyền thuyết huyền bí của miền đất Tây Nguyên. Cùng với 2 thác
Gougah và Pongour, thác Liên Khương là một trong 3 thác nước đẹp trên sông Đa Nhim.
Trên đường đi Đà Lạt, đến ngã ba Liên Khương, nếu để ý du khách sẽ nghe thấy tiếng
thác đổ ầm ầm và có những làn hơi nước trắng bốc lên. Nhìn từ đường nhựa, du khách sẽ
nhìn thấy toàn bộ cảnh thác. Đi vào tham quan, du khách phải lần theo những nấc thang
phía sau lưng miếu Ba Cô để xuống tận dưới thác nước. Trên thượng nguồn thác có một
dòng suối với nền đá rộng 60m2 xung quanh là các ruộng bậc thang. Từ trên cao thác tung
bọt trắng xóa đổ xuống ào ào nghe rất dữ dội. Du khách có thể chèo thuyền xuôi theo dòng
nước để khám phánhững hang động nhỏ đầy bí ẩn bên dưới thác.
4.2.3.2. Điểm du lịch Yok Đôn – Hồ Lắk
a) Vườn quốc gia Yok Đôn
VQG Yok Đôn được phê duyệt theo quyết định 301/TCLĐ ngày 24 – 6 -1992 của Bộ
Lâm nghiệp. VQG có diện tích 115.545 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 80.947
ha, phân khu phục hồi sinh thái là 30.426 ha và phân khu dịch vụ hành chính là 4.172 ha;
vùng đệm: có diện tích 133.890 ha, bao gồm các xã bao quanh VQG..
Vườn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, với hai ngọn núi nhỏ ở phía nam
của sông Serepôk. Rừng chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng khộp. Yok Đôn cũng là
vườn quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này.
VQG có 63 loài động vật có vú, 196 loài chim, 40 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 464 loài
thực vật, trong đó có voi rừng, trâu rừng và bò tót khổng lồ. Đây là nơi trú ngụ của một số
loài động vật nguy cấp mang tính toàn cầu như: bò xám, mang lớn, nai cà tông, bò banteng,
voi châu Á, hổ sói đỏ và chà vá chân đen. Công tác điều tra vẫn đang tiếp tục, nhưng các kết
quả nghiên cứu cho thấy vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những nơi có khu hệ chim
phong phú nhất Đông Dương.
VQG Yok Đôn có hệ sinh thái rừng kết hợp. Vườn bảo tồn, nghiên cứu lịch sử tiến hóa,
diễn thế và mối quan hệ giữa kiểu rừng kết hợp với rừng thường xanh, kiểu rừng nửa rụng
lá. Vào mùa khô, trong cái nắng gay gắt của Tây Nguyên thì nơi đây vẫn mát lạnh như ở xứ
sương mù Đà Lạt, thoang thoảng mùi hương phong lan quanh năm. Vườn Quốc Gia(VQG)
hàng năm đón nhận nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đến nghiên cứu.
Khi đến tham quan VQG, du khách sẽ được cưỡi voi đi dạo giữa những cánh rừng xanh
mát, hoặc cùng voi vượt sông Xre-pôk, thưởng thức những món ăn truyền thống: cơm lam,
gà nướng... của cư dân bản địa, hoặc quây quần bên ché rượu cần nghe già làng kể khan,
nghe những truyền thuyết, sử thi... Vào mùa đông, các đầm nước trong rừng tiếp nhận vô số
đàn chim từ phương bắc lạnh về cư trú. Vịt trời, ngỗng trời, giang, sếu, le le... đậu la liệt
trên các gò đất và trong các bãi lầy. Bằng nhiều chất giọng khác nhau, chúng gọi nhau ríu
rít, tạo nên một khung cảnh náo nhiệt lạ thường.
b) Hồ Lắk
Hồ Lắk nằm bên thị trấn Liên Sơn (hay Lạc Thiện) huyện Lắk, bên cạnh tuyến đường
giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km
về phía Nam theo quốc lộ 27. Hồ rộng trên 5km², được thông với con sông Krông Ana. Mặt
hồ luôn xanh thắm, xung quanh hồ được bao bọc bởi những dãy núi cao nên mặt nước hồ
luôn phẳng lặng và có các cánh rừng nguyên sinh rộng lớn với hệ động thực vật phong phú.
Theo truyền thuyết hồ lắk được tạo ra bởi anh hùng lắk liêng người dân tộc M'Nông.
Hồ có tác dụng điều hòa khí hậu. Không gian hồ, di tích Biệt điện và khu rừng xung
quanh đã được xác định là Khu rừng lịch sử văn hóa môi trường hồ Lắk (một loại rừng đặc
dụng) từ năm 1995 với tổng diện tích là 12.299 ha. Với các chương trình bảo vệ môi trường,
117
phát triển du lịch nhằm bảo vệ các hệ sinh thái rừng núi cao Tây Nguyên và trảng cỏ cây
bụi, bảo tồn các loài động, thực vật hoang dã, đặc biệt là các loài đặc hữu và quý hiếm,
nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường, phát triển du lịch sinh thái... góp phần phát triển
kinh tế, xã hội địa phương, bảo vệ rừng đầu nguồn để phòng hộ cho hồ Lắk và sông Krông
Ana. Ở đây, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra trong khu rừng có 548 loài thực vật thuộc
118 họ, 132 loài chim, 61 loài thú, 43 loài lưỡng cư-bò sát, 43 loài cá, tôm, cua, ốc.
4.2.3.3. Một số tuyến tham quan và chương trình du lịch
a) Một số tuyến tham quan (tuyến tham khảo)
- Tuyến tham quan thành phố Đà Lạt
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang – Đà Lạt
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – VQG Yok Đôn – Hồ Lắk
- Tuyến Hà Nội – Nha Trang – Đà Lạt
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt (3 ngày, 2 đêm, phương tiện vận
chuyển ô tô)
Ngày 1: TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt
Sáng: Khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh đi Đà Lạt, ăn trưa tại Bảo Lộc
Chiều: Tham quan thác Pouogur. Ăn tối và nhận phòng khách sạn tại Đà Lạt.
Ngày 2: Tham quan Đà Lạt
Sáng: Tham quan thác Cam Ly, dinh thự Bảo Đại, nhà thờ Con Gà, vườn hoa Minh
Tâm, chùa Thiên Vương Cổ Sát
Chiều: Tham quan thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, khu du lịch Lang Biang.
Tối: Ăn tối, thưởng thức văn hóa cồng chiêng của người Lạt, nghỉ đêm tại Đà Lạt.
Ngày 3: Đà Lạt – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Đi chợ Đà Lạt tham quan mua sắm, đi tham quan Thiền viện Trúc Lâm. Về TP.
Hồ Chí Minh. Ăn trưa tại Bảo Lộc, thưởng thức và mua sắm trà, cafe. Kết thúc chương
trình.
4.2.4. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Côn Đảo
4.2.4.1. Các điểm du lịch ở Bà Rịa – Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh ven biển thuộc miền Đông Nam Bộ. Tỉnh nằm trong
vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh có diện tích: 1.982 km2, dân số: 1.009.719 người
(2013). Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp giáp tỉnh Đồng Nai ở phía bắc, Thành phố Hồ Chí Minh ở
phía tây, tỉnh Bình Thuận ở phía đông, còn phía nam giáp Biển Đông.
Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh có giàu tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là dầu mỏ), đất
đai trù phú, có nhiều bãi biển đẹp với các ngư trường lớn giàu hảu sản. Tỉnh có đường bờ
biển dài tới 120km, trong đó có 72km có thể sử dụng làm bãi tắm. Trong đó có một số các
bãi tắm đẹp như: Bãi Sau, Bãi Trước, Bãi Dâu….
a) Các bãi tắm nổi tiếng
Bãi Sau: Bãi Sau còn được gọi là bãi Thùy Vân, nằm ở phía đông nam thành phố,
cách trung tâm TP. Vũng Tàu 3km. Đây là một bãi biển đẹp nhất của Vũng Tàu, có khả
năng tiếp một lượng khách lớn.
Bãi Sau có bãi cát trắng, sóng thay đổi theo mùa: Mặt biển bãi Sau phẳng lặng vào mùa
gió nam nhưng lại sóng to, gió lạnh vào mùa gió bắc. Với không khí trong lành, thoáng mát,
118
cảnh đẹp hữu tình, bãi Sau sẽ tạo nên cảm giác thoải mái cho du khách sau những ngày làm
việc mệt nhọc.
Bãi Sau tựa đầu vào núi nhỏ, đằng sau là khu rừng dương - một cánh rừng rộng với
những cây phi lao cổ thụ xanh rợp trên nền cát trắng. Dưới rừng dương thấp thoáng những
căn nhà nghỉ bằng gỗ, thiết kế theo kiểu nhà rông vừa tao nhã, vừa thanh lịch, đậm nét văn
hóa của núi rừng Tây Nguyên, nhà được trang bị đủ tiện nghi, vừa hiện đại, vừa dân dã là
chỗ dừng chân lý tưởng cho mọi du khách. Chỉ cần một luồng gió nhẹ, những cành lá phi
lao nhỏ li ti lại cùng reo lên bản nhạc lạ kì.
Bãi Sau, một bên là những dãy phố sầm uất, nhà cao tầng, khách sạn dáng vóc hiện đại,
đầy đủ tiện nghi, một bên là bãi cát vàng và nhiều khu du lịch đủ các loại hình dịch vụ giải
trí vui chơi trên biển… dành cho mọi lứa tuổi. Đặc biệt có một sân golf rộng hơn 100ha đạt
tiêu chuẩn quốc tế.
Bãi sau là nơi thu hút nhiều du khách lui tới vui chơi tắm biển nghỉ mát ở Bà Rịa –
Vũng Tàu. Vào những các ngày tết, lễ, đón mừng năm mới… Bãi Sau tràn ngập người ghé
đến, trên bờ cũng như dưới nước như không còn chỗ trống tạo nên một sức sống của một
trung tâm du lịch nổi tiếng khắp nơi.
Bãi Trước
Bãi Trước nằm giữa Núi Lớn và Núi Nhỏ, là một vịnh nhỏ lặng sóng. Bãi, ở phía tây
nam của thành phố nên buổi chiều có thể ngắm hoàng hôn trên biển ở đây. Do đó, bãi Trước
còn có tên làbãi “Tầm Dương” - Tìm ánh mặt trời.
Vào buổi bình minh và hoàng hôn, mặt trời đỏ rực như tan vào nước biển mênh mông.
Bãi Trước như một nửa vành trăng tựa lưng vào đất liền, hai đầu là hai ngọn núi Tương Kỳ
và Tao Phùng. Thiên nhiên sơn thuỷ hửu tình đã tạo cho Bãi Trước cảnh thơ mộng là bến
đậu của những con tàu trở về sau những chuyến hải trình.
Dọc bãi Trước trồng nhiều dừa vì vậy trước đây còn có tên là vịnh Hàng Dừa. Giờ đây
vẫn rợp bóng dừa và được điểm tô thêm màu xanh của những cây bàng, cây sứ. Bên dưới
những bóng cây xanh rợp mát là một khu công viên đầy hoa dành cho khách bộ hành hóng
mát... bên tiếng sóng biển du dương.
Trung tâm thành phố Vũng Tàu tọa lạc ở khu vực Bãi Trước với nhiều toà nhà, khách
sạn mới, hiện đại được mọc lên càng tô điểm cho Bãi Trước một nét đẹp vừa xa xưa vừa
hiện đại. Đêm về, dọc đại lộ Trần Phú, Quang Trung rực sáng với hệ thống đèn cao áp, trên
các tòa nhà cao lộng gió, những quán cà phê rực rỡ muôn ánh đèn đủ sắc màu tỏa sáng lung
linh cùng xa xa những chiếc tàu neo đậu với những vầng ánh sáng xanh đỏ tỏa lan trên mặt
biển tạo cho bãi trước một vẻ đẹp thật quyến rũ về đêm.
Bãi Dâu
Bãi Dâu nằm ở phía tây núi Lớn và phía bắc trung tâm thành phố Vũng Tàu. Từ bãi
Trước, theo đường Trần Phú, đi quá di tích Bạch Dinh chừng 3 km là tới bãi Dâu.
Trước kia bãi Dâu còn được gọi là Vũng Mây do nơi đây có nhiều mây rừng.
Bãi Dâu là một bãi biển kín gió với nhiều ghềnh đá kỳ thú, thơ mộng. Hai đầu bãi có nhiều
mỏm đá lớn nhô ra ngoài biển, sau lưng bãi là địa hình lòng chảo được cây cối um tùm bao
bọc tựa vào triền núi Lớn.
Chân núi Lớn ở bãi Dâu dốc đứng và ăn ra sát biển. Giữa màu xanh thẳm của biển và
cây rừng nổi bật tượng đức mẹ Maria cao gần 30 m và những tòa nhà sáng trắng. Bãi Dâu là
bãi biển đẹp, yên bình và dường như tách hẳn với không khí ồn ào, náo nhiệt của trung tâm
TP. Vũng Tàu.
b) Suối nước khoáng nóng Bình Châu
119
Suối khoáng nóng Bình Châu nằm trong địa bàn khi bảo tồn thiên nhiên Bình Châu,
thuộc địa bàn xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cách thành phố
Hồ Chí Minh 150km. Năm 1928, một bác sĩ người Pháp tên là Salle trong chuyến khảo sát
vùng Đông Nam Bộ đã phát hiện ra khu suối khoáng với vẻ đẹp thật hấp dẫn này.
Suối nước khoáng Bình Châu là một hồ nước sôi khổng lồ cùng với bùn khoáng nóng
với 70 điểm phun lộ thiên có nhiệt độ từ 37ºC đến 80ºC cứ tuôn trào vô tận cho đến ngày
hôm nay. Suối khoáng đã được các nhà khoa học công nhận bởi nguồn nước rất có giá trị
trong việc chữa trị phục hồi sức khoẻ.
Các khu vực dành cho việc nghỉ dưỡng chữa bệnh bằng suối khoáng nóng đã hình thành
như khu hồ ngâm Suối Mơ, Hà Nội- Huế-Sài Gòn, khu giếng trời dành luộc trứng bằng
nước khoáng nóng, cụm tắm bùn khoáng… Tất cả đều nằm ẩn mình, yên tĩnh trong rừng
cây xanh. Ngoài ra còn những cụm công trình khép kín trong dịch vụ giải trí thể thao dành
cho du khách nghỉ cuối tuần như sân tập golf, bóng chuyền, hồ bơi và cả khu vườn Trăng
với sân khấu 1.000 chỗ ngồi…
Đi trên những dãy hành lang bằng gỗ bắc qua những điểm suối chảy trải dài quanh co
chừng 1km, du khách sẽ thấy thật thú vị khi nhìn nước từ trong lòng đất tuôn ra, sôi sủi
thành bọt và ngâm chân ở những con suối có nhiệt độ 40ºC. Vào những buổi bình minh, nơi
đây thật kỳ ảo. Cảnh sắc xung quanh như được phủ một làn sương mỏng từ hơi nước bốc
lên. Du khách có thể thả bộ để hít thở bầu không khí tinh khiết, trong lành phảng phất mùi
hương thơm cây cỏ.
Cạnh khu rừng có một số gia đình người Châu Ro sinh sống, du khách có thể đi thăm
làng và nghe các cụ già kể lại truyền thuyết sự tích đầm nước sôi. Câu chuyện kể mối tình bi
thương của cặp vợ chồng trẻ, vì một chút nông nổi mà phải chịu cô đơn mãi mãi.
4.2.4.2. Điểm du lịch Côn Đảo
Côn Đảo là tên gọi tắt một quần đảo (Côn Lôn) nằm ở ngoài khơi bờ biển Nam Bộ và
cũng là huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, từ lâu được biết đến qua các chứng nhân
lịch sử như là một “địa ngục trần gian”.
Lịch sử đã ghi dấu son 113 năm chiến đấu kiên cường của biết bao thế hệ chiến sĩ cách
mạng tại mảnh đất xa xôi này. Những cầu tàu, nhà tù năm xưa chứng tính cho thời kỳ oanh
liệt đó vẫn còn tồn tại. Nhưng Côn Đảo của hiện tại đã khép lại quá khứ và đang vươn mình
để trở thành một trong những địa danh du lịch hấp dẫn du khách.
Các di tích lịch sử trên đảo gồm hệ thống nhà lao được xây dựng qua các thời kỳ thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tất cả các khu trại giam có diện tích 317,140m2 gồm hai dãy
chuồng cọp, các trại từ 1 đến 6 là các khu hầm đá lạnh, trại 7,8 là khu chuồng cọp mới, khu
chuống bò là nơi tra tấn dã man các chiến sỹ cách mạng.
Côn Đảo là một quần đảo gồm mười sáu hòn đảo với tổng diện tích đất nổi là 76 km²,
trong đó đảo lớn nhất là đảo Côn Sơn. Địa hình đảo này là vùng đồi núi, ưu thế bởi các
dãy đá granit chạy từ phía tây nam đến đông bắc, che chở cho các vùng vịnh của đảo cả về
hai phía khỏi những luồng gió mạnh. Điểm cao nhất của quần đảo là đỉnh núi Thánh Giá
trên đảo Côn Sơn (577 m). Nơi đây sở hữu bờ biển dài 200km với nhiều bãi biển đẹp và
hoang sơ như bãi An Hải, Đầm Trầu, Lò Vôi, Suối Ớt, Hòn Bà…
Ngoài ra, tại Côn Đảo còn có VQG được thành lập từ năm 1993 trên cơ sở chuyển từ
Khu rừng cấm Côn Đảo với diện tích 6.000 ha trên cạn và 14.000 ha vùng nước, bao trùm
14 hòn đảo. Về thực vật, người ta thống kê được 882 loài thực vật rừng bậc cao thuộc 562
chi, 161 họ, trong đó có 371 loài thân gỗ, 30 loài phong lan, 103 loài dây leo, 202 loài thảo
mộc,.... Về động vật rừng, hiện đã biết 144 loài bao gồm 28 loài thú, 69 loài chim, 39
loài bò sát,...[9] Côn Đảo có loài thạch sùng Côn Đảo đặc hữu.
120
Vùng biển của vườn quốc gia sở hữu 1.383 loài sinh vật biển, trong đó có 127 loài rong
biển, 11 loài cỏ biển, 157 loàithực vật phù du, 115 loài động vật phù du, 202 loài cá, 8 loài
thú và bò sát biển,... Các rạn san hô nơi đây do 219 loài hợp thành; độ phủ trung bình là
42,6 %.[9] Côn Đảo không chỉ là vùng có nhiều rùa biển nhất nước Việt Nam mà còn là nơi
duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bò biển có cuộc sống không tách rời các thảm
cỏ biển.
VQG Côn Đảo cũng là một trong số rất ít những nơi ở Việt Nam có loài dugong – bò
biển sinh sống. Đặc biệt, quần thể rùa biển ở Côn Đảo có rất nhiều, hàng năm vào mùa sinh
sản có hang ngàn con rùa biển lên các bãi cát để đẻ trứng….
Ngày nay, Côn Đảo là một trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Nơi đây được
nhiều du khách đánh giá là thiên đường của nghỉ dưỡng và khám phá thiên nhiên (rừng và
biển). Côn Đảo được xem là hòn đảo du lịch với những bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, làn
nước trong xanh mát lạnh, bãi cát dài phẳng mịn. Không khí trên đảo thật trong lành, được
ví như thiên đường nghỉ dưỡng, đây còn là nơi để du khách đến du lịch khám phá, với các
chương trình du lịch sinh thái.
