MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC BIỂU ĐỒ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
3 -
download
0
Transcript of MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC BIỂU ĐỒ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI CẢM ƠN
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ ............................................ 3
1.1 Khái niệm đô-la hoá ............................................................................. 3
1.2 Phân loại đô-la hoá ............................................................................... 4
1.2.1 Đô-la hoá không chính thức ............................................................. 4
1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức ................................................................. 5
1.2.3 Đô-la hoá chính thức ........................................................................ 5
1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá ................................................ 6
1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế ............................ 9
1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá ............................................ 9
1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá .......................................... 12
1.5 Kinh nghiệm quốc tế về đô-la hoá và bài học cho Việt Nam............ 20
1.5.1 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Argentina ............................................... 20
1.5.2 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Campuchia ............................................. 21
1.5.3 Bài học cho Việt Nam .................................................................... 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT
NAM ............................................................................................................. 25
2.1 Diễn biến tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua ..... 25
2.2 Phân tích những tác động của tình trạng đô-la hoá tới nền kinh tế
Việt Nam. .................................................................................................. 38
2.2.1 Tác động của đô-la hoá đến hệ thống Tài chính – Ngân hàng ........ 38
2.2.1.1 Đô-la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng ......................... 38
2.2.1.2 Đô-la hoá cho vay .................................................................. 45
2.2.2 Tác động của đô-la hoá đến điều hành chính sách tiền tệ ............... 50
2.2.3 Tác động của đô-la hoá đến người dân ........................................... 51
2.3. Đánh giá chung về tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam ..................... 53
2.3.1 Đánh giá những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam 53
2.3.2 Đánh giá những biện pháp mà NHNN đã sử dụng nhằm hạn chế
tình trạng đô-la hoá trong thời gian qua .................................................. 55
2.4 Nhận xét chung ................................................................................... 58
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI
THIỆN TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM........................... 61
3.1 Định hướng nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. ...... 61
3.1.1 Định hướng hình thành một đồng tiền chung khu vực ASEAN ...... 61
3.1.2 Định hướng về hoạt động của hệ thống ngân hàng ......................... 62
3.2 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam64
3.2.1 Giải pháp về chính sách quản lý ngoại hối ..................................... 65
3.2.2 Giải pháp nhằm nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam ...... 67
3.2.3 Giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ ...................................................... 69
3.2.4 Thực hiện tốt chủ trương “trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng
tiền Việt Nam”........................................................................................ 70
3.3 Một số đề xuất .................................................................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 74
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1991 - 1996 ...................... 26
Bảng 2: Lãi suất tiết kiệm USD và VND giai đoạn 1992 – 1996 .................. 27
Bảng 3: Lãi suất tiết kiệm USD & VND năm 1997 - 1998 ........................... 29
Bảng 4: Lãi suất tiết kiệm USD & VND, 1999 - 2001 .................................. 31
Bảng 5: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1990 – 2000 ............................ 32
Bảng 6: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán ..... 40
Bảng 7: Khối lượng tiền gửi ngoại tệ (FCDs) trong hệ thống ngân hàng ...... 41
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán giai
đoạn 2000 – 2005 ........................................................................................ 42
Biểu đồ 2: Cơ cấu tiền gửi trong hệ thống ngân hàng từ 2004 - 2008 ........... 44
Biểu đồ 3: Cơ cấu cho vay nền kinh tế giai đoạn 2000 – 2004...................... 47
Biểu đồ 4: Cơ cấu cho vay giai đoạn 2005 - 2008 ........................................ 48
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTT Chính sách tiền tệ
FCDs Tiền gửi ngoại tệ
FED Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
M2 Tổng phương tiện thanh toán
NHTW Ngân hàng trung ương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
VND Đồng Việt Nam
USD Đô-la Mỹ
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
LỜI CẢM ƠN
Đề tài kết quả của quá trình tìm hiểu và nghiên cứu của em trong một
thời gian dài. Đề tài được hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực hết mình của bản
thân và sự giúp đỡ tận tình của cô Trần Thị Lương Bình.
Đầu tiên em muốn gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc
đến cô giáo Trần Thị Lương Bình – giảng viên khoa Tài chính Ngân hàng -
Đại học Ngoại Thương, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu đề tài. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô
trong khoa Tài chính Ngân hàng – Đại học Ngoại Thương đã tạo điều kiện
giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô
giáo. Kính chúc thầy cô mạnh khoẻ và hạnh phúc.
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện tượng đô-la hoá là một hiện tượng không còn mới mẻ ở Việt
Nam. Xét trên cả ba góc độ: việc sử dụng đô-la Mỹ trong xã hội, tỷ trọng tiền
gửi và tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đồng đô-la Mỹ trong cơ cấu nguồn vốn
huy động và dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại, phải thừa nhận thẳng
thắn rằng nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng đô-la hoá. Đặc biệt tình
trạng này càng trầm trọng khi chúng ta gia nhập WTO. Gần đây, khi có một
số bài đăng tài trên báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng về tình
trạng đô-la hoá thì hiện tượng này mới thực sự được chú ý. Vì vậy cần thiết
phải có những nghiên cứu cụ thể để làm rõ một số vấn đề: Đô-la hoá là gì? Nó
biểu hiện dưới các hình thức như thế nào? Đô-la hoá là tốt hay xấu, có nên
loại bỏ hoàn toàn hiện tượng này khỏi nền kinh tế hay không? Nó có tác động
thế nào đến nền kinh tế? Những chủ trương nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực mà tình trạng đô-la hoá mang lại cho nền kinh tế và cho
đời sống xã hội?
Để có một cái nhìn tổng quan hơn về tình trạng đô-la hoá, cũng như tìm
ra được những giải pháp khắc phục tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam vấn đề: “
Tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” được tác giả lựa
chọn làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận
Mục đích nghiên cứu của khoá luận nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản
về đô-la hoá, đồng thời đánh giá tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam trong thời
gian qua. Trên cơ sở đó khoá luận đưa ra những định hướng và giải pháp
nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam.
2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là hiện tượng đô-la hoá trong nền
kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tình trạng đô-la hoá tại Việt
Nam giai đoạn 1990 – những tháng đầu năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh nhằm làm rõ những vấn đề được nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm 3
chương:
Chương I: Tổng quan về đô-la hoá
Chương II: Thực trạng tình hình đô-la hoá tại Việt Nam
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình trạng
đô-la hoá tại Việt Nam.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ
1.1 Khái niệm đô-la hoá
Ở Việt Nam khái niệm đô-la hoá được nhìn nhận là hiện tượng ngoại tệ
(mà chủ yếu là đô-la Mỹ) được sử dụng rộng rãi để thay thế một hay nhiều
chức năng của đồng nội tệ.①
Theo Tyler Moroney, một nhà khoa học của Quỹ Fulbright thì đô-la
hoá là quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và sử dụng đồng tiền của
một nước có tính ổn định hơn làm phương tiện thanh toán hợp pháp. Mặc dù
khái niệm này được gắn liền với đồng đô-la Mỹ (USD), nhưng việc chuyển
đổi một đồng nội tệ ra bất kỳ đồng ngoại tệ nào có tính ổn định (ví dụ: đồng
Euro, Yên Nhật…) đều được gọi là “đô-la hoá”.②
Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô-la
hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ vượt quá 30% trong tổng khối
lượng tiền tệ cung ứng mở rộng M2, bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Dựa trên cơ sở đó,
theo thống kê của IMF hiện nay có rất nhiều quốc gia ở châu Á, châu Mỹ,
châu Phi được coi là có tình trạng đô-la hoá nền kinh tế. Đã có 3 nước chính
thức tuyên bố đô-la hoá nền kinh tế là Panama, Elsanvaldo, Ecuardo. Theo
luật của các nước này thì đồng đô-la được phép sử dụng lưu hành đồng thời
với đồng nội tệ trong chi trả tiền lương, trợ cấp, phúc lợi xã hội,... Người dân
được mua bán hàng hoá hoặc thực hiện các giao dịch thương mại, dịch vụ
khác bằng đồng đô-la.
Theo báo cáo của NHNN Việt Nam thì những năm gần đây tỷ trọng
tiền gửi bằng đô-la Mỹ luôn ở mức cao. Điều này cho thấy mức độ đô-la hoá
① Thời báo kinh tế Việt Nam: http://www.vnecon.com/showthread.php?t=761 ② Tạp Kinh tế và dự báo, số 428, năm 2008
4
ở nước ta không phải là thấp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các quốc gia
đã xuất hiện nhu cầu sử dụng tiền tệ mạnh để thực hiện các chức năng của
tiền tệ song song với đồng nội tệ. Do đó hiện tượng đô-la hoá mặc nhiên được
thừa nhận ở các nước này. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó.
1.2 Phân loại đô-la hoá
Dựa vào trạng thái của việc sử dụng ngoại tệ, đô-la hoá được chia ra
làm ba loại: Đô-la hoá không chính thức, đô-la hoá bán chính thức và đô-la
hoá chính thức.
1.2.1 Đô-la hoá không chính thức
Là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù
không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế
bị đô-la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng
đồng đô-la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô-la, cấm
dùng đô-la đối với hầu hết giao dịch trong nước. Thuật ngữ “đô-la hoá không
chính thức” bao gồm các loại sau:
Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi ngoại tệ ở nước ngoài
Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài
Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước
Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi
Đô-la hoá không chính thức được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu, các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tài sản”. Trong
giai đoạn này người dân giữ trái phiếu, ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước
ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh sự mất giá của tài sản do tác
động của lạm phát trong nước.
Giai đoạn thứ hai được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền
tệ”. Trong giai đoạn này người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu
ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được
5
phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán vừa thực
hiện chức năng phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng
ngày được thanh toán bằng nội tệ. Nhưng với những tài sản có giá trị lớn như
ô tô, đất đai, nhà cửa,... thường được trả bằng ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối cùng, giá cả hàng hoá được tính bằng nội tệ
nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ thông qua tỷ giá hối đoái. Đô-la
hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam.
1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức
Hay còn gọi là đô-la hoá từng phần, là những nước có hệ thống lưu
hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền
lưu hành hợp pháp, thậm chí còn có ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân
hàng. Nhưng nó đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi
tiêu hàng ngày. Khác với các nước đô-la hoá chính thức, các nước trong tình
trạng đô-la hoá bán chính thức vẫn duy trì Ngân hàng trung ương để thực hiện
các chính sách tiền tệ của mình. Trên thế giới có khoảng 12 nước như
Bhamas, Haiti, Liberia,... áp dụng đô-la hoá bán chính thức.
1.2.3 Đô-la hoá chính thức
Hay còn gọi là đô-la hoá hoàn toàn, xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng
tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được
sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp
trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó
chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh
giá nhỏ.
Đô-la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một loại ngoại tệ được
lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên các nước đô-la hoá chính thức thường chọn
một đồng ngoại tệ mạnh làm đồng tiền hợp pháp, chỉ có Andorra sử dụng cả
Franc của Pháp và Peseta của Tây Ban Nha. Hầu hết ở các nước đô-la hoá
6
chính thức, các đối tác tư nhân được phép ký hợp đồng bằng bất kỳ đồng tiền
nào mà họ thoả thuận.
Một số vùng lãnh thổ như Virgin Islands, Greenland và một số quốc gia
độc lập như Panama sử dụng USD hoặc đồng tiền nước khác làm đồng tiền
chính thức, trong đó có nước không còn đồng nội tệ, có nước vẫn duy trì đồng
nội tệ, nhưng đóng vai trò phụ thuộc. Điển hình là ngày 9/1/2000, Tổng thống
Ecuado công bố quyết định lấy USD làm đồng tiền chính thức của nước này.
Đến năm 2001 thì có thêm El Salvador công bố chính thức đô-la hoá nền kinh
tế. Trên thực tế, các nước này chỉ áp dụng đô-la hoá chính thức sau khi thất
bại trong việc thực thi các chính sách ổn định kinh tế. Lợi ích chủ yếu của đô-
la hoá chính thức là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ.
1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá
Nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau đô-la hoá bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân nhưng có thể nói rằng nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến tình trạng đô-la
hoá là nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ giảm liên tục làm
mất lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Từ đó người dân có xu hướng
chuyển sang những ngoại tệ ổn định, có tính chuyển đổi cao để tiện cho việc
giao dịch, cất giữ và tránh rủi ro khi đồng nội tệ bị mất giá.
Bên cạnh đó xu thế hiện nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại sẽ là cầu nối
các quốc gia với nhau trên lĩnh vực kinh tế - tiền tệ. Vì vậy đòi hỏi các quốc
gia phải mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Một khi quan hệ
ngoại thương phát triển đòi hỏi phải có một đồng tiền chung để giao dịch.
Sẵn với vai trò, vị trí của mình đồng đô-la Mỹ đã đảm nhiệm vai trò đó. Trong
quan hệ đối ngoại nhất thiết đòi hỏi mỗi nước phải có một cơ chế quản lý
ngoại hối để quản lý và kiểm soát các nguồn thu ngoại tệ nói chung và đồng
đô-la Mỹ nói riêng. Khi việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối
7
còn chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập thì xu thế tất yếu sẽ xảy ra hiện
tượng đô-la hoá.
Mặt khác, các quốc gia có nền kinh tế mạnh và phát triển đặc biệt là
Mỹ luôn tìm cách để tăng cường và áp đặt sức mạnh kinh tế - chính trị lên
toàn thế giới và nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của đồng tiền nước mình trong
hệ thống kinh tế - tiền tệ thế giới. Do đó ảnh hưởng của đô-la Mỹ đối với nền
kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng là
điều không thể tránh khỏi.
Mức độ đô-la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí, tâm lý người dân, trình độ
phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại
hối, khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ,... Những yếu tố trên ở mức độ càng
thấp thì tình trạng đô-la hoá của quốc gia đó càng cao.
Đối với Việt Nam, ngoài những yếu tố trên chúng ta cần để cập đến
một số nguyên nhân quan trọng khác góp phần gia tăng tình trạng đô-la hoá ở
nước ta trong những năm gần đây.
Đầu tiên, phải kể đến nguyên nhân mang tính lịch sử đó là cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 – 1998. Mặc dù cuộc khủng hoảng này
không tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng đã tác động mạnh
mẽ đến tâm lý của người dân Việt Nam. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn
định, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ngày một tăng nhanh khiến người dân không
mấy mặn mà trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Người ta thích dùng
đô-la Mỹ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì tính gọn nhẹ, tiện lợi của nó.
Thêm vào đó nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta ngày càng tăng nhanh,
đặc biệt là USD bởi vì chúng ta có rất nhiều nguồn huy động:
Nguồn kiều hối ngày càng có xu hướng tăng mạnh với mức tăng bình
quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD, chưa kể
8
đến lượng ngoại hối được chuyển ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt mà
Việt kiều mang theo người khi nhập cảnh.
Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng
tăng nhanh cùng với lượng du khách quốc tế đến Việt Nam.
Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án
liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan
nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.
Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn,
học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất
là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch
vụ khác.
Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ
chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh
đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính
phủ các nước.
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp đang không ngừng tăng lên trong những năm gần
đây.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát
triển của nền kinh tế
Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các
hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý
được.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ vào buộc Việt
Nam phải đối mặt với tình trạng đô-la hoá nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng
biến đổi tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ
9
và gửi tiền bằng USD. Giai đoạn từ 1999 – 2008 lãi suất tiền gửi bằng USD
luôn ở mức cao, thậm chí có lúc lên tới 6,5%/năm. Điều này càng khiến người
dân và các doanh nghiệp sử dụng USD nhiều hơn trong việc cất trữ, gửi tiết
kiệm.
Việc người dân và các doanh nghiệp ưa chuộng USD hơn tiền đồng còn
vì tính gọn nhẹ của nó. Đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ
500.000 đồng mới được đưa vào lưu thông năm 2003. Trong khi đó tờ 100
USD hiện nay lại có trị giá gần 2 triệu đồng. Bởi vậy trong các giao dịch
mang giá trị lớn như mua bán nhà cửa, đất đai, ô tô,... USD vẫn chiếm lợi thế
hơn.
1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế
Có quan điểm cho rằng đô-la hoá là một căn bệnh hiểm nghèo, cần phải
triệt tận gốc, nhưng cũng có ý kiến lại cho rằng đô-la hoá là phương thuốc
màu nhiệm đối với các quốc gia đang và chậm phát triển. Cả hai quan điểm
này đều chưa hoàn toàn đúng. Bởi vì đô-la hoá có những mặt tích cực nhưng
cũng có những mặt tiêu cực. Chúng ta phải nhìn nhận rõ mặt lợi, mặt hại để
có hướng phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của
tình trạng này đối với nền kinh tế.
1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá
(i) Việc sử dụng đồng đô-la sẽ tạo cho nền kinh tế một cái “van giảm
áp" của những mất cân đối, kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công
cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và phương tiện để mua hàng hoá trên thị
trường phi chính thức cũng như phương tiện thanh toán hiệu quả.
Từ những năm 80, USD đã xuất hiện và được sử dụng rộng rãi ở Việt
Nam. Sau thất bại của "cuộc cải cách" và sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng.
Lạm phát không ổn định và gia tăng ở mức cao kéo theo VND cũng bất ổn và
mất giá, đánh mất lòng tin của công chúng làm cho đô-la hoá tăng cao. Một
10
mặt, đô-la hoá cao hơn là hậu quả của những yếu kém và mất cân đối kinh tế
vĩ mô. Mặt khác, đô-la hoá lại được xem như "một cái van" nhằm giảm áp lực
đối với những mất cân đối này.
Khi sử dụng USD thay thế cho VND, các cá nhân và tổ chức kinh tế đã
hạn chế được rủi ro giảm giá trị tài sản do lạm phát cao và thường xuyên biến
động. Ngoài ra, USD được sử dụng công khai như một phương tiện thanh toán
hiệu quả trên thị trường tự do, đặc biệt là đối với những động sản cá nhân nhập
khẩu có giá trị cao như ôtô, tủ lạnh, máy vi tính và những linh kiện khác.
