ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ...

32
Số 4 2020 ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG NÔNG THÔN

Transcript of ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ...

Số 42020

ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI

VÙNG NÔNG THÔN

1/ VĂN BẢN CHÍNH SÁCH

- Kế hoạch số 259/KH-BXDNTM ngày 27/4/2020 của Ban Xây dựng nông thôn mới Tổ chức Cuộc thi sáng tác ảnh đẹp OCOP và câu chuyện sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ninh năm 2020

2/ TIN HOẠT ĐỘNG

- Cụ thể hoá các quyết định chính sách đầu tư trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh

3/ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

- Chi bộ Ban Xây dựng nông thôn mới dấu ấn một nhiệm kỳ

- Chung sức phát triển hạ tầng giao thông nông thôn

- Đảm bảo tiêu chí nhà ở dân cư trong xây dựng nông thôn mới

- Hiệu quả bước đầu từ mô hình trồng xen cây ba kích

- Xã Vạn Ninh với mục tiêu xây dựng nông thôn mới nâng cao

- Xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu: Góp phần xây dựng vùng quê đổi mới

- Hạ tầng kinh tế - xã hội vùng nông thôn: Đảm bảo nền tảng cho phát triển

- Bảo vệ môi trường ở Đầm Hà: Những việc làm thiết thực

- Tiên Yên: Nâng “chất” trong xây dựng NTM

- Giải bài toán tái đàn lợn sau bệnh dịch tả lợn Châu Phi

- Xã Tiên Lãng phấn đấu về đích NTM nâng cao

- Chị Liễu làm kinh tế giỏi

4/ OCOP - MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM

- Gỡ khó tiêu thụ nông sản - Bài 2: Cần những giải pháp căn cơ

- Hải Hà phát triển sản phẩm OCOP

- Quảng Yên: Hỗ trợ kết nối tiêu thụ nông sản

5/ MÔ HÌNH KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

- Mỗi làng một sản phẩm - Hướng đi để xây dựng nông thôn mới bền vững

6/ TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ

- Thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT ngày 28/02/2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về quy định tiêu chí kinh tế trang trại

Ảnh bìa 1: Hệ thống loa truyền thanh, đường giao thông tại xã Kỳ Thượng, thành phố Hạ Long là một trong những nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế, phổ biến thông tin chính sách.

TRONG SỐ NÀY

In 3.500 bản, khổ 19 x 27 cm tại Công ty Cổ phần In và Bao Bì Quảng Ninh. Giấy phép xuất bản số 06/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 14 tháng 2 năm 2020. In xong nộp lưu chiểu tháng 4/2020.

1

5

21

25

BAN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚITầng 16 - Liên cơ quan số 2 - Hồng Hà - TP. Hạ Long - Quảng Ninh.Điện thoại: 0203. 3533.560Fax: 0203. 3533.561

CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢNVũ Thành LongTrưởng Ban Xây dựng nông thôn mới

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬPĐặng Bá BắcPhó Trưởng BanXây dựng nông thôn mới

Thư kýLã Hồng Phúc

Ủy viênĐoàn Văn KhánhĐinh Bá TrinhNguyễn Thu Hằng

28

4

KẾ HOẠCHTổ chức Cuộc thi sáng tác ảnh đẹp OCOP

và câu chuyện sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ninh năm 2020

UBND TỈNH QUẢNG NINHBAN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Số: 259/KH-BXDNTM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quảng Ninh, ngày 27 tháng 4 năm 2020

Thực hiện Kế hoạch số 04/KH-BCĐ ngày 08/01/2020 của Ban Chỉ đạo OCOP tỉnh về triển khai Chương trình Mỗi xã, phường một sản phẩm tỉnh Quảng Ninh năm 2020; Ban Xây dựng Nông thôn mới ban hành Kế hoạch tổ chức Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP tỉnh năm 2020, như sau:

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

1. Mục đích:

Tạo ra các bức ảnh đẹp và những câu chuyện hay, hấp dẫn về sản phẩm OCOP, giúp người dân, người tiêu dùng hiểu hơn về Chương trình OCOP, cũng như tính độc đáo riêng có của các sản phẩm OCOP, từ đó kích thích thị hiếu và khơi dậy nhu cầu mua sắm của khách hàng, góp phần tăng cường tuyên truyền quảng bá, giới thiệu, thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm.

Cuộc thi cũng là dịp để các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất, những người tích cực tham gia cuộc thi có cơ hội được giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, qua đó giới thiệu và tôn vinh các tác giả có tác phẩm đặc sắc; tập hợp được bộ ảnh và những câu chuyện có giá trị để giới thiệu, quảng bá về Chương trình OCOP và sản phẩm OCOP đến với xã hội.

Thông qua cuộc thi cũng là dịp để tiếp tục khuyến khích các đơn vị sản xuất đầu tư phát triển tổ chức, phát triển sản phẩm OCOP, góp phần thực hiện có hiệu quả Đề án Chương trình Mỗi xã, phường một sản phẩm giai đoạn 2017-2020.

2. Yêu cầu:

Việc triển khai cuộc thi phải được tiến hành sâu rộng đến tất cả các địa phương, các cơ quan, tổ chức có liên quan. Các tác phẩm dự thi phải trung thực phản ánh đúng thực tế những nét đẹp và đặc trưng riêng có của sản phẩm và chương trình OCOP.

II. ĐỐI TƯỢNG DỰ THI

Tất cả các công dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Quảng Ninh, các tỉnh thành trong cả nước (đảm bảo năng lực hành vi dân sự) có quyền gửi tác phẩm dự thi. Khuyến khích chính chủ thể của sản phẩm xây dựng các tác phẩm có chất lượng tham gia dự thi.

- Thành viên Ban Tổ chức, Ban Giám khảo và Ban Thư ký được gửi ảnh và câu chuyện tham gia chọn để triển lãm nhưng không được tham gia chấm giải.

III. NỘI DUNG, TRÌNH TỰ CÁC BƯỚC THỰC HIỆN

1. Nội dung, hình thức Cuộc thi: Thực hiện theo Thể lệ Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP Quảng Ninh kèm theo Kế hoạch này.

2. Trình tự các bước thực hiện

* Bước 1: Xây dựng Thể lệ Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP Quảng Ninh. Tổ chức tuyên truyền và phát động Cuộc thi đến các đối tượng xã hội để tham gia.

VĂN BẢN CHÍNH SÁCH

3Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

* Bước 2: Thành lập Ban Tổ chức, Ban Giám khảo, Ban Thư ký cuộc thi

a) Ban Tổ chức:

- Trưởng Ban Xây dựng nông thôn mới là Trưởng Ban Tổ chức

- Phó trưởng Ban Xây dựng nông thôn mới phụ trách OCOP là Phó trưởng Ban Tổ chức.

- Các ủy viên gồm:

+ Trưởng phòng Nghiệp vụ OCOP - Ban Xây dựng NTM

+ Phó Chánh Văn phòng (phụ trách tuyên truyền) - Ban Xây dựng NTM

+ Các cán bộ thuộc phòng Nghiệp vụ OCOP

b) Ban Giám khảo

- Phó trưởng Ban Xây dựng nông thôn mới phụ trách OCOP là Trưởng Ban giám khảo.

- Trưởng phòng Nghiệp vụ OCOP là Phó Ban Giám khảo

- Mời đại diện các thành viên gồm:

+ Sở Văn hóa Thể thao

+ Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh

+ Hội Nhà báo tỉnh

+ Chi Hội nghệ sỹ Nhiếp ảnh Quảng Ninh.

+ Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh.

c) Ban Thư ký

- Phó trưởng phòng Nghiệp vụ OCOP là Trưởng Ban Thư ký

- Phó Chánh Văn phòng Ban Xây dựng NTM

- Cán bộ phòng Nghiệp vụ OCOP

* Bước 3: Ban hành Quy chế chấm thi và xây dựng các biểu mẫu chấm điểm các tác phẩm dự thi.

* Bước 4: Tiếp nhận tác phẩm dự thi và Tổ chức chấm thi các tác phẩm.

* Bước 5: Tổng kết, công bố trao giải và trưng bày triển lãm các tác phẩm đạt giải của Cuộc thi.

IV. THỜI GIAN

- Ban hành Thể lệ, tuyên truyền vận động và phát động Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ninh năm 2020 (tháng 5/2020).

- Các đối tượng xã hội tổ chức sáng tác các tác phẩm dự thi; Ban tổ chức tiếp nhận sản phẩm (từ tháng 5 đến hết tháng 8 năm 2020).

- Chấm điểm đánh giá các tác phẩm dự thi (tháng 9/2020)

- Tổng kết trao giải và triển lãm các tác phẩm đạt giải (tháng 11/2020).

V. KINH PHÍ

- Kinh phí tổ chức cấp tỉnh được bố trí từ ngân sách tỉnh cấp cho Chương trình xây dựng nông thôn mới năm 2020 (10% Đề án OCOP)

- Các địa phương tùy theo điều kiện cụ thể bố trí kinh phí cấp huyện để phục vụ công tác tuyên truyền và triển khai cuộc thi tại cấp huyện.

VĂN BẢN CHÍNH SÁCH

4 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Ban Xây dựng nông thôn mới

- Xây dựng Kế hoạch, Thể lệ và phát động Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP Quảng Ninh năm 2020.

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị truyền thông tuyên truyền về Cuộc thi đến các đối tượng trong và ngoài tỉnh.

- Thành lập Ban Tổ chức, Ban Giám khảo và Ban Thư ký Cuộc thi.

- Tiếp nhận các tác phẩm dự thi và chuẩn bị các điều kiện tổ chức chấm thi các tác phẩm.

- Tổng kết trao giải cho các tác giả, tác phẩm đạt giải

- Tổ chức triển lãm, trưng bày giới thiệu các tác phẩm đạt giải gắn với tổng kết Đề án OCOP giai đoạn 2017-2020.

- Lập dự toán kinh phí tổ chức thi cấp tỉnh.

2. Ban Chỉ đạo/Ban Điều hành OCOP các địa phương

- Tuyên truyền Cuộc thi trên các phương tiện truyền thông của huyện để các đối tượng biết và đăng ký tham gia dự thi, nhất là tuyên truyền đến các đơn vị trực tiếp sản xuất sản phẩm OCOP, Chi hội Văn học Nghệ thuật, các văn nghệ sỹ để sáng tác các tác phẩm tham gia dự thi.

- Chỉ đạo các phòng, ban liên quan hướng dẫn, đôn đốc và vận động 100% các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất tham gia Chương trình OCOP trên địa bàn tham gia dự thi Cuộc thi; 100% các sản phẩm thuộc Chương trình OCOP đều phải có tác phẩm dự thi.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng văn nghệ sỹ chuyên nghiệp về nhiếp ảnh và các Nhà văn, Nhà báo trong toàn tỉnh tiếp cận với doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất lấy tư liệu sáng tác các tác phẩm dự thi.

- Tổng hợp các tác phẩm dự thi trên địa bàn (theo chỉ tiêu tối thiểu) gửi về Ban Xây dựng nông thôn mới trước 30/8/2020.

3. Các doanh nghiệp, HTX, các tổ chức, cá nhân liên quan

- Chủ động nghiên cứu Thể lệ, tích cực đăng ký tham gia Cuộc thi.

- Phát huy tinh thần sáng tạo để sáng tác các tác phẩm có chất lượng tốt nhất tham gia dự thi. Gửi tác phẩm về Ban Chỉ đạo OCOP huyện để tổng hợp theo chỉ tiêu gửi về Ban Tổ chức Cuộc thi cấp tỉnh theo đúng quy cách và tiến độ thời gian quy định của Thể lệ.

- Phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng văn nghệ sỹ chuyên nghiệp về nhiếp ảnh và các Nhà văn, Nhà báo tiếp cận với đơn vị để lấy tư liệu sáng tác các tác phẩm dự thi.

Trên đây là Kế hoạch tổ chức Cuộc thi ảnh đẹp và câu chuyện sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ninh năm 2020, Ban Xây dựng nông thôn mới đề nghị Ban Chỉ đạo/Ban Điều hành OCOP các địa phương, các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất và các tổ chức cá nhân có liên quan triển khai thực hiện./.

TRƯỞNG BAN

(Đã ký)

Vũ Thành Long

VĂN BẢN CHÍNH SÁCH

5Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Cùng phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn còn có các Sở, ban ngành: Kế hoạch và Đầu tư - Tài chính - Khoa học và Công nghệ - Công thương - Tài nguyên và Môi trường - Xây dựng - Ban Xây dựng nông thôn mới - Cục thuế - Kho bạc Nhà nước tỉnh.

Hướng dẫn liên ngành gồm 6 phần; trong đó, Phần I: là phạm vi điều chỉnh; Phần II: Hướng dẫn xây dựng kế hoạch, dự toán và phân bổ nguồn lực thực hiện chính sách; Phần III: Hướng dẫn thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hướng dẫn áp dụng các chính sách hiện hành về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước; Các chính sách về ưu đãi hỗ trợ đầu tư; Các quy trình và hồ sơ để thực hiện được hỗ trợ; Phần IV: Hướng dẫn thực hiện chính sách liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm thuộc Chương trình OCOP; dự án phát triển nông nghiệp hữu cơ; trình tự và thủ tục hồ sơ để

Ngày 21/4/2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (chủ trì) ban hành hướng dẫn liên ngành về trình tự, thẩm định, phê duyệt và nhận ưu đãi, hỗ trợ các dự án khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ninh theo Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 35/2019/QĐ-UBND ngày 11/11/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

CỤ THỂ HÓA CÁC QUYẾT ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỈNH QUẢNG NINH

Sản phẩm trà hoa vàng Hải Hà thu hút khách hàng tại Hội chợ OCOP.

thực hiện được hỗ trợ; Phần IV: Hướng dẫn quyết toán nguồn kinh phí hỗ trợ; Phần V: Giao nhiệm vụ cho Sở Nông nghiệp và cơ quan đầu mối tổng hợp báo cáo và đề xuất phản ánh về tình hình thực hiện chính sách.

Hướng dẫn liên ngành sẽ cụ thể hoác các quyết định chính sách đầu tư trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới tỉnh

Quảng Ninh, là cơ sở cho các phòng ban chuyên môn các cấp tiếp cận nhanh và triển khai có hiệu quả các chính sách đến với các tổ chức doanh nghiệp, HTX, Tổ hợp tác, hộ sản xuất (đặc biệt là đối tượng tham gia vào Chương trình OCOP) nhằm khuyến khích, tạo đà cho sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp tỉnh.

PHÚC HƯNG(Ban XDNTM)

TIN HOẠT ĐỘNG

6 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Trong nhiệm kỳ qua, Quảng Ninh triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn

mới trong điều kiện gặp nhiều khó khăn: Các xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới trong giai đoạn 2015-2020 đều là những xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế khó khăn và xã đặc biệt khó khăn cả về nguồn lực vật chất và nhân lực con người. Dân trí khu vực nông thôn, nhất là khu vực vùng sâu vùng xa còn thấp; nhiều nơi cán bộ, nhân dân vẫn tồn tại tư tưởng trông chờ, ỷ lại trong thực hiện chương trình. Tuy nhiên, Chương trình xây dựng nông thôn mới đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Thường trực Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh. Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 07-CT/TU ngày 27/5/2016 về thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2020 nêu rõ quan điểm “Xây dựng nông thôn mới theo hướng chuyển từ lượng sang chất, bảo đảm thường xuyên, liên tục và lâu dài”, “Tiến tới xây dựng nông thôn tiên tiến”, “Tiếp tục xác định người nông dân là chủ thể, trực tiếp thực hiện và được thụ hưởng; đầu tư của doanh nghiệp là động lực; Nhà nước giữ vai trò định hướng, hỗ trợ”.

