thanh tra tính - sở tư pháp hội luật gia tính - đoàn luật sư
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI QUAN HỆ...
-
Upload
independent -
Category
Documents
-
view
0 -
download
0
Transcript of BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI QUAN HỆ...
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN NĂM
QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN NĂM
QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số 62.38.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan
2. TS. Nguyễn Quốc Hoàn
HÀ NỘI 2012
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu trong luận án là
trung thực, những kết luận khoa học của luận án là kết quả
của quá trình nghiên cứu độc lập và chƣa đƣợc ngƣời khác
công bố.
Tháng 8 năm 2012
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Văn Năm
4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó,
pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế
vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúng
luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, để
quản lý xã hội một cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp
luật với đạo đức.
Tuy nhiên, thực tế Việt Nam cho thấy, vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức
cũng như mối quan hệ giữa chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúng
đắn, đầy đủ cả từ phía nhà nước, cả từ phía xã hội. Trong cơ chế kinh tế cũ, nhận
thức về pháp luật có hai khuynh hướng, hoặc quá đề cao pháp luật, coi pháp luật là
công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cách
duy ý chí; hoặc lại hạ thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hành
chính, các quan niệm đạo đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi
người... để thay thế cho pháp luật. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước đây,
do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã không thấy hết được vai
trò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm
chí nhiều quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc còn bị coi là tàn dư của chế
độ cũ cần phải loại bỏ. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó còn ảnh hưởng không
nhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong thực tiễn,
việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, một mặt,
những ưu thế vốn có của pháp luật cũng như đạo đức không được phát huy hết, mặt
khác, sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được, chính
vì vậy, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa
cao.
Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã qui định: “Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng nhà nước pháp quyền đã
trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước và toàn xã hội. Trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật được đặc biệt coi trọng, giữ vai
trò thống trị trong đời sống nhà nước và xã hội, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
kể cả nhà nước đều phải thượng tôn pháp luật, chấp pháp nghiêm chỉnh. Tuy nhiên,
Việt Nam là một quốc gia Á Đông, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi
trọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Truyền
5
thống đó ăn sâu, bám chắc trong tâm lý xã hội, nó cố kết chặt chẽ trong tư duy con
người. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thói quen xử sự theo đạo lý
vẫn còn “ngự trị” trong lối sống của không ít người, ngược lại, thói quen xử sự theo
pháp luật vẫn chưa được hình thành. Trong điều kiện đó, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay gặp không ít khó khăn.
Qua mấy chục năm tiến hành công cuộc cải cách, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, cùng với nó, mặt trái của nền kinh tế thị trường và việc hợp tác, hội nhập
quốc tế cũng gây ra không ít phức tạp, đó là sự coi thường các giá trị truyền thống,
lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc lên trên
hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách… Sự xuống cấp của đạo đức xã hội đã gây
ra những hệ lụy to lớn, làm đảo lộn các giá trị của cuộc sống, cản trở sự phát triển
của xã hội, làm xã hội vận động, phát triển một cách không lành mạnh, thiếu vững
chắc.
Do vậy, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,
giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Phát triển kinh tế phải đi
đôi với xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hợp tác, hội nhập sâu rộng vào đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quốc tế. Bản lĩnh, sự tự tin cũng như sự
thành công trong các quan hệ quốc tế phụ thuộc khá lớn vào nền tảng văn hóa
phong phú và đặc sắc của dân tộc. Mở cửa, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì ảnh hưởng của điều kiện quốc tế đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước
ngày càng lớn, trong đó, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cũng có không ít
những ảnh hưởng tiêu cực. “Mở cửa ra, gió mát lùa vào thì ruồi muỗi cũng bay
vào”. Chính vì vậy, cần phải có những rào cản hữu hiệu để sàng lọc, tiếp thu, học
hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, ngăn chặn sự ảnh hưởng của những
quan điểm, tư tưởng, lối sống độc hại…Trong điều kiện đó, các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc là một màng lọc có hiệu quả nhất, chúng “đóng vai trò
màng lọc và điều tiết việc sản sinh, tiếp thu cái mới, nhất là cái mới từ bên ngoài”,
bởi lẽ chúng đã được “sàng lọc, tích lũy và kế thừa qua nhiều thế hệ”, chúng đã trở
thành “thuần phong, mỹ tục và mang “khí thiêng sông núi” [123, tr.170,171]. Chính
vì vậy, việc giữ gìn,bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn và vô cùng cần thiết.
6
Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, cần phải nghiên cứu một cách sâu
sắc, toàn diện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đặc biệt là mối quan hệ giữa
chúng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, nhằm có
được những tri thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ưu thế cũng như hạn chế của từng
yếu tố, sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng... Trên cơ sở đó,
đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp
để tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp đạo đức, đảm bảo sự tôn
nghiêm của luật pháp, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, củng cố, giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam là một đề tài rất lớn, và
tương đối phức tạp. Liên quan đến đề tài này, có nhiều công trình nghiên cứu ở
những góc độ, mức độ và phạm vi khác nhau. Trong đó, bao gồm các công trình
nhiên cứu về vai trò, giá trị xã hội của đạo đức; các công trình nghiên cứu về vai
trò, giá trị xã hội của pháp luật; các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức.
Nhóm 1: Các công trình nghiên cứu về vai trò của đạo đức
Có thể nói, có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội. Là một nội dung quan trọng của đạo đức học nên có thể
nói, tất cả các giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học
đều đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, vì giới hạn ở một giáo trình nên nhìn chung,
vấn đề này được đề cập một cách hết sức khái quát. Cũng có khá nhiều công trình
chuyên khảo chuyên sâu nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau đây:
Cuốn Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay là một công trình được biên soạn bởi một tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn
Trọng Chuẩn và PGS.TS Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên. Công trình là tập hợp
các bài viết của các tác giả, đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu đề cập vai trò
của đạo đức trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường của nước ta, vấn đề giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề xây dựng đạo đức trong bối
cảnh phát triển nền kinh tế thị trường. Cuốn Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của TS Trịnh Duy Huy đề cập một cách
cụ thể hơn về những giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị
7
trường ở nước ta hiện nay. Cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội do GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh chủ biên, đề cập các vấn đề về vai trò của lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội đối với việc xây dựng con người, vấn đề kế thừa
và phát triển nếp sống, đạo đức và các giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt,
cuốn sách dành một phần quan trọng phân tích kinh nghiệm và bài học của một số
nước cho Việt Nam trong việc xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội.
Có thể nói, đây là những bài học quí báu cho Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Cuốn Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội do PGS Trường Lưu chủ biên, tiếp cận vấn
đề dưới góc độ văn hóa, cuốn sách đã dành những phần nhất định đề cập vấn đề đạo
đức, lối sống và vai trò của đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Cùng
chung cách tiếp cận này có cuốn Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam của PGS.TS Thành Duy. Cuốn Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến
trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay do TS Nguyễn Thế Kiệt chủ
biên, cuốn sách tập trung nhận diện những tàn dư của đạo đức phong kiến và ảnh
hưởng của nó đến tư duy và hành động của cán bộ, công chức nước ta hiện nay.
Cùng chủ đề này có cuốn Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người
Việt Nam hiện nay của TS Nguyễn Bình Yên. Công trình dành phần chủ yếu để
phân tích những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phong kiến trong xã hội Việt nam
hiện nay, đó là tư tưởng địa vị, đẳng cấp, bệnh gia trưởng, gia đình chủ nghĩa, cục
bộ, bản vị, trọng nam khinh nữ, coi thường lớp trẻ.... Sách cũng đưa ra những giải
pháp thiết thực nhằm đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức
phong kiến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật
Vai trò của pháp luật là một nội dung cơ bản của khoa học pháp lý, vì vậy
vấn đề này được đề cập ở tất cả các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của
các trường luật, tuy nhiên vấn đề luôn chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái quát.
Các công trình chuyên khảo về vấn đề này cũng khá nhiều, có thể kể ra một số công
trình tiêu biểu sau đây:
Trước hết đó là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của TS.
Nguyễn Minh Đoan, cuốn sách phân tích khá sâu sắc về vai trò của pháp luật đối
với nhà nước, đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của
Đảng... Trong cuốn sách này, tác giả đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, pháp
luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý quan trọng, có hiệu
quả nhất, tuy nhiên, nó không phải là công cụ quản lý duy nhất, công cụ quản lý vạn
năng. Cuốn Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, những vấn đề lý
8
luận và thực tiễn của PGS.TS Lê Minh Tâm đề cập giá trị xã hội của pháp luật.
Sách phân tích và luận giải khá sâu sắc để khẳng định rằng, pháp luật là sự biểu
hiện của văn minh và văn hóa; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội,
bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người,
bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội, là nhân tố quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững của xã hội. Cuốn Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở của
PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan đề cập đến các vấn đề về lối sống theo pháp luật và
những vấn đề ảnh hưởng đến lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay. Sách cũng
đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Cuốn Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách con người của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, sách tập trung phân tích vai
trò của pháp luật trong việc hình thành nhân cách người chưa thành niên, qua đó
sách đề cập đến nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục pháp luật cho người chưa
thành niên.
Nhóm 3: Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, trong đó:
Một là: Các giáo trình luật học, đạo đức học
Có thể nói, các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo
luật, giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học đều đề cập
tới vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết các giáo trình này đều chỉ đề cập vấn đề này một
cách rất khái quát, sơ lược.
Hai là: Các bài báo, tạp chí
Trên các tạp chí chuyên ngành như Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập
pháp, Luật học, Triết học... có khá nhiều công trình của các tác giả đề cập tới vấn đề
này. Tác giả HoàngThị Kim Quế có hàng loạt bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức: Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnh
hành vi con người trong quản lý xã hội (Tạp chí Đại học Quốc gia, chuyên đề khoa
học xã hội, số 4/1997); Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1999); Một
số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2000); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo
đức (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002); Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng
pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay (Tạp chí Triết học, số
12/2002); Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức (Tạp chí Luật học số
7/2006)... Tác giả Trần Hậu Thành có bài viết Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
9
luật (Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 5/1998). Hai tác giả Lê Hoài Thanh và
Trần Hậu Thành có bài Về quan hệ giữa pháp luật và đạo đức (Tạp chí Khoa học
Chính trị, số 6/2000). Tác giả Hoàng Thị Hạnh có bài Góp phần tìm hiểu mối quan
hệ giữa đạo đức và pháp luật (Diễn đàn thông tin khoa học xã hội). Tác giả Thành
Duy có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo
đức và lợi ích công dân (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1995)...
Mặc dù đều là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bài tạp chí, nên
nhìn chung các tác giả đều dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của vấn đề,
không có điều kiện để giải quyết toàn diện các khía cạnh của nó.
Ba là: Các đề tài nghiên cứu khoa học
Trước hết là công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia của tiến
sĩ Hoàng Thị Kim Quế: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã
hội ở nước ta hiện nay". Công trình nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề như vị trí,
vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tính cấp thiết
khách quan của việc kết hợp pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội; việc kết hợp
giữa pháp luật với đạo đức trên thực tế trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức. Tuy nhiên, công trình vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để
những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Mặt khác, như
chính tác giả chỉ rõ, công trình này mới chỉ bước đầu nghiên cứu những biểu hiện
việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật. Tiếp theo là
công trình nghiên cứu khoa học cấp khoa trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội của
Thạc sỹ Nguyễn Quốc Việt với đề tài: “Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống
trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay”.Công trình đề
cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay của nước ta, đó là việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quá trình cải
cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế. Tác giả
đã luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo lưu các giá trị đạo đức
truyền thống ở nước ta hiện nay... Tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp nhằm bảo
lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi một công trình nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở nên công trình này còn nhiều hạn chế: một là, công trình chỉ tiếp
cận một khía cạnh rất hẹp của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức như tên của
10
công trình đã chỉ rõ; hai là, sự luận giải về sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo
đức truyền thống chưa sâu sắc, bởi vậy, sẽ là khó thuyết phục khi tác giả muốn luật
hóa tất cả các giá trị đạo đức truyền thống; ba là, phương pháp, cách thức bảo lưu
các giá trị đạo đức truyền thống; các giải pháp nhằm bảo lưu các giá trị đạo đức
truyền thống... trong công trình nhìn chung là còn khá đơn giản.
Tại Trường đại học Luật Hà Nội cũng có hai công trình nghiên cứu khoa học
cấp trường, đó là công trình của TS Nguyễn Minh Đoan với đề tài Những nguyên
tắc của hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, trong đó có đề
cập nhóm nguyên tắc đạo đức; công trình của TS Nguyễn Quốc Hoàn với đề tài
Hành vi pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có đề cập sự tương
quan giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức...
Cũng cần phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp Tập quán và
thực tiễn xét xử trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật. Đề
tài được thực hiện bởi các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành khoa học pháp
lý. Để thực hiện đề tài này, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp có
chuyên đề thông tin khoa học Mối quan hệ giữa tập tục và pháp luật. Chuyên đề tập
hợp bài viết của các tác giả là những người làm công tác thực tiễn tại các địa
phương. Chuyên đề cung cấp những thông tin về thực tiễn áp dụng tập quán trong
quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong thực tế. Các công trình này tuy
không trực tiếp đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, nhưng ít nhiều
nó đều có liên quan đến đề tài, bởi tập quán và đạo đức luôn có sự chồng lấn rất
đáng kể, rất nhiều tập quán trong đời sống hàng ngày là các tập quán đạo đức.
Bốn là: Các đề tài luận văn, luận án
Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, cao học đã giải quyết về vấn đề này. Có
thể kể đến như luận văn thạc sĩ của Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập những khía cạnh của
mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, nhìn chung còn khá hạn chế.
Tác giả luận án này cũng đã có dịp nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức ở Việt Nam với đề tài luận văn thạc sỹ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã được bảo vệ tháng 5.2003 tại Trường đại học
Luật Hà Nội. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ rõ, luận văn không đề cập một cách
cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam. Vì giới hạn ở đề tài luận văn thạc sỹ, công trình chưa có điều
kiện phân tích một cách sâu sắc, có hệ thống về vai trò của pháp luật, đạo đức trong
11
quản lý xã hội. Phần trình bày về những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động
qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong luận văn,
tác giả không chỉ ra được những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, làm cho quan hệ giữa chúng trong những không gian, thời gian khác nhau
trở nên khác nhau. Vì vậy, luận văn không chỉ ra đặc thù của mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận
văn cũng chưa có điều kiện luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với
đạo đức trong quản lý xã hội, do đó, đề tài không có cơ sở lý luận để đề xuất các
giải pháp kết hợp chặt chẽ, hài hòa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội ở
Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thúy Hoa có luận văn thạc sĩ với đề tài Kết hợp pháp
luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006). Luận văn luận giải tính tất yếu của việc kết hợp pháp
luật và đạo đức trong quản lý nhà nước; nội dung kết hợp; thực trạng kết hợp và
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp pháp luật với đạo đức
trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, toàn bộ phần nội dung
chính của luận văn có 103 trang thì có tới khoảng 50 trang là sự sao chép từ luận
văn thạc sĩ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Văn Năm đã bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có luận văn thạc sĩ của Lương Hồng Quang với đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2002), luận văn thạc sĩ của Tạ Thị Thu Đông với đề tài Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010). Những đề tài
nàyđề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và
pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các
luận văn đều phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch và
khẳng định, đạo đức là gốc, là cơ sở để xây dựng pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm
bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật
xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh
mẽ đến đạo đức. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạo
đức, là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện để
các giá trị đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn khẳng định, cần phải
có sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể nói,
các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên cứu trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí
12
Minh nên không có điều kiện giải quyết một cách toàn diện mọi khía cạnh của mối
quan hệ này, nhiều vấn đề tác giả có đề cập, nhưng phân tích chưa thực sự sâu sắc.
Cũng cần kể đến luận văn thạc sĩ của Bùi Sĩ Hoàn với đề tài Mối quan hệ
giữa pháp luật với phong tục tập quán; luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưng với
đề tài Vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý người Chăm của chính quyền
cơ sở ở tỉnh Ninh Thuận. Những công trình này tuy không trực tiếp giải quyết vấn
đề quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, như vừa đề cập, giữa pháp luật,
đạo đức và tập quán luôn có sự chồng lấn với nhau, bởi vậy, thông qua sự tác động
qua lại giữa pháp luật với tập quán, luật tục, chúng ta cũng có thể hình dung phần
nào mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưng
đề cập đến vấn đề vận dụng luật tục vào quản lý nhà nước, Luận án đã đề cập đến
những yêu cầu, nguyên tắc vận dụng luật tục trong hoạt động quản lý nhà nước của
chính quyền cấp cơ sở tỉnh Ninh Thuận. Luận án đã chỉ rõ, luật tục, đạo đức, phong
tục, tập quán... luôn có sự chồng lấn với nhau, khó mà phân biệt rạch ròi; luật tục
luôn chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân lý... Do vậy, cũng có thể quan niệm
rằng, ở một góc độ nào đó, trong sự vận dụng luật tục vào quản lý xã hội có bao
hàm trong đó sự vận dụng các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ
rõ, luận án chỉ tập trung đề cập sự vận dụng luật tục của người Chăm, trong phạm vi
tỉnh Ninh Thuận, vì vậy, luận án không khái quát cho mọi trường hợp áp dụng luật
tục nói chung trên phạm vi cả nước.
Năm là: Các công trình chuyên khảo
Công trình của TS Phạm Duy Nghĩa Pháp luật và những nhân tố tích cực
của Nho giáo. Sách đề cập đến hệ tư tưởng Nho giáo, một hệ tư tưởng đạo đức có
ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Việt Nam và các nước Á đông, hệ tư tưởng đạo đức
lấy chữ “nhân” làm nền tảng. Trên cơ sở phân tích những nhân tố tích cực của Nho
giáo, tác giả khẳng định pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân
dân, phản ánh nguyện vọng lợi ích của nhân dân, “gần với nhu cầu, mong ước và
tiếng nói của nhân dân” - những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo. Công trình của GS
Vũ Khiêu và PGS Thành Duy: Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt
Nam. Sách do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, đề cập đến vấn đề pháp luật
và đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối toàn diện, theo tiến trình lịch sử của sự
phát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc trưng của đạo đức và pháp luật
trong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam, “thứ triết lý được hình thành từ lâu
đời trong lịch sử dân tộc và đang biến đổi do tác động của các nhân tố phát triển
của xã hội hôm nay” [56, tr.6]. Có thể nói, trong từng chương của cuốn sách đều đã
13
đề cập đến vị trí, vai trò của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân
tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó. Tuy nhiên, do tiếp cận vấn đề từ góc độ triết
học, cuốn sách hầu như không đề cập một cách cụ thể vai trò của đạo đức và pháp
luật trong quản lý xã hội. Cuốn sách hầu như không cung cấp cho bạn đọc những
thông tin về sự giống, khác nhau cũng như sự tương tác giữa pháp luật với đạo đức.
Tác giả Phan Văn Tỉnh cũng có công trình nghiên cứu Đạo đức truyền thống của
dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật trong sách Xã hội và
pháp luật. Công trình tiếp cận vấn đề trên khía cạnh vai trò của đạo đức truyền
thống trong việc đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.
Nghiên cứu đề tài này, tác giả không thể không tìm đến công trình của
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế: “Pháp luật và đạo đức” do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia ấn hành năm 2007. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về
pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Với dung lượng hơn 500
trang sách, công trình đã đề cập một cách khá toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò
của pháp luật và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự
thống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công
trình nghiên cứu cũng giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư
tưởng pháp luật và đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng giới
thiệu với bạn đọc thực trạng đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Qua đó, cuốn sách đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng
cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đọc sách, chúng ta
thấy tác giả đề cập khá toàn diện các vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức. Tuy nhiên, nhiều vấn đề tác giả đề cập ở mức độ chung, mang tính
khái quát. Chẳng hạn, vai trò của pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội được tác
giả đề cập một cách tương đối khái quát mà chưa đi sâu phân tích từng vai trò cụ
thể của chúng. Một số khía cạnh trong sự tương đồng, khác biệt, hay sự tác động
qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng chưa được tác giả phân tích chi tiết. Đặc
biệt, tác giả không luận giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức
của con người... ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chính vì
vậy, không có cơ sở để phân tích mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Công trình cũng chưa có sự khảo sát,
đánh giá trên thực tế về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta trong
điều kiện hiện nay.
14
Tóm lại, các công trình trên đây đều đã đề cập đến những khía cạnh khác
nhau xung quanh mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, chưa có công
trình nào tiếp cận mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Vì giới hạn ở những cấp độ khác nhau,
phạm vi tiếp cận khác nhau... nên nhìn chung các công trình được đề cập trên đây
vẫn còn những hạn chế nhất định. Liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức còn rất nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Chẳng hạn, vai trò của pháp luật cũng như đạo đức trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức; tính đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong các điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau... Đặc biệt, phải làm sáng tỏ những đặc thù của mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật với đạo đức nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay...
1.3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
- Xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích vai trò của pháp luật và đạo đức; phân tích một cách toàn diện
những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức;
- Phân tích sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức; những yếu tố ảnh
hưởng đến mối quan hệ giữa chúng, đặc biệt sự ảnh hưởng của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam đến mối quan hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những điểm tích
cực cần phát huy, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mối quan hệ
này cũng như những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
15
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận án tiến sĩ, đề tài giới hạn nghiên cứu trong
phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong phạm vi không
gian ở Việt Nam, có lưu ý đến việc tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này ở
một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong thời
gian từ sau khi tiến hành đổi mới, đặc biệt từ sau khi có sự sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 1992 về việc xây dựng nhà nước pháp quyền, có lưu ý đến
việc tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này trong lịch sử dân tộc.
1.4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
Mác- Lênin, vận dụng triệt để các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử như quan điểm về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với
kiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan hệ giữa
các hình thái ý thức xã hội...
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật, đạo đức, sự kết hợp giữa pháp luật với
đạo đức trong quản lý xã hội, đặc biệt là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai
trò của đạo đức đối với việc hoàn thiện nhân cách, phẩm chất con người.
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của pháp luật và đạo đức, sự kết
hợp giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội.
Luận án được thực hiện dựa trên cách tiếp cận:
- Cách tiếp cận giá trị: coi đạo đức và pháp luật là những giá trị xã hội, chúng có tác
dụng to lớn trong đời sống con người.
- Cách tiếp cận liên ngành: đề tài được nghiên cứu với sự phối kết hợp của nhiều
ngành khoa học khác nhau như Luật học, Triết học, Sử học, Xã hội học.
- Cách tiếp cận đồng đại, lịch đại: pháp luật và đạo đức luôn được xem xét đồng đại,
đồng thời cũng được xem xét theo sự biến đổi qua các giai đoạn lịch sử của chúng.
16
- Cách tiếp cận thực tiễn: Đề tài được nghiên cứu gắn với thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Các luận cứ khoa học được nghiên cứu cả từ góc độ lý
luận và thông qua điều tra dư luận xã hội.
Tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, giải
thích, so sánh, tổng kết thực tiễn... để lý giải các vấn đề đã được đặt ra
1.5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay. Luận án có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Một là, phân tích toàn diện, sâu sắc vai trò của đạo đức, pháp luật trong đời sống
xã hội. Với cách nhìn mới, luận án đã góp phần hoàn thiện lý luận về vai trò của
pháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội.
- Hai là, xây dựng được khái niệm quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; phân tích sâu
sắc bản chất, hình thức, phương pháp thể hiện và xu hướng vận động của mối quan
hệ giữa chúng.
- Ba là, luận giải những ảnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đến
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam cũng như chỉ rõ những đặc điểm
cơ bản của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
- Bốn là, phân tích một cách sâu sắc và toàn diện những thành tựu cũng như hạn
chế của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta hiện nay. Luận án là công
trình quán xuyến toàn bộ thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta
hiện nay.
- Năm là, đề xuất được những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc kết hợp pháp luật và
đạo đức, cũng như những giải pháp rất thiết thực và khả thi nhằm kết hợp chặt chẽ
pháp luật và đạo đức để quản lý xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Các giải pháp được đề xuất không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn
hiện nay mà còn có ý nghĩa sâu sắc về lâu dài như: đổi mới nhận thức vai trò của
pháp luật và đạo đức; tiếp thu kinh nghiệm của dân tộc và các nước; đổi mới tư duy
xây dựng pháp luật; thay đổi tư duy về một số biện pháp chế tài; coi trọng việc xây
dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; lồng ghép giáo dục pháp luật, đạo đức trong
gia đình, nhà trường; tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở; coi trọng khía cạnh giáo
dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước…
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm sâu sắc
những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, qua đó góp phần
17
phát triển, hoàn thiện những tri thức lý luận về nhà nước pháp luật nói riêng, Luật
học, Đạo đức học nói chung...
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy
khoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt động thực tiễn.
