Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
*
* *
Đỗ Phủ 杜杜 (sinh năm 712 – mất năm 770), tự Tử Mỹ, hiệu
Thảo Đường, là một trong những nhà thơ lớn và có tầm ảnh
hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ra và
lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay
thuộc tỉnh Hà Nam. Thơ Đỗ Phủ còn để lại đến nay lên tới hàng
ngàn bài với nhiều hình thức, phong cách sáng tác khác nhau,
hệ thống từ vựng phong phú đa dạng, nội dung phản ánh chân
thực và đầy tính nhân đạo đối với thời thế loạn lạc đương
thời. Ông được người đời tôn vinh là “Thi Sử” và “Thi Thánh”
của Trung Quốc.
Cuộc đời Đỗ Phủ là những năm tháng đầy gian truân, cay
đắng. Ông sinh ra giữa thời kỳ phồn vinh hưng thịnh của triều
đại nhà Đường, sáng tác thơ từ lúc bảy tuổi. Thời gian này
ông chủ yếu ngao du sơn thủy, thỏa sức trổ tài thi ca, khiến
nhiều người thán phục. Ước mơ của ông là đỗ đạt, ra làm quan
để giúp vua xây dựng đất nước. Đỗ Phủ thời trẻ đã viết trong
1
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
bài “Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận” (杜杜杜杜杜杜杜杜
杜杜 - Hai mươi hai vần dâng tặng quan tả thừa họ Vi)(1) những
dòng này:
“杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜”
Trí quân Nghiêu, Thuấn thượng
Tái sử phong tục thuần
(Giúp vua hơn Nghiêu Thuấn
Làm cho phong tục trở lại trong lành)
Thế nhưng cuộc đời không cho ông như ý muốn. Đường Huyền
Tông bỏ bê triều chính, mặc gian thần làm loạn, kết bè đảng
phá khoa thi. Đỗ Phủ cùng nhiều nhân tài khác bị đánh trượt
không thương tiếc. Sau đó ông cũng được làm quan nhưng chức
nhỏ phận hèn không thỏa chí. Suốt mười năm (746-755) ông gặp
rất nhiều trắc trở trên con đường công danh, sống cuộc sống
gian nan cực khổ. Những bài thơ ông viết trong thời gian này
như Binh xa hành, Lệ nhân hành, Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh
hoài ngũ bách tự,... phản ánh hiện thực phũ phàng quanh ông,
đánh dấu một khởi điểm về nội dung, phong cách sáng tác trong
đời thơ Đỗ Phủ và đi cùng ông đến trọn cuộc đời đau khổ gian
nan.
Đỗ Phủ để lại cho đời hơn 1400 bài thơ, phân thành hai
2
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
loại lớn: cổ thể thi và cận thể thi. Cổ thể thi là loại thơ
tự do, cận thể thi là loại thơ cách luật. Phần lớn các bài
thơ còn lưu giữ đến ngày nay là những tác phẩm được viết vào
khoảng đời sau lưu lạc đau khổ của ông, được nhiều người đời
sau đón nhận và có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa Trung Quốc
cũng như các nền văn hóa lân cận.
Là người đời sau chỉ biết đọc ngẫm những vần thơ đẫm lệ
của tiền bối, với lòng kính trọng và đồng cảm với thi nhân,
chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn và quyết
định thực hiện đề tài “Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ”.
Trong phạm vi một bài tiểu luận, do mặt hạn hẹp về câu chữ và
khả năng có hạn, chúng tôi chỉ có thể đưa ra phân tích một số
đặc điểm trong giá trị nội dung của thơ ông cùng với vài ý
kiến chủ quan. Bài nghiên cứu này không mong sẽ đóng góp được
gì nhiều vào kho tàng nghiên cứu thơ Đỗ Phủ mà những người đi
trước đã làm, chỉ để thỏa lòng say mê của hậu bối với những
dòng thơ của một thiên tài bạc mệnh, “cả đời chẳng được mấy
ngày vui”.