Ở các nước đô-la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ họ
sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn
đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa,
ở những nước này Ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành
nhiều tiền và gây ra lạm phát. Đồng thời ngân sách Nhà nước sẽ không thể
trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật
về tiền tệ và ngân sách sẽ được thắt chặt. Do vậy các chương trình ngân sách
sẽ mang tính tích cực hơn.
(ii) Đô-la hoá tiền gửi giúp ngân hàng có được khoản lớn ngoại tệ để
mở rộng các hoạt động đối ngoại, tạo công cụ liên kết thị trường nội địa với
thị trường thế giới. Khi đó, ngân hàng sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để thực
hiện cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế, như thế sẽ hạn chế được vay nợ
nước ngoài và cũng tăng được tầm kiểm soát luồng ngoại tệ của NHTW.
Nếu các NHTM không huy động được vốn ngoại tệ sẽ gây khó khăn
cho các đề án hiện thời đòi hỏi vốn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, trang
thiết bị, nguyên liệu đầu vào chiến lược . Khi vay vốn ngoại tệ từ các NHTM
trong nước, lãi suất tương đối thấp (bằng lãi suất SIBOR 6 tháng cộng chênh
lệch 0,8 - 1,2%/ năm).①
① Tạp chí Kinh Tế, số 78, năm 2005
11
Sở dĩ NHTM có thể cho vay với lãi suất thấp như vậy là vì nó có khả
năng huy động vốn ngoại tệ lãi suất thấp trong dân cư. Nếu các NHTM không
huy động được vì xét thấy không thuận lợi thì chắc chắn các đề án trên sẽ
phải chịu lãi suất cao hơn. Lý do là các ngân hàng sẽ phải vay vốn từ nước
ngoài. Nếu không thì các doanh nghiệp cũng phải trực tiếp đi vay. Trong cả
hai trường hợp, doanh nghiệp sẽ phải chịu mức lãi suất ít nhất là bằng lãi suất
SIBOR cộng với 1,8 - 2%/năm.
Từ tháng 11/2000, quy định tín dụng đã mở rộng đối tượng được vay
vốn ngoại tệ hỗ trợ cho việc nhập khẩu còn có các dự án đầu tư được phê
duyệt, dự án sản xuất, giao dịch phục vụ cho việc mở rộng thị trường xuất
khẩu, đi lao động ở nước ngoài,...Việc mở rộng đối tượng khách hàng tạo
điều kiện thuận lợi để tăng các khoản vay ngoại tệ. Tỷ lệ vay vốn ngoại tệ
tăng từ 16,1% năm 1999 lên 21% năm 2001.①
Như vậy, việc huy động vốn ngoại tệ cho phép mở rộng tín dụng cho
nền kinh tế, giảm được rủi ro tỷ giá và phí tổn lãi suất, điều quan trọng hơn là
giảm được sự lệ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.
(iii) Đô-la hoá cũng giúp giảm các chi phí giao dịch và mức độ mở
cửa sẽ lớn hơn.
Vì sử dụng USD trong thanh toán những giao dịch nhất định, chi phí
như chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán trong việc chuyển đổi từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác giảm đáng kể. Những chi phí nhằm chống lại rủi
ro tỷ giá cũng được giảm. Điều này giúp giảm tổng chi phí nói chung, từ đó
thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và bên ngoài. Ví dụ
như, thông qua việc chấp nhận USD, Việt Nam có thể giảm được lượng lớn
chi phí giao dịch với Nhật Bản hay các quốc gia Châu Á khác vì một bộ phận
nhất định của quy trình chuyển đổi từ VND sang USD và ngược lại được loại
① Tạp chí Ngân Hàng, số 5/2004
12
bỏ. Kết quả cho thấy thương mại của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai
đoạn gần đây.
Đô-la hoá góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện
đô-la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm
soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền
kinh tế đô-la hoá chính thức có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với các
khoản vay nợ nước ngoài thấp hơn, nhờ đó sẽ giảm chi ngân sách nhà nước,
thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, khi một quốc gia đô-la hoá ở mức độ sâu rộng sẽ rút ngắn
chênh lệch giữa tỷ giá thị trường ngoại hối chính thức và thị trường ngoại hối
phi chính thức (thị trường chợ đen). Khi tỷ giá trên hai thị trường này sát nhau
thì sẽ tạo động cơ để các hoạt động trên thị trường chợ đen (thị trường bất hợp
pháp) chuyển sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). Điều này giúp
Nhà nước và các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc kiểm soát, quản
lý các hoạt động diễn ra trên thị trường.
1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá
Bên cạnh một số tác động tích cực trên, hiện tượng đô-la hoá còn mang
lại nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
(i) Thách thức lớn nhất của đô-la hoá liên quan đến tính an toàn của hệ
thống ngân hàng và sự quản lý thận trọng. Hạn chế vai trò "cứu cánh cho vay
cuối cùng" của NHTW.
Đô-la hoá có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân
hàng, xuất phát từ sự bất tương xứng giữa khoản tiền gửi và hoạt động cho
vay, và từ rủi ro tín dụng và hối đoái. Khoản ngoại tệ cho vay khó đòi trên
tổng vốn cho vay đã xấp xỉ 2 lần chỉ tiêu này đối với tiền đồng.
Nhất là đối với NHTM quốc doanh, những biến động tiềm ẩn của FCDs
có thể làm tăng tính nan giải của bài toán tính lỏng và việc tái xuất hiện yêu
cầu dự trữ chính thức của Việt Nam. Khoản bảo đảm cho FCDs bằng tổng dự
13
trữ chính thức thực sự đã giảm trong hơn 5 năm qua từ hơn 140% vào cuối
năm 1996 xuống 60% vào cuối tháng 8/2001.①
Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của dân cư cao như hiện nay,
ngân hàng sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc cân đối vốn khi có
những biến động bất ngờ làm người dân đổ xô đi rút USD hoặc chuyển sang
VND trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho
vay dài hạn. Do đó, để giải quyết vấn đề cân đối vốn, nó cần phải vay mượn
và đương nhiên khả năng thanh toán của ngân hàng phụ thuộc khả năng vay
mượn này. Hơn nữa, nó cần phải tính đến rủi ro lãi suất tức là lãi suất này có
thể cao hơn lãi suất mà ngân hàng đã cam kết cho vay dài hạn. Ngoài ra, vốn
tự có của ngân hàng Việt Nam còn ở mức thấp. Tuy nhiên mọi người tin
tưởng vào sự an toàn của khoản tiền gửi tại ngân hàng vì có sự bảo lãnh ngầm
của NHNN đối với các khoản vay này. Sự bảo đảm này chỉ có thể thực hiện
được đối với VND còn USD thì không. Không có khả năng phát hành USD,
NHTW không thể thực hiện chức năng "người cho vay cuối cùng" khi hệ
thống ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Rõ ràng một khi chức năng
"người cho vay cuối cùng" bị vô hiệu, khu vực ngân hàng càng trở nên dễ bị
tổn thương hơn khi ngân hàng ngừng kinh doanh hay phá sản.
(ii) Đô-la hoá làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ của NHTW.
Đô-la hoá không chính thức ở Việt Nam làm cho nhu cầu nội tệ không
ổn định và dễ nhạy cảm hơn với những thay đổi từ bên ngoài. Một khi mọi
người giữ lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, lãi suất trong nước hay quốc tế thay đổi
có thể gây ra chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác tạo nên
khó khăn cho NHTW trong việc dự đoán tổng phương tiện thanh toán, dẫn
đến không đưa ra được những quyết định kịp thời và chính xác về việc tăng
① Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tintapchi.jsp?tin=305
14
hoặc giảm cung tiền. Kết quả là chính sách tiền tệ bị phụ thuộc và bị ảnh
hưởng lớn bởi những thay đổi từ bên ngoài.
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập
mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế. Hệ thống ngân hàng
tổ chức rộng rãi việc huy động USD dưới mọi hình thức, cạnh tranh nhau đưa
lãi suất huy động hấp dẫn với người gửi, đồng thời sử dụng USD để cấp tín
dụng cho các doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với SIBOR, LIBOR. Còn
SIBOR hoặc LIBOR lại do chính sách tiền tệ của Mỹ quyết định.
Thêm vào đó, một khoản tiền gửi ngoại tệ là một bộ phận của M2
nhưng có nhiều nhân tố tác động tới tiền gửi ngoại tệ mà NHNN không thể
kiểm soát được hết các nhân tố này. Vì lẽ đó, trong quá trình điều hành chính
sách tiền tệ, mục tiêu trung gian của M2 sẽ bị bóp méo, sai lệch. Thứ nhất, vì
nó chịu ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thanh toán của
Việt Nam thặng dư/thâm hụt dẫn đến vốn USD chảy vào/chảy ra và tăng/giảm
tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam.
Ngoài ra, chiến lược huy động vốn của NHTM, danh mục đầu tư của
các doanh nghiệp và hành vi tiết kiệm của hộ gia đình đều thay đổi. Tiền gửi
ngoại tệ của các doanh nghiệp thì có thể dự đoán được thông qua chính sách
kết hối ngoại tệ①. Tuy nhiên NHTW khó có thể đoán trước được thay đổi
trong hành vi tiết kiệm của hộ gia đình. Do đó, sự dao động thất thường của
FCDs nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN.
(iii) Đô-la hoá trên thị trường tự do càng tăng, thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng hoạt động càng kém sôi động, gây ảnh hưởng đến sự cân đối cung
cầu ngoại tệ.
① Là quy định của Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ phải bán lại một phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng.
15
Thị trường ngoại hối chủ yếu là mua bán ngoại tệ. Nhưng đô-la hoá làm
cho lượng ngoại tệ bị sức hút vào cất giữ trên các tài khoản của NHTM.
Lượng ngoại tệ này cũng là vốn khả dụng mà chủ sở hữu là người gửi tiền
nên ngân hàng không thể đưa ra thị trường liên ngân hàng để mua bán. Mặt
khác, các NHTM lại cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ, rất ít liên quan đến thị
trường mua bán ngoại tệ. Chính vì vậy mà thị trường ngoại hối không có sự
hoạt động nhộn nhịp.
Ngoài ra đô-la hoá còn làm cho thị trường này rất dễ rơi vào trạng thái
mất cân bằng (thường là khan hiếm ngoại tệ). Điều đó cho thấy sự bất hợp lý
trong luân chuyển ngoại tệ. Đô-la hoá ngoài hệ thống ngân hàng cũng đồng
nghĩa với việc nguồn ngoại tệ bị phân tán, không tập trung qua hệ thống ngân
hàng để đáp ứng cho nền kinh tế. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, cung
cầu ngoại tệ không khó khăn nhưng do đô-la hoá làm cho hiện tượng căng
thẳng ngoại tệ diễn ra khá phổ biến. Do ngoại tệ trên thị trường khan hiếm,
các ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh
nghiệp nên cũng không có dư để bán trên thị trường. Khi cầu ngoại tệ tăng
mạnh mà cung ngoại tệ lại không tăng thì thị trường ngoại hối sẽ trở nên căng
thẳng. Theo số liệu thống kê năm 2000 về xuất nhập khẩu, kiều hối, nguồn
phi thương mại,... chiếm khối lượng lớn thì cán cân vãng lai của Việt Nam
thặng dư. Tuy nhiên căng thẳng ngoại tệ vẫn tiếp tục kéo dài. Nguyên nhân là
do bộ phận dân cư nhận được kiều hối thì muốn rút USD tiền mặt rồi bán trên
thị trường tự do mà không bán cho ngân hàng, vì tỷ giá ở thị trường tự do vẫn
hấp dẫn hơn. Nguồn thu ngoại tệ của hệ thống doanh nghiệp cũng chiếm tỷ
trọng lớn nhưng các doanh nghiệp cũng không bán cho ngân hàng nên các
ngân hàng cũng khan hiếm ngoại tệ, nên khó đáp ứng cho nhu cầu mua ngoại
tệ của các đơn vị khác. Còn nguồn thu ngoại tệ của Nhà nước phần lớn là từ
việc bán dầu thô nhưng lại tập trung vào Bộ Tài chính, sau đó Bộ Tài chính
mới bán lại một phần cho NHNN để bán cho NHTM phục vụ nhập khẩu xăng
16
dầu. Nhu cầu mua USD và gửi USD tại các NHTM ngày càng tăng cao, ai
cũng muốn đô-la hoá phần tài sản của mình và đó là nguyên nhân của sự căng
thẳng cung cầu ngoại tệ trong thời gian vừa qua.
(iv) Đô-la hoá hạn chế tác động của chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy
tăng trưởng, hạn chế tác dụng của tỷ giá như một công cụ khuyến khích xuất
khẩu.
Nỗ lực của NHTW nhằm kích cầu/giảm cầu thông qua tăng/giảm tín
dụng sẽ mang lại ít hiệu quả khi sự thay đổi lãi suất ngoại tệ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyết định phân phối tài sản của người giữ USD. Nói cách khác, sự
thay đổi lãi suất ngoại tệ ít nhiều ảnh hưởng đến tổng cầu nội địa vì khi lãi
suất ngoại tệ tăng/giảm người giữ USD có xu hướng hạn chế/mở rộng tiêu
dùng và đầu tư.
Do đó khi NHTW thực thi chính sách lãi suất thấp trong trường hợp
kinh tế suy thoái chưa chắc đã khuyến khích được tiêu dùng và đầu tư mà lại
dẫn đến tâm lý chuyển đổi từ VND sang USD để hưởng "lãi kép". Năm 2000,
thực thi chủ trương kích cầu của Chính phủ lãi suất VND được duy trì ở mức
thấp, đồng lúc với lãi suất USD trên thị trường quốc tế đang tăng cao. Các
NHTM cũng đồng loạt đẩy lãi suất huy động USD làm cho tiền gửi USD của
người dân trong hệ thống ngân hàng tăng rất nhanh. Do đó càng làm trầm
trọng thêm tình trạng giảm phát, chính sách kích cầu không phát huy tác dụng
và hàng ngàn tỷ đồng nằm "chết" trong hệ thống ngân hàng, gây ra sự lãng
phí vốn nghiêm trọng (cả nội tệ lẫn ngoại tệ) trong khi nền kinh tế lại đang
thiếu vốn để đầu tư.
Cũng tương tự, trong khi sử dụng công cụ tỷ giá để khuyến khích xuất
khẩu thì đô-la hoá lại làm tăng phản ứng phụ của chính sách phá giá. Chính
sách phá giá theo hướng làm giảm giá trị đồng bản tệ để cho các nhà xuất
khẩu khi thu được ngoại tệ chuyển đổi qua đồng bản tệ sẽ được hưởng một
giá trị lớn hơn cộng thêm lãi suất tiền gửi nội tệ, thu nhập của các nhà xuất
17
khẩu tăng cao tạo ra khả năng cạnh tranh giá cả hàng hoá trên thị trường quốc
tế. Nhưng vì giai đoạn phá giá lại trong nền kinh tế bị đô-la hoá nên đã tạo ra
phản ứng tiêu cực là càng khuyến khích sự găm giữ tích trữ ngoại tệ, tạo áp
lực lên sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ.
(v) Đô-la hoá càng nặng, cơ hội để đồng nội tệ trở thành đồng tiền
chuyển đổi càng xa vời.
Sự khác nhau có tính quyết định giữa đồng tiền mạnh và đồng tiền yếu
là dựa trên cơ sở sự ổn định danh nghĩa của nó. Tiêu thức này liên quan đến
chức năng làm phương tiện cất giữ và thanh toán. Ở Việt Nam, đô-la hoá làm
cho VND bị lấn át về chức năng này. VND không làm được trọn vẹn chức
năng của mình, đô-la hoá làm VND phải "cạnh tranh" trong thế yếu so với
một đồng tiền mạnh như USD.
(vi) Đô-la hoá đồng nghĩa với việc NHTW bị mất đi một khoản doanh
thu từ việc phát hành tiền hay còn gọi là thuế đúc tiền.
Trong khi có thể có được một số ưu quyền tiền tệ từ dự trữ ngoại tệ bắt
buộc của NHTM tại NHTW thì nó lại bị mất đi khi nó lưu thông ngoài hệ
thống ngân hàng. Như được đề cập ở trên, không có số liệu cụ thể về lượng
ngoại tệ trong lưu thông tại Việt Nam. Tuy nhiên, giả định tỷ lệ ngoại tệ trong
lưu thông trên tiền gửi ngoại tệ là tương đương tỷ lệ tiền đồng trong lưu thông
trên tiền gửi bằng đồng, ngoại tệ trong lưu thông sẽ xấp xỉ 42 nghìn tỷ đồng,
chiếm khoảng 10%GDP (tính theo số liệu cuối năm 2000). Với tổng tiền dự
tính tăng trung bình 20%, khoản doanh thu mất đi theo cách này sẽ là khoảng
2%GDP mỗi năm.①
Mặt khác, cho lưu thông đồng thời hai đồng tiền sẽ dẫn đến lượng
VND phát hành sẽ nhỏ hơn khi chỉ có duy nhất VND được lưu thông. Điều
này cũng dẫn đến việc giảm doanh thu từ phát hành tiền. Ví dụ chi phí để in
① Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=228&ItemID=1915
18
1000 tờ VND là 200 VND nhưng Chính phủ có thể mua hàng hoá trị giá
1000VND. Đó là lợi nhuận ròng từ việc phát hành tiền. Khi phát hành ít tiền
hơn, lợi nhuận ròng sẽ nhỏ hơn.
