1.1. Tổng quan nước thải y tế
-
Upload
khangminh22 -
Category
Documents
-
view
1 -
download
0
Transcript of 1.1. Tổng quan nước thải y tế
11
1. TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan nước thải y tế
1.1.1. Nguồn gốc và đặc tính của nước thải y tế
Hình 1.1. Nguồn gốc nước thải y tế
Trong các cơ cở y tế một lượng lớn các chất được sử dụng cho các mục đích y tế
như chẩn đoán điều trị và nghiên cứu. Sau khi sử dụng , các tác nhân chẩn đoán, thuốc
khử trùng và dược phẩm không chuyển hóa được bệnh nhân bài tiết và hiện diện trong
nước thải. Hình thức loại bỏ này có thể gây nguy hiểm cho các sinh vật sống trong nguồn
nước (Emmanuel và cộng sự, 2005).
Các cơ sở y tế xả một lượng đáng kể các hóa chất và các tác nhân vi sinh vật trong
nước thải của họ. Hóa chất có trong nước thải của các cơ sở y tế thuộc các nhóm khác
nhau, chẳng hạn như thuốc kháng sinh, tác nhân tương phản X-quang, thuốc khử trùng và
dược phẩm. Nhiều thành phần trong số các hợp chất hóa học không chịu tác động của
những cách xử lý nước thải thông thường. Chúng tồn tại trong nước bề mặt nơi chúng có
thể ảnh hưởng đến hệ sinh thái thủy sinh và ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn. Con người đặc
biệt tiếp xúc nhiều bởi các nguồn nước uống sản xuất từ nước bề mặt. Tác nhân vi sinh
vật được đặc biệt quan tâm là các chủng vi khuẩn đa kháng. (Pauwels và cộng sự, 2006).
Theo kết quả phân tích của Sở Tài Nguyên Môi trường TP.HCM, 80% nước thải
từ các cơ sở y tế là nước thải bình thường (tương tự nước thải sinh hoạt) chỉ có 20% là
những chất thải nguy hại bao gồm chất thải nhiễm khuẩn từ các bệnh nhân, các sản phẩm
của máu, các mẫu chẩn đoán bị hủy, hóa chất phát sinh từ trong quá trình giải phẫu, lọc
máu, hút máu, bảo quản các mẫu xét nghiệm, khử khuẩn... Với 20% chất thải nguy hại
12
này cũng đủ để các vi trùng gây bệnh lây lan ra môi trường xung quanh. Đặc biệt, nếu các
loại thuốc điều trị bệnh ung thư hoặc các sản phẩm chuyển hóa của chúng không được xử
lý đúng mà đã xả thải ra bên ngoài sẽ có khả năng gây quái thai, ung thư cho những
người.
1.1.2. Ảnh hưởng của nước thải y tế
Nước thải bệnh viện chứa các vi sinh vật gây bệnh, dược chất chuyển hóa một
phần, nguyên tố phóng xạ và các chất độc hại khác. Nước thải như vậy nếu không được
điều trị đúng cách có thể gây tổn hại môi trường tự nhiên và tạo ra một sự mất cân bằng
sinh học.
1.1.3. Ảnh hưởng nước thải y tế đến môi trường
Trong nước thải y tế có chứa một hàm lượng lớn chất dinh dưỡng với thành phần
N, P cao khi thải ra môi trường dễ gây ra hiện tượng phú dưỡng hóa, một số loại tảo sẽ
phát triển mạnh sử dụng hết oxi trong nước gây ra hiện tượng thiếu oxi cho các sinh vật
khác. Khi tảo phát triển mạnh trên bề mặt nước sẽ giảm độ chiếu sáng xuống các tầng
dưới tầng nước sâu, giảm khả năng quang hợp.
Bên cạnh đó trong nước thải bệnh viện chứa một lượng nhỏ dầu mỡ động vật, khi
xả vào môi trường đất, nước sẽ tạo một lớp che phủ ở bề mặt ngăn cản sự bổ sung oxi
vào môi trường đất, nước, ức chế sự phát triển các các vi sinh vật.
Các chất lơ lửng làm cho nước đục hoặc có độ màu gây mất mĩ quan, hạn chế độ
sâu tầng nước được ánh sáng chiếu xuống. Mặt khác, chất rắn lơ lửng lắng xuống với
lượng lớn sẽ gây bồi lắng lòng sông, hạn chế sự di chuyển tàu thuyền, nước có thể gây ứ
động sinh môi trường kị khí tạo thành mùi hôi gây ô nhiễm môi trường.
1.1.4. Ảnh hưởng đến con người
Nước thải từ các phòng phẫu thuật, phòng xét nghiệm, thí nghiệm, từ các nhà vệ
sinh, khu giặt tẩy… với những mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ngày đêm chạy thẳng
vào hệ thống thoát nước chung của thành phố mà không qua xử lý, tạo thành những ổ
dịch nguy hiểm.
Kim tiêm có thể gây tổn thương, truyền bệnh cho con người nếu không được thu
gom hợp lý.Chất khử trùng, các hóa chất trong y khoa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
sức khỏe con người, nhất là người sử dụng tiếp xúc với chúng.
13
1.1.5. Các công nghệ xử lí nước thải y tế
Ô nhiễm nước bề mặt là một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng tại các
đô thị ở Nepal do việc xả nước thải chưa qua xử lý vào hệ thống sông, biến chúng thành
hệ thống cống rãnh công cộng. Nhà máy xử lý nước thải gần như không tồn tại ở đất
nước ngoại trừ một vài hệ thống trong thung lũng Kathmandu và thậm chí cả những hệ
thống này cũng không hoạt động tốt. Triển khai thành công một vài hệ thống đất ngập
nước kiến tạo trong ba năm qua đã thu hút sự chú ý đến công nghệ đầy hứa hẹn này . Một
hệ thống đất ngập nước kiến tạo dòng chảy ngầm để xử lý nước thải y tế và một hệ thống
khác xử lý nước xám bây giờ đang trở thành một mô hình thí điểm của các hệ thống đất
ngập nước được xây dựng ở Nepal. Bên cạnh các hệ thống này, năm hệ thống đất ngập
nước kiến tạo đã được thiết kế và một số đang được xây dựng để xử lý nước thải thành
phố Pokhara, nước thải trong Đại học Kathmandu, hai bệnh viện và một trường học. Với
kinh nghiệm hiện tại, một số kiến nghị được chỉ ra để thúc đẩy công nghệ này trong các
nước đang phát triển (Shrestha và cộng sự, 2001).
