29
CHƯƠNG 2
TIẾP CẬN TÀI CHÍNH
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TÓM TẮT
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Những
doanh nghiệp này chiếm đa số trong cộng đồng doanh nghiệp, thu hút lượng lớn lao động,
lấp đầy những khoảng trống nhỏ hẹp trong các thị trường và đóng góp đáng kể vào thu
nhập quốc dân. Những doanh nghiệp nhỏ này khá linh hoạt và năng động trong kinh
doanh nhưng cũng chính vì nhỏ và hạn chế về kinh nghiệm vận hành, hạn chế về quy mô
tài sản đảm bảo nên thường gặp khó khăn khi tiếp cận các nguồn tài chính. Để tạo cơ hội
phát triển cho những doanh nghiệp nhỏ, cần có những cơ chế linh hoạt phần nào thay thế
cho tài sản đảm bảo để ngân hàng có thể giải ngân cho các doanh nghiệp. Những cơ chế
ấy có thể là đa dạng hóa dạng hình tài sản đảm bảo, bao thanh toán, tín chấp. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp cũng cần tự nâng cao kỹ năng quản lý để có thể xây dựng những dự án
khả thi huy động vốn từ các nguồn khác nhau.
2.1. GIỚI THIỆU
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Trong
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm số lượng rất lớn.
Những doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm góp
phần tăng thu nhập cho dân cư, ổn định xã hội. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có vai trò
lấp đầy những khoảng trống của thị trường, nơi mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng.
Nói cách khác, các doanh nghiệp quy mô nhỏ đóng vai trò là phụ trợ bôi trơn cho nền
kinh tế (Marchesnay et al, 1998). Loại hình doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng,
nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo,… Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm
trên nửa triệu lao động mới, sử dụng tới 51 phần trăm lao động xã hội và đóng góp hơn 40
phần trăm GDP và chiếm 98 phần trăm số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế, số
thuế và phí mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã nộp cho ngân sách đã tăng hơn 18 lần sau
10 năm và chiếm hơn 17 phần trăm tổng doanh thu ngân sách nhà nước.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những bước tiến đáng kể,
đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế. Đây là khu vực giữ vai trò quan trọng trong giải
phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã
hội. Để tồn tại, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
rất cần vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô kinh
doanh… Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp rất nhiều khó khăn
30
trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn.
Tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh đang là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thêm vào đó là những bất ổn của tình hình kinh tế thế giới,
những khó khăn nội tại của kinh tế Việt Nam cùng với lạm phát và lãi suất tăng cao đã tác
động nặng nề đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ quả là rất nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn, phải thu hẹp sản xuất, thậm chí là ngừng hoạt
động hay phá sản. Theo đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng khó khăn hơn trong việc
tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng nhằm khôi phục hoạt động sản xuất tổn hại do tác động
tiêu cực của nền kinh tế bất ổn. Do vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, việc hỗ
trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động tốt, đặc biệt là chính sách tín dụng tốt, sẽ thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Từ khía cạnh học thuật, vấn đề tiếp cận tài chính của doanh nghiệp là đề tài dành
được nhiều sự quan tâm trong các nghiên cứu thời gian gần đây. Cho đến nay có hai dòng
nghiên cứu chính. Một là nghiên cứu khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Quartey et
al. (2017) sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới (World
Bank’s Enterprise Survey) từ sáu quốc gia châu Phi năm 2000, 2005, 2010 và 2014, và áp
dụng mô hình hồi quy probit. Kết quả cho thấy khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
phụ thuộc vào quy mô, luật tín dụng, khả năng tiếp cận thông tin tín dụng, định hướng
xuất khẩu và kinh nghiệm của giám đốc. Harvie et al. (2013) sử dụng mô hình xác suất
tuyến tính áp dụng trên số liệu SMEs từ tám nước Đông Nam Á là Campuchia, Trung
Quốc, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam cho thấy khả năng
tiếp cận vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc tính doanh nghiệp như quy mô, số năm
hoạt động, ngành nghề kinh doanh, mức độ phát triển của quốc gia, vòng đời kinh doanh
và loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đặc điểm của chủ doanh nghiệp như kinh nghiệm
quản lý, khả năng tài chính, quản lý nhiều hơn một công ty cũng quyết định khả năng tiếp
cận vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ
như khả năng sinh lời và tăng trưởng doanh thu cũng quyết định khả năng tiếp cận tín
dụng chính thức của doanh nghiệp.
Nhánh thứ hai nghiên cứu kết quả của tiếp cận vốn, mối liên hệ giữa khả năng tiếp
cận vốn và sự phát triển của doanh nghiệp. Rahaman (2011) sử dụng số liệu Financial
Analysis Made Easy từ 1,8 triệu doanh nghiệp (cả tư nhân và nhà nước) tại Anh và
Ireland giai đoạn 1991–2001, và áp dụng phương pháp GMM (generalized method of
moment). Kết quả cho thấy cấu trúc vốn có ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp.
Moreira (2016) sử dụng mô hình hồi quy OLS cho số liệu từ 1.327 doanh nghiệp từ Đông
Âu cho thấy khả năng tăng trưởng của SMEs phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp cận vốn
của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về khả năng tiếp cận tài chính của doanh
nghiệp. Nguyễn Thị Cành et al. (2008) sử dụng số liệu thứ cấp của Tổng cục Thống kê, và
số liệu sơ cấp từ các cuộc điều tra các doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005 và 2006 trên
230 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến tại ba tỉnh Tiền Giang, Bình Dương và
31
Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM); và 200 doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thuộc các
ngành sản xuất công nghiệp tại TP HCM. Bằng phương pháp phân tích tuần suất, tác giả
tính toán một số chỉ số tài chính và khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng,
nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ các quỹ tài chính nhà nước của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Kết quả cho thấy do quy mô nhỏ về vốn, nên các doanh
nghiệp nhỏ và vừa gặp một số khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
bao gồm: hạn chế về khả năng mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị
trường; hạn chế về khả năng tiếp cận đất đai, các nguồn vốn; và hạn chế khả năng tiếp cận
thông tin. Những hạn chế này là nguyên nhân làm cho hiệu quả tài chính và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa cao, lợi nhuận thấp. Ban Kinh tế
Trung ương (2017) sử dụng dữ liệu từ các báo cáo, khảo sát về kinh tế, doanh nghiệp cả
trong và ngoài nước, sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng,
kết quả cho thấy tiếp cận tài chính thực sự là một điểm nghẽn đối với sự phát triển của
khu vực doanh nghiệp tư nhân. Nghiên cứu cũng chỉ ra mười nguyên nhân chính khiến
cho tiếp cận tài chính của doanh nghiệp tư nhân khó khăn.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước dựa trên số liệu điều tra từ bảng hỏi với những câu hỏi có sẵn, do đó bị hạn chế về thông tin và khó khăn trong quá trình doanh nghiệp tiếp cận vốn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi kết hợp phân tích định lượng và phương pháp phỏng vấn sâu với những câu hỏi mở nhằm phân tích khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, tìm hiểu những khó khăn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tiếp cận các nguồn vốn. Những phân tích định lượng sẽ dựa trên số liệu từ điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện vào năm 2015 trên quy mô 2.500 doanh nghiệp từ chín tỉnh và thành phố và số liệu điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP HCM vào cuối năm 2017 do nhóm nghiên cứu thực hiện. Những điều tra này sẽ cho những thông tin về phía cầu về vốn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát ý kiến của cán bộ tín dụng từ các ngân hàng khác nhau, đại diện cho phía cung về vốn, nhằm phân tích khoảng cách giữa cung và cầu. Kết quả của nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá các chính sách hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp. Cụ thể, nghiên cứu này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ đó có những hàm ý chính sách nhằm cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng của doanh nghiệp.
2.2. TỔNG QUAN VỀ CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Nhận dạng và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Có nhiều định nghĩa và cách phân loại khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng Thế giới phân loại các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo số lượng nhân viên, tài sản và doanh thu hàng năm. Theo đó, một doanh nghiệp được coi là nhỏ và vừa nếu có ít hơn 300 nhân viên, tổng tài sản và doanh thu hàng năm dưới 15 triệu đô la Mỹ. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới còn sử dụng thêm tiêu chí quy mô vay vốn để phân loại các doanh nghiệp. Ở các quốc gia đang phát triển, những doanh nghiệp có quy mô vay vốn ít hơn một triệu đô la Mỹ được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
32
Định nghĩa và phân loại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia trên thế giới và
vào những giai đoạn khác nhau có những khác biệt đáng kể. Ở các nước châu Âu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa có số lượng nhân viên dưới 250 người và doanh thu hàng năm là nhỏ
hơn 50 triệu Euro. Tại Mỹ, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số lượng người
lao động dưới 500 người và có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu đô la đối với đa số các
ngành không liên quan tới sản xuất và mức này tăng lên 35,5 triệu đô la đối với ngành sản
xuất. Ở Canada, một doanh nghiệp được coi là SME nếu có số nhân viên từ 10 tới 250 và
doanh thu hàng năm dưới 50 triệu đô la Canada. Các tiêu chí về doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại Mexico, Nam Phi, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất khác biệt. Tại Mexico, doanh
nghiệp nhỏ và vừa có số lao động ít hơn 500 người trong lĩnh vực hoạt động sản xuất và ít
hơn 50 người trong hoạt động dịch vụ, trong khi tại Nam Phi là 10 - 20 tới 100 - 200, tùy
thuộc vào từng ngành, Thái Lan áp dụng quy định 200 người trong các ngành sử dụng
nhiều lao động và ít hơn người 100 trong các ngành sử dụng nhiều vốn và cuối cùng là
Thổ Nhĩ Kỳ với số lao động từ 10 tới 250 cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tại Việt Nam, tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng khác nhau theo từng
giai đoạn phát triển kinh tế. Trước năm 1998, có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa như số lao động dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10
tỷ đồng, số dư vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng.