Khi phát hành tiền, Ngân hàng trung ương của quốc gia đó sẽ thu về
được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ việc phát hành các loại giấy bạc và
tiền kim loại. Khi một quốc gia bị đô-la hoá thì đồng đô-la giữ vai trò áp đảo
hơn so với đồng nội tệ trong việc thực hiện ba chức năng của đồng tiền. Chính
vì thế, khoản thu nhập mà lẽ ra Ngân hàng trung ương nước đó có được từ
việc phát hành tiền sẽ chảy về Cục dự trữ liên bang Mỹ, nơi phát hành ra đồng
đô-la Mỹ. Chính phủ Mỹ hàng năm thu về khoảng 25 tỷ đô-la từ nghiệp vụ
phát hành tiền. Khi người dân các nước khác giữ đồng đô-la Mỹ trong tay, thì
chính là đang góp phần làm giàu cho Bộ tài chính Mỹ. Ví dụ tại Argentina –
quốc gia có mức độ đô-la hoá cao hàng năm đã bị thiệt hại hơn 750 triệu đô-la
Mỹ từ việc phát hành giấy bạc. Con số này quả là không nhỏ, nó chiếm tới
2% tổng thu nhập quốc dân của Argentina vào cùng thời điểm. Đã có những
cuộc thảo luận về việc chia lợi nhuận thu được từ ưu quyền tiền tệ cho các
nước thực hiện đô-la hoá, nhưng cho đến nay việc này vẫn chỉ là dự thảo.
(vii) Một nhược điểm nữa của đô-la hoá là lo sợ tiền giả mà ngay cả
Mỹ cũng khó phân biệt được tiền giả.
Ngoài việc sản xuất cocaine, Colombia còn nổi tiếng về các “nhà máy”
sản xuất đô-la. Rủi ro về chính trị cũng có thể xảy ra. Khi El Salvador tiến
hành đô-la hoá, đảng đối lập gọi đó là hành động bán mình cho đế quốc.
Thuyết phục người dân bản xứ sử dụng một loại tiền không quen thuộc cũng
không phải dễ. Một trong những khó khăn Argentina gặp phải khi quyết định
đô-la hoá sẽ là văn hoá: đô-la hoá có thể được coi là thua chủ nghĩa thực dân,
là dâng nộp biểu tượng niềm tự hào của đất nước.
19
(viii) Khi một quốc gia bị ảnh hưởng của tình trạng đô-la hoá cao thì
nền kinh tế của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc nhất định vào nền kinh tế Mỹ.
Các chính sách về tỷ giá và lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của quốc gia đó. Và khi đồng đô-la
dao động so với các đồng tiền khác trên thế giới (và việc này xảy ra thường
xuyên), đôi lúc khá mạnh, thì sẽ không có cách nào để đối phó với những
khủng hoảng như vậy. Vì nước thực hiện đô-la hoá hoàn toàn trao quyền kiểm
soát và quyền đưa ra một chính sách tiền tệ tập trung và độc lập cho Ngân
hàng trung ương của nước phát hành tiền. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ
đưa ra những quyết định có lợi cho Mỹ và không quan tâm mấy đến tình hình
ở các nước thực hiện đô-la hoá.
Cũng từ nguyên nhân trên, nước thực hiện đôla hoá sẽ không thể đối
phó với các cú sốc kinh tế, ví dụ như dao động của giá dầu trên thị trường thế
giới, bằng cách thay đổi tỉ giá hối đoái. Đô-la hoá sẽ vô hiệu hoá phương thức
sử dụng chính sách tỉ giá hối đoái. Các cú sốc ngoại biên, dao động của đồng
đô-la chỉ là một trong số đó, sẽ không thể được đồng nội tệ hấp thụ bớt mà sẽ
được truyền thẳng vào các hoạt động kinh tế.
Thực tế thì các nước đang phát triển và Mỹ có chu kỳ tăng trưởng kinh
tế không giống nhau, vì thế các quốc gia này cần phải có chính sách tiền tệ,
lãi suất độc lập mới có thể giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Như chúng
ta đã biết cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997-1998 bên cạnh lý
do là sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng thì một nguyên nhân
không kém phần quan trọng là các nước châu Á này cố định đồng nội tệ của
mình vào đô-la Mỹ. Vì thế khi FED tăng lãi suất, làm cho đồng đô-la tăng giá
mạnh, dòng vốn đầu tư ở châu Á ồ ạt đổ về Mỹ. Khi đó các nước châu Á đã
không kiểm soát được lượng đô-la Mỹ trên thị trường, không đưa ra được
20
chính sách tỷ giá hợp lý, vì thế càng làm cho khủng hoảng kéo dài và gây nên
những hậu quả nghiêm trọng như chúng ta đã biết.
1.5 Kinh nghiệm quốc tế về đô-la hoá và bài học cho Việt Nam
1.5.1 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Argentina
Từ trước khi tổng thống Carlos Menem đưa ra ý tưởng đô-la hoá nền
kinh tế vào năm 1999 thì gần như toàn bộ nền kinh tế Argentina đã sử dụng
rộng rãi đồng đô-la. Hiện nay Argentina là quốc gia đô-la hoá bán chính thức.
Trước khi đồng peso bị mất giá vào tháng 1/2001 thì phần lớn các giao
dịch như vay mua xe, mua nhà đều được thanh toán bằng USD. Hiện nay, khi
đồng peso trượt giá quá nhanh thì “cơn sốt xanh” tràn ngập khắp đất nước
Argentina, mọi người đổ xô đi mua USD để tiêu dùng và làm tài sản cất trữ.
Tuy nhiên, Argentina là quốc gia chủ trương đô-la hoá nền kinh tế. Từ
trước đến giờ, Argentina không có một loại tiền tệ chính thống. Khi Carlos
Menem được bầu làm tổng thống vào năm 1989, tỷ lệ lạm phát của nước này
đã lên tới 78%/tháng. Để giảm lạm phát, Quốc hội Argentina đã thông qua
“Luật chuyển đổi” vào tháng 3/1991, chính thức thiết lập tỷ lệ chuyển đổi từ
đồng Austral (tiền tệ của Argentina kể từ năm 1985) sang USD là 10000
Austral đổi 1USD. Chỉ sau đó 1 năm, tháng 1/1992 đồng Peso được dùng làm
tiền tệ của Argentina thay cho Austral với tỷ lệ 10000 Austral đổi 1 peso. Như
vậy, NHTW Argentina phải sẵn sàng bán ra USD với tỷ giá USD/peso = 1.
Khi mà những mối lo ngại về sự không ổn định của hệ thống tiền tệ cũng như
tính chuyển đổi của đồng peso tăng lên đồng nghĩa với việc người dân ưa
chuộng sử dụng USD hơn. Điều này làm cho dự trữ ngoại hối của Argentina
giảm sút và đồng nghĩa với việc NHTW mất đi tính chủ động trong việc điều
hành chính sách tiền tệ, ổn định thị trường.
Gần đây, thế giới lại đang bàn luận về quyết định đô-la hoá nền kinh tế
của Argentina. Vậy nguyên nhân nào khiến các nhà chức trách quyết định đô-
21
la hoá nền kinh tế, từ bỏ quyền tự do hoạch định chính sách tiền tệ và chính
sách tỷ giá? Có 4 nguyên nhân chính:
Rủi ro lãi suất lớn, bắt nguồn từ mối lo ngại về khả năng chuyển đổi
của đồng peso. Đây là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài
không mặn mà với việc đầu tư ở Argentina.
Sự mất niềm tin của người dân vào các nhà hoạch định chính sách vĩ
mô nói chung và vào hệ thống tiền tệ của Argentina nói riêng.
Lạm phát luôn ở mức cao dẫn đến giảm sức mua của đồng nội tệ và
làm mất tính hiệu quả của các chính sách kinh tế.
Nền kinh tế Argentina vốn chịu tác động mạnh của những cú sốc ngoại
biên (như khủng hoảng Brazil, khủng hoảng tài chính Châu Á,...) làm
mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc Argentina nên đô-la hoá nền kinh tế hay chọn giải pháp
thả nổi tỷ giá hối đoái đang là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Nói chung,
Argentina phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa cái được và cái mất khi quyết định đô-
la hoá nền kinh tế.
1.5.2 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Campuchia
Campuchia là quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực
Đông Nam Á và là láng giềng thân thiết với Việt Nam. Campuchia đã đạt
được những thành tựu kinh tế - xã hội rất ấn tượng trong lịch sử phát triển của
mình. Tăng trưởng GDP hàng năm đạt gần 10%, chỉ số giá tiêu dùng CPI
giảm từ 56% trong giai đoạn 1990 – 1998 xuống trung bình 3,5% trong những
năm gần đây.
Tuy nhiên, hiện nay Campuchia vẫn là quốc gia có tình trạng đô-la hoá
cao, nếu không muốn nói là cao hơn so với 10 năm trước. Ở Campuchia, USD
đã thực hiện cả 3 chức năng tiền tệ: phương tiện trao đổi, phương tiện thanh
toán, phương tiện cất trữ giá trị.
22
NHNN Campuchia ước tính tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương
tiện thanh toán đã tăng mức kỷ lục đạt 75% vào năm 2006 và hiện nay là
97%.
Tại Campuchia, trong khi đồng Riel rất ít được sử dụng thì USD lại rất
được ưa chuộng. Có đến 90% các giao dịch thương mại được thực hiện bằng
USD. Hơn nữa, hầu hết giá cả mọi hàng hoá, dịch vụ đều được quy đổi ra
USD. Người dân mua bán, trao đổi đều bằng USD. Hiện nay tình trạng đô-la
hoá cao đang làm đau đầu các nhà chức trách ở Campuchia. Mới đây nhất là
việc khó khăn khi quyết định đồng tiền nào sẽ được sử dụng cho sàn chứng
khoán sắp khai trương của Campuchia. Chính phủ thì muốn sử dụng đồng
Riel nhằm mục đích quảng bá cho đồng nội tệ và thực hiện mục tiêu chống
đô-la hoá. Tuy nhiên, theo quan điểm của giới đầu tư và thị trường thì lại
muốn sử dụng USD do tính an toàn của nó và thói quen sử dụng của thị
trường.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đô-la hoá cao và dai dẳng
tại Campuchia? Đó chính là sự mất niềm tin của người dân vào đồng Riel
trong một thời gian dài, dẫn đến việc sử dụng một ngoại tệ khác an toàn hơn
để thay thế. Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ một hệ thống tiền tệ kém phát
triển, bất ổn chính trị, sự yếu kém của hệ thống pháp lý và buông lỏng quản lý
của các cơ quan chức năng.
Nhưng tại sao gần đây khi chính sách kinh tế, hệ thống luật pháp và sự
quản lý của các cơ quan chức năng đã được cải thiện mà tình trạng đô-la hoá
ở Campuchia vẫn không ngừng gia tăng? Vậy lý do giải thích cho tình trạng
đô-la hoá dai dẳng ở Campuchia là gì? Có 2 nhân tố quyết định: mức độ cải
cách và vấn đề lịch sử.
Về mức độ cải cách, vấn đề không nằm ở việc Campuchia đã tiến bao
xa trong thời gian qua mà nằm ở chỗ Campuchia cần đạt được những gì. Mặc
dù Campuchia đã có sự tăng trưởng ngoạn mục, nhưng hiện nay vẫn là quốc
23
gia có thu nhập thấp, nghèo nàn, và mức độ chênh lệch giàu nghèo lớn,
thường xuyên xảy ra bất ổn chính trị, tệ nạn tham nhũng. Đặc biệt là sự yếu
kém của hệ thống ngân hàng, tiền tệ. Campuchia đang phải đối mặt với thách
thức phát triển một hệ thống ngân hàng độc lập với một khung pháp lý chặt
chẽ. Tóm lại, những thành tựu về kinh tế, xã hội, chính trị mà Campuchia đã
đạt được vẫ chưa đủ để bắt đầu quá trình chống đô-la hoá hiệu quả.
Về vấn đề lịch sử, Campuchia có một độ trễ khá lớn so với các nền
kinh tế khác. Đô-la hoá ở Campuchia là hậu quả của nền kinh tế và tài chính
bị tàn phá nặng nề sau những năm 70 của thế kỷ XX, sự yếu kém trong quản
lý kinh tế vào những năm 80 và một lượng lớn USD được chuyển vào nước
này trong thời kỳ UNTAC① ở những năm 90, chưa kip gượng dậy thì nền
kinh tế lại chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 – 1998
khiến tình trạng đô-la hoá càng trầm trọng. Không giống các quốc gia khác,
nơi mà sự không ổn định của nền kinh tế vĩ mô và lạm phát cao làm gia tăng
tình trạng đô-la hoá, thì ở Campuchia đô-la hoá là hậu quả của một loạt những
bất ổn về chính trị và yếu kém trong quản lý Nhà nước.
Tóm lại, tình trạng đô-la hoá ở Campuchia đang ở mức cao và chưa có
dấu hiệu thuyên giảm. Campuchia muốn khắc phục tình trạng này thì phải giải
quyết triệt để những vấn đề còn đang tồn tại. Quá trình này đòi hỏi phải kiên
trì thực hiện trong thời gian dài chứ không thể một sớm một chiều mà giải
quyết hết được.
1.5.3 Bài học cho Việt Nam
Từ thực trạng quá trình đô-la hoá của Argentina và Campuchia, chúng
ta cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu về chống đô-la hoá.
Thứ nhất, cần phải xây dựng được một hệ thống ngân hàng vững mạnh,
độc lập và một khung pháp lý hoàn chỉnh. Trong đó phát triển đa dạng các
① Phái bộ chuyển tiếp của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia
24
dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển kinh tế. Vì hệ thống
ngân hàng chính là trung gian trung chuyển vốn cho nền kinh tế. Nếu hệ
thống ngân hàng yếu kém thì nền kinh tế sẽ trì trệ và buộc phải huy động từ
các nguồn trên thị trường tự do. Điều này lại dẫn đến việc Nhà nước mất kiểm
soát trong hoạt động tài chính tiền tệ. Đây là điều nguy hiểm đối với nền kinh
tế. Hơn nữa, phải nâng cao vai trò của NHNN và các cơ quan chức năng trong
việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định thị trường, quản lý và điều tiết nền
kinh tế vĩ mô. Vì nếu công tác quản lý, điều hành không tốt thì thị trường sẽ
giống như rắn mất đầu, không xác định được phương hướng, mục tiêu. Đây là
dấu hiệu nguy hiểm dẫn đến khủng hoảng và sự bất ổn định của nền kinh tế.
Thứ hai, phải xây dựng niềm tin của người dân vào đồng nội tệ bằng
cách duy trì một hệ thống tiền tệ ổn định và vững mạnh. Muốn thực hiện được
điều này thì trước tiên phải phát triển kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy
trì ở mức chấp nhận được từ đó ổn định giá trị của đồng nội tệ.
Thứ ba, cần phải ổn định chính trị bởi có an cư thì mới lạc nghiệp.
Chính trị có ổn định thì người dân mới tin tưởng vào Nhà nước và tuân theo
sự điều hành của Nhà nước. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng quản lý của
bộ máy Nhà nước từ trung ương xuống địa phương, bài trừ nạn quan liêu,
tham nhũng.
25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐÔ-LA HOÁ
TẠI VIỆT NAM
2.1 Diễn biến tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô-la Mỹ trong
giao dịch, buôn bán,... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng
được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô-la. Đến năm 1992, tình trạng đô-la hoá
đã tăng mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô-la.
Trước tình trạng này, NHNN Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô-la
hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD
vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 đã khiến cho đồng tiền Việt Nam
giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô-la hoá.
Sau đây là chi tiết diễn biến quá trình đô-la hoá ở nước ta trong các giai
đoạn từ năm 1990 đến nay:
Thời kỳ 1990 -1991: Tỷ lệ đô-la hoá đột ngột tăng mạnh vào năm 1991
(41%) bắt nguồn từ siêu lạm phát.
Ở nước ta đô-la hoá bắt đầu xuất hiện từ khi tiến hành cải cách nền
kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường vào cuối những năm 80
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá - lương - tiền mà đỉnh
cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9/1985 và lạm phát cũng đã bùng nổ ngay
sau đó. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/1986 đã tăng lên đến 775%, hai năm
tiếp theo lạm phát cũng ở mức rất cao với 3 chữ số. Từ 1989 đến 1991 lạm
phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng hơn 67% liên tiếp
trong hai năm 1990 - 1991.
26
Hậu quả tai hại là nền kinh tế bị chao đảo, đồng tiền mất giá mạnh,
niềm tin vào giá trị đồng bạc Việt Nam không còn, gây tâm lý chạy trốn khỏi
tiền giấy mất giá bằng cách đổ xô nắm giữ vàng, USD, hay bất động sản. Mọi
người có lúc đã chứng kiến cảnh giá vàng và USD tăng lên đến chóng mặt
(tăng tới 10 - 11%/1tháng). Lúc đó rút tiền tiết kiệm chưa đến hạn ra mua
vàng hay USD dù có bị mất lãi 3,5%/tháng vẫn được lời gấp đôi số thiệt. Mặt
khác, hệ thống tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu chu chuyển vốn cũng
như các phương tiện của nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới. Chính hệ
thống thanh toán còn quá yếu, đôi khi đã gây nên hiện tượng thiếu tiền mặt
một cách vô lý, đã buộc người ta phải dùng vàng và ngoại tệ đưa vào lưu
thông làm phương tiện thanh toán.
Rõ ràng vì tránh rủi ro lạm phát và đảm bảo sức mua thực tế của đồng
tiền cũng như hy vọng kiếm lời đã dẫn tới tâm lý sính dùng vàng và đô-la, hầu
hết đều lấy USD làm chuẩn mực để cất giữ và thanh toán trong nước.