Hiệu suất của một hệ thống màng phản ứng sinh học ngập nước (MBR) xử lý
nước thải y tế được khảo sát. Hiệu suất khử COD, NH4+-N, và độ đục là 80, 93 và 83%
tương ứng với chất lượng nước thải trung bình của COD nhỏ hơn 25 mg/l, NH4+-N nhỏ
hơn 1,5 mg/l và độ đục nhỏ hơn 3 NTU, Coli Escherichia loại bỏ trên 98%. Nước thải
không có màu và không có mùi. Áp lực màng tăng chậm trong khi hoạt động 6 tháng.
Không có hoạt động làm sạch màng thời gian hoạt động 6 tháng (Wen và cộng sự, 2004).
Thiết kế và vận hành hệ thống xử lý nước thải cho các cơ sở y tế là một thách thức
cho các kỹ sư nước thải. Một hệ thống thí điểm quy mô tích hợp kỵ khí-hiếu khí xử lý
nước thải y tế được xây dựng và hiệu quả của nó đã được đánh giá. Mục đích của nghiên
cứu là việc loại bỏ các hợp chất hữu cơ và giảm đáng kể các vi khuẩn. Hệ thống đã hoạt
động trong 90 ngày. Kết quả cho thấy hệ thống có hiệu quả loại bỏ 95,1% nhu cầu oxy
hóa học (COD) từ nước thải y tế với COD đầu vào đên 700 mg/L, và đầu ra là 34 mg/L.
Việc loại bỏ đáng kể các vi khuẩn gây bệnh đã có kết quả sau khi vận hành hệ thống.
Những lợi thế của hệ thống xử lý nước thải nghiên cứu đối với các dòng nhỏ bao gồm: (I)
đơn giản trong vận hành và bảo dưỡng ; (II) hiệu quả loại bỏ COD và vi khuẩn, và (III)
tiêu thụ năng lượng thấp (Rezaee và cộng sự, 2005).
Ở Trung Quốc, số lượng các bệnh viện đã tăng lên 19.712 vào năm 2008, với lưu
lượng của nước thải y tế đạt 1,29×106 m3/ngày. Màng lọc sinh học (MBR) hiệu quả hơn
14
trong việc loại bỏ vi sinh vật bệnh lý so với hệ thống xử lý nước thải truyền thống. Trong
8 năm qua, hơn 50 hệ thống MBR đã được xây dựng thành công xử lý nước thải bệnh
viện, với công suất từ 20 - 2000 m3/ngày. MBR hiệu quả trong việc tiết kiệm tiêu thụ chất
khử trùng (clo thêm vào có thể giảm còn 1.0 mg/L), rút ngắn thời gian phản ứng (khoảng
1,5 phút, 2,5-5% quá trình xử lý nước thải thông thường), và đạt được một hiệu ứng tốt
với sự ức chế hoạt động các vi sinh vật. Hơn nữa, khi công suất của các nhà máy MBR
tăng 20-1000 m3/ngày, chi phí điều hành của hệ thống giảm mạnh (Liu và cộng sự,
2010).
1.2. Tổng quan về hệ thống sinh học màng MBR
1.2.1. Giới thiệu về bể lọc sinh học
Bể cân bằng...|...Bể sục khí...|...Bể lọc tách bằng màng...|...Bể nước đầu ra
Hình 1.2. Mô hình MBR
Hệ thống MBR được phát triển đầu tiên vào năm 1970 để ứng dụng cho việc xử lý
nước thải đô thị và công nghiệp. MBR là kỹ thuật mới xử lý nước thải kết hợp quá trình
dùng màng lọc với hệ thống bể sinh học thể động bằng quy trình vận hành SBR sục khí 3
ngăn và công nghệ dòng chảy gián đoạn. MBR là sự cải tiến của quy trình xử lý bằng bùn
hoạt tính, trong đó việc tách cặn được thực hiện không cần đến bể lắng bậc 2. Đây là
15
điểm thuận lợi của hệ thống này, vì thế việc loại bỏ bùn lơ lửng và khử trùng phụ thuộc
vào ngưỡng giới hạn của màng
Quy trình xử lý bể sinh học bằng màng MBR có thể loại bỏ chất ô nhiễm và vi sinh
vật rất triệt để nên hiện nay được xem là công nghệ triển vọng nhất để xử lý nước thải.
Nhờ sử dụng màng, các thể cặn được giữ lại trong bể lọc, giúp cho nước sau xử lý
có thể đưa sang công đoạn tiếp theo hoặc xả bỏ / tái sử dụng được ngay.
Vai trò của bể MBR
Tiền xử lý: như lưới lọc, song chắn rác.
Xử lý bậc 1: khử chất hữu cơ, N, P.
Xử lý bậc 2: phân tách hai pha rắn và pha lỏng khi qua màng.
Vai trò của bể lọc tách bằng màng
Cấp đầy dưỡng chất bằng hấp thu lượng amoni và P còn lại.
Khử hết sinh vật còn lại.
Vận hành gián đoạn (7~12 phút chạy, 3 phút ngưng).
Làm sạch màng chỉ bằng thổi khí ngược.
Vận hành liên tục trên 6 tháng, lưu tốc 0.3 m3/m2.ngày.
MBR có thể được vận hành trong thời gian lưu bùn rất lâu SRT từ 5-50 ngày và
mật độ bùn cao trong bể phản ứng và tỷ số F/M thấp (Visvanathan et al., 2000). MBR có
khả năng nitrat hoá hơn quá trình bùn hoạt tính thông thường vì thời gian cho vi khuẩn
nitrat hoá lâu hơn (SRT dài, F/M thấp) và kích thước bùn nhỏ hơn. Bông bùn nhỏ cho
phép quá trình chuyển các chất dinh dưỡng và oxy vào bể nhiều hơn [4]. Sử dụng màng
lọc còn ngăn ngừa sự rửa trôi vi sinh vật nitrat hoá trong thời điểm SRT và HRT ngắn
(Soriano et al., 2003). Hiệu quả khử chất hữu cơ của công nghệ MBR thường rất cao 95%
trong thời gian ngắn.