Các giải pháp mà luận án đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách về kế thừa
và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quản lý xã hội trong
điều kiện hiện nay. Nó cũng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, trọng tâm là
pháp luật về các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, dân sự, hình sự, văn hóa, xã hội, cán
bộ, công chức, viên chức...
Các giải pháp mà luận án đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật.
1.7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Đạo đức và pháp luật - những công cụ quan trọng trong điều
chỉnh quan hệ xã hội
Chương 3: Những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Chương 4: Thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện
nay
Chương 5: Quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật với đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay
18
Chƣơng 2
ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT - NHỮNG CÔNG CỤ QUAN TRỌNG
TRONG ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ XÃ HỘI
Để quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều công cụ khác
nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương
ước, qui tắc của các cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội… Trong đó, pháp luật và đạo
đức là những công cụ quan trọng nhất, nó không chỉ điều chỉnh hầu hết các quan hệ
xã hội cơ bản, quan trọng, chủ yếu của đời sống xã hội mà còn có tác động mạnh
mẽ đến cả các công cụ điều chỉnh khác. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, trước hết cần làm sáng tỏ vai trò của từng yếu tố trong đời sống xã hội.
2.1. Pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống xã hội từ hàng nghìn năm,
tuy nhiên, qua các thời kỳ lịch sử, do điều kiện, hoàn cảnh, năng lực nhận thức, nhu
cầu, mục đích, lợi ích… khác nhau, nên nhận thức về pháp luật không hoàn toàn
thống nhất.
Trong lịch sử, trên thế giới đã từng tồn tại nhiều trường phái quan điểm khác
nhau về pháp luật như trường phái pháp luật tự nhiên, trường phái pháp luật thực
định, trường phái xã hội học pháp luật… Bên cạnh những luận điểm hợp lý, có giá
trị, các trường phái này đều chưa thoát khỏi những vướng mắc, hạn chế nhất định.
Cũng như ở các nước trên thế giới, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa hẹp, pháp luật thường được hiểu là hệ thống qui
tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan
hệ xã hội [113, tr.66; 51, tr.288]. Đây là cách hiểu đã trở thành truyền thống và hết
sức phổ biến trong các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật học ở Việt Nam cho đến thời
điểm hiện nay. Mở rộng hơn, pháp luật được hiểu là “tổng thể các qui tắc xử sự và
các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và phản ánh
những nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” [102, tr.11]. Như vậy, theo những
cách hiểu này, pháp luật được hiểu đồng nhất với pháp luật thực định, pháp luật đó
là những gì do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, “pháp luật hiện hành (thực định) chỉ là một phần và thường là xơ cứng;
hoạt động của các nhà lập pháp và của thẩm phán cũng là những sự kiện xã hội và
án lệ là một bộ phận quan trọng của pháp luật” [102, tr.6].
19
Thiết nghĩ, trong điều kiện ngày nay, nghiên cứu về pháp luật cần phải tiếp
cận theo hướng mở, tức là, chắt lọc, kế thừa những hạt nhân hợp lý của tất cả các lý
thuyết về pháp luật trong lịch sử. “Cần chú trọng pháp luật thực định, pháp luật
phải phù hợp lý trí, công bằng, với các quyền tự nhiên của con người, pháp luật
phải được kiểm nghiệm từ trong thực tiễn, đồng thời cũng nên luôn hướng tới pháp
luật lý tưởng” [92, tr.10]. Nói một cách cụ thể hơn, khi nghiên cứu và tìm hiểu pháp
luật, không chỉ đóng khung trong hệ thống pháp luật thực định của nhà nước, mà
cần phải “nghiên cứu đánh giá cả đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng thái tĩnh và
trạng thái động của pháp luật” [92, tr.11]. Bởi lẽ, “pháp luật tồn tại và phát triển
trên cả ba lĩnh vực: hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp
luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện pháp
luật, các quan hệ pháp luật…)” [92, tr.11; 121, tr.294-297]. Tiếp cận theo cách này,
pháp luật được nhìn nhận một cách sống động, từ hiện thực của cuộc sống, thông
qua hoạt động của nhà lập pháp, pháp luật được hình thành, chúng được thể hiện
trong những hình thức xác định, và từ trong những hình thức đó, chúng lại đi vào
thực tiễn đời sống thông qua hành vi của con người. Tóm lại, pháp luật cần được
nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức pháp luật), cả từ góc độ thể chế (hệ thống
pháp luật thực định), cả từ góc độ thực tiễn (việc thực hiện và áp dụng pháp luật).
Mặc dù có thể được quan niệm một cách khác nhau qua các thời đại, các khu
vực, các dân tộc, nhưng nhìn chung, pháp luật vẫn luôn được xác định là công cụ
không thể thiếu, công cụ quan trọng nhất, có hiệu quả nhất để điều chỉnh hành vi
con người trong các mối quan hệ xã hội, tổ chức và quản lý đời sống xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời, tồn tại của pháp luật
trong đời sống xã hội là một tất yếu khách quan. Trong điều kiện mông muội, dã
man của xã hội nguyên thủy, người ta tiến hành sản xuất kiếm ăn chung và phân
phối bình quân, lợi ích của mọi người là hoàn toàn như nhau, xã hội không có kẻ
giàu, người nghèo. Để quản lý một xã hội có sự đồng nhất về mặt lợi ích như thế,
con người đã biết đến đạo đức, phong tục tập quán, các tín điều tôn giáo… Khi xã
hội phát triển lên một trình độ cao hơn, chế độ sở hữu tư nhân xuất hiện, xã hội
phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo, lợi ích của các thành viên trong xã hội trở nên
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, sự tranh giành quyền lợi vì thế là một điều khó có
thể tránh khỏi. Xã hội trở thành bấn loạn, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn
giáo… không còn phát huy vai trò giữ gìn ổn định, trật tự xã hội như trước kia.
Trong bối cảnh đó, pháp luật với những ưu thế riêng có của nó đã từng bước xuất
hiện, đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Pháp luật xuất hiện một cách hoàn
20
toàn khách quan, sự ra đời của pháp luật hoàn toàn là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Nó ra đời và tồn tại là do yêu cầu, đòi hỏi tự thân của đời sống xã hội, khi xã hội đã
vượt qua thời đại mông muội, dã man, bước vào thời đại văn minh. Sự ra đời và tồn
tại của pháp luật trong điều kiện đạo đức, phong tục tập quán, các qui phạm xã hội
khác vẫn song song tồn tại, điều đó chứng tỏ sự cần thiết của nó đối với đời sống xã
hội, chứng tỏ pháp luật là công cụ không thể thiếu [26, tr.7], công cụ quan trọng
nhất trong quản lý xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện đời sống xã hội ngày càng trở
nên phức tạp, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên đa dạng thì sự tồn tại của
pháp luật càng trở nên cần thiết, tất yếu. “Một nhà nước không thể để một ngày
không có pháp luật” [72, tr.159], bởi vì, nếu tình trạng không có pháp luật xảy ra,
chắc chắn xã hội sẽ trở thành hỗn loạn.
Với tính cách là công cụ điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, quản lý xã hội, pháp luật thể hiện những vai trò nổi bật sau đây:
Một là, pháp luật là công cụ để thiết lập và tăng cường quyền lực nhà nước,
công cụ tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trước hết, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của nhà
nước. Sự hợp pháp tạo ra cho chính quyền một sự “chính danh”, tạo ra thế và lực
cho nhà nước, tạo cho nhà nước tư cách và khả năng cai quản xã hội. Sự hợp pháp
không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân chính quyền mà còn có ý nghĩa chi phối
mạnh mẽ đối với cả những lực lượng chống đối chính quyền, nhiều khi nó còn có
khả năng ngăn cản các âm mưu chính biến. Bởi vì, chính quyền giành được bằng
các biện pháp trái pháp luật là không “chính danh”, một khi “danh bất chính” sẽ dẫn
đến “ngôn bất thuận”, chính quyền đó khó có thể đủ tư cách cai quản xã hội. Chính
vì vậy, ngay từ hàng nghìn năm trước, các chính quyền nhà nước cho dù được tạo
nên bằng con đường nào thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp pháp. Trong
lời nói đầu của bộ luật mang tên mình, vua Hammurabi đã dõng dạc khẳng định:
“Thần Mácđúc ra lệnh cho trẫm thống trị muôn dân” [79, tr.302-303]. Các vị
hoàng đế phong kiến Trung Quốc khi ban hành pháp luật đều viện dẫn đến mệnh
trời: “phụng thiên thừa vận”. Trong điều kiện của xã hội dân chủ, nhà nước là do
nhân dân thiết lập ra, “các chính phủ phải được thành lập gồm những người lấy
nguồn gốc quyền lực chính đáng của mình từ sự nhất trí của nhân dân”, “thay mặt
và được sự ủy quyền của những người dân lương thiện” [38, tr.9,14], sự tồn tại và
hoạt động của nhà nước phải trên cơ sở và trong khuôn khổ của hiến pháp, văn bản
thể hiện tập trung ý chí của nhân dân. Ngày nay, trên thực tế, sau những cuộc đấu
tranh giành chính quyền, lực lượng nào giành được chính quyền cũng luôn tìm cách
21
hợp pháp hóa sự tồn tại của chính quyền đó bằng cách tổ chức bầu cử quốc hội,
soạn thảo hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở của hiến pháp.
Pháp luật là công cụ bảo vệ nhà nước trước sự phản kháng, chống đối của
các thế lực thù địch. Theo Lênin, “chính quyền là thiên đường”, vì vậy, các lực
lượng không cầm quyền luôn tìm đủ mọi cách hòng lật đổ chính quyền đương thời,
giành chính quyền về tay mình. Sự chống đối ấy có lúc bùng lên một cách dữ dội,
có lúc lại âm ỷ chờ thời. Trong điều kiện đó, pháp luật là công cụ sắc bén để nhà
nước tự bảo vệ mình. Pháp luật là công cụ của giai cấp cầm quyền chống lại sự
phản kháng, chống đối của các lực lượng đối lập, thù địch, đảm bảo cho sự tồn tại
vững chắc của chính quyền. Pháp luật là công cụ để ngăn chặn các hành vi coi
thường chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền, chống đối,
nhằm lật đổ chính quyền. Nhờ có pháp luật, nhà nước được bảo vệ an toàn, tính tôn
nghiêm của chính quyền được nâng cao. Nhờ có pháp luật, các nhân viên nhà nước
được sống, làm việc trong môi trường an toàn, trật tự, tạo tiền đề để thực hiện tốt
chức năng tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhìn chung
pháp luật của các nhà nước đều qui định các tội chống chính quyền, nhằm lật đổ
chính quyền là một trong những tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắc
nhất.
Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả thì nó
cần phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của pháp luật và trong khuôn khổ của
pháp luật. Có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng nhất để tổ chức bộ máy nhà
nước, qui định con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước, xác lập mối quan hệ công tác giữa các cơ
quan, nhân viên nhà nước với nhau, giữa cơ quan, nhân viên nhà nước với các cá
nhân, tổ chức trong xã hội… Nhờ có pháp luật, việc tổ chức bộ máy nhà nước trở
nên khoa học, bộ máy nhà nước trở nên nhịp nhàng, đồng bộ, tránh được sự chồng
chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đồng thời, pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Quản lý xã hội là công việc khó khăn, phức tạp, đòi
hỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng, minh bạch. Dưới
góc độ này, pháp luật thiết lập khuôn khổ, giới hạn cho hoạt động của bộ máy nhà
nước, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc, cách thức hoạt động, giúp cho
các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội một cách dễ
dàng, có hiệu quả.
22
Pháp luật là cơ sở để xây dựng bộ máy công chức, viên chức, nhân viên nhà
nước “vừa hồng, vừa chuyên”. Bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh là ở đội
ngũ nhân viên nhà nước trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất tốt, có năng lực, có
kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Bằng các qui định cụ thể, pháp luật xác định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cán bộ, nhân viên nhà nước, xác định rõ nghĩa
vụ, bổn phận của họ. Qua đó, pháp luật thể hiện vai trò quan trọng trong việc giáo
dục ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên nhà nước
trong quá trình thực thi công vụ. Pháp luật là cơ sở để mỗi cán bộ, nhân viên nhà
nước rèn luyện ý thức pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật, ý thức thượng
tôn pháp luật, tinh thần “phụng công thủ pháp”. Mặt khác, pháp luật là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy các nhân viên nhà nước nỗ lực học tập, hoàn thiện và nâng cao
tri thức pháp luật, tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của
công việc trong cương vị được giao đảm trách.
Pháp luật là công cụ quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một thiết chế phải có và hết sức
cần thiết trong xã hội có sự phân chia giai cấp. “Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc
sống của con người. Cho đến hiện nay và một tương lai cho cả sau này con người
không thể sống thiếu nhà nước, trong một trạng thái vô chính phủ, ít nhất là cho
đến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản” [10, tr.25]. Thomas Hopbes, nhà triết
học nổi tiếng của Anh thế kỷ thứ 17 đã viết “Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu
lực để duy trì trật tự thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”,
ông khẳng định, trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước con người rơi vào
trạng thái hỗn loạn, đó là một “cuộc chiến con người chống lại con người”. Tuy
nhiên, “chúng ta cũng cần phải nhận ra rằng nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm
quyền” [10, tr.25], xâm phạm các quyền con người, các giá trị con người, điều mà
Mác gọi là sự tha hóa của nhà nước. “Tham nhũng, độc tài, chuyên chế trở thành
những bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước” [10, tr.25]. Chính vì vậy, kiểm soát
và hạn chế quyền lực nhà nước là một tất yếu của cuộc sống. Có nhiều công cụ,
phương tiện để thực hiện việc kiểm soát và hạn chế quyền lực nhà nước, trong đó
pháp luật là công cụ, phương tiện quan trọng bậc nhất. Pháp luật qui định sự phân
công, phân cấp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nói cách khác, pháp luật
qui định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Một
cơ quan không thể làm tất cả mọi việc cho dù đó là cơ quan tối cao. Nhờ có các qui
định cụ thể trong pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước xác định được một
cách rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của mình, nắm bắt được hình thức, phương
23
pháp, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động. Thông qua pháp luật, các cơ quan, nhân
viên nhà nước biết được một cách rõ ràng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, họ được
làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào… Thiết nghĩ, ở nước
ta tư tưởng các cơ quan, nhân viên công quyền chỉ được làm những gì mà pháp luật
cho phép cần phải được thể chế hóa thành một nguyên tắc pháp luật. Thông qua
pháp luật, có thể dễ dàng kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân viên
nhà nước, xác định được tính chất hợp pháp, bất hợp pháp trong hành vi của họ.
Pháp luật qui định chế độ kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Pháp luật qui định vai trò của công dân và các thiết chế xã hội trong
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhân viên nhà nước… Pháp luật qui
định quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, miting, biểu tình, lập hội…, quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi lạm
quyền, xâm hại quyền lợi của nhân dân. Pháp luật qui định chế độ trách nhiệm giữa
các cơ quan nhà nước với nhau cũng như giữa chúng với nhân dân. Pháp luật qui
định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm quyền, tha hóa… của
các cơ quan, nhân viên công quyền. Dựa vào pháp luật có thể đánh giá khả năng
hoàn thành nhiệm vụ, qui kết tình trạng trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ
hay lạm quyền, vượt quyền trong hành vi của nhà chức trách, nhờ đó có điều kiện
để ngăn chặn, giảm thiểu, xóa bỏ những hiện tượng này. Pháp luật qui định thời
gian nắm giữ quyền hạn, chức vụ; pháp luật qui định điều kiện tuyển dụng, phẩm
chất tư cách của nhân viên nhà nước, chế độ thi cử, thăng, giáng, khảo hạch, thuyên
chuyển, điều động… đối với họ. Như vậy, một mặt, pháp luật tạo nên khung pháp
lý, hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mặt khác,
pháp luật là công cụ quan trọng để giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hai là, pháp luật là khuôn mẫu ứng xử của mọi cá nhân, tổ chức trong xã
hội.
Con người, trong đời sống xã hội luôn có những nhu cầu, lợi ích, mục đích
nhất định. Để thoả mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có những phương
pháp, cách thức riêng. Trong cùng một điều kiện hoàn cảnh, các chủ thể xử sự
không giống nhau, trong đó có những xử sự phù hợp với yêu cầu của xã hội, nhưng
cũng có những xử sự làm tổn hại tới lợi ích của chủ thể khác, đi ngược lại mong
muốn chung của cộng đồng, gây mất ổn định, trật tự xã hội. Chính vì vậy, để xã hội
tồn tại trong ổn định, trật tự, các quyền, lợi ích của các thành viên trong cộng đồng
được bảo đảm và bảo vệ, đòi hỏi xử sự của mỗi người phải dựa trên những chuẩn
24
mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Có nhiều loại chuẩn mực cho
hành vi con người, trong đó pháp luật là một loại chuẩn mực quan trọng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, pháp luật ra đời và trở thành loại qui tắc
xử sự phổ biến trong xã hội, qui tắc ứng xử của mọi thành viên trong xã hội, qui tắc
sinh hoạt công cộng trong đời sống hàng ngày. Nó mô hình hóa các quan hệ xã hội
thành các khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con người, để họ bắt
chước làm theo khi ở trong điều kiện hoàn cảnh nhất định. Nó “vạch ra những hình
thức nhất định của hành vi”, “định hướng hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội
trong những điều kiện nhất định”; nó “qui định những mục tiêu cơ bản, những giới
hạn, những điều kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng
nhất của đời sống” [119, tr.106,107]. Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên”
cho ứng xử của con người, nó “nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước qui định để
mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép” [113,
tr.71]. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi
nào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn
cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể nào đó.
Dưới góc độ xã hội, có thể nói, pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc” và “đào thải”
một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội, trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua
và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lý, để giữ lại những cách xử sự
phổ biến, hợp lý, khách quan [50, tr.214].
Ba là, pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ
Có thể khẳng định rằng, pháp luật là sự thể chế hóa, là kênh truyền tải chính
thức chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền đến toàn xã hội.
Thông qua pháp luật, giai cấp cầm quyền truyền bá mang tính áp đặt các quan điểm,
chủ trương, đường lối của mình lên toàn xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng
quan điểm, đường lối đó. Như vậy, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện
quyền lực tư tưởng của giai cấp cầm quyền đối với toàn xã hội.
Với tính chất công khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắt
buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng. Mặt khác, chính yêu cầu
của đời sống buộc con người phải có những tri thức nhất định về pháp luật, đồng
thời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dần dần tích lũy được các tri thức
pháp luật. Vì vậy, có thể nói rằng, pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là
mục đích của nhận thức pháp luật. Với tính cách là hệ thống qui tắc xử sự, pháp luật
cung cấp cho chủ thể tri thức về cách thức ứng xử khi họ ở trong hoàn cảnh, tình
huống nào đó. Thông qua các qui định trong pháp luật hiện hành, các cá nhân, tổ
25
chức trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm
như thế nào, hậu quả phải gánh chịu như thế nào khi làm trái điều đó. Thông qua
pháp luật, thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua giao tiếp hàng ngày, người ta
biết được như thế nào là hợp pháp, như thế nào là trái pháp luật. Nói cách khác, hệ
thống pháp luật thực định là chất liệu cũng như nội dung quan trọng của tri thức
pháp luật.
Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Bằng việc qui định các biện pháp cưỡng
chế nhà nước, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản trở mạnh mẽ đối
với những chủ thể thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh. Qua đó, pháp luật tạo ra
động lực thúc đẩy việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp, hình
thành lối sống theo pháp luật ở mỗi người. Tất nhiên, “ý nghĩa giáo dục còn thể
hiện ở việc pháp luật qui định những hình thức và mức độ khen thưởng, khuyến
khích vật chất và tinh thần đối với những thành viên có nhiều cống hiến cho nhà
nước và xã hội” [113, tr.345].
Như vậy, bản thân pháp luật tự nó có vai trò giáo dục, hoạt động giáo dục
pháp luật chẳng qua chỉ là nhằm phát huy và làm sâu sắc thêm ý nghĩa giáo dục vốn
có của pháp luật mà thôi. Chính nhờ vai trò này mà bản thân pháp luật, trong nhiều
trường hợp có được sự tuân thủ khá nghiêm chỉnh, bởi vậy, vai trò giáo dục của
pháp luật có ý nghĩa to lớn.
Bốn là, pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã
hội.
Đây là một vai trò hết sức quan trọng của pháp luật. Có thể nói, pháp luật
sinh ra là để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tuy nhiên, nó không điều chỉnh tất
cả các mối quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản,
điển hình, phổ biến. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhằm
đảm bảo cho chúng diễn ra trong vòng “trật tự” [66, tr.260], theo mục đích, định
hướng của nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước thể hiện một cách chính thức quan
điểm của mình về sự khẳng định hay phủ định đối với các quan hệ xã hội cụ thể.
Đời sống xã hội vốn có qui luật tự nhiên của nó, trong tính chất tự nhiên của
cuộc sống, luôn bao hàm hiện tượng tự phát, sự bắt chước, thói tùy tiện, sự vô
nguyên tắc, tình trạng kẻ mạnh hà hiếp kẻ yếu, cá lớn nuốt cá bé… Chính vì vậy, xã
hội cần có pháp luật để đưa các quan hệ xã hội vào những khuôn khổ, trật tự và
định hướng sự phát triển cho chúng. Đúng như Giáo sư Đào Trí Úc quan niệm
[122], cuộc sống như dòng chảy tự nhiên, còn pháp luật như hai bờ của dòng chảy
26
đó, không có bờ, nước vẫn chảy, nhưng không theo dòng. “Bờ pháp luật” có vai trò
định hướng dòng chảy, làm cho sự chảy đó không tràn lan, tùy tiện mà phải theo
một dòng nhất định.
Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật được xem như
một phương thức hữu hiệu nhất để điều tiết và định hướng sự phát triển của các
quan hệ xã hội, đảm bảo các hành vi của các chủ thể diễn ra theo đúng khuôn khổ,
trong đúng giới hạn mà pháp luật qui định. Pháp luật củng cố và tăng cường các xu
hướng phát triển tích cực của các quan hệ xã hội, ngăn ngừa loại bỏ những xu
hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với qui luật
khách quan, đảm bảo ổn định, trật tự của đời sống xã hội. Pháp luật thừa nhận, củng
cố, bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng của nhà nước,
tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của chúng. Ngược
lại, pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát
triển của xã hội, trái với mục đích, định hướng của nhà nước. Đặc biệt trong bối
cảnh có sự thay đổi lớn của đời sống xã hội, vai trò của pháp luật càng được thể
hiện rõ. Sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, những yếu tố mới được xác lập thường
gặp phải sự chống đối quyết liệt, trong khi đó, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, không
còn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn; trong các cuộc cải cách xã hội, các chủ
trương chính sách mới không dễ đi vào đời sống bởi sức ỳ và lực cản từ nhiều phía
là rất lớn. “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu để điều tiết các
trạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chính các biến đổi xã hội quan trọng
đó” [127, tr.34]. Mọi sự thay đổi quan trọng của đời sống xã hội đều được ghi nhận,
được qui định và củng cố trong một hình thức pháp lý nhất định. Pháp luật với tính
bắt buộc chung của nó có giá trị đối với tất cả mọi người, do vậy, các chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế xã hội đều phải được thể chế hóa thành pháp luật thì
nó mới có thể dễ dàng đi vào đời sống, phát huy tác dụng trong đời sống. Bằng
pháp luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự tồn tại
của nó trở nên chính thức và chắc chắn, không thể đảo ngược. Có thể nói, mọi chủ
trương cải cách, đổi mới nếu không được bảo đảm bởi pháp luật thì khó có thể
thành công. “Trong lịch sử nhân loại, các cuộc cải cách đã thất bại bởi một trong
những nguyên nhân là người ta đã đặt các cải cách xã hội tách biệt với luật pháp”
[127, tr.33]. Bằng các qui định cụ thể, pháp luật “vạch đường” cho sự phát triển của
các quan hệ xã hội.