Thời kỳ 1992 - 1996: Mức độ đô-la hoá giảm và ổn định ở mức thấp (20 -
24%) trong thời gian này là nhờ lãi suất VND đã ở mức thực dương, tâm lý
phá giá đồng nội tệ thấp, lạm phát tiền tệ hạ thấp xuống 1 chữ số.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1991 - 1996
Đơn vị: %
Năm 1992 1993 1994 1995 1996
Tăng trưởng GDP 8,70 8,08 8,83 9,54 9,34
Lạm phát 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5
Nguồn: Thời báo Kinh tếViệt Nam, số 31, năm 1997
27
Bảng 2: Lãi suất tiết kiệm USD và VND giai đoạn 1992 – 1996
Đơn vị: %
Năm
Mức
phá giá
của
VND
Lãi suất
tiết kiệm
VND
Lợi tức
VND tính
theo USD
Lợi tức USD
(lãi suất tiết
kiệm USD
trong nước)
Chênh lệch
lợi tức
(1) (2) (3) = (2) - (1) (4) (5) = (3) - (4)
1992 -8,13 34,10 42,23 4,05 38,18
1993 2,62 20,40 17,78 3,20 14,58
1994 1,92 16,80 14,88 3,50 11,38
1995 -0,33 16,80 17,13 4,50 12,63
1996 0,33 9,60 9,27 4,80 4,47
Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, 2002.
Đầu những năm thập kỷ 90, NHTW đã sử dụng chính sách tiền tệ mới,
đặc biệt đã áp dụng chính sách lãi suất thực dương, do vậy đã hấp dẫn hướng
mọi người tích luỹ VND. Thực tế đã có nhiều người rút tiền gửi USD chuyển
qua gửi vào ngân hàng bằng VND được hưởng lãi cao hơn, dẫn đến tỷ lệ tiền gửi
USD trong tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng lúc đó chỉ còn 18% (năm 1996)
Trong hệ thống ngân hàng đã triển khai thực hiện tốt QĐ396/TTg của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý ngoại hối. NHTW điều hành tốt
việc cung ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ, vàng và một số
hàng hoá khác đã giảm xuống.
Năm 1992, Việt Nam đã phát hành thêm hàng ngàn tỷ đồng để mua
USD trôi nổi mà lạm phát lại được kéo xuống một chữ số từ tháng 3/1992.
Tác dụng kép của việc mua USD vào là vừa thay thế USD lưu thông bằng tiền
giấy, vừa tăng khối dự trữ ngoại tệ của Nhà nước.
28
Hơn nữa, đây là thời kỳ có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất kể từ
khi chúng ta tiến hành cải cách đến lúc đó, tạo dựng niềm tin của người dân
vào công cuộc đổi mới và tin tưởng vào giá trị của VND. Bước đầu coi như
đã thiết lập VND thành đồng tiền ổn định giá trị cả về đối nội và đối ngoại.
VND ngày càng đáp ứng được vai trò là phương tiện thanh toán.
Thời kỳ 1997 - 1998: Những hiệu ứng lan toả từ cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997 đã liên đới làm tăng tình trạng
đô-la hoá.
Ngày 2/7/1997, ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu
Á bắt đầu bung ra từ Thái Lan và nhanh chóng lan ra các nền kinh tế trong
khu vực.
Cuộc khủng hoảng làm cho giá trị đồng tiền của các nước này giảm
nhanh và mạnh: đồng Rupiah Indonesia mất giá 130%, đồng Bath Thái Lan
mất giá 100%, đồng Ringgit Malaysia mất giá 60%...① Là một nước nằm
trong khu vực, lại cùng thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu và có cơ cấu
xuất khẩu tương đối giống nhau đã tạo áp lực phá giá lên VND và ảnh hưởng
bất lợi đến kinh tế trong nước. Có thể nói chính sự phá giá của các đồng tiền
trong khu vực, sự lên giá của các đồng tiền mạnh và xuất khẩu trong nước suy
giảm do khủng hoảng kinh tế đã dẫn đến tâm lý cho rằng tiền Việt Nam sẽ
còn tiếp tục mất giá.
Ngoài ra, do năm 1996 khối lượng L/C trả chậm khá lớn và phần lớn
đến hạn trả vào năm 1997 đã làm tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả
nợ. Đồng thời, nguồn cung ngoại tệ từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam cũng giảm sút (trong đó có nguyên nhân bắt nguồn từ cuộc khủng
hoảng) nên cũng góp phần gây áp lực giảm giá VND.
① Bách khoa toàn thư mở: http://vi.wikipedia.org/wiki/Khủng_hoảng_tài_chính_châu_Á_1997
29
Điều đáng chú ý là trong giai đoạn này, chênh lệch lãi suất VND &
USD đã thu hẹp khoảng cách đến mức thấp nhất. Chênh lệch lợi tức sau đó đã
khiến tiền gửi ngoại tệ có lợi hơn tiền gửi nội tệ dẫn đến xu hướng các nhà
đầu tư và dân chúng rút tiền VND để chuyển sang ngoại tệ tăng lên.
Về cơ bản, điều này phản ánh sự phá giá tiền đồng sau hậu quả của
khủng hoảng Đông Á, vì lẽ đó đã làm gia tăng tỷ lệ đô-la hoá từ 21% tháng
9/1997 lên 26% vào năm sau.
Bảng 3: Lãi suất tiết kiệm USD & VND năm 1997 - 1998
Đơn vị: %
Năm
Mức phá
giá của
VND
Lãi suất
tiết kiệm
VND
Lợi tức VND
tính theo
USD
Lợi tức USD
(lãi suất tiết
kiệm USD
trong nước)
Chênh lệch
lợi tức
(1) (2) (3) = (2) – (1) (4) (5) = (3) - (4)
1997 11,57 9,60 -1,97 5,00 -6,97
1998 12,70 9,60 -3,10 5,00 -8,10
Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, 2002.
Thời kỳ 1999 - 2001: Sự gia tăng đô-la hoá trong giai đoạn mà nền
kinh tế vĩ mô đã có sự ổn định tương đối dược đánh giá là mang tính đa
diện, trong đó có 4 nhân tố đóng vai trò chính yếu.
(i) Nhân tố đầu tiên là việc tái trung gian hoá ngoại tệ trước đây nằm
ngoài hệ thống ngân hàng.
Trong xu hướng gia tăng tình trạng đô-la hoá gần đây thì bộ phận tăng
mạnh nhất được ghi nhận cho đến nay là trong các hộ gia đình. Cụ thể, trong
cả năm 2000, lượng tiền gửi ngoại tệ của hộ gia đình tăng gần gấp đôi, lên
đến 3,1 tỷ USD. Hơn một năm rưỡi (12/1998 - 8/2001), tỷ lệ tiền gửi của các
hộ gia đình chiếm tới 80% trong tổng lượng gia tăng FCDs.
30
Tuy khối lượng tiền được chuyển thông qua ngân hàng dần được tăng
nhiều hơn, nhưng qua so sánh cho thấy nó chỉ góp một phần vào sự tăng
mạnh của FCDs. Hơn nữa, với sự kiểm soát chặt chẽ các giao dịch trên tài
khoản vốn, dòng vốn chảy vào có lẽ cũng bị hạn chế.
Nhìn chung, FCDs của hộ gia đình tăng mạnh được coi là một sự phản
ánh lòng tin đối với hệ thống ngân hàng đã khôi phục trở lại, và điều này còn do
các quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ được nới lỏng hơn trong năm 1999.
Cũng đáng chú ý là vai trò của lòng tin được nâng lên thể hiện qua việc
toàn bộ sự gia tăng FCDs của hộ gia đình giai đoạn gần đây là theo hình thức
tiền gửi có kỳ hạn. Cuối cùng, có thể sự ưa thích FCDs trong các hộ gia đình
cũng phần nào phản ánh hoạt động tương đối trầm lắng của thị trường tài chính
và còn thiếu các công cụ tài chính được hưởng lãi để họ có thể chọn lựa.
(ii) Nhân tố chính yếu thứ hai là chênh lệch lợi tức thực dự tính và
động cơ đa dạng hoá danh mục đầu tư và rủi ro.
Đặc biệt, những dự tính về sự phá giá tiền Đồng định kỳ - một phần bị
tác động mạnh lên bởi sự lên giá thực của tiền Đồng kể từ đầu năm 2000 có
xu hướng đồng nhịp với tình trạng đô-la hoá. Vì có dự tính về phá giá, các hộ
gia đình và các doanh nghiệp cố gắng tìm kiếm sự bảo vệ sức mua thông qua
tiền gửi ngoại tệ. Với gần 80% trong tổng số FCDs là gửi có kỳ hạn, có lẽ
những động cơ đầu tư và đa dạng hoá như vậy đóng vai trò chính và đối lập
với nhân tố cầu tiền - có quan hệ mật thiết với chênh lệch lợi tức hiện hành.
Hơn nữa, có dự đoán rằng các doanh nghiệp - bộ phận nắm giữ khối
lượng lớn tiền gửi ngắn hạn bằng VND - vẫn đang chuyển từ tiền gửi bằng
tiền Đồng sang tiền gửi ngoại tệ, đặc biệt là trong tháng 4 đầu năm 2001, khi
mà tiền Đồng lên giá thực khoảng 2,2%.
31
Bảng 4: Lãi suất tiết kiệm USD & VND, 1999 - 2001
Đơn vị: %
Năm
Mức phá
giá của
VND
Lãi suất
tiết kiệm
VND
Lợi tức VND
tính theo USD
Lợi tức USD
(lãi suất tiết
kiệm USD
trong nước)
Chênh lệch
lợi tức
(1) (2) (3) = (2) – (1) (4) (5) = (3) – (4)
1997 11,57 9,60 -1,97 5,00 -6,97
1998 12,70 9,60 -3,10 5,00 -8,10
Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, 2002.
(iii) Nhân tố thứ ba là kết quả hoạt động xuất khẩu khả quan trong giai
đoạn 1999 - 2001, xuất khẩu tính theo quý tăng gần gấp đôi so với mức bình
quân của giai đoạn ba năm trước.
Nhân tố này kết hợp với quy định giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc (đầu tiên
giảm từ 80% xuống còn 50% vào năm 1999, sau đó còn 40% vào năm 2000)
cho phép nhiều nhà xuất khẩu, đồng thời cũng là những nhà nhập khẩu có
được nhiều ngoại tệ hơn để tự tài trợ cho hoạt động nhập khẩu đang tăng lên
và giảm rủi ro tỷ giá.
Trong điều kiện đó cũng đáng chú ý là vào cuối tháng 8/2001, ngân
hàng Vietcombank, ngân hàng chủ chốt trong lĩnh vực giao dịch thương mại
quốc tế, đã nắm giữ hơn 40% tổng lượng FCDs. Hơn nữa trong vài tháng gần
đây, ngân hàng này cũng thu hút được hơn 2/3 lượng FCDs gia tăng trong hệ
thống ngân hàng.
32
Bảng 5: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1990 – 2000
Năm Xuất khẩu
(tr. USD)
Nhập khẩu
(tr. USD) Tỷ lệ nhập/xuất
1990 2404,0 2752,4 1,145
1991 2087,1 2338,1 1,120
1992 2580,7 2540,7 0,985
1993 2985,2 3924,0 1,314
1994 4054,3 5825,8 1,437
1995 5448,9 8155,4 1,497
1996 7255,9 11143,6 1,536
1997 9185,0 11592,3 1,262
1998 9360,3 11499,6 1,229
1999 11540,0 11622,0 1,007
2000 14308,0 15200,0 1,062
2001 15027,0 1616,2 1,076
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
(iv) Nhân tố thứ tư là không còn chênh lệch lãi suất giữa VND và USD,
mà trước đây sự chênh lệch này rất lớn và thiên về tiền gửi bằng VND.
Tỷ lệ chênh lệch đã giảm từ 3% vào giữ năm 1999 xuống còn 0 -
0,25% từ đầu năm 2000, làm cho FCDs hấp dẫn hơn.
Lãi suất tiền gửi bằng VND thấp hơn một phần giúp ngân hàng duy trì
được khoản lợi nhuận, đặc biệt là khi các khoản cho vay khó đòi đang tăng
lên, và một phần là do khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng vào cuối
năm 1999 được nâng lên. Những hạn chế trong sức cạnh tranh của ngân hàng
có thể cũng góp phần vào sự giảm chung của lãi suất tiền gửi bằng đồng, vì
33
các ngân hàng nước ngoài không được phép nhận tiền gửi bằng đồng vượt
quá 25% vốn tự có.
Thời kỳ 2002 – 2010: tỷ lệ đô-la hoá tuy có giảm nhưng số lượng
tiền gửi bằng đô-la ngày càng tăng, cho thấy mức độ ngày một trầm trọng
của tình trạng đô-la hoá.
Đến cuối năm 2001, tỷ lệ tiền gửi vào các NHTM tăng lên đến 31,7%.
Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo. Đến năm
2003 còn 23,6% và năm 2004 là 22%. Đây có thể nói là một dấu hiệu tích cực
cho thấy tình trạng đô-la hoá tài sản nợ trong hệ thống NHTM đang được
kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin hơn vào đồng nội
tệ. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô-la thì không ngừng tăng lên,
hiện nay con số đạt xấp xỉ 10 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được
cho đầu tư phát triển kinh tế, nhưng mặt khác cũng cho thấy sự đáng báo động
ở tình trạng đô-la hoá.
Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay
bằng đô-la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương
mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô-la. Đặc biệt là tại Thành
phố Hồ Chí Minh dư nợ cho vay bằng USD cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng
gấp hai lần so với năm 2002. Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán
hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ
của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi
nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm,... có thể thấy mức độ sử dụng đô-la
Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền
kinh tế bị đô-la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô-la hoá là số
liệu rất khó xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô-la ở các
ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô-la mà người
dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn
34
đô-la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hong Kong
để kiếm lãi suất cao.
Đến năm 1992, lãi suất đồng đô-la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam
không còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng
lớn ngoại tệ về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước
ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003.
Sau khi rút tiền đô-la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam
bắt đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô-la để sinh lợi.
Tính đến cuối năm 2008, khoản tiền mà các ngân hàng cho vay bằng USD đã
chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 28%. Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều
này có vẻ yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận tiền gửi và cho vay
đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy
các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá.
Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ
phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về sự thay đổi tỷ
giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ
phòng tránh rủi ro.
Nếu đồng đô-la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả
năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó
dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Nhưng trong thời điểm năm 2009, diễn ra tình trạng đồng đô-la Mỹ bị
sụt giá nhanh chóng. Tỷ giá hối đoái của đô-la với Euro trong 4 năm qua đã
sụt giảm 40%, riêng năm 2003 sụt giá 20%, các nhà quan sát cho rằng đồng
đô-la Mỹ sụt giá với mức độ nghiêm trọng trong thời gian này vì các lý do
sau: nước Mỹ đã bị thâm hụt ngân sách nặng nề (459 tỷ USD, bằng 3,8% tổng
GDP của cả nước); tổng số nợ của Chính phủ Mỹ trong năm tài chính 2004 là
7.586 tỷ USD (bằng 67,3% GDP cả nước) vượt quá mức báo động quốc tế;
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai năm 2003 tăng vọt lên đến 530,7 tỷ
35
USD; lượng đầu tư nước ngoài vào Mỹ giảm sút nghiêm trọng, trong năm
2003 giảm 44,9% so với năm 2002.① Những vấn đề trên đã trở thành áp lực
lớn làm cho đồng đô-la sụt giá. Đồng thời mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với thế
giới A rập xấu đi, làm cho một loạt nước xuất khẩu dầu mỏ Trung Cận Đông
đã giảm bớt cất giữ và sử dụng đô-la, mà chuyển qua sử dụng đồng Euro
nhiều hơn trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ. Hơn nữa Liên bang
Nga và một số nước khác cũng đã và đang có hành động tương tự. Tất cả
những điều này gây thêm sức ép đối với đồng đô-la Mỹ, làm tăng khả năng
sụt giá của đồng đô-la.
Vấn đề đặt ra là nếu đồng đô-la Mỹ tiếp tục sụt giá mạnh thì những
thiệt hại gì sẽ xẩy ra, giả sử mức sụt giá là 20%, hệ quả tất yếu là thu ngoại tệ
về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tính bằng đô-la của tất cả các nước trên thế
giới đều bị thiệt hại theo tỷ lệ tương ứng. Ngoài ra, kim ngạch dự trữ ngoại tệ
và lượng vốn FDI của tất cả các nước tính bằng đô-la cũng sẽ tự nhiên hao hụt
tương ứng. Vốn liếng kinh doanh, tiền tiết kiệm, tiền lương, quỹ hưu trí, bảo
hiểm, phúc lợi xã hội tính bằng đô-la của tất cả mọi người có liên quan đều
phải chịu thiệt hại. Ngược lại, các khoản phải trả về nhập khẩu hàng hoá, dịch
vụ chưa thanh toán, các khoản nợ vay nước ngoài bao gồm tiền gốc và lãi
chưa trả tính bằng đô-la đều mặc nhiên được giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt
giá của đồng đô-la.
Như vậy, việc sử dụng đồng đô-la như thế nào cho có hiệu quả là một
vấn đề vô cùng phức tạp. Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô-
la cũng có một mặt tích cực nào đấy, nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng
đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô-la hoá,
tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là
đồng tiền Việt Nam.
① Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 171, tháng 12 năm 2004
36
Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị
đô-la hoá, như tại Trung Quốc, các ngân hàng không được phép quyết định lãi
suất tiền gửi bằng đô-la.
Thông thường đô-la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá
là yếu kém, và đồng đô-la được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy
nhiên, không phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền yếu đều bị đô-la hoá trực
tiếp. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như ở Trung
Quốc, Thái Lan, Brasil,... không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ
dàng bằng đồng đô-la. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá
đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng
điện tử, xe cộ, phí khách sạn,... đã làm tăng quá trình đô-la hoá. Như trên đã
phân tích, nếu tình hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ
dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính vào một thời điểm nào đó.