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Nhóm tác giả
Ma Thành Công - Ngô Gia Thức
3
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
1. Sơ lược về giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học
Hiện thực trong tác phẩm văn học là thế giới hiện thực đã
được tái tạo qua thế giới chủ quan của tác giả. Thế giới ấy
chính là một hiện thực khác, một hiện thực thứ hai, dù mang
hình bóng của thế giới khách quan ngoài đời. Thế giới hiện
thực trong tác phẩm không phải lúc nào cũng mang một nội
dung, ý nghĩa đồng nhất với hiện thực tương tự trong đời sống
thực tại. Đó là thế giới của hình tượng thuộc một trật tự
khác, mang ý nghĩa sáng tạo so với hiện thực khách quan thông
qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ vì vậy nó cao hơn
hiện thực thứ nhất - hiện thực khách quan của cuộc sống con
người.
Sở dĩ ta coi hiện thực trong văn học là hiện thực thứ hai
là vì nó được khơi nguồn từ trong hiện thực cuộc sống nhưng
hiện thực này đã được người nghệ sĩ quan sát một cách rất tỉ
mỉ và lựa chọn lấy những vấn đề quan trọng nhất để rồi sử
dụng nh ững thủ pháp nghệ thuật làm cho hiện thực ấy đi vào
tác phẩm văn học vừa có giá trị khái quát cao, vừa thể hiện
chiều sâu của sự vật, sự việc của con người.
Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là “toàn bộ hiện
thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý
đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại
4
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau”(2)
Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học có hai đặc điểm
chủ yếu:
Đặc điểm thứ nhất: Đặc điểm của các hiện thực được nhà
văn đưa vào trong tác phẩm. Tác phẩm đó phản ánh hiện
thực đời sống trong một giai đoạn lịch sử nhất định,
với những nét riêng tiêu biểu và có ý nghĩa phản ánh
hiện thực khách quan.
Đặc điểm thứ hai: Con người điển hình. Đây là nét đặc
trưng của tác phẩm hiện thực. Gắn với mỗi thời kỳ, mỗi
xã hội nhất định là mẫu người đại diện cho toàn xã
hội. Mẫu người ấy được nhà văn khái quát và xây dựng
lại thành cách hình tượng điển hình trong tác phẩm của
mình. Do vậy, một tác phẩm văn học có giá trị hiện
thực phải khắc họa được ngoại hình, tính cách, hành
động, lời nói,…. của nhân vật điển hình, đại diện cho
tầng lớp, giai cấp hay lớp người nào đó trong xã hội,
giúp tác giả thể hiện hiện thực được phản ánh.
2. Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Như đã đề cập trong phần dẫn nhập đề tài, giá trị hiện
thực là một trong những giá trị nổi bật trong thơ Đỗ Phủ.
5
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Hiện thực đó là hiện thực một xã hội rối loạn vì nạn chiến
tranh, cướp bóc, quan lại nhũng nhiễu ăn chơi sa đọa, mặc dân
đen lầm than, đói khổ cùng cực. Hiện thực đó cũng bao gồm đời
sống của tác giả, từ một “người thơ” ung dung ngao du sơn
thủy, tài năng “Sách đọc vỡ muôn quyển, hạ bút như có thần ”
(杜杜杜杜杜 杜杜杜杜杜, )(3), trở thành một kẻ hàn sĩ ăn đói mặc rách, lưu lạc bốn
phương, mấy mươi năm trầm mình trong khổ nạn của thế gian, để
rồi nhắm mắt lìa đời trên chiếc thuyền nhỏ rách nát lênh đênh
trên bờ sông Tương. Đỗ Phủ đã hòa nỗi đau khổ của mình với
người dân trăm họ, trong thơ ông dù có khóc than, có đau xót
vì nỗi niềm của bản ngã đấy, rồi lại mau chóng so mình với
người khác để mà đau cả nỗi đau của họ. Cả một giai đoạn lịch
sử dài và nhiều biến loạn đã được Đỗ Phủ đưa vào thơ cùng
những gửi gắm về nhân tình thế thái của bản thân ông. Bởi vậy
Đỗ Phủ cũng được hậu bối tôn là “Thi Sử”.