Năm là, pháp luật là cơ sở để bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
27
An toàn xã hội là tình trạng của đời sống xã hội, trong đó con người được
yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi, tính mạng,
sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín… không bị xâm hại. An toàn xã hội
được thể hiện trên nhiều mặt, an toàn trong sản xuất, an toàn trong giao thông, vấn
đề vệ sinh, an toàn thực phẩm, vấn đề an ninh lương thực, vấn đề an toàn trong các
giao dịch xã hội, trong các quan hệ pháp luật, vấn đề an toàn, bí mật về thông tin,
thư tín, về đời tư… An toàn luôn là vấn đề có ý nghĩa trong mọi xã hội, đó là tiền
đề, đồng thời cũng là động lực và mục tiêu của cuộc sống. Tuy nhiên, “an toàn xã
hội luôn có nguy cơ bị phá vỡ hoặc bị xâm hại từ nhiều phía” [102, tr.17]. Tuân Tử
cho rằng, “người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể
không tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh, tranh
thì loạn, loạn thì khốn cùng” [57, tr.321]. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Nhân dục
vô nhai”, lòng tham của con người là không có giới hạn, không có bến bờ. Như
vậy, theo những quan điểm này, sự mất an toàn, sự hỗn loạn, sự “khốn cùng” của
đời sống xã hội suy cho cùng đều bắt nguồn từ “lòng tham không đáy” của con
người. Ở khía cạnh khác, có thể dễ dàng nhận thấy, sự an toàn trong đời sống xã hội
còn bị tác động bởi sự hiểu biết cũng như thái độ ứng xử của con người đối với môi
trường xung quanh, điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội…
Có thể khẳng định, pháp luật là một công cụ quan trọng để đảm bảo an ninh,
trật tự, an toàn xã hội. Pháp luật thiết lập môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi cho
người dân trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Nhờ có sự điều chỉnh của pháp
luật mà các quan hệ xã hội diễn ra trong trật tự, theo những khuôn khổ, cách thức
mà pháp luật qui định, vì vậy mà các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá
nhân, tổ chức trong xã hội đều được bảo đảm, bảo vệ. Mọi hành vi nguy hiểm cho
xã hội, gây mất an toàn cho cuộc sống, xâm hại sức khỏe, tính mạng, tài sản… của
con người đều bị pháp luật nghiêm trị, “phàm hình pháp là cái gốc của thiên hạ,
ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ điều ác là để răn những điều chưa xảy ra” [77,
tr. 108]. Như vậy, pháp luật đảm bảo để mọi người dân có cuộc sống bình yên, an
toàn, thoải mái trong cuộc sống ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đồng
thời, pháp luật còn là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của người dân, “luật pháp nói
chung không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi con người, giúp họ giải quyết có hiệu
quả các công việc thực tiễn mà còn tạo lập cho họ niềm tin về “an ninh” của chính
mình” [127, tr.36]. Nhờ có pháp luật, người dân trở nên vững tâm hơn, họ tin tưởng
rằng, cái ác nhất định sẽ bị trừng trị, cuộc sống bình yên của người dân lương thiện
nhất định sẽ được bảo vệ an toàn. Bên cạnh đó, pháp luật còn có sự tác động mạnh
28
mẽ đến các mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, cải thiện
điều kiện vật chất kỹ thuật của xã hội. Đồng thời, bằng pháp luật, nhà nước thể chế
hóa những tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, đề ra những biện pháp đảm bảo an toàn cho
con người trong cuộc sống, giáo dục ý thức con người trong việc tự bảo vệ mình…
Nhờ sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt của pháp luật mà cuộc sống của con người trở
nên an toàn hơn.
Sáu là, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển
ổn định, bền vững của xã hội.
Bất cứ xã hội nào cũng luôn cần có ổn định để tồn tại và phát triển, hơn nữa,
sự phát triển phải có tính chất liên tục và vững chắc trên tất cả các mặt. Trên thực
tế, “phát triển bền vững đã và đang trở thành xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia,
các dân tộc và cả cộng đồng quốc tế” [29, tr.27]. Trên bình diện chung nhất, có thể
hiểu, phát triển bền vững là sự vận động đi lên của xã hội, trong đó, kinh tế có sự
tăng trưởng liên tục, xã hội có sự tiến bộ không ngừng, môi trường sinh thái được
bảo vệ, tài nguyên được khai thác và sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả, truyền thống
tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc được bảo tồn và phát huy, đời sống của
nhân dân dược cải thiện trên tất cả các mặt…
“Với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật luôn tác
động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ kinh tế - xã hội” [102, tr.24], do
vậy, pháp luật là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp
luật đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra những tiền đề quan
trọng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật tạo ra cơ chế thúc đẩy sản
xuất phát triển mạnh mẽ, qua đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội… Pháp luật góp phần ngăn
ngừa những hiện tượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời, nó cũng
góp phần quan trọng trong việc khắc phục khủng hoảng, đảm bảo sự phát triển liên
tục, kéo dài của nền kinh tế. Nhờ có pháp luật mà môi trường sống của con người
được bảo vệ và cải thiện, tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sử dụng hợp lý,
tiết kiệm, có hiệu quả. Nhờ có pháp luật mà sự phát triển kinh tế đã được kết hợp
chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường, phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội. Pháp luật góp phần bảo tồn và phát huy các truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc không chỉ cho hôm nay mà còn
mãi mai sau.
Bảy là, pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, bảo
đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội.
29
Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành động, tự
do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động một cách
theo ý mình, không bị hạn chế, ràng buộc, cấm đoán một cách vô lý. Ngày nay,
quyền con người đã trở thành một giá trị chung được cả loài người công nhận. Bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 đã long trọng tuyên bố: “tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được” [38. tr.9]. Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng tư sản Pháp
1791 cũng nêu: “con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn
được tự do bình đẳng về quyền lợi” [38, tr.15,16]. Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị, kinh tế của Liên hợp quốc cũng đều ghi nhận nguyên tắc tôn trọng
và bảo vệ các quyền con người. Tuy nhiên, lần giở lại lịch sử, khi xã hội phân chia
thành các giai cấp, sự áp bức giai cấp xuất hiện, các quyền con người bị xâm phạm,
bị chà đạp, trong bối cảnh đó, nảy sinh nhu cầu bảo vệ, bảo đảm quyền con người.
Từ đó đến nay, vấn đề tái lập sự bình đẳng trong xã hội, bảo đảm, bảo vệ các quyền,
tự do, dân chủ của con người luôn là nhu cầu, khát vọng mạnh mẽ của nhân loại bị
áp bức. Lịch sử loài người từ khi xã hội hình thành giai cấp là lịch sử đấu tranh
nhằm giải phóng con người, vươn tới tự do, đòi quyền làm chủ.
Tuy nhiên, trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt trước đây, vấn đề bảo
đảm, bảo vệ quyền con người chưa được coi trọng đúng mức trong pháp luật. Chỉ
trong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật mới thực sự đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do, dân chủ của con người. Vai trò quan trọng này
của pháp luật thể hiện trước hết ở việc pháp luật ghi nhận các quyền, tự do, dân chủ
của con người. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải khi được qui định trong pháp
luật thì con người mới có các quyền đó, sự qui định trong pháp luật chỉ là một sự
thừa nhận chính thức của nhà nước về các quyền vốn có của con người, đúng như
Mác nói, pháp luật là thước đo của tự do. Tiếp đó, pháp luật qui định trách nhiệm
của nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc bảo đảm quyền con người được thực
hiện trên thực tế. Đồng thời, pháp luật qui định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền
con người khỏi bị xâm hại từ phía các chủ thể khác, kể cả nhà nước. Để đảm bảo
quyền, tự do, dân chủ của con người, đòi hỏi quyền lực nhà nước phải bị hạn chế và
có sự kiểm soát [74, tr.100-113]. Mặt khác, sự xâm hại các quyền và tự do cá nhân
đều phải bị trừng trị nghiêm khắc. Xuất phát từ luận điểm này, có thể khẳng định
rằng, chỉ trên cơ sở pháp luật, bằng các qui định của pháp luật thì các quyền con
người mới được bảo đảm, bảo vệ và có điều kiện để được hiện thực hóa.
30
Quyền con người, tự do cá nhân cũng cần phải có điểm dừng, nó không thể
được hiểu là được làm tất cả hay muốn làm gì thì làm. Tự do “chỉ có thể là được
làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm”; “Nếu một
công dân làm điều trái luật thì anh ta không còn tự do nữa vì nếu để anh ta tự do
làm thì mọi người đều được làm trái luật cả” [74, tr.99]. Quyền, tự do cá nhân phải
có sự kết hợp hài hòa với lợi ích chung của cộng đồng, mỗi người vừa tôn trọng cái
chung, vừa có điều kiện để tự do hành động nhằm đạt được sự thỏa mãn nguyện
vọng và lợi ích riêng của mình. Vì vậy, vấn đề quyền, tự do cá nhân luôn phải được
đặt trong sự tôn trọng quyền, tự do của người khác, tôn trọng và tuân thủ những qui
tắc chung của cộng đồng. Đúng như Lênin đã khẳng định: “Sống trong một xã hội
mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được” [63, tr.127].
Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị giới hạn bởi quyền tự do của
người khác. Pháp luật là phương tiện để mỗi cá nhân phải ràng buộc đối với cá nhân
khác và xã hội. Đồng thời, quyền, tự do, dân chủ của cá nhân phải luôn đi kèm với
nghĩa vụ. Một mặt cá nhân được làm tất cả trừ những việc bị pháp luật cấm, mặt
khác, họ không được làm những gì có hại cho người khác, cho cộng đồng.
Tám là, pháp luật có tác động mạnh mẽ đến các công cụ quản lý khác
Như đã đề cập, điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác
nhau như đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo, qui tắc của các cộng đồng
dân cư, các tổ chức xã hội… Giữa các công cụ điều chỉnh này luôn có sự gắn bó
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Do điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội… cụ thể mà trong lịch sử, trên thế giới, có nơi, có lúc, có thể một trong số các
công cụ trên đây được đề cao. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, có thể khẳng định
rằng, pháp luật là công cụ quản lý xã hội quan trọng nhất, có hiệu quả nhất, nó được
xem như “là hạt nhân, giữ vị trí trung tâm” [94, tr.50] trong hệ thống công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội. Chính vì vậy, pháp luật luôn có vai trò quan trọng và có sự
tác động mạnh mẽ tới tất cả các loại qui phạm xã hội khác.
Sự tác động của pháp luật đến các công cụ điều chỉnh khác xảy ra chỉ trong
trường hợp chúng cùng tham gia điều chỉnh một mối quan hệ xã hội cụ thể nào đó.
Khi đó, giữa pháp luật và công cụ điều chỉnh khác có thể thống nhất hoặc khác biệt,
mâu thuẫn nhau, nghĩa là, sự điều chỉnh của chúng có thể thuận chiều hoặc ngược
chiều.
Trong trường hợp có sự thống nhất với nhau, chúng bổ sung, hỗ trợ nhau
cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo nên sự “cộng hưởng” trong điều chỉnh, nhờ
đó đạt được hiệu quả điều chỉnh cao nhất. Trong trường hợp đó, pháp luật có thể
31
dung hợp trong nó các qui tắc xử sự khác, nói cách khác, các qui tắc xử sự khác có
thể được pháp luật hóa. Một khi đã được ghi nhận thành pháp luật, chúng trở nên
mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước, nhờ đó, việc
thực hiện chúng trở nên nghiêm chỉnh, triệt để hơn. Mặt khác, sự ghi nhận thành
pháp luật các qui tắc xử sự khác có tác dụng tạo điều kiện cho sự tồn tại, giữ gìn và
phát huy vai trò của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong trường hợp giữa pháp luật và các qui tắc xử sự khác có sự mâu thuẫn,
khác biệt nhau, về nguyên tắc, pháp luật đều có thể loại bỏ chúng. Tuy nhiên, trên
thực tế, trong trường hợp này, vai trò của pháp luật được xem xét trong từng điều
kiện cụ thể. Trong một xã hội mà pháp chế được đề cao, nếu các qui định trong
pháp luật là tiến bộ, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống thì mọi qui tắc xử
sự khác nếu trái pháp luật đều có thể bị pháp luật loại trừ. Ngược lại, nếu pháp luật
được xây dựng không phù hợp với truyền thống đạo lý, trái với thuần phong, mỹ tục
của dân tộc thì đương nhiên những qui dịnh đó của pháp luật cần phải được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp.
Phần sau của luận án này sẽ tập trung đi sâu phân tích vai trò của pháp luật
với đạo đức.
2.2. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết sức phổ
biến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được hiểu theo nhiều
cách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng khác nhau.
Trong đời sống hàng ngày, đạo đức1 thường được quan niệm là đức hạnh,
phẩm hạnh của con người, đó là những nét đẹp, nết tốt, những “phẩm chất tốt đẹp
của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có” [78,
tr.280]. Như vậy, trong cuộc sống thường ngày, khái niệm đạo đức được đồng nhất
với ý thức, phẩm chất đạo đức cá nhân.
Trong khoa học, đạo đức được hiểu theo nhiều nghĩa với những phạm vi
rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi, quan hệ của con người đối với
nhau và đối với xã hội (nói một cách tổng quát)” [78, tr.280]. Đạo đức là đạo làm
người, là phép đối nhân, xử thế bao gồm tổng thể các chuẩn mực về các mối quan
hệ trong gia đình, làng xóm, cộng đồng, các chuẩn mực về tu thân, dưỡng tâm, rèn
luyện khí tiết theo những định hướng giá trị nhất định [11, tr.9]. “Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội,
1Nhiều khi còn nói tắt là đức để phân biệt với tài là năng lực, trình độ, tài năng.
32
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và
sức mạnh của dư luận xã hội” [39, tr.8]. Mặc dù có sự khác nhau về câu chữ, song
nhìn chung, đạo đức được xem như là một loại công cụ, phương tiện điều chỉnh
hành vi con người trong các mối quan hệ xã hội.
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồm
tư tưởng, lý tưởng đạo đức, qui tắc đạo đức, hành vi đạo đức, đánh giá đạo
đức…[11, tr.16]. Nói cách khác, đạo đức được xem xét trong toàn bộ “cơ chế vận
hành” của nó, từ khi nó được hình thành, tham gia điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội cũng như tham gia vào cơ chế đánh giá hành vi con người. Đạo đức trước hết là
hệ thống quan niệm, quan điểm, tư tưởng của một cộng đồng (dân tộc, giai cấp, tôn
giáo…) về thiện - ác, tốt - xấu, chân - giả, vinh - nhục, về sự công bằng, nghĩa vụ,
danh dự và về những phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội, trong đó cơ
bản và cốt lõi là quan điểm về điều thiện. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm đó,
một hệ thống qui tắc ứng xử của con người được hình thành. Những quan điểm,
quan niệm, qui tắc này được các cá nhân tiếp thu, hấp thụ, được nội tâm hóa trở
thành ý thức đạo đức cá nhân, nó có vai trò chỉ đạo, chi phối hành vi hàng ngày của
mỗi người. Những quan điểm, quan niệm, qui tắc đạo đức như vậy là đã đi vào đời
sống, được hiện thực hóa thành những hành vi đạo đức một cách sống động, trở
thành đạo đức trong cuộc sống. Sau cùng, đến lượt mình, hành vi của các chủ thể lại
trở thành đối tượng đánh giá của của cộng đồng cũng như của chính bản thân chủ
thể. Sự đánh giá này là một mắt khâu của việc điều chỉnh bằng đạo đức đối với
hành vi con người. Sự đồng tình hay phản đối của cộng đồng đối với hành vi của
một chủ thể không chỉ có vai trò củng cố ý thức đạo đức, hoàn thiện nhân cách,
định hướng hành vi cho chính chủ thể đó mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc
hình thành và hoàn thiện các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức xã hội. Tóm
lại, đạo đức cần phải được nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức đạo đức xã hội và
ý thức đạo đức cá nhân), cả từ góc độ thể chế (nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực đạo
đức), cả từ góc độ thực tiễn (hành vi đạo đức).
Một khái niệm rất gần với đạo đức và nhiều khi được sử dụng thay thế cho
đạo đức, đó là khái niệm luân lý. Về mặt thuật ngữ, “luân” là trật tự, “lý” là lẽ phải;
luân lý là qui tắc, chuẩn mực được thừa nhận là đúng đắn nhằm thiết lập một trật tự.
Luân lý không đồng nhất với đạo đức, nó chỉ là một bộ phận của đạo đức, nhưng đó
là phần kết tinh của đạo đức, là phần đạo đức ổn định, bền vững, được thừa nhận
rộng rãi, trở thành phổ biến và có giá trị cho tất cả mọi người [123, tr.46].
33
Trong mọi xã hội, từ cổ đại đến hiện đại, trên phạm vi toàn thế giới, ở đâu có
con người, ở đó có đạo đức. Là một trong những phương tiện quan trọng hàng đầu
để quản lý xã hội, đạo đức thể hiện những vai trò nổi bật sau đây:
Một là, đạo đức xã hội là hệ thống chuẩn mực để mỗi người tự tu thân,
dưỡng tâm, rèn luyện nhân cách, lối sống.
Nhân cách là những phẩm chất mang tính đặc trưng, tương đối ổn định của
cá nhân, thể hiện ở những cách ứng xử của họ. Nhân cách là tổng hợp những đặc
tính cá nhân, là kết quả cụ thể của quá trình kết hợp giữa vận động nội tâm của chủ
thể với sự tác động đa chiều của môi trường bên ngoài [65, tr.22]. “Ở Việt Nam khi
nói đến nhân cách người ta thường nghĩ đến hai thành phần cơ bản: đức và tài hay
phẩm chất và năng lực” [4, tr.228]. Như vậy, đức (đạo đức) là một phương diện căn
bản, cốt yếu của nhân cách. Trong hai yếu tố làm nên nhân cách con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh coi “đức” là gốc, là nguồn, Người khẳng định, có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức sẽ trở thành người vô
dụng [130, tr.37].
Nhân cách của mỗi người, những phẩm chất đạo đức cá nhân không phải tự
nhiên mà có, không phải là “bản tính” hay “bẩm sinh”. Sự hình thành và phát triển
nhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó hệ thống thể chế xã hội mà
nhất là đạo đức giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tùy thuộc vào hệ chuẩn mực đạo
đức của từng xã hội mà hình thành nên con người với những phẩm chất nhất định,
phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đó. Trên cơ sở hệ thống quan niệm, chuẩn
mực đạo đức xã hội, các cá nhân lấy đó làm tiêu chuẩn để tu thân, dưỡng tâm, rèn
luyện nhân cách, lối sống của mình. Nói một cách cụ thể hơn, đạo đức xác định
những chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử mà chủ thể cần hướng tới, nó xác định
hành vi nên làm, cần phải làm, không được làm. Nó làm hình thành ở mỗi người
thói quen suy nghĩ và hành động phù hợp chuẩn mực xã hội. Đạo đức góp phần
quan trọng tạo nên tính kiềm chế, hình thành phong cách sống điềm tĩnh, chủ động
trong mọi tình huống. Nó khơi dậy tình cảm yêu thương, quí trọng con người, nó
hướng con người xử sự phù hợp với điều thiện. Đạo đức góp phần xây dựng bản
lĩnh cá nhân, tạo ra cơ chế phòng ngừa, miễn dịch trước những cám dỗ trong cuộc
sống. Nó có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và rèn luyện tinh thần làm việc
tận tụy, ý thức trách nhiệm của cá nhân trước người khác và trước cộng đồng, trước
Tổ quốc, nhân dân…
Vai trò của đạo đức trong việc hình thành, phát triển nhân cách được thực
hiện thông qua con đường nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể.
34
Trước hết, thông qua nhà trường, gia đình, các thiết chế xã hội, thông qua
giao tiếp hàng ngày, đặc biệt, thông qua việc tự ý thức, tự nỗ lực tiếp nhận của bản
thân, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng chuẩn mực đạo đức xã hội được các
chủ thể tiếp thu, hấp thụ, được nội tâm hóa trở thành tri thức, tình cảm, nghĩa vụ,
trách nhiệm đạo đức của họ, nói cách khác, trở thành ý thức đạo đức của cá nhân
mỗi người. Bằng con đường này, chủ thể tự ý thức về địa vị của mình trong xã hội,
ý thức một cách sâu sắc trách nhiệm và bổn phận đạo đức của mình, tự xây dựng
thành phương châm ứng xử, thành phong cách sống của mình. Điều này được rèn
luyện theo thời gian, trở nên ổn định, trở thành những nét đẹp, nết tốt, thành đức
hạnh, phẩm hạnh, trở thành nhân cách đạo đức của mỗi người. Nhận thức là cơ sở
cho hành vi ứng xử của mỗi người, đến lượt mình, giao tiếp, ứng xử là sự hiện thực
hóa kết quả của sự nhận thức, là sự vận dụng những quan điểm, chuẩn mực đạo đức
đã được tiếp nhận vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua hoạt động thực tiễn, những
tri thức, tình cảm, nghĩa vụ đạo đức của cá nhân được củng cố, được khẳng định và
trở nên sâu sắc hơn.
Ở khía cạnh khác, sau mỗi hành vi ứng xử, chủ thể thường có sự tự xét mình,
tự trách mình, tự đánh giá về bản thân mình, về cách đối nhân, xử thế của mình,
đồng thời, từ phía cộng đồng xã hội cũng luôn có sự đánh giá đối với hành vi, ứng
xử đó. Thông qua đánh giá từ phía xã hội sẽ xác định được cách ứng xử nào được
xã hội cho là đúng đắn, là tốt và ngược lại, qua đó sẽ góp phần củng cố nhận thức,
tình cảm và cách ứng xử của chủ thể, góp phần hoàn thiện nhân cách của họ. Thông
qua sự tự đánh giá, tự xét mình, tự trách mình, chủ thể càng ý thức sâu sắc hơn về
bồn phận, trách nhiệm của mình. Tự xét mình, tự trách mình là tự ý thức về phẩm
giá cá nhân, là sự chủ động, chân thành, tự giác ngộ, tự kiểm điểm với lương tâm và
phẩm giá của mình. Tự xét mình, tự trách mình là thao tác cơ bản trong quan hệ
mình với chính mình, thao tác này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự hoàn
thiện nhân cách phẩm chất cá nhân. “Sự hiện diện của quan hệ mình với mình có
giá trị vô song đối với nhân cách và bản lĩnh con người” [30, tr.IX]. Đây là đặc thù,
đồng thời là sức mạnh của đạo đức, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
hoàn thiện nhân cách mỗi người.
Như vậy, đạo đức xã hội là “khuôn vàng thước ngọc” cho mỗi người trong
suy nghĩ và hành động. Chính vì vậy, trên thực tế, bất cứ một hệ thống đạo đức nào
cũng đều bao hàm các qui tắc, chuẩn mực để mỗi người rèn luyện và tu dưỡng nhân
35
cách1. Tuy nhiên, nhân cách con người có quá trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện gắn liền với sự trưởng thành và sự tham gia hoạt động xã hội của chủ thể. Vì
vậy, tùy từng lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tuỳ từng giai cấp, tầng lớp, tôn giáo,
dân tộc, điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng xã hội, từng thời đại mà có những
chuẩn mực đạo đức riêng cho từng đối tượng để họ tu dưỡng, rèn luyện nhân cách,
lối sống.
Hai là, đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội, trước hết là các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ, làng xóm, cộng
đồng dân cư, tổ chức xã hội.
Gia đình là một hình thức cộng đồng người được xây dựng chủ yếu trên quan
hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, các thành viên gắn bó hết sức chặt chẽ trong
sự chi phối sâu sắc của tình cảm. Gia đình là môi trường lý tưởng trong việc giáo
dục con người, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách con người. Gia đình tốt, cá nhân sẽ tốt, không có gia đình, con
người không có điều kiện để phát triển và hoàn thiện. Gia đình là cái nôi của tình
thương và trách nhiệm, tình cảm và trách nhiệm trong gia đình là cơ sở của tình
cảm và trách nhiệm trước đồng loại. Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội, là
một xã hội thu hẹp: “nhà là gốc của nước và thiên hạ” [25, tr.171]; “nhà tức là cái
nước nhỏ, nước tức là cái nhà to” [7, tr.270]. Vì vậy, “trong ấm, ngoài êm”, gia
đình tốt, xã hội sẽ tốt, gia đình hòa thuận, hạnh phúc là cơ sở tạo nên xã hội ổn định,
trật tự. Chính vì vậy, có thể nói, các hệ thống đạo đức đều hướng tới việc thiết lập
và củng cố, giữ gìn trật tự, ổn định trong gia đình. Việt Nam và các nước Á đông
chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, ở những nước này, đạo đức có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc giữ gìn ổn định, trật tự trong gia đình. Theo quan điểm
của Nho giáo, người quân tử muốn trị quốc, bình thiên hạ thì trước hết phải tu thân,
tề gia. Trong ba “cương”2 của Nho giáo có tới hai “cương” là trong gia đình (quan
hệ cha con, quan hệ chồng vợ). Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Quốc có quốc pháp,
gia có gia qui”, “gia qui”, “gia lễ”, “gia pháp”, “gia phong” chính là những qui tắc
ứng xử trong gia đình, trong đó bao gồm hầu hết là những chuẩn mực đạo đức hoặc
được xây dựng trên nền tảng đạo đức. Không chỉ gia đình truyền thống mà cả gia
đình hiện đại đều duy trì, bảo vệ mô hình của mình, xác định trách nhiệm, bổn phận
1 Chẳng hạn, đạo đức Phật giáo có ngũ giới, đạo đức Nho giáo có ngũ thường, đạo đức cách mạng dạy người
cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, trung với nước, hiếu với dân, tận tụy với công việc… 2“Cương” là cái dây giềng của cái lưới (dây lớn ngoài mép lưới), là đầu mối của mọi sợi dây lưới, nắm được
cái cương là nắm được toàn bộ cái lưới. Người ta gọi 3 mối quan hệ xã hội vua tôi, cha con, chồng vợ là tam
cương là theo nghĩa như thế, tức là những mối quan hệ quan trọng nhất trong xã hội, mọi quan hệ xã hội khác
đều qui về quan hệ này, chịu sự ảnh hưởng của quan hệ này.