Trên cơ sở những khó khăn và thuận lợi, nhiệm kỳ qua chi bộ cơ quan Ban Xây dựng nông thôn mới đã đoàn kết thống nhất, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2015-2020 lãnh đạo cán bộ, đảng viên Ban Xây dựng nông thôn mới khẳng định rõ vai trò là cơ quan tham mưu tổng hợp, điều phối, giúp cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Ban chỉ đạo các Chương trình MTQG trong công tác quản lý, điều hành có hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực:

Tham mưu xây dựng Kế hoạch và ban hành các văn bản, chính sách phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đối với chương trình xây dựng nông thôn mới và Chương trình OCOP được quan tâm. Hệ thống văn bản hướng dẫn hồ sơ cho các xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới và nhiều văn bản chính

CHI BỘ BAN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

DẤU ẤN MỘT NHIỆM KỲsách khác phục vụ công tác tham mưu chỉ đạo. Các văn bản chính sách do Ban tham mưu đã tạo thuận lợi cho địa phương triển khai tốt Chương trình.

Tham mưu cho UBND tỉnh giao nhiệm vụ các sở, ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra giám sát việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu trong xây dựng nông thôn mới; Quyết định về phân công các Sở, ban, ngành, đơn vị hỗ trợ, giúp đỡ các xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới. Công tác tổng hợp được coi trọng đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành.

Đến nay toàn tỉnh có 81/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới (năm 2020 tỉnh Quảng Ninh thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tại 98 xã. Có 5 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (Đông Triều, Cô Tô, Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái). Toàn tỉnh có 15 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và có 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (xã Việt Dân). Bình quân các xã đạt 18,03 tiêu chí, vượt mục tiêu kế hoạch năm 2019 là 0,43 tiêu chí (vượt mục tiêu kế hoạch năm 2020 là 0,03 tiêu chí); không còn xã đạt dưới 10 tiêu chí. Toàn tỉnh có 395 thôn đạt chuẩn nông thôn mới và 3.474 vườn đạt chuẩn nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2019 đạt 41,1 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,7%.

Đề án Mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) được tập trung chỉ đạo đã tạo ra phương thức sản xuất mới từ các sản phẩm truyền thống địa phương góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân. Đến nay toàn tỉnh đã phát triển 392 sản phẩm. Số sản phẩm được cấp chứng nhận đạt sao là 191 sản phẩm, trong đó 3 sao là 121 sản phẩm, 4 sao 62 sản phẩm, 5 sao 8 sản phẩm. Toàn tỉnh phát triển 152 đơn vị sản xuất tham gia Chương trình OCOP.

Từ sự cố gắng nỗ lực, năm 2015 tỉnh Quảng Ninh được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất vì có thành tích xuất sắc

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

7Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

trong xây dựng NTM giai đoạn 2010-2015; Năm 2019 Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba vì có thành tích xuất sắc trong triển khai Chương trình OCOP; Tập thể Ban Xây dựng nông thôn mới và nhiều cá nhân được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh tặng nhiều Bằng khen.

Công tác xây dựng đảng: Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên trong chi bộ cơ quan nhìn chung ổn định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước. Hầu hết cán bộ, đảng viên đã nêu cao vai trò hạt nhân lãnh đạo, năng động, sáng tạo trên từng nhiệm vụ công tác được giao. Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước được chi bộ quan tâm. Chi bộ luôn chủ động xây dựng Kế hoạch, tổ chức quán triệt triển khai học tập Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết các hội nghị của Trung ương đến 100% đảng viên và quần chúng trong cơ quan. Ngay sau khi học tập, chi bộ đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đến các tổ đảng và đảng viên để thực hiện gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.

Công tác giáo dục truyền thống, xây dựng nếp sống văn hóa trong cơ quan được coi trọng, trong nhiệm kỳ chi bộ đã tổ chức được 15 cuộc sinh hoạt chuyên đề về các chủ đề gắn với việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về xây dựng văn hóa văn minh công sở; các chuyên đề về chủ đề công tác của tỉnh hàng năm... Công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức lý luận chính trị được chi bộ quan tâm, trong nhiệm kỳ đã có 05 đồng chí được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị; 02 đồng chí học trung cấp lý luận chính trị; 07 đồng chí học các chương trình chuyên viên, chuyên viên chính. Hiện cơ quan có 09/16 đảng viên có trình độ lý luận chính trị cao cấp; 04/16 đồng chí có trình độ lý luận trung cấp.

- Chi bộ đã thường xuyên làm tốt công tác nắm bắt tư tưởng cán bộ đảng viên; Việc tuyên truyền các chủ trương nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước, nhất là các chủ trương chính sách liên quan đến xây dựng

nông thôn mới được coi trọng, tư tưởng chính trị của cán bộ đảng viên trong thời gian qua nhìn chung ổn định, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao.

- Công tác kiểm tra giám sát tiếp tục được duy trì, đã góp phần tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính trong thực thi nhiệm vụ. Chi bộ giữ vững đoàn kết thống nhất, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức Công đoàn trong cơ quan đã phát huy được vai trò tập hợp quần chúng, hoạt động thiết thực hiệu quả, làm tốt công tác chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cán bộ, CC- LĐ cơ quan.

Giai đoạn 2020-2025, tỉnh Quảng Ninh phấn đấu có ít nhất 80% số thôn đạt chuẩn nông thôn mới theo các tiêu chí nông thôn mới áp dụng đối với cấp thôn theo quy định; 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; ít nhất 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và có ít nhất 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 100% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; Tỉnh Quảng Ninh được Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Từ những thành tựu đã đạt được của Chi bộ Ban Xây dựng nông thôn mới nhiệm kỳ 2015-2020, trong nhiệm kỳ tới Chi bộ Ban Xây dựng nông thôn mới quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo cán bộ, đảng viên cơ quan tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND và Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2020-2025 với tinh thần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ, hiện đại và kết nối chặt chẽ với quá trình đô thị hóa; kinh tế nông thôn phát triển mạnh mẽ, trình độ sản xuất tiên tiến, nông dân chuyên nghiệp, sản phẩm có sức cạnh tranh cao; môi trường, cảnh quan, không gian nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp; hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; quốc phòng và an ninh trật tự được giữ vững. Chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2020./.

ĐẶNG BÁ BẮC(Phó trưởng Ban XDNTM)

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

8 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Xác định hạ tầng giao thông là yếu tố then chốt phát triển

kinh tế - xã hội vùng nông thôn, huyện Tiên Yên đã tập trung nhiều nguồn lực, với chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đẩy nhanh hoàn thành tiêu chí giao thông. Cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở đều tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân chung tay cùng chính quyền địa phương thực hiện kế hoạch này. Ngay ở các thôn, bản vùng cao, vùng khó cũng hình thành được phong trào góp công góp của, bàn giao mặt bằng để làm đường giao thông.

Điển hình như tại thôn Quế Sơn (xã Đông Ngũ, huyện Tiên Yên) là thôn vùng cao, cách trung tâm xã hơn 6km đường rừng, đường đất. Để giúp bà con đi lại thuận tiện, đội ngũ cán bộ thôn đã làm tốt công tác dân vận, nêu gương đi đầu trong việc tuyên truyền, vận động người dân hiến đất, ngày công tham gia mở đường. Ông Tô Văn Giang, Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Đông Ngũ, cho biết: Sự ủng hộ cao của nhân dân Quế Sơn đã giúp chủ trương chung nhanh chóng được triển khai: Hai bên lề đường được mở rộng, vật liệu xi măng được Nhà nước hỗ trợ đưa về tận nơi để cứng hóa toàn bộ hệ thống đường giao thông, nội đồng, sản xuất...

Với cách làm như tại Đông Ngũ, đến nay toàn huyện Tiên Yên đã cơ bản đảm bảo cứng hóa được toàn bộ hệ thống đường giao thông nông thôn,

Từ triển khai xây dựng nông thôn mới (NTM), các địa phương trong tỉnh đã tập trung làm tốt tiêu chí về phát triển hạ tầng giao thông, vừa nhanh chóng kết nối giao thương được thông suốt, vừa tạo dựng được diện mạo nông thôn “Sáng, xanh, sạch, đẹp”. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân cư.

CHUNG SỨC PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG GIAO THÔNG NÔNG THÔN

ngõ xóm, trên 80% tuyến nội đồng phục vụ sản xuất. Các tuyến đường huyết mạch cũng được huyện kiến nghị các cấp quan tâm đầu tư, nâng cấp, cải tạo và mở mới. Khắp các khu dân cư đã xuất hiện những tấm gương đảng viên, quần chúng nhân dân nêu gương điển hình trong hiến đất làm đường giao thông, tạo thành phong trào đẹp lan tỏa trong cộng đồng.

doanh nghiệp ủng hộ kinh phí, tạm ứng vật tư thanh toán trả chậm để hỗ trợ vật tư cùng với sự đóng góp của nhân dân xây dựng giao thông nông thôn. Hiện, 100% tuyến đường trục thôn xóm được nhựa hóa hoặc bê tông hóa, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Hưởng ứng phong trào những năm qua, LLVT toàn tỉnh cũng đẩy mạnh thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, góp sức, góp của để chung tay hoàn thành hệ thống đường giao thông NTM cho các địa bàn vùng khó. Thống kê trong giai đoạn 2011-2019, LLVT toàn tỉnh đã tham gia gần 145.800 ngày công, hỗ trợ trên 21,2 tỷ đồng, làm 128km đường bê tông; gần 100km đường cấp phối, nạo vét gần 87km kênh mương phục vụ tưới tiêu nông nghiệp. Thông qua phong trào đã tăng cường mối quan hệ, gắn bó tình quân - dân, xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Hiệu quả đạt được trong phát triển giao thông nông thôn đã cho thấy sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp nhằm hướng đến xây dựng diện mạo mới cho địa phương. Đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng bền vững, đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân địa phương.

HOÀNG GIANG(BQN)

Thôn vùng cao Quế Sơn (xã Đông Ngũ, huyện Tiên Yên) đã có đường giao thông, nhà văn hóa được đầu tư xây dựng khang trang.

Cán bộ MTTQ xã An Sinh (TX Đông Triều) tuyên truyền, nắm tình hình phong trào hiến đất làm đường của nhân dân thôn Trại Lốc 2 của xã.

Tại TX Đông Triều, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” cũng được các xã nông thôn tích cực triển khai tuyên truyền, thực hiện. Nguồn hỗ trợ của thị xã đều được các xã phân bổ cho thôn để chủ động triển khai, thị xã đóng vai trò định hướng, kiểm tra, đôn đốc, giám sát. Từ đó, các thôn sẽ xây dựng khái toán, phương án, chi phí thi công để công khai, lấy ý kiến, huy động nhân dân đóng góp trên cơ sở nguồn lực đến đâu, thi công đến đó. Đồng thời, thị xã thực hiện tốt cơ chế hỗ trợ nguyên vật liệu trong xây dựng đường giao thông nông thôn; vận động các

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

9Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Trong xây dựng nông thôn mới, đảm bảo được tiêu chí số 9 về nhà ở dân cư sẽ góp phần quan trọng để nâng cao chất lượng đời sống của từng hộ dân, tạo dựng nên diện mạo nông thôn khang trang, đổi mới. Để hoàn thành tiêu chí này, cấp ủy, chính quyền các địa phương trong tỉnh đã tập trung nhiều giải pháp: Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân, huy động nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo...

ĐẢM BẢO TIÊU CHÍ NHÀ Ở DÂN CƯ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Để đạt tiêu chí về nhà ở dân cư, mỗi xã nông thôn mới phải

đảm bảo 2 nội dung chỉ tiêu: Trên địa bàn không còn nhà tạm, nhà dột nát; từ 75% hộ dân trở lên có nhà ở đạt chuẩn của Bộ Xây dựng (đảm bảo “3 cứng” là nền cứng, khung cứng, mái cứng, diện tích nhà ở đạt từ 14m2/người trở lên, các công trình bếp, nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi phải được bố trí đảm bảo vệ sinh, thuận tiện cho sinh hoạt).

Nhằm hỗ trợ thực hiện tiêu chí về nhà ở dân cư, thời gian qua, các địa phương trong tỉnh đã chú trọng triển khai xóa nhà tạm, kiên cố hóa nhà ở cho người dân thông qua các nguồn của Chính phủ; hỗ trợ xây dựng nhà Đại đoàn kết từ nguồn quỹ Vì người nghèo; hỗ trợ làm nhà cho cán bộ, hội viên có hoàn cảnh khó khăn của các đơn vị, sở, ngành, đặc biệt là các hội, đoàn thể hay chương trình cho hộ nghèo vay vốn ưu đãi làm nhà ở...

Thực hiện tiêu chí về nhà ở dân cư, thời gian qua cấp uỷ, chính quyền huyện Bình Liêu luôn quan tâm lồng ghép các chương trình, dự án để xóa nhà tạm, nhà dột nát cho nhiều hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Để chủ trương này được thực hiện có hiệu quả, huyện đã chỉ đạo

các xã, thị trấn rà soát và bình xét những hộ nghèo cần được hỗ trợ về nhà ở. Từ danh sách này, Phòng LĐ-TB&XH là đơn vị chủ trì, phối hợp với các ngành chức năng tập trung tuyên truyền, phổ biến chủ trương, vận động các gia đình chuẩn bị sẵn các điều kiện để xây, sửa nhà ở.

Ông Lý Văn Bình, Chủ tịch UBND xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, cho biết: Việc tuyên truyền cũng không phải dễ khi bà con chưa hiểu rõ chủ trương chung, còn mang tâm lý e ngại vì xây nhà là việc lớn cả đời, cần số tiền không nhỏ. Có người lo không hợp tuổi nên bàn lùi năm này sang năm khác, lại có người cứ bám trụ lấy mảnh đất cha ông để lại dù đang thuộc vùng dễ sạt lở, ngập lụt... Vì vậy, xã tập trung làm thật tốt từ khâu tuyên truyền, đội ngũ người uy tín trong cộng đồng, MTTQ và các đoàn thể cũng vào cuộc để vận động liên tục. Cùng với việc bà con được mắt thấy tai nghe: Những công trình nhà ở của bà con các vùng lân cận được hoàn thành, hệ thống đường giao thông của xã được đầu tư nâng cấp, thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu, giảm chi phí, huy động nguồn lực xã hội hóa... Nhờ đó, nhận thức, quyết tâm của bà con nhân dân từng bước chuyển biến tích cực.

Bên cạnh triển khai các chính sách hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách, giải quyết khó khăn về nhà ở như cách làm của Bình Liêu, các địa phương trong tỉnh còn chú trọng tuyên truyền về các tiêu chuẩn nhà ở theo chuẩn của Bộ Xây dựng để trong quá trình tu sửa, làm mới nhà ở, người dân có những điều chỉnh hợp lý, giúp đáp ứng tiêu chí xây dựng nông thôn mới đã đề ra.

Cụ thể, chính quyền cấp xã liên tục tuyên truyền, vận động bà con nhân dân khi xây dựng nhà ở cần quan tâm đến các loại hình công trình phụ trợ như bếp ăn, công trình vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi... phải bố trí sao cho thuận lợi trong việc sinh hoạt gia đình. Vườn tược, đồng ruộng của các hộ nông dân cũng phải thường xuyên cải tạo, chỉnh trang, vừa góp phần bảo vệ sức khỏe cho mình vừa bảo vệ môi trường chung cho cả khu dân cư. Để động viên phong trào từ cơ sở, các tổ chức đoàn thể, lực lượng vũ trang các địa phương cũng đã vào cuộc tích cực trong tuyên truyền, vận động cũng như ra quân đóng góp ngày công hỗ trợ, nhất là đối với vùng khó khăn, dân tộc thiểu số.