Các tuyến tham quan chính ở Côn Đảo
- Đi vòng quanh đảo Côn Sơn, ghé thăm đảo hòn Tre
- Đảo Côn Sơn đi hòn Rái, hòn Bảy Cạnh
- Đảo Côn Sơn đi hòn Bảy Cạnh, hòn Cau
- Đảo Côn Sơn đi hòn Tre nhỏ, Tre lớn
- Thị trấn Côn Sơn đi đầm Tre
- Thị trấn Côn Sơn đi bãi Ông Đụng
- Thị trấn Côn Sơn đi núi Thánh Giá
- Thị trấn Côn Sơn đi Đầm Trâu
- Thị trấn Côn Sơn đi cảng cá Bến Đầm – hòn Trọc.
4.2.4.3. Một số tuyến và chương trình du lịch
a) Một số tuyến du lịch quan trọng (tuyến tham khảo)
- Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu
- Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Khu du lịch suối nước khoáng nóng Bình Châu
- Tuyến du lịch Vũng Tàu – Côn Đảo
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu (2 ngày, 1 đêm, phương tiện vận
chuyển ô tô)
Ngày 1: TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu
Sáng: Khởi hành đi Vũng Tàu, tham quan Bạch Dinh, ngọn Hải Đăng. Ăn trưa ở Vũng
Tàu
Chiều: Tham quan và tắm biển ở bãi Sau, bãi Trước. Nghỉ ngơi, ăn tối và lưu trú ở
Vũng Tàu
Ngày 2: Vũng Tàu – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Tắm biển, thăm lăng Cá Ông. Ăn trưa nghỉ ngơi
Chiều: Đi tham quan chùa Thích Ca Phật Đài. Về TP. Hồ Chí Minh
Chương trình du lịch TP. Vũng Tàu – Côn Đảo (3 ngày, 2 đêm, phương tiện vận
chuyển tàu biển)
Ngày 1: Vũng Tàu – Côn Đảo
121
Sáng: Đi tàu từ cảng Vũng Tàu ra Côn Đảo. Nhận phòng, nghỉ ngơi ăn trưa
Chiều: Tham quan di tích nhà tù Cô Đảo
Ngày 2: Tham quan VQG Côn Đảo
Sáng: Từ Côn Đảo đi tham quan hòn Tre, ăn trưa trên tàu
Chiều: Từ Hòn Tre đi tham quan núi Thánh Giá và trở về thị trấn Côn Sơn
Tối: Tự do mua sắm, tham gia đốt lửa trại trên biển
Ngày 3: Côn Đảo – Vũng Tàu
Sáng: Tự do tắm biển, tham quan, mua sắm tại thị trấn Côn Sơn
Chiều: Lên tàu về TP. Vũng Tàu
4.2.5. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương
4.2.5.1. Các điểm tham quan tỉnh Bình Dương
Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
có diện tích 2.694.43km2, dân số 1.748.001người. Bình Dương tiếp giáp với các tỉnh, thành
sau: Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước. Phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh. Phía Đông
giáp tỉnh Đồng Nai. Phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.
Bình Dương là cửa ngõ giao thương với TP. Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế - văn hóa
của cả nước, có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13,
quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á,… Bình Dương có nhiều điểm tham quan
du lịch hấp dẫn du khách như khu vườn cây Lái Thiêu, Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến, làng
sơn mài, làng gốm sứ…. Điều đặc biệt là các điểm du lịch này đều cách TP. Hồ Chí Minh
trên dưới 30km nên rất thuận tiện để có thể xây dựng các tuyến du lịch đi lại trong ngày.
a) Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến
Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến tọa lạc tại ấp 1, xã Hiệp An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương. Nơi đây được xem như là một công trình lưu giữa và tôn vinh những tinh hoa
của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm văn hiến.
Toàn bộ công trình có tổng diện tích giai đoạn 1 là 261ha, giai đoạn 2 là 450ha, Đại
Nam là thế giới du lịch có đủ cả biển, hồ, sông, núi và tường thành, với dụng ý làm toát lên
vẻ đẹp của đất nước Việt Nam. Trong đó, điểm nhấn quan trọng nhất là đền thờ Đại Nam
Quốc Tự và dãy núi Bảo Sơn. Ngoài ra, tại khu du lịch còn có nhiều hạng mục quan trọng
khác sẽ xây dựng như Việt Nam thu nhỏ rộng 30 ha, thể hiện vẻ đẹp về thiên nhiên cũng
như phản ánh những thành tựu nổi bật của 64 tỉnh, thành trong cả nước và những hình ảnh
giới thiệu về 54 dân tộc Việt Nam.
Quảng trường và sân khấu nhạc nước là nơi tổ chức các sự kiện lớn trong năm. Hàng
đêm nơi đây có các chương trình biểu diễn ánh sáng laser, chiếu phim trên màn hình
nước…. Bao quanh quảng trường là khu vực thành Đại Nam với hình ảnh cột cờ Cổ Loa
được xây dựng theo lối kiến trúc kết hợp giữa Cổ Loa, kỳ đài Huế và cột cờ Hà Nội. Cột cờ
có hình dánh một đài sen, trụ cờ cao 9m với hình long đầu trượng – biểu tượng cho sự thanh
cao và quyền quý.
Tiếp theo là Đại nam Văn Hiến có diện tích 9ha, là nơi giới thiệu và tôn vinh văn hóa –
lịch sử Việt Nam. Đặc điểm đặc biệt nhất là các bức tượng đều được mạ vàng bên ngoài.
Bên cạnh đó còn có hai cây nên cháy liên tục trong 1.000 năm được đặt hai bên khu thờ
chính. Bên ngoài khu vực đền là các công trình khác như núi Ngũ Hành, tháp Bảo Sơn – nơi
thờ phụng tâm linh của dân tộc Việt Nam và dòng sông Bảo Giang xanh biếc.
Ngoài ra, du khách còn có thể tham quan công viên trò chơi, vườn bách thú bằng xe
trung chuyển của khu du lịch, hay khu vực Việt Nam thu nhỏ, nơi giới thiệu 64 tỉnh thành
và những hình ảnh về 54 dân tộc Việt…
122
Các chương trình tham quan khu Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến
Chương trình 1 ngày: đi bằng xe điện
Sáng: Đón khách, đi tham quan khu Kim Điện (rộng 9ha); tham quan khu Vườn thú Đại
Nam với nhiều con vật quý hiếm; đi khu vui chơi giải trí tham gia các trò chơi và xem phim
4D. Nghỉ ngơi ăn trưa.
Chiều: Tắm biển tại biển Đại Nam với nhiều kiểu sóng nhân tạo có sức chứa lên tới
30.000 người. Trả khách tại cổng Đại Nam.
Chương trình 2 ngày: đi bằng xe điện
Ngày 1: Sáng: Đón khách, đi tham quan khu Kim Điện (rộng 9ha); tham quan Bảo Tháp
cao 9 tầng, ngắm Dòng Bảo Giang dưới chân núi Ngũ Hành Sơn. Ăn trưa, nghỉ ngơi
Chiều: Tham quan và tắm biển tại biển Đại Nam – biển nhân tạo với nhiều kiểu sóng,
khu biển có sức chưa lên tới 30.000 người.
Chiều tối: Nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi, ăn tối.
Ngày 2: Sáng: Tham quan vườn thú Đại Nam với nhiều con vật quý hiếm. Tham gia các
trò chơi tại khu giải trí với nhiều trò mạo hiểm. Ăn trưa, nghỉ ngơi
Chiều: Thưởng thức phim 4D. Trả khách.
b) Vườn cây ăn trái Lái Thiêu và khu du lịch Cầu Ngang
Nằm ven sông Sài Gòn, cách thị xã Thủ Dầu Một khoảng 10km về phía Nam và cách
thành phố Hồ Chí Minh chừng 20km về phía Bắc, Lái Thiêu từng được biết đến là một địa
danh nổi tiếng từ hàng trăm năm với nhiều loại cây trái miền nhiệt đới thơm ngon như sầu
riêng, măng cụt, bòn bon, mít tố nữ, chôm chôm, dâu… Từ phường Lái Thiêu đi về hướng
thị xã Thủ Dầu Một, dọc theo con đường nhựa là các vườn cây nối vườn cây trải dài hàng
cây số qua các phường Lái Thiêu, An Thạnh, Vĩnh Phú và các xã Bình Nhâm, Hưng Định,
An Sơn… thuộc thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương với tổng diện tích trồng cây đến
1.230ha, trong đó nhiều và tập trung nhất là xã An Sơn với hơn 400ha.
Với một thổ nhưỡng thuận lợi, cây cối tốt tươi, vườn cây ăn trái Lái Thiêu trở thành
điểm du lịch xanh thích hợp với nhiều lứa tuổi. Hàng năm cứ vào mùa mưa, khoảng từ
tháng 5 đến tháng 8 là mùa trái cây chín rộ, du khách ghé vườn Lái Thiêu dù tham quan hay
nghỉ ngơi đều được tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và sẽ rất thú vị khi có
dịp nhìn ngắm các loại trái cây lúc lỉu trên cành. Du khách đến đây có thể đi dạo dưới
những vòm cây trỉu quả, mắc võng nghỉ ngơi trong vườn hoặc thưởng thức hương vị ngọt
ngào từ các loại trái cây, khách cứ việc hái trái ăn thoải mái xong rồi mời chủ vườn ra đếm
cuống tính tiền… Du khách thích cảnh sông nước cũng có thể ghé Cầu Ngang du thuyền
dạo chơi ven vườn hoặc trên sông Sài Gòn, ngắm nhìn cảnh vườn cây xanh mượt soi bóng
nước lặng lờ, tưởng đời mình như chiếc thuyền nan cứ nhẹ trôi, nhẹ trôi…
4.2.5.2. Chương trình du lịch tiêu biểu
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến (2 ngày 1
đêm, phương tiện vận chuyển ô tô)
Ngày 1: Sáng: Đón khách, khởi hành đi đến khu du lịch Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến.
Đi tham quan khu Kim Điện (rộng 9ha); tham quan Bảo Tháp cao 9 tầng, ngắm Dòng Bảo
Giang dưới chân núi Ngũ Hành Sơn. Ăn trưa, nghỉ ngơi
Chiều: Tham quan và tắm biển tại biển Đại Nam – biển nhân tạo với nhiều kiểu sóng,
khu biển có sức chưa lên tới 30.000 người.
Chiều tối: Nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi, ăn tối.
123
Ngày 2: Sáng: Tham quan vườn thú Đại Nam với nhiều con vật quý hiếm. Tham gia các
trò chơi tại khu giải trí với nhiều trò mạo hiểm. Ăn trưa, nghỉ ngơi
Chiều: Thưởng thức phim 4D. Về TP. Hồ Chí Minh
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương (1 ngày, phương tiện vận
chuyển ô tô)
Sáng: Khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh đi tham quan vườn cây Lái Thiêu, khu du lịch
Cầu Ngang, ăn trưa tại khu du lịch.
Chiều: Tham quan làng sơn mài Tương Bình Hiệp và làng gốm gần TX. Thủ Dầu Một.
Về TP. Hồ Chí Minh.
4.2.6. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đồng Nai
4.2.6.1. Các điểm du lịch tại tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, Việt Nam, cách TP. Hồ Chí Minh
khoảng 30 km, cách TP. Hà Nội 1.684 km theo đường quốc lộ 1A, với diện tích tự nhiên là
5.907,2 km², dân số 2.665.100 người (2011). Đồng Nai có toạ độ địa lý từ 10o30’03 đến
11o34’57’’vĩ độ Bắc và từ 106o45’30 đến 107o35’00 kinh độ Đông. Phía Đông giáp tỉnh
Bình Thuận, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh, Phía Bắc
giáp tỉnh Lâm Đồng và Bình Dương.
Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và các điểm du lịch có tiềm năng. Hiện nay,
tài nguyên và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của tỉnh tập trung ở 2 điểm du lịch chính là TP.
Biên Hòa và VQG Cát Tiên nên thuận tiện cho việc tham quan, nghỉ dưỡng, nghiên cứu và
tổ chức các hoạt động du lịch. Các điểm tham quan chính của tỉnh bao gồm:
a) Các điểm tham quan tại TP. Biên Hòa
Chùa Bửu Long
Chùa Bửu Phong được xem là một trong ba ngôi chùa cổ của đất Biên Hòa. Hiện nay,
chùa tọa lạc trên ngọn núi Bửu Long, cách trung tâm TP. Biên Hòa 7km. Chùa do nhà sư
Thành Chí, dòng Lâm Tế khai sơn vào khoảng thế kỷ XVII.
Từ dưới chân núi lên đến chùa phải qua một trăm bậc tam cấp. Cảnh trí chùa tịch mịch,
địa cảnh phong quang. Xung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ, cùng với những tảng đá lộ
thiên tạo hình kỳ thú. Có ý kiến cho rằng chùa được xây dựng từ năm “Bính Thìn niên”,
phía trước đề 1616. Di tích cổ tự đã trải qua nhiều lần trùng tu. Dấu vết hiện tồn được xác
định vào năm Kỷ Sửu (1829) được khắc trên cột đá tiền điện. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ
Tam gồm chính điện, giảng đường và nơi thờ Tổ. Ngoài ra còn có liêu phòng ni phái và nhà
dưỡng tăng. Chất liệu xây dựng là gạch thẻ, vôi hợp chất, mái lợp ngói âm dương. Nền lót
gạch tàu và gạch bông, bộ khung vì kèo làm bằng gỗ tốt.
Mặt tiền nhìn về hướng đông bắc. Trang trí mặt tiền chùa là những bức phù điêu thể
hiện hình ảnh cuốn thư, lân ngậm trái châu, nhật nguyệt, rồng chầu mặt trời, mây dây lá
cách điệu... theo lối chạm trổ, ghép sành công phu, tinh vi mang tính nghệ thuật cao. Tất cả
các mảng trang trí này làm bằng chất liệu xi măng, bề mặt ghép những mảnh sứ nhiều màu
tạo cho toàn cảnh ngôi chùa nét rực rỡ, trang nghiêm, cổ kính.
Chính điện chia làm ba gian thoáng rộng, trên hai hàng cột đắp rồng ẩn mây sơn son
thếp vàng uy nghiêm. Gian chính giữa thờ Tam thế Phật, tả hữu thờ thập điện Minh Vương.
Các tượng được tạc rất sống động. Ở giảng đường và nơi thờ Tổ các tấm liễn, hoành phi,
bao lam được chạm khắc công phu, thể hiện nhiều đề tài phong phú được bố trí hài hòa.
Trong chùa còn lưu giữ được tượng cổ Phật Di Đà và một đầu phướn lục giác chạm rồng.
Đặc biệt có một tượng đá cổ thể hiện một vị thần ảnh hưởng của Ấn giáo được gắn kết
bền vững ở hậu điện. Tương truyền, tượng có từ khi lập chùa. Ở nơi thờ Tổ, sự hiện diện
124
của pho tượng Tổ sư Đạt Ma, cùng với hơn chục bài vị sơn son thếp vàng của các sư trụ trì
đã viên tịch được bài trí trang trọng trên các bàn hương án. Chùa Bửu Phong hiện lưu giữ xá
lợi Phật.
Một số chuyện tích cho rằng, vùng Bửu Long thời xưa hoang vu. Một nhà sư đến đây
lập chùa, dân làng sinh sống an lành. Một hôm, có con cọp trắng xuất hiện. Ban đầu dân
làng lo sợ nhưng cọp chẳng hại ai. Cọp còn giúp đỡ những người lên núi thăm chùa. Trên
núi Bửu Long, có hai tảng đá nằm chồng lên nhau, hình vòng cung. Từ xa nhìn thấy như
dáng cọp đang há miệng, bên dưới có tảng đá bằng phẳng. Cọp thường về đây năm nên dân
gọi là Hổ đầu thạch. Từ khi có cọp trắng, không có thú dữ nào dám về phá núi và dân làng.
Người dân quý mến cọp trắng và cử cọp làm Hương cả trong làng bằng một tờ giấy để sẵn
trong hang. Hằng năm, khi đến lễ cúng tại đình làng, dân làng đem cúng tại đá Hàm Hổ.
Cùng với hệ thống cơ sở tín ngưỡng trong khu danh thắng Bửu Long, chùa Bửu Phong
được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo quyết định số 208/VH-QĐ của Bộ Văn hóa ngày 13
tháng 3 năm 1990.
Khu du lịch Bửu Long – Hồ Long Ẩn
Khu du lịch Bửu Long rộng 84 ha, có độ cao trung bình 100 m so với mặt nước biển,
núi cao, hồ rộng, không khí trong lành, tạo cảm giác sảng khoái cho du khách. Toàn khu có
hai cụm núi chính: Bình Điện và Long Sơn thạch động.
Đứng trên ngọn núi Bình Điện, du khách có thể nhìn thấy toàn bộ khung cảnh của thành
phố Biên Hòa - với những khu công nghiệp đã và đang mọc lên. Một thành phố sầm uất,
nhộn nhịp. Cũng từ đây, bạn có thể nhìn ngắm một mầu xanh bát ngát trải dài của những
cánh đồng phì nhiêu, mầu mỡ. Xen lẫn với mầu xanh của cỏ cây, đồng lúa là màu bàng bạc
của những kênh rạch bắt nguồn từ dòng sông Đồng Nai, tạo nên một bức tranh thơ mộng.
Trên ngọn núi Bình Điện có ngôi chùa cổ Bửu Phong được chạm trổ, trang trí hoa văn tinh
tế. Từ chân núi muốn đi đến chùa, phải qua một dãy tam cấp gần 100 bậc. Quanh chùa có
những bảo tháp cổ và nhiều hòn đá tạo những hình thù kỳ thú hoang sơ, huyền bí.
Cụm Long Sơn thạch động (còn gọi là Chùa Hang) tọa lạc trên núi Long Ẩn. Ở đây có
ngôi chùa dẫn đến thạch động, miệng hang rộng và hẹp dần vào trong, trông như hàm ếch.
Trên vách núi có nhiều nhũ đá rũ xuống, kỳ ảo, lung linh dưới ánh đèn trang trí. Trên núi
Long Ẩn có nhiều chùa, am. Chính cụm kiến trúc này đã làm phong phú những lễ hội hành
hương ở nơi đây.
Khu danh thắng Bửu Long còn được biết đến với khu hồ Long Ẩn. Đây là hồ nước do
nhân dân trong vùng khai thác đá từ hàng thế kỷ nay tạo thành. Hồ rộng gần 20.000 m2,
nước trong xanh với những cụm đá còn lại tạo nên những hòn đảo giữa biển nước mênh
mông. Từ những hòn đảo này, bàn tay con người đã tạo thành những cảnh đẹp ẩn hiện giữa
sóng nước nhấp nhô, giữa những con đường ngoằn ngoèo bao quanh khu vực như một bức
tranh kỳ ảo. Thêm vào đó là một khu du lịch xanh với những vườn cây, cụm núi thú thời
tiền sử đã tô điểm thêm cho toàn bộ khu danh thắng.
Sát mép hồ Long Ẩn là nhà hàng Long Du. Đến đây, du khách có thể nghỉ ngơi, ngắm
nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp và thưởng thức các món ăn tại nhà hàng. Men theo con
đường nằm dưới chân núi Bình Điện, bạn sẽ đến một khu mà ở đó là sự phối hợp giữa kiến
trúc hiện đại và kiến trúc cổ xưa.
4.2.6.2. Một số tuyến và chương trình du lịch
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – TP. Biên Hòa – Đồng Nai
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – khu du lịch Bửu Long – TP. Biên Hòa
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – VQG Cát Tiên
125
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – TP. Biên Hòa (2 ngày 1 đêm, phương tiện
vận chuyển ô tô)
Ngày 1: TP. Hồ Chí Minh – TP. Biên Hòa
Sáng: Khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh, thăm mộ cổ Hàng Gòn, ăn trưa tại khu du lịch
Bửu Long.