36
của các thành viên trong gia đình chủ yếu bằng những chuẩn mực đạo đức. Có thể
nói, trong gia đình truyền thống Việt Nam, một khi đạo đức trở nên bất lực mới có
chỗ cho pháp luật, và khi phải sử dụng pháp luật để xác định quyền, nghĩa vụ của
mỗi thành viên thì gia đình đó có biểu hiện của sự lung lay. Chính sự xa rời chuẩn
mực đạo đức trong gia đình đã tạo nên sự lung lay bất ổn, thậm chí khủng hoảng,
tan vỡ gia đình. Vì vậy, có thể nói, đạo đức là công cụ, phương tiện để xây dựng và
bảo vệ gia đình, nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ gìn ổn định trật tự
gia đình, giữ gìn lề thói gia đình, bảo vệ những giá trị truyền thống, giá trị văn hoá
gia đình, đảm bảo gia đình ngày càng đầm ấm, hạnh phúc, bảo vệ gia đình khỏi
những nguy cơ tan vỡ. Đạo đức điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình bằng
cách xác định địa vị của từng thành viên trong gia đình, xác định trách nhiệm của
mỗi thành viên đối với người khác cũng như đối với việc phát triển gia đình, giữ gìn
kỷ cương, nền nếp gia phong, giữ gìn và phát huy truyền thống gia đình.
Từ các mối quan hệ trong gia đình, đạo đức mở rộng phạm vi điều chỉnh tới
các mối quan hệ trong họ hàng, làng xóm. Quan hệ huyết thống, thân tộc là một sợi
dây cố kết cộng đồng khá bền vững. Trong thời kỳ hiện đại, mặc dù quan hệ huyết
thống, thân tộc không còn khả năng cố kết cộng đồng như trước đây, song “một giọt
máu đào” vẫn “hơn ao nước lã”, “đi việc làng để giữ lấy họ, đi việc họ để giữ lấy
anh em” vẫn là phương châm sống của người Việt. Nghiên cứu lịch sử Việt Nam,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trải qua hàng nghìn năm bị ngoại bang đô hộ,
nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giành lại được độc lập chính là xuất phát từ yếu tố cố
kết, gắn bó chặt chẽ trong các cộng đồng làng xã. Trong các cộng đồng ấy, người ta
cần có nhau, biết sống vì nhau, từng cá nhân đều xác định được vị trí, vai trò, bổn
phận, trách nhiệm của mình trước người khác và trước cộng đồng. Đạo đức chính là
phương tiện quan trọng nhất đảm bảo sự gắn kết các mối quan hệ trong họ, ngoài
làng, giữ gìn ổn định trật tự cộng đồng, giữ gìn tình làng nghĩa xóm theo phương
châm “thứ nhất cận lân, thứ nhì cận thân”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”.
Nó là cơ sở của sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn
hoạn nạn, lúc tối lửa tắt đèn.
Đạo đức cũng có vai trò quan trọng trong việc thiết lập, giữ gìn, củng cố các
mối quan hệ trong nội bộ các cơ quan, tổ chức trong xã hội. Có thể nói, một tổ chức
vững mạnh là do các thành viên đều tốt, có phẩm chất đạo đức, có năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ. Chính vì vậy, bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng đều đặt ra tiêu chí
về phẩm chất đạo đức đối với các thành viên. Trong trường hợp này, đạo đức là cơ
sở để mỗi thành viên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng lối sống,
37
hoàn thiện nhân cách, giữ gìn kỷ luật của cơ quan, tổ chức, giữ quan hệ đúng mực,
thân thiện với đồng chí, đồng nghiệp, góp phần làm hài hòa hóa các mối quan hệ
trong nội bộ cơ quan, tổ chức. Ở khía cạnh khác, các mối quan hệ trong nội bộ cơ
quan, tổ chức được điều chỉnh trước hết bằng thể chế do chính nó đặt ra. Tuy nhiên
nhìn chung, hệ thống thể chế của các cơ quan, tổ chức có khá nhiều qui định là sự
thể chế hoá các quan niệm, tư tưởng đạo đức hoặc ghi nhận các qui tắc, nguyên tắc
đạo đức. Thậm chí, những chuẩn mực đạo đức xã hội mặc dù không được ghi nhận
trong hệ thống thể chế của một cơ quan, tổ chức, nhưng một khi đã trở thành những
giá trị chung phổ biến, nó vẫn có thể được sử dụng để điều chỉnh mối quan hệ trong
nội bộ cơ quan, tổ chức đó. Trên thực tế, có những tổ chức xã hội, trong cơ cấu của
nó có thiết chế chuyên xem xét đánh giá về đạo đức của các thành viên [133].
Đạo đức điều chỉnh các mối quan hệ xã hội bằng cách xác định nghĩa vụ, bổn
phận cho các chủ thể. Trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức xã hội, tùy thuộc vào việc
tu thân, dưỡng tâm, mỗi người tự xác định vị trí, vai trò của mình, tự xác định nghĩa
vụ, bổn phận, trách nhiệm của mình, tự biết cách điều chỉnh lời nói, hành động của
mình sao cho phù hợp.
Ba là, đạo đức là công cụ hướng thiện, hướng hành vi con người đến nhân
đạo, nhân văn.
“Thiện” là sự tốt lành, là tất cả những cách ứng xử “có vai trò tích cực, có
tác động thuận lợi trong đời sống”, mang lại “lợi ích cho con người và cho xã hội”
[11, tr.210]. “Thiện” tức là làm những điều có ích, có lợi cho người khác và cho xã
hội, là đấu tranh chống lại cái ác, cái bất công. Điều thiện luôn phù hợp với lẽ công
bằng, nhân đạo bởi đó chính là biểu hiện cụ thể của sự thương yêu, thông cảm, chia
sẻ, giúp đỡ, đùm bọc, quí trọng sâu sắc con người, tôn trọng và bảo vệ các giá trị
con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.
Nhìn chung, người ta ai cũng luôn mong muốn vươn tới điều thiện bởi vì
điều đó đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Trong xã hội, một
khi cái ác còn tồn tại thì “chiến đấu cho cái thiện, đẩy lùi cái ác đã trở thành ước
mơ, khát vọng, đã trở thành chất men, thành động lực, kích thích, cổ vũ nhân loại
vươn lên, xốc tới” [39, tr.47]. Đạo đức là công cụ hướng thiện, nó ra đời nhằm
hướng hành vi con người theo giá trị nhân bản của cuộc sống, bởi vì “đạo đức là
lĩnh vực thực sự người”, “cái gốc của đạo đức là lòng nhân ái”, “nội dung xã hội
của đạo đức hay luân lý bắt nguồn từ quan niệm người này giúp đỡ người khác một
cách vô tư” [11, tr.10].“Đạo đức chính là bản chất của con người trong quá trình
phát triển của mình theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện”
38
[32, tr.247]. “Đạo đức là khát vọng nhân bản và vô tư của con người”, [46, tr.98].
Đạo đức làm nảy nở những giá trị nơi con người, phát triển những gì cao quý, tốt
đẹp trong bản thân mỗi người. Nhờ có đạo đức, con người sống với nhau ngày càng
có tình, quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ, xã hội
ngày càngtrở nên nhân đạo hơn, nhân văn hơn. Chỉ bằng tình thương và tinh thần
nhân đạo cao cả của đạo đức, với tình cảm “thương người như thể thương thân”,
“một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “thương cho chót, vót cho tròn”, “lá lành đùm
lá rách”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”… mới khiến người ta thực hiện
hành vi giúp đỡ lẫn nhau một cách hào hứng, tận tâm, tuyệt đối, đến cùng. Đạo đức
là mục tiêu đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người đấu tranh
chống lại cái ác, cái bất công, cái đi ngược lại lợi ích của cộng đồng. Trong xã hội
có thể có nhiều hệ thống đạo đức khác nhau, tuy nhiên tất cả mọi nền đạo đức đều
hướng con người đến việc làm điều lành lánh điều dữ. Đạo đức là con đường đạt tới
chí chân, chí thiện, chí mỹ, nhân đạo, nhân văn - những hằng số giá trị của loài
người. Khuyến khích cái thiện, lên án cái ác, hướng hành vi con người vươn tới cái
thiện, xây dựng thái độ căm thù đối với cái ác, thái độ kiên quyết đấu tranh chống
lại cái ác là một chức năng cơ bản của đạo đức.
Bốn là, đạo đức góp phần quan trọng trong việc củng cố, giữ gìn, phát huy
các giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục, bản sắc của dân tộc.
Bất kì dân tộc nào cũng đều có những truyền thống nhất định. Các giá trị
truyền thống, thuần phong, mỹ tục tạo nên bản sắc của một dân tộc. Nó có tác dụng
gắn kết cộng đồng, nâng cao ý thức tự hào dân tộc, là cơ sở vững chắc đảm bảo cho
các mối quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với dân tộc Việt Nam, lịch sử đã chứng tỏ
rằng, yếu tố đảm bảo cho dân tộc này tồn tại và phát triển không phải chỉ là sức
mạnh vật chất mà chủ yếu là sức mạnh tinh thần - những giá trị văn hoá, những
truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mĩ tục của dân tộc đã được tạo dựng, hun
đúc nên [40, tr.111]. Văn hoá, truyền thống không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn
là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Truyền thống chính là cơ
sở để phát triển, “quá khứ chính là nền tảng của tương lai”. Dân tộc nào nếu coi
thường quá khứ, bỏ qua truyền thống đều khó có thể hưng thịnh. “Phát triển tách
khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hoá. Đi vào kinh tế thị
trường, hiện đại hoá đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản
sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của
dân tộc khác” [17, tr.6]. Chính vì vậy, gữ gìn, củng cố và phát huy những giá trị
39
truyền thống, thuần phong mỹ tục, bản sắc của dân tộc là nhiệm vụ hết sức quan
trọng của mọi quốc gia trên thế giới.
Đạo đức giữ vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, lòng tự
hào dân tộc, xây dựng thái độ tôn trọng truyền thống, khơi dậy và phát huy tình cảm
đối với các giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Có thể nói, đây là
sở trường của đạo đức, là địa hạt của nó, bởi vì, đạo đức trước hết và chủ yếu là
phản ánh đời sống tinh thần của xã hội. Giữa truyền thống, phong tục tập quán và
đạo đức xã hội có sự giao thoa, chồng lấn, xoắn bện lấy nhau. Có thể nói, trong đời
sống cộng đồng, nếu một xử sự nào đó không phù hợp với đạo đức xã hội, bị cộng
đồng phản đối thì tuyệt đối không thể trở thành truyền thống, phong tục, tập quán.
Nhìn chung các truyền thống tốt đẹp, các thuần phong, mỹ tục đều được khái quát
hóa thành những quan niệm, quan điểm đạo đức, được nâng lên thành những chuẩn
mực đạo đức xã hội, ngược lại, các quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức đi vào
đời sống, được cộng đồng chấp nhận đều trở thành thói quen, thành truyền thống,
tập quán của cộng đồng. Chính sự gắn bó chặt chẽ đó khẳng định vai trò vượt trội
của đạo đức trong việc củng cố giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, thuần
phong, mỹ tục của dân tộc.
Ở khía cạnh khác, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống cần phải
có sự đồng thuận của toàn xã hội, được thực hiện trên cơ sở mỗi người đều ý thức
được một cách sâu sắc, tự giác ngộ, bằng tình cảm và sự tự nguyện thì mới thực sự
có ý nghĩa. Đây lại chính là thế mạnh của đạo đức, bởi vì, đạo đức là một loại
phương tiện có tính phổ quát nhất, nó hết sức gần gũi với tất cả mọi người, không
kể tuổi tác, tôn giáo, thành phần xã hội… Các chuẩn mực đạo đức tương đối mềm
dẻo, chúng được đảm bảo trước hết bằng tình cảm, sự tự nguyện, tự giác của mỗi cá
nhân và sức mạnh của dư luận xã hội.
Năm là, đạo đức có vai trò quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến các loại công
cụ điều chỉnh khác đối với hành vi con người.
Đời sống xã hội vốn vô cùng phức tạp, các quan hệ xã hội vô cùng đa dạng,
bởi vậy cần phải có nhiều công cụ, phương tiện để điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội, giữ gìn ổn định, trật tự xã hội. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của xã hội
mà tồn tại các công cụ điều chỉnh như phong tục, tập quán, đạo đức, tín điều tôn
giáo, pháp luật, lệ làng, hương ước, qui tắc của các tổ chức xã hội…; chúng luôn
tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Tùy thuộc điều kiện,
hoàn cảnh của từng xã hội cụ thể, trong những thời kỳ cụ thể mà công cụ nào trong
hệ thống công cụ điều chỉnh trên đây nổi lên giữ vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, nhìn
40
chung đạo đức vẫn luôn được xác định là một trong những công cụ quan trọng nhất,
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các công cụ điều chỉnh khác.
Xuất phát từ những đặc thù của mình, đạo đức được xác định là cơ sở của tất
cả các phương tiện điều chỉnh khác, nói cách khác, các loại qui tắc ứng xử khác đều
được hình thành trên nền tảng đạo đức xã hội. Trước hết, cần phải khẳng định rằng,
đạo đức là một trong những công cụ điều chỉnh xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
loài người, nó xuất hiện ngay từ khi bắt đầu hình thành xã hội loài người. Về nội
dung, theo ý nghĩa nguyên thuỷ của nó, đạo đức là lẽ phải ở đời, là nguyên lý tự
nhiên của cuộc sống. Lão Tử quan niệm “đạo” là nguyên lý của vũ trụ, là qui luật
vốn có của tự nhiên [117, tr.9,31]. Học giả Đào Duy Anh giải thích, “nguyên lý tự
nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức, đạo đức là những lý pháp tự nhiên
người ta nên noi theo” [1, tr.251]. Còn tác giả Vũ Tình thì luận giải, “đạo” nghĩa là
con đường, đó “là đường, là hướng đã được khẳng định mà con người phải theo”;
đạo đức chính là “những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống xã hội đặt ra mà
mỗi người phải tuân theo” [106, tr.13,14]. Chính vì vậy, có thể nói, mọi quan hệ
giữa con người với nhau đều phải được diễn ra trên nền tảng đạo đức, thậm chí,
trong điều kiện ngày nay, quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường, với
động, thực vật cũng bị chi phối bởi đạo đức - đạo đức sinh thái [12, tr.43]. Có thể
nói, quan hệ xã hội chỉ được khuyến khích, củng cố khi phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức xã hội, trái lại nó sẽ nhận được sự phản đối, sự tẩy chay của dư luận
xã hội. Do vậy, điều chỉnh quan hệ xã hội bằng các công cụ khác phải thuận chiều
với sự điều chỉnh bằng đạo đức, nói cách khác, các qui phạm xã hội khác phải phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Trái đạo đức tức là trái lẽ phải ở đời, trái
nguyên lý tự nhiên, trái yêu cầu, nguyên tắc của cuộc sống, do vậy, chúng khó có
thể tồn tại được. Một qui tắc xử sự nào đó không phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức xã hội sẽ khó có thể đi vào đời sống, nó sớm muộn sẽ bị loại bỏ. Ở đây, cũng
cần lưu ý rằng, trong hệ thống công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, có loại
hình thành một cách tự phát trong dân gian, có loại lại được ban hành bởi những
chủ thể xác định. Đối với những công cụ hình thành tự phát, giữa chúng và đạo đức
xã hội luôn có sự thống nhất với nhau, bởi vì, nếu trái đạo đức xã hội, nó không bao
giờ được xã hội chấp nhận. Như trên đã trình bày, không một xử sự nào có thể trở
thành phong tục, tập quán nếu nó trái với đạo đức xã hội. Đối với những phương
tiện do cá nhân, tổ chức ban hành ra, thì để chúng dễ dàng đi vào đời sống, chủ thể
ban hành luôn phải tính đến sự phù hợp của chúng đối với yếu tố đạo đức xã hội,
bởi đạo đức chính là ý chí chung của cộng đồng. Dễ dàng nhận thấy những quan
41
niệm, tư tưởng, qui tắc đạo đức trong hệ thống thể chế của các tổ chức xã hội, trong
lệ làng, hương ước. Nói cách khác, trong điều lệ, nội qui, kỷ luật của các cơ quan, tổ
chức có khá nhiều qui định là sự thể chế hoá các quan niệm, tư tưởng đạo đức hoặc
ghi nhận các qui tắc, nguyên tắc đạo đức. Trong hệ thống giáo lý, giáo luật của bất
kỳ tôn giáo nào, bên cạnh những chuẩn mực bảo vệ niềm tin tôn giáo, còn bao hàm
những chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của các tín đồ.
“Chẳng phải siêu hình học và tôn giáo làm cơ sở cho đạo đức mà chính đạo đức, từ
nay tin ở cơ sở của chính nó (và chỉ của nó thôi), có thể làm cơ sở cho những xác
tín siêu hình học, thậm chí cho đức tin tôn giáo của chúng ta, chính đạo đức sẽ biện
chính cho siêu hình học và tôn giáo” [30, tr.20]. Dĩ nhiên, cũng như các công cụ
điều chỉnh khác, đạo đức luôn có tính lịch sử, một quan niệm, qui tắc đạo đức nào
đó có thể là chuẩn mực ứng xử trong thời đại này nhưng sang thời đại khác có thể
không còn giá trị. Bởi vậy, đạo đức đang được đề cập chỉ có thể là những quan
niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đang thịnh hành trong xã hội.
Đạo đức cũng có vai trò quan trọng đảm bảo cho phong tục, tập quán, tín
điều tôn giáo, pháp luật, lệ làng, hương ước, qui tắc của các tổ chức xã hội… được
thực hiện trong cuộc sống. Khi các loại qui phạm này có sự phù hợp, thống nhất với
các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội, chắc chắn chúng sẽ được
thực hiện nghiêm chỉnh hơn. Phẩm chất, nhân cách đạo đức cá nhân có vai trò đặc
biệt quan trọng, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm việc thực hiện các qui tắc sinh
hoạt công cộng khác. Như trên đã trình bày, nhân cách, phẩm chất đạo đức cá nhân
là cơ sở làm hình thành thói quen suy nghĩ và hành động phù hợp chuẩn mực xã
hội. Điều này cho thấy sự cần thiết của việc giáo dục ý thức đạo đức cho con người
trong đời sống hàng ngày.
Tất nhiên, sự cản trở của đạo đức đối với việc thực hiện các qui phạm xã hội
khác không phải là không có. Một khi có sự thay đổi chế độ xã hội, những quan
niệm, quan điểm đạo đức cũ còn tồn tại, nhưng đã trở nên lạc hậu trong điều kiện xã
hội mới sẽ trở thành lực cản trong việc thực hiện những qui tắc xử sự được hình
thành trong điều kiện xã hội mới.
Sáu là, đạo đức góp phần đảm bảo cho xã hội phát triển lành mạnh, ổn định,
bền vững, đảm bảo văn minh và tiến bộ xã hội.
Xã hội nào cũng luôn tồn tại hiện tượng vi phạm các qui tắc của đời sống
chung, hiện tượng này luôn tồn tại song hành cùng với sự tôn trọng, tuân thủ
nghiêm chỉnh chúng. Bên cạnh hành vi thiện, luôn có hành vi bất thiện, cùng với sự
chân chính, vẫn luôn tồn tại hiện tượng bất chính… Nói cách khác, xã hội nào cũng
42
luôn tồn tại những hiện tượng thuộc về mặt trái của đời sống. Đặc biệt, trong bối
cảnh hợp tác, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa thì những vấn đề đó càng có điều kiện
lan rộng, nhiều vấn đề trở thành những vấn nạn của toàn cầu. Trong điều kiện hiện
nay, không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đang phải đối mặt với những
thách thức hết sức to lớn, đó là tệ sùng bái nước ngoài, coi thường các giá trị truyền
thống, lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc
lên trên hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ
túi”, tệ nạn xã hội, hành vi phi nhân tính xuất hiện ngày càng nhiều, thậm chí, con
người và các bộ phận trên cơ thể con người cũng trở thành đối tượng của việc mua
bán, trao đổi, đặc biệt thời gian gần đây, ở một số nước trên thế giới, người ta còn
đặt ra cả vấn đề nhân bản vô tính người… Những điều này đã và sẽ gây ra những hệ
lụy to lớn cho xã hội, làm đảo lộn các giá trị của cuộc sống, cản trở sự phát triển của
xã hội, làm xã hội vận động, phát triển một cách không lành mạnh, thiếu vững chắc.
Có thể nói, đạo đức tiến bộ, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc là nhân
tố quan trọng đảm bảo cho đời sống xã hội có trật tự, phát triển ổn định, lành mạnh,
bền vững. Cần phải khẳng định rằng, các phạm trù đạo đức như trung thực, lương
tâm, chữ tín, trách nhiệm… luôn hết sức cần thiết trong mọi xã hội, trong mọi điều
kiện, hoàn cảnh. Bởi vậy, những chuẩn mực đạo đức này không chỉ có vai trò tạo
nên sự ổn định của đời sống xã hội, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, thúc đẩy
sự tăng trưởng và bền vững của nền kinh tế mà còn tạo ra sự thống nhất, hài hòa
giữa phát triển kinh tế với công bằng, văn minh và tiến bộ xã hội. Tình người, sự tin
tưởng, sự tôn trọng con người là những yếu tố quan trọng thúc đẩy tinh thần lao
động nhiệt tình, có trách nhiệm, say mê cống hiến. Trung thực, cạnh tranh lành
mạnh, có tinh thần hợp tác, giữ chữ tín với bạn hàng, tôn trọng khách hàng, phục vụ
khách hàng một cách tận tâm... không chỉ mang lại lợi nhuận cho bản thân người
kinh doanh mà đồng thời còn làm cho các quan hệ kinh tế diễn ra một cách ổn định,
lành mạnh, có trật tự. Gian dối, bội tín, coi thường sức khỏe, tính mạng con người
nhằm thu lợi nhuận bằng mọi giá thực chất là “lợi bất cập hại”, được cái lợi trước
mắt mà bỏ mất cái lợi dài lâu. Tình người, lương tâm và trách nhiệm khiến người ta
hồi tâm, chuyển ý mà cải tà, qui chính, sống lương thiện; sự thông cảm, tấm lòng
nhân ái, khoan dung, độ lượng, là động lực thúc đẩy sự hoàn lương. Yêu thiên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái, thiết lập quan hệ hài hòa giữa con người với
tự nhiên sẽ đem lại một sự phát triển bền vững lâu dài. Đạo đức xã hội một mặt
khuyến khích những hoạt động khoa học nhằm phục vụ con người, mặt khác nó có
sức mạnh to lớn, ngăn cản bất kỳ hoạt động khoa học nào làm tổn hại tới giá trị con
43
người. Trong khi pháp luật còn chưa lên tiếng thì dư luận các nhà khoa học chân
chính đã gióng lên hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ, ngăn cản những hướng nghiên
cứu khoa học đó. Đạo đức hướng con người đến các giá trị đích thực, các giá trị
nhân bản của cuộc sống. Sống thiện, nhân đạo là điều phù hợp với sự tiến bộ xã hội,
có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển, thúc đẩy tiến bộ và văn minh xã hội.
Bảy là, đạo đức góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ, hợp tác quốc tế
Cũng như bất kỳ quan hệ xã hội nào khác, quan hệ quốc tế chỉ có thể được
củng cố, tăng cường, bền vững khi chúng được thiết lập trên cơ sở các bên thành
thực, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. “Người với người là bạn”, “tứ hải giai huynh
đệ”, tình người chính là chất keo gắn kết quan hệ giữa các dân tộc. Sự hài hòa về
mặt lợi ích, tinh thần hợp tác, xây dựng… là nhân tố góp phần thắt chặt các mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế. Nhân ái, tín, nghĩa, trung thực, lương thiện… là
những phạm trù đạo đức có tính chất nhân loại, là nơi giao nhau của các quan hệ
hữu nghị, hợp tác giữa các nước. Chúng là những nhịp cầu hữu nghị, góp phần củng
cố, thắt chặt các mối quan hệ quốc tế. Lương tâm, trách nhiệm, tinh thần nhân
đạo… là những tác nhân quan trọng khiến hai bên đối địch có thể gặp nhau, vượt
qua hận thù, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp.
2.3. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức
2.3.1.Những điểm tƣơng đồng giữa pháp luật và đạo đức
Một là, pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của đời sống, phản ánh đời
sống, chịu sự qui định của đời sống và có tác động mạnh mẽ đến đời sống.