Để có những điều chỉnh hợp lý về nhà ở dân cư thì về lâu dài, cấp ủy, chính quyền địa phương cần triển khai có hiệu quả các chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đồng thời tạo điều kiện để người dân phát triển kinh tế, có mức thu nhập khá giả. Đây là điều kiện quan trọng hàng đầu để bà con chủ động xây dựng nhà ở kiên cố, đạt chuẩn nông thôn mới.

HOÀNG GIANG(BQN)

Ban CHQS huyện Tiên Yên hỗ trợ người dân thôn Khe Lẹ, xã Hà Lâu, xây nhà mới (tháng 8/2018).

Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Khe Mọi (xã Đồng Văn) Tằng A Sám (bên phải) nắm tình hình hộ nghèo của bản được hỗ trợ xây nhà.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

10 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Ba kích có tên khoa học Morinda officinalis How. Cây phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp của miền núi và trung du ở các tỉnh phía Bắc. Ba kích có nhiều ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Hà Giang, Hòa Bình. Gần đây, cũng đã tìm thấy tại Quảng Nam. Cây mọc hoang dưới tán rừng thứ sinh, trong các trảng cây bụi và rừng thưa, ở ven rừng rậm. Thích hợp vùng nhiệt đới nóng ẩm, có 2 mùa mưa và khô rõ rệt; nhiệt độ không khí mùa khô từ 8-240C và mùa mưa từ 25-380C; lượng mưa trong năm từ 1.100-2.000 mm. Cây ưa đất ẩm mát, thành phần cơ giới trung bình, tầng dày trên 1m, nhiều mùn, tơi xốp, không chịu được đất bị úng. Khi còn nhỏ cây chịu bóng, thích hợp độ tàn che 0,4-0,5; ở nơi đất trống cần trồng cây che phủ.

HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU TỪ MÔ HÌNH TRỒNG XEN CÂY BA KÍCH

Sản phẩm chính của cây là củ. Củ ba kích là dạng rễ củ,

hình trụ tròn, thắt khúc, vặn vẹo, nhiều đoạn thắt nghẹt như ruột gà (nên gọi là cây ruột gà), đường kính 1,5-2,0cm. Vỏ ngoài màu nâu nhạt hoặc hồng nhạt, nhám, có vân dọc. Bên trong là lớp thịt củ dày màu hồng hoặc tím, không mùi, vị ngọt nhưng hơi chát, trong cùng là lõi củ, thông thường khi chế biến, sử dụng phần lõi được loại bỏ. Trong tự nhiên có 2 loại: Ba kích tím có lá nhỏ, nhọn, lá non màu tím thẫm; củ có lõi màu tím. Ba kích trắng có lá bầu hơn, lõi củ thường màu vàng đến hồng vàng. Người sử dụng thường ưa chuộng ba kích tím hơn ba kích trắng.

Củ ba kích là loại dược liệu quý dùng trong y học cổ truyền. Theo Đỗ Tất Lợi (2005), ba kích có tác dụng tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với các yếu tố độc hại. Đối với người già hoặc những bệnh nhân biểu hiện mệt mỏi, ăn kém, ngủ ít, gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý và một số trường hợp có đau mỏi các khớp, ba kích có tác dụng tăng lực rõ rệt thể hiện qua những cảm giác chủ quan như giảm mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon và

những dấu hiệu khách quan như tăng cân nặng, tăng cơ lực. Đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp thì sau khi dùng ba kích dài ngày cho thấy có hiệu quả. Đối với nam giới có hoạt động sinh lý yếu ba kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp (đặc biệt đối với những trường hợp giao hợp yếu, ít). Ba kích còn có tác dụng tăng cường sức dẻo dai, mặc dù nó không làm tăng nhu cầu sinh lý. Tuy không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh lý cũng như điều trị vô sinh cho nam giới có biểu hiện vô sinh tương đối và suy nhược cơ thể. Là cây dược liệu có nhiều công dụng quý, sử dụng lại đơn giản nên nhu cầu về củ ba kích trên thị trường khá lớn. Ba kích trong các rừng tự nhiên bị khai thác một cách lạm dụng, tùy tiện mà không chú ý đến khâu nuôi dưỡng tái sinh. Số lượng cây ba kích hiện còn sót lại rất ít, thưa thớt, thậm chí có vùng hầu như không còn.

Tại Quảng Ninh, được sự quan tâm của tỉnh, các ngành, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng rất được chú trọng đặc biệt là tại các huyện miền núi thông qua các Chương trình 134, 135, các chương trình hỗ trợ phát triển

kinh tế. Giai đoạn 1998-2007, ba kích đã được chọn là đối tượng triển khai trong Dự án lâm sản ngoài gỗ (pha I và pha II) do chính phủ Hà Lan tài trợ. Nhận thấy được hiệu quả từ cây ba kích đem lại, người dân một số địa phương triển khai dự án (Ba Chẽ, Vân Đồn, Hoành Bồ) đã tự trồng cây ba kích trên đất được giao khoán. Từ năm 2010 trở lại đây, cây ba kích được quan tâm phát triển quy mô lớn, tập trung thông qua các quy hoạch của tỉnh, của địa phương, các chương trình nghiên cứu khoa học, bảo tồn nguồn gen, dự án phát triển khoa học công nghệ, dự án phát triển sản xuất... bước đầu đã hình thành vùng sản xuất tập trung. Tuy nhiên, sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và sự quan tâm đầu tư của tỉnh.

Mô hình trồng xen cây ba kích năm thứ hai tại xã Thanh Lâm, Ba Chẽ.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

11Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Năm 2016-2017, với sự hỗ trợ từ quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ tỉnh, hợp tác xã Toàn Dân, huyện Ba Chẽ trồng trên 30ha cây ba kích theo phương thức thâm canh với cây giống nguồn gốc từ nuôi cấy mô. Đơn vị tiến hành làm đất đồng bộ bằng cách cày xới toàn diện lớp đất mặt sâu 1m; trồng với mật độ cao (70.000 cây/ha), phủ nilon đen toàn bộ diện tích trồng mục đích hạn chế cỏ dại, đục lỗ tại vị trí trồng cây để bón phân và tưới nước. Điều này vô hình dung làm mất hoàn cảnh sinh thái vốn có của cây (khi còn nhỏ cây sống dưới tán rừng). Với suất đầu tư cao, tập trung, những tưởng hiệu quả mang lại sẽ tương xứng. Nhưng cùng với một số nguyên nhân khác, gần như toàn bộ diện tích cây trồng của hợp tác xã bị chết. Sự thất bại của mô hình làm dấy lên hoài nghi về khả năng mở rộng diện tích trồng ba kích tại địa phương thời điểm đó.

Trong quy trình trồng ba kích do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn, có hai phương thức là trồng thâm canh và trồng xen/dưới tán. Với phương thức trồng thâm canh thì giai đoạn 1-2 năm đầu nhất định phải làm giàn hoặc trồng bổ sung cây che phủ (cây phân xanh, cốt khí…). Vì vậy, việc đầu tư thâm canh là khuyến khích nhưng người trồng cần hiểu biết được đặc tính sinh học của cây, tạo hoàn cảnh gây trồng theo hướng gần giống với sinh thái tự nhiên của cây; tuân thủ hướng dẫn kỹ thuật của cơ quan quản lý nhà nước.

Dự án khuyến nông Trung ương “Xây dựng mô hình liên kết sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ dược liệu khu vực miền núi phía Bắc” được Trung tâm Khuyến nông triển khai 3 năm (2018-2020) với tổng quy mô 20 ha cây ba kích tại xã Thanh Lâm, huyện

Ba Chẽ. Quy trình kỹ thuật sử dụng là quy trình trồng cây ba kích ban hành kèm theo Quyết định số 797/QĐ-NN&PTNT ngày 17/11/2014 của Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT về quy trình kỹ thuật áp dụng cho 17 vùng sản xuất nông nghiệp tập trung tỉnh Quảng Ninh - lĩnh vực lâm nghiệp. Phương thức trồng áp dụng trong dự án là phương thức trồng xen. Cây ba kích trong dự án được trồng xen với trà hoa vàng, cây ăn quả như cam, mít, ổi - giai đoạn kiến thiết. Cách làm này vừa tận dụng được tiềm năng đất đai, tăng hiệu quả sử dụng đất, tiện chăm sóc vừa lấy ngắn nuôi dài, tăng hiệu quả kinh tế thu được trên một đơn vị diện tích. Kết thúc giai đoạn kiến thiết cơ bản của cây ăn quả, cây trà thì cũng là lúc cây ba kích được thu hoạch.

Với diện tích 20ha (năm 2018 trồng 5ha; 2019 trồng 15ha), tỷ lệ sống đạt trên 90%, hiện cây ba kích đang sinh trưởng phát triển khỏe mạnh. Các hộ tham gia được hướng dẫn kỹ thuật làm giàn cho cây leo, chăm sóc bón phân và phòng trừ sâu bệnh hại cho cây. Người dân tiếp tục được dự án hỗ trợ 400 kg/ha phân NPK (5:10:3) để chăm sóc cây năm thứ 2 và thứ 3. Bà Nịnh Cắm Sáng, thôn Đồng Loóng, xã Thanh Lâm cho biết: Gia đình được hướng dẫn trồng xen cây ba kích với cây trà hoa vàng nên khi chăm sóc vườn gia đình chăm sóc cả hai loại cây một lúc, tiết kiệm được nhiều nhân công, nước tưới và phân bón. Cây giống đảm bảo nên khi trồng đạt tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng nhanh. Mô hình rất thích hợp với điều kiện đất đai và lao động tại địa phương.

Sự thành công bước đầu của mô hình có tác động lan tỏa tới phong trào trồng cây ba kích tại địa phương. Năm 2020, dự án không còn hỗ trợ trồng mới nhưng thấy được cách làm hiệu

quả của mô hình, được tuyên truyền thông qua các lớp tập huấn nhân rộng, các chuyến đi học tập, cán bộ và nhân dân địa phương thực hiện dự án đã tự đầu tư trồng cây ba kích trên diện tích vườn đồi, vườn rừng của gia đình. Năm 2020, nhu cầu đăng ký cây giống ba kích chất lượng, có nguồn gốc xuất xứ với Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật nông nghiệp huyện Ba Chẽ đã lên tới hàng vạn cây.

Đặc biệt, dự án thành lập các nhóm, tổ ký hợp đồng liên kết với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ như Công ty cổ phần rượu bia Thăng Long để thu mua sản phẩm đầu ra cho bà con khi thu hoạch. Củ ba kích được sử dụng chế biến sản phẩm rượu ba kích tím - sản phẩm OCOP của tỉnh. Đây bước đầu là mô hình về liên kết trong sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm, là nền tảng để phát triển rộng rãi hình thức này trong thời gian tới tại địa phương.

Định hướng phát triển ngành nông, lâm nghiệp tỉnh Quảng Ninh là chuyển đổi dần diện tích cây có giá trị kinh tế cao thay thế cây kém hiệu quả. Ba kích đã và sẽ là một trong những đối tượng được lựa chọn để mở rộng diện tích trồng ở các địa phương miền núi của tỉnh. Vấn đề quy hoạch vùng trồng, hệ thống cơ chế chính sách của tỉnh cơ bản đã đáp ứng yêu cầu phát triển cây ba kích. Nguồn giống đảm bảo chất lượng, có nguồn gốc, xuất xứ cũng được cung ứng sẵn ngay tại địa bàn trong tỉnh. Việc phát triển liên kết trong trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm với mục tiêu quản lý, kiểm soát tốt chất lượng từng khâu, đảm bảo hiệu quả và tính bền vững của liên kết tạo đòn bẩy để thúc đẩy phát triển sản xuất là việc làm thiết thực hiện nay./.

HOÀNG THỊ THẾ(Sở NN&PTNT)

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

12 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Thực hiện chương trình xây dựng NTM và xây dựng khu

dân cư kiểu mẫu, xã Vạn Ninh đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; thực hiện có hiệu quả phong trào "Toàn dân chung sức xây dựng NTM”; đa dạng hóa việc huy động nguồn lực xã hội hóa để xây dựng NTM. Trong gần 10 năm, tổng nguồn vốn thực hiện chương trình xây dựng NTM trên địa bàn xã đạt gần 62 tỷ đồng.

Từ năm 2018 đến nay, với mục tiêu xây dựng NTM nâng cao, đạt chuẩn NTM kiểu mẫu vào cuối năm 2020, tiến tới trở thành phường, Vạn Ninh tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Đến nay, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ chiếm 15%; tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 10%; nông nghiệp, thủy sản chiếm 60%, giảm bình quân 2%/năm. Lĩnh vực khác chiếm 15%.

Riêng đối với nông nghiệp, xã tập trung phát triển nông nghiệp và thủy sản gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình xây dựng NTM bền vững mà trọng tâm là triển khai thực hiện quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi.

Hiện nay, xã đã quy hoạch 4 vùng nuôi tôm tập trung với diện tích 348ha và quy hoạch 141ha nuôi ngao, nghêu tại bãi triều thôn Nam, 30ha nuôi cá lồng bè tại khu vực núi Đầu Sơn. Thực hiện nhân rộng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao theo tiêu chuẩn VietGAP, BioFloc đem lại hiệu quả kinh tế cao gắn với xây dựng thương hiệu OCOP của địa phương.

Tổng diện tích NTTS hàng năm bình quân đạt 364ha, sản lượng khai thác và NTTS bình

XÃ VẠN NINH VỚI MỤC TIÊU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAOVới sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong quá trình triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM), tháng 7/2018, xã Vạn Ninh (Móng Cái) đã được công nhận xã đạt chuẩn NTM năm 2017. Hiện nay, Vạn Ninh đang tập trung cho mục tiêu xây dựng xã NTM nâng cao với nhiều giải pháp quan trọng.

quân hàng năm đạt trên 6.000 tấn. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm đạt 482ha, trong đó diện tích lúa thâm canh, năng suất, chất lượng cao đạt gần 400ha.

Tổng sản lượng cây lương thực có hạt, bình quân hàng năm đạt trên 1.200 tấn. Giá trị sản xuất đạt 85 triệu đồng/ha. Xã tập trung phát triển đa dạng các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng bán công nghiệp đã tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, đảm bảo chất lượng và VSATTP.

Đặc biệt, xã luôn tạo điều kiện hỗ trợ nhân dân vay vốn đầu tư, mở rộng các loại hình kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh vận tải, buôn bán, phát triển nông nghiệp thông qua ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng Agribank…. Tổng dư nợ tín dụng các ngân hàng đến nay đạt hơn 60,8 tỷ đồng.

Cùng với đó, xã tập trung triển khai các quy hoạch đã được phê duyệt trên địa bàn, như: Quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 khu vực Vạn Ninh đã được UBND tỉnh phê duyệt; Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi tập trung đến năm 2030; Quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản tập trung giai đoạn 2030 tầm nhìn đến năm 2050; chú trọng công tác GPMB gắn với đầu tư đồng bộ hạ tầng giao thông kết nối với các công trình trọng điểm tạo động lực phục vụ phát triển

thương mại, dịch vụ gắn với xây dựng NTM theo hướng phát triển toàn diện, bền vững.

Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm xuống còn 0,17%. 100% đường trục xã đạt tiêu chuẩn cấp A; 100% đường trục thôn đạt tiêu chuẩn cấp B; 100% đường ngõ xóm đạt tiêu chuẩn cấp C; 100% đường nội đồng được cứng hoá đảm bảo nhu cầu đi lại, phát triển sản xuất của nhân dân; 17,6/23,61km kênh mương đã được kiên cố hóa.

Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt mức quy định của vùng là 100%. Cả 3 trường mầm non, tiểu học và THCS trên địa bàn đều đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống đài truyền thanh, loa không dây, truyền hình được phủ sóng đến 100% thôn trên địa bàn. 95% nhà ở đạt tiêu chuẩn.

Tỷ lệ người có việc làm trong độ tuổi lao động chiếm 98%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,6%; tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch đạt 99%. Đối với 2 thôn NTM kiểu mẫu cũng đã hoàn thành 10/10 tiêu chí, 33/33 nội dung.

Ông Nguyễn Đức Việt, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Vạn Ninh, cho biết: Trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Vạn Ninh tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí NTM. Xã chú trọng đến các tiêu chí đã đạt theo phương châm "Củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng", trong đó xã tiếp tục tập trung nâng cấp hệ thống đường giao thông, điện và nước sạch; tập trung thực hiện tốt các quy hoạch phát triển sản xuất. Phấn đấu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 65 triệu đồng/người/năm.

HỮU VIỆT(BQN)

Hiện nay 100% tuyến đường giao thông trục thôn và trục xã của Vạn Ninh đều đạt tiêu chuẩn, đảm bảo nhu cầu đi lại, phát triển sản xuất của nhân dân.

Nuôi tôm theo mô hình VietGAP tại trang trại của gia đình ông Bùi Văn Trình, thôn Đông, xã Vạn Ninh.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

13Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Khai thác lợi thế của địa phương, việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu trên địa bàn TX Đông Triều được gắn liền với xây dựng vườn mẫu. Trong ảnh: Vườn mẫu của gia đình chị Phạm Thị Liêm, thôn Phúc Thị, xã Việt Dân, TX Đông Triều.

Xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu:GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÙNG QUÊ ĐỔI MỚISau khi hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), Quảng Ninh đã bắt tay vào xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Trong đó, một trong những trọng tâm của chương trình đó là xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu, từ đó, góp phần thay đổi diện mạo khu vực nông thôn.

Với quan điểm trong xây dựng NTM người dân là

chủ thể, thực hiện, thụ hưởng, Quảng Ninh đã mạnh dạn sửa đổi, bổ sung, ban hành bộ tiêu chí tạm thời hộ gia đình NTM kiểu mẫu áp dụng trên địa bàn các thôn giai đoạn 2017-2020.

Thực tế tại xã Cẩm Hải, TP Cẩm Phả, đi trên con đường bê tông sạch sẽ, chúng tôi cảm nhận rõ nét về sự đổi thay của vùng quê này.

Được biết, ngay sau khi hoàn thành chương trình xây dựng NTM, xã đã bắt tay vào triển khai xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Trong đó, xã đã xác định xây dựng NTM kiểu mẫu là phải xây dựng từ chính các hộ gia đình, có như vậy ý thức của người dân mới được nâng cao. Do đó, xã đã tập trung vào việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu. Trên cơ sở đó, việc lựa chọn các hộ dân tham gia xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu được xã giao về cho các thôn.

Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn, Ban công tác Mặt trận của thôn tích cực tuyên truyền nội dung, ý nghĩa, hiệu quả của việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu để huy động người dân tích cực tham gia. Đồng thời, khảo sát, tìm hiểu, đánh giá những gia đình đáp ứng các tiêu chí cụ thể như: Có khuôn

viên đẹp, duy trì nếp sống văn hóa, thu nhập ổn định... Việc lựa chọn để xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu trên cơ sở tự nguyện đăng ký của người dân. Thôn, xã sẽ hướng dẫn các bước thực hiện xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu đảm bảo các tiêu chí như: Nhà ở đảm bảo 3 cứng, khuôn viên nhà được thiết kế phù hợp, gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa... Đến nay, toàn xã đã có 155/350 hộ gia đình NTM kiểu mẫu.

Gia đình ông Trương Văn Tần, thôn 3, xã Cẩm Hải, một trong số các hộ được công nhận hộ gia đình NTM kiểu mẫu, chia sẻ: Năm 2018, được sự vận động của thôn, xã, gia đình tôi đã làm lại hệ thống sân, vườn, cổng. Gia đình cũng tận dụng, cải tạo khoảng đất trước nhà để trồng hoa, cây xanh... tạo cảnh quan xanh - sạch - đẹp. Gia đình cũng thường xuyên vệ sinh sân, vườn, nhà; nâng cao thu nhập; tích cực tham gia các hoạt động của thôn, xóm. Nhiều năm qua, gia đình chúng tôi đều được công nhận là Gia đình văn hóa của xã.

Việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu không chỉ nâng cao ý thức cho các hộ dân trong việc duy trì thói quen giữ gìn nhà cửa sạch sẽ, xây dựng

môi trường sống xanh - sạch - đẹp, mà còn tạo động lực cho các hộ dân tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở thôn, xã. Qua đó, góp phần thay đổi diện mạo của khu vực nông thôn, xây dựng làng quê đáng sống, tăng cường mối đoàn kết của nhân dân trong thôn, xóm.

Hộ gia đình ông Trương Văn Tần, thôn 3, xã Cẩm Hải, TP Cẩm Phả, được công nhận là "Hộ gia đình NTM kiểu mẫu".

Khai thác lợi thế của địa phương, việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu trên địa bàn TX Đông Triều được gắn liền với xây dựng vườn mẫu.

Phát huy những kết quả của giai đoạn trước, thị xã tiếp tục thực hiện các giải pháp để huy động nguồn lực từ nhân dân trong việc thực hiện các hộ gia đình NTM kiểu mẫu nói riêng và chương trình xây dựng NTM nói chung.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

14 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Trong đó, từ thị xã đến các phường, xã đã thành lập tổ tư vấn, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu gắn với vườn mẫu. Bên cạnh đó, thị xã có cơ chế hỗ trợ, khen thưởng, động viên kịp thời. Từ đó, các hộ dân tại khắp các xã, phường hưởng ứng phong trào nhiệt tình thông qua việc sửa sang lại nhà cửa, chuồng trại chăn nuôi đảm bảo hợp vệ sinh, cải tạo vườn tạp, tận dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ tích cực triển khai mô hình phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho gia đình.

Cùng với đó, công tác vệ sinh môi trường đường làng, xóm, thôn cũng được người dân duy trì thành nền nếp theo tháng, quý. Đến nay, toàn thị xã có 395 hộ gia đình NTM kiểu mẫu. Có thể nói rằng, việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu từ mỗi gia đình đang dần làm cho cảnh quan khu vực nông thôn của TX Đông Triều ngày càng trở nên xanh - sạch - đẹp hơn.

Bà Nguyễn Thị Minh Tư, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn Phúc Thị, xã Việt Dân, TX Đông Triều, khẳng định: Việc xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu chính là khởi nguồn cho việc xây dựng NTM kiểu mẫu từ mỗi gia đình. Từ việc tham gia xây dựng hộ gia đình NTM kiểu mẫu, bản thân mỗi gia đình đều có ý thức hơn không chỉ trong chính ngôi nhà của mình, mà còn bảo vệ môi trường từ nhà ra ngõ, giúp cảnh quan xóm, làng đẹp hơn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp, góp sức xây dựng quê hương.

CAO QUỲNH(BQN)

Hạ tầng kinh tế - xã hội vùng nông thôn:ĐẢM BẢO NỀN TẢNG CHO PHÁT TRIỂNSau 10 năm triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), hạ tầng kinh tế - xã hội vùng nông thôn trên toàn tỉnh đã được các địa phương đặc biệt chú trọng bằng các giải pháp ưu tiên nguồn lực đầu tư, tăng cường công tác quản lý... Qua đó, góp phần xây dựng bức tranh nông thôn của tỉnh ngày càng khởi sắc, chất lượng đời sống người dân được nâng cao.

Trong bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016-

2020, nhóm hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm 8 tiêu chí: Giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, thông tin và truyền thông, nhà ở dân cư. Tương ứng với mỗi tiêu chí lại tiếp tục được quy định cụ thể thành từng nội dung để đánh giá kết quả thực hiện của cơ sở.

Theo số liệu thống kê, tổng hợp của Ban Xây dựng NTM tỉnh, đến hết 2019, có 3 tiêu chí là điện, cơ sở vật chất văn hóa, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn đã hoàn thành toàn bộ các nội dung theo quy định trước 1 năm so với kế hoạch dự kiến đề ra.

Đối với các tiêu chí còn lại cũng đều đã được các xã hoàn thành trên 90% nội dung. Điển hình như 98,2% xã đạt chuẩn về tiêu chí hạ tầng thương

Nhà văn hóa thôn Bản Pạt, xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu) được đầu tư xây mới khang trang, phục vụ tốt sinh hoạt cộng đồng.

Nhờ có hệ thống điện, đường giao thông đảm bảo đã phục vụ tốt việc nuôi trồng thủy sản của người dân xã Hoàng Tân (TX Quảng Yên).

mại nông thôn, đảm bảo nhu cầu trao đổi, buôn bán của người dân; 101/111 xã hoàn thành tiêu chí trường học các cấp (mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS) có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia.

Cùng với đó, toàn bộ các xã đều đã có trục đường xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; có hệ thống thủy lợi được cải tạo, nâng cấp, đáp ứng yêu cầu sản xuất, sinh hoạt, phòng chống thiên tai. Các khu dân cư được phủ điện lưới quốc gia, phủ sóng viễn thông, Internet và sóng truyền hình tỉnh...

Đây là những kết quả có được từ sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Ngay từ cuối năm 2011, 100% xã đã được phê duyệt quy hoạch và đề án xây dựng NTM theo đúng điều kiện thực tế.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

15Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Trạm Y tế xã Bình Khê (Đông Triều) được đầu tư trên 5 tỷ đồng để nâng cấp toàn bộ cơ sở vật chất, đưa vào sử dụng tháng 2/2019.

Quảng Ninh lúc đó đã trở thành tỉnh đầu tiên trên cả nước hoàn thành công tác quy hoạch xây dựng NTM. Từ định hướng chung, các địa phương tiếp tục rà soát, đề xuất được điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch cấp xã theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của giai đoạn mới.

Đơn cử như cách làm của Tiên Yên, đó là tập trung làm tốt các công tác quy hoạch NTM, quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn, tạo nền tảng để hoàn thiện về không gian phát triển, kết nối, mở rộng các nguồn lực đầu tư phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Riêng năm 2019, huyện đầu tư 52 công trình, gồm 3 nhà văn hóa, 1 trạm xử lý ô nhiễm môi trường cùng hàng loạt các dự án giao thông, thủy lợi... Tổng mức đầu tư các công trình trên 34 tỷ đồng, bao gồm 23 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước hỗ trợ và 11 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa.

Các công trình được xây dựng, nâng cấp khang trang, rộng rãi, tiện nghi đã góp phần tạo điều kiện để thực hiện có hiệu quả các tiêu chí khác.

Điểm trường Tầm Tố ở xã Quảng Phong (huyện Hải Hà) được đầu tư khang trang, đầy đủ trang thiết bị dạy học cho trẻ em vùng khó khăn.

Cán bộ điện lực Bình Liêu kiểm tra lắp đặt hệ thống pin mặt trời, sẵn sàng đưa vào vận hành, cung cấp điện sinh hoạt cho 200 hộ dân thôn Co Tăng, xã Đồng Tâm vào tháng 1/2019.

Ảnh: Minh Đức

Như việc có nơi sinh hoạt cộng đồng thuận lợi, người dân tích cực hơn trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ở nơi cư trú.

Khi đường thôn, ngõ xóm rộng rãi, được trồng hoa, cây xanh tươi tốt quanh năm cũng đã tác động đến nhận thức, ý thức chung của người dân về gìn giữ vệ sinh môi trường, thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh, tham gia xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Làng, khu phố văn hóa”... Vệ sinh môi trường nông thôn có nhiều tiến bộ, cơ bản khắc phục những tập quán sinh hoạt lạc hậu ở một số vùng sâu, vùng xa.

Nhờ làm tốt ngay từ khâu điều tra, khảo sát chính xác nhu cầu thực tế trước khi tiến hành đầu tư xây dựng, nên các địa phương đều nhận được sự đồng thuận cao, hưởng ứng, hỗ trợ của nhân dân; nhìn chung đã tránh được tình trạng lãng phí tiền của của Nhà nước, nhân dân.

Việc ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất lao động, cải thiện mức thu nhập của người dân cũng thuận tiện hơn khi có hệ thống điện, đường, thủy lợi được đầu tư. Hay như việc đầu tư cho các điểm trường học với đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị theo chuẩn cũng góp phần vào sự chuyển biến tích cực, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục của từng xã. Cơ sở vật chất y tế được tăng cường đầu tư, đáp ứng cơ bản công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân...

Tuy nhiên, cùng với việc đầu tư xây dựng, công tác vận hành, quản lý, bảo dưỡng các công trình sau đầu tư cũng cần được chú trọng, nhằm đáp ứng đúng mục tiêu đề ra. Trong đó, ý thức, trách nhiệm cho cộng đồng đóng vai trò quan trọng, góp phần giữ vững và nâng cao các tiêu chí đã đạt được thời gian qua. Thực tế tại nhiều nơi, nội dung này đã được cụ thể hóa vào quy ước, hương ước chung của cộng đồng, trở thành phong trào thi đua, phong trào quần chúng sôi nổi.

Việc đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng được thực hiện tốt đã và đang góp phần tạo nền tảng cơ bản, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, cũng như cả tỉnh trong thời gian tới.

HOÀNG GIANG(BQN)

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

16 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Tuyến đường xanh, sạch, đẹp liên xã Quảng Tân (huyện Đầm Hà) được đầu tư từ chương trình xây dựng NTM năm 2019.

Đầm Hà là huyện miền núi còn nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Việc bảo vệ môi trường, nhất là môi trường nông thôn luôn được huyện quan tâm triển khai theo mục tiêu phù hợp với điều kiện của địa phương.

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở ĐẦM HÀ: NHỮNG VIỆC LÀM THIẾT THỰC

Để công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường đạt

hiệu quả, Đầm Hà đặc biệt coi trọng việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới các tầng lớp nhân dân dưới nhiều hình thức. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng phương án bảo vệ tài nguyên, môi trường phù hợp với thực tế địa phương, như: Nghị quyết về một số cơ chế hỗ trợ xây mới, di chuyển chuồng trại và nhà tiêu hợp vệ sinh; Quy hoạch bảo vệ môi trường huyện Đầm Hà đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; xây dựng và triển khai thực hiện tốt kế hoạch bảo vệ môi trường gắn với nhiệm vụ phát triển KT-XH của huyện.

kỹ lưỡng và phải hoàn thiện hồ sơ môi trường trước khi đưa vào hoạt động. Toàn huyện có 569/569 cơ sở sản xuất, kinh doanh, nuôi trồng thủy sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, đăng ký cam kết bảo vệ môi trường.

Đồng thời, huyện Đầm Hà còn đặc biệt quan tâm đến công tác phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn. 100% dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn huyện đều được các cơ quan chuyên môn tiến hành họp thẩm định, nghiên cứu

Thu hoạch sản phẩm dưa, sản xuất dưa lưới an toàn theo công nghệ cao của Công ty CP Thương mại và Xây dựng Đầm Hà tại thôn Tân Thanh, xã Quảng Tân, huyện Đầm Hà. (Ảnh chụp tháng 10/2019.)