Một số nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận định rằng, thời gian vừa qua tỷ
giá hối đoái biến động là do cung cầu ngoại tệ, nhất là USD trở nên căng
thẳng, một nguyên nhân nữa là việc điều hành chính sách tỷ giá không linh
hoạt, không kịp thời ứng phó được với biến động trên thị trường. Tuy nhiên,
nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là tình trạng lạm phát cao và kéo dài
liên tục, làm giảm giá trị của đồng Việt Nam, dẫn đến giảm lòng tin của người
dân đối với tiền đồng.
Giá cả trên thị trường thế giới biến động, một số hàng hóa như xăng
dầu, sắt thép… tăng cao đã tác động đến giá cả trong nước, làm cho CPI tăng.
Đó là nhân tố khách quan từ bên ngoài. Nhân tố chủ yếu là quan hệ giữa tốc
độ tăng trưởng kinh tế và lưu thông tiền tệ.
CPI liên tục tăng, năm 2004 là 7,71%, năm 2005 là 8,29%, năm 2006 là
7,48%, năm 2007 là 8,30%, năm 2008 là 22,97% và năm 2009 là 6,88%.
Thực trạng đó có liên quan đến mức chi tiêu danh nghĩa trong nước đã tăng
nhanh khi các khoản viện trợ chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài
37
(FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI), kiều hối đổ vào nước ta ngày càng nhiều. Nếu
như năm 2003, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 333.809 tỷ đồng, thì
năm 2008 là 983.803 tỷ đồng, bằng 2,94 lần.
Trong thời gian đó, vốn đầu tư xã hội cũng gia tăng, năm 2003, vốn đầu
tư xã hội theo giá thực tế là 239.246 tỷ đồng, thì năm 2008 là 610.876 tỷ
đồng, bằng 2,55 lần. Cả hai chỉ tiêu này đã tăng bình quân trên 20%/năm,
trong khi lượng cung ứng thực (được đo bằng sản lượng thực + thâm hụt
thương mại thực) chỉ tăng bình quân dưới 10%/năm.①
Tốc độ tăng cung ứng tiền khá cao, liên tục từ năm 2003 đến nay trên
25%/năm, tín dụng tăng trên 35%/năm. Tình trạng đó cũng phản ảnh trong
quan hệ giữa mức huy động vốn và mức dư nợ tín dụng của các ngân hàng
thương mại.
Báo cáo gần đây của NHNN cho biết, mức dư nợ tín dụng năm 2009
tăng 37,73%, trong khi mức huy động vốn chỉ tăng 28,7%. Vietinbank thông
báo, năm 2009, mức dư nợ tín dụng tăng 35%, mức huy động vốn chỉ tăng
25%.
Các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất để hấp dẫn người gửi
tiền. Khi lãi suất tăng cũng có nghĩa là giá trị VND giảm. Điều này càng
khiến cho tình trạng đô-la hoá ở nước ta trở nên trầm trọng và phức tạp hơn.
Một lĩnh vực đô-la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh
doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực
giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web
bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại,... Mặc dù
hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được
thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VND thì giá của hàng
hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VND và USD ngày hôm thực hiện giao
① Thời báo Kinh tế Việt Nam: http:// www.vneconomy.vn/tai-chinh/se-day-lui-dola-hoa./
38
dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt
Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng linh kiện, nên giá của
chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD. Do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi
ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp
niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử".
Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh
doanh chủ yếu trong tương lai. Nếu không có những chính sách đúng đắn và
kịp thời để giảm thiểu tình trạng đô-la hoá ở nước ta thì đây sẽ là trở ngại cho
nền kinh tế Việt Nam.
2.2 Phân tích những tác động của tình trạng đô-la hoá tới nền kinh tế
Việt Nam.
Đô-la hoá là một hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia và nó có tác
động đến hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế.
2.2.1 Tác động của đô-la hoá đến hệ thống Tài chính – Ngân hàng
Xét về hiện tượng đô-la hoá trong hệ thống ngân hàng, chúng ta sẽ đề
cập đến hai khía cạnh chính, đó là đô-la hoá tiền gửi và đô-la hoá cho vay.
2.2.1.1 Đô-la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng
Tình trạng đô-la hoá được đánh giá thông qua các chỉ tiêu tiền gửi bằng
ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán, hoặc tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ
so với tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Cũng giống như một số nền kinh
tế chuyển đổi hay những quốc gia đang phát triển khác, tiền gửi bằng đồng
ngoại tệ đã và đang trở thành một đặc điểm quan trọng trong các hiện tượng
tiền tệ ở Việt Nam. Đặc biệt, lượng tiền gửi ngoại tệ tăng lại gắn liền với sự
tăng lên trong việc người dân sử dụng ngoại tệ như một phương tiện trao đổi
(trong các giao dịch) hay như là nơi lưu trữ giá trị (cho mục đích đầu tư) và
đây được xem như biểu hiện của hiện tượng đô-la hoá.
Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong giai đoạn cuối những năm 80
– đầu những năm 90 của thế kỷ XX vẫn còn đọng lại trong tâm trí của người
39
dân, thế nên những người đang sở hữu khoản tiết kiệm bằng USD sẽ không
dại gì mà chuyển sang tiết kiệm bằng VND. Giá trị của đồng nội tệ giảm sút
theo thời gian khiến cho người tiết kiệm khôn ngoan luôn chọn gửi tiết kiệm
bằng USD. Thêm vào đó, lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong những năm từ
2000 – 2008 càng làm gia tăng tình trạng đô-la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân
hàng. Thời gian này, lợi tức trên 1 đồng USD gửi tại ngân hàng cao hơn nhiều so
với lợi tức 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn đồng tiền tiết kiệm.
Đô-la hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư mà
còn diễn ra ở các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Tiền gửi ngoại tệ của các tổ
chức kinh tế xã hội tăng mạnh không phải do lãi suất huy động USD tăng cao
vào những năm 2000. Bởi vì lãi suất tiền gửi USD mà ngân hàng trả cho các
tổ chức kinh tế xã hội bị giới hạn bởi trần lãi suất quy định bởi NHNN (Theo
quyết định số 309/1999/QD-NHNN quy định chi tiết trần lãi suất tiền gửi
USD của các tổ chức kinh tế xã hội tại cái ngân hàng như sau: tiền gửi không
kỳ hạn là 0,5%/1 năm, kỳ hạn 6 tháng trở xuống là 2,5%/1 năm, kỳ hạn trên 6
tháng là không quá 3%/1 năm).
Nguyên nhân chính làm tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội là
do các doanh nghiệp, tổ chức có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự án
tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu nhưng không
bán ngay mà giữ lại do tỷ giá VND/USD ngày càng có xu hướng tăng cao.
Như vậy lãi suất mà doanh nghiệp được hưởng sau khi điều chỉnh sự biến đổi
tỷ giá sẽ hấp dẫn hơn gửi tiết kiệm bằng VND. Còn trong trường hợp thiếu
vốn VND thì doanh nghiệp sẽ đi vay của ngân hàng với lãi suất hấp dẫn vì sự
cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc giành thị trường.
40
Bảng 6: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán
Năm Tỷ lệ % Năm Tỷ lệ %
1989 28,2 1999 26,1
1990 32,4 2000 26,9
1991 41,2 2001 31,7
1992 30,6 2002 28,4
1993 22,9 2003 23,6
1994 22,2 2004 24,3
1995 21,0 2005 23,0
1996 20,3 2006 21,6
1997 23,6 2007 19,6
1998 24,6 2008 20,4
Nguồn: IMF – Viet Nam Statistical Appendix 2007 , NHNN Việt Nam
Qua bảng trên chúng ta có thể thấy tỷ lệ đô-la hoá ở mức cao nhất vào
những năm 90 của thế kỷ XX. Ngay sau đó, NHNN đã kịp thời can thiệp làm
cho tỷ lệ này giảm xuống nhanh chóng, dao động ở 20% vào những năm tiếp
theo. Nhưng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 –
1998 đã đẩy tỷ lệ đô-la hoá ở nước ta lên mức cao, có thời điểm lên tới
31,7%. Nhà nước và các cơ quan chức năng rất quan tâm đến vấn đề chống
đô-la hoá và đã có những chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm cải thiện tình hình.
Do đó, tỷ lệ đô-la hoá trong những năm gần đây đang ổn định ở mức vừa
phải.
Tuy nhiên về số lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD thì không ngừng
tăng lên theo các năm. Năm 2003 mới chỉ là 6220 triệu USD, nhưng tính đến
năm 2009 thì con số này đã là 18796 triệu USD. Con số này một mặt cho thấy
tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy
41
động được cho việc đầu tư phát triển kinh tế, nhưng một mặt cũng là con số
đáng báo động ở góc độ đô-la hoá.
Bảng 7: Khối lượng tiền gửi ngoại tệ (FCDs) trong hệ thống ngân hàng
Đơn vị: triệu USD
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
FCDs 6220 8215 10027 12396 13992 14675 18796
Nguồn: IMF – Vietnam Statistical Appendix 2007 và NHNN Việt Nam
Đứng trước tình trạng đô-la hoá không có dấu hiệu suy giảm đáng kể,
NHNN đã có biện pháp can thiệp bằng các chính sách tiền tệ. Sự can thiệp
này đã phần nào ngăn chặn làn sóng tăng lãi suất huy động USD của các
NHTM. Bên cạnh đó, yếu tố khách quan là việc lãi suất USD trên thị trường
thế giới đang giảm cũng tác động đến việc giảm thiểu tình trạng đô-la hoá trên
thị trường.
Động thái đầu tiên của NHNN nhằm giảm thiểu tình trạng đô-la hoá đó
là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 5% lên 8% vào tháng
11/2000. Tuy nhiên sự can thiệp lần này chỉ tác động đến một số ngân hàng
và mức giảm lãi suất cũng không đáng kể. Can thiệp lần thứ hai vào tháng
12/2000, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8% lên 12% thực sự là một cú sốc lớn
đối với các NHTM. Kết quả là các ngân hàng đồng loạt hạ lãi suất huy động
USD. Thêm vào đó, FED cắt giảm lãi suất 4 lần, xuống còn 4% trong vòng 4
tháng từ tháng 1/2001 đến tháng 4/2001 đã làm cho lãi suất USD hạ nhiệt.
Vào tháng 4/2001, NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 12% lên tới 15%. Tại
thời điểm này thì lãi suất huy động USD của các ngân hàng đã giảm mạnh,
xuống còn 4,15 – 4,25%/năm.
Quyết định 1247/2005/QD-NHNN ban hành ngày 26/08/2005 về việc
điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các pháp nhân tại các TCTD.
Cụ thể là: tiền gửi không kỳ hạn tối đa là 0,5%, tiền gửi có kỳ hạn đến 6
42
tháng tối đa là 1,2%, tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng tối đa là 1,5%. Với mức
lãi suất thấp kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định đã khuyến khích các doanh
nghiệp kết hối ngoại tệ nhiều hơn, giải toả lượng USD găm giữ trong dân, từ
đó làm giảm tình trạng khan hiếm ngoại tệ.
Năm 2005, tổng phương tiện thanh toán tăng 23,43%, thấp hơn nhiều so
với mức tăng 30,39% của năm 2004. Trong đó tăng trưởng tổng phương tiện
thanh toán chủ yếu là do tăng trưởng tài sản có ngoại tệ ròng. Năm 2005 đạt mức
tăng 28,22%, cao hơn nhiều so với mức tăng 10,99% của năm 2004 và mức
11,91% của năm 2003. Tỷ trọng tiền gửi bằng USD có xu hướng tăng nhẹ,
chiếm 24,4%, năm 2004 là 23,61%, và năm 2003 là 23,89%. (Xem biểu đồ 1).
Năm 2006, tổng phương tiện thanh toán tăng 33,59%, đến năm 2007
tốc độ này đã là 46,12%. Nguyên nhân chủ yếu là do tài sản có ngoại tệ ròng
và tài sản có trong nước ròng tăng mạnh. Về cơ cấu tổng phương tiện thanh
toán, tỷ trọng tiền gửi bằng USD năm 2006 là 21,62% và giảm nhẹ xuống còn
19,18% vào năm 2007.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán
giai đoạn 2000 – 2005
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005, NHNN Việt Nam
43
Trong năm 2007, với vai trò là người can thiệp cuối cùng để ổn định thị
trường, NHNN đã thực hiện mua bán USD với các NHTM để hỗ trợ nhu cầu
về VND cũng như nhu cầu USD một cách kịp thời. Khi cung cầu trên thị
thường biến động ảnh hưởng đến trạng thái ngoại tệ của các NHTM thì
NHNN can thiệp bán ngoại tệ để cân bằng trạng thái, hạn chế rủi ro đối với
hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhờ nguồn cung ngoại tệ trên thị
trường trong năm 2007 tăng mạnh, NHNN đã mua được một khối lượng lớn
ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối, tạo tiềm lực và thế chủ động cho NHNN trong
việc can thiệp thị trường và điều hành chính sách tiền tệ.
Năm 2007 cũng bắt đầu một thời kỳ tồi tệ đối với nền kinh tế thế giới.
Khởi đầu là cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ, sau đó lan ra các
nước khác và tạo thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng này là nguyên nhân chính làm cho nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái.
Các nhà kinh tế cho rằng đây là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Mỹ kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai. Hàng loạt tổ chức tài chính phá sản, bao gồm
cả những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời đã đẩy Mỹ rơi vào tình trạng
“đói tín dụng”, từ đó kéo theo tình trạng thất nghiệp ngày càng trầm trọng.
Tiêu dùng giảm, hàng hoá ế thừa đã kéo mức giá chung của nền kinh tế giảm
liên tục, đẩy Mỹ rơi vào tình trạng giảm phát. Cuộc khủng hoảng còn làm cho
đồng USD lên giá. Vì USD là đồng tiền thanh toán chính trong các giao dịch
quốc tế, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua vào USD để nâng cao khả năng
thanh khoản của mình, đẩy USD lên giá.
Năm 2008, mặc dù đối mặt với khủng hoảng kinh tế, lạm phát và sự
suy yếu của đồng đô-la nhưng tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trong tổng phương
tiện thanh toán vẫn chiếm 20,37%, tăng 1,19% so với năm 2007. Huy động
vốn bằng ngoại tệ tăng 27,74%, giảm nhẹ so với mức tăng 29,66% vào năm
2007.
44
Biểu đồ 2: Cơ cấu tiền gửi trong hệ thống ngân hàng từ 2004 - 2008
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008, NHNN Việt Nam
Ngày 10/02/2010, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số
03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô-la Mỹ của
tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Hiện nay, lãi suất niêm yết
cho tiền gửi bằng đô-la Mỹ tại các ngân hàng dao động trong khoảng 2,3% -
4%/năm đối với ngân hàng thương mại nhà nước và 3,3% - 4,5%/năm đối với
ngân hàng thương mại cổ phần.
Những động thái trên của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu bình ổn giá
đô-la Mỹ, kéo giá đô-la Mỹ trong ngân hàng và thị trường chợ đen gần nhau
hơn để giảm tình trạng ngoại tệ chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng, từ đó giúp
NHNN dễ dàng hơn trong việc quản lý và thực thi các chính sách, giảm thiểu
tình trạng đô-la hoá.
Việc quy định lãi suất tối đa bằng đô-la Mỹ đối với các tổ chức kinh tế
cũng nhằm hạn chế việc các công ty thu được ngoại tệ nhưng không bán lại
cho ngân hàng mà để trên tài khoản với hy vọng giá sẽ tăng. Việc găm giữ đã
khiến cho các ngân hàng lâm vào hoàn cảnh khó khăn về nguồn ngoại tệ để
bán cho các doanh nghiệp có nhu cầu, gián tiếp đấy giá đô-la trên thị trường
tự do lên cao.
45
Theo số liệu tính đến ngày 30-11-2009 của NHNN, số dư tiền gửi có kỳ
hạn của các tập đoàn, tổng công ty lớn vào khoảng 1,2 tỷ USD và số dư tiền
gửi không kỳ hạn là khoảng 700 triệu USD. Tổng lượng ngoại tệ trên tài
khoản của các tổ chức, doanh nghiệp gửi ngân hàng vào khoảng 10,3 tỷ USD.
Sau khi Chính phủ có yêu cầu buộc các tập đoàn kinh tế nhà nước bán ngoại
tệ cho ngân hàng thì hệ thống ngân hàng đã mua được 450 triệu USD tính đến
đầu tháng 2/2010.
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và Đầu tư vừa trình Chính phủ, tính đến
31/03/2010 thì tổng phương tiện thanh toán ước tính tăng 1,02% so với cuối
tháng 2 và tăng 2,3% so với cuối năm 2009. Lượng tiền gửi khách hàng tại
các TCTD tăng 1,81% so với tháng trước và tăng 1,45% so với cuối năm
2009.
Trong khi tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng VND ba tháng đầu năm
2010 tăng vỏn vẹn 0,57% thì dư nợ ngoại tệ tăng tới 14,07%, một tốc độ tăng
hiếm thấy trong nhiều năm qua.
Nhưng điều đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng huy động vốn tiền đồng
trong ba tháng đầu năm lại cao gấp 9 lần huy động ngoại tệ. Riêng tháng
3/2010 huy động VND tăng 2,04% và cao hơn mức 1,82% vào cuối năm
ngoái. Nhưng tốc độ tăng trưởng huy động ngoại tệ trong tháng 3 chỉ tăng
1,02% và trung bình là 0,21% trong cả ba tháng đầu năm 2010.
2.2.1.2 Đô-la hoá cho vay
Trong hệ thống ngân hàng, về cơ bản các NHTM có thể sử dụng lượng
USD huy động được để: cấp tín dụng trong nước bằng USD; bán USD lấy nội
tệ hoặc đem gửi USD tại các ngân hàng nước ngoài để hưởng lãi suất. Khi tỷ
lệ tiền gửi USD tại hệ thống ngân hàng tăng lên, thông thường thì tỷ lệ cho
vay bằng USD cũng tăng lên. Đây chính là biểu hiện của tình trạng đô-la hoá
cho vay trong hệ thống ngân hàng.