Pháp luật và đạo đức không phải là những hiện tượng có sẵn trong tự nhiên,
cũng không phải do một thế lực siêu nhiên nào bên ngoài xã hội “ấn vào” đời sống
xã hội. Chúng là sản phẩm của đời sống, là kết quả của sự vận động và phát triển
của đời sống kinh tế xã hội. Pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của bộ óc con
người, là kết quả quá trình con người nhận thức đời sống chính mình. Hiện thực của
đời sống tác động vào bộ óc con người, qua quá trình phân tích, đánh giá, sàng
lọc..., cuối cùng khái quát hoá thành các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức hay
pháp luật. Thông qua pháp luật, đạo đức, chúng ta hiểu được ở một mức độ nhất
định thực trạng của đời sống xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của
lịch sử. Sự phản ánh đời sống hiện thực bằng pháp luật và đạo đức có thể trung
thực, chính xác nhưng cũng có thể sai lệch. Điều đó là do, các yếu tố như lợi ích, lý
tưởng, tài năng, ý chí của chủ thể... đều tham gia vào quá trình nhận thức với những
mức độ khác nhau và ảnh hưởng nhất định đến kết quả nhận thức. Pháp luật trước
tiên phản ánh các quan hệ kinh tế và đối sánh giai cấp. Nó phản ánh những quan hệ
44
xã hội đã tồn tại một cách khách quan, phổ biến, điển hình và tương đối ổn định.
Trên cơ sở nhận thức thực trạng, xu hướng vận động cũng như nhu cầu, đòi hỏi của
cuộc sống; trên cơ sở nhận thức về các loại lợi ích cần bảo vệ; về tương quan lực
lượng giữa các giai cấp trong xã hội... nhà làm luật khái quát thành những nguyên
tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội, đảm bảo để
chúng phù hợp với những lợi ích của nhà nước, của giai cấp thống trị, của cộng
đồng. Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất. Từ
thực tế cuộc sống mà dần dần hình thành những quan điểm, quan niệm, nguyên tắc,
chuẩn mực trong xử sự giữa các thành viên trong đời sống chung của cộng đồng.
Phản ánh đời sống xã hội, pháp luật và đạo đức đều chịu sự qui định của điều
kiện kinh tế xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: “không phải ý thức của con
người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”
[43, tr.578]. Ănghen còn đề cập một cách cụ thể hơn: “mọi lý thuyết đạo đức đã có
từ trước tới nay đều là sản phẩm củatình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ” [2,
tr.163]. Tương ứng với mỗi điều kiện kinh tế xã hội, có một nền đạo đức, một hệ
thống pháp luật. Là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế, vì vậy, về cơ bản
pháp luật qui định về vấn đề gì, qui định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc
vào thực trạng nền kinh tế. Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì những quan
niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức, pháp luật thay đổi theo. C.Mác đã khẳng
định, “khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi thì đạo đức, pháp luật cũng bị “đảo lộn ít
nhiều, nhanh chóng”. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, pháp luật và đạo đức luôn đi sau
đời sống, vì vậy chúng thường lạc hậu hơn so với đời sống. Trên cơ sở các quan hệ
xã hội đã diễn ra và trở thành thành phổ biến, xuất hiện nhu cầu điều chỉnh, từ đó
mới dần dần hình thành nên các chuẩn mực đạo đức, pháp luật hay các qui phạm xã
hội khác để điều chỉnh chúng. Ở khía cạnh khác, sự lạc hậu của pháp luật và đạo
đức so với đời sống xã hội còn thể hiện ở chỗ, điều kiện kinh tế, chính trị... của xã
hội cũ có thể đã mất đi nhưng trong xã hội những quan niệm, qui tắc đạo đức, pháp
luật cũ có thể vẫn tồn tại. Là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội đương thời,
song pháp luật và đạo đức vừa có tính vượt trước vừa có tính kế thừa. Chính vì vậy,
từ thời đại này sang thời đại khác, chúng ta vẫn thấy có những quan niệm đạo đức
giống nhau, những qui định pháp luật tương tự nhau.
Pháp luật và đạo đức đều có sự tác động trở lại khá mạnh mẽ đối với đời
sống xã hội, chúng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở những mức độ nhất định sự
phát triển của đời sống xã hội. Khi pháp luật và đạo đức phù hợp với qui luật phát
triển của đời sống, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với các
45
loại lợi ích trong xã hội, nói cách khác, khi pháp luật và đạo đức phản ánh đúng
thực trạng của điều kiện kinh tế xã hội thì chúng có tác động tích cực. Ngược lại,
khi pháp luật và đạo đức không phù hợp với qui luật vận động phát triển của xã hội,
không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế chúng sẽ có tác động tiêu cực.
Chúng có thể cản trở, kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, làm cho
đời sống xã hội mất ổn định...
Pháp luật và đạo đức đều chịu sự tác động của chính trị, tôn giáo, phong tục
tập quán, truyền thống... cũng như chịu sự tác động trở lại ở những mức độ nhất
định của các yếu tố đó.
Hai là, pháp luật và đạo đức đều là những phương tiện điều chỉnh quan
trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội.
Pháp luật và đạo đức có vai trò quan trọng bậc nhất đảm bảo cho xã hội tồn
tại và phát triển trong ổn định, trật tự. So với các công cụ điều chỉnh khác, pháp luật
và đạo đức có những ưu thế vượt trội. Chúng là những công cụ có phạm vi điều
chỉnh rộng lớn nhất, là những phương tiện điều chỉnh có hiệu quả nhất đối với các
quan hệ xã hội. Cho dù ở các nước mà tôn giáo là quốc giáo thì như đã đề cập, trong
những tín điều tôn giáo, bên cạnh các chuẩn mực nhằm củng cố niềm tin tôn giáo,
có rất nhiều chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của các tín đồ.
Trong lịch sử, ở một số quốc gia trên thế giới, trong những thời kỳ nhất định, những
chuẩn mực tôn giáo hay chính trị có thể được coi trọng hơn, tuy nhiên, điều đó chỉ
có tính nhất thời. Do sự phát triển của đời sống xã hội ngày càng trở nên văn minh,
hiện đại, tập quán, tín điều tôn giáo… ngày càng thu hẹp phạm vi tác động. Trái lại,
đạo đức luôn có mặt trong mọi quan hệ của con người, còn pháp luật ngày càng trở
nên quan trọng và có xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi điều chỉnh. Bởi vậy, có
cơ sở để khẳng định rằng, pháp luật và đạo đức luôn là những công cụ điều chỉnh
quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội trong mọi thời đại.
Ba là, cả pháp luật và đạo đức đều mang tính qui phạm phổ biến
Pháp luật và đạo đức đều là những khuôn mẫu, mực thước, mô hình, chuẩn
mực cho hành vi con người. Nghĩa là, cả pháp luật và đạo đức đều là những qui tắc
xử sự chung, nó được hình thành từ trong đời sống và quay trở lại điều chỉnh các
mối quan hệ giữa người với người trong đời sống. Phạm vi tác động của pháp luật
và đạo đức là rất rộng lớn, chúng tác động đến tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã
hội, tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Có thể khẳng định, sống trong
xã hội không một ai là không chịu sự tác động của pháp luật và đạo đức, ở đâu có
46
con người, ở đó có đạo đức, đạo đức có mặt trong mọi xã hội. Đối với pháp luật thì
như đã đề cập, nó ngày càng trở nên quan trọng, cần thiết trong đời sống xã hội.
Bốn là, pháp luật luôn có sự thống nhất với những quan niệm, chuẩn mực
đạo đức đang giữ vai trò thống trị trong xã hội
Như đã đề cập, trong một nền đạo đức xã hội, luôn tồn tại những quan niệm,
chuẩn mực đạo đức giữ vai trò thống trị, những quan niệm chuẩn mực đạo đức là
tàn dư của xã hội cũ và những quan niệm, chuẩn mực đạo đức đang manh nha hình
thành. Trong đó, pháp luật luôn có sự thống nhất với những quan niệm, tư tưởng
đạo đức giữ vai trò thống trị trong xã hội, đó chính là những quan niệm, chuẩn mực
đạo đức của giai cấp thống trị cũng như những quan niệm, chuẩn mực đạo đức
chung, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội, được toàn xã hội thừa nhận.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giữa pháp luật và đạo đức, “các quan niệm về công
bằng, thiện ác, nhân đạo... về nguyên tắc là không có sự đối lập nào” [83, tr.13].
Chính vì vậy, có tác giả cho rằng “đạo đức của một cộng đồng còn bao hàm cả
pháp quyền của nó; pháp quyền của một cộng đồng là đạo đức tối thiểu của nó”
[34, tr.63]. Trong bối cảnh hợp tác, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, quan niệm về
thiện ác, tốt xấu, nhân đạo, công bằng, bình đẳng… giữa các dân tộc ngày càng trở
nên gần gũi nhau, thống nhất với nhau.
Cần lưu ý rằng, những quan niệm, quan điểm đạo đức mặc dù được coi là
chuẩn mực ứng xử trong xã hội cũ nhưng do điều kiện kinh tế, chính trị xã hội đã bị
thay đổi, chúng trở nên không còn phù hợp với điều kiện xã hội mới, không còn phù
hợp với pháp luật. Trong trường hợp này, pháp luật trở thành nhân tố để loại bỏ
chúng. Pháp luật cũng có thể không phù hợp với những quan niệm, quan điểm đạo
đức đang manh nha hình thành nhưng chưa trở thành chính thống trong đời sống xã
hội.
Năm là, trong xã hội có giai cấp, pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai
cấp, vừa mang tính xã hội.
Pháp luật và đạo đức đều bị ảnh hưởng bởi các quan điểm chính trị của giai
cấp cầm quyền, chúng vừa là những kênh truyền tải, vừa là những phương tiện thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền. Cả pháp luật và
đạo đức đều được xác định là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị, công cụ hướng
hành vi của con người vào những khuôn khổ có lợi cho giai cấp thống trị, nhằm
củng cố và bảo vệ vững chắc địa vị thống trị của chúng.
Pháp luật trước hết và chủ yếu thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp có
của, là công cụ bảo vệ địa vị thống trị xã hội của giai cấp đó. Thông qua nhà nước,
47
bằng con đường nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được tập trung thành ý chí
nhà nước và được nâng lên thành pháp luật.
Do điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau nên ý thức của các giai cấp cũng
khác nhau thậm chí đối lập nhau. Trong xã hội nguyên thuỷ, mọi thành viên trong
xã hội đều có địa vị và lợi ích như nhau nên đạo đức của họ là thống nhất. Khi xã
hội phân chia thành giai cấp thì đạo đức cũng mang tính giai cấp, mỗi giai cấp có
những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức phù hợp với lợi ích của giai cấp
mình. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có hai thứ đạo đức trái
ngược nhau. Giai cấp thống trị nhờ nắm trong tay các phương tiện sản xuất vật chất
và các phương tiện sản xuất tinh thần, lại có sự hỗ trợ của nhà nước, pháp luật nên
có điều kiện áp đặt những quan điểm, tư tưởng đạo đức của giai cấp mình lên toàn
xã hội nhằm củng cố và bảo vệ địa vị thống trị xã hội của chúng. Do đó, đạo đức
của giai cấp thống trị trở thành phổ biến trong xã hội và được củng cố thành thói
quen, phong tục tập quán. Cũng vì vậy, đạo đức của giai cấp thống trị thường có sức
sống dai dẳng trong đời sống xã hội. Giai cấp bị trị do bị tước mất tư liệu sản xuất
nên ở vào địa vị phụ thuộc trong xã hội, do vậy họ không có điều kiện phát triển
đạo đức của mình ngang tầm với đạo đức của giai cấp thống trị. Bởi vậy, đạo đức
của giai cấp bị trị không có điều kiện ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội, nó
tồn tại như cái không chính thống và dễ bị mai một.
Bên cạnh tính giai cấp, cả pháp luật và đạo đức đều mang tính xã hội, chúng
đều là những công cụ quan trọng bậc nhất để tổ chức và quản lý đời sống xã hội,
giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, thực hiện những mục tiêu chung, bảo vệ những lợi
ích chung của cộng đồng xã hội. Pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của đời sống
xã hội, phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội như những
điều kiện lịch sử, văn hoá, truyền thống, phong tục, tập quán, điều kiện tự nhiên. Cả
pháp luật và đạo đức đều là những phương tiện để giải quyết những vấn đề chung,
thiết yếu của đời sống xã hội. Chúng đều được xác định là công cụ, phương tiện liên
kết chặt chẽ toàn thể cộng đồng để giải quyết những vấn đề chung của toàn thể cộng
đồng. Trong xã hội, mặc dù các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau
nhưng vẫn có những quan niệm, quan điểm đạo đức chung, phản ánh và điều chỉnh
các quan hệ xã hội giữa người với người trong đời sống cộng đồng. Trong điều kiện
ngày nay, tính xã hội của pháp luật và đạo đức ngày càng thể hiện rõ nét. Pháp luật
và đạo đức đều hàm chứa những giá trị chung, phổ biến của xã hội.
Sáu là, pháp luật và đạo đức đều thể hiện đậm nét tính dân tộc.
48
Bất kỳ một hệ hống pháp luật hay một nền đạo đức nào cũng luôn phản ánh
các đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử, tín
ngưỡng... của dân tộc đó. Bởi vậy, mỗi dân tộc có những quan niệm, chuẩn mực
đạo đức riêng, hệ thống pháp luật riêng phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của dân tộc, mang bản sắc của dân tộc. Trên thực tế, có thể có
những dòng họ pháp luật, trong đó bao gồm pháp luật của một số quốc gia có những
điểm tương đồng nhau, tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia vẫn có những đặc
trưng riêng. Tương tự, quan niệm đạo đức của người Á Đông có những đặc trưng
riêng, khác biệt với người phương Tây, nhưng ngay ở một số quốc gia phương
Đông cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo, quan niệm đạo đức của họ cũng không
phải là hoàn toàn đồng nhất. Từ nơi này đến nơi khác, dân tộc này đến dân tộc khác,
quan niệm về thiện ác đã thay đổi nhiều, thậm chí trở nên đối lập nhau. Có tình
trạng đó là bởi vì, các dân tộc có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều
kiện địa lý, lịch sử, phong tục tập quán... rất khác nhau, mỗi dân tộc có bản sắc
riêng.
Ngày nay, toàn nhân loại đang bước vào kỷ nguyên của hợp tác, hội nhập,
toàn cầu hóa, trên toàn thế giới đang diễn ra sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Tuy
nhiên, dù hội nhập hay toàn cầu hóa rộng khắp đến đâu, cũng không thể nhất thể
hóa pháp luật hay đạo đức trên toàn thế giới. Dân tộc nào có đạo đức ấy, pháp luật
ấy.
2.3.2. Những điểm khác biệt giữa pháp luật với đạo đức
Một là, con đường hình thành
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội nguyên thuỷ chưa có nhà
nước cũng chưa có pháp luật. Để tổ chức và quản lý đời sống xã hội, người nguyên
thuỷ dùng đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... Khi trong xã hội xuất
hiện chế độ sở hữu tư nhân, làm xã hội phân hóa thành các giai cấp đối kháng, các
qui phạm này dần không phát huy tác dụng, nó không thể điều chỉnh được quan hệ
đối kháng giữa kẻ bóc lột với người bị bóc lột. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong điều kiện mới, bằng con đường nhà nước, pháp luật từng bước được hình
thành. Pháp luật xuất hiện là kết quả của hoạt động tự giác, tư duy tích cực của nhà
nước, tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội.
Cũng như pháp luật, đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết
quả tất yếu của cuộc sống con người. Tuy nhiên, đạo đức chủ yếu hình thành bằng
con đường tự phát. Từ những xử sự cụ thể của một chủ thể nào đó, người ta ý thức
được đó là điều nên làm, cần phải làm hay không nên làm, không được làm. Những
49
quan niệm đầu tiên về cách thức xử sự giữa con người với nhau trong cuộc sống
như vậy mà từng bước hình thành. Trải qua thời gian, những quan niệm đó được
hoàn thiện dần và được đúc kết thành những phương châm ứng xử, thành chuẩn
mực chi phối hành vi các cá nhân trong cộng đồng, trở thành phong tục, tập quán
của cộng đồng. Đạo đức cũng có thể được hình thành một cách tự giác, nó là kết
quả hoạt động nhận thức thực tiễn và sáng tạo tích cực của những cá nhân tiêu biểu,
những người "đức cao vọng trọng" trong xã hội. Xã hội nào cũng xuất hiện những
cá nhân tiêu biểu, những vĩ nhân, những người có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của xã hội. Nhờ có những cá nhân ưu tú đó mà trí tuệ, nhu cầu, nguyện vọng
của quần chúng được đúc kết lại và được nâng lên tầm cao mới. Khổng Tử, Thích
Ca, Giê Su, Tôn Dật Tiên, Hồ Chí Minh... không chỉ là những tấm gương về đạo
đức mà còn là những người có đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành những
quan niệm, quan điểm, nguyên tắc, qui tắc đạo đức. Bên cạnh đó, những chuẩn mực
đạo đức cũng có thể do các thiết chế xã hội đặt ra.
Hai là, hình thức thể hiện
Có thể nói, hình thức thể hiện của đạo đức khá phức tạp và chủ yếu tồn tại ở
dạng không thành văn, và được truyền khẩu từ người này sang người khác, từ vùng
này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác. Tồn tại ở dạng này, đạo đức thường
được thể hiện thông qua phong tục, tập quán, tục ngữ, ca dao, hò, vè - những “cuốn
sách giáo khoa có giá trị vào loại bậc nhất (nếu không nói là độc nhất vô nhị) về
luân lý và đạo đức” [101, tr.9]. Cũng có những quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo
đức được truyền tải trong các kinh, sách tôn giáo, chính trị, văn học, nghệ thuật,
trong các qui định của các thiết chế xã hội... Như vậy, sự biểu hiện của đạo đức rất
đa dạng và không có những hình thức đặc thù cho riêng mình.
Pháp luật mặc dù cũng được thể hiện thành văn và không thành văn song nó
luôn được thể hiện dưới những hình thức xác định và xu hướng chung là ngày càng
tồn tại phổ biến dưới hình thức văn bản qui phạm pháp luật. Tồn tại dưới dạng này,
pháp luật thể hiện một cách tập trung nhất ý chí của nhà nước, đồng thời, khi đó nó
cũng phù hợp với yêu cầu về tính minh bạch, chính xác của pháp luật trong điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
Ba là, tính xác định về hình thức
So với đạo đức, pháp luật thể hiện tính vượt trội ở sự xác định về hình thức
của nó. Pháp luật, bản thân nó là một hệ thống, đó là một thể thống nhất bao gồm
các qui phạm pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau được sắp xếp một cách
logic, khách quan và khoa học. Qui phạm pháp luật, thành tố nhỏ nhất cấu thành
50
nên pháp luật cũng luôn xác định về hình thức. Thông qua các qui phạm pháp luật,
các chủ thể biết được trong điều kiện nào, họ được làm gì, phải làm gì hay không
được làm gì…, hậu quả sẽ phải gánh chịu như thế nào nếu làm trái điều đó. Nói
cách khác, trong pháp luật, sự cho phép, bắt buộc hay cấm đoán luôn được xác định
rất rõ ràng, và để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể, nhà nước qui
định các biện pháp cưỡng chế trong bộ phận chế tài của qui phạm pháp luật. Tính
xác định về hình thức của pháp luật còn thể hiện ở yêu cầu về kĩ thuật sử dụng ngôn
ngữ để biểu đạt ý chí nhà nước một cách rõ ràng, chính xác, không trừu tượng,
chung chung, mọi chủ thể đều có thể hiểu đúng, chính xác ý chí của nhà nước. Tính
xác định về hình thức của pháp luật là ưu thế vượt trội của nó so với các loại qui tắc
xử sự khác. “Trong mỗi xã hội (mỗi nước), luật pháp là sự tổng hợp duy nhất
những chuẩn mực, không có “bản sao”, không có phương án hai” [119, tr.111].
Trái lại, đạo đức chủ yếu tồn tại dưới dạng không thành văn nên không có
tính xác định về hình thức. Đạo đức xã hội, bản thân nó không phải là một “hệ
thống”. Trong khi xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật thì đạo đức xã hội lại rất
phức tạp, “nó chia ra mấy phần rõ rệt: phần lớn đó là các chuẩn mực được mọi
người thừa nhận, phần nhỏ đó là đạo đức của những tầng lớp và những nhóm dân
cư nhất định nào đó” [119, tr.112,113], trong đó có đạo đức của các giai cấp, tầng
lớp, đạo đức của các tôn giáo, đạo đức của các thiết chế nghề nghiệp [13, tr.18]...
Trong một nền đạo đức xã hội, bên cạnh những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực
đạo đức giữ vai trò thống trị, còn có những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức là tàn dư của xã hội cũ và cả những quan niệm, quan điểm đạo đức đang manh
nha hình thành. Vì tồn tại ở dạng không thành văn nên đạo đức rất khó xác định.
Không thể có một tiêu chuẩn nào để kiểm nghiệm được tính xác định của lương
tâm, tình cảm đạo đức. Các quan niệm, quan điểm, đánh giá đạo đức thường rất
khái quát và nhiều khi không đề cập một cách trực diện mà dùng hình ảnh, xa xôi,
bóng gió. Chẳng hạn, để thể hiện quan điểm đùm bọc, giúp đỡ nhau lúc khó khăn,
hoạn nạn, người Việt Nam thường nói “thương người như thể thương thân”; “bầu
ơi thương lấy bí cùng”, “cứu một mạng người phúc đẳng hà sa”, “ác giả ác báo,
thiện giả thiện lai”…Các qui phạm đạo đức cũng không xác định về hình thức như
các qui phạm pháp luật. Rất ít các qui phạm đạo đức chỉ rõ điều kiện, hoàn cảnh mà
nó tác động cũng như xác định rõ chủ thể nằm trong phạm vi tác động của nó. Cách
qui định về hành vi được phép, bắt buộc hay bị cấm cũng hết sức khái quát, chẳng
hạn, phải cứu giúp người bị nạn; phải hăng hái, nhiệt tình trong công việc; không
51
được trông chờ, ỷ lại... Bởi vậy, các qui phạm đạo đức thường không nêu ra các
biện pháp chế tài.
Những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức xã hội chỉ mang tính định
hướng nói chung, các cá nhân do tuổi tác, trình độ nhận thức, nghề nghiệp, chức
vụ… khác nhau nên nhận thức của họ về các quan điểm, tư tưởng đạo đức xã hội có
sự khác nhau. Chính vì vậy, đạo đức xã hội khá uyển chuyển, linh hoạt, trên cơ sở
các yếu tố chủ quan, khách quan cụ thể, mỗi người sẽ có những xử sự thích hợp. Sự
đánh giá về tính phù hợp hay không phù hợp đạo đức từ phía xã hội về một hành vi
cụ thể nào đó vì thế cũng không cố định, cứng nhắc. Chẳng hạn, không phải trong
mọi trường hợp nói dối đều là không trung thực. Trong trường hợp nhất định, bác sĩ
hay con cái hoàn toàn có thể không cần phải nói đúng sự thật về bệnh tật của bố mẹ
mình.
Bốn là, tính bắt buộc chung
Pháp luật do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí nhà nước nên nó có tính bắt
buộc chung đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước là tổ chức quyền
lực chung của toàn xã hội, quyền lực nhà nước tác động đến mọi cá nhân, tổ chức
trong xã hội, phục tùng mệnh lệnh của nhà nước là bắt buộc, vô điều kiện đối với
họ. Do vậy, thực hiện các qui định của pháp luật là bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ
chức trong xã hội chứ không phải tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể, nói
cách khác, sự thực hiện pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể. Khi chủ
thể thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh, nhà nước bằng sức mạnh của bộ máy
cưỡng chế chuyên nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với họ, buộc họ
phải thực hiện nghiêm chỉnh những yêu cầu đòi hỏi của nhà nước.
Khác với pháp luật, đạo đức chỉ là những lời khuyên, điều răn: nên, không
nên, cần phải hay không được làm một điều gì đó. Bởi vậy, đạo đức không có tính
bắt buộc, không có một thiết chế xã hội nào được tổ chức ra để thực hiện việc
cưỡng chế những chủ thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên cần lưu ý,
trên thực tế có rất nhiều những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức đã trở
thành phong tục tập quán, thành lệ làng, hương ước, thành qui định của các thiết chế
xã hội... Những qui tắc này có thể có tính bắt buộc và cưỡng chế, tuy nhiên đó là
thuộc tính của lệ làng, hương ước... chứ không phải của đạo đức.
Năm là, về phạm vi điều chỉnh
Đây là vấn đề còn có nhiều ý kiến trái ngược nhau, có tác giả cho rằng phạm
vi điều chỉnh của pháp luật rộng hơn đạo đức, một số tác giả khác lại có ý kiến
ngược lại. Qua nghiên cứu, có thể thấy, xét trên bình diện quan hệ xã hội, có cơ sở
52
để khẳng định phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp luật. Có thể
nói, đạo đức điều chỉnh tất cả các quan hệ giữa người với người, trong khi đó, pháp
luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, có tầm quan trọng, đã trở thành
phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, xét trên bình diện hành vi con người, dễ
nhận thấy có những hành vi vừa được đạo đức, vừa được pháp luật cùng điều chỉnh,
bên cạnh đó có những hành vi được đạo đức điều chỉnh nhưng pháp luật không điều
chỉnh và ngược lại.