Toàn huyện đã thực hiện được 15,12km trục đường cây bóng mát, 14,4km trục đường trồng các loại hoa, 8,47km trục đường trồng hàng rào xanh; treo 103 pano, áp phích, khẩu hiệu; xây dựng 12 tuyến đường trục thôn dài 10,383km, 26 tuyến đường ngõ xóm dài 4,38km, 5 tuyến đường nội đồng dài 1,572km, 3 công trình thủy lợi dài 1,986km; 2 công trình rãnh nước thải dài 0,3km; tổ chức thắp điện chiếu sáng được 10,76km trục đường…

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

17Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Việc xây dựng NTM tiếp tục được huyện thực hiện

đồng bộ, trong đó chú trọng tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững, sản xuất hàng hóa ở trình độ công nghệ cao, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Đi cùng với đó là thực hiện tốt chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm”.

Chủ động, sáng tạo trong xây dựng NTM

Theo số liệu của UBND huyện Tiên Yên, thời điểm cuối năm 2019, huyện đã có 11/11 xã đạt chuẩn NTM; xây dựng 61 thôn đạt chuẩn NTM; có 28 vườn đạt chuẩn NTM; xây dựng 10.510 hộ gia đình đạt gia đình kiểu mẫu.

Để có được kết quả này, trong suốt những năm vừa qua, huyện Tiên Yên đã chỉ đạo, thực hiện sát sao, quyết liệt, dành sự quan tâm, nguồn lực lớn cho các xã trong lộ trình và các xã đăng ký đạt chuẩn NTM trong từng năm.

Bên cạnh đó, các xã trên địa bàn huyện cũng ngày càng chủ động hơn, có phương pháp, cách làm sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn vốn xây dựng NTM. Nhiều thôn đã tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong xây dựng thôn đạt chuẩn NTM, xây dựng vườn mẫu, hộ gia đình kiểu mẫu.

Từ đó, nhận thức của nhân dân trên địa bàn huyện đã được thay đổi. Nếu như trước đây là trông chờ, ỷ lại thì nay người dân đã chuyển sang tự nguyện, tự giác chấp hành. Thay vì yêu cầu Nhà nước phải bồi thường, nay nhiều người dân tự nguyện hiến tặng tài sản, chủ động đề xuất những việc cần làm vì lợi ích cộng đồng, chỉnh trang

Đến nay, Đầm Hà đã hỗ trợ 1.792 hộ dân nông thôn di chuyển kết hợp xây mới 2.152 công trình chuồng trại chăn nuôi, nhà tiêu hợp vệ sinh. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98,5%; 9/9 xã đạt chỉ tiêu nước hợp vệ sinh; 7/9 xã đạt chỉ tiêu nước sạch.

Huyện đẩy mạnh phong trào “3 sạch”, “Ngày chủ nhật xanh” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “Chống rác thải nhựa”… Từ năm 2019 đến nay, các xã, thị trấn đã tiến hành tổ chức thi công các công trình hạ tầng nông thôn, tiếp tục trồng cây xanh, hoa, cây bóng mát, kéo điện, lắp đèn, trang trí cảnh quan môi trường nông thôn.

Chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất, kinh doanh được thu gom, xử lý theo quy định. Trên địa bàn huyện có 1 công trình xử lý rác thải, thường xuyên được cải tạo, nâng cấp; tại địa bàn các xã đã lắp đặt 524 bể chứa bao gói thuốc thực vật sau sử dụng.

Thành lập 36 tổ thu gom rác thải với trên 100 thành viên thu gom rác cho 66/66 thôn, bản; các tổ thu gom rác thải tổ chức thu gom 2 buổi/tuần đến khu tập kết có xe chuyên dụng

Công nhân Trung tâm Thủy lợi - Giao thông và Môi trường Đầm Hà xử lý rác thải chôn lấp tại bãi rác xã Dực Yên.

vận chuyển đến nơi xử lý rác thải của huyện. Trạm Y tế xã đã tổ chức phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn theo quy định của Bộ Y tế, ký kết hợp đồng vận chuyển với Công ty CP Công nghệ môi trường An Sinh tại 9/9 xã...

Cùng với công tác bảo vệ môi trường, cấp ủy, chính quyền các địa phương, ngành chức năng của huyện Đầm Hà đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước...

Riêng đối với lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, huyện đã tập trung chấn chỉnh công tác quản lý, khai thác và sử dụng; thường xuyên kiểm tra hoạt động khai thác, vận chuyển khoáng sản trên địa bàn, qua đó kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các sai phạm của tổ chức, cá nhân... Từ năm 2014 đến nay, huyện Đầm Hà đã xử lý vi phạm hành chính đối với 9 trường hợp liên quan đến khai thác, vận chuyển, kinh doanh cát, sỏi, đất sét, đất san lấp mặt bằng…

TRUNG THÀNH(BQN)

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

18 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

TIÊN YÊN:

NÂNG "CHẤT" TRONG XÂY DỰNG NTMBước sang năm 2020, chương trình xây dựng NTM được huyện Tiên Yên thực hiện theo hướng nâng cao về "chất", góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn.

Diện mạo NTM tại xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên ngày càng khang trang, sạch đẹp. Ảnh: Xuân Thao (CTV). (Ảnh chụp tháng 2/2020.)

đường làng, ngõ xóm, trồng hàng rào xanh, cây bóng mát, vệ sinh môi trường, nhà cửa.

Công nhân đang thi công công trình xây dựng vườn hoa, cây cảnh tại xã Đông Hải, huyện Tiên Yên. (Ảnh chụp tháng 2/2020.)

Với luồng gió của xây dựng NTM, kết cấu hạ tầng nông thôn tại đây cũng được tăng cường đầu tư xây dựng, góp phần thúc đẩy giao thương hàng hóa. Chất lượng và số lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao, đem lại thu nhập tốt hơn cho người dân. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 của huyện đạt 44 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 1,17%.

Mặc dù đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận song chương trình xây dựng NTM của huyện vẫn còn một vài hạn chế như: Tiến độ triển khai thực hiện xây dựng thôn đạt chuẩn, vườn đạt chuẩn NTM còn chậm; một số sản phẩm chủ lực của địa phương phát triển mạnh về số lượng tuy nhiên chưa có giải pháp gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến có những lúc sản phẩm bị tồn đọng...

Đặc biệt, nhiều hợp tác xã được thành lập nhưng tổ chức bộ máy thiếu chặt chẽ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; một số tiêu chí mới đạt ở mức tiệm cận, chưa mang tính bền vững và có nguy cơ tụt tiêu chí.

Năm 2020 phấn đấu huyện đạt chuẩn NTM

Trên cơ sở nhận thức rõ được những khó khăn, thách thức nói trên, năm 2020, huyện Tiên Yên đã đặt ra mục tiêu phải nâng "chất" trong xây dựng NTM. Theo ông Hà Hải Dương, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện, năm nay, Tiên Yên đề ra mục tiêu phấn đấu huyện đạt chuẩn NTM; phấn đấu xây dựng 3 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu (Đông Hải, Đông Ngũ, Tiên Lãng); 3 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (Yên Than, Hải Lạng, Đồng Rui); xây dựng thêm 30 thôn đạt chuẩn NTM; duy trì 28 vườn đạt chuẩn NTM.

Trong chương trình OCOP, huyện Tiên Yên đặt mục tiêu phát triển thêm 2 sản phẩm theo chu trình OCOP chuẩn; phấn đấu 2 sản phẩm đạt 3 sao trở lên, 1 sản phẩm OCOP chủ lực sản xuất theo chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn; hoàn chỉnh bao bì mẫu mã chuẩn đối với 7 sản phẩm đã đạt sao; tham gia các hội chợ thương mại do tỉnh và Trung ương tổ chức.

Công trình cải tạo hệ thống kênh mương tại xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên. Ảnh: Xuân Thao (CTV). (Ảnh chụp tháng 2/2020.)

Để có thể đạt được những mục tiêu này, huyện Tiên Yên đang tiếp tục rà soát hoàn thiện các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Mặt khác, huyện huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa, lồng ghép các nguồn vốn nông thôn mới, vốn từ Chương trình 135, ngân sách huyện... để xây dựng hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng; chỉ đạo sát sao việc nâng cấp hệ thống giao thông trục xã, liên xã, trục thôn, liên thôn; thường xuyên tu bổ, cải tạo, nạo vét các tuyến mương; nâng cấp, trang sắm thiết bị cho nhà văn hóa các xã...

Tin rằng, với nhiều biện pháp thiết thực, đồng bộ, diện mạo NTM tại huyện Tiên Yên sẽ từng bước thay đổi, theo hướng nâng cao về "chất", đúng như quyết tâm huyện đề ra.

LAN ANH(BQN)

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

19Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

GIẢI BÀI TOÁN TÁI ĐÀN LỢN SAU BỆNH DỊCH TẢ LỢN CHÂU PHI

Việc tái đàn lợn trong thời gian này là cần thiết nhằm

từng bước tháo gỡ khó khăn cho người chăn nuôi, nhất là góp phần cân đối nguồn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Dù vậy, cần quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc tái đàn, tránh tâm lý nóng vội, tự ý tái đàn tràn lan. Rõ ràng đây đang là bài toán khó đặt ra cho rất nhiều các tỉnh thành trên cả nước.

Thực hiện các quy định của Luật Thú y 2015; Luật Chăn nuôi 2018; Văn bản số 13/BCĐDTLCP ngày 19/02/2020 của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch tả lợn Châu Phi về việc tái đàn trong chăn nuôi lợn và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT; Tại cuộc họp ngày 02/3/2020 UBND tỉnh chỉ đạo khôi phục sản xuất, phát triển chăn nuôi lợn an toàn sinh học; duy trì ổn định phát triển chăn nuôi gia cầm; gia súc ăn cỏ để chủ động nguồn cung thực phẩm và kiểm soát tốt được dịch bệnh. Các địa phương cần xây dựng kế hoạch tái đàn lợn, phát triển sản xuất chăn nuôi với chủ trương, mục tiêu: Không tái đàn lợn một cách ồ ạt, tái đàn lợn phải theo lộ trình, có sự kiểm soát về dịch

bệnh; tái đàn chăn nuôi lợn phải đạt hiệu quả kinh tế và không để tái phát bệnh DTLCP. Cụ thể:

Tập trung phát triển đàn lợn nái giống nội, giống ngoại đảm bảo chất lượng phẩm cấp giống để chủ động nguồn cung con giống tại chỗ; phát triển đàn lợn thịt và đẩy mạnh sản xuất các loại vật nuôi khác, phát huy lợi thế, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh để giữ mức tăng trưởng ngành ổn định 3-5% và cân đối thị trường thực phẩm.

Về nguồn cung giống lợn: Dự kiến nhu cầu về giống lợn của địa phương, khả năng cung ứng giống tại chỗ theo từng quý, năm để có kế hoạch đăng ký giống lợn với các công ty sản xuất giống lợn trong và ngoài tỉnh; tuân thủ nghiêm túc quy định về kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc và xét nghiệm âm tính đối với bệnh dịch tả lợn Châu Phi theo Hướng dẫn số 4249/HD-BNN-TY ngày 18/6/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về kiểm soát vận chuyển lợn để nuôi làm giống, nuôi thương phẩm trong và ngoài vùng có bệnh DTLCP;

Đối với cơ sở nuôi tái đàn thực hiện nghiêm túc các

bước nuôi tái đàn lợn theo văn bản số 13/BCĐDTLCP ngày 19/12/2019 của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch tả lợn Châu Phi về việc tái đàn trong chăn nuôi lợn; Chủ cơ sở nuôi phải thực hiện kê khai, đăng ký nuôi với chính quyền cơ sở trước khi tái đàn và được chấp thuận. Các cơ sở chăn nuôi không đảm bảo điều kiện an toàn sinh học, tự ý tái đàn khi xảy ra dịch bệnh sẽ không nhận được hỗ trợ từ ngân sách.

Công tác tái đàn lợn, phát triển đàn lợn đảm bảo cân bằng cung cầu. Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở chăn nuôi lớn có điều kiện đảm bảo an toàn sinh học được tái đàn và phát triển hết công suất đàn lợn tại địa phương. UBND tỉnh giao Sở NN&PTNT (Chi cục Chăn nuôi và Thú y) phối hợp với các Công ty sản xuất giống (Công ty CPKTKS Thiên Thuận Tường, Công ty Minh Châu, Công ty CPNN Tuấn Long, Công ty TNHH 1TV NLN) và Trung tâm truyền thông tỉnh xây dựng nội dung tuyên truyền hướng dẫn chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và lựa chọn con giống sạch bệnh phục vụ tái đàn.

TRẦN THỊ THẮM(Sở NN&PTNT)

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi xuất hiện trên địa bàn tỉnh từ ngày 08/3/2019 tại thôn Đức Sơn, xã Yên Đức, thị xã Đông Triều, tính đến ngày 01/01/2020, bệnh dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 15.736 hộ/968 thôn, khu/162 xã, phường/14 huyện, thị xã, thành phố với: 144.670 con lợn ốm, chết và buộc phải tiêu hủy (chiếm 38,85% tổng đàn) tương đương trọng lượng tiêu hủy: 7.034,853 tấn. Theo đó ngay từ những tháng cuối năm 2019 trên địa bàn tỉnh giá thịt lợn hơi tăng cao, có thời điểm lên 80.000 - 85.000 đồng/kg lợn hơi mức cao nhất trong nhiều năm qua. Ảnh minh họa.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

20 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Tiên Lãng xây dựng NTM nâng cao trong bối cảnh

nhiều thuận lợi: Được công nhận đạt chuẩn NTM năm 2017, nhân dân đồng thuận, đoàn kết, tin tưởng.

Một trong những tiêu chí xây dựng NTM nâng cao được đánh giá cao ở Tiên Lãng chính là phát triển sản xuất gắn liền với phát triển các HTX, liên kết chuỗi.

Theo ông Hà Anh Trọng, Phó Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch UBND xã Tiên Lãng, đến nay, địa phương đã xây dựng được quy hoạch nuôi gà Tiên Yên số lượng 15.000 con/năm tại 8/8 thôn, vùng nuôi 35ha tại thôn Cống To và Cái Mắt và 10ha diện tích trồng dược liệu dưới tán rừng Cái Mắt. Đồng thời, xã duy trì phát triển đàn ong mật, dê, bò, trâu, trồng rau an toàn. Đây là những sản phẩm thế mạnh của địa phương.

Trong việc phát triển các sản phẩm OCOP, địa phương cũng đã có sản phẩm đạt 3 sao, 4 sao. Đó là: Mật ong của HTX nuôi chế biến mật ong Tiên Yên đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao; khâu nhục của cơ sở Đinh Tiến Dũng đạt tiêu chuẩn 4 sao.

Năm 2017, Tiên Lãng được công nhận đạt chuẩn NTM, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 37,4 triệu đồng/người/năm. Đến năm 2019, con số này đã là 49 triệu đồng/người/năm, cao hơn 4,6 triệu đồng so với chỉ tiêu thu nhập trong bộ

XÃ TIÊN LÃNG PHẤN ĐẤU VỀ ĐÍCH NTM NÂNG CAO

Với mục tiêu “Sản xuất phát triển - diện mạo sạch đẹp - cuộc sống sung túc - thôn xóm văn minh - quản lý dân chủ”, xã Tiên Lãng (huyện Tiên Yên) xác định hoàn thành xã đạt chuẩn NTM nâng cao là nhiệm vụ quan trọng năm 2020. Để đạt được điều đó, xã đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Người dân thực hiện thủ tục hành chính tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại xã Tiên Lãng, ngày 30/3/2020.