Hoặc có quan điểm phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo lĩnh vực; các doanh nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau sẽ có những tiêu chí phân loại khác nhau.
Từ năm 2001, doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định dựa trên tổng vốn đầu tư và số
lao động. Các tiêu chí này ít chịu ảnh hưởng bởi những khác biệt giữa các quốc gia về
mức thu nhập và tỷ giá giữa các đồng tiền. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh
nghiệp có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và lao động dưới 300 người.
Từ năm 2009, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân loại dựa vào tổng nguồn vốn và số
lao động của doanh nghiệp tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Cụ thể, doanh nghiệp
nhỏ và vừa kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây
dựng có số lao động dưới 300 người và tổng nguồn vốn dưới 100 tỷ. Trong khi đó, doanh
nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có số lao động dưới
100 người và tổng nguồn vốn dưới 50 tỷ.
Bảng 2.1. Tiêu chí doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước
Quốc gia Số nhân viên Doanh thu hàng năm
Châu Âu Ít hơn 250 Ít hơn €50 triệu
Hoa Kỳ Ít hơn 500 cho phần lớn hoạt động sản xuất và khai thác
Ít hơn $7 triệu đối với đa số các ngành không liên quan tới sản xuất, nhưng dao động tới mức tối đa là $35,5 triệu
Canada 10 tới 250 Ít hơn 50 triệu dollar Canada
Mexico Ít hơn 500 trong hoạt động sản xuất, ít hơn 50 trong hoạt động dịch vụ
33
Nam Phi 10–20 tới 100–200, tùy thuộc vào từng ngành
200–300.000 ZAR tới 4–50 triệu ZAR, tùy thuộc vào từng ngành
Thái Lan Ít hơn 200 trong các ngành sử dụng nhiều lao động và ít hơn 100 trong các ngành sử dụng nhiều vốn
Ít hơn 200 triệu Bạt
Thổ Nhĩ Kỳ 10 tới 250
Việt Nam Ít hơn 300 trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp và xây dựng và ít hơn 100 trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
Ít hơn 100 tỷ đồng trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng và ít hơn 50 tỷ đồng trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
Nguồn: International Finance Corporation, 2009
Mặc dù có nhiều tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng Thế giới
và ở các quốc gia trên thế giới, song nhìn chung doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp
có quy mô nhỏ về vốn, lao động hay doanh thu. Tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi
quốc gia thì việc áp dụng các tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa có khác nhau.
Tuy nhiên, khi xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa, các quốc gia đã dựa chủ yếu vào các
tiêu chí số lượng lao động thường xuyên, số lượng vốn góp, doanh thu hàng năm và đặc
điểm ngành nghề kinh doanh.
So với các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có những đặc điểm riêng
trong hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô, tiềm lực tài chính
nhỏ, khá linh hoạt trong kinh doanh, dễ thành lập, dễ gia nhập thị trường, khả năng thu hồi
vốn nhanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt
động dưới nhiều loại hình doanh nghiệp, trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng giúp khai thác, tận dụng nguồn lao động và nguyên vật
liệu tại địa phương, dễ đáp ứng những thay đổi trong nhu cầu của thị trường.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh
tế, tạo việc làm, góp phần làm đa dạng các sản phẩm và dịch vụ, thu hút nguồn vốn nhàn
rỗi trong xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Tại các thời điểm,
việc điều chỉnh hợp đồng thầu phụ giúp ổn định nền kinh tế, đặc biệt trước những biến
động lớn. Nhờ có lợi thế vốn đầu tư ít và nguồn lao động dồi dào, trong những năm qua
các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng
số doanh nghiệp, hơn 90 phần trăm trên tổng số các doanh nghiệp trên toàn quốc là doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng
phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực, tạo ra nhiều lựa chọn, đáp ứng mọi nhu cầu của
người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh tế. Vì thế các doanh nghiệp nhỏ
và vừa đóng góp rất lớn vào tổng sản lượng của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác và phát huy các nguồn lực địa phương, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các doanh nghiệp lớn có xu hướng tập trung ở các thành
phố, thị xã, các khu công nghiệp. Trong khi đó, với quy mô vốn đầu tư nhỏ, bộ máy tổ
34
chức gọn nhẹ, dễ khởi sự, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tham gia vào nhiều thị
trường nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất đai, tài nguyên và lao động của từng
địa phương, đặc biệt là ở những nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi hoặc cơ sở hạ
tầng chưa phát triển, giúp phát triển cân bằng giữa các vùng miền, tận dụng hết nguồn tài
nguyên quốc gia, tăng hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa
là chủ thể tác động tích cực nhất vào việc duy trì và phát triển các ngành nông – lâm – hải
sản và ngành công nghiệp chế biến, đặc biệt các ngành nghề truyền thống như mây tre
đan, gốm sứ, dệt,... Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị
và nông thôn, thúc đẩy thương mại dịch vụ, tiểu thương phát triển góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Chiến lược sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật và năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế, phụ thuộc vào biến động của môi trường
kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu chiến lược kinh doanh rõ ràng, phù hợp
với sứ mệnh, mục tiêu của doanh nghiệp, đa phần chỉ xây dựng các kế hoạch sản xuất
kinh doanh mang tính ngắn hạn, chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu biến động của thị trường.
Do vậy, những thay đổi trong kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh thường có những
ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp
thường có xu hướng đi chệch sứ mệnh và mục tiêu ban đầu và thiếu sự điều chỉnh kịp
thời, hợp lý. Trong thời đại ngày nay, đầu tư vào khoa học kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, tiết kiệm chi phí trở thành điều kiện cốt lõi để nâng cao năng lực
cạnh tranh. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô vốn bị hạn chế nên việc đầu tư
nâng cấp, đổi mới các máy móc thiết bị, quy trình sản xuất không được thường xuyên nên
dẫn tới xu hướng rơi vào tình trạng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém. Hệ quả
là công nghệ lạc hậu, chi phí sản xuất cao, thiếu kinh nghiệm và trình độ trong nắm bắt
thông tin thị trường cũng như marketing sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, với quy mô nhỏ,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có những lợi thế nhất định khi dễ dàng chuyển hướng
kinh doanh sản xuất, tăng giảm lao động, thậm chí di chuyển địa điểm sản xuất dễ dàng
hơn các doanh nghiệp lớn.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có bộ máy điều hành gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao
nhưng năng lực quản trị chưa cao. Với số lượng lao động tương đối ít, cơ cấu tổ chức sản
xuất và bộ máy quản lý gọn giúp tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các quyết
định thường được đưa ra nhanh chóng, nhạy bén với những thay đổi trong môi trường
kinh doanh. Tuy nhiên, một bộ phận ban lãnh đạo các doanh nghiệp nhỏ và vừa ít được
đào tạo qua các trường lớp chính quy, thiếu những kiến thức cơ bản về tài chính, luật
pháp, quản trị kinh doanh, các quyết định nhiều khi thiếu chuẩn xác.
2.2.2. Số liệu và phương pháp
Để đạt được những mục đích nghiên cứu nêu trên, chúng tôi sử dụng số liệu từ ba
cuộc điều tra. Thứ nhất, điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (từ đây về sau được gọi là The
35
Vietnam SME survey, hay Vietnam survey, hay VN survey) do Viện Nghiên cứu Kinh tế
Trung ương (CIEM), Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA), Đại học Copenhagen
và UNU-WIDER thực hiện. Điều tra này được thực hiện trên hơn 2.500 doanh nghiệp nhỏ
và vừa từ chín tỉnh và thành phố ở Việt Nam vào năm 20151. Với kinh nghiệm chọn mẫu,
thiết kế bảng hỏi của các tổ chức thực hiện điều tra, có thể tin tưởng vào chất lượng cuộc
điều tra này và tính đại diện của mẫu cho tổng thể các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam, cũng như tại các địa phương.
Để có thêm các thông tin về năng lực quản lý và tiếp cận tài chính của doanh nghiệp, chúng tôi thực hiện điều tra bổ sung 67 doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP HCM (từ đây về sau được gọi là HCM SME survey, hay HCM survey)2. Điều tra này được thực hiện với bảng hỏi bán cấu trúc nhằm bổ sung những thông tin mà Vietnam survey chưa có, cũng như tìm hiểu thêm những khó khăn khi tiếp cận tín dụng chính thức của các doanh nghiệp bằng những câu hỏi mở.