Chiều: Tham quan khu du lịch Bửu Long, thăm hồ Long Ẩn, chùa Bửu Long. Ăn tối,
nghỉ đêm tại Biên Hòa
Ngày 2: TP. Biên Hòa – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Du thuyền trên sông Đồng Nai tham quan đền thờ Nguyễn Tri Phương, làng gốm
ven sông. Ăn trưa tại khu du lịch Bửu Long
Chiều: Nghỉ ngơi, trả phòng, về TP. Hồ Chí Minh.
4.2.7. Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Tây Ninh
4.2.7.1. Các điểm tham quan ở Tây Ninh
Tây Ninh nằm ở miền Đông Nam Bộ, là cầu nối giữa TP. Hồ Chí Minh và thủ
đô Phnôm Pênh (Campuchia) và là một trong những tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Tỉnh có thị xã Tây Ninh nằm cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 99 km theo
đường quốc lộ 22 và cách biên giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc.
Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Tây Ninh cũng là thánh
địa của đạo Cao Đài với Tòa Thánh Tây Ninh nguy nga, tráng lệ. Ngoài ra còn có đạo
Phật, đạo Kitô, đạo Hồi và nhiều đạo khác.
a) Tòa thánh Tây Ninh
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh là một cụm công trình gồm nhiều kiến trúc tôn giáo của
đạo Cao Đài, nằm trên địa phận Thị trấn Hòa Thành, xã Long Thành Bắc (huyện Hòa
Thành) và một phần Thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh 4 km về phía
đông nam. Đây cũng là vùng Thánh địa thiêng liêng và nơi đặt Hội Thánh Cao Đài.
Hàng ngày nghi thức lễ tại tòa Thánh được tiến hành vào 12 giờ trưa, có đọc kinh cầu
nguyện theo giọng Nam Ai.
Theo thiết kế ban đầu, kích thước Tòa Thánh được quy định dài 135m, rộng 27m, nền
cao 1,8 m. Tuy nhiên, khi mới khởi công xây dựng Tòa Thánh, tín đồ khi đó còn nghèo, Hội
Thánh gặp khó khăn về tài chính nên khi thi công đã thu bớt lại kích thước trên. Kích thước
thực tế chỉ còn dài 97,5m, rộng 22m. Theo quan niệm của các tín đồ Cao Đài, thiết kế và
kích thước Tòa Thánh do Đức Giáo tông Lý Thái Bạch giáng cơ quy định theo hệ mét; tuy
nhiên về sau được Đức Chí Tôn giáng cơ quy định lại theo hệ thước ta (thước mộc) nên quy
đổi ra kích thước như trên.
Tổng thể Đền Thánh mang hình tượng Long Mã bái sư. Mặt tiền Đền Thánh như đầu
Long Mã nhìn thẳng về phía tây, là khu vực Hiệp Thiên Đài. Hai lầu chuông và trống vươn
lên như hai sừng nhọn. Nằm giữa hai lầu chuông trống là tòa nhà lầu với tầng trệt có tên
Tịnh Tâm Đài như miệng Long Mã hả ra. Tầng hai có tên Phi Tưởng Đài, như cái trán với 2
cửa được coi như hai con mắt. Phần thân Long Mã là khu vực Cửu Trùng Đài, nối tiếp
theo Hiệp Thiên Đài. Khu vực Bát Quái Đài nằm phía cuối của Đền Thánh, phần đuôi của
Long Mã, hướng thẳng về phía đông. Chung quanh Tòa Thánh có tất cả 112 cây cột tròn để
chống đỡ mái hiên nơi hành lang. Tính tổng cộng ở tầng trệt Tòa Thánh, cả bên trong và bên
ngoài, có tất cả 156 cây cột lớn nhỏ.
Xung quanh vách của Đại điện có những khung cửa sổ được trang trí bằng họa tiết hoa
sen đỡ một khung hình Thiên Nhãn chính giữa một tam giác đều, có làm những tia hào
quang phát ra. Toàn thể vách xung quanh Linh Tiêu Điện (Đại điện Tòa Thánh) có tất cả 23
126
ô hoa sen có hình Thiên Nhãn, cộng với biểu tượng Thiên Nhãn trên Phi Tưởng Đài phía
trước Tòa Thánh, tổng cộng 24 Thiên Nhãn. Ngoài lối vào chính qua Tịnh Tâm Điện, có cả
thảy 6 lối vào phụ, hai bên có tượng Kim Mao Hẩu. Điều đặc biệt ở công trình Tòa Thánh
Tây Ninh là nó được xây dựng bằng bê tông cốt tre.
Nổi bật trọng quần thể kiến trúc là đền Thánh, với những đặc trưng tiêu biểu cho kiến
trúc đền chùa của tôn giáo Cao Đài. Công trình thể hiện sự hài hóa giữa kiến trúc Á Đông
và phương Tây với các vòm mái và hoa văn trang trí khéo léo, tinh xảo thể hiện tinh thần
Tam giáo.
Tại đây còn có một số các kiến trúc đẹp khác nằm trong quần thể như cổng chánh môn,
các tháp mộ, đền thờ Phật Mẫu. Đặc biệt là bá huê viên với nhiều cây cảnh, nhiều loại hoa
và cỏ lạ. Lễ hội lớn nhất hàng năm diễn ra hàng năm diễn ta nơi đây là vía Đức Chí Tôn (9/1
âm lịch). Lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc và cuốn hút hàng vạn du khách từ mọi miền đất
nước về dự và thưởng ngoạn. Ngoài ra, du khách còn được tham dự các nghi lễ trang
nghiệm, mang đầy màu sắc văn hóa.
b) Núi Bà Đen
Núi Bà Đen là ngọn núi cao nhất miền Đông Nam bộ (986m) và là biểu tượng cho mảnh
đất và con người Tây Ninh. Ngọn núi nằm cách Tòa thánh Tây Ninh 3km, cách TP. Hồ Chí
Minh 110km, còn được gọi là núi Vân Sơn hoác núi Điện Bà, Linh Sơn.
Quần thể di tích Núi Bà trải rộng 24 km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: Núi Heo - Núi
Phụng - Núi Bà Đen. Núi Bà Đen cao 986 m cao nhất Nam Bộ. Hệ thống chùa Điện Bà ở
núi có chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng, chùa Hang và một số hang động được các tăng
ni, phật tử sửa chữa làm nơi thờ tự như động Thanh Long, động Ông Hổ, động Ba Cô, động
Ba Tuần, động Thiên Thai, động Ông Tà... Ngọn núi này thu hút khách thập phương vì cảnh
núi non hùng vĩ, nhiều hang động, nhiều ngôi chùa nguy nga tráng lệ. Trước đây vốn là nơi
ẩn cư của nhiều sư sãi. Đặc biệt, nơi đây còn gắn liền với truyền thuyết nàng Lý Thị Thiên
Hương (Bà Đen).
Có hai con đường lên đỉnh núi: Một đường mòn nằm sau lưng chùa Bà, đường này xấu,
khó đi. Một đường mòn khác bắt đầu từ đài Liệt sĩ đi men theo các trụ điện lên thẳng đỉnh
núi. Đường này dễ đi nhưng dài, nắng, ít người qua lại và không có trạm tiếp tế. Ngày nay,
đã có cáp treo làm phương tiện để lên chùa cho thuận tiện.
4.2.7.2. Chương trình du lịch xuất phát từ TP. Hồ Chí Minh
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Tây Ninh (1 ngày, phương tiện vận chuyển
ô tô)
Sáng: Khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh đi tham quan khu du lịch núi Bà Đen (gồm khu
vui chời giải trí núi Bà Đen, chùa Bà Đen), ăn trưa tại khu vui chơi giải trí núi Bà Đen.
Chiều: Thăm quan tòa thánh Tây Ninh, sau đó về TP. Hồ Chí Minh
4.2.8. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – đồng bằng sông Cửu Long
4.2.8.1. Các điểm du lịch ở đồng bằng sông Cửu Long
a) Khái quát về đồng bằng sông Cửu Long
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là một vùng cực nam của Việt Nam, còn được gọi
là Vùng đồng bằng Nam Bộ. Vùng có 1 thành phố trực thuộc trung ương và 12 tỉnh (Long
An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Hậu
Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và TP. Cần Thơ). Toàn khu vực có tổng diện là
40.548,2 km² và tổng dân số là 17.330.900 người.
Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích
39.734 km². Có vị trí nằm liền kề vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây
Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông.
127
Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua
những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành
những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành
những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển
và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long
Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau.
Vùng có 700km bờ biển, có nhiều đảo ngoài khơi thuận lợi cho phát triển giao lưu kinh
tế, văn hóa với các nước. Đồng thời, đây cũng là nơi có sản lượng thủy sản chiếm 50% cả
nước, nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và An Giang. Kiên Giang là tỉnh
có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất. Những tỉnh này tạo thành những ngư trường lớn
cung cấp nguồn thủy sản cho cả nước.
Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo vùng nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp
(mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực.
Vê dân cư, ngoài người Kinh vùng là nơi cư trú chủ yếu của người Khmer, sống chủ
yếu ở Trà Vinh, Sóc Trăng và người Chăm theo đạo Hồi sống ở Tân Châu, An Giang. Một
lượng trung bình người Hoa sống ở Kiên Giang và Trà Vinh. Do đó, vùng là nơi có nền văn
hóa đa sắc tộc.
ĐBSCL có nhiều rừng ngập mặn ở Bạc Liêu, Cà Mau với hệ sinh thái rừng ngập mặn
phong phú tạo thành nhiều VQG và khu dự trữ sinh quyển như: VQG U Minh Thượng, PHú
Quốc (Kiên Giang), Tràm Chim (Đồng Tháp), Đất Mũi (Cà Mau).
Vùng có khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi để phát triển nhiều vườn cây ăn quả. Do đó,
du lịch sinh thái bắt đầu phát triển mạnh như du lịch trên sông nước, vườn, khám phá các cù
lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững
Mekong Lodge tại Tiền Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre, Vĩnh Long. Tuy
nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và còn nhiều hạn
chế.
b) Các điểm du lịch của đồng bằng Sông Cửu Long
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Tiền Giang
Chùa Vĩnh Tràng
Chùa Vĩnh Tràng được xây dựng vào năm 1849, nằm về hướng Đông Bắc của thành
phố Mỹ Tho, tọa lạc trên địa phận ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang.
Trước đây khi mới được xây dựng, chùa chỉ là một cái am lá của ông bà Huyện Bùi
Công Đạt làm quan dưới triều vua Minh Mạng (1820-1840). Sau khi hưu trí, ông bà về đây
cất am để tu hành nên nhân dân trong vùng quen gọi là chùa ông Huyện. Sau đó, ông bà mời
Đại sư Huệ Đăng về trụ trì chùa và dạy chữ nghĩa cho con.
Sau khi ông bà Huyện qua đời, Đại sư Huệ Đăng ngày đêm chăm lo công quả. Thấy
được đạo hạnh của nhà sư, Phật tử bốn phương về rất đông: người góp công, người góp của
xây dựng thành chùa "Đại Tự" vào năm 1849, lấy niên hiệu là "Vĩnh Trường". Qua thời
gian người dân quen gọi là "Vĩnh Tràng".
Chùa Vĩnh Tràng là một di tích kiến trúc nghệ thuật đứng vào hàng thứ ba đối với mọi
kiểu chùa của đất Nam phần. Chùa được xây dựng pha hòa nét kiến trúc cả Âu lẫn Á.
Trước chùa có hai cổng Tam quan được xây dựng vào năm 1933 theo kiểu cổ lầu của
Trung quốc. Cửa ngỏ này được cẩn bằng đồ sứ có giá trị in hình long, lân, quy, phụng, canh,
mục, ngư, tiều...Tất cả đều thể hiện sự sống động vui tươi. Chùa được xây dựng theo dạng
chữ Quốc của Hán tự, gồm 04 gian nối tiếp nhau: tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu
làm bằng xi măng và gổ quí, nền đúc cao 1m, chung quanh xây tường vững chắc.
128
Chính điện được xây dựng theo lối kiến trúc dung hợp Á - Âu với những hàng cột thanh
mảnh vòm cong. Trên nóc chùa có năm mái nhô cao, tượng trưng cho Ngũ hành theo quan
niệm phương Đông.
Bộ tượng cổ nhất chùa là bộ Tam Tôn: Di Đà, Quan Âm, Thế Chí bằng đồng, riêng
tượng Quan Âm bị thất lạc nên đã được làm lại bằng gỗ. Đặc biệt, ở đây có bộ tượng Thập
Bát La Hán cưỡi trên mình các con thú là những tác phẩm chạm khắc gỗ độc đáo mà một số
nghệ nhân Nam bộ đã tạc khá tỉ mỉ vào những năm 1909-1910.
Chùa Vĩnh Tràng có quy mô lớn nhất miền Nam, vì vậy chùa đã cuốn hút rất nhiều tăng
ni phạt tử và du khách đến tham quan, bái yết.
Cù lao Thới Sơn
Cù lao Thới Sơn nằm ở hạ lưu sông Tiền, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Cù lao Thới Sơn là một vùng trồng nhiều cây ăn trái. Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở
chỗ đến mảnh đất này là lánh xa sự ồn ào, nhộn nhịp của phố phường.
Du khách đến Thới Sơn, xuống đò chèo xuôi theo những con rạch ngoằn ngoèo giữa hai
hàng dừa nước rậm rạp hay những cây thủy liễu (bần) ven rạch nghiêng mình chào đón du
khách. Nếu muốn tản bộ theo những con đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái
xum xuê, bạn có dịp ngồi nghỉ trong những nhà vườn uống trà mật ong thơm ngọt và nghe
đàn ca tài tử. Ðêm Thới Sơn thật huyền diệu với trăng thanh, gió mát, sóng nước mênh
mang. Du khách có thể ngồi thuyền lướt nhẹ trên sông ngắm trăng lên, hoặc cùng bạn ngồi
đối ẩm nghe giọng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.
Những ngôi nhà của người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính, xưa cũ. Ðiểm du
lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà của ông được xây
dựng với hàng cột gỗ, mỗi mái nhà có chín cây đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên –
Trừ – Mãn – Bình – Ðịnh – Chấp – Phá – Nguy – Thành.
Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ thờ cẩn xà cừ lóng lánh,
tràng kỷ chạm trổ tinh xảo, cùng với đôi liễn chạm câu đối sơn son thếp vàng… Xung
quanh nhà là vườn cây cảnh với nhiều cây bonsai được trồng tỉa công phu. Ðến Thới Sơn,
du khách có dịp tham quan quy trình làm kẹo dừa, bánh tráng bằng phương pháp thủ công,
chọn mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh hoạt gia đình làm từ cây dừa. Bên cạnh chương
trình du lịch sinh thái, du khách có dịp thưởng thức nhiều món đặc sản của vùng sông nước:
cá nướng, lẩu cá kèo, cá lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù…
Chợ nổi Cái Bè
Chợ nổi Cái Bè là chợ nổi thuộc thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Chợ là
nơi trao đổi mua bán hàng hóa và là điểm tham quan du lịch hấp dẫn của tỉnh Tiền Giang.
Chợ là nơi diễn ra các hoạt động buôn bán rất đa dạng từ hàng vải, đồ gia dụng cho đến
hàng gia cầm, thủy hải sản… cho tới cả đồ ăn, thức uống cũng không thiếu. Chợ nổi tiếng
nhất là nơi trao đổi và là vựa trái cây lớn của tỉnh Tiền Giang, nổi tiếng nhất là trái cây
chuyên canh của Tiền Giang như: vú sữa Lò Rèn, bưởi da xanh, khốm Tân Lập, cam,
bưởi, quýt Cái Bè.
Theo sách Đại Nam Nhất Thống chí soạn vào đời Tự Đức, thì Cái Bè thuở ấy đã là nơi
buôn bán sầm uất. Tất cả hàng hoá đều được chở trên các bè xuôi ngược trên sông. Chợ nổi
Cái Bè nằm ở đoạn sông Tiền, giáp ranh giữa 3 tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre.
Chợ nổi Cái Bè là một trong những điểm tham quan đặc sắc nhất ở Tiền Giang. Đây là
một nét văn hóa rất đặc sắc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, thu hút rất nhiều du khách
đến tham quan, trải nghiệm.
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Vĩnh Long
Cù lao An Bình và Bình Hòa Phước
129
Cù Lao An Bình và Bình Hòa Phước nổi giữa sông Tiền, đối diện với thị xã Vĩnh Long,
Cù Lao gồm bốn xã: An Bình, Bình Hoà Phước, Hoà Ninh và Ðồng Phú, thuộc huyện Long
Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cù lao rộng khoảng 60km2, đất đai màu mỡ và trù phú, nước ngọt
quanh năm, dân cư trồng nhiều cây ăn trái như: chôm chôm, xoài, nhãn, sầu riêng,
sapôchê…
Các điểm du lịch trên cù lao này là:
Vườn cảnh Bonsai của ông Sáu Giáo tại ấp Bình Thuận xã Hoà Ninh với hàng trăm loài
cây cảnh: mai vàng, mai chiếu thuỷ, lài… xung quanh nhà là vườn nhãn và ao nuôi cá tai
tượng, loại cá thịt ngon.
Nhà sàn ông Mười Ðầy: nhà sàn cất bằng gỗ trên rạch Ninh Hoà, phía sau nhà là vườn
nhãn, bưởi, sapôchê. Nhà ông Mười Đầy là một trong sso điểm tham quan ở cù lao này.
Ngôi nhà xưa ông Hai Hoàng được xây cất theo kiến trúc Pháp có sân rộng và phía sau
là vườn chôm chôm và nhãn. Ðây là nơi ăn trưa và nghỉ đêm của du khách.
Các vườn trái cây đặc sản khác Vườn chôm chôm ông Chín Hoán, vườn chôm chôm
ông Chín Cần, vườn nhãn tiêu ông Tám Hổ, và vô số các vườn trái cây khác.
Vườn bưởi trên cù lao Mỹ Hoà huyện Bình Minh, cách Vĩnh Long 30km, chuyên trồng
bưởi năm roi, loại bưởi ngon nổi tiếng của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Khu du lịch Trường An
Nằm cạnh dòng sông Tiền thuộc xã Tân Ngãi, thành phố Vĩnh Long, cách trung tâm
thành phố chừng 4km và được tô điểm bằng cây cầu dây văng Mỹ Thuận hiện đại, khu du
lịch Trường An đắc địa với vị trí cửa ngõ giao lộ, nối tuyến liên thông với 13 tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long qua quốc lộ 1A. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, quanh năm cây trái
xanh mát, lại thêm không khí rất trong lành đã biến Trường An thành khu nghỉ dưỡng lý
tưởng và đẹp nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trên diện tích 16ha, các công trình xây dựng từ hạ tầng như hệ thống cầu cảnh, ao hồ,
hoa kiểng đến các điểm vui chơi giải trí, các khu nhà nghỉ đều được thiết kế và phân bố hài
hòa với cảnh quan khiến ai đến đây cũng đều dễ dàng nhận ra bầu khí nhẹ nhàng quen thuộc
của khu nhà vườn Nam bộ.
Tại khu du lịch Trường An hiện có 11 biệt thự với 30 phòng nghỉ tiêu chuẩn 2 sao, các
dịch vụ phụ trợ rất phong phú gồm nhà hàng 200 - 400 khách, bar rượu, massage, karaoke,
càfé sân vườn, ẩm thực ngoài trời, các dịch vụ giải trí thể thao như ca nhạc, tennis, billards,
câu lạc bộ thể hình, hồ bơi, câu cá, du lịch sinh thái và các loại hình du lịch trên nước như
pédale l’eau, lướt ván, du thuyền… Nơi đây còn hiện diện làng du lịch Mỹ Thuận hay khu
nghỉ dưỡng cao cấp với 30 nhà nghỉ và có cả phòng hội nghị…
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Đồng Tháp
Chùa Kiến An Cung
Chùa Kiến An Cung hay còn gọi là chùa Ông Quách tọa lạc tại phường 2, trung tâm thị
xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Đây là công trình văn hoá có một lối kiến trúc độc đáo, lộng lẫy
và trang nghiêm đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990.