Công nghệ MBR có 2 hệ thống là màng đặt ngập trong bể phản ứng (iMBR) và
màng đặt ngoài (sMBR). Ứng với nó là hai dạng điều khiển thuỷ lực: bơm và nén khí.
Cấu hình và dạng chuyển động của chất lỏng trong bể phản ứng nào được sử dụng thông
thường phụ thuộc vào quá trình tách sinh khối. Tuy nhiên ở cả hai dạng thiết bị này, quá
trình thẩm thấu và khuếch tán đều diễn ra, và có thể sử dụng với không chỉ mục đích tách
sinh khối ra khỏi nước đã xử lý. Các cấu hình màng sử dụng cho hai dạng thiết bị này
cũng khác nhau. Nhìn chung iMBR có cường độ năng lượng sử dụng thấp hơn so với
sMBR, khi ứng dụng mô hình màng với bơm nằm ngoài bể phản ứng sẽ đòi hỏi năng
16
lượng khoảng gấp đôi so với màng ngập trong nước. Để tận dụng tốt thế năng của dòng
nước trong trường hợp sử dụng sMBR thì đường ống dẫn nước càng dài càng tốt. Không
những thế, sMBR còn có xu hướng tắc màng cao hơn iMBR bởi vì nó thường được vận
hành với thông lượng cao, mà khả năng màng lại tăng theo thông lượng, trường hợp này
gọi là giới hạn thông lượng. Bảng 1 trình bày những thuận lợi và bất bợi của việc đặt
ngập và đặt màng ngoài bể phản ứng MBR.
(a) Màng đặt ngập (b) Màng đặt ngoài
Hình 1.3. Hệ thống màng đặt ngập và màng đặt ngoài bể phản ứng
Bảng 1.1: Những thuận lợi và bất bợi của việc đặt ngập và đặt màng ngoài bể phản ứng
Màng đặt ngập Màng đặt ngoài
Thuận lợi:
Diện tích nhỏ
Điều khiển lượng O2 cần thiết
Ít rửa màng
Chi phí vận hành thấp
Chi phí bơm rửa màng thấp
Năng lượng tiêu thụ thấp
Thuận lợi:
Diện tích nhỏ
Loại bỏ hoàn toàn chất rắn ở đầu ra
Khử trùng đầu ra
Có khả năng vận hành tải trọng cao
Kết hợp loại bỏ COD, chất rắn,
chất dinh dưỡng trong cùng 1 đơn
vị
Bùn sinh ra thấp
Thời gian khởi động nhanh
Không có vấn đề về sự tăng thể
tích
Bất lợi:
Dễ bị tắc màng
Chi phí khí cao
Bất lợi:
Sục khí có giới hạn
Dễ bị tắt màng
17
Giá màng lọc
Chi phí vận hành cao
Chi phí bơm cao
Yêu cầu rửa màng cao
Quá trình phức tạp
1.2.2. Giới thiệu bể sinh học màng nhúng chìm (SMBR)
Là nơi diễn ra song song 2 quá trình:
Phân huỷ hợp chất hữu cơ
Quá trình Nitrat hoá trong điều kiện cấp khí nhân tạo
Quá trình Nitrate hóa là quá trình oxy hóa các hợp chất chứa Nitơ, đầu tiên là
Amonia thành Nitrite sau đó oxy hóa Nitrite thành Nitrate. Quá trình Nitrate hóa
ammonia và khử Nitrate diễn ra trong bể sinh học tiếp xúc theo 3 bước sau:
Bước 1: Ammonium được chuyển thành nitrite được thực hiện bởi Nitrosomonas:
NH4+ + 1.5 O2 NO2
- + 2 H+ + H2O
Bước 2: Nitrite được chuyển thành nitrate được thực hiện bởi loài Nitrobacter:
NO2- + 0.5 O2 NO3
-
Trong bể SMBR vi sinh vật (VSV) hiếu khí (các vi sinh vật sống trong môi trường
có oxy) sẽ sử dụng các chất hữu cơ có trong nước thải như là thức ăn để sinh trưởng và
phát triển thành VSV mới. Một phần chất hữu cơ cũng bị oxi hóa thành khí CO2 và NH3
bằng phương trình phản ứng sau:
Chất hữu cơ + C5H7NO2 (VSV) + 5O2 5CO2 + 2H2O + NH3 + VSVmới
Nhờ quá trình hoạt động trên của VSV mà các nồng độ chất hữu cơ trong nước thải
sẽ giảm dần đến một mức độ chấp nhận (đạt quy chuẩn xả thải).
Màng sinh học MBR với kích thước lỗ lọc là 0,1µm, diễn ra quá trình phân tách
giữa nước sạch và hỗn hợp bùn hoạt tính, các chất rắn lơ lửng và vi khuẩn gây bệnh, duy
trì mật độ sinh khối cao giúp vi sinh vật hoạt động tốt hơn, nâng cao hiệu suất xử lý.
1.3. Các ứng dụng màng MBR trong xử lý nước thải
1.3.1. Tình hình nghiên cứu thế giới
Nước thải y tế phát sinh từ rất nhiều nguồn khác nhau trong quá trình hoạt động
của bệnh viện như: máu, dịch cơ thể, giặt quần áo bệnh nhân, khăn lau, chăn màn các
18
giường bệnh, súc rửa các vật dụng y khoa, xét nghiệm, giải phẫu, sản nhi, vệ sinh, lau
chùi làm sạch các phòng bệnh… Điểm đặc thù của nước thải y tế là sự lan truyền rất
mạnh các vi khuẩn gây bệnh, nhất là nước thải từ những bệnh viện chuyên về bệnh truyền
nhiễm cũng như khoa lây nhiễm của các bệnh viện khác. Những nguồn nước thải này là
một trong những nhân tố cơ bản có khả năng gây truyền nhiễm qua đường tiêu hóa và
làm ô nhiễm môi trường. Đặc biệt nguy hiểm khi nước thải bị nhiễm các vi khuẩn gây
bệnh có thể dẫn đến dịch bệnh cho người và động vật qua nguồn nước, qua các loại rau
được tưới bằng nước thải. Khi bệnh viện nằm trong đô thị hay khu dân cư đông người,
các dịch bệnh càng có cơ hội phát triển lây lan nhanh chóng.