Theo số liệu thống kê năm 2016, Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) có 150.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa trải trên các quận và huyện trên toàn thành phố. Trong đó, các doanh nghiệp tập trung ở khu vực các quận nội thành và các vùng lân cận. Do không có danh sách thống kê đầy đủ các doanh nghiệp theo từng nhóm ngành nghề và theo đặc điểm nhận dạng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong việc chọn mẫu nhằm bảo đảm tính đại diện và tính ngẫu nhiên. Phương án được lựa chọn là dựa trên phương pháp chọn mẫu thuận tiện có phân tầng đến cấp quận. Cụ thể, chúng tôi chọn 44 doanh nghiệp từ các quận 1, 3, 5, 10, Phú Nhuận, Tân Bình và Bình Thạnh, chiếm 65 phần trăm trong tổng số 67 doanh nghiệp trong mẫu. 23 doanh nghiệp còn lại (chiếm 35 phần trăm trong mẫu) được chọn từ các quận 9, 12, huyện Hóc Môn, Bình Chánh và Củ Chi. Cách chọn mẫu này tuy có những hạn chế nhất định về việc bảo đảm tính đại diện của mẫu song chúng tôi cố gắng đa dạng hóa các quan sát trong mẫu và phân tán mẫu theo các địa bàn, theo nhóm ngành nghề của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm bảo đảm tính đại diện tốt nhất có thể của mẫu. Bảng hỏi gồm 30 câu (xem Phụ lục 1) khai thác những thông tin về người trả lời, thông tin nhận dạng doanh nghiệp, và phần quan trọng hơn cả là về khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng tôi có những câu hỏi mở nhằm tìm hiểu những khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Do khó khăn về thời gian và kinh phí điều tra nên chúng tôi đã điều tra được 67 doanh nghiệp nhỏ và vừa từ các quận, huyện khác nhau.
Nhằm phân tích sâu hơn về những rào cản tiếp cận vốn của doanh nghiệp, chúng tôi thực hiện khảo sát ý kiến cán bộ ngân hàng về thẩm định phương án vay vốn và thẩm định tài sản đảm bảo đối với các đơn vay vốn của doanh nghiệp. Tổng số 27 cán bộ ngân hàng từ các ngân hàng thương mại khác nhau (Vietcombank, BIDV, Maritime bank, ACB, Vietcapital bank, Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Quân đội,…) được điều tra. Bảng hỏi gồm những câu hỏi về quy trình và điều kiện của ngân hàng khi xem xét hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp3. 1 Chi tiết về điều tra xem tại đây https://www.wider.unu.edu/database/viet-nam-sme-database 2 Bảng hỏi của điều tra này trong Phụ lục 1. 3 Bảng hỏi của điều tra này trong Phụ lục 2.
36
2.2.3. Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tuổi của các doanh nghiệp
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số năm hoạt động tương đối phân tán.
Khoảng một nửa số doanh nghiệp đã hoạt động trên 10 năm. Số còn lại, khoảng 20 phần
trăm số doanh nghiệp, đã đi vào hoạt động trong khoảng 5 đến 10 năm. Một phần nhỏ còn
lại, khoảng 10 phần trăm số doanh nghiệp, mới hoạt động được 2 đến 5 năm, và chỉ có
một số rất nhỏ, dưới 5 phần trăm số doanh nghiệp nhỏ hơn 1 tuổi (xem Hình 2.). Theo
nhận định của nhiều cán bộ doanh nghiệp và các cán bộ ngân hàng, khi doanh nghiệp đã
hoạt động được khoảng 2 đến 3 năm thì bắt đầu đi vào ổn định và dần khẳng định được vị
trí của mình trên thị trường. Như vậy, đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ở trạng
thái dần đi vào ổn định trong hoạt động kinh doanh hoặc đã ổn định kinh doanh.
Hình 2.1. Số năm hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Lao động
Chỉ có khoảng 10 phần trăm số doanh nghiệp có nhiều hơn 50 lao động. Kết quả này
khá gần với kết quả điều tra doanh nghiệp 2016 do Tổng cục Thống kê thực hiện. Kết quả
từ điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy TP HCM có 150.000 doanh nghiệp nhỏ và
vừa năm 2016. Các doanh nghiệp này có doanh thu trung bình 12 tỷ đồng và quy mô vốn
trung bình 21 tỷ, trong đó số doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ chiếm 65 phần trăm
và số lao động bình quân là 9 người, trong đó số doanh nghiệp có số nhân viên dưới 10
người chiếm gần 80 phần trăm (xem Hình 2.). Những con số này cho thấy các doanh
nghiệp nhỏ và vừa có quy mô khá nhỏ gọn, trong đó những doanh nghiệp được coi là siêu
nhỏ chiếm đa số.
Hình 2.2. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
37
Ngành nghề kinh doanh
Với quy mô vốn hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu tập trung vào các
ngành hàng tiêu dùng và dịch vụ hơn là đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng, sản xuất
khai thác cần nhiều vốn. Tại TP HCM có 57 phần trăm các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ, trong khi chỉ có 12 phần trăm các doanh nghiệp nhỏ và vừa
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất (xem Hình 2.).
Hình 2.3. Ngành nghề kinh doanh, cơ cấu tài sản, và tình hình kinh doanh của các DN
Nguồn: Tính toán từ HCM survey
Quy mô vốn
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô còn tương đối khiêm tốn đúng
như cách phân loại chúng. Đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số vốn hoạt động ở mức
dưới 10 tỷ đồng. Cứ 10 doanh nghiệp thì chỉ có 1 đến 2 doanh nghiệp có quy mô trên 10
tỷ đồng (xem Hình 2.). Quy mô vốn nhỏ có thể sẽ là rào cản cho các doanh nghiệp mở
rộng kinh doanh, đầu tư vào những chiến lược kinh doanh dài hạn, và phát triển công
nghệ. Song mặt khác, quy mô vốn nhỏ cũng là một lợi thế khi doanh nghiệp có thể dễ
dàng chuyển đổi cơ cấu tài sản hay chuyển đổi hướng kinh doanh.
Hình 2.4. Quy mô vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Cơ cấu tài sản
Với đặc điểm vốn đầu tư ban đầu thường không lớn, tài sản chính của doanh nghiệp
nhỏ và vừa chủ yếu là hàng tồn kho và vốn dùng luân chuyển trong kinh doanh (khoảng
50 phần trăm) kế đến là thiết bị, máy móc (dưới 35 phần trăm) và cuối cùng là bất động
sản (trên 15 phần trăm) (xem Hình 2.). Nhìn chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn
38
chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất đai và công nghệ. Đây chính là khó khăn rất lớn cho
các doanh nghiệp khi muốn tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hàng hay các quỹ hỗ trợ tín
dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh vì đa phần đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Điều
này là một cản trở không nhỏ trong việc triển khai, áp dụng các tiến bộ khoa học, công
nghệ mới vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tầm nhìn của doanh nghiệp
Hình 2.5. Chiến lược kinh doanh và dự phòng rủi ro của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ HCM survey
Mặt bằng trình độ quản lý tài sản, quản lý vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn
hạn chế. Nhiều doanh nghiệp không chứng minh được đầu vào ổn định, đầu ra bền vững,
mang lại nguồn thu đảm bảo khả năng trả nợ. Kế hoạch kinh doanh còn mang tính tự phát,
thời vụ chứ chưa có tính chiến lược và thiếu các phương án dự phòng rủi ro. Cứ hai doanh
nghiệp thì có một đang hoạt động hoặc cầm chừng hoặc ở giai đoạn đầu của chu kỳ kinh
doanh. Chỉ có hơn 1/3 số doanh nghiệp đã hoạt động ổn định tại điểm hòa vốn và hơn 13
phần trăm số doanh nghiệp đã hoạt động ở mức sinh lãi kỳ vọng (xem Hình 2.). Có đến
gần 57 phần trăm số doanh nghiệp không xây dựng phương án dự phòng rủi ro trung dài
hạn và gần 75 phần trăm số doanh nghiệp không xây dựng phương án dự phòng cho các
rủi ro tiềm ẩn ngắn hạn (xem Hình 2.5).
Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
Vốn đầu tư thấp, quy mô nhỏ tuy là những hạn chế của các doanh nghiệp. Song,
chính những đặc điểm này lại đem lại những lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Với quy mô vốn đầu tư ban đầu ít (thường dưới 10 tỷ), tài sản chính chủ yếu là
hàng hóa và vốn lưu động (trên 50 phần trăm), 2/3 số doanh nghiệp nhỏ và vừa có ít hơn
50 lao động, bộ máy quản lý, tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất linh
hoạt, gọn nhẹ, chi phí quản lý thấp, nên hiệu quả hoạt động, khả năng sinh lời của các
doanh nghiệp thường khá cao (xem Hình 2.).
Mặc dù quy mô còn khiêm tốn, phần lớn (hơn 55 phần trăm số doanh nghiệp) các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đã hoạt động ổn định, đã có báo cáo tài chính và quyết toán
thuế. Kế đến là các doanh nghiệp đã hoạt động trên một năm, đã có ít nhất báo cáo tài
39
chính của một năm (chiếm gần 25 phần trăm số doanh nghiệp). Thấp nhất là các doanh
nghiệp vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh, chưa có báo cáo tài chính (chiếm tỷ lệ dưới 5
phần trăm). Hơn nữa, đa số các doanh nghiệp đều có một tầm nhìn dài hạn cho sự phát
triển của mình. Cụ thể, theo khảo sát số doanh nghiệp nhỏ và vừa có chiến lược kinh
doanh trung và dài hạn chiếm tỷ lệ trên 70 phần trăm, trong khi chỉ 30 phần trăm số doanh
nghiệp đang phải lo cho ngắn hạn, vụ việc. Đây chính là điều cốt lõi giúp các doanh
nghiệp nhỏ và vừa có sự tự tin vào giá trị của công ty, phát triển bền vững, có khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn đang hiện hữu, chi phối thị trường.