Chùa được khởi công xây dựng từ năm Giáp Tý (1924) đến mùa thu năm Đinh Mão
(1927) thì làm lễ khánh thành. Chùa do một nhóm nguời Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung
Quốc) định cư tại Sa Đéc dựng nên để thờ cúng tổ tiên và dạy dỗ con cháu, cũng là để liên
kết cộng đồng, hội họp, bàn bạc việc buôn bán, trao đổi thông tin…
Chùa quay mặt ra rạch Cái Sơn, được xây theo kiểu chữ “Công” uy nghi, bề thế, gồm 3
gian, trong đó gian giữa rộng nhất là điện thờ (Kiến An Cung) gian bên tả là trụ sở tập hiền,
130
gian bên hữu là trường. Bên tả và bên hữu bằng nhau. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có
đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn làm trụ. Mái chùa lợp ngói theo gợn
sóng rồng, trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao, tạo mái ngói theo chữ “ngũ
hành”. Sáu đầu ngọn sóng là sáu cung điện thu nhỏ. Mái ngói được làm rất công phu, gồm 3
lớp: mặt trên là ngói, mặt giữa là gạch, cuối cùng là ngói.
Trước cửa chính điện có hai con kỳ lân bằng đá xanh to lớn, miệng ngậm trái châu,
chạm khắc tinh xảo. Hai bên tả, hữu là 2 vị thần Thiện – Ác. Bước vào bên trong là sân lộ
thiên nhỏ để dành làm chỗ cúng tế. Những cột lớn trong chánh điện, các tấm hoành phi, bao
lam, đối liễn đều được chạm trổ hoa lá, chim muông lộng lẫy, tôn nghiêm. Chánh điện chùa
thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Quan Công (Quan Vân Trường). Phía trong chánh tẩm là bệ
thờ ngài Quảng Trạch (Ông Quách Thánh Vương Công). Ông Quách là người quê huyện An
Khê, tỉnh Phúc Kiến, người có công giúp Tống Thái Tổ chinh phạt Nam Đường và xây
dựng đất nước nhà Tống.
Hằng năm chùa có 2 ngày lễ tế: ngày 22-2 và ngày 22-8 âm lịch. Mỗi 3 năm có thiết lập
trai đàn, cúng cầu siêu cho bá tánh quá vãng và cầu cho quốc thái dân an.
Vườn quốc gia Tràm Chim
Vườn quốc gia Tràm Chim thuộc tỉnh Đồng Tháp là một khu đất ngập nước, được xếp
trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam. Nơi đây có nhiều loài chim quý, đặc biệt là sếu
đầu đỏ, một loài chim cực kỳ quý hiếm, có tên trong sách đỏ. VQG có tổng diện tích 7.588
ha nằm trong địa giới của 5 xã (Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành B, Phú Thọ, Tân Công
Sinh) và Thị trấn Tràm Chim, với số dân trong vùng là 30.000 người.
Nét đặc sắc của VQG là có cảnh quan thiên nhiên với bao la sông nước, rừng tràm xanh
ngút ngàn và thảm thực vật phong phú có hơn 130 loài khác nhau. Vùng đất sáu tháng đồng
khô cỏ cháy, sáu tháng nước ngập trắng. Đây cũng chính là nơi cư trú của hàng trăm động
vật xương sống, hàng chục loài cá và hơn 198 loài chim nước, chiếm ¼ số loài chim có ở
Việt Nam.
VQG là nơi bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười,
bảo vệ khu vực di trú cho các loài chim di cư, đặc biệt là loài chim sếu, bảo tồn các
loài động – thực vật bản địa, các nguồn gen quý hiếm, và duy trì những điều kiện thích hợp
cho việc nghiên cứu môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Đến Tràm Chim, du khách sẽ bắt gặp ẩn hiện trước cảnh bao la của đất trời Đồng Tháp
mênh mông đầy nước. Vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 dương lịch, đây là nơi cư trú
của khoảng 60% quần thể sếu đầu đỏ, là loài chim cao nhất trong các loại chim bay trên thế
giới. Vào mùa nước lên (từ tháng 8 đến tháng 11) du khách sẽ được tận mắt nhìn thấy quần
thể sen, sung, lúa trời, năng, lác… cùng với các loài động vật như lươn, rắn, rùa, chăn, các
loài cá đồng và chim muôn như cò, diệc, vịt trời…
Về Đồng Tháp, đến VQG Tràm Chím ngắm đàn sếu múa đôi, nghe rừng tram xào xạc,
chắc chắn sẽ là những kỷ niệm khó quên của du khách khi đến tham quan VQG đặc sắc này.
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh An Giang
Miếu Bà Chúa Xứ
Miếu Bà Chúa Xứ thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Ðốc, tỉnh An Giang, được xây dựng
vào năm 1820, theo kiến trúc kiểu chữ "quốc". Trong miếu thờ tượng Bà Chúa được tạc
bằng đá xanh.
Theo truyền thuyết, miếu Bà do dân xây dựng để cúng bái vì tin vào sự linh thiêng của
Bà. Nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng, Thoại Ngọc Hầu đã đứng ra xây dựng theo lời
trăn trối của vợ (bà Châu Vĩnh Tế). Lúc đầu miếu cất bằng tre, lá, đến năm 1962, miếu lợp
131
ngói âm dương. Ðến năm 1972, ngôi miếu được xây lại, năm 1976 công trình mới hoàn
thành.
Miếu Bà Chúa Xứ kiến trúc theo kiểu chữ "quốc", có 4 mái hình vuông, nóc lợp bằng
ngói ống màu xanh. Nhà để tượng cũng 4 mái hình vuông. Trong miếu thờ tượng Bà Chúa
được tạc bằng đá xanh có giá trị nghệ thuật cao. Tượng tạc vào thế kỷ VI, theo mô típ tượng
thần Vinus thường thấy ở các nước Lào, Cam-pu-chia, Ấn Độ. Hội Bà Chúa Xứ được tổ
chức hằng năm rất lớn vào các ngày cuối tháng 4 âm lịch. Hàng vạn người đổ về đây dự lễ
tắm tượng Bà, lễ dâng hương cầu phúc lành.
Lễ hội Chol ChnamThmay
Lễ hội Chol ChnamThmay còn được gọi là "Tết năm mới" hay "Lễ chịu tuổi" . Đây
là lễ hội truyền thống của người dân tộc Khmer ở đồng bằng Nam bộ giống như tết Nguyên
Đán của người Kinh. Lễ hội được kéo dài 3 ngày trong tháng Chétt (lịch Khmer), đó là: 14,
15, 16 tháng 4 Dương lịch (năm nhuận thêm ngày 13-4 dương lịch) tại chùa và ở gia đình.
Ngày thứ nhất - Chol ChnamThmay (ngày đầu năm mới): Chọn giờ tốt nhất trong ngày,
có thể là 7 giờ sáng hoặc 5 giờ chiều, cũng có khi là 12 giờ đêm (tùy theo năm). Tất cả mọi
người tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, trang trọng và lịch sự nhất, mang theo lễ vật nhang
đèn vào chùa làm lễ rước Đại lịch "Maha Sangkran", đồng thời diễu hành ba vòng chung
quanh chính điện để đón chào Chư Thiên (Têvađa). Dưới sự hướng dẫn nghi lễ của một vị
Achar được tôn kính nhất trong chùa, tất cả cùng nhau cầu nguyện, mong năm mới Têvađa
về để hộ trì cho mọi người luôn được ấm no, hạnh phúc. Sau đó là lễ Phật. Tối đến các trò
chơi dân gian cùng các vũ điệu như múa Dù kê, Rôbăm, Lâm thôn... được mọi người
thưởng ngoạn và tham gia vui chơi rất náo nhiệt.
Ngày thứ hai - Wonbơf (năm nhuận tổ chức 2 ngày): Mọi người lên chùa làm lễ dâng
cơm sáng và trưa (Wen Chông Ham) cho các vị sư. Theo phong tục của người Khmer. Vào
các ngày Lễ, Tết, mọi người tỏ lòng thành tâm tín ngưỡng bằng cách mang cơm, thức ăn và
các loại bánh trái đến cho các sư sãi. Đáp lại các nhà sư sẽ làm lễ tạ ơn những người đã làm
ra hạt gạo, đã trồng trọt, chăn nuôi, tạo cho cuộc sống được ấm no, đầy đủ. Sau khi làm lễ
đưa thức ăn đến cho linh hồn những người đã khuất, các nhà sư làm lễ chúc phúc cho những
người đã có lòng mang lễ vât đến cúng chùa. Vào buổi chiều, người ta tổ chức Lễ đắp núi
cát (Puôn Phnon Khsach) để cầu phúc duyên và tránh khỏi những kiếp nạn.
Ngày thứ ba - Lơm săk: Còn gọi là ngày Lễ tắm Phật. Vào ngày nầy, các phật tử
Khmer, mang thức ăn và hoa quả đến chùa từ tinh mơ để đâng cơm cho các vị sư. Sau khi
thọ thực xong, thì các nghi lễ tắm Phật chính thức bắt đầu: Trước tiên, các nhà sư dùng nước
tinh khiết có ướp hương hoa thơm ngát. Họ dùng những cành hoa để vẫy những giọt nước
hoa lên tượng Phật. Trong làn khói hương nghi ngút, người Khmer thành tâm khấn nguyện
cầu mong Phật Trời gia hộ cho dân làng được dồi dào sức khoẻ, ruông rẫy tốt tươi và trúng
mùa. Họ cũng cầu chư Thiên hộ trì cho phum, sóc an lành, mọi người tai qua nạn khỏi và
đạt thành những điều ước nguyện. Sau lễ tắm Phật, người Khmer còn làm lễ tắm cho các
nhà sư cao niên trong chùa. Kế đến là lễ Khamatoos, tương tự như lế sám hối của người
Việt.
Các điểm tham quan du lịch ở TP. Cần Thơ
Chùa Ông (Quảng Triệu hội quán)
Chùa Ông tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng, nhìn ra bến Ninh Kiều, do người Hoa thuộc
hai Phủ Quảng Châu, Triệu Khánh (Quảng Đông - Trung Quốc) góp công xây dựng vào
những năm 1894 - 1896.
Vật liệu xây dựng quan trọng liên quan đến diện mại kiến trúc đều đưa từ Quảng Đông
sang. 107 năm trôi qua, Chùa Ông ở Cần Thơ vẫn trong tình trạng hoàn hảo từ hình dáng
132
bên ngoài đến trạm trổ nội điện. Trong chùa, gian chánh điện thờ Quan Công, bên phải thờ
Thổ Địa, Thiên Hậu Thánh Mẫu; bên trái thờ Đổng Vĩnh Trạng nguyên, Tài Bạch Tinh
Quân (Thần Tài)... Hàng năm, cứ vào ngày 24 tháng 6 âm lịch, các vị cao tuổi trong Ban trị
sự chùa cùng đông đảo người Hoa ở địa phương tổ chức lễ vía Ông, còn gọi là lễ vía Quan
Thánh Đế
Chùa Ông được đồng bào người Hoa, người Kinh thường xuyên đến viếng. Ngày Tết là
một sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo quan trọng, là những này lễ hội lớn nhất trong năm. Tùy
theo điều kiện kinh tế mà trong những ngày này đồng bào Hoa mang đến chùa heo quay,
heo sống, gà vịt, bánh trái, nhang đèn... Họ sửa sang trang hoàng lại chùa, tắm gội và ăn
mặc thật đẹp đẽ cùng nhau đốt cho các vị thần những nén hương với tất cả sự trong sạch và
tinh khiết của thể xác và tâm hồn. Thỉnh thoảng có những năm Ban quản trị còn tổ chức
sinh hoạt lễ hội dân gian truyền thống như múa lân, rồng, sư tử, thi đấu võ thuật, biểu diễn
nghệ thuật sân khấu Quảng Triều. Nhìn về mặt tôn giáo, tín ngưỡng của chùa Ông cũng như
một số chùa Hoa khác ta thấy một đặc điểm đáng lưu ý là phần tín ngưỡng có vẻ nổi bật hơn
tôn giáo.
Tất cả Chùa Ông do người Hoa cất ở Việt Nam đều không biệt lập trong khuôn viên
rộng lớn (dù người Hoa đủ khả năng mua những sở đất lớn) mà luôn cất gần sát lộ, hài hòa
với phố thị. Ngôi chùa rực rỡ, vui tươi và gần gũi với mọi người, như một biểu tượng của
bình anh, may mắn, phát đạt. Chùa Ông ở Cần Thơ là một di tích lịch sử - văn hóa được Bộ
Văn hóa Thông tin xếp hạng cấp quốc gia. Ngày nào cũng có người đến viếng Chùa Ông.
Không kể các ngày lễ hội thường kỳ hàng năm qui tụ đông đảo nhân dân, hầu như ngày nào
cũng có người đến viếng chùa. Chùa Ông có những ngày lễ sau: "Ngày vía" tức là ngày sinh
của các vị thần được thờ.
Chợ nổi Phụng Hiệp
Nằm cạnh quốc lộ 1A, cách TP Cần Thơ 30 km về phía Nam, chợ nổi Phụng Hiệp là
khu chợ nổi tiếng nhất của tỉnh Hậu Giang, nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hóa và là điểm thu hút nhiều du khách đến tham quan.
Chợ nổi Phụng Hiệp là một khu chợ tổng hợp với rất nhiều chủng loại hàng hoá khác
nhau không chỉ phục vụ cho người dân địa phương mà còn ra tận phía Bắc hay đến với bạn
bè khắp năm châu.
Từ buổi sớm tinh mơ, khi bầu trời còn giăng một màn sương mỏng, hàng trăm chiếc
thuyền của bà con rộn ràng kéo về đây như trẩy hội. Ta có thể bắt gặp rất nhiều màu sắc, âm
thanh khác nhau tạo nên một không khí nhộn nhịp, tươi vui… Nào là màu đỏ tươi của chôm
chôm, màu vàng ươm của những trái xoài cùng vị thơm ngọt của sầu riêng… những loại trái
cây tươi ngon được hái trong ngày cho kịp buổi chợ sớm. Nhìn trên cao cả khúc sông giống
như một dãy lụa lung linh đầy màu sắc. Tất cả đều là những đặc sản trái cây miền Tây Nam
Bộ thơm ngon, bạn có thể mua về làm quà cho bạn bè, người thân với giá rất phải chăng.
Đặc biệt, ở đây không cần quảng cáo hay rao bán, mỗi thuyền đều có một cây dài treo
những món hàng mà mình bán lên, như một “bản hiệu sống”, người mua không phải mất
công tìm kiếm. Ngoài ra, chợ còn có những ghe nhỏ bán thức ăn len lỏi qua các thuyền lớn
một cách điêu luyện. Ngồi trên thuyền, du khách có thể thưởng thức một tô hủ tiếu nóng hổi
hay một li cà phê thơm lừng giữa bốn bề sông nước… một cảm giác thật thú vị.
Chợ sáng luôn nhộn nhịp, cảnh thuyền bè đông đúc qua lại mua bán trông rất vui mắt.
Khác với chợ trên đất liền, chợ nổi tuy đông đúc nhưng không bao giờ ùn tắtc hay va quệt
vào nhau. Người lái thuyền đa số là phụ nữ với trang phục áo bà ba, chân thành, mộc mạc,
đậm chất quê….
133
Chợ nổi Phụng Hiệp như là nơi hòa quyện của màu sắc, âm thanh, hương vị, một nét
độc đáo rất riêng mà không nơi nào có thể có được. Khung cảnh đông đúc, ấm áp tình
người. Chính những điều đó đã sản sinh ra những câu hò, điệu lí, những bài vọng cổ hay
những giai điệu đàn ca tài tử mà đến bây giờ vẫn được lưu truyền.
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Cà Mau
Sân chim Ngọc Hiển
Sân chim Ngọc Hiển là điểm du lịch sinh thái và nghiên cứu về các loài chim trong môi
trường sinh thái tự nhiên được bảo vệ tốt của Cà Mau.
Sân chim Ngọc Hiển có diện tích tự nhiên rộng 130ha. Là một trong những sân chim tự
nhiên lớn nhất nước. Sân chim Ngọc Hiển có dòng sông Bảy Háp chảy qua cùng với hệ
thống kênh ngòi chằng chịt, với thảm thực vật phong phú và xanh tươi quanh năm đã là môi
trường thiên nhiên trong lành chưa bị con người huỷ hoại, nơi trú ngụ của các loài chim bay
đến hàng năm.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn và các sân chim đã hấp dẫn nhiều du khách tuam quan và
nghiên cứu.
Điểm du lịch Đất Mũi
Mũi Cà Mau hướng về phía tây, thuộc địa phận xóm Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc
Hiển, tỉnh Cà Mau, cách thành phố Cà Mau hơn 100 km. Bên trái mũi là biển Đông, bên
phải là biển Tây, tức Vịnh Thái Lan.
Hiện nay nếu xét về mặt địa lý thì mũi Cà Mau không phải là điểm cực Nam trên đất
liền của Việt Nam, mà chỉ nằm ở vùng cực Nam của Việt Nam. Điểm cực nam trên đất liền
của tỉnh Cà Mau nằm ở xã Viên An, huyện Ngọc Hiển, có độ vĩ 8°30' Bắc. Mũi Cà Mau là
điểm cực Tây của tỉnh Cà Mau.
Đến đất Mũi du khách có thể khám phá, tìm hiểu hệ sinh thái rừng ngập mặn và sự đa
dạng sinh học cao. Ngoài ra, đây cũng là vùng đất có nhiều loại hải sản ngon như cá kèo, sò,
tôm, cua… được các đầu bếp chế biến khéo léo đáp ứng nhu cầu ẩm thực của du khách.
Hiện nay, điểm du lịch Đất Mũi được xác định là một trong những điểm du lịch quan
trọng của Quốc gia. Tại đây hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đang được xây
dựng đáp ứng nhu cầu tham quan giải trí của du khách.
Các điểm tham quan du lịch ở tỉnh Kiên Giang
Đảo Phú Quốc
Phú Quốc là hòn đảo du lịch lớn nhất Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan thuộc huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Đảo nằm cách TP. Rạch Giá 120km về phía Tây, cách Hà Tiên
45km. Từ lâu, Phú Quốc đã nổi tiếng với du khách trong và ngoài nước được mệnh danh là
hòn đảo ngọc trên vùng biển Tây Nam của Tổ quốc.
Phú Quốc là một đảo lớn có diện tích là 573 km², chiều dài 50 km, nơi rộng nhất ở phía
bắc đảo là 25 km, có nhiều bãi biển đẹp trải dài từ phía bắc đến phía nam và mang trên mình
99 ngọn núi chập chùng, với dãy rừng nguyên sinh trùng điệp. Chính vì thế đã tạo cho hòn
đảo ngọc này bức tranh “sơn thủy hữu tình”, tiềm năng du lịch dồi dào, phong phú hấp dẫn
du khách thập phương. Đặc biệt năm 2006, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo
Kiên Giang được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, trong đó có Phú
Quốc, là niềm vinh dự tự hào của người dân nơi hòn đảo.