Trong đó, một số lượng lớn các hợp chất này hiện nay không thể xử lý được bằng
phương pháp xử lý nước thải thông thường, nhiều dạng chất lỏng có nguy cơ lây nhiễm,
truyền bệnh cao. WHO đã tuyên bố rằng 85% chất thải của bệnh viện là không nguy
hiểm, khoảng 10% là nhiễm trùng, và khoảng 5% không lây nhiễm nhưng nguy hiểm.
Loại nước thải này nhất thiết phải được xử lý và khử trùng trước khi thải vào môi trường.
Việc quản lý an toàn và hiệu quả các chất thải y tế đã nhận được nhiều sự chú ý vì
liên quan đến sự gia tăng nguy cơ sức khoẻ đối với nhân viên y tế, bệnh nhân và môi
trường của họ và cho cộng đồng nói chung. Ở Ấn Độ, với việc thực hiện các quy định về
quản lý và xử lý chất thải y tế 1998, trọng tâm chủ yếu là việc xử lý đúng cách, phân chia
và xử lý để giảm nguy cơ rủi ro cho cá nhân và cộng đồng. Hiện nay, việc quản lý nước
thải y tế tại Việt Nam còn một số bất cập và chưa đáp ứng được các quy định hiện hành
về bảo vệ môi trường. Nhiều cơ sở y tế chưa lựa chọn được loại hình công nghệ phù hợp
với điều kiện thực tế của đơn vị để đầu tư hệ thống xử lý nước thải và chưa đáp ứng được
quy chuẩn hiện hành.
Hệ thống MBR có thể được vận hành trong thời gian lưu bùn (SRT) dài (5-50 ngày)
với MLSS cao trong bể phản ứng và tỷ số F/M thấp (Visvanathan và cộng sự, 2000).
MBR có khả năng nitrat hóa cao hơn quá trình bùn hoạt tính thông thường (CAS) vì thời
gian cho vi khuẩn nitrat hóa lâu hơn (SRT dài, F/M thấp) và kích thước bông bùn nhỏ
hơn. Bông bùn nhỏ hơn cho phép quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng và oxy vào trong
nhiều hơn (Gender và cộng sự, 2000). Sự hiện diện của màng lọc trong bể MBR ngăn
ngừa sự rửa trôi vi sinh vật nitrat hóa tại thời điểm SRT và HRT ngắn (Soriano và cộng
sự, 2003) và khuyến khích sự tăng dần của chỉ số tăng trưởng chậm của vi sinh vật, chẳng
hạn vi khuẩn nitrat hóa, và lượng bùn sinh ra rất ít (Muller và cộng sự, 1995; Trouve và
19
cộng sự, 1994; Cicek và cộng sự, 2001) cho thấy quá trình nitrat hóa chậm dần sau 2
ngày lưu bùn, một phần vi khuẩn nitrat bị mất đi. Với tải trọng nitơ trong khoảng 0,1- 3,3
kg NH4+-N/m3.ngày với nồng độ DO khoảng 1 mg/L, hiệu qủa khử NH4
+-N đạt hơn 90%
(Chiemchaisri và cộng sự, 1992). Hiệu quả khử chất hữu cơ thường cao hơn 95% với
HRT ngắn (Holler và cộng sự, 2001; Soriano và cộng sự, 2003). Trong báo cáo của
Soriano và cộng sự (2003), hiệu quả khử cacbon và nitơ trong MBR cao hơn trong CAS,
với thời gian SRT ngắn.
Một loạt các thí nghiệm quy mô trong phòng thí nghiệm đã được thực hiện bởi
Yamamoto và cộng sự (1989) để xác định tính khả thi của việc đặt màng trực tiếp trong
một bể sục khí bùn hoạt tính. Nghiên cứu được thực hiện với một màng dạng sợi với kích
thước lỗ rỗng 0,1 μm, thí nghiệm ngắn hạn với nồng độ MLSS liên tục cho thấy áp lực
hút cao (80 kPa) đã dẫn tới thông lượng giảm nhanh chóng. Trong thời gian thử nghiệm
lâu dài, do lực hút qua module màng mạnh nên liên tục gây ra tắc nghẽn và đặc biệt áp
lực gia tăng lên đến 100 kPa. Một thông lượng ổn định đã được quan sát trong 120 ngày
tại một tải trọng thể tích là 1,5 kg COD/m3.ngày sử dụng hút liên tục tại một áp suất thấp
là 13 kPa. COD loại bỏ hơn 90% và sục khí liên tục. Tuy nhiên, loại bỏ nitrate khác biệt
đáng kể trên 80% và hiệu quả khử nitơ trong khoảng 20-60%. Từ những phân tích sự ảnh
hưởng của nổi bọt khí trên bề mặt, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng màng có khả
năng loại bỏ hoàn toàn COD dạng hòa tan và dạng keo.
Trong quá trình hoạt động trạng thái ổn định, tỉ số F/M là 0,1
kgCOD/kgMLSS.ngày và tải trọng hữu cơ đã được ước tính khoảng 3-4 kgCOD/m3.ngày
để duy trì cả hai thông lượng ổn định trong điều kiện hiếu khí.
Chiemchaisri (1990) nghiên cứu một quá trình bùn hoạt tính với một module màng
với lỗ rỗng là 0,1 μm để xử lí nước thải sinh hoạt với nồng độ thấp. Một sự so sánh được
thực hiện bằng hiệu suất của các bể phản ứng màng trong các điều kiện vận hành khác
nhau, chẳng hạn như không có khí và có khí, với thời gian lưu nước (HRT) khác nhau là
1, 3, và 6 giờ (với thông lượng màng tương ứng 4.17, 1.38, và 0,7 L/m2.h). Quá trình
hoạt động này được khai thác liên tục, 10:10 phút thời gian hoạt động. Các máy khuấy từ
được sử dụng trong điều kiện không cung cấp khí để giữ MLSS luôn ở trong trạng thái lơ
lửng. Các bể phản ứng không có khí đã có một lợi thế hơn các bể hoạt động với điều kiện
có khí tại HRTs ban đầu là 3h và 6h, bởi vì năng lượng thấp hơn được yêu cầu phải cung
20
cấp cho chất lượng nước thải tương tự và ổn định quá trình. Tuy nhiên, tại HRT 1h (hoặc
với thông lượng màng cao hơn, 4,17 L/m2.h) việc cung cấp khí là cần thiết để ngăn ngừa
tắc nghẽn màng. Thông lượng 4,17 L/m2.h có vẻ là một giá trị ranh giới quan trọng giữa
điều kiện gây tắc nghẽn màng và không tắc nghẽn màng.Tại thông lượng thấp hơn, không
có hiện tượng bẩn màng với điều kiện hệ thống được cung cấp khí. Chất lượng nước
thấm qua màng có giá trị COD là độc lập với tải trọng hữu cơ trong khoảng 0,2-2
kgCOD/m3.ngày. Do thời gian lưu bùn dài (SRT) quá trình được ổn định và giá trị COD
tương tự trong tất cả các điều kiện thí nghiệm.