Do hạn chế về quy mô vốn, hạn chế về lao động và kỹ năng quản lý của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng còn hạn chế. Hơn nữa, do đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa là lấp đầy những khoảng trống nhỏ hẹp của thị trường nên doanh thu của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng khá nhỏ, khoảng 70 phần trăm số doanh nghiệp có doanh thu
dưới 10 tỷ đồng vào năm 2017 (xem Hình 2.).
Hình 2.6. Doanh thu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
2.3. TIẾP CẬN TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
2.3.1. Tiếp cận các dịch vụ tài chính
Từ cuối năm 2015, Bộ Tài chính đã yêu cầu các doanh nghiệp phải nộp thuế bằng
hình thức chuyển khoản qua ngân hàng. Hơn nữa, từ năm 2017, Tổng cục Hải quan đã
triển khai nộp thuế điện tử mang lại nhiều tiện ích cho doanh nghiệp như giảm thời
gian, công sức đến ngân hàng, doanh nghiệp có thể chủ động nộp tiền thuế mọi lúc,
mọi nơi, mọi phương tiện, thông quan hàng hóa ngay sau khi nộp thuế, qua đó rút ngắn
thời gian hoàn thành thủ tục hải quan… Chấp hành quy định của nhà nước cũng như
ngân hàng nhằm tận dụng các tiện lợi mang lại từ việc nộp thuế qua ngân hàng, gần
100 phần trăm các các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP HCM đã thực hiện nộp thuế
qua tài khoản ngân hàng.
40
Hình 2.7. Sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Tính toán từ HCM survey
Trả lương qua ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao
động. Trả lương qua tài khoản giúp các doanh nghiệp giảm được thời gian, giảm chi phí
giao dịch và đảm bảo an toàn. Khối lượng công việc của bộ phận tài vụ và tiền lương
giảm đến 60 phần trăm, từ đó góp phần tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cho chính
doanh nghiệp. Người lao động cũng cảm thấy thoải mái hơn khi nhận lương qua tài khoản
ngân hàng, họ có thể rút tiền ở mọi nơi ngay cả khi đi công tác và cũng không phải chịu
rủi ro thiếu tiền hoặc gặp phải tiền kém chất lượng. Khoảng 30 phần trăm số doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại TP HCM đã triển khai trả lương qua ngân hàng.
Giảm thanh toán bằng tiền mặt mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và là xu hướng
chung ở các quốc gia trên thế giới. Cuối năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 –
2020 với mục tiêu tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10
phần trăm vào cuối năm 2020. Đối với doanh nghiệp, để được khấu trừ thuế giá trị gia
tăng, các hóa đơn từ 20 triệu trở lên phải được thanh toán qua ngân hàng. Bộ Tài chính
đang đề xuất giảm mức này xuống 10 triệu đồng nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng
tiền mặt, ngăn chặn gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng và phòng chống
rửa tiền. Cùng với xu hướng chung, tỷ lệ chi phí và doanh thu được thanh toán qua ngân
hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP HCM khá cao, đạt trên 50 phần trăm đối với
chi phí và khoảng 70 phần trăm đối với doanh thu thanh toán qua ngân hàng.
2.3.2. Tiếp cận tín dụng
Nhu cầu tín dụng từ các doanh nghiệp
Như phân tích ở trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô hạn chế, nguồn vốn
tích lũy có hạn, do đó họ rất cần vốn để phát triển kinh doanh. Song không phải tất cả các
doanh nghiệp đều vay vốn hoặc có thể vay được vốn. Trong 36 tháng qua, chỉ có 63 phần
trăm số doanh nghiệp đã từng vay vốn (xem Hình 2.). Điều này một phần do các doanh
nghiệp chưa mạnh dạn huy động vốn và phần còn lại mỗi nguồn vốn đều có những rào
cản nhất định đối với các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong kinh doanh như các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
41
Hình 2.8. Nhu cầu vay vốn, mục đích vay, và nguồn vốn
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như ngân hàng, các quỹ đầu tư, phát hành trái phiếu, vay từ bạn bè và người thân, và tín dụng thương mại. Trong số các nguồn vốn, tín dụng chính thức (chủ yếu là vốn từ các ngân hàng) là nguồn vốn ít rủi ro hơn cả, và nguồn cung về vốn dồi dào hơn nhiều so với vay từ bạn bè và người thân hay tín dụng thương mại. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp huy động vốn từ nguồn này còn rất khiêm tốn. Trên cả nước, chỉ có khoảng 23 phần trăm số doanh nghiệp huy động vốn từ nguồn này, trong khi gần 50 phần trăm số doanh nghiệp dựa vào tín dụng thương mại. Một thực tế là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường là đối tác của nhau, họ dựa vào tín dụng thương mại của doanh nghiệp nhỏ khác, cũng gặp những hạn chế về vốn thì khả năng cấp tín dụng thương mại cũng hạn chế. Do đó, phần nào các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn chế vòng luẩn quẩn về vốn.
Hơn nữa, trong số những doanh nghiệp vay được vốn từ các ngân hàng thì chỉ có 1/3 số doanh nghiệp được duyệt vay với mức vốn từ 50 phần trăm nhu cầu trở lên, 1/5 số doanh nghiệp chỉ được duyệt vay ở mức 25 phần trăm so với nhu cầu vốn. Những con số này cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu vốn lớn nhưng mức độ tiếp cận tín dụng ngân hàng là rất thấp so với nhu cầu về vốn (xem Hình 2.9).
Nhìn chung, các doanh nhgiệp nhỏ và vừa có nhu cầu vốn ngắn hạn cao hơn so với vốn trung và dài hạn, chủ yếu nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời và vốn lưu động tài trợ cho các dự án kinh doanh thời vụ. Chỉ có dưới 1/3 tổng số doanh nghiệp là có nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư mở rộng kinh doanh (xem Hình 2.9). Nhu cầu vay vốn và mục đích sử dụng vốn khá khác biệt giữa các nhóm doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có thời gian hoạt động càng dài thì nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn là càng lớn, nhu cầu vốn trung dài hạn cho mục đích mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh càng giảm. Tỷ lệ doanh nghiệp mới thành lập cần vốn trung và dài hạn mở rộng kinh doanh là 60 phần trăm; gấp đôi nhu cầu của doanh nghiệp đã hoạt động trên một năm và vượt 26 phần trăm so với doanh nghiệp đã đi vào hoạt động ổn định (xem Hình 2.).
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có
nhu cầu lớn về vốn, chủ yếu là
vốn ngắn hạn.
42
Hình 2.9. Bất cân xứng giữa cung và cầu về vốn
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Mặc dù có nhu cầu vốn cao nhưng hệ số đòn bẩy nợ của khu vực này khá khiêm tốn.
Theo số liệu năm 2017, đòn bẩy nợ ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa khá hẹp so với
mức trung bình của các doanh nghiệp nói chung. Chỉ
có 9 phần trăm trong số các doanh nghiệp nhỏ và vừa
sử dụng đòn bẩy nợ với tỷ lệ 1:1 so với vốn chủ sở
hữu, gần 78 phần trăm doanh nghiệp nhỏ và vừa sử
dụng đòn bẩy nợ dưới mức 0,5:1. Trong khi đó, lịch
sử của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên hai sàn chứng khoán Việt Nam (của
647 doanh nghiệp đến 2012) thì tỷ lệ này lên đến 1,5:1 (xem Hình 2.). Tỷ lệ này là rất
thấp so với mức tối đa cho phép của các doanh nghiệp là 5:1 đối với lĩnh vực sản xuất và
4:1 đối với các lĩnh vực còn lại. Rõ ràng là đòn bẩy nợ thấp, nhu cầu vốn cao đang diễn ra
trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa so với các khu vực khác.
Hình 2.10. Tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp từ kênh tín dụng chính thức
Nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khá lớn, song khả năng đáp ứng
vốn cho các doanh nghiệp này còn khá hạn chế. Chỉ có dưới 60 phần trăm số doanh
nghiệp nhỏ và vừa vay được vốn từ các ngân hàng, trong khi hơn 40 phần trăm số doanh
nghiệp nhỏ và vừa còn lại phải quay về với các kênh vốn không chính thức như vay người
Các doanh nghiệp nhỏ và
vừa sử dụng đòn bẩy nợ chỉ
ở mức hạn chế.
43
thân, tín dụng thương mại, vay nóng (xem Hình 2.). Trong số dưới 60 phần trăm số doanh
nghiệp nhỏ và vừa đã vay được vốn ngân hàng thì vẫn phải huy động bổ sung vốn từ các
kênh khác vì hệ thống ngân hàng không đáp ứng đủ 100 phần trăm nhu cầu vốn cho họ
(xem Hình 2.8). Hơn nữa, trong các kênh vốn, vay vốn từ ngân hàng là khó khăn hơn cả.