Những ai chưa biết Phú Quốc đều mong ước một lần được đặt chân đến hòn đảo ngọc
để thưởng thức những sản phẩm du lịch ở đây như: Tắm biển, tắm suối, leo núi, nghỉ dưỡng,
ngắm nhìn thắng cảnh thiên nhiên trong mối giao hòa giữa biển - trời - mây - nước - núi
rừng. Sản phẩm du lịch ở đây còn gắn kết với nhiều loại hình tìm hiểu các di tích lịch sử -
134
văn hóa, lịch sử - cách mạng, đời sống phong tục, tập quán cư dân xứ đảo, những làng chài,
làng nghề truyền thống, nghiên cứu hệ sinh thái tự nhiên và đặc biệt là tham quan di tích
lịch sử nhà tù Cây Dừa - một biểu tượng đẹp đẽ, sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng rất đỗi hào hùng của đất Nam bộ thành đồng. Những địa danh như: Dương Đông,
Dương Tơ, An Thới, Hàm Ninh, bãi Vòng, bãi Khem, bãi Sao, Gành Dầu, Cửa Cạn, suối
Tranh, suối Đá Bàn… luôn đọng lại trong lòng du khách khi chia tay Phú Quốc và hẹn ngày
trở lại. Phía nam đảo có 12 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, thuộc quần đảo An Thới và phía bắc
đảo, với hòn Móng Tay, hòn Đồi Mồi… là những nơi lý tưởng cho các hoạt động du thuyền,
câu cá, lặn ngắm san hô, dã ngoại, khám phá đảo hoang.
Những năm qua, tỉnh Kiên Giang đầu tư xây dựng hệ thống nhà hàng, khách sạn khá
sang trọng, với khoảng 1.800 phòng đủ tiện nghi sinh hoạt phục vụ du khách tham quan, du
lịch Phú Quốc, đồng thời mời gọi và thu hút nhiều dự án đầu tư phát triển du lịch. Đầu tư
hàng chục ngàn tỷ đồng phát triển hệ thống giao thông đường bộ kết nối trung tâm huyện
đảo Phú Quốc với các điểm du lịch. Hệ thống đường biển, đường hàng không nối đảo Phú
Quốc với đất liền được đầu tư nâng cấp đảm bảo vận chuyển hành khách an toàn, thuận lợi.
Hiện nay, đường biển với tàu cao tốc xuất phát từ thành phố Rạch Giá và thị xã Hà Tiên
với 5 chuyến đi và về mỗi ngày, bình quân 150 - 300 khách/tàu, phục vụ tốt nhu cầu đi lại
của nhân dân và du khách ra đảo. Đường hàng không có sân bay Phú Quốc tần suất 15 - 20
chuyến/ngày nối Phú Quốc với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Rạch Giá đưa
du khách khắp mọi miền đất nước, khách quốc tế đến với đảo rất tiện lợi.
4.2.8.2. Một số tuyến và chương trình du lịch xuất phát từ TP. Hồ Chí Minh
a) Một số tuyến du lịch (tuyến tham khảo)
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Mỹ Tho – Vĩnh Long
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Đồng Tháp
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – An Giang – Cần Thơ – Sóc Trăng – Cà Mau
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Hà Tiên – Cà Mau
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Phú Quốc
- Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Mỹ Tho – Vĩnh Long – Cần Thơ – Sóc Trăng – Cà Mau
b) Một số chương trình du lịch (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Mỹ Tho – Vĩnh Long (2 ngày 1 đêm,
phương tiện vận chuyển ô tô, tàu thủy)
Ngày 1: TP. Hồ Chí Minh – Vĩnh Long
Sáng: Khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh đi TP. Vĩnh Long. Đi thuyền trên sông Mê Kông
thăm chợ nổi Cái Bè. Ăn trưa tại cù lao Tân Phong.
Chiều: Tham quan cù lao Tân Phong. Ăn tối và nghỉ đêm tại TP. Vĩnh Long
Ngày 2: Vĩnh Long – Mỹ Tho – TP. Hồ Chí Minh
Sáng: Từ Vĩnh Long đi thuyền trên sông tham cù lao Thới Sơn. Ăn trưa tại cù lao Thới
Sơn
Chiều: Tham quan trại rắn Đông Tâm và chùa Vĩnh Tràng. Về TP. Hồ Chí Minh
4.3. Giới thiệu một số chương trình du lịch liên vùng (chương trình tham khảo)
4.3.1. Chương trình du lịch xuất phát từ trung tâm du lịch Hà Nội
Chương trình du lịch Hà Nội – Huế - Đà Nẵng – Nha Trang – Đà Lạt – TP. Hồ Chí
Minh – Hà Nội (14 ngày 13 đêm, phương tiện vận chuyển ô tô)
NGÀY 01: HÀ NỘI - HUẾ
135
Sáng: Xe và Hướng dẫn viên đón quý khách tại điểm hẹn khởi hành đi Huế, ăn trưa tại
TP Vinh.
Chiều: Tiếp tục hành trình đi Huế. Trên đường quý thăm Sông Bến Hải, Cầu Hiền
Lương khu vực phi quân sự (DMZ), hàng rào điện tử Macnamara, Thành cổ Quảng Trị - nơi
diễn ra trận đánh lịch sử 81 ngày đêm của Quân giải phóng trong mùa hè 1972. Ăn trưa tại
Quảng Trị.
Tối: Đến Huế, nhận phòng khách sạn và ăn tối
NGÀY 02: THAM QUAN TP HUẾ
Sáng: Thăm Đại Nội: Ngọ Môn, Lầu Ngũ Phụng, điện Thái Hòa, Thế Miếu, Cửu Đỉnh,
Hiểu Lâm Các.... Ăn trưa tại Huế
Chiều: Thăm lăng Khải Định và Lăng Tự Đức, chùa Thiên Mụ, đi chợ Đông Ba mua
quà lưu niệm. Du khách ăn tối tại nhà hàng.
20h00: Du thuyền Rồng nghe ca Huế và thả đèn cầu may trên trên sông Hương.
NGÀY 03: HUẾ - PHÚ YÊN
Sáng: Khởi hành đi Phú Yên, Đến Quảng Ngãi, du khách ghé thăm làng Sơn Mỹ thắp
hương tưởng niệm 504 người dân vô tội của Sơn Mỹ (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) ngã xuống
trong vụ thảm sát của lính Mỹ (16/3/1968 - 19/3/2009). Ăn trưa tại Quảng Ngãi.
Chiều: tiếp tục đi Phú Yên, đến nơi, du khách nhận phòng và ăn tối tại khách sạn.
NGÀY 04: PHÚ YÊN - NHA TRANG
Sáng: khởi hành đi Nha Trang, đến Nha Trang, Quý khách thăm Tháp bà Ponagar -
công trình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm, thăm khu Suối khoáng nóng
Tháp Bà tắm bùn khoáng - có tác dụng chữa bệnh: đau khớp, thần kinh toạ, đau gân, căng
thẳng thần kinh, nhức đầu kinh niên. Thăm thắng cảnh Hòn Chồng - một thắng cảnh nổi
tiếng của Nha Trang, thăm Chùa Long Sơn với bức tượng Kim Thần Phật Tổ cao 21 mét
ngự trên đỉnh núi cao. Nhận phòng và ăn trưa tại khách sạn.
Chiều: Đi cáp treo sang thăm khu du lịch Hòn Ngọc Việt, chiêm ngưỡng thế giới thuỷ
cung Vinpearl land lớn nhất Châu Á. Tham gia các trò chơi động, cảm giác mạnh (Quay
nhào lộn, đu quay Ngựa gỗ, đu quay voi), các trò chơi tĩnh (Tàu lượn, đua xe, khám phá vũ
trụ, trượt tuyết, lướt sóng, xe điện đụng) ...., đùa vui tại công viên nước Vinpearl, thưởng
thức Búp phê tối tại khu du lịch 5 sao Hòn Ngọc Việt. 20 giờ đi cáp treo về TP Nha Trang,
nghỉ đêm tại khách sạn.
NGÀY 05: NHA TRANG - HÒN LAO - ĐÀ LẠT
Sáng: Xe đưa quý khách đến Bến thuyền du lịch Đá Chồng, lên tàu đi thăm Đảo Hòn
Lao (KDL sinh thái nổi tiếng ở Nha Trang). Tại đây quý khách được xem các các chương
trình xiếc thú: Khỉ, Chó, Dê. Sau đó tiếp tục tham quan Hòn Lao, tiếp xúc thân thiện với đàn
khỉ tự nhiên, tham quan các công trình nghệ thuật: vườn Mỹ Nhân Ngư, vườn Thiên Long,
Tây Du Ký... Đặc biệt, Quý khách thử sức mình với các trò chơi mới lạ, hấp dẫn: đua xe thể
thao F1 (phí tự túc). Trưa về lại thành phố, ăn trưa tại nhà hàng.
Chiều: Khởi hành đi Đà Lạt thăm Tháp chàm PoklonGiarai, sau khi tham quan, quý
khách tiếp tục đi Đà Lạt. đến đỉnh đèo Ngoạn Mục, quý khách dừng chân ngắm cảnh và
chụp ảnh kỷ niệm, trên đường đến Đà Lạt, tham quan và chụp ảnh tại thác Prenn. Nhận
phòng và ăn tối tại khách sạn
NGÀY 06: THAM QUAN TP ĐÀ LẠT
Sáng: Đi cáp treo thăm Thiền Viện Trúc Lâm, thác Cam Ly, Thung Lũng Tình Yêu với
rừng thông reo rì rào bên hồ Đa Thiện, chùa Linh Phước - một ngôi chùa với kiến trúc độc
đáo được thiết kế bằng rất nhiều mảnh ve sành.
136
Chiều: Thăm làng nghề tranh thêu lụa truyền thống XQ, thăm đồi Mộng Mơ. Tối: tự do
dạo phố sương mù.
NGÀY 07: ĐÀ LẠT - TP HỒ CHÍ MINH
Sáng: Khởi hành về TP Hồ Chí Minh ăn trưa và thưởng thức đặc sản trà và Cafê tại Bảo
Lộc.
Chiều: Tới TP Hồ Chí Minh, nhận phòng và ăn tối tại khách sạn.
NGÀY 08: TP HCM - TÂY NINH - CỦ CHI
Sáng: Quý khách khởi hành đi Toà Thánh Tây Ninh - một công trình kiến trúc đặc sắc,
độc đáo với sự kết hợp hài hoà giữa mỹ thuật kiến trúc Á Đông và Phương Tây. Thăm Toà
Thánh lúc hành lễ.
Chiều: Thăm Địa đạo Củ chi - đất thép anh hùng với độ dài địa đạo hơn 200 km nằm
sâu trong lòng đất, thăm Đền tưởng niệm liệt sỹ Bến Dược. Chiều muộn về lại TP Hồ Chí
Minh
NGÀY 09: TP HỒ CHÍ MINH - MŨI NÉ
Sáng: khởi hành đi Phan Thiết, trên đường ghé thăm quan và tắm nước khoáng nóng
Bình Châu.
Chiều: Tới bãi biển Mũi Né, nhận phòng nghỉ, tự do tắm biển Mũi Né.
NGÀY 10: PHAN THIẾT - QUY NHƠN
Sáng: Khởi hành đi Quy Nhơn , ăn trưa trên đường, chiều đến Quy Nhơn, quý khách
nhận phòng và ăn tối tại khách sạn
NGÀY 11: QUY NHƠN - HỘI AN
Sáng: Tham quan khu du lịch Ghềnh Ráng, mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân.
Chiều: Khởi hành về Hội An, nhận phòng và ăn tối tại khách sạn.
Tối: Nghỉ tự do, quý khách tự do dạo chơi phố cổ thưởng thức các món ăn địa phương
như cơm gà, Mỳ Quảng, cao lầu ...
NGÀY 12: HỘI AN - ĐÀ NẴNG
Sáng: Tham quan khu phố cổ Hội an - Di sản văn hóa thế giới được UNESCO công
nhận năm 1999 - với các điểm: Khu phố cổ Hội An, Hội quán Phước Kiến, Chùa Cầu Nhật
Bản, bảo tàng sông Thu Bồn...
Chiều: khởi hành về Đà Nẵng, tham quan biển Non Nước, leo núi Ngũ Hành sơn, lễ
chùa Non Nước, thăm làng chạm khắc đá nổi tiếng dưới chân núi. Ăn tối và nghỉ qua đêm
tại khách sạn.
NGÀY 13: ĐÀ NẴNG - BÀ NÀ - HUẾ
Sáng: Khởi hành đi thăm Bà Nà - Núi Chúa, Quý khách đi cáp treo lên núi Bà Nà. tham
quan Đồi Vọng Nguyệt, chùa linh Ứng, Hầm rượu, chuồng ngựa cũ, đỉnh nhà Rông, đỉnh
Nghinh Phong, Cầu Treo Bà Nà và đỉnh núi Chúa ở độ cao 1.487m, ngắm nhìn toàn cảnh
Bà Nà và TP Đà Nẵng
Chiều: về Huế, nhận phòng và ăn tối tại khách sạn.
NGÀY 14: HUẾ - HÀ NỘI
Sau khi ăn sáng, xe đón quý khách về Hà Nội, ăn trưa tại Hà Tĩnh.
Tối về đến Hà Nội, xe đưa quý khách đến đúng điểm hẹn. Kết thúc chuyến du lịch.
4.3.2. Chương trình du lịch xuất phát từ trung tâm du lịch Hồ Chí Minh
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đà Nẵng - Huế - Hội An – Hà Nội – Lào
Cai – Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh (9 ngày 8 đêm, phương tiện vận chuyển ô tô, máy bay…)
137
Ngày 1: TP. HCM – ĐÀ NẴNG
Sáng: Từ TP. HCM đi sân bay Tân Sơn Nhất, khởi hành đi TP. Đà Nẵng. Ăn trưa.
Chiều: Tham quan bảo tàng Chăm, non nước Ngũ Hành Sơn, tắm biển Mỹ Khê. Ăn tối
và nghỉ đêm tại TP. Đà Nẵng
Tối: Quý khách tự do khám phá Phố Biển Đà Nẵng về đêm: Cầu Quay sông Hàn, Trung
Tâm Thương Mại, Khu phố ẩm thực, Café - Bar - Discotheque,...
Ngày 2: ĐÀ NẴNG – HỘI AN
Sáng: Ăn sáng. Xuất phát đi tham quan Bà Nà Hills bằng cáp treo dài nhất Đông Nam
Á, tham quan Núi Chúa, Suối Nai, Biệt Thự Hoàng Lan, Đồi Vọng Nguyệt, khu vui chơi
Fantasy Park: với các trò chơi phiêu lưu mới lạ, ngộ nghĩnh, hấp dẫn, hiện đại nhưng cũng
rất "cổ tích" thân thiện và gần gũi với thiên nhiên. Ăn trưa tại Bà Nà
Chiều: Tham quan Phố Cổ Hội An: Chùa Cầu, Nhà Cổ Phùng Hưng, Hội Quán Phước
Kiến, Cơ sở Thủ Công Mỹ Nghệ… tự do dạo phố đèn lồng nhiều màu sắc và mua những
món quà lưu niệm của địa phương. Ăn tối và nghỉ đêm tại Đà Nẵng.
Ngày 3: ĐÀ NẴNG – HUẾ
Sáng: Rời Đà Nẵng đi Cố Đô Huế - Di sản văn hoá Thế Giới, dừng chân tại làng đá Non
Nước, ngắm cảnh trên đèo Hải Vân. Đến Huế ăn trưa nhà hàng và nhận phòng K/sạn nghỉ
ngơi.
Chiều: Tham quan Đại Nội (Hoàng Cung của 13 vị vua triều Nguyễn, triều đại phong
kiến cuối cùng của Việt Nam: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà, Tử Cấm Thành, Thế Miếu, Hiển
Lâm Các, Cửu Đỉnh) và Chùa Thiên Mụ cổ kính, xây dựng từ những năm đầu của thế kỉ
XVII.
Tối: Ăn tối nhà hàng với đặc sản xứ Huế (Bánh bèo, lọc, nậm, khoái...). Ngồi thuyền
Rồng nghe CA HUẾ và thả hoa đăng cầu may trên dòng Hương thơ mộng.
Ngày 4: HUẾ - HÀ NỘI
Sáng: Ăn sáng, tham quan các lăng tẩm ở Huế (lăng Khải Định. Minh Mạng, Tự Đức).
Mua sắm tại chợ Đông Ba. Ăn Trưa, nghỉ ngơi trả phòng khách sạn.
Chiều: Từ Huế đi sân bay Phú Bài, khởi hành đi Hà Nội. Nghỉ đêm tại Hà Nội.
Ngày 5: THAM QUAN TP. HÀ NỘI
Sáng: Ăn sáng, đi tham quan Lăng Bắc, chùa Một Cột, bảo tàng Hồ Chí Minh, văn miếu
Quốc tử Giám. Ăn trưa, trả phòng khách sạn
Chiều: Tham quan đền Quán Thánh, Hồ Gươm, phố cổ. Mua sắm tại phố cổ và xem
múa rối nước tại nhà hát múa rối nước Thăng Long. Ăn tối lên tàu đi TP. Lào Cai.
Ngày 6: LÀO CAI - SA PA
Sáng: Tàu đến TP. Lào Cai. Du khách ăn sáng, khởi hành đi Sa Pa. Đến Sa Pa nhận
phòng khách sạn nghỉ ngơi, ăn trưa.
Chiều: Tham quan và chinh phục đỉnh núi Hàm Rồng: Vườn lan 1,2, vườn hoa Châu
Âu, Sân Mây…
Tối: Ăn tối, giao lưu văn nghệ tại nhà văn hóa trung tâm thị trấn. Nghỉ đêm tại Sa Pa.
Ngày 7: SA PA – LÀO CAI
Sáng: Ăn sáng. Khởi hành đi tham quan bản Cát Cát, Thác Bạc, Cầu Mây. Mua sắm tại
chợ Sa Pa. Ăn trưa, nghỉ ngơi trả phòng khách sạn.
Chiều: Đi tham quan bản Tả Phìn. Lên xe về TP. Lào Cai
Ngày 8: LÀO CAI – HÀ KHẨU – HÀ NỘI
138
Sáng: Ăn sáng. Du khách làm thủ tục đi thăm quan và mua sắm tại Hà Khẩu – Trung
Quốc. Ăn trưa tại Hà Khẩu. Về khách sạn nghỉ ngơi, trả phòng
Chiều: Tham quan đền Mẫu, đền Thượng và mua sắm tại chợ Cốc Lếu. Ăn tối tại nhà
hàng gần Ga Lào Cai.
Tối: Du khách lên tàu về Hà Nội.
Ngày 9: HÀ NỘI – TP HỒ CHÍ MINH
Sáng: Du khách tắm giặt, nghỉ ngơi tại khách sạn gần Ga Hà Nội. Ăn sáng. Khởi hành
đi tham quan làng gốm Bát Tràng. Ăn trưa.
Chiều: Từ Hà Nội, đi sân bay Nội Bài về TP. Hồ Chí Minh. Kết thúc chương trình.
Chương trình du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt - Đà Nẵng - Huế - Hội An – Hà Nội
– Hạ Long – Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh (10 ngày 9 đêm, phương tiện vận chuyển ô tô, máy
bay)
Ngày 1: TP. HCM – ĐÀ LẠT
Sáng: Từ TP. HCM đi Đà Lạt, trên đường đi thưởng thức đặc sản trà và Cafê tại Bảo
Lộc.
Chiều tối: Đến Đà Lạt. Du khách nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi, ăn tối.
Tối: Du khách tự do tham quan thưởng thức không khí se lạnh của TP. Đà Lạt. Mua
sắm tại chợ đêm Đà Lạt.