Hiện thực biểu hiện trong thơ Đỗ Phủ là một thế giới của
lầm than cơ cực, từ con người đến muông thú cỏ cây đều đau
khổ. Hãy chọn nghe thử một bài thơ như “Bạch Đế” chẳng hạn.
Một bức tranh mờ tối và ẩn sau đó những nét họa bi thương:
杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜 。
杜杜杜杜杜杜杜 ,
6
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
杜杜杜杜杜杜杜 。
杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜?
Cao giang cấp giáp lôi đình đẩu,
Cổ mộc thương đằng nhật nguyệt hôn.
Nhung mã bất như quy mã dật,
Thiên gia kim hữu bách gia tồn.
Ai ai quả phụ tru cầu tận,
Đỗng khốc thu nguyên hà xứ thôn?
(Cây xanh, dây xám, trăng, trời tối
Thác dốc, đèo cao, sấm sét dồn
Phóng ngựa sao bằng về ngựa khỏe
Nghìn nhà chỉ độ chục nhà còn
Vét vơ gái goá cơ đồ hết
Đâu đó đồng thu khóc nỉ non?)(4)
Hiện thực đó bắt đầu từ sự suy vi của triều đình phong
kiến nhà Đường. Năm 746, sau khi chia tay Lý Bạch(5), Đỗ Phủ
trở về kinh đô Trường An, kết thúc quãng đời ngao du đó đây.
Lần này ông trở về không ngoài mục đích thực hiện hoài bão từ
lâu ấp ủ trong lòng: "Trí quân Nghiêu Thuấn thượng, Tái sử
phong tục thuần" (Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị
7
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
vận). Đó chính là ước mơ và lý tưởng chính trị của ông. Theo
ông thì đó là con đường duy nhất để thực hiện lý tưởng đó là
phải thi đỗ và làm quan. Nhưng tiếc thay, đến đâu ông cũng
vấp phải trở ngại. Lúc này Đường Huyền Tông bỏ bê triều
chính, giao phó mọi việc cho hai tên gian thần là Lý Lâm Phủ
và Dương Quốc Trung. Tuy Đường Huyền Tông hạ chiếu ai có tài
thì đi dự thi, nhưng trong khóa thi này Tể tướng Lý Lâm Phủ
đánh hỏng hết tất cả các thí sinh để khoe rằng trong những
khóa thi trước y sáng suốt lựa chọn hết nhân tài, nên bây giờ
chẳng còn một ai và đây cũng là dịp để Lý Lâm Phủ chặn đường
tiến cử hiền tài, nhằm củng cố thế lực của phe cánh y. Đỗ Phủ
cũng như những thí sinh khác bị đánh hỏng. Từ đây Đỗ Phủ nhận
thức đầy đủ hơn bộ mặt chính trị nhà Đường do bọn gian quan
nịnh thần khống chế. Để tìm lối thoát, nhiều lần ông gặp gỡ,
dâng thư cho các bậc quyền quý mong được tiến cử, nhưng không
có kết quả mà cuộc sống thì ngày càng nghèo khốn.