Mức độ khó cho việc vay vốn từ nguồn này được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất, 2.7
điểm trong thang điểm từ 1 rất khó tiếp cận đến 5 rất dễ tiếp cận. Huy động vốn từ bạn bè
và người thân dễ hơn với điểm đánh giá trung bình là 3. Dễ hơn cả là vay vốn từ người
chuyên cho vay, thường là các khoản vay nóng, điểm trung bình là 3.2 (xem Bảng 2.2).
Các kênh vốn phi chính thức này, mặc dù các điều kiện vay vốn có thể tùy chỉnh linh
hoạt nhưng tính chuẩn hóa không cao nên vì thế tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn việc vay vốn
trên các kênh tài chính chính thức.
Điều đáng tiếc là không có doanh nghiệp nào
từng huy động vốn qua phát hành trái phiếu mặc dù
điều kiện phát hành trái phiếu theo quy định hiện
hành là khá cởi mở. Chỉ cần doanh nghiệp hoạt
động tối thiểu một năm, có lãi, có kiểm toán là đủ điều kiện phát hành. Tuy nhiên kết quả
khảo sát cho thấy không có doanh nghiệp nào đã từng có ý định tiếp cận kênh vốn này mà
vẫn chủ yếu dựa vào kênh truyền thống. Nguyên do là điều kiện thì đơn giản nhưng triển
khai vào thực tiễn thì quá phức tạp và phát sinh nhiều chi phí, như chi phí minh bạch
thông tin, chi phí bảo lãnh phát hành, chi phí kiểm toán, v.v. Xét về tổng thể thì số chi phí
này cao hơn hẳn chi phí giao dịch với ngân hàng. Hơn nữa, phương thức này trở nên quá
phức tạp so với mặt bằng thấp về năng lực quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Bảng 2.2. Mức độ dễ tiếp cận các nguồn vốn
Nguồn vốn Mức độ dễ tiếp cận
Ngân hàng 2.7
Bạn bè, người thân 3.0
Tín dụng thương mại 3.0
Người chuyên cho vay 3.2
Ghi chú: Mức độ dễ tiếp cận được đánh giá 1 - rất khó đến 5 - rất dễ
Nguồn: Tính toán từ HCM survey
Hơn nữa, thị trường thứ cấp chưa phát triển để làm tăng thanh khoản và tính hấp dẫn
của trái phiếu doanh nghiệp. Vì vậy, ngay cả khi doanh nghiệp phát hành được trái phiếu,
thì cũng khó tìm được nhà đầu tư mua trái phiếu. Người mua trái phiếu chủ yếu vẫn là các
ngân hàng thương mại và công ty, quỹ tài chính. Do đó, kênh tín dụng vẫn bị rơi vào vòng
luẩn quẩn trong mối quan hệ doanh nghiệp – ngân hàng. Ngoài ra, yêu cầu về xếp hạng tín
dụng mới được phát hành trái phiếu là một điều kiện không khả thi trong bối cảnh thị
trường Việt Nam có quá ít đơn vị thực hiện dịch vụ xếp hạng tín dụng. Phát hành cổ phiếu
đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là bất khả thi trên thị trường Việt Nam vì các quốc
Thị trường tài chính chưa phát
huy vai trò cầu nối về vốn cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa
44
gia khác có thị trường riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng Việt Nam thì chưa và
còn khó khăn để hình thành.
Những rào cản tiếp cận tín dụng chính thức
Yêu cầu về tài sản đảm bảo
Mặc dù các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tầm nhìn dài hạn, song do quy mô nhỏ, tài sản chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là hàng tồn kho, luân chuyển trong kinh doanh (khoảng 50 phần trăm) kế đến là thiết bị, máy móc (dưới 35 phần trăm) và cuối cùng là bất động sản (trên 15 phần trăm) (xem Hình 2.3). Đây chính là khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi muốn tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hàng hay các quỹ hỗ trợ tín dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh vì đa phần đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Các ngân hàng, các quỹ tín dụng hỗ trợ SMEs nên cân nhắc nhìn vào uy tín, thâm niên, thành tích trong thời gian hoạt động hoặc kế hoạch kinh doanh để xem xét cho vay.
Về phía cung, gần 80 phần trăm các cán bộ ngân hàng khẳng định điều kiện về tài sản đảm bảo hiện là điều kiện tiên quyết khi xem xét thẩm định cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và dễ tổn thương như các doanh nghiệp nhỏ và vừa (xem Hình 2.). Về phía cầu, kết quả phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy đa số các doanh nghiệp đã khẳng định để vay được vốn ngân hàng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường phải thế chấp một nguồn tài sản có giá trị, gấp đôi hoặc gấp rưỡi so với giá trị khoản vay. Hơn nữa, các ngân hàng thường định giá thấp giá trị tài sản đảm bảo và áp dụng tỷ lệ cấp tín dụng khá hạn chế trên tổng giá trị tài sản đảm bảo sau định giá. Kết quả này cũng khá đồng nhất với kết quả từ Vietnam survey, gần 98 phần trăm số doanh nghiệp trên toàn quốc; 100 phần trăm số doanh nghiệp ở TP HCM đều cho rằng tài sản đảm bảo là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng thành công của hồ sơ vay vốn.
Hình 2.11. Tài sản đảm bảo quan trọng hơn phương án vay vốn
Nguồn: Tính toán từ cuộc điều tra cán bộ tín dụng
Không tiếp cận được nguồn tín dụng ngân hàng là rất đáng tiếc cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa bởi đây là nguồn cung vốn chủ yếu và dồi dào nhất ở Việt Nam. Theo số liệu
năm 2016, hệ thống ngân hàng điều tiết hơn 96 phần trăm tổng tài sản toàn hệ thống tài
chính, cung ứng đến 68 phần trăm vốn cho nền kinh tế. Thị trường tài chính chưa phát
triển đầy đủ nên các doanh nghiệp, không riêng gì các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn chủ
yếu phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng để giải quyết nhu cầu vốn. Việc giải bài toán khát
vốn cho doanh nghiệp chủ yếu vẫn tập trung vào việc xác định các điểm nghẽn trong dòng
Tài sản đảm bảo là rào cản lớn
nhất, khiến cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa khó tiếp cận được các
nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
45
vốn từ ngân hàng đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tìm cách khơi thông, trên nguyên tắc
hài hòa, đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp lẫn an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Điều này
còn tiếp tục kéo dài trong trung hạn, tương ứng với thời gian tối thiểu cần thiết để thúc
đẩy thị trường tài chính phát triển, tạo nên các cầu nối vốn bổ sung cho doanh nghiệp.
Điểm nghẽn chính là không thể nâng cao khả năng tiếp cận vốn ngân hàng bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp nhỏ và vừa bổ sung tài sản đảm bảo và cũng không thể yêu cầu ngân hàng bỏ điều kiện về tài sản đảm bảo trong cấp tín dụng. Một mặt, các doanh nghiệp gần như không có hoặc có mà không đủ tài sản đảm bảo cho nhu cầu vay vốn của mình. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát đã khẳng định điều này với điểm trung bình 2.4 (xem Bảng 2.3). Ngay cả những các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tài sản nhưng vẫn không được chấp nhận vì tài sản đó không nằm trong danh mục được ngân hàng chấp thuận làm tài sản đảm bảo. Kết quả khảo sát cho thấy đến hơn một nửa các doanh nghiệp nhỏ và vừa (gần 51 phần trăm) có tài sản hiện hữu ở dạng hàng tồn kho (nguyên vật liệu, thiết bị, thành phẩm) và lưu chuyển trong kinh doanh. Chỉ có tỷ lệ rất thấp, dưới 15 phần trăm, doanh nghiệp, có tài sản chính là bất động sản và cũng chỉ hơn 34 phần trăm có tài sản là thiết bị và máy móc có giá trị và giá trị sử dụng ổn định (xem Hình 2.3). Thực tế này hoàn toàn ngược lại với thứ tự ưu tiên các tài sản đảm bảo mà các ngân hàng lựa chọn khi cấp tín dụng. Ưu tiên hơn hết là bất động sản và hạn chế đối với hàng tồn kho, hàng lưu chuyển trong sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, các ngân hàng cũng khẳng định tỷ lệ các khoản vay có tài sản đảm bảo rơi vào quá hạn thấp hơn nhiều so với các khoản vay không có tài sản đảm bảo. Hơn nữa, tỷ lệ cho vay so với tài sản đảm bảo càng cao thì tỷ lệ quá hạn càng lớn. Dường như sự hiện diện của tài sản đảm bảo làm tăng trách nhiệm và ý thức trả nợ của doanh nghiệp. Điều này cũng là điểm mâu thuẫn từ thực tiễn so với lý luận, trong đó, tài sản đảm bảo chỉ là yếu tố cuối cùng trong xem xét cấp tín dụng. Trong nền kinh tế rủi ro và dễ tổn thương như Việt Nam, chú trọng tài sản đảm bảo khi thẩm định cấp tín dụng là khá hiển nhiên.