Ngày 2: THAM QUAN ĐÀ LẠT
Sáng: Đi tham quan: Nhà Thờ Domain de Marie, rồi sau đó Quý Khách lướt chân trên
những thảm cỏ xanh của thung lung Tình Yêu dưới khung cảnh thật trữ tình & lãng mạng,
đây là điểm du lịch hấp dẫn tại Đà Lạt. Thăm Đà Lạt Sử Quán – nơi có những con người
của Nghệ thuật, bằng đôi tay khéo léo và tâm hồn nghệ thuật đã tạo nên những bức tranh
thêu tuyệt mỹ “Tranh thêu tay XQ”. Ăn trưa
Chiều: Tham quan: Thiền viện Trúc Lâm. Xem biểu diễn chương trình văn nghệ cồng
chiêng cùng các Sơn Nữ Langbiang. Ăn tối và nghỉ đêm tại Đà Lạt
Ngày 3: ĐÀ LẠT – ĐÀ NẴNG
Sáng: Du khách ăn sáng, trả phòng khách sạn, lên đường ra sân bay Liên Khương, đi Đà
Nẵng. Ăn trưa tại Đà Nẵng
Chiều: Tham quan bảo tàng Chăm, non nước Ngũ Hành Sơn, tắm biển Mỹ Khê. Ăn tối
và nghỉ đêm tại TP. Đà Nẵng
Tối: Quý khách tự do khám phá Phố Biển Đà Nẵng về đêm: Cầu Quay sông Hàn, Trung
Tâm Thương Mại, Khu phố ẩm thực, Café - Bar - Discotheque,...
Ngày 4: ĐÀ NẴNG – HỘI AN
Sáng: Ăn sáng. Xuất phát đi tham quan Bà Nà Hills bằng cáp treo dài nhất Đông Nam
Á, tham quan Núi Chúa, Suối Nai, Biệt Thự Hoàng Lan, Đồi Vọng Nguyệt, khu vui chơi
Fantasy Park: với các trò chơi phiêu lưu mới lạ, ngộ nghĩnh, hấp dẫn, hiện đại nhưng cũng
rất "cổ tích" thân thiện và gần gũi với thiên nhiên. Ăn trưa tại Bà Nà
Chiều: Tham quan Phố Cổ Hội An: Chùa Cầu, Nhà Cổ Phùng Hưng, Hội Quán Phước
Kiến, Cơ sở Thủ Công Mỹ Nghệ… tự do dạo phố đèn lồng nhiều màu sắc và mua những
món quà lưu niệm của địa phương. Ăn tối và nghỉ đêm tại Đà Nẵng.
Ngày 5: ĐÀ NẴNG – HUẾ
Sáng: Rời Đà Nẵng đi Cố Đô Huế - Di sản văn hoá Thế Giới, dừng chân tại làng đá Non
Nước, ngắm cảnh trên đèo Hải Vân. Đến Huế ăn trưa nhà hàng và nhận phòng K/sạn nghỉ
ngơi.
139
Chiều: Tham quan Đại Nội (Hoàng Cung của 13 vị vua triều Nguyễn, triều đại phong
kiến cuối cùng của Việt Nam: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà, Tử Cấm Thành, Thế Miếu, Hiển
Lâm Các, Cửu Đỉnh) và Chùa Thiên Mụ cổ kính, xây dựng từ những năm đầu của thế kỉ
XVII.
Tối: Ăn tối nhà hàng với đặc sản xứ Huế (Bánh bèo, lọc, nậm, khoái...). Ngồi thuyền
Rồng nghe CA HUẾ và thả hoa đăng cầu may trên dòng Hương thơ mộng.
Ngày 6: HUẾ - HÀ NỘI
Sáng: Ăn sáng, tham quan các lăng tẩm ở Huế (lăng Khải Định. Minh Mạng, Tự Đức).
Mua sắm tại chợ Đông Ba. Ăn Trưa, nghỉ ngơi trả phòng khách sạn.
Chiều: Từ Huế đi sân bay Phú Bài, khởi hành đi Hà Nội. Nghỉ đêm tại Hà Nội.
Ngày 7: THAM QUAN TP. HÀ NỘI
Sáng: Ăn sáng, đi tham quan Lăng Bắc, chùa Một Cột, bảo tàng Hồ Chí Minh, văn miếu
Quốc tử Giám. Ăn trưa, trả phòng khách sạn
Chiều: Tham quan đền Quán Thánh, Hồ Gươm, phố cổ. Mua sắm tại phố cổ và xem
múa rối nước tại nhà hát múa rối nước Thăng Long. Ăn tối và ngủ đêm tại Hà Nội
Ngày 8: TP. HÀ NỘI – HẠ LONG
Sáng: Ăn sáng. Khởi hành đi Hạ Long, đến Hạ Long Quý khách đi du thuyền tham
quan Vịnh Hạ Long: hang Thiên Cung và Dấu Gỗ, đi qua Hòn Lư Hương, Hòn Gà Chọi,
Hòn Chó Đá, ghé tắm biển tại bãi biển Tip Tốp –
Chiều tối: Về khách sạn, nghỉ ngơi và dùng cơm chiều. Tự do hoặc vui chơi tại công
viên Hoàng Gia. Nghỉ đêm tại Hạ Long.
Ngày 9: HẠ LONG – HÀ NỘI
Sáng: Tham quan đảo Tuần Châu, với các chương trình biểu diễn xiếc độc đáo: Cá
Heo, Sư Tử Biển, Cá Sấu, Kung Fu… Ăn trưa.
Chiều: Rời Hạ Long về Hà Nội, trên đường đi ghé Hải Dương tham quan cơ sở gốm sứ,
lò bánh đậu xanh, bánh cốm và các mặt hàng đặc sản khác của miền Bắc. Ăn tối. Nghỉ đêm
tại Hà Nội.
Ngày 10: HÀ NỘI – TP HỒ CHÍ MINH
Sáng: Ăn sáng. Trả phòng khách sạn. Khởi hành đi tham quan làng gốm Bát Tràng. Ăn
trưa.
Chiều: Từ Hà Nội, đi sân bay Nội Bài về TP. Hồ Chí Minh. Kết thúc chương trình.
140
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thế Bình (2009), Non nước Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin
2. Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông (1993), Quy hoạch du lịch Quốc gia và vùng, NXB Khoa học
xã hội
3. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (2011), Địa lý Du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục
4. Trần Đức Thanh (2005), Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
5. Bùi Thị Hải Yến (2011), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục
6. http://vietnamtourism.com/ - Website của Tổng cục du lịch Việt Nam
141
Phục lục 1: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Bộ
TT Điểm du lịch/ điểm
tham quan
Tỉnh/thành
phố
Nội dung
1 Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội Trường ĐH đầu tiên ở Việt Nam
2 Hoàng thành Thăng Long Hà Nội Thành cổ (13 thế kỷ)
3 Chùa Một Cột Hà Nội Kiến trúc thế kỷ XI
4 Đền Ngọc Sơn, Hồ Hoàn
Kiếm Hà Nội
Thắng cảnh, di tích lịch sử
5 Chùa Trấn Quốc Hà Nội Lịch sử, kiến trúc thế kỷ XVIII-XIX
6 Chùa Tây Phương Hà Nội Kiến trúc nghệ thuật thế kỷ XVI
7 Chùa Trăm Gian Hà Nội Kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử
8 Bảo tàng Lịch sử
Hà Nội Trưng bày các hiện vật lịch sử Việt
Nam
9 Bảo tàng Dân tộc học Hà Nội Trưng bày về 54 dân tộc Việt Nam
10 Bảo tàng Cách mạng Hà Nội Trưng bày về cách mạng Việt Nam
11 Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội Trưng bày về Mỹ thuật Việt Nam
12 Khu phố cổ Hà Nội Hà Nội Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XI
13 Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh Hà Nội Lăng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh
14 Làng gốm Bát Tràng Hà Nội Làng nghề thủ công truyền thống
15 Chùa Hương Hà Nội Danh thắng, kiến trúc, nghệ thuật
16 VQG Ba Vì
Hà Nội Bảo tồn hệ thống động thực vật phong
phú, đa dạng
17 Khu du lịch Đồng Mô Hà Nội Danh thắng; sân golf
18 Khu di tích Cổ Loa Hà Nội Danh thắng, thành cổ
19
20 Làng cổ Đường Lâm
Hà Nội Làng cổ, kiến trúc nghệ thuật thế kỷ
XVII
21 Chùa Dư Hàng (Phúc Lâm
tự) Hải Phòng
Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ X
22 Đền Nghè
Hải Phòng Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ I, tái xây
dựng thế kỷ XIX
23 Đình Hàng Kênh
Hải Phòng Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII –
XVIII
24 Chùa Cổ Phiếu Hải Phòng Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIX
25 Biển Đồ Sơn Hải Phòng Danh thắng
26 Đảo Cát Bà và VQG Cát Bà
Hải Phòng Danh thắng
Voọc đầu trắng
27 Lễ hội Trọi Châu Hải Phòng Lễ hội cổ truyền
28 Khu di tích danh thắng Côn
Sơn Hải Dương
Danh thắng – chùa (thiền phái Trúc
Lâm)
29 Đền Kiếp Bạc Hải Dương Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIV
30 Kính Chủ - An Phụ Hải Dương Danh thắng
142
31 Văn miếu Mao Điền Hải Dương Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIX
32 Lễ hội Côn Sơn
Hải Dương Lễ hội tưởng nhớ Huyền Quang và
Trần Hưng Đạo
33 Vịnh Hạ Long
Quảng Ninh Di sản thiên nhiên thế giới năm 1994
và 2000. Vịnh kín trên biển.
34 Núi Bài Thơ Quảng Ninh Danh thắng
35 Núi Yên Tử
Quảng Ninh Danh thắng, nơi phát triển Phật pháp
của phái Trúc Lâm
36 Vân Đồn Quảng Ninh Đảo, danh thắng
37 Trà Cổ Quảng Ninh Danh thắng
38 Chùa Quỳnh Lâm
Quảng Ninh Chùa cổ, hình thành thế kỷ V, phát
triển qua nhiều triều đại Việt Nam
39 Đền Cửa Ông
Quảng Ninh Đình làng, kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ
XIX
40 Đình Quan Lạn
Quảng Ninh Đình làng, kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ
XVII
41 Di tích An Sinh Quảng Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
42 Đình Trà Cổ Quảng Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVI
43 Bãi cọc Bạch Đằng Quảng Ninh Di tích lịch sử
44 Lễ hội Bạch Đằng
Quảng Ninh Lễ hội cổ truyền tưởng nhớ Ngô
Quyền
45 Hội đền Cửa Ông
Quảng Ninh Lễ hội cổ truyền tưởng nhớ Trần
Quốc Tảng
46 Chùa Pháp Vân Hưng Yên Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIV
47 Đền thời Chử Đồng Tử Hưng Yên Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
48 Phố Hiến
Hưng Yên Phố cổ, kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ
XIII
49 Hội Chử Đồng Tử
Hưng Yên Lễ hội cổ truyeeng tưởng nhớ Chử
Đồng Tử
50 Chùa Long Đọi Hà Nam Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XII
51 Đền Trúc – Ngũ Động Sơn
Hà Nam Danh thắng, kiến trúc nghệ thuật thế
kỷ XII
52 Hội vật võ Liễu Đôi Hà Nam Lễ hội cổ truyền
53 Chùa Bái Đính Nam Định Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XX
54 Di tích cung điện Nhà Trần Nam Định Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
55 Chùa Phổ Minh Nam Định Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
56 Khu di tích Phủ Dày
Nam Định Quần thể di tích thờ “Tứ bất tử” của
Việt Nam
57 Chùa Keo Hành Thiện Nam Định Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XI
58 Khu bảo tồn thiên nhiên
Giao Thủy Nam Định
Bảo tồn hệ thống động thực vật phong
phú, đa dạng (các loài chim)
59 Lễ hội Phủ Dày Nam Định Lễ hội cổ truyền tưởng nhớ mẫu Liễu
143
Hạnh
60 Hội chợ Viềng
Nam Định Hội chợ bán cây trồng vật nuôi, họp
duy nhất vào ngày 8/1 hàng năm
61 Chùa Keo Thái Bình Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
62 Làng chạm bạc Đồng Xâm
Thái Bình Danh thắng, làng nghề thủ công
truyền thống
63 Bãi biển Đồng Châu Thái Bình Danh thắng
64 Hội chùa Keo
Thái Bình Lễ hội cổ truyền, suy tôn Thiền sư
Không Lộ
65 Cố đô Hoa Lư Ninh Bình Kinh đô nước Đại Cồ Việt thế kỷ X
66 Đền vua Đinh Ninh Bình Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
67 Đền vua Lê Đại Hành Ninh Bình Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
68 Tràng An Ninh Bình
69 Chùa Bích Động
Ninh Bình Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII,
XVIII
70 Tam Cốc – Bích Động Ninh Bình Danh thắng
71 VQG Cúc Phương Ninh Bình Bảo tồn hệ thống động thực vật
72 Nhà thờ Phát Diệm Ninh Bình Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIX
73 Suối nước nóng Kênh Gà Ninh Bình Suối nước chữa bệnh khớp, dạ dày
75 Khu du lịch Tam Đảo Vĩnh Phúc Khu nghỉ dưỡng, kiến trúc Pháp
76 Hồ Đại Lải Vĩnh Phúc Hồ nhân tạo, danh thắng
77 Thiền viện Trúc Lâm
Vĩnh Phúc Thiền viện thuộc dòng Trúc Lâm Yên
Tử
78 Làng gốm Hương Canh Vĩnh Phúc Làng nghề thủ công truyền thống
79 Tháp Bình Sơn Vĩnh Phúc Kiến trúc, nghệ thuật thời Lý Trần
80 Bản dân tộc Mường Hòa Bình Nét văn hóa đặc sắc của người Mường
81 Thung lũng Thung Nai
Hòa Bình Danh thắng, làng bản của người
Mường
82 Thung lũng Mai Châu Hòa Bình Danh thắng, làng bản của người Thái
83 Suối nước nóng Kim Bôi
Hòa Bình Suối nước nóng chữa bệnh viêm
khớp, dạ dày, đường ruột
84 Nhà máy thủy điện Hòa
Bình Hòa Bình
Nhà máy thủy điện lớn nhất Đông
Nam Á
85 Khu di tích Đền Hùng
Phú Thọ Khu di tích gắn với truyền thuyết vua
Hùng dựng nước
86 Chùa Phúc Khánh Phú Thọ Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XII
87 Đầm Ao Châu Phú Thọ Hồ tự nhiên, danh thắng
88 Hang và rừng Xuân Sơn
Phú Thọ Danh thắng; rừng cây một ngày thay
đổi mầu 4 lần
89 Lễ hội Đền Hùng Phú Thọ Giỗ tổ, quốc giỗ
90 Cao nguyên đá Hà Giang Hà Giang
91 Đồng văn – cổng trời Hà Giang Cực Bắc của Việt Nam, danh thắng
144
92 Dinh họ Vương
Hà Giang Kiến trúc, nghệ thuật dân tộc vùng
cao
93 Chợ tình Khâu Vai
Hà Giang Chợ tình, họp duy nhất vào ngày 27/3
âm lịch hàng năm
94 Lễ hội mừng nhà mới của
dân tộc Lô Tô Hà Giang
Lễ mừng nhà mới
95 Di tích Pắc Pó Cao Bằng Di tích lịch sử cách mạng Việt Nam
96 Thác Bản Giốc Cao Bằng Danh thắng
97 Hồ Thang Hen Cao Bằng Danh thắng
98 Đền Xuân Lĩnh Cao Bằng Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVI
99 Hội mời Mẹ Trăng Cao Bằng Lễ hội dân tộc của người Tày
100 Hội Lồng Tồng Cao Bằng Lễ hội dân tộc của người Tày - Nùng
101 Thị trấn Sa Pa Lào Cai Danh thắng, kiến trúc Pháp, chợ tình
102 Đỉnh Fansipan Lào Cai Nóc nhà của Đông Dương
103 Bãi đá cổ Sa Pa Lào Cai Di tích
104 Chợ phiên Bắc Hà
Lào Cai Chợ vùng cao, nét sinh hoạt văn hóa
đặc sắc của người H’Mông
105 Dinh thự Hoàng A Tưởng
Lào Cai Kiến trúc, nghệ thuật độc đáo đầu thế
kỷ XX
106
Bản Tả Phìn, Tả Van, Bản
Hồ Lào Cai
Nơi sinh sống của người dân tộc vùng
cao, phát triển hình thức du lịch
homestay
107 Đền Thượng Lào Cai Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIX
108 Đền Bảo Hà Lào Cai Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
109 Tết Nhảy của người Dao Đỏ Lào Cai Lễ hội dân tộc của người Dao
110 Hội múa xòe ở Tà Chải
Lào Cai Lễ hội dân tộc của người Tày để suy
tôn thần Nông
111 Hồ Ba Bể Bắc Kạn Danh thắng, hồ nước tự nhiên
112 VQG Ba Bể Bắc Kạn Bảo tồn hệ thống động thực vật
113 Thác Đầu Đẳng Bắc Kạn Danh thắng
114 Khu bảo tồn thiên nhiên
Kim Hỷ Bắc Kạn
Bảo tồn hệ thống động thực vật
115 Di tích lịch sử Pò Két Bắc Kạn Di tích lịch sử cách mạng