Năm 751, nhân Đường Huyền Tông cử hành đại lễ, Đỗ Phủ
dâng lên "Tam đại lễ phú", được Đường Huyền tông khen ngợi
cho ghi tên vào Tập hiền viện, chờ bổ dụng nhưng vì bị Lý Lâm
Phủ cản trở nên Đỗ Phủ chờ mãi vẫn không có tin gì. Mãi đến
năm 755, Đỗ Phủ được bổ làm Hà Tây huyện úy. Mặc dù bao năm
sống khổ cực ở đất Trường An nhưng Đỗ Phủ quyết không nhậm
8
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
chức vì chức huyện úy này buộc ông phải cúi đầu vâng lệnh
quan trên, đánh đập kẻ dưới. Bị ông cự tuyệt giai cấp thống
trị nhà Đường giao cho ông chức quản lý kho quân giới. Đỗ Phủ
nhận chức, ông xin phép về huyện Phụng Tiên thuộc tỉnh Thiểm
Tây thăm gia đình. Có ngờ đâu khi vừa về đến nhà thì đứa con
trai đã chết đói.
Mười năm cực khổ ở Trường An là mười năm khiến Đỗ Phủ
thay đổi rất nhiều phong cách sáng tác thơ so với những năm
tháng phiêu du trước đây. Ông viết nhiều bài thơ mang tính
hiện thực phê phán gây xúc động lòng người. Ông tổng kết mười
năm đó trong bài “Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài ngũ bách
tự” (杜杜杜杜杜杜杜杜杜杜杜 - Năm trăm chữ vịnh nỗi lo nghĩ trên đường
từ kinh đô về huyện Phụng Tiên). Những câu thơ ngũ ngôn không
quá nhịp nhàng mà nhiều khi khúc khuỷu trắc trở, tỏ bày những
tăm tối đã qua:
杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜 。
杜杜 杜杜杜 一?
杜杜杜杜杜 。
杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜 。
杜杜杜杜杜 ,
9
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
杜杜杜杜杜。
Đỗ Lăng hữu bố y
Lão đại ý chuyển chuyết;
Hứa thân nhất hà ngu,
Thiết tỉ Tắc dữ Tiết!
Cư nhiên thành hoạch lạc,
Bạch thủ cam khế khoát.
(Có người áo vải ở Đỗ Lăng,
Tuổi đã già ý nghĩ trở nên vụng về.
Chí lập thân sao ngu dại đến thế!
Thầm tự ví mình với Tắc Tiết.
Kết cục lại thành sự hão huyền,
Đầu bạc rồi đành chịu kiếp long đong;
Đậy nắp quan tài mới hết chuyện!
Chữ chí ấy vẫn còn ôm ấp mãi.)
Cùng lúc Đỗ Phủ ra làm quan thì thời cuộc cũng có những biến
đổi lớn lao. Tháng 11 năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn ở Phạm
Dương và nhanh chống đánh xuống Lạc Dương, Đồng Quan, Trường
An. Tháng 8 năm 756, nghe tin Lý Hanh con của Đường Minh
Hoàng lên ngôi ở Linh vũ lấy hiệu Đường Túc Tông, Đỗ Phủ tìm
Túc Tông. Giữa đường ông bị giặc bắt giải về Trường An. Nửa
10
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
năm trời sống trong vùng địch tận mắt thấy cảnh đất nước bị
dày xéo, ông viết khá nhiều bài thơ lâm ly, thống thiết như:
Bi Trần Đào, Bi Thanh Bản, Xuân vọng, Ai giang đầu,...
杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜 。
杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜。
Thiếu Lăng dã lão thôn thanh khốc,
Xuân nhật tiềm hành Khúc giang khúc.
Giang đầu cung điện toả thiên môn,
Tế liễu tân bồ vị thuỳ lục ?
(Ông già nhà quê Thiếu Lăng nén tiếng khóc nghẹn ngào
Ngày xuân, lẻn đi trên khuỷu sông Khúc Giang
Hàng nghìn cửa cung điện ở bên sông đều im ỉm khoá
Cây liễu xinh, khóm bồ non, vì ai mà xanh tươi?)
Có thể nhận thấy, hiện thực đau khổ của đời sống đã được
Đỗ Phủ khắc họa chi tiết và đưa vào thơ như để lột tả lòng
mình. Hiện thực đó trở nên sinh động, rõ nét đến mức trở
thành những bài thơ sử được các nhà sử học nghiên cứu để tìm
hiểu về thời bấy giờ.