Bảng 2.3. Các rào cản tiếp cận tín dụng chính thức
Các rào cản vay vốn Vietnam survey HCM survey
Việt Nam TP HCM TP HCM
Thủ tục hành chính phức tạp 17.2 11.4 2.5
Điều kiện cho vay của ngân hàng khó 17.2 11.4 2.4
Lãi suất cho vay của ngân hàng cao 1.9
Chi phí vay vốn không chính thức quá lớn 2.2
Hệ thống sổ sách kế toán của doanh nghiệp không đầy đủ 7.1 11.4 2.6
Doanh nghiệp thiếu năng lực xây dựng dự án khả thi 18.2 14.3 2.9
Doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp để vay vốn 28.3 34.3 2.4
Tổng 100 100
Nguồn: Tính toán từ Vietnam survey và HCM survey
Điểm nghẽn:
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có
nhiều tài sản đảm bảo trong khi các ngân
hàng không thể nới lỏng điều kiện về tài
sản đảm bảo
46
Ghi chú: Mức độ quan trọng trong HCM survey được đánh giá theo thang đo 1 - rất
đồng ý đến 5 - rất không đồng ý. Mức độ quan trọng trong Vietnam survey được xếp hạng
theo thứ tự quan trọng.
Một lý do khác làm tăng tính nghiêm trọng của
rào cản tài sản đảm bảo, đó là ngân hàng có thể
thêm nguồn thu, không hề nhỏ và không hề rủi ro,
là phí thẩm định tài sản đảm bảo; khoản này được
thu ngay khi nhận hồ sơ. Nếu rút điều kiện về tài sản đảm bảo thì phía ngân hàng cũng
mất đi một khoản phí dịch vụ không hề nhỏ này.
Ở góc độ tác nghiệp, các tiêu chí để thẩm định tài sản đảm bảo thường đầy đủ, cụ thể, rõ ràng hơn so với tiêu chí thẩm định phương án vay vốn. Phương án vay vốn thì quá đa
dạng còn tài sản đảm bảo thì không quá phong phú. Đánh giá tính khả thi của phương án vay vốn khó hơn nhiều thẩm định giá trị tài sản đảm bảo. Chính vì vậy khi đánh giá đề
nghị vay vốn từ khách hàng, cán bộ ngân hàng thường ưu tiên bám sát vào kết quả thẩm định tài sản đảm bảo.
Trên thực tế, các ngân hàng cũng đã bắt đầu nới lỏng tín dụng cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Minh chứng bằng sự ra đời hàng loạt sản phẩm tín dụng không yêu cầu tài sản đảm bảo áp dụng riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong năm 2016. Tuy nhiên, quy mô
vốn mà ngân hàng đồng ý cho doanh nghiệp vay vẫn còn khá xa so với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Vietcapital chỉ cho vay tối đa 1,5 tỷ đồng, VPBank cho vay tối đa 5 tỷ
đồng không tài sản đảm bảo, gói SME Easy Plus của ABBank chỉ tối đa 1 tỷ. Ngay cả có tài sản đảm bảo là bất động sản, một số ngân hàng vẫn chỉ giới hạn quy mô khoản vay ở mức tối đa 5 tỷ; tiêu biểu là gói SME Fast Loan của ABBank.
Về nguyên lý, nếu ngân hàng đã duyệt vay, thì số tiền duyệt vay cộng với số vốn doanh nghiệp chủ động được phải đảm bảo đủ vốn để thực hiện phương án kinh doanh, vận hành và tạo nguồn thu trở lại để trả nợ. Về thực tiễn, ngân hàng có thể duyệt vay cho doanh nghiệp, nhưng chỉ đồng ý với số tiền duyệt vay giới hạn theo sản phẩm tín dụng đã
thiết kế. Hậu quả là các doanh nghiệp nếu có chấp nhận khoản vốn vay này thì cũng không đủ để triển khai phương án kinh doanh và phải tiếp tục tìm thêm nguồn vốn bổ sung khác. Điều này được minh chứng qua những số liệu từ Hình 2.11. Chỉ có hơn 33
phần trăm số doanh nghiệp được ngân hàng cấp cho mức vốn từ 50 phần trăm trở lên so với nhu cầu của doanh nghiệp. Có đến 19 phần trăm số doanh nghiệp chỉ tiếp cận được
1/4 so với nhu cầu của họ. Điều đáng nói là 100 phần trăm doanh nghiệp sau khi tiếp cận vốn ngân hàng đều phải tiếp tục tìm kiếm các kênh vốn khác, ngoài ngân hàng, để đáp
ứng nhu cầu hoạt động của họ. Điều này tiềm ẩn rất nhiều những rủi ro cho cả khu vực doanh nghiệp lẫn khu vực ngân hàng.
Yêu cầu về thời gian hoạt động tối thiểu và báo cáo tài chính
Nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng, nhiều ngân hàng thương mại áp dụng cùng một bộ tiêu chí thẩm định, cùng bộ tiêu chí xếp hạng rủi ro cho mọi doanh nghiệp từ quy mô nhỏ
Ngay cả khi có tài sản đảm bảo thì
doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn về
quy mô vốn được duyệt vay
47
đến lớn mà chưa xét đến đặc thù riêng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những tiêu chí
ấy là rào cản lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các tiêu chí sàng lọc khách hàng doanh nghiệp của VPBank gồm: i) doanh nghiệp
phải hoạt động từ hai năm trở lên, ii) không có nợ nhóm II, iii) doanh thu trên báo cáo tối
thiểu 5 tỷ đồng. Bên cạnh đó, VPBank còn hạn chế số vốn cho vay bằng 10 phần trăm
doanh thu, tổng dư nợ khống chế ở mức 5 tỷ đồng, báo cáo phải có xác nhận của cơ quan
thuế. Có thể yêu cầu tài sản đảm bảo hoặc không.
Tiêu chí sàng lọc khách hàng doanh nghiệp của Maritime Bank gồm: i) doanh nghiệp
phải có thời gian hoạt động từ hai năm trở lên, ii) doanh thu thuần từ 20 tỷ đồng trở lên.
Ngoài ra, ngân hàng còn hạn chế số vốn cho vay bằng 10 phần trăm doanh thu, tổng dư nợ
khống chế ở mức 4 tỷ đồng. Ngân hàng có thể yêu cầu tài sản đảm bảo hoặc không.
Tiêu chí sàng lọc khách hàng doanh nghiệp của ACB gồm: i) doanh nghiệp phải có
thời gian hoạt động từ hai năm trở lên, ii) phải có báo cáo tài chính ít nhất hai năm. Ngân
hàng có thể yêu cầu tài sản đảm bảo hoặc không.
Riêng khu vực ngân hàng có vốn nhà nước thì các điều kiện này đã được nới lỏng
trong thời gian từ đầu năm 2017 đến nay. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chấp nhận xét
cấp tín dụng đối với doanh nghiệp mới hoạt động, chỉ cần chứng minh thời gian hoạt động
đủ sáu tháng, tổng doanh thu tối đa 20 tỷ đồng, báo cáo tài chính nửa năm có xác nhận của
cơ quan thuế. Tổng dư nợ tối đa cho phép bằng với 10 lần vốn chủ sở hữu, tuy nhiên tài
sản đảm bảo là yêu cầu bắt buộc.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng chấp nhận xét cấp tín dụng đối
với doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động, không quy định cụ thể các điều kiện tín
dụng mà xét linh hoạt cho từng phương án vay vốn riêng.
Với cơ chế sàng lọc này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều bất lợi, mức đáp
ứng thấp so với các doanh nghiệp lớn. Kết quả điều tra cho thấy có đến 95 phần trăm
doanh nghiệp (xem Hình 2.1) không đáp ứng được ngay tiêu chí đầu tiên về thời gian hoạt
động tối thiểu là hai năm.
Tuy nhiên, quy mô vốn nhỏ và vấn đề minh bạch thông tin cũng khiến cho các doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nhà đầu tư để huy động vốn từ ngân hàng hay
từ thị trường chứng khoán. Vì vậy, các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn phi
chính thức, tín dụng thương mại và lợi nhuận giữ lại. Ngay cả khi tiếp cận được nguồn
vốn tín dụng ngân hàng, cũng không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp do hạn chế về thủ tục vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh chưa hoàn thiện, tài
sản bảo đảm chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn của ngân hàng.
Trình độ quản lý của doanh nghiệp còn hạn chế
Kết quả khảo sát cho thấy mặt bằng trình độ quản lý tài sản, quản lý vốn của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp không chứng minh được đầu
48
vào ổn định, đầu ra bền vững, mang lại nguồn thu đảm bảo khả năng trả nợ. Kế hoạch
kinh doanh còn mang tính tự phát, thời vụ chứ chưa có tính chiến lược và thiếu các
phương án dự phòng rủi ro. Cứ hai doanh nghiệp thì có một đang hoạt động hoặc cầm
chừng hoặc ở giai đoạn đầu của chu kỳ kinh doanh. Chỉ có hơn 1/3 số doanh nghiệp nhỏ
và vừa đã hoạt động ổn định tại điểm hòa vốn và hơn 13 phần trăm số doanh nghiệp đã
hoạt động ở mức sinh lãi kỳ vọng. Có đến 57 phần trăm số doanh nghiệp không xây dựng
phương án dự phòng rủi ro trung dài hạn và 75 phần trăm số doanh nghiệp không xây
dựng phương án dự phòng cho các rủi ro tiềm ẩn ngắn hạn (xem Hình 2.).
Không chỉ trình độ quản lý tài chính thấp mà ngay cả quản lý hoạt động cũng còn
nhiều hạn chế. Chỉ có một tỷ lệ rất thấp các chủ doanh nghiệp có tìm đọc các báo cáo
phân tích thị trường hoặc sử dụng cố vấn chiến lược hay nắm bắt kịp thời thông tin, chính
sách liên quan đến lĩnh vực hoạt động. Số đông chủ yếu các chủ doanh nghiệp đưa ra các
quyết sách kinh doanh dựa trên kinh nghiệm và cảm tính.