Quá trình lọc màng trực tiếp sử dụng loại màng hollow fiber đặt trong hệ thống
bùn hoạt tính được nghiên cứu trong mô hình thí nghiệm (Chiemchasri và cộng sự,
1992). Hệ thống bao gồm 2 phần, bể sục khí chính và đơn nguyên lọc. Đơn nguyên lọc
với thể tích 10 L được nhúng chìm trong bể sục khí, có thể tích là 62 L. Hai module
màng hollow fiber có kích thước lỗ màng là 0,1 μm, diện tích mỗi module là 0,3 m2 được
lắp trong đơn nguyên lọc. Cánh khuấy được điểu khiển bởi mô tơ tạo thành dòng cross-
flow của hỗn hợp chất lỏng đi xuyên qua bề mặt màng với tốc độ 290 rpm trong chu kì
10 giây theo các hướng so le nhau. Bằng cách cung cấp những điều kiện hỗn loạn cao
trong vùng lọc kết hợp với thổi khí bên trong module màng, bùn tích tụ trên bề mặt màng
và bên trong module sẽ giảm đáng kể. Thông lượng dòng thấm thu được sau 30 ngày vận
hành là 8,33 LMH khi hút liên tục. Mức độ loại bỏ chất hữu cơ tương đối cao (>85%) đã
được quan sát tương ứng với 20,8 g/L và 16,5 g/L COD trong nước thải trong suốt quá
trình sục khí gián đoạn. Mức độ nitrate hóa và khử nitrate khoảng 90% trong suốt quá
trình sục khí gián đoạn tại khoảng DO là 4 – 5 mg/L. Tuy nhiên, với mức độ sục khí như
trên nhưng ở nồng độ DO thấp 1.5 – 2 mg/L, mức độ nitrate hóa và khử nitrate chỉ còn
khoảng 80% tương ứng với 4,9 g/L tổng nitơ trong nước thải.
Muller (1995) đã nghiên cứu xử lý hiếu khí nước thải sinh hoạt bằng mô hình
MBR ngoại vi với lưu bùn hoàn toàn (không thải bùn trong quá trình thực nghiệm). Bùn
hầu như không tạo ra khi MLSS tăng tới 45 – 50 g/L ở tải trọng vận hành là 0,9 – 0,2
kgCOD/m3.ngày. Tỉ số F/M rất thấp (0,021 gCOD/gMLSS.ngày). Hiệu suất xử lý ổn định
và bùn sinh ra có thể đạt được rất thấp.
Song song với quá trình phát triển của hệ thống màng lọc sinh học dạng sợi nhúng
chìm hollow fiber, những nhà nghiên cứu người Nhật đã phát triển hệ thống màng lọc
21
sinh học với màng dạng tấm nhúng chìm ‘Kubota’. Mô hình này được thử nghiệm tại mô
hình pilot ở U.K. (Churchose, 1998; McCann, 1998). Trong hệ thống này những tấm
màng vi lọc cố định trong một hộp hình chữ nhật, được đặt chìm trong bể bùn hoạt tính
và một hệ thống tạo bong bóng khí được đặt phía dưới module màng. Các bông bùn
ngậm khí tăng lên giữa các tấm màng, nó cung cấp vừa đủ lượng bùn tuần hoàn tại bề
mặt màng. Nó tạo ra dòng cross-flow đi từ dưới lên bề mặt màng và giúp ít bẩn màng
nhất. Dòng nước sạch đi ra khỏi hệ thống nhờ một bơm hút có áp suất thấp (0,1 bar) hoặc
nhờ trọng lực. Cách sắp xếp module và hệ thống thổi khí đòi hỏi việc rửa màng thấp. Các
module màng được rửa một lần/năm bằng việc sử dụng một bơm nước rửa ngược. Ngoài
ra hệ thống này còn phải được làm sạch từ hai đến bốn lần trong một năm để cải thiện
thông lượng màng. Hệ thống được thử nghiệm trong xử lý nước thải với cách sắp xếp quá
trình nitrate hóa và khử nitrate với sự khác biệt lớn về chất lượng nước thải (30 – 2100
mg/L BOD và 100 – 4000 COD) (Churchouse, 1998). Nước đầu ra từ quá trình này phù
hợp với tỷ lệ 5:1:1 tương ứng với BOD:SS:NH4+-N với việc loại bỏ 96% COD và BOD.
Lượng bùn trung bình được tạo ra là 0,3 kg/kg BOD, chiếm 40% quá trình tạo bùn hoạt
tính thông thường.
Ueda và cộng sự (1999) đã nghiên cứu xử lý nước thải đô thị bằng mô hình pilot
kết hợp hệ thống kị khí/hiếu khí với màng đặt ngập. Điều kiện hoạt động của hệ thống
này được duy trì là: HRT là 13,5h; SRT là 72 ngày; MLSS 10 g/L; tải trọng BOD5 là 0,25
kg/m3.ngày; tải trọng TKN 0,06 kg/m3.ngày và tỉ số F/M là 0,2. Chất lượng nước sau xử
lý rất tốt, có thể đạt được 1,3 mgBOD5/L; không có cặn lơ lửng; coliform/100mL; 7,1
mgTN/L; 0,3 mgNH4+-N/L và 4,6 mgNO3
--N/L.