11
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Tháng giêng năm Chí Đức thứ nhất (756), không chịu hợp
tác với giặc, Đỗ Phủ không quản nguy hiểm tìm đường chốn khỏi
Trường An tìm về Phụng Tường, nơi chính quyền mới đóng. Đỗ
Phủ được giữ chức Tả thập di. Tháng 9 năm 757, quân nhà Đường
lấy lại được Trường An, Đỗ Phủ bèn đưa gia quyến về Trường
An.
Ở Trường An không được bao lâu, vì dâng sớ cứu Phùng Quán
thua trận Trần Đào, nên Đỗ Phủ bị gian thần hãm hại. Tháng 6
năm 758, ông bị biếm ra làm Tư công tham quân, một chức quan
coi việc tế tự nghi lễ ở Hoa Châu. Mùa xuân năm 759, trên
đường từ Lạc Dương đi Hoa Châu, nhìn thấy cảnh đau thương vô
hạn của nhân dân ông viết sáu bài thơ nổi tiếng "Tam biệt"(7)
và "Tam lại"(8) được người đời truyền tụng. “Tam biệt” là ba
bài thơ viết về những cuộc chia ly: Tân hôn biệt 杜杜杜 (Cuộc
chia ly của cặp vợ chồng mới cưới), Thùy lão biệt 杜杜杜 (Cuộc
chia ly lúc về già) và Vô gia biệt 杜杜杜 (Cuộc ly biệt của kẻ
không nhà). “Tam lại” là ba bài thơ viết về quan lại ở các
địa phương khác nhau: Đồng Quan lại 杜 杜 杜 (Tên lại ở Đồng
Quan), Thạch Hào lại 杜杜杜 (Tên lại ở Thạch Hào) và Tân An lại
杜杜杜 (Tên lại huyện Tân An).
“Tam biệt” và “Tam lại” là sáu bài thơ xây dựng rõ nét các
12
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
hình tượng nhân vật điển hình đại diện cho nhiều tầng lớp
trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là hình tượng kẻ thân già lận
đận trong Thùy lão biệt:
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜!
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
Tứ giao vị ninh tĩnh
Thuỳ lão bất đắc an
Tử tôn trận vong tận
Yên dụng thân độc hoàn ?
Đầu trượng xuất môn khứ ?
Đồng hành vị tân toan
Hạnh hữu nha xỉ tồn
Sở bi cốt tuỷ can
(Bốn phương chưa ổn định
Thân về già cũng chẳng được yên
13
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Con cháu chết trận hết
Một mình sống để làm gì ?
Quẳng gậy ra cửa đi
Bạn đồng hành cũng lấy làm chua xót
May hàm răng vẫn còn
Thương nỗi tuỷ xương đã khô kiệt!)
Hai hình ảnh đối lập giữa viên lại hò hét dữ dằn và bà
lão kêu van thảm thiết trong bài “Thạch Hào lại”(6) là nét
gạch đậm thể hiện rõ nhất sự hống hách nhũng nhiễu của quan
lại đối với sự đau khổ bất lực của người dân nghèo khó.
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
杜杜 杜杜杜一!
杜杜 杜杜杜一!
Mộ đầu Thạch Hào thôn,
Hữu lại dạ tróc nhân.
Lão ông du tường tẩu,
Lão phụ xuất môn khan.
Lại hô nhất hà nộ,
14
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Phụ đề nhất hà khổ!
(Chiều tối chạy vào thôn Thạch Hào,
Có viên lại bắt người ban đêm.
Ông lão vọt tường tẩu thoát
Bà già ra cửa nhòm.
Viên lại hò hét sao mà dữ dằn thế!
Bà lão kêu van sao mà khổ thế!)