Như vậy, những quan ngại của các ngân hàng khi cấp vốn cho các doanh nghiệp là
hoàn toàn có căn cứ. Nhiều ngân hàng đã thiết lập tiêu chí sàng lọc khách hàng: i) doanh
nghiệp đã có quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định, vượt qua điểm hòa vốn.
Một số ngân hàng khác chỉ tiếp nhận hồ sơ đề nghị vay vốn khi doanh nghiệp đã có báo
cáo tài chính và báo cáo quyết toán thuế ít nhất một năm. Điều này tiếp tục làm tăng rào
cản tiếp cận vốn cho doanh nghiệp. Nguồn tín dụng ngân hàng đã khó càng trở nên khó
hơn với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Những hệ quả khi nhu cầu tín dụng chính thức không được đáp ứng
Chỉ có hơn 60 phần trăm số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được tín
dụng ngân hàng. Số còn lại gần 40 phần trăm số doanh nghiệp tiếp tục tìm kiếm vốn ở các
kênh khác, chủ yếu là các nguồn vốn phi chính thức. Ngay cả khi tiếp cận được nguồn
vốn ngân hàng thì số vốn vay được cũng rất hạn chế so với nhu cầu của doanh nghiệp. Chỉ
có hơn 33 phần trăm số doanh nghiệp vay được hơn phân nửa nhu cầu vốn, gần 48 phần
trăm số doanh nghiệp chỉ vay được từ 25 phần trăm đến dưới 50 phần trăm nhu cầu vốn
và 19 phần trăm doanh nghiệp chỉ vay được một phần tư so với nhu cầu vay vốn.
Khi không tiếp cận được nguồn tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp buộc tìm kiếm các
kênh khác thay thế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn quá lệ thuộc vào kênh
tín dụng ngân hàng. Do thị trường tài chính ở Việt Nam chưa phát triển, chưa có nhiều
kênh vốn chính thức khác, bổ sung và thay thế cho kênh tín dụng ngân hàng. Hơn nữa,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có nhận thức đầy đủ và chưa sẵn sàng tiếp cận các
kênh cung vốn chính thức khác ngoài tín dụng ngân hàng.
Hệ lụy không chỉ nằm ở việc nhiều phương án kinh doanh buộc phải dừng lại vì thiếu
vốn, mà còn hơn thế nữa, ở góc độ vĩ mô. Thứ nhất, sự siết chặt cung vốn và tính chuẩn
hóa ngày càng cao về các điều kiện vay vốn trên thị trường chính thức lại là cơ hội cho sự
phát triển mạnh mẽ của các kênh vốn phi chính thức, với khẩu vị rủi ro cao hơn, các điều
49
kiện tùy nghi hơn, chi phí thực tốn kém hơn. Điều này đi ngược với xu hướng phát triển
bền vững của tổng thể thị trường tài chính quốc gia. Thị trường phi chính thức, nơi tiềm
ẩn nhiều rủi ro, càng phát triển thì càng de dọa đến an ninh hệ thống tài chính vốn đã dễ
tổn thương trong nền kinh tế.
Thứ hai, tốc độ gia tăng số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhanh hơn rất nhiều
so với sức đáp ứng của hệ thống tài chính chính thức trong nền kinh tế chúng ta. Với
chính sách khuyến khích hộ kinh doanh gia đình chuyển lên hoạt động ở dạng doanh
nghiệp nhỏ và vừa, chỉ trong thời gian ngắn, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ mở
rộng ồ ạt. Vấn đề các doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được nguồn tín dụng chính
thức sẽ càng trầm trọng hơn trong tương lai gần. Nếu hôm nay không quyết liệt tháo gỡ
nút thắt này thì sự bế tắc chính là tương lai gần cho doanh nghiệp Việt Nam.
2.4. HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Từ các kết quả phân tích ở trên, để các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn vốn chính
thức thuận lợi hơn nữa, cần có các chính sách thúc
đẩy các thị trường vốn phát triển. Bên cạnh đó, cần
khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin giúp kết nối doanh nghiệp với các ngân hàng
thương mại. Rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa không có đủ minh chứng pháp lý cho
năng lực tài chính theo yêu cầu của ngân hàng thương mại. Số lớn khác dù có hệ thống
báo cáo tài chính để cung cấp cho ngân hàng, song, nội dung bên trong lại bất nhất với hệ
thống báo cáo thuế. Yêu cầu doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính cũng là một điều kiện chưa khả thi, chưa thể phổ cập khi lực lượng kiểm toán ở Việt
Nam còn hạn chế về số lượng lẫn chất lượng, chưa
kể đến yếu tố chi phí kiểm toán rất cao so với chi
phí hoạt động bình quân của doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Sự bất cân xứng thông tin này khiến các ngân
hàng thương mại lúng túng, thiếu căn cứ tin cậy
khi thẩm định và sàng lọc khách hàng.
Chúng tôi kiến nghị cách khắc phục tình trạng
này thông qua việc phát triển mạnh mẽ hơn nữa các phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm tăng sự trao đổi thông tin giữa hai
khu vực này. Với thanh toán không dùng tiền mặt, các khoản doanh thu, chi phí, thuế,
dòng tiền các loại của doanh nghiệp nhỏ và vừa đều thực hiện qua hệ thống thanh toán của
ngân hàng. Như vậy, các vấn đề bất nhất trong nội dung của báo cáo tài chính sẽ tự động
giảm dần, tính minh bạch tăng dần. Tương tự như thế với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
mới thành lập, chưa có báo cáo tài chính, các ngân hàng có thể sử dụng nguồn thông tin
mới này như một kênh thay thế, bổ sung. Hệ thống báo cáo sao kê tài khoản ngân hàng là
đáng tin cậy và có căn cứ pháp lý, hoàn toàn có thể sử dụng để đánh giá năng lực tài chính
của doanh nghiệp nhỏ và vừa khi thẩm định đề nghị vay vốn.
Cần tháo gỡ điểm nghẽn về tài sản
đảm bảo
Các ngân hàng có thể bổ sung danh
mục tài sản được chấp nhận làm
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh cho các
khoản tín dụng cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa
50
Bên cạnh đó, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa về kỹ năng kinh doanh, kỹ năng lập
phương án kinh doanh khả thi, kỹ năng quản lý
doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sổ sách kế toán và
tài chính của doanh nghiệp là cần thiết. Những kỹ năng ấy sẽ giúp cho các doanh nghiệp
kinh doanh hiệu quả hơn, và dễ tiếp cận với các nguồn vốn chính thức hơn.
Các ngân hàng thương mại có thể giảm các điều kiện về tài sản đảm bảo, xem xét bổ
sung danh mục tài sản được chấp nhận làm tài sản đảm bảo, tăng tỷ lệ cho vay so với tài
sản đảm bảo. Điều này không có nghĩa là bỏ hoàn toàn điều kiện về tài sản đảm bảo, mà
tập trung vào việc tăng tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo. Khuyến nghị này một mặt, xuất
phát từ điểm nghẽn của kênh tín dụng từ ngân hàng sang doanh nghiệp vừa và nhỏ như
phân tích ở trên. Mặt khác, dựa trên tham khảo kinh nghiệm từ Hàn quốc. Bằng chứng
thực nghiệm từ nghiên cứu trên 14 ngân hàng thương mại Hàn Quốc trong suốt 10 năm từ
2001 đến 2010 đã khẳng định sự tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa tài sản đảm bảo và hiệu
quả của ngân hàng. Tỷ lệ tài sản đảm bảo trên doanh số cho vay càng cao thì hiệu quả
hoạt động của ngân hàng càng lớn (Liang, Huang, Liao and Gao, 2017). Căn cứ trên các
bằng chứng này thì việc gỡ bỏ các điều kiện về tài sản đảm bảo là không phù hợp. Tài sản
đảm bảo góp phần làm giảm các khoản tổn thất dự kiến từ nợ xấu và làm tăng lợi tức kỳ
vọng từ các khoản cho vay. Trong trường hợp xảy ra tổn thất, các khoản tổn thất cũng
giảm đi nhờ có tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản ở 14 ngân hàng Hàn quốc là rất
thấp. Doanh số cho vay có đảm bảo chỉ chiếm hơn 7 phần trăm tổng doanh số cho vay,
cao nhất cũng chỉ tương đương 12 phần trăm và thấp nhất chỉ có chưa đến 4 phần trăm. Ở
các ngân hàng Việt Nam, tỷ lệ này là cao hơn rất nhiều vì hầu hết các ngân hàng đều coi
tài sản đảm bảo là tiêu chí quan trọng nhất để xét hồ sơ cho vay, và khoản cho vay thường
có giá trị nhỏ hơn giá trị của tài sản đảm bảo. Điều này cho thấy các ngân hàng thương
mại Việt Nam đang tránh rủi ro tín dụng bằng các điều kiện chặt chẽ với tài sản đảm bảo.