Hai mô hình MBR và một hệ thống bùn hoạt tính (CAS) cũng được sử dụng trong
việc loại bỏ các hợp chất dược (PhACs) thuộc các nhóm điều trị khác nhau và với các đặc
tính lý hóa đa dạng (Radjenovic và cộng sự, 2009). Hai mô hình MBR thí điểm loại bỏ
được nhiều hơn một số dư lượng thuốc loại bỏ không hiệu quả bằng CAS (ví dụ,
mefenamic acid, indomethacin, diclofenac, propyphenazone, pravastatin, gemfibrozil),
trong khi ở một số trường hợp hoạt động ổn định hơn của một trong những hệ thống
MBR khi kéo dài SRT được chứng minh là gây bất lợi cho việc loại bỏ một số hợp chất
(ví dụ, b-blockers, ranitidine, famotidine, erythromycin). Trong số các dược phẩm gặp
phải trong bùn thải, bùn có thể là một con đường loại bỏ một số hợp chất (ví dụ,
22
mefenamic acid, propranolol, và loratidine). Đặc biệt là trong trường hợp của loratidine
các thực nghiệm xác định hệ số hấp thụ (KDS) là trong khoảng 2214-3321 L/kg (trung
bình). Kết quả thu được trong giai đoạn rắn chỉ ra rằng năng suất MBR xử lý nước thải tỷ
lệ phân hủy sinh học cao hơn có thể làm giảm số lượng các chất ô nhiễm trong bùn.
Ngoài ra, tải trọng tổng sản lượng trong pha nước, rắn của hệ thống xử lý nước thải đã
được tính toán, chỉ ra rằng không có chất nào trong số các dược phẩm ban đầu còn lại bị
phát hiện và bị suy thoái trong thời gian phân hủy yếm khí. Trong số 26 dư lượng thuốc
đi qua hệ thống xử lý nước thải, 20 chất cuối cùng được phát hiện trong bùn được xử lý
để tiếp tục áp dụng trên đất nông nghiệp.
Một bể phản ứng sinh học màng (MBR) với dạng màng sợi rỗng được dùng để xử
lý nước thải được lấy từ bể lắng của hệ thống xử lý nước thải bệnh viện. Hiệu quả xử lý
của mô hình đối với COD, NH4+-N và độ đục đạt lần lượt là 80, 93 và 83%. Tương ứng
với chất lượng nước trung bình của dòng ra COD < 25 mg/L, NH4+-N < 1,5 mg/L. Hiệu
quả loại bỏ E.Coli hơn 98%. Không cần phải làm sạch màng trong thời gian thí nghiệm 6
tháng (Wen và cộng sự, 2004).
Hầu hết các nghiên cứu làm việc với hệ thống MBR hiếu khí đều cho hiệu quả
nitrate hóa gần như hoàn toàn. Tuy nhiên, để khử được nitơ cần có vùng thiếu khí trước
bể sục khí (Gander và cộng sự, 2000). Hoặc theo phát hiện của Genz và cộng sự (2004)
và Yoon và cộng sự (2004), quá trình nitrat hóa và khử nitrate có thể được tiến hành đồng
thời trong MBR bằng cách thêm vào quá trình hóa lý bao gồm keo tụ và hấp phụ. Ahn và
cộng sự (2003) nhận thấy rằng sử dụng quá trình MBR với trình tự điều kiện thiếu khí/
kỵ khí gián đoạn có thể khử photpho đạt trên 90%. Trong nghiên cứu khác của Zhang và
cộng sự (2006) nhận thấy rằng quá trình MBR từng mẻ có thể khử 90 % chất dinh dưỡng
(nitơ và photpho).Trong các hệ thống MBR có thể xử lý được nitơ thì phải có quá trình
nitrate hóa và khử nitrate xảy ra đồng thời. Trong quá trình bùn hoạt tính thông thường,
quá trình nitrat hóa và khử nitrate xảy ra đồng thời khi nồng độ DO thấp. Phương pháp
thường xuyên sử dụng đề loại bỏ nitơ là sự kết hợp của một bể thiếu khí và một bể hiếu
khí nối tiếp nhau, có thể có dòng tuần hoàn nitrate từ bể hiếu khí sang bể thiếu khí.
Một pilot MBR được lắp đặt tại một bệnh viện Thụy Sĩ. Pilot này được nối trực tiếp
với hệ thống thu gom nước thải của bệnh viện. Mục đích của nghiên cứu là loại trừ các
chất ô nhiễm dạng vết (micropolutants) với các nồng độ khác nhau từ nồng độ thấp ng/L
23
đến µg/L. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích tự động SPE-HPLC-MS/MS.
Trong số 68 chất là đối tượng nghiên cứu có 56 dược phẩm (thuốc kháng sinh, thuốc
chống nấm, thuốc chống siêu vi, các chất là phương tiện ion hóa tia X, thuốc kháng viêm,
cytostatics, thuốc lợi tiểu, beta lockers, thuốc mê, thuốc giảm đau, thuốc chống động
kinh, thuốc chống trầm cảm, và những thuốc khác), 10 chất chuyển hóa (metabolites), và
2 chất ức chế ăn mòn. Dòng vào pilot MBR chứa phần lớn các đối tượng nghiên cứu trên.
Hiệu quả loại bỏ các micropolutant được thực hiện thông qua việc lấy mẫu liên tục dòng
chảy vào và ra khỏi pilot MBR. Hiệu quả loại bỏ tổng thể các dược phẩm và chất chuyển
hóa trong pilot MBR là 22%, đối với chất ion hóa là 80%. Nghiên cứu cho thấy rằng
không có sự ức chế bởi các tác nhân kháng khuẩn hoặc chất khử trùng đối với hệ thống
MBR (Kovalove, 2012).
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Sử dụng màng lọc sinh học MBR để xử lý nitơ, ammonia trong nước thải bệnh
viện: TS Nguyễn Phước Dân, Trưởng Khoa Môi trường Trường ĐH Bách khoa TP Hồ
Chí Minh, vừa thành công trong nghiên cứu dùng bể sinh học màng vi lọc (MBR) để xử
lý nitơ, ammonia trong nước thải. Mô hình này được thiết kế như một chiếc bể lắng bùn
hoạt tính thông thường nhưng bùn hoạt tính sinh trưởng lơ lửng được kết hợp với công
nghệ lọc màng nhằm tách hai pha rắn lỏng ở đầu ra. Vì thế, nồng độ bùn duy trì được rất
cao, thời gian lưu bùn kéo dài để đạt hiệu quả tối ưu trong việc khử nitơ và ammonia.