46
Có một thực tế là tại các quốc gia mà người dân được phép gửi tiết
kiệm bằng ngoại tệ và ngân hàng cũng được cung ứng tín dụng bằng ngoại tệ
thì hiện tượng đô-la hoá càng bị khuyếch đại. Vì song song với đồng bản tệ,
hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc mở rộng khối lượng ngoại tệ có trong
nền kinh tế thông qua khả năng tạo tiền của mình.
Tuy nhiên, trong những năm 2000 – 2002, các doanh nghiệp không
mấy mặn mà với việc vay vốn bằng ngoại tệ. Lý do là thời kỳ này chi phí vay
bằng USD khá cao so với chi phí vay bằng VND. Trong năm 2000, các doanh
nghiệp được vay USD với lãi suất ưu đãi từ 5,8 – 6,6%/năm, nhưng lãi suất
sau khi điều chỉnh mức độ giảm giá của VND so với USD đã lên tới 9,2 –
9,4%/năm. Trong khi đó vay bằng USD thì các doanh nghiệp chỉ phải trả lãi
suất từ 8 – 8,5%. Do đó, các doanh nghiệp thấy vay bằng VND có lợi hơn.
Hơn nữa doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu, mà
nguồn thu lại bằng VND vì thế các doanh nghiệp sẽ vay bằng VND sau đó
chuyển sang mua ngoại tệ.
Trong khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng tiền gửi tăng mạnh
thì tỷ trọng tín dụng ngoại tệ trên tổng tín dụng lại tăng không đáng kể. Điều
này dẫn đến chênh lệch giữa lượng vốn ngoại tệ huy động được và lượng cho
vay ngày càng nới rộng ra. Để sử dụng nguồn ngoại tệ nhàn rỗi, các ngân
hàng đã lựa chọn danh mục đầu tư là các trái phiếu chính phủ nước ngoài phát
hành bằng ngoại tệ hay đem gửi ở các ngân hàng nước ngoài để hưởng lãi
suất. Đây là nguyên nhân giải thích cho việc tiền gửi tại nước ngoài của các
ngân hàng tăng lên. Trong chuyện này, rõ ràng là cả người dân và ngân hàng
cùng có lợi. Người dân thì được hưởng lãi suất, vẫn tốt hơn là cất giữ ngoại tệ
trong nhà, còn ngân hàng được hưởng lợi từ lãi suất tiền gửi. Hơn nữa quốc
gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt.
Một nghịch lý đang diễn ra là khi nền kinh tế nước ta còn phải vay nợ nước
ngoài thì các ngân hàng lại bơm ngoại tệ ra nước ngoài. Tuy nhiên, đây cũng
47
không phải là lỗi của các ngân hàng. Bởi vì không phải là các ngân hàng
không muốn cho vay ngoại tệ trong nước, mà vấn đề chính là các doanh
nghiệp không muốn vay bằng ngoại tệ.
Năm 2000, khối lượng cho vay bằng ngoại tệ chỉ đạt 26,2 nghìn tỷ
đồng (rất ít so với lượng tín dụng bằng VND là 137,4 nghìn tỷ đồng), khối
lượng này tuy có tăng nhẹ vào 2 năm tiếp theo nhưng vẫn còn là quá ít. Mãi
cho đến năm 2004, nhu cầu vay ngoại tệ của các doanh nghiệp mới tăng
mạnh, đạt 112,6 nghìn tỷ đồng. Nguyên nhân là do lãi suất cho vay bằng USD
tương đối thấp và tỷ giá VND/USD ổn định. Năm 2005 khối lượng ngoại tệ
cho vay đã tăng lên 161,3 nghìn tỷ đồng do lãi suất cho vay vẫn ở mức thấp.
Năm 2005, FED đã nhiều lần tăng lãi suất USD, nhưng lãi suất cho vay USD
tại thị trường Việt Nam chỉ tăng nhẹ. Cụ thể là đến thời điểm cuối năm 2005,
lãi suất cho vay ngắn hạn ở mức 5,25 – 6,2%/năm, lãi suất cho vay dài hạn
trong khoảng 5,5 – 5,7%/năm.
Biểu đồ 3: Cơ cấu cho vay nền kinh tế giai đoạn 2000 – 2004
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004, NHNN Việt Nam
Năm 2007, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng
gấp 5 lần so với năm 2006 đã tạo nên những diễn biến tiền tệ khác hẳn so với
48
năm trước. Tín dụng trong nước tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển
kinh tế. Dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006,
gấp hơn 2 lần so với mức tăng 25,44% của năm 2006. Khối lượng cho vay ngoại
tệ năm 2007 tăng 46,7% so với năm 2006, đạt tỷ trọng 23,57% trên tổng tín dụng
với nền kinh tế, tăng 2,34% so với tỷ trọng 21,23% vào năm 2006.
Trong năm 2008, tín dụng tiếp tục tăng trưởng, dư nợ cho vay của toàn
hệ thống ngân hàng tăng 25,43%. Trong đó, tăng trưởng tín dụng bằng VND
đạt 27,56% và tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đạt 17,6%.
Biểu đồ 4: Cơ cấu cho vay giai đoạn 2005 - 2008
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008, NHNN Việt Nam
Trong năm 2009 khi Chính phủ đưa ra chủ trương hỗ trợ lãi suất, kích
cầu bằng VND thì các doanh nghiệp trở nên thờ ơ hơn với nguồn vốn ngoại
tệ. Bởi vay vốn bằng tiền đồng phải trả lãi suất thấp hơn và tránh được rủi ro
về tỷ giá. Vì thế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ trong những tháng đầu năm có
lúc rơi xuống mức âm. Nhưng nhu cầu tín dụng ngoại tệ có xu hướng tăng
nhẹ vào cuối năm. Theo như các cán bộ ngân hàng giải thích, lý do là vì các
49
nhà nhập khẩu thời điểm này khó có thể mua được ngoại tệ để thanh toán nên
đã chọn cách vay USD để trả nợ. Mặt khác, vào thời điểm cuối năm vay tiền
đồng khó hơn so với 9 tháng đầu năm nên doanh nghiệp phải vay ngoại tệ để
sử dụng trong ngắn hạn.
Đầu năm 2010, cho vay ngoại tệ lại tăng đột biến và cao hơn 5 lần cho
vay nội tệ. Riêng tháng 3/2010, tổng dự nợ tín dụng của toàn nền kinh tế ước
tăng 1,49% và so với cuối năm ngoái tăng 2,95%. Trong đó, dư nợ tín dụng
bằng nội tệ ước tăng 0,91% so với tháng 2/2010 và tăng 0,57% so với cuối
2009. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ước tăng 3,98% so với tháng trước và
tăng 14,07% so với cuối năm 2009.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng nói chung và VND nói riêng đang thấp
hơn nhiều so với năm 2009. Theo số liệu mới cập nhật của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, tổng dự nợ tín dụng cả năm 2009 tăng 38% (trung bình mỗi quý tăng
10,75%). Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ 3 tháng đầu năm
2010 được cho là tăng đột biến so với nhiều năm trước.
Sự mất cân đối giữa tăng trưởng tín dụng ngoại tệ và nội tệ trong
những tháng đầu năm 2010 được cho là một hệ quả trong giai đoạn hậu kích
cầu. Từ tháng 1/2010 các doanh nghiệp vay vốn tiền đồng để sản xuất đã
không còn được hỗ trợ 4% lãi suất. Hơn nữa lãi suất cơ bản lại tăng từ mức
7% năm ngoái lên 8%, đẩy lãi suất cho vay lên 12%, cao gần gấp đôi so với
mặt bằng lãi suất vay vốn năm 2009. Trong tháng 3/2010 NHNN cho áp dụng
cơ chế lãi suất thoả thuận với tín dụng trung và dài hạn, lãi suất thực vay của
các doanh nghiệp lên tới 16 – 17% thậm chí có nơi tới 20%, gấp 3 lần năm
ngoái. Giá vốn cao hơn, nhu cầu vay tiền đồng sẽ giảm xuống. Vay vốn nội tệ
khó khăn, các doanh nghiệp có tâm lý chuyển hướng sang vay ngoại tệ, nhất
là khi lãi vay USD chỉ bằng nửa lãi vay tiền đồng. Tuy nhiên, mức tăng dư nợ
tín dụng ngoại tệ lên đến 14,07% trong 3 tháng đầu năm 2010 cũng đặt ra câu
50
hỏi lớn cho cơ quan quản lý nhà nước, khi mà lượng ngoại tệ huy động thời
gian này chỉ tăng vỏn vẹn 0,21%.①
2.2.2 Tác động của đô-la hoá đến điều hành chính sách tiền tệ
Như chúng ta đã biết chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách vĩ mô
quan trọng nhất trong nền kinh tế. Trong đó ba mục tiêu cuối cùng của CSTT
là: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm. Để đạt được ba mục
tiêu này, NHNN phải dùng rất nhiều các công cụ của CSTT tác động để đạt
được mục tiêu. Khi nền kinh tế bị đô-la hoá sẽ hạn chế tính chủ động của
NHNN trong việc thực thi CSTT. NHNN đôi khi phải áp dụng các biện pháp,
các công cụ đi ngược lại cơ chế thị trường như sử dụng các công cụ mang tính
hành chính, thay đổi chính sách tỷ giá, lãi suất.
Cụ thể, để hạn chế tình trạng đô-la hoá tiền gửi trong những năm 2000,
NHNN Việt Nam đã sử dụng một công cụ mang nặng tính hành chính đó là
nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD. Tháng 10/2000
NHNN đã quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ từ 5% lên 8%
nhằm tăng chi phí huy động tiền gửi USD, buộc các NHTM phải hạ lãi suất
huy động. Tuy nhiên, trên thực tế lãi suất huy động USD của các NHTM vẫn
không giảm. Điều này khiến NHNN buộc phải mạnh tay hơn bằng cách tăng
tỷ lệ dự trữ lên 12%. Chỉ đến lúc đó các NHTM mới chịu hạ lãi suất huy động
USD xuống từ 0,5 – 1%/năm. Tuy nhiên cũng không vì thế mà việc gửi tiết
kiệm bằng USD trở nên kém hấp dẫn hơn so với VND.
Có lẽ vì thế mà NHNN quyết định một lần nữa tăng tỷ lệ dự trữ lên
15% vào năm 2001 mặc dù trong thời điểm này FED vẫn tiếp tục cắt giảm lãi
suất tới lần thứ 4, và mức lãi suất cắt giảm lên tới hơn 2%/năm. Lần này thì sự
tác động thật sự có hiệu quả, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất huy động tiền
gửi USD. ① Thời báo Kinh tế Việt Nam: http://vneconomy.vn/20090505123456440P0C6/dot-bien-tang-truong-tin-dung.htm
51
Có thể nói rằng biện pháp tăng mạnh dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ
trong thời gian gần đây của NHNN đã góp phần tích cực trong việc làm tăng
sức hấp dẫn của VND, góp phần ngăn chặn sự chuyển dịch từ tiết kiệm VND
sang tiết kiệm USD. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng nếu FED không cắt giảm
lãi suất liên tục trong thời gian này thì chưa chắc đã đạt được mục tiêu này.
Mặt khác thế mạnh của công cụ dự trữ bắt buộc không phải là khả năng tác
động đến lãi suất. Việc sử dụng công cụ này cũng có những hạn chế và có thể
có một số tác động tiêu cực. Vì thế về lâu dài, cuộc chiến chống đô-la hoá cần
có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ khác.
Ngoài ra, một nhiệm vụ rất quan trọng của NHNN là điều tiết lượng
tiền lưu hành. Thông qua các nghiệp vụ của mình, NHNN sẽ điều tiết lượng
tiền lưu hành. Trong các chính sách về tín dụng, thị trường hối đoái và thị
trường mở thì chính sách hối đoái là kênh điều tiết hữu hiệu nhất. Thông qua
nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, NHNN sẽ chủ động điều tiết lượng tiền phát
hành. Nhưng khi nền kinh tế bị đô-la hoá sẽ bóp méo cung cầu ngoại tệ, tăng
hiện tượng đầu cơ, gây khó khăn cho việc ổn định thị trường hối đoái.
2.2.3 Tác động của đô-la hoá đến người dân
NHNN đã ban hành Pháp lệnh ngoại hối 2005, ở điều 22 quy định hạn
chế sử dụng ngoại hối: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán,
niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực
hiện bằng ngoại hối.” Nhưng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh vẫn
công khai vi phạm, niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng USD. Điều này sẽ bất
lợi cho người tiêu dùng vì mọi rủi ro về tỷ giá doanh nghiệp sẽ đổ hết lên đầu
người tiêu dùng.
Hiện nay, từ các sản phẩm giá trị như nhà đất, ô tô, xe máy, laptop đến
giá phòng khách sạn, dịch vụ du lịch,... đều được niêm yết bằng USD. Với
cách thức niêm yết giá này, đại đa số người tiêu dùng sẽ bị thiệt. Chưa kể việc
do quản lý không chặt, nên khi tỷ giá VND/USD xuống thấp thì các hãng kinh
52
doanh lại chuyển sang niêm yết bằng VND, khi tỷ giá cao thì niêm yết bằng
USD. Như thế là các doanh nghiệp, hãng kinh doanh đã đẩy hết rủi ro về phía
người tiêu dùng.
Tỷ giá luôn thay đổi từng ngày, từng giờ thế nên khi quy đổi ra tiền
Việt Nam sẽ khiến người tiêu dùng bị thiệt hại nặng. Với những sản phẩm
như nhà đất, ô tô,... khách hàng phải đặt tiền trước khi nhận hàng. Việc đặt
cọc được tính theo tỷ giá ngoại tệ của ngân hàng tại thời điểm đó. Nhưng đến
lúc nhận hàng thì người tiêu dùng nhiều phen ngỡ ngàng khi chủ hàng đòi trả
thêm tiền do tỷ giá tăng lên. Có những cửa hàng chỉ nhận USD, người mua
đành phải mua USD ở ngoài thị trường tự do với giá cao. Hơn nữa việc niêm
yết giá bằng USD làm cho khách hàng khó khăn trong việc mặc cả và tính
toán.
Có nhiều lý do để các đơn vị giải thích cho việc phải niêm yết giá hàng
hoá bằng ngoại tệ. Như các cửa hàng máy tính nhỏ thì cho rằng họ bị các đại
lý bắt thanh toán bằng USD nên khi nhận hàng phải niêm yết giá bằng USD
để tránh bị thiệt. Các hãng xe cho rằng việc niêm yết giá bằng USD là tập
quán lâu nay tại Việt Nam. Cũng có hãng giải thích tỷ giá luôn biến động nên
phải niêm yết bằng USD để khỏi phải thường xuyên điều chỉnh giá bán.
Theo NHNN, những lý do mà các đơn vị trên đưa ra là không hợp lý.
Vì pháp luật đã có quy định rõ ràng, mọi người đều phải tuân thủ pháp luật.
Hơn nữa, Nhà nước đang giảm nhập siêu nên các ngân hàng chỉ ưu tiên các
doanh nghiệp nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, còn các doanh nghiệp
nhập khẩu hàng tiêu dùng phải tự cân đối ngoại tệ nhưng không được niêm
yết, quảng cáo giá sản phẩm bằng ngoại tệ. Về biến động tỷ giá dẫn đến khó
tính toán được giá hàng hoá – dịch vụ, NHNN cho rằng các doanh nghiệp khi
bán hàng hoá ở mức giá nào thì đều đã tính toán mọi yếu tố tác động đến giá
thành sản phẩm, trong đó có cả biến động của tỷ giá chứ không thể viện lý do
này để đẩy mọi rủi ro về phía người tiêu dùng.
53
Việc chấn chỉnh niêm yết giá hàng hoá bằng USD là một cuộc chiến
dai dẳng, kéo dài nhiều năm vẫn chưa kết thúc. Một khi đã có quy định thì các
cơ quan chức năng ngoài việc tuyên truyền cần phải xử lý thật nghiêm khắc
các trường hợp vi phạm để làm gương. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng
không nên “tiếp tay” cho các cửa hàng bằng tâm lý sính ngoại, thích tiêu tiền
đô của mình.
2.3. Đánh giá chung về tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam
2.3.1 Đánh giá những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam
Hiện tượng đô-la hoá đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1988, khi
Việt Nam mới mở cửa nền kinh tế. Tình trạng đô-la hoá đã có những tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam. Trong đó có cả những tác động tích cực
và những tác động tiêu cực.
Mặc dù ít nhưng cũng không thể không kể đến những tác động tích cực
của hiện tượng đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam. Tác động tích cực đầu
tiên phải kể đến đó là đô-la hoá thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa
Việt Nam và các nước trên thế giới. Bởi vì khi sử dụng USD trong giao dịch,
thanh toán sẽ giảm được những chi phí nhất định như: chi phí chênh lệch tỷ
giá mua và tỷ giá bán, chi phí dự phòng rủi ro tỷ giá,... Ngoài ra đô-la hoá tiền
gửi còn giúp ngân hàng có được một khoản ngoại tệ nhất định để mở rộng
hoạt động đối ngoại, đồng thời đáp ứng được nhu cầu vay ngoại tệ của nền
kinh tế. Điều này cũng góp phần giảm bớt gánh nặng nợ nước ngoài của chính
phủ Việt Nam.
Bên cạnh đó hiện tượng đô-la hoá cũng gây ra những tác động tiêu cực
đến nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, đô-la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu
ngoại tệ và làm cho thị trường ngoại hối trở nên căng thẳng, không ổn định.