Với tính cách là công cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ
xã hội, bên cạnh những ưu thế vốn có, pháp luật cũng còn những hạn chế nhất định.
Pháp luật chỉ được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp tác động bên ngoài, vì
thế, nó không thể điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã hội, đặc biệt là những quan
hệ xã hội mà trong đó hành vi của các chủ thể chỉ bị chi phối bởi lương tâm, tình
cảm của họ. Nó chỉ có thể điều chỉnh những quan hệ xã hội mà hành vi của chủ thể
bị chi phối bởi ý chí, lý trí. Trong số đó, pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã
hội cơ bản có tầm quan trọng nhất định của đời sống xã hội, mang tính phổ biến,
điển hình và đã trở nên ổn định tương đối trong đời sống xã hội. Nhìn chung, theo
sự phát triển của xã hội, pháp luật có xu hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh.
Trong khi đó, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rất rộng. Cứ ở đâu có con
người, ở đó có đạo đức. Đạo đức là một yếu tố tinh thần không thể tách rời hành vi
của con người, không thể thiếu được trong đời sống của mỗi con người. “Đạo đức
có vai trò điều tiết trong tất cả các quan hệ xã hội” [39, tr.72], nó không chỉ điều
chỉnh các quan hệ xã hội bị chi phối bởi ý chí, lý trí, nó còn điều chỉnh những quan
hệ tình cảm của con người, như tình bạn, tình yêu, tình đồng chí, tình hàng xóm,
láng giềng...[126, tr.21]. Mỗi người đều có một vị trí nhất định trong xã hội, vì vậy,
ở đâu, bao giờ, khi nào cũng luôn phải chú ý đối nhân xử thế sao cho đúng mực.
Bởi vậy, nếu cho rằng có những quan hệ xã hội do pháp luật tạo ra thì sau khi nó
hiện diện trong đời sống, đạo đức cũng tham gia điều chỉnh. Tuy nhiên, cần lưu ý là
trong trường hợp này, đạo đức chỉ điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể với tính cách
là những con người với nhau. "Trên thực tế, không một lĩnh vực quan hệ xã hội nào
từ lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế - kinh doanh, quân sự, hành chính pháp lý
mà lại không có quan hệ ít nhiều với đạo đức, từ các phạm trù của đạo đức: thiện,
ác, tốt, xấu, công bằng, nhân đạo, lương tâm, vinh, nhục..." [83, tr.15]. Tóm lại, đạo
đức điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội với tính cách chủ thể của nó là những con
người có ý thức. Đạo đức không chỉ là qui tắc của hành vi con người trong quan hệ
với người khác, nó còn là qui tắc để chủ thể tự điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của
53
mình trong “quan hệ với chính mình”, tự trọng, tự ái, tự trách mình... là những yếu
tố quan trọng để mỗi cá nhân tự rèn luyện tu dưỡng nhân cách lối sống của bản thân
mình.
Khác với pháp luật chỉ là “những đòi hỏi tối thiểu” trong hành vi con người,
đạo đức "là những đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa" [34, tr.63]. Chẳng hạn, trường
hợp gặp người bị nạn, pháp luật chỉ buộc chủ thể phải thực hiện hành vi cứu giúp,
tức là làm cho người đó thoát khỏi sự nguy hiểm đến tính mạng còn đạo đức đòi hỏi
rộng hơn nhiều, nó không chỉ yêu cầu chủ thể phải thực hiện hành vi giúp người bị
nạn thoát khỏi sự nguy hiểm đến tính mạng mà còn đòi hỏi chủ thể phải có những
những hành vi giúp đỡ về vật chất cũng như về tinh thần khác. Một hành vi gây
thiệt hại cho xã hội chỉ trở thành đối tượng của pháp luật khi thiệt hại mà nó gây ra
ở một mức độ nào đó trở lên. Người ta không cần xử lý bằng pháp luật đối với hành
vi trộm cắp mớ rau, nải chuối. Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi nó đã
ổn định ở một mức độ nhất định còn đạo đức do tính chất mềm dẻo và linh động, nó
điều chỉnh các quan hệ xã hội ngay từ khi nó mới manh nha hình thành. Chẳng hạn,
những hành vi mang thai hộ; cho, nhận trứng, tinh trùng, các bộ phận trên cơ thể
người; hiến xác hoặc các bộ phận trên cơ thể sau khi chết… ngay từ những hành vi
đầu tiên xảy ra trong đời sống nó đã được đánh giá về mặt đạo đức với các phạm trù
thiện, nhân đạo... Nhưng những hành vi này chỉ trở thành hành vi pháp luật khi đã
trở nên phổ biến và ổn định tương đối.
Như vậy, có thể khẳng định, đạo đức điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội,
tuy nhiên nó không điều chỉnh tất cả mọi hành vi con người. Trong khi đó, phạm vi
điều chỉnh của pháp luật hẹp hơn nhiều, nó chỉ có thể điều chỉnh được những quan
hệ xã hội nhất định, trong những quan hệ đó nó cũng chỉ điều chỉnh những hành vi
nhất định của chủ thể mà thôi.
Sáu là cách thức, cơ chế điều chỉnh
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách qui định cho chủ thể các
quan hệ đó những hành vi được phép, những hành vi bắt buộc và những hành vi bị
ngăn cấm. Đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định cho chủ thể
những hành vi nên làm, không nên làm, cần phải làm, không được làm. Nói cách
khác, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định các quyền, nghĩa
vụ cho chủ thể còn đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng cách xác
định những nghĩa vụ, bổn phận cho chủ thể. Có thể nói, trong đạo đức, vấn đề
quyền chủ thể thường rất ít được được đề cập. Đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã
hội trên tinh thần lấy “hệ chuẩn thiện - ác làm thước đo giá trị” [47, tr.91]. Vì vậy,
54
trong điều chỉnh đạo đức, yếu tố chủ thể có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, dựa vào
chủ thể mà xác định quyền, nghĩa vụ cho họ một cách phù hợp. Trái lại, trong điều
chỉnh pháp luật, khách thể lại giữ vai trò hết sức quan trọng, dựa vào khách thể để
xác định điều kiện trở thành chủ thể, cũng như xác định quyền và nghĩa vụ cho các
chủ thể…
Cơ chế điều chỉnh pháp luật và cơ chế điều chỉnh đạo đức khác nhau ở
những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, điều chỉnh pháp luật, hầu hết các trường hợp đều phải có các qui
phạm pháp luật. Trên cơ sở các qui phạm pháp luật, các thành viên trong xã hội
nắm bắt được một cách chính xác cách xử sự mà nhà nước yêu cầu, đòi hỏi đối với
mình. Chỉ một số ít trường hợp khi chưa có các qui phạm pháp luật, những quan
niệm, quan điểm, tư tưởng pháp lý, những nguyên tắc, định hướng của pháp luật…
mới phát huy vai trò thay thế cho các qui phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi con
người. Tất nhiên, điều này cần phải hết sức hạn chế, bởi minh bạch là một trong
những thuộc tính vốn có của pháp luật. Khi đã xây dựng được các qui phạm pháp
luật, các quan niệm, quan điểm của giai cấp cầm quyền, của nhà nước hay của nhà
chức trách chỉ còn tồn tại như là yếu tố không chính thức, nó chỉ có giá trị tham
khảo khi cần thiết. Ở đây, việc thiết lập khuôn mẫu cho hành vi con người thuộc về
nhà nước. Nhà nước thay mặt toàn thể xã hội đưa ra các qui tắc xử sự chung làm
khuôn mẫu cho hành vi của tất cả các chủ thể.
Trong khi đó, có thể nói, hành vi đạo đức trực tiếp chịu sự chi phối của các
quan điểm, quan niệm, tư tưởng đạo đức. Để có được hành vi đạo đức đòi hỏi mỗi
người phải thấm nhuần các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức. Nắm được các
quan niệm, tư tưởng đạo đức là xác định được mình phải làm gì, làm như thế nào
trong điều kiện hoàn cảnh nào. Do vậy, điều chỉnh hành vi con người bằng đạo đức,
vấn đề cơ bản và quan trọng là hình thành và truyền bá các quan niệm, quan điểm,
tư tưởng đạo đức, sao cho chúng ngắn gọn, dễ truyền đạt, dễ thuộc, dễ nhớ. Qua rất
nhiều hình thức khác nhau, các quan niệm, quan điểm đạo đức được tuyên truyền,
phổ biến trong xã hội. Hoạt động này được tiến hành bởi rất nhiều chủ thể, ở bất cứ
đâu, trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào có thể, thông qua các mối quan hệ trong
gia đình, dòng họ, trường học, cơ quan, tổ chức... Những quan niệm, quan điểm, tư
tưởng, qui tắc đạo đức đó ăn sâu, bám rễ một cách chắc chắn trong ý thức chủ thể,
nó chi phối hoạt động hàng ngày, hàng giờ của các chủ thể. Nó thậm chí đã trở
thành thói quen, phong tục, tập quán trong xử sự của mỗi cộng đồng người. Tuỳ
từng mối quan hệ đạo đức cụ thể, phụ thuộc vào đối tượng tiếp nhận mà việc truyền
55
bá các quan điểm, tư tưởng đạo đức và xây dựng các qui tắc đạo đức được tiến hành
ở các mức độ khác nhau. Đó cũng chính là lý do giải thích về tính phức tạp của đạo
đức.
Như vậy, để điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tăng cường việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu
quả của điều chỉnh đạo đức, vấn đề cơ bản và quan trọng là truyền bá, giáo dục các
quan niệm, tư tưởng đạo đức.
Thứ hai, trong điều chỉnh pháp luật, việc cá biệt hoá các qui phạm pháp luật
thành các quyền, nghĩa vụ cho chủ thể có thể do chủ thể tự tiến hành, cũng có thể
do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tuỳ thuộc vào nội dung của các qui phạm
pháp luật. Ngược lại, trong điều chỉnh đạo đức, việc cá biệt hoá các quan niệm, qui
tắc đạo đức thành nghĩa vụ, bổn phận cho chủ thể hầu hết do chính chủ thể tự tiến
hành, đó chính là sự tự điều chỉnh của chủ thể. Trên cơ sở tri thức đạo đức, vốn
sống, nhân cách, từ sự hiểu người, hiểu mình, từ sự ý thức về vị trí của mình trong
xã hội, về những yêu cầu đòi hỏi của xã hội..., chủ thể tự xác định cho mình nên
làm gì, phải làm gì hay không được làm gì khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Bởi vậy, việc cá biệt hóa này không cần phải ghi trong bất cứ văn bản nào. Trong
khi đó, hầu hết các trường hợp cá biệt hoá các qui phạm pháp luật thành quyền,
nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lý cho chủ thể đều phải được thực hiện bằng văn bản
gọi là văn bản cá biệt.
Thứ ba, trong điều chỉnh pháp luật, nếu các chủ thể không thực hiện hoặc
thực hiện không nghiêm chỉnh các quyền, các nghĩa vụ pháp lý của mình thì khâu
tiếp theo của cơ chế này là truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với họ. Hoạt động này
được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền, theo trình tự thủ tục chặt chẽ do
pháp luật qui định. Để thực hiện hoạt động này, nhà nước có một bộ máy chuyên
môn với đầy đủ sức mạnh được tổ chức từ trung ương xuống địa phương. Trong
điều chỉnh đạo đức, đối với những trường hợp không thực hiện nghiêm chỉnh các
bổn phận đạo đức của mình, chủ thể cũng sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi,
tuy nhiên, truy cứu trách nhiệm đạo đức thường là hoạt động mang tính tự phát của
xã hội, nó được tiến hành không theo trình tự, thủ tục nào.
Bảy là, yếu tố tâm lý của hành vi
Khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, trên cơ sở sự hiểu biết của chủ thể
cũng như thái độ, tình cảm của bản thân đối với pháp luật cũng như đạo đức xã hội,
từ vốn sống, nhân cách, từ sự hiểu người, hiểu mình, sự ý thức về vị trí và vai trò
của bản thân mình, xuất phát từ tình cảm của cá nhân về đối tượng của hành vi, trên
56
cơ sở sự dự liệu về những hậu quả có thể phải gánh chịu cũng như thái độ của bản
thân đối với những hậu quả đó… (gọi chung là ý thức cá nhân bao gồm tri thức,
tình cảm, ý chí, động cơ, mục đích…), chủ thể tự lựa chọn cho mình một phương án
hành vi cụ thể. Sau khi đã quyết định lựa chọn một phương án xử sự cụ thể, chủ thể
hiện thực hoá sự lựa chọn đó bằng cách tiến hành hoặc không tiến hành những thao
tác, cử chỉ, lời nói nhất định. Sau khi hành vi được thực hiện, các chủ thể thường có
sự tự đánh giá về nó. Khi đó, về mặt tâm lý, chủ thể có thể thoả mãn bằng lòng,
hưng phấn cao độ hoặc ngược lại là sự ăn năn, ân hận, sợ hãi… Trong toàn bộ cơ
chế này, các yếu tố lý trí, ý chí, tình cảm, thói quen… giữ vai trò khác nhau đối với
mỗi loại hành vi.
Đối với hành vi đạo đức, yếu tố tình cảm và yếu tố thói quen đóng vai trò rất
quan trọng. Có thể nói, tình cảm là yếu tố quan trọng nhất đối với hành vi đạo đức.
Nếu không có tình cảm đạo đức thì các khái niệm đạo đức, các phạm trù luân lý,
những tri thức thu được về thiện ác, công bằng, lương tâm, danh dự... chỉ được nhận
thức ở mức độ ghi nhận thông tin mà không có cơ sở để chuyển hoá thành động cơ
của hành vi. Bằng tình cảm đạo đức, chủ thể không cần phải do dự khi lựa chọn
hành vi cần thực hiện, đồng thời lại tích cực, say mê thực hiện hành vi với một sự
quyết tâm cao độ… Yếu tố tình cảm chi phối, ảnh hưởng đến tất cả các mắt khâu,
các giai đoạn trong diễn biến tâm lý của hành vi, từ việc hình thành động cơ cho
đến sự tự đánh giá về hành vi của mình. Nhiều khi, tình cảm còn làm con người
“mất” lý trí, thực hiện hành vi không có sự kiểm soát của lý trí. Xuất phát từ vai trò
quan trọng của yếu tố tình cảm đối với hành vi đạo đức, cho nên khi đánh giá về
hành vi đạo đức, người ta không chỉ đánh giá sự phù hợp hay không phù hợp về
hình thức của hành vi đối với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi vậy, có những
hành vi mặc dù về hình thức là phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội nhưng
vẫn bị chê cười, bị coi là giả tạo, là “chơi ngông”…
Có thể nói, đạo đức là một phương tiện xuất hiện sớm nhất để điều chỉnh
hành vi con người, đồng thời nó cũng là yếu tố điều chỉnh gần gũi nhất đối với hành
vi con người. Chính vì thế, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức được
truyền bá hết sức sâu rộng trong xã hội, bởi vậy, nó đã ăn sâu, bám rễ một cách
chắc chắn trong mỗi người, nó chi phối hoạt động hàng ngày, hàng giờ của con
người. Nhiều hành vi đạo đức vì thế đã trở thành thói quen trong xử sự của con
người, trở thành phong tục, tập quán, truyền thống của cộng đồng, thậm chí có
những hành vi đạo đức đã trở thành vô thức, chúng xảy ra tự động ngay cả khi
không có sự điều khiển của ý thức.
57
Trong khi đó, hành vi pháp luật chủ yếu bị chi phối bới yếu tố lý trí, ý chí
chủ thể. Yếu tố tình cảm nhìn chung không ảnh hưởng nhiều đến hành vi pháp luật,
bởi vậy, đối với hành vi pháp luật, chỉ cần đánh giá về lý trí và sự tự do ý chí mà
thôi.
Tám là, biện pháp bảo đảm thực hiện
Đây là một trong những sự khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức.
Pháp luật do nhà nước ban hành nên nó được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
nhà nước là cơ bản và chủ yếu. Tuỳ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhà nước có thể sử
dụng một hoặc kết hợp nhiều biện pháp, trong đó cưỡng chế nhà nước là biện pháp
quan trọng nhất. Người vi phạm pháp luật có thể phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi về vật chất, tinh thần, tự do thậm chí cả tính mạng của mình, tuy nhiên, tất cả
những biện pháp này chỉ là sự tác động từ bên ngoài đối với chủ thể. Bên cạnh các
biện pháp nhà nước, pháp luật còn có thể được đảm bảo bằng các biện pháp xã hội
như sự giáo dục trong gia đình, nhà trường, sự tự nguyện, tự giác của chính chủ
thể...
Nhà nước cũng góp phần làm cho đạo đức được thực hiện nhất là khi nó phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, của nhà nước hay lợi ích chung của cộng
đồng, phù hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà nhà nước thấy cần
phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy các các giá trị đạo đức đó, tất nhiên điều đó phải
được qui định trong pháp luật. Đạo đức được đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, cơ
bản và chủ yếu bằng các biện pháp phi nhà nước. "Đạo đức được đảm bảo trước hết
nhờ vào những yếu tố kích thích nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ
lương tâm, từ những thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã hội"
[83, tr.17]. Do vậy, tuyên truyền giáo dục là một biện pháp hết sức quan trọng bảo
đảm cho đạo đức được thực hiện. Biện pháp này được áp dụng ở mọi lúc, mọi nơi,
trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Để thực hiện biện pháp này, vai trò của
cha mẹ, anh chị, thầy cô giáo, người lớn tuổi, những người “đức cao vọng trọng” là
rất quan trọng. Thông qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức,
chủ thể nhận thức được và tự nguyện, tự giác thực hiện những hành vi đạo đức cần
có. Thông qua sự giáo dục mà hình thành nhân cách con người, hình thành trong
mỗi người những đức tính quí báu, những phẩm chất tốt đẹp như lòng nhân ái, đức
hi sinh, sự thuỷ chung, khiêm tốn, lễ phép... Như vậy, chính môi trường sống tạo
nên lương tâm của mỗi người, yếu tố quan trọng đảm bảo cho đạo đức được thực
hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Bằng sự mách bảo của lương tâm, chủ thể xác
định được trách nhiệm, bổn phận của mình, tự giác làm một việc hoặc kiềm chế
58
không làm một việc nhất định. Có thể nói, lương tâm chủ thể như là một “vị quan
toà” công minh, phán xét một cách “khách quan” về các hành vi của chủ thể. Nó
như là một “nhân vật” có đầy uy lực luôn theo sát mỗi việc làm, mỗi hành động của
chủ thể. Nó có thể sai khiến chủ thể, buộc chủ thể phải làm một việc nhất định hay
không cho phép chủ thể được làm một việc nhất định. Khác với các biện pháp
cưỡng chế nhà nước, sự phán xét của “toà án lương tâm” không chỉ diễn ra trong
một thời hạn nhất định. Sự ân hận, cắn rứt, dày vò trong lương tâm không có thời
hiệu, nó diễn ra một cách “triền miên, day dứt, thậm chí suốt cả cuộc đời người vi
phạm” [83, tr.17].
Dư luận xã hội là biện pháp bảo đảm rất quan trọng của đạo đức. Dư luận xã
hội có sức mạnh rất to lớn trong việc tác động đến ý thức và hành vi con người.
Trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức, dư luận đánh giá hành vi đó thiện hay ác, thật
hay giả, tốt hay xấu... qua đó nó thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối một hành vi
nào đó. Có thể nói, trong cuộc sống cộng đồng, không người nào có thể bỏ qua dư
luận xã hội, đặc biệt đối với những người trọng danh dự thì dư luận càng có sự tác
động mạnh mẽ. Dư luận xã hội có tính hai mặt, khi thể hiện sự đồng tình với một
hành vi nào đó, nó có tác dụng khuyến khích rất lớn, nó như là một “phần thưởng”
tinh thần vô giá đối với chủ thể đã thực hiện hành vi, đồng thời nó có tác dụng giáo
dục mạnh mẽ đối với các chủ thể khác; ngược lại, khi thể hiện sự phản đối một
hành vi nào đó thì nó lại có vai trò như một “hình phạt”, một biện pháp chế tài cực
kì nghiêm khắc đối với chủ thể. Dư luận xã hội không phải một sớm một chiều qua
đi mà nó tồn tại một cách dai dẳng, thậm chí “ngàn năm” vẫn còn “trơ trơ”. Nó làm
chủ thể bị dày vò, cắn rứt lương tâm, lo lắng, phiền muộn. Nó có thể làm cho chủ
thể mất uy tín trong cộng đồng, sự xấu hổ và lòng tự trọng có thể khiến chủ thể
không thể tiếp tục cuộc sống trong cộng đồng như trước, không dám đi đâu, không
dám nhìn ai... Thậm chí nó có thể dẫn chủ thể tới xử sự cực đoan là tự tìm đến cái
chết để kết thúc cuộc đời, để không còn phải chứng kiến sự “phỉ nhổ”, sự lên án của
dư luận.
Khác với pháp luật, hậu quả mà chủ thể phải gánh chịu do không thực hiện
pháp luật một cách nghiêm chỉnh chỉ trong điều kiện hiện tại, trong đạo đức, theo
quan điểm đạo đức Phật giáo, hậu quả mà chủ thể phải gánh chịu do vi phạm các
qui tắc đạo đức có thể còn cả trong tương lai: “ác giả các báo”; “đời cha ăn mặn,
đời con khát nước”; “nhân nào quả đấy”...
Một điều cần lưu ý là đạo đức chủ yếu được đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp tác động về tinh thần, tuy nhiên không phải vì thế mà cho rằng các biện
59
pháp đảm bảo thực hiện của đạo đức kém phần nghiêm khắc, từ đó cho rằng hiệu
quả điều chỉnh hành vi con người bằng đạo đức thấp hơn so với pháp luật. Tất
nhiên, cả biện pháp cưỡng chế nhà nước hay tác động của dư luận xã hội cũng đều
có giới hạn của nó. Trên thực tế, có những người, dư luận xã hội cũng không có ý
nghĩa gì đối với họ. Khi đó nhất định phải dùng biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ của
nhà nước. Tuy nhiên, sự trừng phạt của pháp luật không phải khi nào cũng đem lại
hiệu quả như mong muốn. Đối với những “kẻ bần cùng liều thân”1 thì kể cả biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất cũng chưa hẳn có ý nghĩa đối với họ.
1Ngạn ngữ Việt Nam: “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng liều thân”.
60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Pháp luật và đạo đức là những công cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối
với các quan hệ xã hội. Vai trò của pháp luật thể hiện hết sức rõ nét trong việc củng
cố và tăng cường quyền lực nhà nước; tổ chức và quản lý mọi mặt của đời sống xã
hội. Trong khi đó, vai trò lớn nhất của đạo đức là giáo dục nhân cách, định hướng
hành vi con người.
Giữa pháp luật và đạo đức vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Cả
pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của đời sống, phản ánh đời sống, chịu sự quy
định của đời sống và có tác động mạnh mẽ đến đời sống. Trong xã hội có giai cấp,
pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Cả pháp luật và
đạo đức đều được xác định là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị, công cụ hướng
hành vi của con người vào những khuôn khổ có lợi cho giai cấp thống trị. Mặt khác,
pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của đời sống xã hội, phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội, nên chúng đều được xác định là những
công cụ quan trọng bậc nhất để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi con người. Pháp
luật và đạo đức đều mang tính quy phạm phổ biến, đều là những khuôn mẫu, mực
thước, mô hình, chuẩn mực cho hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức chính
thống trong xã hội luôn có sự thống nhất một cách cơ bản. Cả hai nhân tố này đều
chịu sự tác động mang tính quyết định bởi điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.
Khi điều kiện đó thay đổi, cả pháp luật và đạo đức thay đổi theo, tuy nhiên, pháp
luật thường thay đổi nhanh hơn, bắt kịp sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Ngược lại, đạo đức thường có tính chất bảo thủ, chậm biến đổi, vì vậy, trong một
nền đạo đức xã hội, luôn tồn tại những quan niệm đạo đức là tàn dư của xã hội cũ.
Đạo đức và pháp luật đều mang trong mình các đặc điểm của điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội… của một dân tộc, chúng đều được hình thành từ trong
đời sống và quay trở lại điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người trong đời
sống, được sử dụng là phương tiện liên kết chặt chẽ toàn thể cộng đồng để giải
quyết những vấn đề chung, thiết yếu của đời sống xã hội.