Theo đó, nước rỉ rác đi vào bể, chạy qua dòng tuần hoàn với 5 bước lọc, các chất cần tách
sẽ được giữ lại, nước thải sau xử lý sẽ được xả ra ngoài. Được biết, hiệu suất của việc lọc
nitơ và ammonia theo phương pháp này lên đến 85%. Hiện nay, TS Nguyễn Phước Dân
đang tiếp tục nghiên cứu để lọc các kim loại nặng
Ứng dụng công nghệ MBR xử lý nước hồ ô nhiễm tại hồ Biển Bạch, TP Ninh
Bình: Hồ Biển Bạch thuộc phường Vân Giang, thành phố Ninh Bình, có chức năng điều
tiết nước mưa, tiếp nhận một phần nước thải cho khu vực thành phố Ninh Bình. Hồ Biển
Bạch có chung đặc điểm với các hồ đô thị khác là đang trong tình trạng quá tải và lão hóa
do không được cải tạo, không có cơ sở hạ tầng môi trường xung quanh và hàng ngày phải
tiếp nhận chất thải từ khu vực dân cư quanh hồ.
Hiện nay, hồ Biển Bạch phải tiếp nhận 200 m3 nước thải sinh hoạt (một phần được
xử lý sơ bộ bằng bể tự hoại) của khoảng 1.600 dân thuộc các tổ 12, 13, 14 của phường
24
Vân Giang. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại hồ Biển Bạch cũng đang ở mức báo động,
theo kết quả quan trắc, giám sát chất lượng môi trường nước từ năm 2005 - 2010 của Sở
Tài nguyên và Môi trường Ninh Bình một số chỉ tiêu như BOD5, COD, NH4+, Coliform
đều cao gấp từ 1,75 - 2,36 lần (theo QCVN 08:2008/BTNMT là Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng nước mặt (loại B1 - nguồn nước mặt có thể sử dụng mục đích nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản). Tháng 10/2011, Trung tâm Tư vấn và Công nghệ Môi
trường đã đưa môđun xử lý nước ô nhiễm vào lắp đặt và vận hành thử nghiệm tại hồ Biển
Bạch, qua quá trình vận hành thử nghiệm, lấy mẫu phân tích chất lượng nước đầu ra cho
thấy, các chỉ tiêu như BOD5, COD, NH3, Coliform đều đạt QCVN 08: 2008/BTNMT loại
A.
Trong thời gian tới, sau khi hoàn thành việc giảm thiểu ô nhiễm chất lượng nước
hồ Biển Bạch, UBND TP. Ninh Bình sẽ chuyển môđun xử lý ô nhiễm tại các hồ khác.
Mô hình xử lý nước sông, hồ ô nhiễm bằng hệ thống môđun di động sử dụng công nghệ
MBR, là công nghệ tiên tiến, hiệu quả xử lý cao, nhằm cải thiện chất lượng nước sông,
hồ bị ô nhiễm, tăng cường khả năng làm sạch và không làm xáo trộn hệ sinh thái. Đặc
biệt với khả năng di động, công nghệ này có thể giúp xử lý các điểm nóng ô nhiễm của
địa phương trong điều kiện mặt bằng và cơ sở hạ tầng quanh hồ không cho phép.
Một nghiện cứu nhằm đánh giá hiệu quả điều trị và bẩn màng của một hệ thống
(MBR) xử lý nước thải dệt nhuộm bằng cách sử dụng Carbon bột hoạt tính (PAC) và
phèn nhôm (PACI – Poly-Aluminum Chloride) (gọi là " giảm bẩn màng") (Thành và
cộng sự, 2012). Hiệu quả và quá trình bẩn màng của MBR khi thêm PAC và PACI được
so sánh với những quá trình MBR thông thường. Các thành phần của thuốc nhuộm và
nước thải dệt nhuộm dao động với nhu cầu oxy hoá học (COD), độ màu và độ đục lần
lượt là 500-2,500 mg/L, 370-2,700 Pt-Co, và 50-370 NTU .Nồng độ MLSS tập trung
trong một MBR dao động từ 6.000 đến 9.000 mg/L. Tỷ lệ MLVSS/MLSS là 0.76. Tải
trọng hữu cơ trong khoảng 1,4-1,7 kg COD/m3 .ngày. Trong hệ thống MBR (không có
thêm các chất làm giảm bẩn màng trong phản ứng sinh học), kết quả cho thấy MBR chỉ
có thể loại bỏ các màu sắc ở một hiệu quả tối đa là 50% và COD là 60-94% trong suốt
thời gian hoạt động. Áp suất chuyển màng (TMP) tăng 2,1-4,4 kPa trong 30 ngày hoạt
động. Khi PAC và PACI đã được thêm vào MBR ở nồng độ 1.000 và 40 mg/L bùn ,
tương ứng, hai hợp chất giúp tăng cường hiệu quả loại bỏ các COD,độ màu, và kiểm soát
bẩn màng. Hiệu suất xử lý của MBR và bẩn màng được nhiều cải thiện so với hệ thống
25
MBR đơn thuần. Hiệu quả loại bỏ màu là 40-80% và 80-90% tương ứng PAC và PACI.
Có một sự khác biệt đáng kể trong hiệu suất khử COD giữa việc bổ sung PAC và PACI.
Trong khi hiệu quả loại bỏ COD dao động 50-94% cho PAC, nó ổn định ở mức khoảng
80-90% cho PACI trong suốt thời gian vận hành. Nói chung, giảm thiểu bẩn màng của
PAC và PACI là gần như tương tự và hiệu quả hơn nhiều so với hệ thống MBR. TMP
tăng chậm từ 2,2-2,9 kPa đến 2,4 -3.0 kPa khi sử dụng PAC và PACI trong 22 ngày hoạt
động. Thực tế này cho thấy rằng PAC và PACI là chất xuất sắc trong kiểm soát bẩn
màng, COD, và loại bỏ độ màu cho MBR xử lý nước thải dệt nhuộm.