Vào những thời điểm căng thẳng về cung – cầu ngoại tệ, tỷ giá ngoại tệ tăng
thì mọi người đều đổ xô đi mua ngoại tệ để dự trữ phòng trường hợp VND
54
mất giá, cầu ngoại tệ lớn đột biến tạo điều kiện cho hiện tượng đầu cơ ngoại
tệ. Năm 2008, tỷ giá VND/USD là 15400 thì chỉ vài tháng sau đã tăng lên đến
19500, trong những tháng đầu năm 2010 có lúc tỷ giá VND/USD đã lên đến
19900. NHNN đã phải bơm USD từ dự trữ ngoại hối ra để bình ổn thị trường.
Đối với thị trường ngoại hối còn non trẻ và các công cụ phòng chống rủi ro
còn chưa hoàn thiện như hiện nay thì hiện tượng đô-la hoá là rất nguy hiểm.
Thứ hai, đô-la hoá tiền gửi cao cũng gây nhiều khó khăn cho hệ thống
ngân hàng cũng như sức khoẻ của nền kinh tế. Trong thực tế, khi có những
biến động trên thị trường ngoại hối, đôi khi chỉ do những tin đồn, người dân
đổ xô đi rút tiền gửi USD từ các ngân hàng. Điều này đã đẩy các ngân hàng
vào tình thế bất lợi vì ngân hàng đã dùng nguồn USD huy động được đem cho
vay hoặc đi gửi ở ngân hàng nước ngoài chưa đến hạn thu về. Khi người dân
rút USD ồ ạt thì các ngân hàng rơi vào tình trạng không có khả năng thanh
toán. Lúc này NHNN cũng không thể giúp được nhiều vì NHNN Việt Nam
không có khả năng phát hành USD. Nếu hiện tượng này xảy ra trên diện rộng
thì rất có khả năng sẽ tạo ra chấn động và rất có thể dẫn đến khủng hoảng
ngành ngân hàng.
Thứ ba, đô-la hoá cũng làm cho VND nhạy cảm hơn với các tác động
từ bên ngoài, đồng thời cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự độc lập trong việc
hoạch định các CSTT của NHNN. Do đó đô-la hoá làm giảm hiệu quả điều
hành CSTT của NHNN.
Thứ tư, đô-la hoá cũng khiến cho người dân bị thiệt khi mua hàng hoá,
dịch vụ niêm yết bằng USD. Hiện nay việc niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ
bằng ngoại tệ đã bị cấm. Tuy nhiên, từ trước đến nay dù được phép hay không
được phép thì hiện tượng này vẫn rất phổ biến ở nước ta. Các cửa hàng niêm
yết giá cả không thống nhất với nhau, đến khi tỷ giá giảm xuống thì lại quay
về niêm yết bằng VND. Bằng cách này các cửa hàng đã đẩy hết rủi ro tỷ giá
về phía người tiêu dùng.
55
2.3.2 Đánh giá những biện pháp mà NHNN đã sử dụng nhằm hạn chế tình
trạng đô-la hoá trong thời gian qua
Để hạn chế tình trạng đô-la hoá nền kinh tế, NHNN đã sử dụng kết hợp
nhiều biện pháp. Có những biện pháp mang lại hiệu quả cao, cũng có những
biện pháp đi ngược lại so với mục đích ban đầu của NHNN. Sau đây tác giả
xin đề cập đến một số biện pháp mà NHNN đã sử dụng:
(i) Nới rộng biên độ dao động tỷ giá VND/USD trên thị trường ngoại hối.
Đây là một trong những biện pháp mà NHNN đã sử dụng để ổn định thị
trường ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt. Từ năm 2002 đến nay,
NHNN đã 7 lần nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD. Lần đầu tiên vào
01/07/2002 NHNN tăng biên độ tỷ giá từ +/0,1% lên +/0,25%. Lần thứ hai
từ +/0,25% lên +/0,5% vào ngày 31/12/2006. Ngày 24/12/2007 biên độ dao
động đã tăng lên +/0,75%. Động thái này của NHNN nằm trong chủ trương
tạo điều kiện để kinh tế Việt Nam thích nghi với mức độ mở cửa và hội nhập
kinh tế. Cơ chế tỷ giá ngày càng linh hoạt đòi hỏi các NHTM và các thành
viên tham gia thị trường ngoại hối phải thận trọng hơn trong việc phòng ngừa
rủi ro tỷ giá để đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Các NHTM nhận định việc nới
rộng biên độ tỷ giá giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong việc đưa ra tỷ giá
linh hoạt hàng ngày.
Ngày 10/03/2008 biên độ tỷ giá tăng lên +/1%. Chỉ sau đó 3 tháng,
vào ngày 26/06/2008 biên độ lại được nới rộng thêm và ở mức +/2%. Đến
cuối năm vào tháng 11/2008 NHNN lại quyết định tăng biên độ lên tới
+/3%. Như vậy là chỉ trong vòng gần 1 năm, biên độ tỷ giá VND/USD đã
tăng 3 lần. Động thái này của NHNN đã góp phần tạo điều kiện giúp tỷ giá
điều chỉnh linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn tình hình cung – cầu trên thị
trường. Ngoài ra, việc nới rộng biên độ tỷ giá cũng thúc đẩy xuất khẩu, giảm
nhập khẩu, kích thích tiêu dùng hàng hoá trong nước, từ đó thúc đẩy sản xuất,
56
tăng trưởng kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc tăng biên độ tỷ giá cùng với hiện
tượng đầu cơ có thể tạo ra niềm tin rằng VND sẽ mất giá. Mà thực tế là trong
những tuần đầu khi có thông tin NHNN sẽ điều chỉnh biên độ tỷ giá thì lượng
cầu USD trên thị trường tự do đã tăng mạnh kéo theo giá USD trên thị trường
USD tăng theo. Như vậy, do việc điều hành, quản lý thị trường chưa chặt chẽ
đã phần nào đi ngược lại mục đích hạn chế đô-la hoá đề ra ban đầu.
Đến tháng 4/2009 NHNN một lần nữa tăng biên độ tỷ giá VND/USD
lên +/5%. Ngày 10/02/2010 NHNN đã quyết định nâng tỷ giá ngoại tệ liên
ngân hàng từ 17.941 lên 18.544 tương đương mức tăng 3,3%. Do đó, các
NHTM có thể tăng giá mua bán USD lên gần sát với tỷ giá trên thị trường tự
do. Quyết định nâng tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng của NHNN Việt Nam
nhằm mục đích bình ổn giá USD, đồng thời ngăn chặn tình trạng ngoại tệ
chảy khỏi hệ thống ngân hàng, góp phần giúp NHNN dễ dàng hơn trong công
tác quản lý
(ii) Phát triển kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát nhằm củng cố niềm tin của
người dân vào VND.
Để đạt được những mục tiêu trên NHNN đã kết hợp thực hiện những
giải pháp sau:
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. NHNN đã chủ động, linh hoạt
trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường để giảm lãi suất huy động theo hướng thực hiện lãi suất thực
dương.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.
Thực hiện cắt giảm chi tiêu của chính phủ cũng như những khoản đầu
tư không hiệu quả.
Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian
lận thương mại.
57
Sử dụng các gói kích cầu nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an
sinh xã hội.
Các biện pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của Việt
Nam được quốc tế đánh giá là đã đi đúng hướng và đang đạt được những hiệu
quả đáng kể. Với những nỗ lực trên, nền kinh tế Việt Nam đang dần dần hồi
phục sau khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát đang được khống chế ở mức an toàn.
(iii) Ban hành Pháp lệnh ngoại hối 2005
Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối 2005 nêu rõ: “Trên lãnh thổ Việt Nam,
mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không
cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín
dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác,
đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.”
Mặc dù bị cấm nhưng những hoạt động như niêm yết, quảng cáo hàng hoá,
dịch vụ bằng ngoại tệ vẫn đang phổ biến ở nước ta. Nguyên nhân là do các cơ
quan chức năng chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ, chưa đưa ra những hình
thức xử phạt nghiêm minh.
Mới đây Bộ Công thương đã ra thông tư 11/2009/TT-BCT về việc các
tổ chức, cá nhân phải niêm yết giá hàng hoá bằng VND. Nếu vi phạm thì sẽ bị
xử phạt cao, mức phạt tối đa lên tới 30 triệu đồng. Tuy nhiên, các Bộ, Ngành
và các cơ quan chức năng cần có biện pháp thanh tra giám sát thường xuyên
hơn để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm. Dần dần nâng cao ý
thức của người dân trong việc chấp hành luật. Làm được như thế thì tình trạng
đô-la hoá ở Việt Nam mới được cải thiện.
(iv) Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ.
Ngày 10/04/2008, Thống đốc NHNN ra quyết định 09/2008/QĐ-
NHNN về việc cho vay ngoại tệ của các TCTD đối với khách hàng là người
cư trú. Theo đó, đối tượng được phép vay vốn bằng ngoại tệ đã được thu hẹp
58
lại chỉ còn 3 đối tượng: phục vụ nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; thanh
toán nợ nước ngoài; phục vụ nhu cầu đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quyết định này đã làm giảm áp lực huy động vốn bằng ngoại tệ của các
NHTM, đồng thời cũng làm giảm dư nợ cho vay ngoại tệ. Đây là chính sách
đúng đắn, góp phần hạn chế tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam.
(v) Giảm lãi suất tiền gửi USD, tăng lãi suất tiền gửi VND.
Ngày 10/02/2010 Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số
03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các
tổ chức kinh tế tại các TCTD là 1%/năm. Mục đích của NHNN nhằm cân đối
hài hoà cung – cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ
và góp phần kiểm soát nhập siêu, ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức
kinh tế cũng nhằm hạn chế việc các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ
nhưng không bán lại cho ngân hàng mà giữ lại với kỳ vọng giá USD tăng.
Việc găm giữ USD đã gián tiếp đẩy giá USD trên thị trường tự do tăng cao,
khiến cho tình trạng đô-la hoá càng trầm trọng.
Bên cạnh đó, việc giảm lãi suất tiền gửi bằng USD xuống 1%/năm còn
làm tăng chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng USD và lãi suất tiền gửi bằng
VND. Đây là động lực thúc đẩy các cá nhân, tổ chức chuyển sang vay vốn
bằng VND, góp phần cải thiện tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam.
Tóm lại, những biện pháp trên đã có những hiệu quả nhất định trong
việc cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam, tuy nhiên tình trạng này vẫn
chưa được giải quyết đúng mức. Việc đánh giá những biện pháp NHNN đã
thực hiện trong thời gian qua chính là cơ sở để tác giả đưa ra những định
hướng và giải pháp cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam ở chương III.
2.4 Nhận xét chung
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, bản thân đồng nội
tệ có nhiều sự biến động giá trị và khó có thể tránh khỏi hiện tượng đô-la hoá.
59
Kết quả khảo sát trong giai đoạn từ 1998 đến nay cho thấy, tính chuyển đổi
của đồng tiền Việt Nam vẫn thấp và hiện tượng đô-la hoá chưa được khắc
phục một cách cơ bản. Những năm đầu mới mở cửa, mức độ đô-la hoá rất
cao, tỷ lệ có lúc lên đến 41,2%. Giai đoạn từ sau khủng hoảng khu vực đến
nay, sau một thời gian tỷ lệ này ổn định ở mức tương đối thấp khoảng 20%.
Những năm gần đây, tỷ lệ này có xu hướng tăng lên do đồng USD trên thế
giới có tính hấp dẫn cao, trong khi chênh lệch lãi suất tiền gửi có lợi cho giữ
ngoại tệ.
Theo NHNN thì mức độ đô-la hoá ở Việt Nam hiện nay đang ở mức
trên 21%, cao hơn nhiều so với 9% ở Trung Quốc và 1% ở Thái Lan. NHNN
đang tích cực giảm tình trạng này xuống và mục tiêu đến năm 2010 tỷ lệ đô-la
hoá giảm xuống còn 15%.
Tuy nhiên, giới chuyên gia lại cho rằng khó có thể khẳng định rõ ràng
đô-la hoá là tốt hay xấu. Xét về lý thuyết kinh điển thì đô-la hoá tạo ra tâm lý
hai đồng tiền trong một nền kinh tế. Nhưng mặt khác nó giúp tăng cung ngoại
tệ, giảm áp lực lạm phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ
quá suy yếu.
Việc đánh giá tình trạng đô-la hoá theo tỷ lệ FCD/M2 được đánh giá là
khá chính xác ở những nước mà phần lớn giao dịch, thanh toán đều thực hiện
qua hệ thống ngân hàng. Còn ở Việt Nam, nơi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt vẫn
còn rất lớn thì tỷ lệ FCD/M2 không phản ánh chính xác thực trạng đô-la hoá
trong toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn khi hạn chế đô-la
hoá bằng cách kiềm chế lượng tiền gửi ngoại tệ vào ngân hàng. Tâm lý thích
dùng tiền mặt vẫn ăn sâu trong dân chúng, nếu hạn chế gửi ngoại tệ vào ngân
hàng thì người dân sẽ cất trữ trong nhà. Vì thế, thà để người dân gửi ngoại tệ
vào hệ thống ngân hàng để Nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý.
Các con số liên quan đến tỷ lệ đô-la hoá cũng không nói lên tất cả,
21% cũng dễ dàng tăng lên 30 – 40%, nhất là khi nền kinh tế đang trong thời
60
kỳ lạm phát cao, và người dân ngày càng ưa chuộng USD. Nhưng nếu ép đưa
tỷ lệ này xuống 15%, đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì các NHTM sẽ
phải giảm lãi suất USD dẫn đến khó huy động được nguồn vốn ngoại tệ.
Phó thống đốc NHNN Nguyễn Đồng Tiến cũng cho rằng cần cân nhắc
kỹ lưỡng khi áp dụng các chính sách hạn chế đô-la hoá bởi nó có thể ảnh
hưởng đến khả năng thu hút nguồn ngoại tệ. Theo ông lượng tiền gửi ngoại tệ
tăng phản ánh sự tin tưởng của người dân vào hệ thống ngân hàng, đồng thời
giảm bớt lượng ngoại tệ lưu thông bên ngoài. Hơn nữa, tỷ lệ FCD/M2 đạt trên
20% tuy có cao so với các nước khác nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định cho hệ
thống tiền tệ cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là kinh tế
đối ngoại.
Nhưng dù nói thế nào đi nữa cũng không thể phủ nhận được những tác
động tiêu cực của đô-la hoá đến nền kinh tế nước ta. Vì thế NHNN phải có
biện pháp phối hợp với các cơ quan chức năng cùng doanh nghiệp và cả
người dân để giảm tình trạng đô-la hoá xuống mức vừa phải, hạn chế mặt tiêu
cực đồng thời phát huy mặt tích cực của đô-la hoá.
61
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG
VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG
ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM
3.1 Định hướng nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam.
3.1.1 Định hướng hình thành một đồng tiền chung khu vực ASEAN
Trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, hàng loạt đồng tiền
các nước khu vực Đông Á bị mất giá trầm trọng so với đồng đô-la Mỹ. Các
quốc gia trong khu vực ASEAN bị tình trạng đô-la hoá ảnh hưởng không tốt
đến quá trình phát triển nền kinh tế. Đã có nhiều ý tưởng tính đến việc hình
thành một đồng tiền chung của khu vực ASEAN nhưng đến nay vẫn chưa
thực hiện được. Có thể trong thời điểm sắp tới, khi các nền kinh tế khu vực
ASEAN phát triển lớn mạnh hơn thì ý tưởng này có thể sớm được thực hiện.
Ngày 01/01/1999 cả thế giới chứng kiến sự ra đời của đồng tiền chung
EURO của liên minh Châu Âu. Đồng EURO là đứa con chung được sinh ra từ
những nền kinh tế hùng mạnh của các nước thuộc liên minh Châu Âu. Việc
hình thành đồng tiền chung của khối ASEAN sẽ gặp phải nhiều khó khăn vì
các nước thuộc khu vực này đều là những quốc gia đang phát triển, chưa thực
sự có tiếng nói trên thị trường thế giới, nguồn lực kinh tế chưa đủ mạnh và rất
nhạy cảm đối với những biến động của thị trường thế giới và chưa đủ sức
chống lại những tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Vì vậy để có
được một đồng tiền chung của khu vực ASEAN để cùng nhau liên kết chống
lại sự mất giá của đồng tiền này và khắc phục được tình trạng đô-la hoá thì
còn là một vấn đề cần được bàn tới nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên, một cách khách quan chúng ta có thể nhận thấy những mặt
tích cực và tồn tại của một đồng tiền chung trong khu vực:
62
Đầu tiên là lợi ích của việc sử dụng một đồng tiền chung trong giao
dịch thương mại giữa các nước trong khu vực. Đó là sự giảm bớt chi
phí giao dịch và tránh được rủi ro về tỷ giá.
Theo nhận định của các nhà kinh tế thì trong thời gian tới khu vực
Đông Nam Á sẽ là khu vực kinh tế năng động và phát triển mạnh. Vì
thế sự xuất hiện của đồng tiền chung sẽ tạo nên sự tương đồng cho sự
phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Đồng thời nó còn tạo nên
sự liên kết chặt chẽ giữa các nước không chỉ ở lĩnh vực kinh tế - xã hội
mà cả về lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng.
Tuy nhiên, việc gì cũng có hai mặt của nó. Bên cạnh những lợi ích khi
sử dụng đồng tiền chung thì nó cũng có những mặt hạn chế. Đó là khi
xảy ra biến động ở một nước thì lập tức sẽ gây ra phản ứng dây chuyền,
lan toả sang các nước còn lại. Khi một quốc gia phải đối mặt với các cú
sốc kinh tế thì chi phí của việc chấp nhận một đồng tiền chung tăng cao
và chính điều này làm tăng sự hấp dẫn của một chính sách tiền tệ và tỷ
giá hối đoái độc lập được xây dựng trên cơ sở của một đồng bản tệ duy
nhất. Vì thế hậu quả của chính sách này sẽ ảnh hưởng đến các quốc gia
trong khu vực. Đây có thể nói là rào cản lớn nhất khi muốn hình thành
một đồng tiền chung.