Tháng 7 năm 759, Đỗ Phủ xin từ quan đưa gia đình từ Hoa
Châu đến Đồng Cốc. Tại đây, ông phải đi lượm hạt dẻ, đào
hoàng tinh bao phen trở về tay không, con cái đói meo kêu
khóc. Ông làm bảy bài "Càn Nguyên Đồng Cốc huyện tác ca" than
thở cảnh khốn cùng lưu lạc, xa cách anh em. Chưa đầy hai
tháng, ông lại từ Đồng Cốc đến Thành Đô - Tứ Xuyên. Mùa xuân
năm 760, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè ông dựng mái nhà tranh bên
suối Hoãn Hoa, đặt tên là Thảo Đường. Lúc này Thành Đô chưa
có nạn binh đao. Ông được sống những ngày thư thái, đánh cờ
với vợ, câu cá cùng con, uống rượu với người trong xóm. Ông
sinh sống bằng chính mảnh đất của mình, trồng cây thuốc cây
ngô. Thế là trong sáng tác xuất hiện một khoảng trời nghệ
thuật mới với vẻ đẹp đẹp hoà bình, êm ả của thiên nhiên, xoa
dịu những vất vả đắng cay trong cơn loạn lạc. Sáng tác thời
15
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
kỳ này của ông chủ yếu là thể loại tuyệt cú, tả cảnh điền
viên sơn thuỷ và gửi gắm ước mơ trở về cố hương...
Tuy nhiên cảnh yên bình ấy không kéo dài được lâu. Mùa thu
năm ấy, một cơn gió lốc lật mất mái tranh Thảo Đường, Đỗ Phủ
làm bài thơ nổi tiếng "Mao ốc vị thu phong sở phá ca" (杜杜杜杜杜杜
杜杜 - Bài ca nhà tranh bị gió thu phá). Ông mơ ước:
杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜杜杜 ,
杜杜杜杜杜杜杜 !
杜杜 杜杜杜杜杜杜杜杜杜杜 ! ,
杜杜杜杜杜杜杜杜杜 !
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
(Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững
16
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết,
cũng thỏa lòng!)
Đầu năm Bảo Ứng (762) vì loạn ông đưa gia đình chạy loạn
khắp nơi, gần hai năm sau mới trở về lại mái nhà tranh ở
Thành Đô. Được Nghiêm Vũ tiến cử, Đỗ Phủ nhận chức Kiểm hiệu
công bộ viên ngoại lang. Nghiêm Vũ mất, ông cũng thôi việc.
Lúc này bao bạn thân của ông như Lý Bạch, Cao Thích lần lượt
từ giã cõi đời, để lại cho ông nỗi buồn vô hạn. Ông lại phiêu
bạt tới vùng Quỳ Châu.
Qua bao nhiêu năm lưu lạc gian nan, giờ đây sức yếu, tuổi
già, ông thường xuyên bị bệnh. Quỳ Châu là nơi có nhiều di
tích nổi tiếng như thành Bạch Đế, Bát trận đồ của Gia Cát Võ
Hầu, nhà Tống Ngọc, Dữu Tín,... nên ông làm năm bài "Chư
tướng", năm bài "Vịnh hoài cổ tích", tám bài "Thu hứng" nổi
tiếng. Trong hai năm ở Quỳ Châu ông sáng tác 437 bài thơ,
chiếm ba phần mười toàn bộ thơ ca của ông, thơ luật chiếm đa
số. Chất hiện thực trong thơ ông không thay đổi, vẫn dạt dào
tình cảm yêu nước, yêu dân, tuy âm điệu có phần bi thương hơn
trước.