Vì sự phát triển chung của toàn hệ thống và của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại
cần đặt trọng tâm nhiều hơn vào phương án vay vốn và nâng cao năng lực của mình trong
công tác quản trị rủi ro tín dụng. Có như vậy, kênh vốn chính thức này mới được mở rộng
cho khu vực doanh nghiệp. Ngoài ra, ở góc độ quản lý vĩ mô, ngân hàng nhà nước cần
nghiên cứu và bổ sung thêm chỉ tiêu kiểm soát về tỷ lệ cho vay không yêu cầu tài sản đảm
bảo vào bộ chỉ tiêu quản lý hoạt động các ngân hàng thương mại, song song với tiêu chí tỷ
lệ nợ xấu.
Bên cạnh đó, cần thiết phải tiếp tục mở rộng các chương trình bảo lãnh tín dụng theo
hướng mỗi chương trình được thiết kế trực tiếp vào nhóm nhu cầu vay của doanh nghiệp,
nhằm trực tiếp quản trị rủi ro đối với từng loại nhu cầu và thiết kế các sản phẩm bảo lãnh
tín dụng tương ứng. Hiệu quả của các chương trình bảo lãnh tín dụng đối với việc cải
Bổ sung các sản phẩm tín dụng
thương mại như bao thanh toán,
cho thuê tài chính…
51
thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu
thực nghiệm tại nhiều quốc gia. Tiêu biểu có nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2016),
các chương trình bảo lãnh tín dụng có thể làm giảm sự bất cân xứng thông tin và cho phép
giảm nhẹ yêu cầu về tài sản đảm bảo ở khu vực doanh nghiệp. Việc vận hành các chương
trình này cũng tạo ra một cơ chế chia sẻ và đa dạng hóa rủi ro trên thị trường này. Ở Việt
Nam hiện đã có hệ thống các quỹ và tổ chức triển khai các chương trình bảo lãnh tín dụng
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tuy nhiên hiệu quả chưa cao vì các sản phẩm dịch vụ
bảo lãnh còn quá chung chung, tiêu chí thẩm định không có sự phân biệt và không có
nhiều tính hỗ trợ khuyến khích so với bộ tiêu chí thẩm định tín dụng của ngân hàng
thương mại. Các gói bảo lãnh tín dụng chưa được thiết kế đa dạng và chưa đáp ứng được
nhu cầu của doanh nghiệp.
Hiện nay, chưa có những phân định rõ ràng giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa và các
khởi nghiệp (start-up). Tín dụng cho hai dạng hình doanh nghiệp này có tính chất rất khác
nhau và cần được phục vụ bởi hai khu vực tài chính khác nhau. Các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường là khách hàng tín dụng của các ngân hàng thương mại còn start-up cần được
phục vụ bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm, các đơn vị cung vốn có khẩu vị rủi ro cao hơn và
hệ thống quản trị rủi ro đặc thù hơn. Việc đánh đồng giữa hai nhóm này có thể dẫn đến
việc đánh đồng các chính sách tín dụng và chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp,
từ đó tạo áp lực gián tiếp lên các ngân hàng thương mại trong việc cung vốn, có thể để lại
hậu quả nợ xấu hàng loạt trong tương lai gần. Việt Nam đã có tiền lệ về vấn đề này, hậu
quả nợ xấu từ giai đoạn 2002 – 2005 đã kéo dài nhiều năm sau. Ngay ở hiện tại, hưởng
ứng chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, một số ngân hàng thương mại đã hạ
chuẩn sàng lọc khách hàng, trong đó chấp nhận thẩm định cho vay đối với những doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động sáu tháng, thẩm định tài chính dựa trên quyết toán thuế nửa
năm của doanh nghiệp có xác nhận của cơ quan thuế. Điều này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro
trong tương lai gần vì các ngân hàng thương mại không nên đảm nhiệm vai trò của các
quỹ đầu tư mạo hiểm.
Rõ ràng cần định nghĩa cụ thể và xây dựng tiêu chí xác định rõ ràng hai loại hình
doanh nghiệp này. Các tiêu chí phân biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa, có hiệu lực từ năm 2018 chỉ mới căn cứ trên quy mô doanh
nghiệp mà thôi. Theo Luật này, tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm quy mô
về vốn, quy mô doanh thu và quy mô về lao động. Doanh nghiệp có số lao động tham gia
bảo hiểm xã hội bình quân không quá 200 người và đáp ứng một trong số các tiêu chí
tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá
300 tỷ đồng xét cụ thể trong từng lĩnh vực.
Các tiêu chí này là chưa cụ thể nếu nhìn từ góc độ quản trị rủi ro tín dụng của hệ
thống tài chính đối với khu vực doanh nghiệp. Như phân tích ở trên, những doanh nghiệp
mới thành lập dưới một năm, chưa có báo cáo tài chính đầy đủ dù tiềm năng lớn thì vẫn
52
gặp trở ngại tiếp cận tín dụng ngân hàng. Thiếu báo cáo tài chính là thiếu hẳn căn cứ tin
cậy về pháp lý để đánh giá năng lực, sức khỏe tài chính và mức độ sẵn lòng thực hiện các
cam kết tài chính của doanh nghiệp đối với nhà nước, đối tác và người lao động. Báo cáo
tài chính là một trong những tiêu chí chính giúp sàng lọc rủi ro của hệ thống ngân hàng
thương mại. Nếu áp dụng bộ tiêu chí hiện hành thì các doanh nghiệp dạng này vẫn thuộc
vào nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn thuộc vào đối tượng khách hàng của khu vực
ngân hàng thương mại trong khi khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng là thấp hơn hẳn so
với các doanh nghiệp khác cùng quy mô. Tốt hơn là các doanh nghiệp này thuộc vào đối
tượng khách hàng của các quỹ đầu tư mạo hiểm với chính sách tín dụng và chính sách hỗ
trợ riêng.
Căn cứ từ những phân tích trong chương này, cần bổ sung thêm tiêu chí thời gian hoạt
động vào bộ tiêu chí phân biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể, doanh nghiệp có thời
gian hoạt động trên một năm, đã có báo cáo tài chính đầy đủ thì mới được coi là doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Ngược lại thì được coi là khởi nghiệp. Tuy nhiên, tiêu chí này không
nên áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa được chuyển đổi từ hộ kinh doanh. Do
trước khi chuyển đổi thành doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã đăng ký và hoạt động theo
quy định của pháp luật, hoạt động sản xuất và kinh doanh liên tục và ít nhất là một
năm tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Các doanh
nghiệp này tuy chưa có báo cáo tài chính nhưng đã có đủ hồ sơ hợp pháp khác để
chứng minh năng lực tài chính của mình. Tiêu chí một năm được xác định dựa trên kết
quả khảo sát và phân tích đã thực hiện trong đó đã chỉ ra rằng doanh nghiệp dưới một
năm có khả năng tiếp cận tín dụng thấp hơn hẳn so với doanh nghiệp có thời gian trên
một năm, tỷ lệ thành công của hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp dưới một tuổi chỉ
đạt 52 phần trăm, thấp hơn nhiều so với trung bình của tất các các doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở TP HCM, 78 phần trăm.
Cuối cùng, các ngân hàng có thể triển khai rộng rãi hình thức bao thanh toán để tháo
gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trên thực tế, sản phẩm của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các doanh nghiệp
lớn trên thị trường. Song một rào cản đáng kể là để sản phẩm được tham gia vào chuỗi
cung ứng đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn để thực hiện giao hàng trả chậm. Các
ngân hàng có thể triển khai cho vay ngay trên chính đơn hàng. Việc cho vay theo hình
thức này có lợi cho cả phía doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp tiết kiệm được
thời gian lập dự án khả thi, thời gian chuẩn bị hồ sơ vay vốn, và thời gian tập hợp các
minh chứng khác. Hình thức này cũng giảm rủi ro cho các ngân hàng vì khoản vay đã
được bảo đảm bằng chính giá trị của lô hàng đã được chuyển cho nhà phân phối.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Kinh tế Trung ương (2017), Chẩn đoán tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
https://drive.google.com/file/d/0BxIHBqh1gCO5RFE5emc4dnJjVUE/view
Harvie C., Narjoko D., Oum S. (2013), Small and Medium Enterprises’ Access to Finance: Evidence from
Selected Asian Economies, ERIA Discussion Paper Series.
Liang, L.W., Huang, B.Y., Liao, C.F., and Gao, Y.T. (2017), The impact of SMEs’ lending and credit
guarantee on bank efficiency in South Korea. Review of Development Finance 7, 134–141. doi
http://dx.doi.org/10.1016/j.rdf.2017.04.003.
Marchesnay M. et al. (1998), Les PME: Bilan et Perspectives, Edition Economica.
Moreira (2016), The microeconomic impact on growth of SMEs when the access to finance widens:
evidence from internet & high-tech industry, Procedia - Social and Behavioral Sciences 220 (2016)
278 – 287.
Nguyễn Thị Cành et al. (2008), Khả năng tiếp cận nguồn tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam,
Tạp chí Công nghệ Ngân hàng.
Quartey P., Turkson E., Abor J. Y., Iddrisu A. M. (2017), Financing the growth of SMEs in Africa: What
are the contraints to SME financing within ECOWAS? Review of Development Finance 7 (1), 18-28.
doi https://doi.org/10.1016/j.rdf.2017.03.001.
Rahaman, M.M. (2011), Access to financing and firm growth, Journal of Banking & Finance 35 pp.
709 – 723.
Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) (2009), Cẩm nang kiến thức Dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Washington.
Top Related