116 Di tích hầm bí mật Dôc
Tiệm và Hội trường chữ U Bắc Kạn
Di tích lịch sử cách mạng
117 Chùa Thạch Long
Bắc Kạn Chùa được xây dựng trong núi đá vôi
(thế kỷ XIX)
118 Ải Chi Lăng Lạng Sơn Di tích lịch sử
119 Thành nhà Mạc Lạng Sơn Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
120 Di tích Bắc Sơn Lạng Sơn Di tích khảo cổ học
121 Chùa Tam Thanh
Lạng Sơn Kiến trúc, nghệ thuật độc đáo thế kỷ
XVI, XVII
145
122 Chùa Tam Giáo – động Nhị
Thanh Lạng Sơn
Danh thắng, kiến trúc, nghệ thuật độc
đáo thế kỷ XVII
123 Núi Tô Thị Lạng Sơn Danh thắng
124 Núi Mẫu Sơn Lạng Sơn Danh thắng, nghỉ dưỡng
125 Chợ Kỳ Lừa Lạng Sơn Chợ vùng cao
126 Chợ và thị trấn Đồng Đăng Lạng Sơn Chợ biên giới vùng cao
127 Lễ hội Kỳ Lừa
Lạng Sơn Lễ hội truyền thống suy tôn ông Thân
Công Tài
128
Khu di tích Tân Trào
(Đình Tân Trào, Cây da Tân
Trào, đình Hồng Thái)
Tuyên Quang Di tích lịch sử cách mạng
129 Di tích lịch sử Đá Bàn
Tuyên Quang Di tích thể hiện tình hữu nghị Việt -
Lào
130 Rừng nguyên sinh Na Hang Tuyên Quang Bảo tồn hệ thống động thực vật
131 Thác Mơ Tuyên Quang Danh thắng
132 Lễ hội bản Giếng Tanh Tuyên Quang Lễ hội dân tộc của người Cao Lan
133 Chùa tháp Hắc Y
Yên Bái Danh thắng, kiến trúc, nghệ thuật độc
đáo thời Trần
134 Di tích Căng và đồn Nghĩa
Lộ Yên Bái
Di tích lịch sử cách mạng
135 Hồ Thác Bà Yên Bái Hồ nước nhân tạo, danh thắng
136 Đền Đông Cuông Yên Bái Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
137 Hồ Núi Cốc Thái Nguyên Hồ nhân tạo, danh thắng
138 Hang Phượng Hoàng, suối
Mỏ Gà Thái Nguyên
Danh thắng
130 Chùa Hang
Thái Nguyên Chùa xây dựng trong hang núi, kiến
trúc, nghệ thuật thế kỷ XV
140 Đình Phương Độ
Thái Nguyên Đình làng, kiến trúc nghệ thuật thời
nhà Lê
141 Di tích khảo cổ học Thần
Xa Thái Nguyên
Di tích khảo cổ học
142 Khu di tích núi Văn, núi Võ Thái Nguyên Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XV, XVI
143 Di tích lịch sử xã Tiên
Phong Thái Nguyên
Di tích lịch sử cách mạng
144 Di tích lịch sử nhà tù Chợ
Chu Thái Nguyên
Di tích lịch sử cách mạng
145 Bảo tàng văn hóa các dân
tộc Việt Nam Thái Nguyên
Trưng bày nét văn hóa đặc sắc các dân
tộc Việt Nam
146 Khu du lịch Khuôn Thần Bắc Giang Danh thắng
147 Hồ Cấm Sơn Bắc Giang Hồ tự nhiên, danh thắng
148 Khu di tích Suối Mỡ Bắc Giang Danh thắng, kiến trúc, nghệ thuật
149 Chùa Đức La Bắc Giang Kiến trúc, nghệ thuật thời nhà Trần
146
150 Đình Lỗ Hạnh Bắc Giang Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVI
151 Đình Thổ Hà Bắc Giang Kiến trúc, nghệ thuật thời nhà Lê
152 Lễ hội Yên Thế
Bắc Giang Lễ hội cổ truyền tưởng nhớ lãnh tụ
nông dân Hoàng Hoa Thám
153 Đền Đô Bắc Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thời nhà Lê
154 Chùa Dâu (Pháp Vân tự)
Bắc Ninh Chùa cổ, mang kiến trúc nghệ thuật từ
thế kỷ III
155 Đền Bà Chúa Kho Bắc Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XI
156 Chùa Bút Tháp Bắc Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVII
157 Chùa Phật Tích Bắc Ninh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ VII - X
158 Đình làng Đình Bảng
Bắc Ninh Đình cổ, kiến trúc nghệ thuật thế kỷ
XVII
159 Di tích núi Dinh Bắc Ninh Di tích lịch sử
160 Làng tranh Đông Hồ Bắc Ninh Làng tranh dân gian
161 Hội Lim
Bắc Ninh Lễ hội truyền thống gắn với các làn
điệu Quan họ
162 Hội làng Đình Bảng
Bắc Ninh Hội làng truyền thống, tưởng nhớ Cao
Sơn đại vương (thần núi)
163 Cụm di tích Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ Di tích lịch sử cách mạng thời chống
Pháp
164 Di tích Noọng Nhai
Lai Châu Di tích lịch sử cách mạng thời chống
Pháp
164 Đèo Pha Đin Lai Châu Danh thắng, với độ cao 1.000m
166 Hồ Pha Khang Lai Châu Hồ tự nhiên, danh thắng
167 Hang Thẩm Báng Lai Châu Danh thắng
168
Lễ hội Mừng măng mọc
Lai Châu
Lễ hội dân tộc của dân tộc Mảng,
Kháng, La Hủ…; cầu mùa màng tươi
tốt
169 Lễ cúng bản của người
Cống Lai Châu
Lễ hội dân tộc tại các bản vùng cao,
cầu mùa mang tươi tốt
170 Nhà tù và bảo tàng Sơn La Sơn La Di tích lịch sử cách mạng
171 Cao nguyên Mộc Châu Sơn La Danh thắng
172 Lễ hội Hoa Ban
Sơn La Lễ hội của dân tộc Thái, cầu cuộc
sống no ấm, bình yên
173 Trò Tung tìm bạn, tìm
duyên Sơn La
Trò chơi của dân tộc Tày, tổ chức vào
mùa xuân, hình thức giao duyên
174 Thành nhà Hồ Thanh Hóa Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIV
175 Di tích Lam Kinh
Thanh Hóa Lăng tẩm của vua Lê, kiến trúc, nghệ
thuật thế kỷ XV
176 Bãi biển Sầm Sơn Thanh Hóa Danh thắng
177 VQG Bến En
Thanh Hóa Bảo tồn hệ động, thực vật phog phú,
đa dạng của vùng
147
178 Động Từ Thức Thanh Hóa Danh thắng
179 Làng Nhồi
Thanh Hóa Làng nghề thủ công truyền thống với
nghề chạm khắc đá
180 Lễ hội Lam Kinh
Thanh Hóa Lễ hội truyền thống tưởng nhớ công
lao của vị anh hung dân tộc Lê Lợi
181
Quê hương Chủ tịch Hồ Chí
Minh Nghệ An
Khu tưởng niệm người có công sinh
thành, nuôi dưỡng Chủ tịch Hồ Chí
Minh
182 Đền Cuông Nghệ An Đền cổ, thờ Thục An Dương Vương
183 Đền Cờn Nghệ An Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XV
184 Đình Hoàng Sơn
Nghệ An Đình cổ, kiến trúc nghệ thuật thế kỷ
XVIII
185 Khu du lịch Núi Quyết Nghệ An Danh thắng
186 Bãi biển Cửa Lò Nghệ An Danh thắng
187 Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Mát Nghệ An
Bảo tồn hệ thống động, thực vật
phong phú đa dạng của tỉnh
188 Chùa Chân Tiên Hà Tĩnh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
189 Chùa Tượng Sơn Hà Tĩnh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XVIII
190 Khu lưu niệm Nguyễn Du Hà Tĩnh Kiến trúc, nghệ thuật thế kỷ XIX
191 Ngã ba Đồng Lộc Hà Tĩnh Di tích lịch sử cách mạng
192 Núi Thiên Cầm
Hà Tĩnh Danh thắng, chùa Yên Lạc mang kiến
trúc, nghệ thuật thế kỷ XIII
193 Biển Thiên Cầm Hà Tĩnh Danh thắng
194 Hồ Kẻ Gỗ Hà Tĩnh Công trình thủy lợi
148
Phục lục 2: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ
Tỉnh/thành
phố
Tên cơ sở lưu trú Hạng
sao
Địa chỉ Số
phòng
Hà Nội
Melia Hanoi 5 sao 44B Lý Thường Kiệt 306
Hilton Hanoi Opera 5 sao 49 Hai Bà Trưng 269
Moevenpick Hanoi 5 sao 83A Lý Thường Kiệt 154
Sofitel Metropole Hanoi 5 sao 15 Ngô Quyền 265
Hanoi Horison 5 sao 40 Cát Linh 250
Hanoi Daewoo 5 sao 360 Kim Mã 411
Inter Continental Ha noi
Westlake 5 sao
1A Nghi Tàm 359
Sheraton 5 sao 11 Xuân Diệu, Tây Hồ 299
Nikko Hanoi 5 sao 84 Trần Nhân Tông 260
Grand Plaza Hanoi 5 sao 117 Trần Duy Hưng 618
Sedona Suites Hanoi 5 sao 96 Tô Ngọc Vân 175
Sofitel Plaza Hanoi 5 sao Số 1 Đường Thanh Niên 322
Crowne Plaza West Hanoi 5 sao 36 Lê Đức Thọ 393
Fortuna Hanoi 4 sao 6B Láng Hạ 200
Thắng Lợi 4 sao 200 Yên Phụ 178
Bao Son International 4 sao 50 Nguyễn Chí Thanh 105
Tản Đà Resort & Spa 4 sao Tản Lĩnh, Ba Vì 18ha
Asean Resort & Spa 4 sao 21A Hòa Lạc, Thạch Thất 100
Riverside Hanoi Hote 3.5 sao 118 Hoàng Quốc Việt 85
Hải Phòng
Cat Ba Island Resort & Spa 4 sao Biển Cát Cò 1, TT Cát Bà 109
Cat Ba Sunrise Resort 4 sao Biển Cát Cò 1, TT Cát Bà 39
Cat Ba Beach Resort 3 sao Biển Cát Cò 2, TT Cát Bà 29
Sea Pearl 4 sao 21 Đường 1/4, TT Cát Bà 82
Princess Hai Phong 4 sao Số 3 Lê Hồng Phong 82
Best Western Pearl River 4 sao Km8, Phạm Văn Đồng 101
Hữu Nghị 4 sao 60A, Điện Biên Phủ 127
Hải Dương
Nam Cường 4 sao Số 10, Đại lộ 30/10 181
Trường Thành HNA 4 sao Số 9, Đường Thanh Niên 142
Sao Đỏ 3 sao 119 Nguyễn Trãi, Sao Đỏ 50
Quảng Ninh
Sài Gòn Hạ Long 4 sao 168 Đường Hạ Long 228
Tuan Chau Island Holiday
Villa Ha Long Bay 4 sao
Đảo Tuần Châu 247
Halong Spring 4 sao 10 Hạ Long 167
Heritage Halong 4 sao 88 Hạ Long 101
Grand Halong 4 sao 186 Hạ Long 117
Novotel Halong 4 sao Đường Hạ Long 214
149
Morning Star 4 sao Đảo Tuần Châu 106
Asean Halong 4 sao Đường Hậu Cần 101
Ninh Bình
Emeralda Resort & Spa
Ninh Binh 5 sao
Xã Gia Vân, huyện Gia
Viễn 172
Ninhbinh Legend 4 sao Tiên Đồng, Ninh Khánh 108
Cúc Phương Resort & Spa 3 sao Đồng Tâm, Cúc Phương 86
Hoang Son Peace 4 sao
Đường Trịnh Tú, Ninh
Khánh 130
Lào Cai
Mường Thanh Sapa 4 sao 44 Ngũ Chi Sơn, Sa Pa 105
Châu Long 2 4 sao 33 Cầu Mây, Sa Pa 95
Victoria Sapa Resort&Spa 4 sao Hoàng Diệu, Sa Pa 77
Holiday Sapa 3 sao 16 Mường Hoa, Sa Pa 52
Hàm Rồng 3 sao Hàm Rồng, Sa Pa 42
Ngôi Sao 3 sao 003 Hoàng Liên, Lào Cai 58
Thiên Hải 3 sao 306 Yên Khánh, Lào Cai 45
Lạng Sơn Mường Thanh 4 sao 68 Ngô Quyền 158
Nghệ An
Mường Thanh Sông Lam 5 sao 13 Quang Trung, Vinh 425
Saigon Kim Lien Resort 4 sao 212 Bình Minh, Cửa Lò 96
Bãi Lữ Resort 4 sao Nghi Xuyên, Nghi Lộc 135
Phương Đông 4 sao 02 Trường Thi, Vinh 135
Mường Thanh Diễn Châu 4 sao Khối 4, Diễn Châu 93
Thượng Hải – Vinh 3 sao 26 Lê Lợi, Vinh 86
Thái Bình Dương 3 sao 226 Bình Minh, Cửa Lò 180
150
Phục lục 3: Hệ thống nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ
Tỉnh/thành
phố
Tên nhà hàng Địa chỉ Đặc trưng
Hà Nội
Sen Hồ Tây 614 Lạc Long Quân Buffet món ăn dân tộc
Quán Ăn Ngon 18 Phan Bội Châu Món ngon dân tộc
Thang Long Restaurant 201 Âu Cơ Món ngon dân tộc
Marina Hanoi 12 Trấn Vũ Buffet, món ăn Mông
Cổ
Nam Phương 19 Phan Chu Trinh Món ăn dân tộc
Highway 5 Hàng Tre Món ăn dân tộc
Tây Bắc 20ATT17 Văn Quán Món ăn vùng Tây Bắc
Lã Vọng 2A Nguyễn Thị Thập Món ăn dân tộc, hải sản
Minh Việt 16 Trần Thái Tông Món ngon dân tộc
Chả cá Lã Vọng 19-31 Đường Thành Chả cá
Phố Biển – Tràng Thi 14 Tràng Thi Món ăn hải sản Việt
Loving Hut Thế giới
Chay
192/4, Quán Thánh Món ăn chay Việt
Nhà hàng Dakshin 94 Hàng Trống Món ăn chay Ấn Độ
Bồ Đề Tâm 68 Phạm Huy Thông Món ăn chay Việt
Van Nam Restaurant 27 Lý Thường Kiệt Món ăn Trung Quốc
Lục Thủy Chinese 16 Lê Thái Tổ Món ăn Trung Quốc
Long Đình 64B Quán Sứ Món ăn Á
Givral 78 Láng Hạ Các loại bánh ngọt Châu
Âu
Triều Nhật Asahi Sushi 288 Bà Triệu Món ăn Nhật
Nhật Bản Kimono 52-54 Lý Thường
Kiệt
Món ăn Nhật
Hàn Quốc Koreana 106 Cống Vị Món ăn Hàn
King BQQ – Phan Chu
Trinh
31 Phan Chu Trinh Món ăn Hàn
Chuỗi nhà hàng Thái
Express
7 Đinh Tiên Hoàng
Tầng1, 24T2 Trung
Hòa
Món ăn Thái
Vijit Thái 44 Thị Sách Món ăn Thái
Cali An Dương 68 An Dương Món ăn Âu
Grillo 116 Bà Triệu Món ăn Italia
Le Gourmet Khách sạn Daewoo –
360 Kim Mã
Món ăn Pháp
Sen Xanh 40 Triệu Việt Vương Món ăn Âu
Noble House 19 khu 4 TT, Cát Bà Món ăn hải sản
Green Mango 14 đường 1/4 Cát Bà Món ăn hải sản
151
Hải Phòng
Harbour 4 Trần Phú, Hải
Phòng
Buffet, món ăn Âu
Sao Mai 60 Điện Biên Phủ Món ăn hải sản, dân tộc
Harbour View 60 Trần Phú Món ăn Á, Âu
Ngói Đỏ 198 Nguyễn Văn Linh Món ăn Á, Âu
Hoa Pancy 3D Hoàng Diệu Buffet, món ăn Á
Quảng Ninh
Anh Tú Bến Do, Cẩm Phả Món ăn hải sản
Mithrin Hùng Thắng, Bãi
Cháy
Món ăn Á, Âu
Panorama Hạ Long, Bãi Cháy Món ăn Á, Âu
Vân Khánh 21 Lê Quý Đôn Món ăn Á
Cổ Ngư Hạ Long, Bãi Cháy Món ăn Á, Âu
Tuấn Hiền Bến Do, Cẩm Phả Món ăn hải sản, dân tộc
Cua Vàng Tổ 9, Bãi Cháy Món ăn Á, Âu
Phù Đổng 6A Lê Thánh Tông Món ăn hải sản, dân tộc
Sen Vàng 46 Nguyễn Thị Điểm Món ăn hải sản, dân tộc
152
Phục lục 4: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Trung Bộ
TT Điểm du lịch/ điểm
tham quan
Tỉnh/thành
phố
Nội dung
1 Đèo Ngang Quảng Bình Danh thắng
2 Sông Gianh Quảng Bình Danh thắng, dấu tích lịch sử
3 VQG Phong Nha – Kẻ Bàng Quảng Bình Di sản thiên nhiên, danh thắng
4 Bãi biển Nhật Lệ Quảng Bình Danh thắng
5 Địa đạo Vĩnh Linh, Vĩnh
Mốc Quảng Trị
Di tích lịch sử cánh mạng
6 Sông Bến Hải – cầu Hiền
Lương Quảng Trị
Di tích lịch sử cánh mạng
7 Thành cổ Quảng Trị Quảng Trị Công trình kiến trúc, di tích lịch sử
8 Cố đô Huế Huế Công trình kiến trúc, di tích lịch sử
9
Hệ thống lăng tẩm Huế
(lăng Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đứa,
Dục Đức, Đồng Khánh,
Khải Định)
Huế Công trình kiến trúc, di tích lịch sử
10 Chùa Thiên Mụ Huế Công trình kiến trúc, di tích lịch sử
11 Lăng Dương Nỗ Huế Danh thắng
12 Cầu Tràng Tiền Huế Danh thắng
13 Sông Hương Huế Danh thắng
14 Nhã nhạc cung đình Huế Huế Di sản văn hóa phi vật thể
15 Bãi biển Thuận An Huế Danh thắng
16 Bãi biển Lăng Cô Huế Danh thắng
17 VQG Bạch Mã Huế Danh thắng, khu bảo tồn thiên nhiên
18 Đèo Hải Vân Huế Danh thắng
19 Bán đảo Sơn Trà đến bãi
biển Non Nước Đà Nẵng
Danh thắng
20 Bà Nà Hills Đà Nẵng Danh thắng
21 Phố cổ Hội An Quảng Nam Phố cổ, công trình kiến trúc, văn hóa,
ẩm thực
22 Cù lao Chàm Quảng Nam Danh thắng
23 Thánh địa Mỹ Sơn Quảng Nam Công trình kiến trúc, di tíc lịch sử -
văn hóa
153
Phục lục 5: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ
Tỉnh/thành
phố
Tên cơ sở lưu trú Hạng
sao
Địa chỉ Số
phòng
Quảng Bình
Sun Spa Resort Quảng
Bình 5 sao
Đồng Hới, TP Quảng Bình 234
Sài Gòn – Quảng Bình 3 sao 20 Quách Xuân Kỳ, Tp.