Nghiên cứu khảo sát đặc tính nước rỉ rác từ bãi rác Gò Cát tại Thành Phố Hồ Chí
Minh, Việt Nam và việc thực hiện với bể phản ứng sinh học quy mô phòng thí nghiệm
với một màng vi lọc MBR để xử lý nước rỉ rác . Nồng độ COD của nước thải là 39.6-59.8
g/L và 1.1-4.0 g/L tương ứng trong mùa khô (11/2003 – 4/2004) và mùa mưa (5 -8/2004)
cho thấy rằng lượng mưa tập trung của khí hậu gió mùa trong mùa hè tác động đến nước
rỉ rác và những thay đổi trong chất lượng của nó vì tăng cường sự phân hủy và tăng độ
pha loãng . Tỷ lệ BOD / COD hơn 0,68 thuận lợi cho các quy trình xử lý thải sinh học
nhằm xử lý nước rỉ rác. MBR được vận hành trong 90 ngày ở mức tải trọng hữu cơ 1,9-
4,2 mgCOD/L.ngày. Các màng vi lọc giữ cao nồng độ bùn trong bể MBR. Tỉ số F/M là
0,097-0,616 gCOD/gVSS.ngày do nồng độ MLVSS cao. Hiệu quả từ bể MBR cho thấy
hiệu suật loại bỏ COD cao từ 84-97 % trong suốt thời gian thí nghiệm (Sang và cộng sự,
2007).
Một hệ thống xử lí nước thải cho bệnh viện Chợ Rẫy – Thành phố Hồ Chí Minh
bằng công nghệ MBR đã được thiết kế với công suất 4.000m3/ngày. Cho thấy công nghệ
khả thi cao về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Qua những đánh giá công nghệ, màng
MBR đã thể hiện được những ưu điểm nổi trội về hiệu quả xử lí. Đây là một công nghệ
mới với tính năng ưu việt, khắc phục được những hạn chế của các công nghệ khác đang
được ứng dụng ở Việt Nam. Chi phí đầu tư xây dựng thấp do đã lược bỏ những công
trình không cần thiết như bể lắng bậc 2, chi phí vận hành thấp, hiệu quả xử lý rất cao,
nước qua xử lý đạt Quy chuẩn QCVN 28:2010/BTNMT cột A.
1.4. Ưu điểm và nhược điểm của công nghệ MBR
1.4.1. Ưu điểm của kỹ thuật dùng màng lọc tách và công nghệ MBR
Ưu điểm của kỹ thuật dùng màng lọc tách:
26
Không cần bể lắng và giảm kích thước bể nén bùn
Không cần tiệt trùng nhờ đã khử triệt để coliform
Công trình được tinh giản nhờ sử dụng chỉ một bể phản ứng để khử N & P mà
không cần bể lắng, bể lọc và tiệt trùng.
Trong điều kiện thay đổi đột ngột, hệ thống được điều chỉnh cho ổn định bằng kỹ
thuật không sục khí – sục khí – không sục khí.
Khắc phục được các yếu điểm (nén bùn và tạo bọt) trong phương pháp bùn hoạt tính
(dùng màng khử hiệu quả Nutrient và E.coli).
Dễ kiểm soát và bảo trì bằng hệ thống tự động.
Những ưu điểm đã được khẳng định của công nghệ MBR:
Sự ổn định của chất lượng nước sau xử lý
Đáp ứng được tiêu chuẩn rất khắc khe về chất lượng nước đầu ra, như coliform
chẳng hạn.
Nhờ vào hiệu suất khử chất lơ lửng và vi sinh cấp độ cao, nước sau xử lý có thể
được tái sử dụng ngay cho các tòa nhà hay nhà máy nước tuần hoàn.
Có thể được thiết kế để ứng dụng cho nhiều lĩnh vực với những đặc thù riêng và đòi
hỏi chất lượng nước sau xử lý luôn ổn định.
Những điểm tuyệt vời của màng
Tính ưu việt của màng đã được kiểm chứng qua nhiều công trình ứng dụng khác
nhau với phạm vi ứng dụng rộng.
Thiết kế dạng môđun rất hiệu quả và hệ thống giảm thiểu được sự tắc nghẽn.
Màng được chế tạo bằng phương pháp kéo đặc biệt nên rất chắc, sẽ không bị đứt do
tác động bởi dòng khí xáo trộn mạnh trong bể sục khí.
Thân màng được phủ một lớp polymer thấm nước thuộc nhóm hydroxyl. Vì vậy,
màng không bị hư khi dùng chlorine để tẩy rửa màng vào cuối hạn dùng.
Một giải pháp kỹ thuật nhiều lợi ích kinh tế
Giảm giá thành xây dựng nhờ không cần bể lắng, bể lọc và khử trùng.
Tiêu thụ điện năng của công nghệ MBR rất ít so với các công nghệ khác và đã được
cấp bằng chứng nhận “Công nghệ Môi trường Mới”.
Phí thải bùn cũng giảm nhờ tuần hoàn hết ¼ và lượng bùn dư tạo ra rất nhỏ.
Bảo trì thuận tiện
27
Kiểm soát quy trình chỉ cần đồng hồ áp lực hoặc lưu lượng.
Cấu tạo gồm những hộp lọc đơn ghép lại nên thay thế rất dễ. Quá trình làm sạch,
sửa chữa, bảo trì và kiểm tra rất thuận tiện.
Quy trình có thể được kết nối giữa công trình với văn phòng sử dụng, vì thế có thể
điều khiển kiểm soát vận hành từ xa, thậm chí thông qua mạng internet.
1.4.2. Hạn chế của mô hình MBR
Chi phí đầu tư cao, khi màng bị nghẹt phải rửa bằng hoá chất
Nhu cầu năng lượng cao để giữ cho dòng thấm ổn định hoặc tốc độ dòng chảy
ngang trên bề mặt màng cao
Màng lọc sau khi sử dụng một thời gian sẽ bị nghẹt
Giá vận hành cao: chi phí cho năng lượng bơm nước qua màng cao
Phải đối mặt với sự suy giảm thông lượng màng và tắt màng
Mặc dù vậy, với những ưu điểm vượt trội trên thì công nghệ MBR đang được phát
triển mạnh trên thế giới và tại Việt Nam. Đặc biệt MBR được áp dụng cho các khách sạn
lớn, PKĐK, khu thương mại….tại các thành phố lớn hoặc xử lý nước thải đòi hỏi tải
trọng hữu cơ và hiệu suất xử lý cao để tiết kiệm diện tích xây dựng cũng như khả năng
chịu sự biến đổi tải trọng ô nhiễm hữu cơ vượt trội