Năm Đại Lịch thứ 3 (768), Đỗ Phủ rời Quỳ Châu, lênh đênh
17
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
trôi dạt khắp nơi đến Giang Lăng, Công An (Hồ Bắc), Nhạc Châu
(Nhạc Dương, Hồ Bắc), rồi theo sông Tương ra Đàm Châu (Tương
Đàm, Hồ Nam). Ở đây ông gặp lại danh ca Lý Quy Niên và làm
bài tuyệt cú "Giang Nam phùng Lý Quy Niên" nổi tiếng. Đàm
Châu có loạn, Đỗ Phủ lại cùng vợ con xuống thuyền đi Hành
Châu (Hành Dương, Hồ Nam), dự định theo sông Hán về Trường
An. Cuộc sống đói rét, bệnh tật, phiêu bạt cứ dày vò nhà thơ
mãi. Mùa đông năm 770, bệnh tật nằm trên thuyền nghe gió
thổi, Đỗ Phủ làm bài thơ ba mươi sáu vần "Phong tật chu trung
phục chẩm thư hoài". Đó cũng là thiên tuyệt bút của nhà thơ,
vì chẳng bao lâu sau, mùa đông năm Đại Lịch thứ năm (770), Đỗ
Phủ nhắm mắt lìa đời trong chiếc thuyền rách nát lênh đênh
trên sông Tương, kết thúc bao sóng gió thăng trầm. Vừa yêu
nước vừa thương dân, vừa ủng hộ chiến tranh yêu nước vừa tố
cáo bọn thống trị chồng chất thêm đau khổ lên đầu nhân dân,
tấm bi kịch đó cứ giằng xé tâm hồn ông trong những năm chiến
tranh loạn lạc cho đến lúc tay đã buông xuôi mà lòng nhà thơ
vẫn chưa hết những lo âu uất hận. Ông viết đầy đau khổ trong
bài thơ cuối cùng của cuộc đời mình:
杜杜杜杜杜,
杜杜杜杜杜。
Gia sự đan sa quyết,
18
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Vô thành thế tác lâm.
(Đem lòng son viết về việc nhà,
Chưa xong, nước mắt đã tuôn ướt đầm.)
Hiện thực trong thơ Đỗ Phủ được phản ánh chân thực, sinh
động và toàn vẹn như những trang nhật ký của cuộc đời nhà
thơ, một thời đại biến loạn đầy tang thương, con người chịu
những giày vò đau khổ đến cùng cực, xã hội giàu nghèo phân
hóa rất mạnh: “Chu môn tửu nhục xú, Lộ hữu đống tử cốt” (朱朱朱朱朱 朱朱朱朱朱朱,。
Nơi cửa son rượu thịt ê hề, Ngoài đường cái có xương người
chết rét)(9). Những nhân vật trong thơ ông được khắc họa tài
tình qua ngòi bút tài năng đã qua nhiều thử thách tôi luyện,
giúp Đỗ Phủ phản ảnh hiện thực vô cùng sâu sắc và gây ấn
tượng mạnh khó có thể quên. Sự dụng công khi làm thơ của ông
đúng như những gì ông đã nói: "Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu"
(Lời lẽ chưa kinh động lòng người thì chết chẳng yên).
19
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
*
* *
Theo giáo sư Phan Ngọc - nhà nghiên cứu văn hóa và cũng
là người am hiểu thơ Đỗ Phủ thì: “Hình như trong thơ thế giới
chỉ có một nhà thơ mà tác phẩm nói lên toàn bộ lịch sử giai
đoạn mình sống, cụ thể chính xác đến từng sự kiện, một nhà
thơ mà cuộc đời diễn ra như hoạ, một nhà thơ mà thơ có thể
làm cơ sở cho dân tộc học, kinh tế học, khảo cổ học, sử học,
văn hoá, triết học … đó là Đỗ Phủ ” và “Đỗ Phủ là người đầu
tiên văn học thế giới tuyên bố mình “vì dân đen đau khổ quanh
năm” và nguyện sống đến chết không thay đổi cái chí của
mình”.