Tranh tường được vẽ bởi ĐVTN, hội viên các đoàn thể trên địa bàn xã từ cuối năm 2019, tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp.

Đường làng, ngõ xóm trên địa bàn xã Tiên Lãng (huyện Tiên Yên) đều được bê tông hóa. 7/8 thôn có cổng chào, được xây từ nguồn xã hội hóa.

tiêu chí xây dựng NTM nâng cao. Toàn xã chỉ còn 9/1.762 hộ nghèo (bằng 0,5%), 33 hộ cận nghèo, bằng 1,84%. Có thể thấy, chương trình xây dựng NTM đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo nông thôn ở vùng quê này.

Tiên Lãng đã đạt 8/8 tiêu chí, 27/27 chỉ tiêu, đủ điều kiện để được công nhận xã NTM nâng cao vào năm 2020. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, trong lộ trình xây dựng NTM kiểu mẫu sau này, với những yêu cầu khắt khe hơn, tiêu chuẩn cao hơn, Tiên Lãng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, mạnh tay hơn nữa.

Đến nay, toàn xã mới có 65,78% hộ dân được sử dụng nước sạch. Thôn Cái Mắt và thôn Thủy Cơ do cách xa trung

Năm 2017, Tiên Lãng được công nhận đạt chuẩn NTM, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 37,4 triệu đồng/người/năm.Đến năm 2019, đã đạt 49 triệu đồng/người/năm, cao hơn 4,6 triệu đồng so với chỉ tiêu thu nhập trong bộ tiêu chí xây dựng NTM nâng cao.

Đến Tiên Lãng hôm nay, trên con đường bê tông rộng rãi, trải dài từ chân đập tràn đến các thôn xóm, mới thấy được sự đổi thay tích cực của nơi này.

Toàn bộ 8/8 thôn đã được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng, biển báo ATGT, gờ giảm tốc qua các điểm giao cắt. Ngay cả thôn Cái Mắt là một trong 2 thôn khó khăn nhất, xa trung tâm nhất, cũng đã được lắp đặt mới hệ thống điện chiếu sáng toàn bộ các trục đường của xã với tổng chiều dài là 13,8km.

Toàn xã hiện có 5 hồ chứa nước ngọt, 8 cống ngăn mặn dưới đê, 11,4km kênh mương, 5,3km đê được kiên cố hóa, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu trên 276ha đất nông nghiệp.

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

21Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Đến thôn Hải An, xã Quảng An, hỏi chị Nguyễn Thị Liễu thì hầu hết mọi người đều biết, bởi đây là một trong những hội viên phụ nữ tiên phong của xã trong phát triển kinh tế trang trại. Chị thực sự là một trong những bông hoa xinh đẹp giữa đời thường, biểu trưng cho ý chí, nghị lực vượt khó vươn lên trong cuộc sống.

CHỊ LIỄU LÀM KINH TẾ GIỎI

Đến thăm mô hình kinh tế tổng hợp của chị Nguyễn

Thị Liễu chúng tôi thực sự khâm phục trước cơ ngơi rộng lớn được gây dựng từ nghị lực vượt khó và quyết tâm của người phụ nữ này. Sinh năm 1969, quê gốc ở Hải Phòng, cuộc sống của chị Liễu không may mắn khi chồng mất sớm, một mình chị phải gánh vác bao khó khăn, vất vả khi kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn, các con còn nhỏ. Chị chia sẻ: "Không thể cứ chìm trong đau khổ khi mất đi chỗ dựa lớn nhất của mấy mẹ con. Các con giờ còn thiệt thòi hơn trước nên tôi càng phải quyết tâm, nỗ lực, cố gắng nhiều hơn”.

Với số vốn ít ỏi ban đầu của gia đình chị đầu tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi gà và trồng một số loại cây ăn quả như ổi, nhãn, mít... Những năm đầu do chưa có nhiều kinh nghiệm, chủ yếu chăn nuôi theo hướng truyền thống nên hiệu quả kinh tế không cao. Nhưng với đức tính cần cù, chịu khó, chị Liễu tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ người đi trước, trên sách, báo và thông qua các lớp tập huấn. Từ đó, chị mạnh dạn áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào khâu chọn giống, chăm

sóc, phòng trừ dịch bệnh. Đến nay, quy mô trang trại tổng hợp của chị đã phát triển thêm 500 con gà, ao nuôi cá rô phi và các loại cây ăn quả theo mùa đang vươn lên xanh tốt. Trừ mọi chi phí mỗi năm mô hình cho thu nhập trên 200 triệu đồng.

mạnh dạn làm theo và áp dụng các mô hình trồng trọt, sản xuất đạt hiệu quả tốt.

Chị Hoàng Mỹ Linh, Chủ tịch Hội LHPN huyện nhận xét: “Chị Nguyễn Thị Liễu là một tấm gương điển hình về đức tính cần cù, sáng tạo phát triển kinh tế, tích cực tham gia các phong trào do Hội Phụ nữ phát động, đặc biệt, chị luôn giúp đỡ các hội viên phụ nữ khó khăn, được chị em tin tưởng, quý mến. Thời gian tới, Hội LHPN huyện sẽ nhân rộng những mô hình kinh tế hiệu quả như chị Liễu, góp phần giúp chị em phụ nữ thoát nghèo, nâng cao thu nhập, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương”.

CTV. MINH HẢI(TTTTVH huyện Đầm Hà)

Chị Nguyễn Thị Liễu tấm gương điển hình về nghị lực vượt khó, vươn lên phát triển kinh tế.

Ao nuôi cá mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Nhiều năm liền chị được các cấp Hội biểu dương, khen thưởng.

Bà Nguyễn Thị Mai, thôn Thác Bưởi 2, xã Tiên Lãng, rửa rau bằng nguồn nước sạch được cấp đến từng hộ gia đình. (Ảnh chụp đầu tháng 3/2020.)

tâm đến trên 10km, dân cư thưa thớt nên hiện mới chỉ dùng nước giếng khoan, nước suối để sinh hoạt. Toàn xã có 7/8 thôn đã có hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý rác cho 74% hộ gia đình trên địa bàn. Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cũng là một trong những khó khăn của xã khi thực hiện tiêu chí về môi trường.

Với những kết quả đã đạt được, Tiên Lãng tự tin là một trong 3 xã trên địa bàn huyện Tiên Yên sẽ được công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao trong năm 2020. Đây là kết quả từ những nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân.

HẰNG NGẦN(BQN)

Từ kinh nghiệm thành công của mô hình kinh tế, chị Liễu không ngần ngại chia sẻ những kinh nghiệm hay, những cách làm hiệu quả trong sản xuất với bà con nhân dân trong thôn, trong xã, để họ tích cực trong phát triển kinh tế, tham gia chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng mô hình mới, góp phần đẩy mạnh các phong trào, mô hình do phụ nữ đảm nhiệm trong thôn... Nhờ thế, nhiều chị em trong thôn đã

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

22 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Trước thực trạng nông sản trên địa bàn tồn đọng với số lượng lớn, các đơn vị, doanh nghiệp, người dân đã cùng chung tay, hỗ trợ tiêu thụ. Tuy nhiên, đó chỉ là giải pháp tạm thời. Để nông sản mở rộng thị trường tiêu thụ và có đầu ra ổn định, rất cần có giải pháp căn cơ...

GỠ KHÓ TIÊU THỤ NÔNG SẢNBÀI 2: CẦN NHỮNG GIẢI PHÁP CĂN CƠ

"Giải cứu" nông sản chỉ là giải pháp tình thế

Trong thời điểm nông dân gặp khó khăn do tiêu thụ nông sản, TKV có 14 đơn vị đăng ký tham gia kết nối và hỗ trợ tiêu thụ cho các cơ sở nuôi trồng đang gặp khó khăn. Cụ thể, đến thời điểm này, các đơn vị của TKV đã hỗ trợ tiêu thụ hơn 11 tấn hàu, ngao hai cùi; ước tính trong tháng 3/2020 tiêu thụ gần 30 tấn nhuyễn thể. Bên cạnh đó, các đơn vị ngành Than đều có chương trình phối hợp, ký hợp đồng thu mua nông sản từ các địa phương trong tỉnh với tổng tiền giao dịch gần 850 tỷ đồng/năm.

Không chỉ ngành Than, các đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh cũng tích cực vào cuộc, tháo gỡ khó khăn cho những cơ sở sản xuất nông sản trên địa bàn. Cụ thể, Công đoàn Viên chức Quảng Ninh đã vận động đoàn viên các công đoàn cơ sở tham gia tiêu thụ trứng gà Tân An - một trong những sản phẩm OCOP Quảng Ninh. Chỉ trong ngày đầu triển khai, Công đoàn Viên chức tỉnh đã hỗ trợ tiêu thụ gần 40.000 quả trứng gà, với giá 2.000 đồng/quả. Bên cạnh đó, hơn 3,5 tấn nhuyễn thể gồm hàu Thái Bình Dương, ngao hai cùi đã được cán bộ, công chức, người lao động của Cục Hải quan Quảng Ninh mua ủng hộ với tổng trị giá 135 triệu đồng.

Cùng với sự ủng hộ của các đơn vị trong tỉnh, Trung tâm Xúc tiến thương mại (Sở Công Thương) đã phối hợp với Công ty TNHH Thủy sản và Thương mại Quảng Ninh đẩy mạnh việc tiêu thụ trong nhân dân, thông qua chương trình “Xúc tiến lưu động đẩy mạnh tiêu thụ hàu,

ngao Vân Đồn” tại các chợ trung tâm, truyền thống trong, ngoài tỉnh Quảng Ninh.

Theo ông Vũ Bình Minh, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, chỉ trong một buổi sáng ngày 14/3, hơn 1,5 tấn hàu Thái Bình Dương, ngao hai cùi đã được vận chuyển từ Vân Đồn đến chợ Trung tâm Uông Bí và được người dân tiêu thụ ngay trong ngày, với giá 40.000 đồng/kg ngao, 25.000 đồng/kg hàu. Từ 15-25/3, chương trình tiếp tục được tổ chức tại các chợ trung tâm và chợ truyền thống ở TX Đông Triều và các tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội.

Việc "giải cứu" nông sản là cần thiết trong thời điểm khó khăn hiện nay, giúp người nông dân giảm phần nào thiệt hại trong sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, phương án này chỉ mang tính tình thế và không mang hiệu quả lâu dài cho sản xuất và xuất khẩu nông sản. Thực tế cho thấy, không phải chỉ đến khi những ảnh hưởng của dịch Covid-19 mới dẫn đến ùn ứ, dư thừa nông sản mà trong nhiều năm qua, việc “giải cứu” nông sản đã diễn ra ở nhiều nơi, nhiều thời điểm khác nhau khiến biện pháp giải quyết đầu ra cho nông sản thông qua “giải cứu” đã trở

Cục Hải quan Quảng Ninh tiêu thụ hơn 3,5 tấn nhuyễn thể, hỗ trợ người dân.

Ảnh: Hải Hà

nên quen thuộc. Thực tế, người nông dân vẫn chịu thiệt hại nặng nề do giá bán sản phẩm không bù đắp nổi chi phí sản xuất.

Theo các chuyên gia kinh tế, việc "giải cứu" nông sản có thể giúp doanh nghiệp, người dân giải quyết tồn đọng trước mắt. Nhưng về lâu dài, lại là một tiền lệ xấu khiến giá thành thấp hơn so với giá trị sản phẩm, tạo tâm lý chủ quan, dựa vào việc giải cứu mà không chủ động tìm kiếm thị trường của một số hộ sản xuất. Không những thế, chính người dân cũng sẽ bị “nhàm chán” khi phải giải cứu nông sản liên tục, không có niềm tin vào chất lượng sản phẩm. Đây là tâm lý tiêu dùng rất nguy hiểm, ảnh hưởng lớn đến thương hiệu các mặt hàng nông sản.

Tính kế đường dàiĐể hỗ trợ cho tiêu thụ sản

phẩm nông sản trên địa bàn tỉnh, liên tục những ngày vừa qua, Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có các cuộc làm việc với các đơn vị ngành Than, các doanh nghiệp, các trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh. Theo đó, định hướng thay đổi, bổ sung các sản phẩm nông nghiệp của Quảng Ninh vào bữa ăn ca cho công nhân; đưa nông sản vào các chuỗi siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn và ngoài tỉnh…

Theo ông Nguyễn Văn Công, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, Sở đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm tập trung tiêu thụ các mặt hàng nông sản có sản lượng lớn. Trong đó, chủ động tổ chức các hội nghị kết nối giao thương cung cầu giữa các cơ sở sản xuất với các đơn vị tiêu thụ, phân phối trong và ngoài tỉnh; tổ chức hội nghị hướng dẫn quy định của thị trường Trung Quốc đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam cho các cơ sở sản xuất, chế biến xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, cập nhật thông tin truy xuất nguồn gốc, kết nối cung cầu về nông

OCOP - MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM

23Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Sản phẩm được huyện Hải Hà tập trung xây dựng thương

hiệu OCOP phải kể đến chè, bởi cây chè tồn tại ở mảnh đất này hơn 50 năm, mang lại giá trị kinh tế cho rất nhiều gia đình bao đời nay. Để nâng cao chất lượng sản phẩm chè, với sự vận động của huyện, người dân đã thay thế dần chè trung du lá nhỏ bằng những giống chè có chất lượng cao hơn, như: Chè lai LDP1, chè Ô Long, Phúc Vân Tiên, Ngọc Thuý...

Hiện 6 doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè trên địa bàn đã được huyện hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư hệ thống dây chuyền sao, sấy chè hiện đại để tăng sức tiêu thụ chè cho người dân, cũng như nâng chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường. Mỗi ngày, các doanh nghiệp này tiêu thụ khoảng 40-50 tấn chè tươi cho người dân; mỗi năm, huyện sản xuất hơn 1.000 tấn chè khô.

Người dân xã Đường Hoa (Hải Hà) thu hái chè. Ảnh: Thu Nguyệt

Thị trường tiêu thụ chè của Hải Hà khá rộng, một phần được xuất khẩu sang các nước Trung Đông, một phần tiêu thụ nội địa. Đặc biệt, 2 năm trở lại đây, huyện chuyển nhiều diện tích chè sang sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm chè của huyện. Hiện chè Hải Hà là một trong 6 sản phẩm định hướng xây dựng sản phẩm OCOP cấp quốc gia.

Không chỉ có chè, Hải Hà còn vận động, hỗ trợ người dân xây dựng một loạt các sản phẩm OCOP khác. Riêng năm 2019, huyện đã hỗ trợ 7 nhóm dự án

Cùng với Sở NN&PTNT, Sở Công Thương đã đẩy mạnh phối hợp với các địa phương, cơ sở phân phối, đơn vị liên quan thực hiện triệt để những hoạt động hỗ trợ, kết nối tiêu thụ các sản phẩm thủy sản, trước mắt là: Ngao hai cùi, hàu và một số sản phẩm khác như chè, tôm, trứng gà. Song song với đó, tiếp tục kết nối đưa các nông sản vào hệ thống siêu thị Big C, Vinmart…; chủ động tìm kiếm các thị trường mới, tận dụng tốt thời cơ

sản thông qua các hệ thống cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc của tỉnh.