Bên cạnh những điểm giống nhau, giữa pháp luật và đạo đức còn có những
điểm khác biệt nhau cơ bản. Cùng được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là
kết quả tất yếu của cuộc sống con người, tuy nhiên, nếu bằng con đường nhà nước,
pháp luật từng bước được hình thành, thì đạo đức lại chủ yếu hình thành bằng con
đường tự phát. Do đó, đạo đức thường chủ yếu tồn tại ở dạng không thành văn, với
hình thức thể hiện khá phức tạp; còn pháp luật dù được thể hiện thành văn hay
không thành văn cũng luôn là những hình thức rất xác định. Việc thực hiện các quy
61
định của pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bởi vì pháp luật luôn
mang tính bắt buộc đối với mọi người. Trong khi đó, đối với các chuẩn mực đạo
đức, không có một thiết chế xã hội nào được tổ chức ra để bắt buộc các chủ thể
trong xã hội thực hiện, mà những lời khuyên, điều răn của đạo đức được thực hiện
xuất phát từ ý thức của cá nhân cũng như sự tác động của dư luận xã hội. Từ sự
khác nhau về biện pháp tác động, dẫn đến hệ quả pháp luật chỉ điều chỉnh những
quan hệ xã hội cơ bản có tầm quan trọng nhất định của đời sống, trong khi đạo đức
điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã hội, đặc biệt là những quan hệ xã hội mà
trong đó hành vi của các chủ thể chỉ bị chi phối bởi tình cảm - phạm vi mà pháp luật
không thể can thiệp được. Ngoài ra, còn có thể kể đến những điểm khác nhau giữa
đạo đức và pháp luật về biện pháp bảo đảm thực hiện, cơ chế điều chỉnh, yếu tố tâm
lý của hành vi…
Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật với đạo đức là cơ sở cho sự hỗ trợ,
bổ sung cho nhau giữa chúng, tạo nên sự điều chỉnh mạnh mẽ đối với các quan hệ
xã hội, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn ổn định trật tự xã hội, nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước trong đời sống xã hội.
62
Chƣơng 3: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
3.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
3.1.1. Khái niệm quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
“Quan hệ” là một thuật ngữ Hán - Việt, trong đó “Quan” nghĩa gốc là cái
then để nối liền hai cánh cửa, từ đó “quan” có nghĩa là nối liền; “hệ” là buộc lại,
ràng buộc cùng nhau, quan hệ gồm cái then nối liền (quan) và việc buộc lại (hệ)
[76, tr.262; 1, tr.355-thượng]. Quan hệ chỉ sự gắn bó qua lại giữa hai đối tượng,
“quan hệ” là khái niệm dùng để chỉ “sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay nhiều
sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến sự
vật kia” [78, tr.771]. Cùng nghĩa với “quan hệ” là “liên hệ”, trong đó “liên” là nối
liền nhau, “liên hệ” là nối liền ràng buộc nhau [76, tr.215; 1, tr.504-thượng]. Từ
điển tiếng Việt giải thích: “Liên hệ” là sự vật, sự việc có quan hệ làm cho ít nhiều
tác động đến nhau [78, tr.547]1.
Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng, trong thế giới vật chất, các sự vật
hiện tượng không tồn tại biệt lập mà luôn có những mối quan hệ, liên hệ chằng chịt
với nhau. Khái niệm quan hệ (liên hệ) phản ánh sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau,
làm điều kiện, tiền đề cho nhau và qui định lẫn nhau, tác động qua lại, chuyển hóa
lẫn nhau [36, tr.55]. Không chỉ trong thế giới tự nhiên, mà trong đời sống xã hội,
các sự vật, hiện tượng cũng đều luôn có mối quan hệ với nhau.
Pháp luật và đạo đức không tồn tại biệt lập, tách rời mà giữa chúng luôn có
mối quan hệ (liên hệ) chặt chẽ với nhau. Mặc dù đều là sản phẩm của tư duy con
người, do con người sáng tạo ra, được sử dụng làm công cụ điều chỉnh hành vi con
người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quản lý xã hội, tuy nhiên, sự ra đời tồn tại
và phát triển của pháp luật cũng như đạo đức là hoàn toàn khách quan. Thông qua
sự tác động của nhà nước và xã hội, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức được
thể hiện. Sự tác động của nhà nước và xã hội đối với pháp luật và đạo đức xuất phát
từ yêu cầu, đỏi hỏi khách quan của cuộc sống. Nói cách khác, chính đời sống xã hội
làm cho pháp luật và đạo đức có mối quan hệ (liên hệ) với nhau, chính đời sống xã
hội qui định mối quan hệ giữa chúng. Tất nhiên, quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
còn bị chi phối bởi mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, quan hệ giữa hoạt động
1Trong ngôn ngữ hàng ngày, nhiều khi còn dùng thuật ngữ “mối quan hệ”, “mối liên hệ”, trong đó “mối” là
“từ chỉ từng hiện tượng, trạng thái riêng lẻ thuộc phạm vi tình cảm, quan hệ xã hội của con người, ví dụ mối
sầu, mối lo âu, mối quan hệ...” (Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997, tr. 619).
63
quản lý nhà nước và hoạt động quản lý xã hội cũng như nhiều yếu tố khác của đời
sống kinh tế - xã hội.
Với tính cách là những công cụ điều chỉnh hành vi con người, cả pháp luật
và đạo đức đều vừa có những ưu điểm, vừa có những hạn chế nhất định, giữa chúng
vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Sự thống nhất và khác biệt giữa pháp luật
và đạo đức được giải thích bởi chúng ra đời, tồn tại gắn bó chặt chẽ với xã hội con
người, vì xã hội con người, trong đó, xã hội con người vừa là một thể thống nhất,
vừa luôn bao hàm sự khác biệt về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, vùng miền, ngành, giới... Đây chính là những nhân tố khách quan làm cho
pháp luật và đạo đức có mối quan hệ với nhau.
Như đã đề cập, pháp luật và đạo đức ra đời để điều chỉnh hành vi con người,
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội bằng pháp luật hay đạo đức có thể thống nhất, thuận chiều, cũng
có thể khác nhau về mục đích, định hướng... Nhưng cho dù như vậy, giữa pháp luật
và đạo đức vẫn luôn tồn tại mối quan hệ. Nếu sự điều chỉnh đó là thống nhất với
nhau chúng sẽ trở thành tiền đề của nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, cùng điều chỉnh
quan hệ xã hội một cách có hiệu quả nhất. Ngược lại nếu sự điều chỉnh đó là mâu
thuẫn nhau, chúng sẽ trở thành lực cản của nhau, loại trừ nhau. Như vậy, giữa pháp
luật và đạo đức luôn có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, sự tồn tại và phát triển
của pháp luật phụ thuộc khá lớn vào đạo đức và ngược lại. Kể cả trong trường hợp
quan hệ xã hội chỉ được một trong hai yếu tố điều chỉnh, giữa chúng vẫn luôn tồn
tại mối quan hệ, bởi vì, như Mác đã khẳng định, con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội, hành vi của con người là một thể thống nhất, hành vi này là tiền đề
của hành vi khác, chi phối hành vi khác.
Ở góc độ khác, như đã trình bày, đạo đức vừa là một bộ phận của các qui
phạm xã hội nhưng cũng được xem như là nền tảng tinh thần của xã hội, trên đó,
một hệ thống các qui phạm xã hội khác trong đó có pháp luật được xây dựng nên.
“Đạo đức là một hình thái giá trị cơ bản của ý thức xã hội có thể coi là xuất hiện
sớm nhất trong sự phát triển của lịch sử” [37, tr.183]. Con người ngay từ khi mới
thoát thai khỏi động vật đã biết đến những qui tắc đạo đức để điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội. Điều này thể hiện “phần người” trong con người, là sự khác biệt cơ
bản giữa con người với con vật. Chính trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, chuẩn
mực đạo đức đó mà con người xây dựng thành xã hội của mình. Cuộc sống xã hội
dần trở nên phức tạp hơn, các loại qui tắc xử sự khác mới từng bước hình thành. Lý
luận về nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ, trong điều kiện chế độ tư hữu được xác lập,
64
xã hội bị phân hóa thành các giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, các
qui phạm đạo đức không thể điều chỉnh được quan hệ giữa các giai cấp trong xã
hội, trong bối cảnh đó, pháp luật xuất hiện [113, tr.34,42]. Điều này cho phép khẳng
định rằng, nếu đạo đức còn phát huy được vai trò của nó thì xã hội “chưa cần đến”
sự xuất hiện của pháp luật, pháp luật ra đời như một sự “khắc phục” cho những hạn
chế của đạo đức. Chính điều này lại một lần nữa khẳng định mối quan hệ chặt chẽ
giữa pháp luật và đạo đức.
Cũng như các mối quan hệ khác, quan hệ giữa pháp luật và đạo đức luôn bao
hàm sự phụ thuộc lẫn nhau, qui định và ràng buộc nhau, làm điều kiện, tiền đề cho
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, sự thay đổi của pháp luật dẫn đến sự thay đổi của
đạo đức và ngược lại. Về mặt nguyên lý, mỗi hệ thống pháp luật bao giờ cũng được
xây dựng trên một nền tảng đạo đức tương ứng và phù hợp với nền đạo đức đó,
không có pháp luật nào tồn tại ngoài mối quan hệ với đạo đức, bởi vì “đạo đức là
gốc của pháp lý” [44, tr.25]. Trên cơ sở một nền đạo đức nhất định, một hệ thống
pháp luật được hình thành và phát triển, khi đạo đức xã hội có sự thay đổi sẽ kéo
theo sự thay đổi tương ứng của pháp luật. Tuy nhiên, đạo đức thường biến đổi một
cách chậm chạp vì sự cố kết của nó trong ý thức con người. Sau những biến đổi to
lớn, mạnh mẽ của điều kiện kinh tế - xã hội, nhiều quan niệm, quan điểm, chuẩn
mực đạo đức xã hội có sự biến đổi, một nền đạo đức mới được xác lập lại trở thành
nền tảng cho một hệ thống pháp luật mới. Ở khía cạnh khác, pháp luật có được thực
hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống hay không, tùy thuộc vào sự phù hợp giữa nó
với đạo đức. Một khi pháp luật không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức đang
thịnh hành trong xã hội, chúng sẽ khó có thể được thực hiện trong cuộc sống. Mặt
khác, việc thực hiện pháp luật của mỗi cá nhân phụ thuộc rất lớn vào ý thức, phẩm
chất đạo đức của họ. Có thể nói, ý thức đạo đức cá nhân vừa là cơ sở, vừa là động
lực thúc đẩy việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Chính vì vậy, để quản lý xã
hội bằng pháp luật một cách có hiểu quả, cần hết sức chú trọng kết hợp công tác
giáo dục ý thức đạo đức.
Trong xã hội có nhà nước, đạo đức và các thể chế phi quan phương khác đều
phải lấy pháp luật làm chuẩn mực, “pháp lý là chuẩn của đạo đức” [44, tr.25]. Dựa
trên hệ chuẩn mực pháp luật, nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức được hình
thành.... Những quan niệm đạo đức manh nha của một bộ phận dân cư nếu không
phù hợp với số đông sẽ nhanh chóng bị pháp luật loại trừ, vì vậy khó có thể có chỗ
đứng trong cuộc sống. Đặc biệt, các chuẩn mực đạo đức do các cá nhân tiêu biểu,
các tổ chức xã hội đặt ra đều phải dựa trên hệ chuẩn đúng sai của pháp luật hiện
65
hành. Sự thay đổi của pháp luật sẽ kéo theo sự thay đổi tương ứng của đạo đức. Có
thể nói, sự thay đổi của pháp luật luôn bám sát sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã
hội, đặc biệt, sau cách mạng xã hội, hệ thống pháp luật thường có sự thay đổi một
cách nhanh chóng và rộng khắp. Khi đó, một hệ thống pháp luật mới được xây
dựng trên nền tảng kinh tế - xã hội mới ra đời thay thế hệ thống pháp luật cũ. Tuy
nhiên, sự biến đổi tự thân của đạo đức thường không theo kịp sự thay đổi của luật
pháp, vì thế giữa pháp luật và đạo đức xã hội nảy sinh sự khác biệt, thậm chí trở nên
mâu thuẫn với nhau. Khi đó, bằng pháp luật, những quan niệm, quan điểm, chuẩn
mực đạo đức trái thuần phong mỹ tục, lỗi thời, lạc hậu... sẽ từng bước được loại trừ
khỏi đời sống. Tất nhiên, một điều cần phải được lưu ý là khi pháp luật hay đạo đức
thay đổi, nó còn kéo theo sự thay đổi trong mối quan hệ giữa chúng với các hiện
tượng khác của đời sống xã hội.
Nhờ được bảo đảm bởi sức mạnh của nhà nước nhất là các biện pháp cưỡng
chế nhà nước mà những quan niệm, chuẩn mực đạo đức đã được luật hóa được thực
hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để trong cuộc sống. Trên bình diện khác, những
quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức khi đã được luật hóa, chúng trở nên có
hình thức thể hiện xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, đặc biệt là văn bản qui
phạm pháp luật. Một khi đã được thể hiện dưới những hình thức xác định, chắc
chắn nó sẽ được thực hiện một cách chính xác, đầy đủ hơn. Nhờ có pháp luật, đạo
đức có thêm sức mạnh để được củng cố, được khẳng định vị trí, vai trò trong đời
sống xã hội. Có thể nói, pháp luật là một phương tiện quan trọng làm cho những
quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức của lực lượng cầm quyền được truyền
bá một cách phổ biến, được thâm nhập một cách dễ dàng và có chỗ đứng trong đời
sống xã hội. Cũng nhờ có pháp luật, các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức
truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục của dân tộc được giữ gìn, được kế
thừa và phát huy trong đời sống.
Pháp luật và đạo đức có sự chuyển hóa lẫn nhau, nhiều quan niệm, quan
điểm, qui tắc đạo đức là nguồn để nhà nước tiến hành luật hóa, trở thành các qui
định của pháp luật, trở thành qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, phổ biến
trong đời sống xã hội. Bởi vậy, một qui tắc xử sự cụ thể có thể tồn tại với nhiều tư
cách, nó có thể vừa là đạo đức, vừa là pháp luật... Nhiều qui định của pháp luật phù
hợp với ý chí chung của cộng đồng, được toàn thể cộng đồng thừa nhận, tôn trọng
và thực hiện nghiêm chỉnh, nó dần trở thành thói quen, thành phong tục, tập quán,
thành những chuẩn mực đạo đức chung của cộng đồng. Trong thế giới văn minh,
các chuẩn mực đạo đức đã được hóa thân vào các qui định trong pháp luật, ngược
66
lại, các qui định pháp luật thẩm thấu sâu sắc các quan điểm đạo đức. Dưới xã hội
này, sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh đang dần trở thành một chuẩn mực đạo
đức. Không thể được coi là người có phẩm chất đạo đức tốt khi họ không tuân thủ
các qui tắc sinh hoạt cộng cộng, không tôn trọng pháp luật.
Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức được thể hiện một cách đầy đủ, tập trung
thông qua sự tác động qua lại giữa chúng đối với nhau. Sự tác động qua lại giữa
pháp luật và đạo đức là khác nhau trong những không gian, thời gian khác nhau.
Chúng có thể thống nhất với nhau, hỗ trợ nhau, nhưng cũng có thể mâu thuẫn, xung
đột, cản trở nhau. Đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các qui định
cụ thể trong hệ thống pháp luật cũng như quá trình thực hiện pháp luật. Ngược lại,
pháp luật có thể ghi nhận, khẳng định, luật hóa những quan điểm, quan niệm, qui
tắc đạo đức hay phủ định, loại trừ nó, ngăn chặn sự hình thành và loại bỏ nó khỏi
đời sống xã hội, ngặn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Luận án sẽ tiếp tục
phân tích một cách sâu sắc sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức trong phần
nội dung quan hệ giữa chúng ở mục sau của chương này.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là
sự gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc giữa chúng đối với
nhau, là sự qui định,chuyển hóa lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, khi một
yếu tố thay đổi thì có thể tác động làm yếu tố kia cũng thay đổi theo.
3.1.2. Bản chất của quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Bản chất của một sự vật, hiện tượng đó là những thuộc tính cơ bản, sâu lắng
nhất, ổn định nhất của chúng, “nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện
tượng”, “là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan” [36,
tr.112,118]. Bản chất phản ánh cái sâu xa, cái bên trong, cái quyết định sự vận
động, phát triển của sự vật. Một sự vật, hiện tượng cụ thể, có thể có những mặt,
những thuộc tính dễ bị thay đổi theo thời gian, không gian, điều kiện hoàn cảnh,
nhưng cũng có những mặt, những thuộc tính mang tính bền vững, ổn định, khó thay
đổi. Tổng hợp tất cả những mặt, những thuộc tính bên trong, có tính chất bền vững,
ổn định, khó thay đổi làm thành bản chất của sự vật, hiện tượng. Cần lưu ý là “cái
tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các
sự vật đó” [36, tr.112]. Nói cách khác, “cái bản chất” cũng chính là “cái chung”, cái
luôn có mặt, luôn tồn tại trong mọi cái riêng, cái “có ý nghĩa đúng đắn” với tất cả
mọi cái riêng. Tất nhiên, không phải mọi “cái chung” đều là “cái bản chất”, vì bản
chất chỉ là những cái chung bên trong, sâu lắng nhất, cái qui định sự vận động, phát
triển của sự vật. Ở khía cạnh khác, nói đến bản chất của sự vật, hiện tượng là nói
67
đến qui luật vận động, phát triển của nó, cái gì trở thành qui luật vận động, phát
triển của sự vật cũng đồng thời là bản chất của sự vật, hiện tượng đó.
Cũng như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
cũng cần phải được đánh giá, xem xét về bản chất của nó. Như trên đã đề cập, thực
chất của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức là sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn
nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, qui định và chuyển hóa lẫn nhau. Nói cách
khác, thực chất của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức chính là sự tác động
qua lại giữa chúng đối với nhau.
Đời sống xã hội muốn có ổn định, trật tự đòi hỏi mọi quan hệ xã hội đều cần
phải được điều chỉnh. Để làm được điều đó, xã hội cần có nhiều công cụ, phương
tiện khác nhau, trong đó có pháp luật và đạo đức. Tuy nhiên, các công cụ, phương
tiện nêu trên vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, vừa có mặt mạnh, vừa có
mặt yếu. Sự phân tích ở các chương trên đã cho thấy rõ, cả đạo đức và pháp luật đều
vừa có ưu điểm, vừa có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy cần có một sự kết
hợp chặt chẽ, hài hòa đạo đức, pháp luật nói riêng, tất cả các công cụ khác nói
chung nhằm tạo ra một sự “đồng thanh, cộng hưởng” giữa chúng trong việc điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội. Pháp luật cần đạo đức để hỗ trợ, bổ sung cho nó
trong trường hợp pháp luật còn hạn chế, khiếm khuyết, nó cũng cần đạo đức để tạo
ra động lực thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống. Ngược lại, đạo đức
cần pháp luật để được truyền bá một cách rộng rãi, phổ biến trên toàn xã hội, đạo
đức cần pháp luật như là một biện pháp bảo đảm, bảo vệ cho nó được thực hiện
nghiêm chỉnh, đầy đủ trong cuộc sống. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu của đời sống,
xuất phát từ ưu điểm, hạn chế của mỗi yếu tố đã quyết định mối quan hệ tất yếu
giữa pháp luật và đạo đức. Nói cách khác, nhu cầu của đời sống, sự hỗ trợ, bổ sung
cho nhau giữa pháp luật và đạo đức là những yếu tố quyết định sự vận động, phát
triển của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức.
Pháp luật với những ưu thế vượt trội như tính bắt buộc chung, tính cưỡng
chế, tính xác định về hình thức... nên có thể nói, nó được xác định là công cụ quan
trọng nhất để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng không
phải là công cụ vạn năng, bên cạnh những ưu điểm vượt trội đó, pháp luật cũng có
những hạn chế nhất định. Pháp luật không thể điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã
hội, những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở tình cảm của con người pháp
luật không thể điều chỉnh được. Mặt khác, biện pháp cưỡng chế nhà nước không
phải khi nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Đối với những chủ thể trong
những điều kiện “không còn gì để mất” thì cưỡng chế chưa hẳn đã có ý nghĩa đối
68
với họ, kể cả biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Trong khi đó, đạo đức lại
hoàn toàn có thể khắc phục được những hạn chế này của pháp luật. Chính những
quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở tình cảm mà pháp luật không điều chỉnh
được thì đó lại chính là địa hạt của đạo đức. Mặt khác, ý thức đạo đức cá nhân cũng
như sự tác động của dư luận xã hội có vai trò to lớn thúc đẩy mỗi cá nhân thực hiện
nghiêm chỉnh những qui định của pháp luật. Ngược lại, đạo đức cần có pháp luật để
hỗ trợ cho mình trong trường hợp dư luận xã hội bất lực trước những người không
biết xấu hổ, không có lòng tự trọng. Như vậy, để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
thiết lập và bảo vệ trật tự xã hội thì đạo đức có vai trò hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật,
ngược lại, pháp luật cũng đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức. Sự phân tích
này cho thấy, bản chất của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức chính là sự hỗ
trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng nhằm thiết lập, duy trì, củng cố, bảo vệ trật tự xã
hội. Chính sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa pháp luật với đạo đức qui định sự vận
động, phát triển của mối quan hệ giữa chúng.
Trong khi xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật thì lại có nhiều hệ thống đạo
đức: đạo đức chung toàn xã hội, đạo đức các giai cấp, các nhóm xã hội, các tôn
giáo, các nghề nghiệp... Trong khi pháp luật thường là dễ thay đổi vì nó phản ánh
một cách trực tiếp mọi diễn biến của đời sống xã hội thì đạo đức lại chậm biến đổi,
khó thay đổi vì nó đã thâm nhập một cách sâu sắc, bám rễ một cách bền vững trong
ý thức xã hội, thậm chí nó đã thành thói quen, truyền thống của một cộng đồng. Vì
vậy, giữa pháp luật và đạo đức xã hội có thể có sự thống nhất hoặc khác biệt, mâu
thuẫn với nhau, tùy thuộc vào những không gian, thời gian, điều kiện hoàn cảnh cụ
thể. Trong điều kiện có sự phức tạp, đa dạng của của các loại lợi ích cần bảo vệ: lợi
ích quốc gia, lợi ích nhà nước, lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, lợi ích địa phương,
lợi ích nhóm, lợi ích gia đình..., với yếu tố kinh tế, xã hội, tín ngưỡng tôn giáo...
khác nhau chi phối, nên mỗi cộng đồng có thể có những qui tắc xử sự riêng nhằm
bảo vệ lợi ích của mình. Trong trường hợp các loại lợi ích này không xung đột với
nhau thì giữa các loại qui tắc sẽ không mâu thuẫn nhau. Ngược lại, nếu các lợi ích
này mâu thuẫn nhau, điều đó tất yếu dẫn đến sự khác biệt, mâu thuẫn giữa các qui
phạm bảo vệ chúng. Tuy nhiên, sử dụng pháp luật và đạo đức làm công cụ điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, bao giờ nhà nước và xã hội cũng luôn mong muốn
hiệu quả điều chỉnh đạt được lớn nhất. Nói cách khác, sự điều chỉnh đối với các
quan hệ xã hội bằng pháp luật hay đạo đức đều gặp nhau ở một tiêu điểm đó là trật
tự xã hội. Bởi vậy, có thể nói, sự khác biệt, sự mâu thuẫn giữa pháp luật và đạo đức
chỉ có tính chất nhất thời, về cơ bản giữa chúng phải có sự thống nhất, đồng bộ với
69
nhau để cùng điều chỉnh sao cho có hiệu quả nhất đối với hành vi con người. Nói
cách khác, bản chất của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức là sự thống nhất,
đồng bộ giữa chúng. Hơn thế nữa, đạo đức còn là cơ sở của pháp luật, là gốc của
pháp luật. Bởi vậy, “không phải pháp luật phán xét đạo đức mà ngược lại, đạo đức
mới có quyền phán xét pháp luật” [96, tr.3]. Xét về cội nguồn lịch sử, đạo đức ra
đời sớm nhất và là cơ sở của các qui tắc ứng xử khác. Đạo đức là lẽ phải ở đời, là
nguyên lý tự nhiên, là qui luật vốn có của cuộc sống. Chính vì vậy, mọi quan hệ xã
hội chỉ được khuyến khích, củng cố khi phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã
hội, trái lại nó sẽ nhận được sự phản đối, sự tẩy chay của dư luận xã hội. Nói cách
khác, điều chỉnh quan hệ xã hội bằng pháp luật phải thuận chiều với sự điều chỉnh
bằng đạo đức, điều này hàm ý rằng pháp luật phải phù hợp với đạo đức xã hội. Trái
đạo đức tức là trái lẽ phải ở đời, trái nguyên lý tự nhiên, trái qui luật của cuộc sống,
do vậy, chúng khó có thể tồn tại được. Một qui định pháp luật nào đó không phù
hợp với đạo đức xã hội sẽ rất khó đi vào đời sống, nó sớm muộn sẽ bị loại bỏ. Đạo
đức cùng với văn hóa, truyền thống, thuần phong, mỹ tục... làm thành cơ sở xã hội -
điều kiện, môi trường cho sự tồn tại và phát triển của pháp luật.