Đồng Hới 95
Mường Thanh - Quảng
Bình 3 sao
119 Trương Pháp, Đồng
Hới 92
Quảng Trị
Mêkông – Quảng Trị 3 sao 66 Lê Duẩn, Tx. Đông Hà 75
Sài Gòn Đông Hà Quảng
Trị 4 sao
1 Bùi Thị Xuân, TP. Đông
Hà 98
Huế
Ana Madera Huế 5 sao Bãi biển Thuận An 28 ha
Best Western Premier
Indochine Palace 5 sao
105 Hùng Vương, TP. Huế 222
Romance Huế 4 sao 16 Nguyễn Thái Học, Thừa
Thiên Huế 113
Hương Giang Resort & Spa 4 sao 51 Lê Lợi, TP. Huế 165
Midtown Huế 4 sao 29 Đội Cung, TP. Huế 145
Green Huế 4 sao Số 2 Lê Lợi, TP. Huế 198
Lăng Cô Beach Resort 3 sao TT Lăng Cô, Huế 88
Đà Nẵng
Morin Bana Hill 4 sao An Sơn, Đà Nẵng 58
Sandy Beach Non Nước 4 sao 255 Huyền Trần Công
Chúa , Ngũ Hành Sơn 118
Brilliant Hải Châu 4 sao 162 Bạch Đằng, Q. Hải
Châu 148
Gold Đà Nẵng 3 sao 24 Núi Thành 72
Quảng Nam
Swiss-Belhotel Golden
Sand Resort & Spa 5 sao
Đường Thanh Niên, Cửa
Đại 212
Palm Garden Beach Resort
& Spa 5 sao
Đường Lạc Long Quân,
Cửa Đại 160
River Beach Resort &
Residences 4 sao
Bãi biển Cửa Đại 85
Qreen Fiel Hội An 3 sao 423 Cửa Đại 60
Đèn Lồng – Hội An 3 sao 288 Nguyễn Duy Hiệu 65
Indochina Hội An 3 sao 87 Cửa Đại 68
Phước An River 3 sao 242 Cửa Đại, Tp.Hội An 54
Quảng Ngãi
Central Quảng Ngãi 4 sao 1 Lê Lợi 90
Petrosetco Tower 4 sao 1 An Dương Vương 86
Đức Long – Gia Lai - Dung
Quất 4 sao
Khu kinh tế Dung Quất 108
154
Phục luc 6: Một số nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ
Tỉnh/thành
phố
Tên nhà hàng Địa chỉ Đặc trưng
Huế
Năm Châu Hội Quán 4 Kim Long, TP Huế Món ăn cung đình, hải
sản
Nhà hàng nổi Sông
Hương
Lê Lợi, TP. Huế Món ăn cung đình, hải
sản và đặc trưng Huế
Huế Cổ 4/4/8 kiệt 35, Phạm
Thị Liên
Món ăn cung đình, hải
sản và đặc trưng Huế
Loving Hut 128 An Dương
Vương
Món ăn chay
Sunlight Bar &
Restaurant
Phạm Ngũ Lão, TP
Huế
Món ăn truyền thống,
hiện đại
Nhà hàng Cung Đình 38 Nguyễn Sinh Sắc Món ăn cung đình
Tịnh Lâm Viên 112A Trường Chinh Món ăn cung đình, hải
sản
Restaurant Liberty 28 Phan Văn Trường Món ăn hải sản, món ăn
Âu
Aroma Huế 34-36 Chu Văn An Món ăn Á, Âu
Phương Đông
Restaurant
1 Nguyễn Huệ Món ăn Á, hải sản
Đà Nẵng
Hải sản Ngọc Sương Lô 1 - A2 Khu biệt
thự Đảo Xanh
Món ăn hải sản
Memory Lounge Bar &
Restaurant
7 Bạch Đằng, TP Đà
Nẵng
Món ăn Á, Âu
Odev Restauant 7 Pasteur Món ăn Âu
Indochina Cafe &
Restaurant Furama
Trường Sa, Ngũ Hành
Sơn
Món ăn Á, Âu
Moonlight Trường Sa, Ngũ Hành
Sơn
Món ăn hải sản
Apsara - Ẩm thực
Chăm
222 Trần Phú Ẩm thức Chămpa, món
ăn dân tộc
Quảng Nam
Phố Hội I, II T1 Cẩm Nam, TP Hội
An
Món ăn Việt
Hòa Hưng Lô 1 biển Cửa Đại Món ăn hải sản
Green Moss 341 Nguyễn Duy
Hiệu
Món ăn Á
Blue Dragon 46 Bạch Đằng Món ăn Á, Âu
Hoàng Hà 216 Nguyễn Duy
Hiệu
Món ăn Á, hải sản
Hội An Hải Sản 64 Bạc Đằng Món ăn hải sản
Hồng Phúc 88 Bạch Đằng Món ăn Âu
Châu Việt 101 Lý Thái Tổ Món ăn Âu
155
Phục lục 7: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch
Nam Trung Bộ và Nam Bộ
TT Điểm du lịch/ điểm
tham quan
Tỉnh/thành phố Nội dung
1 Chùa Giác Lâm TP. Hồ Chí Minh Công trình kiến trúc thế kỷ XVIII
2 Chùa Vĩnh Nghiêm TP. Hồ Chí Minh Công trình kiến trúc thế kỷ XX
3 Chùa Giác Viên TP. Hồ Chí Minh Công trình kiến trúc thế kỷ XVIII
4 Địa đạo Củ Chi TP. Hồ Chí Minh Di tích lịch sử cách mạng
5 Khu lưu niệm Bác Hồ
(Bến cảng Nhà Rồng) TP. Hồ Chí Minh
Di tích lịch sử cách mạng
6 Dinh Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh Công trình kiến trúc
7 Bảo tàng lịch sử Việt Nam
TP. Hồ Chí Minh Trưng bày hiện vật về lịch sử Việt
Nam
8 Công viên Đầm Sen TP. Hồ Chí Minh Khu vui chơi, giải trí
9 Khu du lịch Suối Tiên TP. Hồ Chí Minh Danh thắng, khu vui chơi, giải trí
10 Làng du lịch Bình Quới TP. Hồ Chí Minh Danh thắng, khu vui chơi, giải trí
11 Chợ Bến Thành TP. Hồ Chí Minh Chợ
12 Khu rừng Sác ngập mặn
Cần Giờ TP. Hồ Chí Minh
Hệ sinh thái rừng ngập mặn
13 Tháp Bà (Tháp Ponagar) Nha Trang Công trình kiến trúc người Chăm
14 Khu vui chơi giải trí
Vinperland Nha Trang
Khu vui chơi giải trí
15 Chùa Long Sơn Nha Trang Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
16 Thành Diên Khánh Nha Trang Công trình kiến trúc thế kỷ XVIII
17 Bán đảo Cam Ranh Khánh Hòa Danh thắng
18 Vịnh Vân Phong Khánh Hòa Vịnh kín, danh thắng
19 Đại Lãnh Khánh Hòa Danh thắng
20 Cà Ná Ninh Thuận Danh thắng
21 Mũi Né Bình Thuận Danh thắng
22 Hồ Xuân Hương Đà Lạt Danh thắng
23 Thung Lũng Tình Yêu Đà Lạt Danh thắng
24 Dinh Bảo Đại Đà Lạt Công trình kiến trúc
25 Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
26 Khu du lịch Lang Biang Đà Lạt Khu du lịch
27 Thác Đatala Đà Lạt Danh thắng
28 Thác Liên Khương Đà Lạt Danh thắng
29 VQG Yok Đôn Đắc Lắc Hệ thống động thực vật phong phú
30 Hồ Lắk Đắc Lắc Danh thắng
31 Bãi Sau Vũng Tàu Danh thắng, bãi biển
32 Chùa Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
156
33 Ngọn Hải Đăng Vũng Tàu Công trình kiến trúc
34 Lăng Cá Ông Vũng Tàu Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
35 Suối nước khoáng nóng
Bình Châu Vũng Tàu
Suối nước nóng, khu bảo tồn thiên
nhiên
36 Côn Đảo
Vũng Tàu Danh thắng, di tích lịch sử cách
mạng
37 Vườn cây ăn trái Lái Thiêu
và khu du lịch Cầu Ngang Bình Dương
Khu vui chơi giải trí, đặc sản hoa
quả
38 Làng sơn mài Tương Bình
Hiệp Bình Dương
Làng nghề truyền thống
39 Lạc Cảnh Đại Nam Văn
Hiến Bình Dương
Khu vui chơi giải trí, công trình kiến
trúc
40 Chùa Bửu Long Đồng Nai Công trình kiến trúc thế kỷ XVII
41 Sông Đồng Nai và thác Trị
An Đồng Nai
Danh thắng
42 VQG Cát Tiên Đồng Nai Hệ thống động thực vật phong phú
43 Hồ thủy điện Trị An và
khu rừng Mã Đà Đồng Nai
Danh thắng
44 Tòa thánh Tây Ninh Tây Ninh Thánh địa đạo Cao Đài
45 Núi Bà Đen Tây Ninh Danh thắng
46 Hồ Dầu Tiếng Tây Ninh Công trình thủy lợi
47 Chùa Vĩnh Tràng Mỹ Tho Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
48 Cù lao Thới Sơn Mỹ Tho Khu du lịch
49 Trại rắn Đồng Tân Mỹ Tho Trại rắn
50 Chợ nổi Cái Bè Tiền Giang, Vĩnh
Long, Bến Tre
Chợ nổi bán các đặc sắc vùng sông
nước ĐBSCL
51 Cù lao An Bình và Bình
Hòa Phước Vĩnh Long
Danh thắng
52 Khu di tích Gò Tháp Đồng Tháp Khu di tích lịch sử
53 Chùa Kiến An Cung Đồng Tháp Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
54 Chùa Bà Đồng Tháp Công trình kiến trúc người Hoa
55 VQG Tràm Chim Đồng Tháp Hệ thống động thực vật phong phú
56 Khu du lịch núi Cấm An Giang Danh thắng
57 Miếu Bà Chúa Xứ An Giang Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
58 Khu du lịch núi Sam và
lăng thoại Ngọc Hầu An Giang
Danh thắng, công trình kiến trúc
59 Chùa Tây An An Giang Công trình kiến trúc thế kỷ XIX
60 Lễ hội Chol ChnamThmay An Giang Lễ hội của người Khơ - me
61 Hội Linh Cổ Tự Cần Thơ Công trình kiến trúc thế kỷ XX
62 Chùa Ông Cần Thơ Công trình kiến trúc của người Hoa
63 Chợ nổi Phụng Hiệp Cần Thơ Chợ nổi
64 Vườn du lịch Cần Thơ Cần Thơ Khu du lịch xanh
157
65 Chùa Kh’Leang Sóc Trăng Công trình kiến trúc thế kỷ XVI
66 Chùa Đất Sét
Sóc Trăng Công trình kiến trúc của người Hoa,
thế kỷ XVIII
67 Bảo tàng văn hóa Khơ-me
Sóc Trăng Trưng bày các hiện vật của người
Khơ-me
68
69 Sân chim Vĩnh Lợi Cà Mau Vườn chim
70 Hòn Khoai Cà Mau Danh thắng
71 Miếu ông Thần Minh Cà Mau Công trình kiến trúc người Hoa
72 Hồng Anh thư quán Cà Mau Công trình kiến trúc
73 Đất Mũi Cà Mau Cà Mau Danh thắng
74 VQG Phú Quốc Phú Quốc Hệ thống động thực vật phong phú
75 Điểm du lịch Phú Quốc
Phú Quốc Danh thắng, di tích lịch sử cách
mạng
158
Phục lục 8: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch
Nam Trung Bộ và Nam Bộ
Tỉnh/thành phố Tên cơ sở lưu trú Hạng
sao
Địa chỉ Số
phòng
TP. Hồ Chí Minh
Movenpik Sài Gòn 5 sao 253 Nguyễn Văn Trỗi 154
Pull Man Centre HCM 5 sao 148 Trần Hưng Đạo 306
Caravelle HCM 5 sao 19 Quảng Trường Lam
Sơn 198
Park Hyatt HCM 5 sao 2 Quảng Trường Lam Sơn 252
Renaissance Riverside Sài
Gòn 5 sao
8-15 Tôn Đức Thắng 268
Shenraton Sài Gòn 5 sao 88 Đồng Khởi 212
Majestic Sài Gòn 5 sao 1 Đồng Khởi 175
Equatorial Sài Gòn 5 sao 242 Trần Bình Trọng 333
Nikko Sài Gòn 5 sao 235 Nguyễn Văn Cừ 260
Sofitel Plaza Sài Gòn 5 sao 17 Lê Duẩn 290
Windsor Plaza 5 sao 18 An Dương Vương 288
Eden Sài Gòn 4 sao 38 Bùi Thị Xuân 129
Đệ Nhất 4 sao 18 Hoàng Việt 149
Grand Sài Gòn 4 sao 8 Đồng Khởi 168
Duxton 4 sao 63 Đồng Khởi 198
New Pacific 4 sao 9-11 Kỳ Đồng 120
Ramana Sài Gòn 4 sao 323 Lê Văn Sỹ 290
Continental Sài Gòn 4 sao 132-134 Đồng Khởi 268
Liberty Central 4 sao 177-179 Lê Thánh Tôn 198
Havana Nha Trang 5 sao 38 Trần Phú 1200
Nha Trang
Vinperl Resort Nha Trang 5 sao Đảo Hòn Tre 485
Merperle Hon Tam Resort 5 sao Đảo Hòn Tằm 305
Vinpearl Luxury 5 sao Đảo Hòn Tre 408
Sheraton Nha Trang 5 sao 26-28 Trần Phú 284
Novotel 4 sao 50 Trần Phú 154
The Light Hotel & Resort 4 sao 86B Trần Phú 74
Lodge Nha Trang 4 sao 42 Trần Phú 121
Michelia Nha Trang 4 sao 4 Pasteur 201
Mia Resort Nha Trang 4 sao Bãi Đông, Cam Hải Đông 128
Diamond Bay Resort &
Spa 4 sao
Đại lộ Nguyễn Tất Thành 340
Đà Lạt
Dalat Palace Luxury
Hotel & Gofl 5 sao
12 Trần Phú 298
Ana Mandara 5 sao Lê Lai, TP. Đà Lạt 17 biệt
159
thự &
70
Sài Gòn Đà Lạt 4 sao 2 Hoàng Văn Thụ 160
Sammy Đà Lạt 4 sao 1 Lê Hồng Phong 128
Ngọc Lan 4 sao 42 Nguyễn Chí Thanh 91
La Sapinette Đà Lạt 4 sao 1 Phan Chu Trinh 91
Dalat Hotel Du Parc 4 sao 7 Trần Phú 144
Blue Moon 4 sao 4 Phan Bội Châu 78
Golf 3 4 sao 4 Nguyễn Thị Minh Khai 78
Cần Thơ
Ninh Kiều 2 4 sao 03 Đại lộ Hòa Bình 108
Victoria Resort 4 sao Khu du lịch Cái Khế 142
Golf Cần Thơ 4 sao 2 Hai Bà Trưng 107
Fortuneland Ninh Kiều 4 sao Cồn Khương, Cái Khế 144
Vạn Phát 4 sao Cái Khế 89
Vũng Tàu
Imperial Vũng Tàu 5 sao 159 Thùy Vân 144
Grand Hồ Tràm Strip 5 sao Phước Thuận, Xuyên
Mộc 541
Anoasis Beach Resort 4 sao Tỉnh lộ 44, Long Hải 168
Mường Thanh Vũng Tàu 4 sao 9 Thống Nhất 91
Vietsovpetro Resort 4 sao Phước Thuận, Xuyên
Mộc 184
Lan Rừng Resort & Spa 4 sao 3-6 Hạ Long 76
Seaside Resort 4 sao 28 Trần Phú 98
160
Phục lục 9: MỘT SỐ ĐIỂM THAM QUAN HÂP DÂN DU KHÁCH
Thị trấn Sa Pa từ núi Hàm Rồng; Nguồn: Đồng Thị Thu Huyền, tháng 3/2012
Cánh đồng hoa Tam Giác Mạch tại xã Tả Van Chư – Bắc Hà; Nguồn: Tác giả, tháng
8/2015
161
Tháp Rùa – Hồ Gươm (ảnh: sưu tầm)
Khuê Văn Các – Văn miếu Quốc Tử Giám
(ảnh: sưu tầm)
Thác bản Giốc (Cao Bằng) (ảnh: sưu tầm)
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) (ảnh: sưu tầm)
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
(Thái Nguyên) (ảnh: sưu tầm)
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
(Hà Nội) (ảnh: sưu tầm)
162
Khu du lịch Tràng An (Ninh Bình)
(ảnh: sưu tầm)
Mùa hoa cải (Mộc Châu) (ảnh: sưu tầm)
Kỳ thú Nhũ đá động Phong Nha (Quảng Bình)
(ảnh: sưu tầm)
Kinh Thành Huế về đêm (ảnh: sưu tầm)
Biển Thiên Cầm (Hà Tĩnh) (ảnh: sưu tầm)
Khu làng Pháp – núi Bà Nà (Đà Nẵng)
(ảnh: sưu tầm)
163
Phố cổ Hội An (Quảng Nam) (ảnh: sưu tầm)
Biển Nha Trang (Khánh Hòa) (ảnh: sưu tầm)
Tháp Chàm (Ninh Thuận) (ảnh: sưu tầm)
Trượt cát - Nũi Né (Bình Thuận)(ảnh: sưu tầm)
Lễ hội đâm trâu của các dân tộc Tây Nguyên Lễ hội hoa Đà Lạt (ảnh: sưu tầm)
Thác Pongour (Lâm Đồng) (ảnh: sưu tầm)
Khám phá Địa đạo Củ Chi(TP. HCM)
164
Khu du lịch Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh)
Miệt vườn (ĐBS.Cửu Long) (ảnh: sưu tầm)
Đất Mũi Cà Mau (ảnh: sưu tầm)
Biển trên đảo Phú Quốc (ảnh: sưu tầm)
Khám phá Đại Dương – Côn Đảo
Tòa thánh Cao Đài – Tây Ninh (ảnh: sưu tầm)
Một góc Đại Nam Văn Hiến (Bình Dương)
Khu vui chơi trong Đại Nam Văn Hiến
165
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYẾN ĐIỂM DU LICH .......................................................... 3
1.1. KHÁI NIỆM ...................................................................................................................................... 3
1.1.1. Điểm du lịch ................................................................................................................................. 3
1.1.2. Tuyến du lịch ................................................................................................................................ 4
1.2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC DU LICH ........................................................................................ 5
1.2.1. Du lịch dã ngoại ........................................................................................................................... 5
1.2.2. Du lịch sinh thái ........................................................................................................................... 5
1.2.3. Du lịch nghiên cứu ....................................................................................................................... 6
1.2.4. Du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa ........................................................................................... 6
1.2.5. Du lịch vui chơi, giải trí ............................................................................................................... 7
1.2.6. Các hình thức khác ....................................................................................................................... 7
CHƯƠNG 2: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH BẮC BỘ .................................................. 9
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH BẮC BỘ ................................................................................ 9
2.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................................................... 9
2.1.2. Thống kê các điểm du lịch quan trọng của vùng .......................................................................... 9
2.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch ..................................................................................................... 9
2.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng ........................................................................................................ 10
2.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LICH QUAN TRỌNG ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VÙNG ........... 11
2.2.1. Tuyến du lịch trung tâm Hà Nội ................................................................................................. 11
2.2.2. Tuyến du lịch Hà Nội – Bắc Ninh – Bắc Giang ......................................................................... 25
2.2.3. Tuyến Hà Nội – Hưng Yên – Thái Bình – Nam Định ............................................................... 29
2.2.4. Tuyến điểm du lịch Hà Nội – Hải Dương – Hạ Long – Hải Phòng ........................................... 34
2.2.5. Tuyến Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn – Cao Bằng – Lạng Sơn ........................................... 45
2.2.6. Tuyến điểm du lịch Hà Nội – Hà Nam – Ninh Bình – Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh ........ 51
2.2.7. Tuyến du lịch Hà Nội – Tuyên Quang – Hà Giang .................................................................... 59
2.2.8. Tuyến du lịch Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên .......................................................... 62
2.2.9. Tuyến du lịch Hà Nội – Vĩnh Phúc – Phú Thọ - Sa Pa .............................................................. 67
CHƯƠNG 3: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH BẮC TRUNG BỘ ................................ 76
3.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH BẮC TRUNG BỘ ............................................................... 76
3.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................................................. 76
3.1.2. Thống kê các điểm du lịch trong vùng ....................................................................................... 76
3.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch ................................................................................................... 76
3.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng ........................................................................................................ 77
3.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LICH ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VÙNG ....................................... 77
3.2.1. Tuyến du lịch Huế - Quảng Trị - Quảng Bình ........................................................................... 77
3.2.2. Tuyến du lịch Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam ........................................................................... 92
CHƯƠNG 4: TUYẾN ĐIỂM DU LICH VÙNG DU LICH NAM TRUNG BỘ VÀ NAM BỘ 101
4.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LICH NAM TRUNG BỘ VÀ NAM BỘ .................................... 101
4.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................................................... 101
4.1.2. Thống kê các điểm quan trọng của vùng .................................................................................. 101
4.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch ................................................................................................. 101
4.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng ...................................................................................................... 102
4.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LICH QUAN TRỌNG ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VÙNG ......... 102
166
4.2.1. Tuyến du lịch trung tâm TP. Hồ Chí Minh .............................................................................. 102
4.2.2. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – biển duyên hải Nam Trung Bộ .......................................... 107
4.2.3. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – VQG Yok Đôn ................................................... 113
4.2.4. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Côn Đảo ........................................................ 117
4.2.5. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương ....................................................................... 121
4.2.7. Tuyến TP. Hồ Chí Minh – Tây Ninh ....................................................................................... 125
4.2.8. Tuyến du lịch TP. Hồ Chí Minh – đồng bằng sông Cửu Long ................................................ 126
4.3. Giới thiệu một số chương trình du lịch liên vùng (chương trình tham khảo) ............................. 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................... 140
Phục lục 1: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Bộ .................................... 141
Phục lục 2: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ .......................................... 148
Phục lục 3: Hệ thống nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ ................................................ 150
Phục lục 4: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Trung Bộ.......................... 152
Phục lục 5: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ ............................... 153
Phục luc 6: Một số nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Trung Bộ ......................................... 154
Phục lục 7: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ ..... 155
Phục lục 8: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ ........... 158
Phục lục 9: Một số hình ảnh về điểm tham quan hấp dẫn...................................................................160
Top Related