3.1.2 Định hướng về hoạt động của hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc ổn
định và phát triển nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện chức năng tập trung vốn
cho nền kinh tế, làm trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán
đồng thời đảm nhiệm chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân
hàng hai cấp. Chính vì thế muốn nền kinh tế phát triển và giảm thiểu được
tình trạng đô-la hoá thì điều đặc biệt quan trọng là quan tâm đến việc phát
triển hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sau đây là một số định hướng cho
ngành ngân hàng trong thời gian tới:
63
Thứ nhất, cùng với cả nước thì hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tích
cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam
nhất là trên thị trường tài chính quốc tế. Điều này tạo cơ hội để phát triển
nhanh và bền vững của hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như nền kinh tế
Việt Nam nói chung.
Đối với NHNN, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và
hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát
tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để
NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế
về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế
biến động của thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động
an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của chính sách tiền tệ.
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống
pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính,
loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong
nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính
phủ.
Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước,
khung pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự
hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị
phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn.
Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường
tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng
vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các
ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh
64
hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi
nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Thứ hai, từng bước chuyển từ việc sử dụng các công cụ chính sách tiền
tệ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, mang tính thị trường nhiều hơn. Để thị
trường tự điều tiết quan hệ cung – cầu. Bên cạnh đó cần hiện đại hoá cơ sở vật
chất và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, đuổi kịp sự phát triển của thế giới.
Thứ ba, cần xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có đủ trình độ, nghiệp
vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp để có thể đáp ứng tốt nhu cầu nhiệm vụ
của ngành trong thời đại mới.
3.2 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHNN trong vấn đề
đô-la hoá rất rõ ràng: “xoá bỏ đô-la hoá trong nền kinh tế nước ta phải được
thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát
triển của đất nước. Phải thực hiện bằng nhiều giải pháp, vừa kinh tế vừa hành
chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình
thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau để
nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền
tệ.” Thực hiện triệt để nguyên tắc “trên lãnh thổ Việt Nam mọi giao dịch,
thanh toán phải được thực hiện bằng tiền Việt Nam.”
Việc xoá bỏ đô-la hoá không thể theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ
định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút
nguồn ngoại tệ trong dân vào hệ thống ngân hàng, từ đó đầu tư cho các dự án
phát triển kinh tế - xã hội. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò
chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô-la hoá. Phải có những biện pháp hành
chính, kinh tế, giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô-la hoá,
nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền
tệ. Chúng ta không thể sử dụng các biện pháp hành chính cứng nhắc như đã
từng áp dụng trước đây như: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều
65
hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi
ngoại tệ,... Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn chứng tỏ là đã gây
khó khăn cho người dân và các doanh nghiệp. Hơn nữa lại hạn chế nguồn
kiều hối chuyển về nước, không phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và
quốc tế. Do đó, chúng ta cần phải có những biện pháp mang tính tổng thể để
cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam.
3.2.1 Giải pháp về chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối là lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có tác
động trực tiếp đến việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ
và đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách ngoại hối là một bộ
phận của chính sách tiền tệ và góp phần thực hiện các mục tiêu như: ổn định
tiền tệ, ổn định cán cân thanh toán quốc tế, thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Tình trạng đô-la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam đang phổ biến
trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán,
trao đổi và chức năng tín dụng qua NHTM. Điều này đã tạo môi trường cho
hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ.
Vì thế để cải thiện tình trạng đô-la hoá ở nước ta, trước hết cần có
chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ và phù hợp.
Về quan điểm chính sách, cần đối xử với đô-la như đối xử với một loại
hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các
chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên cố neo
tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua
của đồng USD so với các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất
trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay
đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều này chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại
hối có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải.
66
Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng
ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán
hàng hoá, dịch vụ trong nước bằng ngoại tệ thì ở Việt Nam hiện tượng này
vẫn phổ biến.
Đã có thời gian, nhiều NHTM có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD,
biểu hiện qua hiện tượng “thiếu tiền, thừa vốn’. Do lãi suất huy động ngoại tệ
tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng tiền gửi
ngoại tệ tăng, trong khi đó lượng tiền mặt ngoại tệ để “mua đứt bán đoạn” lại
khan hiếm.
Tại Việt Nam tình trạng đô-la hoá đang ở mức cao, nên khi lạm phát
bùng nổ thì ngoại tệ lên ngôi ngay cả khi nó đang bị mất giá ở ngay chính quê
hương của nó và khắp các nền kinh tế phát triển. Trong khi đó thì tại Việt
Nam các cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết, thu tiền bán
hàng bằng USD và từ chối thanh toán bằng nội tệ. Do đó cần sử dụng cơ chế
“mua đứt bán đoạn” thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ. Đồng thời cần phải tạo
cơ chế cho phát triển mạnh thị trường ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt
chẽ các hoạt động đô-la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh
các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ
trước những biến động rủi ro về tỷ giá.
Cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về việc thanh tra,
kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi
hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Phải xử lý nghiêm các trường hợp
vi phạm.
Về chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường
ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo quy luật
của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý,
lưu giữ tại NHNN. Bên cạnh đó, cần hình thành Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia
67
để NHNN có thể bơm tăng hoặc giảm ngoại tệ ra thị trường khi thị trường
biến động, giúp điều tiết thị trường ổn định hơn.
Nếu thực hiện đúng các nội dung trên thì thị trường ngoại tệ Việt Nam
sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung –
cầu trên thị trường.
3.2.2 Giải pháp nhằm nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam
Ngày 04/07/2007 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có quyết
định số 98/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng
tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô-la hoá trong nền kinh tế. Đề án thực
hiện các mục tiêu: tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, bước đầu xây dựng
cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu; tiếp tục tự do hoá có lựa
chọn các giao dịch vốn, bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ
nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá ở nước ta chính
là đồng nội tệ có tính chuyển đổi thấp. Vì thế quá trình nâng cao tính chuyển
đổi của VND cũng chính là quá trình khắc phục tình trạng đô-la hoá. Để thực
hiện được mục tiêu này cần phải đảm bảo ổn định tương đối giá trị của VND,
kiểm soát được lạm phát. Xây dựng hệ thống lãi suất chủ đạo của NHNN để
định hướng lãi suất thị trường. Bên cạnh đó cần chú trọng đến việc phối hợp
giữa chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa việc nắm giữ VND và
ngoại tệ.
Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một “rổ tiền
tệ” bao gồm các ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY, CNY,... Các đồng tiền
này tham gia vào “rổ tiền tệ” theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với
Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên sẽ giảm bớt sự lệ thuộc của VND vào
USD và phản ánh chính xác hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở
có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các đối tác thương mại lớn.
Đồng thời thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước
68
ngoài. Thực hiện 5 bước để tăng thêm tính linh hoạt của tỷ giá đó là: tự do
hoá việc chuyển đổi giữa các ngoại tệ mạnh; tự do hoá các điểm kỳ hạn; cho
phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa VND với ngoại tệ; nới rộng dần
biên độ tỷ giá giao ngay; tự do hoá mức phí trong nghiệp vụ quyền chọn giữa
VND và ngoại tệ.
Ngoài ra đề án cũng đưa ra một lộ trình cụ thể đến năm 2010 nhằm
nâng cao tính chuyển đổi của VND với các mục tiêu như sau: đổi mới chính
sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Trong giao dịch vãng
lai, xoá bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá
nhân ra nước ngoài; xoá bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của
người không cư trú,... Còn trong giao dịch vốn, xoá bỏ quy định doanh nghiệp
Nhà nước muốn vay vốn nước ngoài phải có ý kiến của NHNN, nghiên cứu
khả năng doanh nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước ngoài bằng VND.
Bên cạnh đó là việc xoá bỏ hàng loạt các biện pháp quản lý việc sử
dụng ngoại tệ trong nước như: xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy
phép lập bàn thu đổi ngoại tệ, chuyển sang kinh doanh có điều kiện; xoá bỏ
chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam; thu hẹp đối tượng
được phép vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu; tiếp tục thu hút ngoại
tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển
dần quan hệ huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín
dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ.
Để thực hiện mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi của VND, Bộ Tài
chính có nhiệm vụ áp dụng các biện pháp để phát triển thị trường vốn bằng
VND. Bộ Thương mại phối hợp với NHNN tạo điều kiện cho VND tham gia
quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu, giảm và tiến tới xoá bỏ danh mục ưu tiên
bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu trên cơ sở đảm bảo đáp ứng
đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến tới thực hiện
kế hoạch cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn
69
đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về cân đối
ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.3 Giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ
Một lý do khiến cho người dân không thích sử dụng VND trong các
giao dịch lớn là do tính cồng kềnh, bất tiện của nó. Chính vì thế, để giảm tình
trạng đô-la hoá một cách hiệu quả thì chúng ta cần tích cực hơn trong việc cơ
cấu lại mệnh giá của VND để thuận tiện hơn trong các giao dịch thường ngày
cũng như các giao dịch lớn. Bên cạnh đó cũng cần phát triển mạnh dịch vụ
ngân hàng, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, đẩy mạnh tuyên truyền
việc sử dụng thẻ, kể cả thẻ quốc tế. Một khi hệ thống thanh toán thuận tiện và
nhanh chóng, người dân sẽ lựa chọn sử dụng VND trong thanh toán nhiều
hơn.
Về phía các ngân hàng, cần thực hiện nghiêm quy định chỉ cho vay
USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả
bằng đồng USD. Còn tất cả các doanh nghiệp trong nước khác khi vay vốn tại
các NHTM trong nước đều thực hiện bằng VND. Trong trường hợp cần ngoại
tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để thanh
toán.
Cần có quy định rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là hợp pháp
khi ngoại tệ được chuyển từ nước ngoài vào thông qua kiều hối, quà tặng, quà
biếu hay nhận lãi cổ tức từ nước ngoài chuyển về thông qua hệ thống ngân
hàng. Nghiêm cấm việc sở hữu ngoại tệ có nguồn gốc không hợp pháp, không
cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ngoài thị
trường tự do, rồi biến thành sở hữu riêng. Điều này làm cho Nhà nước khó
khăn trong việc kiểm soát, quản lý lượng ngoại tệ trong dân cư.
Đồng thời, NHNN cần sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như:
chính sách lãi suất, dự trữ bắt buộc,... để tác động đến thị trường nhằm làm
cho VND trở nên hấp dẫn hơn so với USD qua đó hạn chế xu hướng chuyển
70
đổi từ VND sang USD. Trong điều kiện hiện nay, khi lãi suất cơ bản không
đổi, NHNN có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các NHTM tăng lãi suất huy động VND. Từ
đó người dân thấy việc giữ VND có lợi hơn sẽ tự động chuyển sang tiết kiệm
bằng VND.
3.2.4 Thực hiện tốt chủ trương “trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng
tiền Việt Nam”
Các cơ quan chức năng cần giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy định
“mọi giao dịch, thanh toán, quảng cáo, niêm yết hàng hoá không được thực
hiện bằng ngoại tệ”. Cần xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Hiện nay
mức phạt cao nhất đối với các tổ chức, doanh nghiệp vi phạm là 30 triệu
đồng.
Cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân như sau:
Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản
cũng không được phép, trừ trường hợp duy nhất là trả chuyển khoản
cho các tổ chức kinh doanh được NHNN cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.
Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối,
tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động,... bằng ngoại tệ tiền mặt
theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Thay vào đó là chi trả thông qua tài
khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc bằng VND.
Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại NHTM chỉ rút ra bằng tiền mặt
ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa ra nước ngoài phục vụ nhu cầu du
lịch, chữa bệnh, du học,...
Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ
tình hình buôn lậu. Hạn chế tối đa việc lưu thông và sử dụng USD.
3.3 Một số đề xuất
Thứ nhất, NHNN cần chấn chỉnh lại hoạt động mua bán ngoại tệ,
không thể để việc mua bán diễn ra tràn lan như hiện nay. Hạn chế tối đa hoạt
71
động của thị trường tự do. Mặc dù rất khó thực hiện, nhưng cũng phải từng
bước hoàn thành. Vừa qua NHNN đã tăng tỷ giá liên ngân hàng lên 18.544.
Động thái này của NHNN đã rút ngắn khoảng cách giữa tỷ giá mua bán ngoại
tệ trong hệ thống NHTM và thị trường tự do. Đây cũng là một bước tiến quan
trọng trong tiến trình chống đô-la hoá. Tuy nhiên, về lâu dài NHNN phải tiến
tới thiết lập một tỷ giá duy nhất, tức là không còn sự chênh lệch giữa tỷ giá ở
ngân hàng và thị trường tự do. Từ đó giúp cho Nhà nước dễ dàng trong quản
lý và kiểm soát thị trường, đưa ra các chính sách tiền tệ hiệu quả.
Thứ hai, Nhà nước cần tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng
hấp thụ được số vốn ngoại tệ có trong dân. Thông qua các biện pháp như thúc
đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự
giữa các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ,
kể cả tài chính – ngân hàng. Ngoài ra, cần mở rộng các dự án đầu tư của
Chính phủ, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế. Từng bước
phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá
các danh mục đầu tư nước ngoài. Thay vì phát hành trái phiếu ngoại tệ ở nước
ngoài thì Nhà nước nên phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước nhằm huy
động vốn ngoại tệ ở trong dân.
Thứ ba, NHNN tiếp tục lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái VND/USD phù
hợp với hiện nay và thời gian tới theo cơ chế “thả nổi có quản lý” một cách
linh hoạt để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
vừa cải thiện quan hệ cung – cầu trên thị trường ngoại tệ, góp phần tăng dự
trữ ngoại tệ quốc gia. Đứng từ góc độ người quản lý, NHNN phải củng cố tiến
tới hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng, xác định tỷ giá liên ngân hàng
dựa trên quan hệ cung – cầu trên thị trường. Trong mọi trường hợp tránh phá
giá VND. Bởi vì những lợi ích từ hoạt động xuất khẩu do phá giá đem lại chỉ
là lợi ích tạm thời. Nguy hiểm hơn cả là nó làm hạn chế sự cạnh tranh đồng
thời làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Người tiêu dùng và khu
72
vực sản xuất sẽ chịu sức ép tăng giá. Đó là chưa kể đến việc làm tăng gánh
nặng nợ nước ngoài của quốc gia và các doanh nghiệp. Vì thế, việc giữ cho
đồng nội tệ luôn ổn định là một biện pháp then chốt trong việc tăng niềm tin
của người dân vào VND cũng chính là giải pháp hữu hiệu cải thiện tình trạng
đô-la hoá.
73
KẾT LUẬN
Tóm lại, cần nhận định rõ đô-la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với
một quốc gia có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam.
Như đã nói ở trên, biện pháp cơ bản để cải thiện tình trạng đô-la hoá là
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, củng cố sự vững mạnh của hệ thống
ngân hàng, qua đó củng cố lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Để thực
hiện được các mục tiêu này, NHNN cần phải có những chính sách tiền tệ linh
hoạt, thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân
hàng, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá công nghiệp hoá dịch vụ thanh toán.
Đồng thời hỗ trợ các NHTM trong việc đa dạng hoá các công cụ bảo hiểm
chống rủi ro trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, NHNN cần tiếp tục tăng
cường củng cố nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia để tăng tiềm lực tiền tệ và tài
chính của quốc gia.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã giải quyết được ba vấn đề lớn
đặt ra ở phần mở đầu đó là:
Làm rõ lý thuyết tổng quan về đô-la hoá.
Đánh giá được thực trạng tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời
gian qua và những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam.
Đưa ra hệ thống những định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình
trạng đô-la hoá tại Việt Nam.
Cuối cùng, xoá bỏ đô-la hoá không phải là phủ định tất cả vì cũng
giống như lạm phát, nó cũng có những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Vì
thế phải duy trì ở mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Frederic S. Mishkin – Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB
Khoa học và kỹ thuật, 2001.
2. Nguyễn Văn Tiến – Lý thuyết tiền tệ, NXB Thống kê, 2007
3. Song Hong Bing – Chiến tranh tiền tệ, NXB Trẻ, 2009
4. Chiến tranh lạm phát, NXB Lao động, 2009
5. Tạp chí Ngân hàng
6. Tạp chí Kinh tế
7. Tạp chí Phát triển Kinh tế
8. Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam
9. Báo cáo của IMF: Vietnam Statistical Appendix 2007
10. Các bài báo về đô-la hoá trên các báo điện tử
- Diễn đàn cao học kinh tế: http://www.caohockinhte.info/forum
- Báo điện tử của Trung ương hội khuyến học Việt Nam:
http://www.dantri.com.vn
http://www.saga.vn
- Thời báo Kinh tế Việt Nam: http://vneconomy.vn
- Website của NHNN Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn
Tài liệu tiếng Anh
11. Neil R. Ericsson & Steven B. Kamin - Dollarization in Argentina.
12. Michael Goujon - University of Auvergne - Fighting inflation in a
dollarized economy: the case of Vietnam.
13. Reem Heakal - Dollarization Explained
http://www.investopedia.com/articles/04/082504
75
14. Andreas Hauskrecht - Kelley School of Business, India University -
Dollarization in Vietnam.
15. David Altig & Owen Hampage - Federal Reserve Bank of Cleveland -
Dollarization - The case of Argentina.
16. Anne-Marie Gulde, David Hoelscher, Alain Ize, David Marston,
Gianni De Nicoló - Financial Stability in Dollarized Economies, IMF,
2004.
17. Kiwon Kang - Is Dollarization Good for Cambodia?
18. Jayant Menon - Asian Development Bank - Cambodia’s Persistent
Dollarization – Causes & Policy options.
19. Kurt Schuler - Basics of Dollarization.
20. Wantanabe Shinichi - International University of Japan - De facto
dollarization and its effect on finacial development and economic
growth of Cambodia, Laos PDR and Vietnam.