Đối với hoạt động xuất khẩu nông sản, hiện cửa khẩu Bắc Luân, cửa khẩu Bắc Luân II và cầu phao Km4 Thành Đạt đã thông thương trở lại. Tuy nhiên, trong thời gian đầu mới cho thông quan các loại hàng, như: Hoa quả, nông sản, bột sắn, hạt điều, thủy sản tươi sống. Sở NN&PTNT sẽ tiếp tục phối hợp với UBND TP Móng Cái và các cục chuyên ngành của Bộ NN&PTNT theo sát diễn biến để kịp thời khuyến cáo đến người sản xuất cũng như các cơ sở thu mua, chế biến xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, Sở sẽ hoàn thiện thủ tục bổ sung danh mục hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc; tăng cường năng lực chế biến, đóng gói hàng hóa của các đơn vị trong tỉnh, nhất là đối với mặt hàng thế mạnh như thủy sản. Đây được coi là giải pháp lâu dài và bền vững, để nâng cao giá trị và thời gian sử dụng các mặt hàng nông sản.

Sở Công Thương phối hợp cùng các đơn vị liên ngành kiểm tra chất lượng hàng hóa tại siêu thị Big C Hạ Long dịp Tết 2020.

các Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (nhất là Hiệp định EVFTA) để đẩy mạnh tiêu thụ.

Mới đây nhất, Sở Công Thương Quảng Ninh đã có văn bản gửi tới Sở Công Thương các tỉnh, thành phố lớn, như: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng… và một số đơn vị chế biến tiêu thụ sản phẩm ngao hai cùi, hàu, tôm,… đề xuất phương án xuất khẩu, hỗ trợ tiêu thụ đối với các mặt hàng nông sản đang gặp khó; phối hợp với Sở Công Thương Hà Nội kết nối trứng gà Tân An vào thị trường để tiêu thụ.

Đồng thời, thực hiện đăng thông tin, tìm kiếm thị trường và quảng bá trên Website: http://teqni.gov.vn để tìm kiếm khách hàng. Đề nghị các địa phương rà soát lại số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm sát với thực tế, cử đơn vị làm đầu mối thực hiện công tác thu mua, chế biến và chế biến sâu sản phẩm thủy sản để đáp ứng nhu cầu đặt hàng của các đơn vị phân phối.

Bà Nguyễn Thị Hiền, Giám đốc Sở Công Thương, cho biết: Sở tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, thương nhân trong hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa nông sản, như: Tạo điều kiện trong lưu thông hàng hóa trên thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ trong các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm các thị trường tiềm năng mới và xây dựng các chương trình tiêu thụ nông sản trên địa bàn trong, ngoài tỉnh nhằm thực hiện mục tiêu tìm đầu ra cho sản phẩm nông sản của tỉnh trong thời gian phòng chống dịch Covid-19.

Hy vọng với những giải pháp đồng bộ và sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền, doanh nghiệp và người dân, nông sản Quảng Ninh tiếp tục khẳng định giá trị và thương hiệu riêng có, không chỉ ở thị trường trong nước mà vươn tầm quốc tế.

HOÀNG QUỲNH - MINH ĐỨC(BQN)

OCOP - MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM

24 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Hải Hà là nơi có khá nhiều đặc sản. Từ năm 2015 trở lại đây, huyện đã hỗ trợ, vận động người dân phát triển các sản vật của địa phương trở thành sản phẩm OCOP, được người tiêu dùng ưa chuộng.

HẢI HÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM OCOP

Sản phẩm trà hoa vàng Hải Hà thu hút khách hàng tại Hội chợ OCOP Quảng Ninh - Xuân 2020. Ảnh: Công Thành.

chè Đường Hoa, bánh kẹo Xuân Thế, mực cấp đông, tôm cấp đông... Các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất đã tích cực tham gia sản xuất sản phẩm OCOP, thiết kế nhãn mác, mẫu mã bao bì, nâng cao chất lượng sản phẩm; qua đó duy trì sản xuất có hiệu quả, khẳng định thế mạnh của sản phẩm.

Các xã, thị trấn phân công cán bộ phụ trách OCOP gắn với nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, hỗ trợ các hộ dân, cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm; lựa chọn các sản phẩm đặc trưng, lợi thế đăng ký tham gia chu trình OCOP; triển khai hỗ trợ thành lập mới các tổ hợp tác, hợp tác xã.

Sá sùng sản phẩm OCOP của Hải Hà đang được gia đình chị Nguyễn Thị Văn, thôn 4, xã Quảng Minh sơ chế trước khi đưa vào lò sấy khô.

Ảnh: Công ThànhSản phẩm OCOP chè Đường Hoa (Hải Hà) của cơ sở sản xuất chè Trần Sỹ Dũng. Ảnh: Phòng NN&PTNT Hải Hà.

phát triển sản phẩm OCOP với 14 dự án thành phần, tổng kinh phí 8,93 tỷ đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ trên 6,71 tỷ đồng.

Cùng với đó, huyện và các xã tăng cường tuyên truyền các mô hình, cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất, các sản phẩm OCOP của địa phương, nhằm tạo hiệu ứng tích cực trong nhân dân, thúc đẩy sản xuất phát triển sản phẩm OCOP. Đồng thời, huyện đã vận động, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất đầu tư mở rộng quy mô, nâng cấp tổ chức kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

hiện công bố tiêu chuẩn sản phẩm; thiết kế, in ấn một số mẫu bao bì, ghi nhãn sản phẩm để đưa sản phẩm ra thị trường nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm; vận động các cơ sở sản xuất dán tem điện tử lên hầu hết sản phẩm tham gia chu trình OCOP để truy xuất nguồn gốc sản phẩm theo quy định.

Đến nay, toàn huyện có 37 sản phẩm của 28 tổ chức kinh tế tham gia chương trình OCOP. Huyện đã tổ chức đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP; 27/27 sản phẩm được đánh giá đạt từ 2 sao cấp huyện trở lên, 16 sản phẩm đạt từ 3 sao cấp tỉnh trở lên. Huyện đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện trên địa bàn huyện có 1 nhà trưng bày và giới thiệu sản phẩm OCOP cấp huyện. Một số xã cũng xây dựng các gian hàng giới thiệu sản phẩm OCOP của xã. Năm 2019, huyện đã tổ chức Hội chợ OCOP gắn với Hội chợ thương mại trên địa bàn huyện; thành lập đoàn tham gia 10 hội chợ, triển lãm, tuần kết nối cung cầu của tỉnh; tổng doanh thu qua các hội chợ, xúc tiến thương mại khoảng 1,9 tỷ đồng.

Từ đầu năm nay, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tiêu thụ hàng hóa gặp khó khăn, nhưng các sản phẩm OCOP của huyện Hải Hà vẫn được tiêu thụ khá tốt. Huyện đang tập trung nâng cao chất lượng các sản phẩm OCOP để mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và nước ngoài.

THU NGUYỆT(BQN)

Trong năm 2019, huyện đề nghị thẩm định chấp thuận cho 11 sản phẩm mới của 4 tổ chức kinh tế tham gia chu trình OCOP 2019; phối hợp với các cơ sở sản xuất tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng, quy mô các sản phẩm đã tham gia chu trình OCOP, như: Chanh đào mật ong, mật ong Hoàng Việt, khau nhục,

Các xã tích cực kết nối với các đơn vị tư vấn, hỗ trợ kinh phí để thiết kế logo, mẫu mã bao bì, nhãn hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm tham gia chương trình OCOP; hướng dẫn các cơ sở sản xuất có sản phẩm mới tham gia chu trình OCOP thực

OCOP - MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM

25Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

QUẢNG YÊN:

HỖ TRỢ KẾT NỐI TIÊU THỤ NÔNG SẢN

Với 50.000 con gà hiện nay, trung bình mỗi ngày trang

trại trứng gà Tân An (sản phẩm OCOP của địa phương) thu được 30.000 quả trứng. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ dịch Covid-19, việc tiêu thụ trứng gà thời gian qua của trang trại này chỉ được khoảng 30%. Trứng gà tồn đọng, trong khi chi phí để duy trì đàn gà vẫn phải đảm bảo, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Để chung tay tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thời gian qua tỉnh đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị chung tay đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn trước mắt và có thị trường tiêu thụ ổn định, lâu dài. Đặc biệt, LĐLĐ tỉnh đã tăng cường tuyên truyền, động viên CNVCLĐ ưu tiên sử dụng các mặt hàng nông sản bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Đồng thời, chỉ đạo các cấp công đoàn, nhất là công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp vận động người sử dụng lao động ưu tiên sử dụng

Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, tình hình phát triển KT-XH chung toàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, trong đó nhiều doanh nghiệp bị đình trệ hoạt động, doanh thu giảm sút. Bên cạnh siết chặt công tác phòng chống dịch, thời gian qua TX Quảng Yên đã có nhiều giải pháp đẩy mạnh thu mua nông sản, đặc biệt là trứng gà Tân An, sản phẩm thế mạnh của địa phương.

nông sản đang gặp khó trong tiêu thụ để đưa vào khẩu phần bữa ăn cho người lao động tại doanh nghiệp.

Với sự vào cuộc của các cấp, ngành, đơn vị, cùng với nhiều nông sản khác, trứng gà Tân An đã tiêu thụ mạnh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Điển hình, từ đầu mối Công đoàn Viên chức tỉnh, từ tháng 3 đến nay đã tiêu thụ cho trang trại trên 200.000 quả trứng. Công đoàn ngành Giáo dục tỉnh cũng vận động kêu gọi hỗ trợ tiêu thụ gần 30.000 quả trứng. CBCCVC của TX Quảng Yên hỗ trợ tiêu thụ gần 60.000 quả trứng. 5 đơn vị ngành Than ký hợp đồng tiêu thụ lâu dài trứng gà Tân An với số lượng trung bình 100.000 quả/tháng…

Chị Phạm Thị Nguyệt Dung, chủ trang trại trứng gà Tân An, cho biết: Với sự chung tay của tỉnh, thị xã và các cơ quan, đơn vị, thời gian qua trang trại đã tiêu thụ được số lượng lớn trứng gà, phần nào hỗ trợ doanh nghiệp trong lúc khó khăn. Mặc dù đã phải cắt giảm khoảng 20.000 con gà để bớt chi phí chăn nuôi, tuy nhiên hiện trang trại vẫn phải duy trì lứa gà hậu bị. Để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm trứng gà, vừa qua trang trại phối hợp với Hội Nông dân thị xã mở thêm điểm bán trứng tại xã đảo Hà Nam.

Doanh nghiệp đang nghiên cứu để tiếp tục đưa sản phẩm trứng gà Tân An đến các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Mục tiêu của doanh nghiệp là duy trì chất lượng trứng gà, giữ gìn thương hiệu sản phẩm OCOP địa phương và đảm bảo bình ổn giá…

Hiện trung bình Trang trại Trứng gà Tân An (TX Quảng Yên) cho ra 30.000 quả trứng/ngày.

Sản phẩm OCOP trứng gà Tân An được nhiều người tiêu dùng lựa chọn.

LĐLĐ tỉnh phối hợp với LĐLĐ huyện Hải Hà, đại diện trang trại trứng gà Tân An (TX Quảng Yên) tặng trứng gà cho công nhân, lao động làm việc tại KCN Cảng biển Hải Hà.

Bên cạnh duy trì và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, thời gian qua LĐLĐ tỉnh và LĐLĐ huyện Hải Hà đã phối hợp với chủ trang trại trứng gà Tân An, tổ chức trao tặng trên 5.500 quả trứng gà cho công nhân, lao động KCN Cảng biển Hải Hà…

Cùng với tháo gỡ khó khăn trong khâu tiêu thụ trứng gà Tân An, TX Quảng Yên tiếp tục chỉ đạo các xã, phường rà soát những doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn, để có giải pháp hỗ trợ hiệu quả nhất, góp phần giảm bớt tổn thất trong giai đoạn khó khăn này.

NGUYỄN HUẾ(BQN)

OCOP - MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM

26 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

nghề phần lớn là trong nước, trong khi thị trường tiêu thụ nước ngoài chưa ổn định, quy mô sản xuất sản phẩm địa phương còn nhỏ lẻ, phương thức sản xuất thủ công, trình độ lao động yếu, chất lượng sản phẩm chưa cao… Do đó, việc học hỏi và triển khai mô hình OVOP của Nhật Bản được xem là một hướng đi đầy kỳ vọng, sẽ phát huy nội lực trong dân, phát huy lợi thế địa phương, giúp định hướng phát triển kinh tế nông thôn và đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới ở nước ta.

Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã triển khai thí điểm Đề án “Mỗi làng một nghề” tại 8 tỉnh, thành trên cả nước (Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Nam, Bắc Ninh, An Giang, Nam Định, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh). Mục đích của chương trình là

Mỗi làng một sản phẩm -HƯỚNG ĐI ĐỂ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI BỀN VỮNG

Mô hình “Mỗi làng một sản phẩm” (One village

one product - OVOP) được khởi xướng đầu tiên tại Nhật Bản từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nhằm phát huy thế mạnh của mỗi làng và tiếp sức cho sản phẩm trong nước vươn ra toàn cầu. Thực hiện mô hình, mỗi làng, xã ở nước này đã lựa chọn và tập trung sản xuất một sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường, để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh địa phương. Nhờ đó, không ít đặc sản của các địa phương vốn có quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ đã trở thành thương hiệu lớn, không chỉ nổi tiếng tại Nhật Bản mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Mô hình OVOP trong 40 năm qua đã đạt được thành công lớn, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp Nhật Bản, tạo ra lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, giúp làm tăng giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, từ đó tăng đáng kể thu nhập cho người dân nông thôn. Đến nay, mô hình OVOP của Nhật Bản đã lan tỏa sang nhiều quốc gia trên thế giới như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc...

Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, có nhiều làng nghề, đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng chục triệu lao động. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ chính của các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng

Ảnh minh họa, nguồn Internet.

nâng cao thu nhập cho thành viên tham gia, từ đó thúc đẩy đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo nội lực tốt để phát triển nông thôn bền vững. Thực hiện chương trình OVOP, Nhà nước định hướng kiến tạo và hỗ trợ đổi mới công nghệ, đào tạo lao động, xây dựng phân cấp và quảng bá sản phẩm. Trong khi người dân nông thôn (hộ và nhóm hộ) tự lựa chọn sản phẩm lợi thế, đầu tư công nghệ, nâng cao tay nghề, tổ chức sản xuất và quản lý từ khâu nguyên liệu đến tiêu thụ để tạo ra sản phẩm chất lượng cao.

Sau một thời gian thực hiện, nhiều làng nghề truyền thống (nghề thêu, dệt thổ cẩm, mây tre đan…) đã được khôi phục. Chương trình đã tạo ra một số sản phẩm có triển vọng như: Thổ cẩm tại bản Na Sang II (xã Núa Ngam, tỉnh Điện Biên), ấp Srây Skốt (xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên,

MÔ HÌNH KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

27Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

tỉnh An Giang); Sản phẩm đúc đồng tại xã Đại Bái (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thị trấn Lâm (huyện Ý Yên, Nam Định); Đá, gỗ điêu khắc tại các làng ở xã Hiền Giang (Thường Tín, Hà Nội)... Không ít sản phẩm được đánh giá cao về chất lượng và mẫu mã, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời các làng nghề trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách đến Việt Nam.