Thơ Đỗ Phủ có chứa hiện thực và rất nhiều hiện thực, hiện
thực phũ phàng và bi uất, hiện thực cay đắng và tàn bạo. Cũng
bởi ông là một nhà thơ, và cũng bởi cuộc đời đã khiến ông
trầm luân trong những khổ nạn không dứt, thế nên thơ ông
quyết liệt hướng về cuộc đời, về chiến tranh, nạn đói, hướng
về những người khốn khổ. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi
đã cố gắng hướng tới việc làm rõ giá trị hiện thực trong thơ
20
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Đỗ Phủ, từ những nét đặc trưng của hiện thực ông đã sống đến
những nhân vật điển hình ông đã họa vào thơ. Tuy nhiên, đến
cuối cùng chúng tôi vẫn thấy mình gần như chưa làm được gì,
thơ của Đỗ Phủ rõ ràng và chân thực đến thế, nhưng vẫn khó
giải nghĩa. Có thể đó đơn giản chỉ là cái khó lý giải của
cuộc đời ông, vì chúng tôi chưa từng nếm trải những khốn khổ
ông đã kinh qua, không từng nhìn thấy những bi thương tàn
nhẫn ông đã thấy. Như nhà thơ Phùng Quán đã viết trong bài
“Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”:
21
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
Thơ ai như thơ ông
Lặng im mà gầm thét
Trang trang đều xé lòng
Câu câu đều đẫm huyết...
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất
Thơ ai như thơ ông
Kể chuyện mái nhà tốc
Vác củi làm chuồng gà...
Đọc lên trào nước mắt!
Giữa tuyết trong đò con
Đỗ Phủ nằm chết đói
Đắp mặt áo bông sờn
Kéo hoài không kín gối.
Ngàn năm nay sông Tương
Sóng còn nức nở mãi
Khóc chuyện áo bông sờn
Đắp mặt thơ chết đói!...
22
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
*Chú giải:
(1) Trích dẫn dựa trên bản thơ của website thivien.com -
Trang thơ Đỗ Phủ.
(2) Theo thạc sỹ Ngô Viết Hoàn trong bài nghiên cứu “Giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn chương”.
(3) Trong bài “Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận”
- 杜杜杜杜杜杜杜杜杜杜
(4) Bài “Bạch Đế” - 杜杜
(5) Lý Bạch 杜 杜 (701-762) là một trong những nhà thơ danh
tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Quốc nói
chung, được người đời tôn làm “Thi Tiên”.
(6) Tháng hai năm 759, quân đội triều đình nhà Đường đánh bại
An Lộc Sơn, thu phục Trường An. Tháng ba năm 759, bộ
tướng của An Lộc Sơn là Sử Tư Minh lại phản công. Quân
triều đình đại bại ở Nghiệp Thành, chết trên mười vạn.
Tướng Quách Tử Nghi phải lui về cố thủ ở Hà Dương. Đường
Túc Tông hoảng hốt gấp rút sai bọn nha lại đi vét lính
bắt phu bừa bãi ở các châu huyện đồng thời ra sức bóc lột
dân chúng. Trên đường từ Lạc Dương về Hoa Châu nhậm chức
mới, Đỗ Phủ đã thấy tất cả những thảm trạng nói trên và
viết nên 6 bài thơ "Tam lại" và "Tam biệt". "Thạch Hào
23
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
lại" thường được xem là bài thơ tiêu biểu nhất trong hai
chùm thơ nói trên.
(7) “Tam biệt” bao gồm ba bài thơ Tân hôn biệt 杜杜杜, Thuỳ lão
biệt 杜杜杜 và Vô gia biệt 杜杜杜.
(8) “Tam lại” bao gồm ba bài thơ Đồng Quan lại 杜杜杜, Tân An
lại 杜杜杜 và Thạch Hào lại 杜杜杜.
(9) Bài “Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự”
- 朱朱朱朱朱朱朱朱朱朱朱 Năm trăm chữ vịnh nỗi lo nghĩ trên đường
từ kinh đô về huyện Phụng Tiên.
24
Top Related