Một điển hình trong phong trào OVOP ở nước ta là tỉnh Quảng Ninh. Sau khi nghiên cứu kỹ chương trình OVOP của Nhật Bản cũng như kết quả đạt được tại một số tỉnh thực hiện thí điểm, năm 2013, Quảng Ninh đã triển khai chương trình OCOP (One commune one product - OCOP) và đưa thành chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương. Chương trình OCOP đã nhận được sự quan tâm, tham gia của cả hệ thống chính trị trong tỉnh và được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống từ việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện, ban hành các cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực từ nội lực cộng đồng, đến hướng dẫn quy trình triển khai, xúc tiến thương mại... Quảng Ninh đã tập trung hướng phát triển vào nhóm sản phẩm lợi thế như: Lợn Móng Cái, gà Tiên Yên, tôm thẻ chân trắng, hàu Thái Bình Dương; Ba kích, trà hoa vàng; Miến dong, gạo nếp cái hoa vàng... Đồng thời, ban hành một loạt các chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia, cũng như tạo cơ sở để thực hiện chương trình trong dài hạn như: Hỗ

trợ lãi suất tiền vay, ứng dụng công nghệ, mua sắm máy móc, thuê gian hàng, tổ chức hội chợ. Quảng Ninh cũng chủ động nghiên cứu ban hành bộ công cụ quản lý chương trình, đó là: Nhãn hiệu OCOP; Bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP; Chu trình chuẩn OCOP (gồm 6 bước tiến hành).

Với sự chung tay của các ban, ngành và người dân địa phương, chương trình OVOP tại Quảng Ninh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến năm 2016, toàn tỉnh Quảng Ninh đã có 198 sản phẩm mới, trong đó có 99 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên (mục tiêu đề ra là phát triển 40-60 sản phẩm), tổng giá trị hàng hóa bán ra của OCOP trong 03 năm (2013-2016) đạt 672,3 tỷ đồng, gấp 3 lần kế hoạch đặt ra. Tỉnh đã xây dựng quy hoạch 17 vùng sản xuất tập trung cấp tỉnh và trên 50 vùng sản xuất tập trung cấp huyện, xã, giúp đầu tư, khai thác có hệ thống tiềm năng, lợi thế của mỗi địa bàn. Đến cuối năm 2018, tổng số sản phẩm tham gia chương trình OCOP của Quảng Ninh đã tăng lên 362 sản phẩm thuộc 5 nhóm sản phẩm và dịch vụ, trong đó có 131 sản phẩm đã đạt sao (7 sản phẩm đạt 5 sao, 56 sản phẩm đạt 4 sao, 68 sản phẩm đạt 3 sao).

Doanh thu từ sản phẩm OCOP Quảng Ninh ngày càng cao, trong 6 tháng đầu năm 2018 đạt trên 239 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2017; lợi nhuận đạt 27,7 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ 2017. Bên cạnh đó, chương trình OCOP đã tạo việc làm cho

khoảng 3,5 nghìn lao động với mức thu nhập bình quân từ 5-9 triệu đồng/người/tháng. Toàn tỉnh có 29 trung tâm, cửa hàng, điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP, trong số đó có 10/29 điểm bán hàng OCOP được hỗ trợ từ ngân sách. Điều đáng mừng là số hộ, nhóm hộ đăng ký tham gia OCOP ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2018, Quảng Ninh có 145 tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp tham gia OCOP; trong đó có 44 doanh nghiệp, 64 hợp tác xã, 56 hộ sản xuất.

Sau 5 năm triển khai cho thấy, chương trình OCOP là hướng đi đúng, sáng tạo của Quảng Ninh trong phát triển sản phẩm hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn các tổ chức sản xuất với sản phẩm, phát huy những lợi thế, thế mạnh của địa phương, thực hiện cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và đưa người nông dân chủ động hội nhập, tiếp cận với kinh tế thị trường. Chương trình OCOP đồng thời đóng góp tích cực trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới của tỉnh.

Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thành công bước đầu của tỉnh Quảng Ninh, năm 2017, OCOP được chọn làm chương trình để nhân rộng, triển khai trên phạm vi toàn quốc. Đến nay, các tỉnh, thành trong cả nước đang đồng loạt lập Đề án Chương trình OCOP và đã có hơn 30 tỉnh, thành phố triển khai chương trình OCOP theo các quy mô khác nhau, trong một thời gian ngắn đã tạo ra hàng nghìn sản phẩm, hàng hóa đa dạng.

MÔ HÌNH KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

28 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, tính đến tháng 5/2018, cả nước có trên 6 nghìn doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình (có đăng ký kinh doanh) tham gia OCOP, trong đó có khoảng 3,1 nghìn doanh nghiệp (chiếm 76,6% số doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp trong cả nước), tổ chức sản xuất 4.823 sản phẩm lợi thế thuộc 06 nhóm sản phẩm, gồm: Nhóm Thực phẩm có 2.584 sản phẩm; Đồ uống có 1.041 sản phẩm; Thảo dược có 231 sản phẩm; Vải và may mặc có 186 sản phẩm; Lưu niệm - nội thất - trang trí có 580 sản phẩm; Dịch vụ du lịch nông thôn có 201 sản phẩm.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung ương, quá trình triển khai Đề án “Mỗi làng một nghề” còn tồn tại một số hạn chế. Đó là, việc phát triển làng nghề thiếu sự quản lý tập trung, sự phát triển nóng của các làng nghề đã dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường tăng lên. Bên cạnh đó, chương trình mới chủ yếu tập trung vào nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống tại các làng nghề, chưa trở thành phong trào có sức lan tỏa mạnh mẽ đến cộng đồng dân cư, đặc biệt là khu vực nông thôn.

Với tinh thần “quốc gia khởi nghiệp”, để tạo được sự hưởng ứng của cộng đồng ở cả thành thị và nông thôn, nhất là khuyến khích người nông dân làm chủ, phát huy sự chủ động, sáng tạo trong phát triển kinh tế, tháng 5/2018, Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 490/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018-2020 thực hiện trên phạm vi cả nước. Chương trình này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn cả nước theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị. Nguồn vốn và cơ cấu vốn huy động để thực hiện chương trình dự kiến khoảng 45.000 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là nguồn xã hội hóa từ vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tài trợ của các tổ chức quốc tế…

Trọng tâm của Chương trình là sản phẩm (bao gồm cả sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ) với các công việc chính là nghiên cứu phát triển, hoàn thiện sản phẩm, xây dựng mẫu mã, tiêu chuẩn chất lượng, tổ chức sản xuất và xúc tiến thương mại. Kết quả phát triển và thương mại hóa sản phẩm sẽ được đánh giá hàng năm, từ đó phân hạng để hỗ trợ xúc tiến thương mại, cải tiến sản phẩm.

Chương trình gồm nhiều hợp phần, trong đó các hợp phần quan trọng là hình thành và tái cơ cấu các tổ chức kinh tế tại cộng đồng, dưới dạng hợp tác xã và doanh nghiệp; nghiên cứu và phát triển sản phẩm; xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực tại cộng đồng tham gia OCOP.

Để triển khai hiệu quả chương trình OCOP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra những giải

pháp hỗ trợ như: Thành lập các Trung tâm phát triển làng nghề trên các địa bàn; Phát triển các hoạt động tư vấn về kỹ năng nghề và tổ chức sản xuất tại các làng nghề; Mở các lớp đào tạo truyền nghề tại làng; Hỗ trợ lãi suất vốn vay để phát triển sản xuất; Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…

Mỗi địa phương có thế mạnh, đặc điểm khác nhau, do đó, sẽ có những cách làm khác nhau. Để chương trình OCOP thành công, các tỉnh, thành phố cũng cần xác định rõ nhóm các sản phẩm lợi thế, từ đó có sự đầu tư đúng hướng, đúng tầm từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Ngoài chính sách chung của Trung ương, mỗi địa phương cần có chính sách và giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế để đạt được các mục tiêu, trong đó quan trọng nhất là chính sách thúc đẩy liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ. Cùng với đó cần nghiên cứu ban hành bộ tiêu chí đánh giá sản phẩm để định hướng sản xuất cho người dân, cũng như tổ chức các hội chợ để người sản xuất sản phẩm được cọ xát, tiếp nhận những đánh giá sản phẩm trên thị trường…

Sự quyết tâm của cả cộng đồng sẽ là chìa khóa để chương trình OCOP phát huy hiệu quả, tiếp sức cho Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới đạt được những kết quả như kế hoạch đặt ra./

BÍCH NGỌC(Báo con số và sự kiện)

MÔ HÌNH KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

29Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

THÔNG TƯ Quy định tiêu chí kinh tế trang trại

BỘ NÔNG NGHIỆPVÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Số: 02/2020/TT-BNNPTNT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2020

Căn cứ Nghị định số 15/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

Căn cứ Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 7/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;

Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn,Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư quy định tiêu chí kinh tế trang trại.Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng 1. Phạm vi điều chỉnh: Thông tư này quy định tiêu chí, chế độ báo cáo về kinh tế trang trại.2. Đối tượng áp dụng: a) Cá nhân, chủ hộ gia đình có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt,

chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, diêm nghiệp) đáp ứng các tiêu chí kinh tế trang trại theo quy định của Thông tư này:

b) Cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.Điều 2. Phân loại trang trại1. Trang trại chuyên ngành được xác định theo lĩnh vực sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp,

nuôi trồng thủy sản, diêm nghiệp và tỷ trọng giá trị sản xuất của lĩnh vực chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản xuất của trang trại trong năm. Trang trại chuyên ngành được phân loại như sau:

a) Trang trại trồng trọt;b) Trang trại chăn nuôi;c) Trang trại lâm nghiệp;d) Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;đ) Trang trại sản xuất muối.2. Trang trại tổng hợp là trang trại trong đó không có lĩnh vực sản xuất nào có tỷ trọng giá trị sản xuất

chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản xuất của trang trại trong năm.Điều 3. Tiêu chí kinh tế trang trại 1. Đối với trang trại chuyên ngành:a) Trồng trọt: Giá trị sản xuất bình quân phải đạt từ 1,0 tỷ đồng/năm trở lên và tổng diện tích đất sản

xuất từ 1,0 ha trở lên;b) Nuôi trồng thủy sản: Giá trị sản xuất bình quân phải đạt từ 2,0 tỷ đồng/năm trở lên và tổng diện

tích đất sản xuất từ 1,0 ha trở lên;c) Chăn nuôi: Giá trị sản xuất bình quân phải đạt từ 2,0 tỷ đồng/năm trở lên và đạt quy mô chăn nuôi

trang trại theo quy định tại Điều 52 Luật Chăn nuôi và văn bản hướng dẫn;d) Lâm nghiệp: Giá trị sản xuất bình quân đạt từ 1,0 tỷ đồng/năm trở lên và tổng diện tích đất sản

xuất từ 10,0 ha trở lên; đ) Sản xuất muối: Giá trị sản xuất bình quân đạt 0,35 tỷ đồng/năm trở lên và tổng diện tích đất sản

xuất từ 1,0 ha trở lên.2. Đối với trang trại tổng hợp: Giá trị sản xuất bình quân phải đạt từ 2,0 tỷ đồng/năm trở lên và tổng

diện tích đất sản xuất từ 1,0 ha trở lên.Điều 4. Cách tính tổng diện tích đất sản xuất và giá trị sản xuất của trang trại 1. Tổng diện tích đất sản xuất quy định tại Điều 3 Thông tư này là tổng diện tích đất sản xuất kinh

doanh của trang trại, được sử dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật về đất đai, bao gồm diện tích

TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ

30 Bản tin NÔNG THÔN MỚI - Số 4

KT. BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG

(Đã ký)

Trần Thanh Nam

đất để trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối và đất để xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất của trang trại tại thời điểm kê khai.

2. Giá trị sản xuất của trang trại/năm là giá trị sản xuất của ít nhất 1 năm trang trại đạt được trong 3 năm gần nhất với năm kê khai; được tính bằng tổng giá trị sản xuất các kỳ thu hoạch hoặc khai thác trong năm. Đối với trang trại mới thành lập chưa có sản phẩm thu hoạch, giá trị sản xuất được ước tính căn cứ vào phương án sản xuất, tình hình triển khai thực tế của trang trại.

Điều 5. Theo dõi, thống kê và chế độ báo cáo về kinh tế trang trại1. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm:a) Hướng dẫn, phổ biến tiêu chí kinh tế trang trại cho cá nhân, chủ hộ gia đình có hoạt động sản xuất

kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn cấp xã; b) Triển khai theo dõi, thống kê, cập nhật các biến động về chủ trang trại, diện tích đất sản xuất, loại

trang trại;c) Lập sổ theo dõi phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn theo mẫu tại Phụ lục I ban hành kèm theo

Thông tư này.2. Chế độ báo cáo về kinh tế trang trại theo mẫu tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này: a) Hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp xã tổng hợp, báo cáo về kinh tế trang trại trên địa bàn xã trong

năm gửi Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp huyện tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn);

b) Trước ngày 19 tháng 12 hàng năm, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp, báo cáo về kinh tế trang trại trong năm trên địa bàn tỉnh gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

c) Phương thức gửi, nhận báo cáo, thời gian chốt số liệu báo cáo thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 8, khoản 4 Điều 12 Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính Nhà nước.

Điều 6 . Trách nhiệm thi hành 1. Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn tổ chức triển khai thực hiện Thông tư này; tổng hợp,

báo cáo Bộ định kỳ và đột xuất.2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện Thông tư này trên địa bàn tỉnh.3. Trách nhiệm của chủ trang trại:a) Kê khai thông tin về trang trại theo mẫu tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư này, gửi Ủy ban

nhân dân cấp xã trước ngày 15 tháng 11 hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của thông tin kê khai;

b) Tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn; tuân thủ các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường.

Điều 7. Điều khoản thi hành1. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 14 tháng 4 năm 2020 và thay thế Thông tư số 27/2011/TT-

BNNPTNT ngày 13 tháng 4 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.

2. Giấy chứng nhận kinh tế trang trại được cấp theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13 tháng 4 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại hết hiệu lực kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành.

3. Tiêu chí kinh tế trang trại quy định tại Thông tư này là căn cứ để xác định đối tượng hưởng các chính sách của Nhà nước áp dụng cho kinh tế trang trại.

4. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, cơ quan, tổ chức, cá nhân, chủ hộ gia đình sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp kịp thời phản ánh về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để nghiên cứu giải quyết theo quy định./.

TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ

31Số 4 - Bản tin NÔNG THÔN MỚI

Ban CHQS huyện Tiên Yên hỗ trợ người dân thôn Khe Lẹ, xã Hà Lâu, xây nhà mới (tháng 8/2018).

Cán bộ điện lực Bình Liêu kiểm tra lắp đặt hệ thống pin mặt trời, sẵn sàng đưa vào vận hành, cung cấp điện sinh hoạt cho 200 hộ dân thôn Co Tăng, xã Đồng Tâm vào tháng 1/2019. Ảnh: Minh Đức

Công trình cải tạo hệ thống kênh mương tại xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên. Ảnh: Xuân Thao (CTV). (Ảnh chụp tháng 2/2020.)

Trạm Y tế xã Bình Khê (Đông Triều) được đầu tư trên 5 tỷ đồng để nâng cấp toàn bộ cơ sở vật chất, đưa vào sử dụng tháng 2/2019.

Thôn vùng cao Quế Sơn (xã Đông Ngũ, huyện Tiên Yên) đã có đường giao thông, nhà văn hóa được đầu tư xây dựng khang trang.

Điểm trường Tầm Tố ở xã Quảng Phong (huyện Hải Hà) được đầu tư khang trang, đầy đủ trang thiết bị dạy học cho trẻ em vùng khó khăn.