Pháp luật và đạo đức của giai cấp cầm quyền thống nhất với nhau một cách
cơ bản, sự thống nhất đó gặp nhau ở quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp ấy,
bởi cả pháp luật và đạo đức đều được sử dụng như là những công cụ để phục vụ lợi
ích của chúng. Sự khác biệt, mâu thuẫn giữa pháp luật với đạo đức thường chỉ xảy
ra sau cách mạng xã hội. Trong điều kiện đó, một hệ thống pháp luật mới cũng như
một hệ thống chuẩn mực đạo đức mới từng bước được xác lập, trong khi những
chuẩn mực đạo đức cũ có thể có nhiều nội dung trái với pháp luật và đạo đức mới
nhưng vẫn còn tồn tại vì sự cố kết của nó trong tâm lý xã hội, vì vậy mà nảy sinh
mâu thuẫn. Tuy nhiên, mâu thuẫn này chỉ chỉ là nhất thời, sớm muộn, giai cấp cầm
quyền phải tìm cách loại bỏ nó hoặc cải tạo nó cho phù hợp với điều kiện mới.
Sự khác biệt, mâu thuẫn giữa pháp luật với đạo đức cũng xảy ra khi pháp
luật chỉ ghi nhận và bảo vệ cho lợi ích nhóm, trái với lợi ích của đông đảo các tầng
lớp nhân dân. Điều này là khó tránh khỏi, bởi trong điều kiện xã hội tồn tại chế độ
tư hữu thì quan hệ lợi ích nhóm vẫn “chế ngự” trong pháp luật, bởi vậy trong pháp
luật vẫn còn tình trạng bất bình đẳng. Tuy nhiên, theo qui luật của cuộc sống, con
người luôn vươn tới tự do, công bằng, bình đẳng. Chính vì vậy, xã hội càng phát
triển, đạo đức và pháp luật ngày càng trở nên thống nhất với nhau. Thậm chí, theo
lý thuyết Mác - Lênin, trong xã hội cộng sản tương lai, pháp luật trở thành đạo đức
xã hội, nó được mọi người tự giác thực hiện mà không cần có bộ máy cưỡng chế
70
chuyên nghiệp nào. Như vậy, có thể khẳng định rằng, qui luật vận động và phát
triển của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức đó là: pháp luật càng ngày càng
gần hơn với đạo đức, thống nhất với đạo đức.
Tóm lại, bản chất của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là sự thống
nhất, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng. “Bản chất đích thực của mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức suy cho cùng đó chính là vấn đề mang tính nguyên tắc:
đạo đức là cơ sở của pháp luật” [96, tr.3]. Trên nguyên lý đó, các mối quan hệ xã
hội được điều chỉnh một cách mạnh mẽ, toàn diện nhất nhằm thiết lập trật tự xã hội
một cách đầy đủ nhất, triệt để nhất.
3.1.3. Nội dung của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Nội dung của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là toàn bộ sự tác động
qua lại giữa chúng đối với nhau. Như đã đề cập ở chương hai, cả pháp luật và đạo
đức đều được hiểu theo nghĩa rộng, chính vì vậy sự tác động giữa chúng cũng diễn
ra cả trên bình diện ý thức (ý thức pháp luật, ý thức đạo đức), cả trên bình diện thể
chế (hệ thống pháp luật thực định; các nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực đạo đức), cả
trên bình diện thực tiễn (hành vi pháp luật, hành vi đạo đức).
3.1.3.1. Tác động của đạo đức đến pháp luật
Một là, đạo đức tác động đến việc hình thành các qui định cụ thể trong hệ
thống pháp luật
Phải khẳng định rằng, đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các
qui định trong pháp luật. Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, vì vậy nó được
xem như là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là chất
liệu làm nên các qui định của pháp luật. Có thể nói, bất kì một hệ thống pháp luật
nào bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất định.
Những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề
tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng nên các qui định cụ thể của pháp luật. Với câu hỏi:
“Pháp luật có cần được xây dựng trên các chuẩn mực đạo đức không”? “vì sao”?
Qua khảo sát ở ba đối tượng là người dân, cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan áp
dụng pháp luật, đa số người được hỏi cho rằng pháp luật cần phải được xây dựng
trên nền tảng đạo đức mới phù hợp, cụ thể như sau:
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 76 74.5 74.5 74.5
Không 26 25.5 25.5 100.0
Tổng 102 100.0 100.0
71
Bảng 3.1. Ý kiến của cơ quan xây dựng pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 211 77.0 77.0 77.0
Không 63 23.0 23.0 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 3.2. Ý kiến của cơ quan áp dụng pháp luật
Phương án trả
lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 223 70.8 70.8 70.8
Không 92 29.2 29.2 100.0
Tổng 315 100.0 100.0
Bảng 3.3. Ý kiến người dân
Các số liệu trên cho thấy, không chỉ các chuyên gia trong các cơ quan xây
dựng và bảo vệ pháp luật, mà kể cả người dân, những người trực tiếp thực hiện
pháp luật đều cho rằng pháp luật cần phải được xây dựng trên cơ sở của đạo đức.
Các con số trên cũng cho thấy sự quan niệm khá giống nhau của xã hội về vấn đề
này (74,5%; 77%; 70,8%).
Chính vì vậy, có thể nói, mỗi một nền đạo đức có một hệ thống pháp luật
tương ứng ghi nhận, phản ánh các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức của
xã hội đó. Nói cách khác, nội dung các qui phạm pháp luật chịu sự ảnh hưởng của
các quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội. Tất nhiên, không phải mọi qui định trong
hệ thống pháp luật đều chịu sự ảnh hưởng của đạo đức. Trong một hệ thống pháp
luật, các lĩnh vực pháp luật như hôn nhân gia đình, dân sự, thương mại, hình sự,
trách nhiệm của công chức, viên chức nhà nước, văn hóa, y tế, xã hội (người già, trẻ
em, người khuyết tật, vấn đề đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, nhân đạo)... chịu ảnh
hưởng của đạo đức xã hội một cách trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Khi đạo đức xã hội
thay đổi, các qui định của pháp luật thay đổi theo, tuy nhiên, đạo đức xã hội thường
là khá ổn định, ít biến đổi, bởi vậy những qui phạm pháp luật ghi nhận, phản ánh
đạo đức xã hội vì thế cũng thường ổn định tương đối.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng luôn tồn tại những quan niệm, quan điểm đạo
đức nhất định, chúng hình thành từ trong cuộc sống hàng ngày trên cơ sở sự thừa
nhận của cộng đồng, gắn bó một cách chặt chẽ đối đời sống cộng đồng. Về nội
72
dung, theo ý nghĩa nguyên thuỷ của nó, đạo đức là lẽ phải ở đời, là nguyên lý tự
nhiên của cuộc sống. Khi cộng đồng thừa nhận một quan niệm, quan điểm đạo đức
nào đó, nó trở thành giá trị tinh thần, trở thành chuẩn mực hành vi của mọi người
trong cộng đồng. Những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đó dần trở
thành phong tục, tập quán, thói quen trong xử sự hàng ngày của họ. Nhiều quan
niệm đạo đức đã trở thành lý tưởng, lẽ sống của con người. Chính vì vậy, pháp luật
do nhà nước ban hành phải phù hợp với đạo đức xã hội. Khi đó, pháp luật không chỉ
được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước mà nó còn được đảm bảo bằng dư luận
xã hội và quan trọng hơn, nó còn được đảm bảo bằng chính lương tâm, tình cảm của
chủ thể, vì vậy mà chúng được thực hiện một cách khá nghiêm chỉnh, triệt để.
Ngược lại, pháp luật không phù hợp với đạo đức xã hội tức là pháp luật trái với lẽ
phải ở đời, trái nguyên lý tự nhiên, trái yêu cầu của cuộc sống, trái ý chí chung của
cộng đồng. Trong trường hợp đó, chẳng những sự tự nguyện, tự giác thực hiện
chúng sẽ mất đi, mà thay vào đó, ó thể người ta còn tìm cách chống đối, vi phạm
chúng. Nếu điều này xảy ra, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp, bằng sức
mạnh của mình, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế, việc thực hiện
pháp luật vì thế cũng có thể đạt được, tuy nhiên đó chỉ là nhất thời và trước mắt. Về
mặt nguyên lý, sức mạnh bạo lực của nhà nước không thể thắng thế ý chí chung của
nhân dân. Một khi ý chí chung của nhân dân đã được thể hiện thành những quan
điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội thì không một sức mạnh cường quyền nào có thể
thắng thế được. Cưỡng chế nhà nước trong những trường hợp này có khi còn trở
thành phản tác dụng, sự sụp đổ của nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc là một minh
chứng rõ nét. Chính vì vậy, những qui phạm pháp luật trái đạo đức xã hội sớm
muộn sẽ bị loại bỏ.
Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội, đạo đức luôn có tính lịch sử, tuy
nhiên, trong một nền đạo đức xã hội, dễ dàng nhận thấy những giá trị đạo đức
truyền thống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây là bản sắc văn
hoá của mỗi dân tộc. Truyền thống trong đó có các truyền thống đạo đức chính là
cơ sở, động lực để phát triển. Ở khía cạnh khác, truyền thống nói chung, truyền
thống đạo đức nói riêng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người, đã trở thành
thói quen trong ứng xử của một cộng đồng người, không dễ gì có thể thay đổi được.
Điều chỉnh hành vi con người bằng pháp luật, nhà nước không mong muốn gì hơn
khi hành vi ấy trở thành thói quen trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày của họ. Chính
vì thế, pháp luật, công cụ để tổ chức và quản lý xã hội phải được xây dựng trên cơ
sở phù hợp với những giá trị truyền thống, trong đó có truyền thống đạo đức. Các
73
quan niệm, quan điểm, chuẩn mực, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc chỉ đạo
việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Khi pháp luật phù hợp với đạo lý, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chẳng những nó được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc
sống mà nó còn góp phần to lớn trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống đạo lý
tốt đẹp của dân tộc.
Đạo đức của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo... cũng có tác động đến việc hình
thành các qui định cụ thể của hệ thống pháp luật, trong đó, trước tiên phải kể đến
đạo đức của giai cấp thống trị. Bởi vì, nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xây dựng pháp luật nói riêng được hợp thành trước tiên và chủ yếu từ
các thành viên trong giai cấp thống trị. Khi xây dựng pháp luật, bao giờ họ cũng
chịu sự chi phối bởi những quan niệm, quan điểm đạo đức của giai cấp mà họ là
thành viên. Mặt khác, trên thực tế, đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng sâu
rộng trên phạm vi toàn xã hội do giai cấp này có đầy đủ điều kiện để truyền bá và
áp đặt những quan điểm, tư tưởng đạo đức của giai cấp mình đến toàn xã hội. Đạo
đức của các giai cấp tầng lớp khác cũng có ảnh hưởng đến việc hình thành các qui
định trong hệ thống pháp luật, bởi lẽ việc hình thành các quan niệm đạo đức của
giai cấp thống trị cũng như việc hình thành các quan niệm đạo đức chung của xã hội
có sự ảnh hưởng bởi các quan niệm đạo đức của giai cấp bị trị và các giai cấp, tầng
lớp khác trong xã hội. Khi ban hành pháp luật, nhà nước cũng phải tính đến lợi ích,
ý chí của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội, có như vậy, pháp luật mới
được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Một khi pháp luật phù hợp với đạo đức
của họ chắc chắn việc thực hiện sẽ càng nghiêm chỉnh hơn. Tuy nhiên cần thấy
rằng, sự ảnh hưởng của những quan niệm đạo đức của giai cấp bị trị là tương đối
hạn chế bởi lẽ nó luôn tồn tại như là những quan niệm đạo đức đối lập, không chính
thống trong đời sống xã hội.
Ý thức đạo đức cá nhân có ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành các qui
định trong pháp luật. Tri thức đạo đức, thái độ, tình cảm đạo đức của nhà làm luật
như một động lực thúc đẩy các chủ thể tiến hành hoạt động xây dựng pháp luật một
cách hào hứng, tận tâm, nhiệt tình, có hiệu quả.
Hai là, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể
trong đời sống
Cùng với việc ảnh hưởng đến sự hình thành ra các qui phạm pháp luật, đạo
đức còn ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện pháp luật của các chủ
thể. Sự tác động này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của pháp luật với đạo
đức xã hội và ý thức đạo đức của các chủ thể.
74
Trước hết, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức xã hội có tác động
khá mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Khi pháp luật được xây dựng phù hợp
với các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh, bởi lẽ hành vi thực hiện pháp luật hoàn toàn phù hợp với các
yêu cầu, đòi hỏi của đạo đức xã hội. Một khi pháp luật phù hợp với đạo đức xã hội
thì cho dù người dân không hiểu biết đầy đủ các qui định cụ thể của pháp luật,
người ta vẫn có thể thực hiện nó một cách khá nghiêm chỉnh, bởi trên thực tế người
ta đã quá quen thuộc với các chuẩn mực đạo đức xã hội và hàng ngày hàng giờ ứng
xử theo các chuẩn mực đó. Ngược lại, nếu pháp luật trái với đạo đức xã hội, nó sẽ bị
xã hội tẩy chay, vì thế rất khó có thể đi vào đời sống. Đạo đức xã hội được hình
thành trên sự thừa nhận chung của cộng đồng, vì vậy, một khi pháp luật trái với đạo
đức xã hội là trái với ý chí chung của cộng đồng, trái với mong muốn, yêu cầu, đòi
hỏi của chính mỗi thành viên trong cộng đồng. Do vậy, việc người dân không thực
hiện những qui định pháp luật đó là điều dễ hiểu. “Nếu pháp luật trái với lẽ tự
nhiên, trái với dân nguyện, thì có dùng hình phạt nặng nề mà răn đe và cưỡng bức,
thứ luật đó tất sẽ bị số đông dân chúng đào thải. Khi đó, cái gọi là hợp pháp thì trở
thành ngoại lệ, cái bất hợp pháp trở thành phổ biến” [77, tr.129]. Trong trường hợp
pháp luật trái với đạo đức xã hội, khi có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, nhà chức
trách cũng khó có thể “đạp lên dư luận” để thực thi công vụ, bởi vì, dù là cán bộ,
công chức nhà nước thì họ cũng là những con người, họ cũng chịu sự tác động, chi
phối của đạo đức, bản thân và gia đình họ cũng phải sống trong "vòng cương toả"
của dư luận xã hội. Không ít người cho rằng, với quyền lực của mình, nhà nước có
thể đặt ra các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc để bắt buộc người dân phải thực
hiện pháp luật theo phương châm “dĩ hình chỉ hình”, nghĩa là lấy hình phạt để loại
bỏ hình phạt, dùng hình phạt nặng để người dân sợ không dám vi phạm pháp luật,
khi đó sẽ không còn phải dùng hình phạt nữa. Quan điểm này mới nghe qua, có vẻ
có sức thuyết phục, bởi lẽ, là con người nhìn chung, ai cũng sợ bị cưỡng chế, đúng
như người Việt Nam thường nói “đau vọt, xót tiền”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, có
những yếu tố còn đáng sợ hơn cả các biện pháp cưỡng chế, dư luận xã hội chẳng
hạn, nó tác động đến con người hàng ngày, hàng giờ, mọi lúc, mọi nơi có thể. Đối
với người bị cưỡng chế, sự đau đớn về thể xác sẽ nhanh chóng qua đi, tiền bạc có
thể tái tạo được. Nhưng nếu bị lên án bởi dư luận xã hội thì đó là một sự bất lợi về
tinh thần khó có thể khắc phục được.
Thứ hai, ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện
pháp luật. Có thể nói, pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay không một phần
75
rất quan trọng là do ý thức đạo đức của các thành viên trong xã hội. Mặc dù dư luận
xã hội có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy các chủ thể thực hiện pháp luật, “song
giá trị đạo đức của một hành vi vẫn được quyết định bởi ý thức đạo đức của cá
nhân” [41, tr.225].
Con người ngay từ khi mới sinh ra đã được giáo hoá các quan điểm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức. Mỗi con người, trước khi đạt đến độ tuổi để có thể thực
hiện một cách đầy đủ các quyền, nghĩa vụ công dân theo qui định của pháp luật thì
họ đã là con, là em, là học trò... họ có nghĩa vụ, bổn phận tuân thủ các qui tắc,
chuẩn mực đạo đức như phải làm người tốt, sống trung thực, khiêm tốn, đúng mực,
lễ phép, ăn ngay, ở lành, làm điều thiện... Vì vậy, có thể khẳng định, đạo đức là cơ
sở, “là môi trường thuận lợi để tiếp thu, để cảm nhận và thực hiện pháp luật” [94.
tr.343]. Thông qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường, thông qua môi trường
sống, thông qua sự tự ý thức của chủ thể, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng,
chuẩn mực đạo đức trong xã hội trở thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, hình
thành cách đối nhân xử thế, thành nếp nghĩ, lối sống của họ trong đời sống xã hội.
Người có ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện
pháp luật. Ngay cả trường hợp pháp luật có những "khe hở" thì họ cũng không vì
thế mà có hành vi "lợi dụng", để làm điều bất chính. Đối với nhiều trường hợp "đã
trót" thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, ý thức đạo đức giúp chủ thể ăn năn hối
cải, sửa chữa lỗi lầm. Tình cảm đạo đức còn có thể khiến các chủ thể thực hiện hành
vi một cách hào hứng, nhiệt tình, tận tâm, triệt để. Trong trường hợp này, pháp luật
được thực hiện với thái độ tôn trọng và sự hưng phấn cao độ. Ngược lại, đối với
những người có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trường mà các chuẩn mực đạo
đức bị coi thường thì thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật cũng
không cao, họ dễ có các hành vi vi phạm pháp luật. Họ có thể thực hiện các hành vi
phạm pháp mà không hề thấy "bận tâm", không hề cảm thấy lương tâm bị day dứt,
vò xé. Thậm chí có kẻ còn tìm cách lợi dụng khe hở của pháp luật nhằm thỏa mãn
lợi ích riêng của mình.
Thứ ba, nếu đạo đức trong xã hội được coi trọng, các thành viên trong xã hội
đều coi trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức... thì việc thực hiện pháp luật sẽ
nghiêm chỉnh hơn. Ngược lại, nếu đạo đức xã hội bị xuống cấp, các giá trị đạo đức
xã hội bị xem nhẹ, việc giáo dục đạo đức bị lơi lỏng, coi thường, dẫn đến ý thức đạo
đức của các chủ thể không cao thì việc thực hiện pháp luật sẽ không nghiêm chỉnh,
vi phạm pháp luật sẽ gia tăng. Một khi cái thiện không được coi trọng, cái ác sẽ
càng có cơ hội để tồn tại. Vì vậy, có thể nói, đạo đức xã hội bị thoái hoá, xuống cấp
76
là một trong những nguyên nhân làm cho vi phạm pháp luật gia tăng, cả về số lượng
và tính chất nguy hiểm, trong đó không loại trừ những hành vi man rợ, "phi nhân
tính". Chính vì thế, cùng với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải tăng cường
giáo dục đạo đức.
Thứ tư, đạo đức xã hội một khi đã trở thành tập quán của cộng đồng sẽ có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Ở khía cạnh này, sự tác động của
đạo đức đến pháp luật có thể là tích cực, cũng có thể là tiêu cực. Nếu những tập
quán đạo đức phù hợp với pháp luật, nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện pháp
luật, ngược lại, nếu tập quán đạo đức đã trở thành lạc hậu, nó sẽ cản trở việc thực
hiện pháp luật. Như trên đã đề cập, đạo đức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại
xã hội, vì vậy, những quan niệm, quan điểm đạo đức tàn dư của xã hội cũ có thể còn
tồn tại “lâu dài, dai dẳng” trong điều kiện xã hội mới. Đây là một lực cản to lớn đối
với việc thực hiện pháp luật, bởi lẽ việc thay đổi một thói quen, từ bỏ một truyền
thống là điều không đơn giản. Trong trường hợp này, thời gian và sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội mới có thể là những nhân tố có ý nghĩa nhất trong việc làm
mất dần những thói quen, truyền thống lạc hậu, phản tiến bộ.
Đối với nhà chức trách trong bộ máy nhà nước, ý thức đạo đức cá nhân trước
hết ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật của họ, thông qua hoạt động áp
dụng pháp luật, nó còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Mặt khác, sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà
nước phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất đạo đức của các nhân viên nhà nước. Chính
vì vậy, nhìn chung trong các nhà nước, phẩm chất đạo đức luôn là tiêu chuẩn hàng
đầu trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Người
có phẩm chất đạo đức tốt là người tôn trọng kỷ cương, phép nước, chấp pháp
nghiêm chỉnh. “Nếu thiếu luật nhưng con người có đạo đức thì họ sẽ không vi phạm
hoặc biết kiềm chế tối đa sự vi phạm” [87, tr.67]. Trong quá trình thực thi công vụ,
khi đưa ra các quyết định pháp luật đều có sự tính toán, cân nhắc một cách thận
trọng giữa pháp luật và đạo đức xã hội, sao cho vừa có lý, vừa có tình, "đạt lý"
nhưng cũng "thấu tình". Các nhà chức trách khi ra một quyết định áp dụng pháp luật
"không thể có được một sự tính toán chính xác về lý trí cũng như về toán học";
"trong trường hợp này, sự công minh và tình người sẽ giúp cho thẩm phán hành
động đúng" [88, tr.31]. Ngược lại, người có ý thức đạo đức kém thường dễ bị sa ngã
trước cám dỗ của chức quyền, tiền bạc hay những lợi ích khác, dẫn đến lạm quyền,
tham nhũng, cố ý làm trái..., vi phạm pháp luật, xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. “Có pháp luật điều chỉnh
77
nhưng không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên tạc
luật, lợi dụng luật” [87, tr.67].
Vai trò của đạo đức sẽ trở nên đặc biệt quan trọng trong trường hợp phải áp
dụng tương tự pháp luật. Trong thực tế, hoạt động xây dựng pháp luật mặc dù được
tiến hành thường xuyên, liên tục, với sự nỗ lực cao độ cũng khó có thể bao quát
được hết mọi diễn biến của đời sống, khó có thể dự liệu được mọi tình huống sẽ xảy
ra trong tương lai để dự liệu sẵn những qui định pháp luật dành cho nó. Khi đó, nhà
chức trách không có các qui phạm pháp luật để làm căn cứ, họ phải dựa vào ý thức
pháp luật của chính mình, dựa vào các quan niệm, chuẩn mực đạo đức trong xã hội,
dựa vào những lẽ phải ở đời mà ai cũng công nhận. Trong trường hợp này, đạo đức
đã thay thế cho pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là sự hỗ trợ,
bổ sung to lớn của đạo đức đối với pháp luật.
3.1.3.2. Tác động của pháp luật đến đạo đức
Một là, pháp luật là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị
Trong xã hội có áp bức giai cấp, tư tưởng là một loại vũ khí sắc bén để duy
trì sự thống trị giai cấp. Đạo đức, tôn giáo, văn học nghệ thuật... là những công cụ
để thực hiện sự thống trị về mặt tư tưởng của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội.
Thông qua đạo đức, giai cấp thống trị truyền bá, áp đặt hệ tư tưởng của giai cấp
mình đến toàn xã hội, buộc xã hội phải phục tùng hệ tư tưởng của chúng, nghe theo,
làm theo, thậm chí nghĩ theo yêu cầu, đòi hỏi của chúng. Tuy nhiên, những quan
điểm, tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị, tự nó khó đi vào đời sống, vì vậy, giai
cấp thống trị thông qua nhà nước đã ghi nhận, thể chế hóa những quan điểm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức thành pháp luật. Thực tế lịch sử cho thấy, pháp luật
phong kiến Việt Nam, Trung Quốc và các nước Á Đông chính là sự thể chế hóa
quan điểm đạo đức Nho giáo; pháp luật phong kiến Tây Âu là sự thể chế hóa quan
điểm đạo đức Thiên chúa giáo; pháp luật của các nước theo đạo Hồi là sự thể chế
hóa tư tưởng đạo đức Hồi giáo... Nhờ có pháp luật, những tư tưởng, quan điểm đạo
đức của giai cấp thống trị được truyền bá một cách nhanh chóng và rộng khắp trên
toàn xã hội, trở thành những chuẩn mực mang tính bắt buộc chung đối với tất cả
mọi người. Chính vì vậy, những quan điểm, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống
trị đi vào đời sống một cách dễ dàng, đảm bảo sự thống trị về mặt tư tưởng của giai
cấp thống trị đối với toàn xã hội.
Nhờ có pháp luật, các quan điểm, tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị
được truyền bá rộng khắp trong đời sống, dần dần trở thành những quan điểm,
78
chuẩn mực đạo đức chung của toàn xã hội. Tất nhiên, cũng phải nói rằng, các quan
điểm đạo đức của giai cấp thống trị cũng phải phù hợp với suy nghĩ, lối sống, tâm
tư, tình cảm của quần chúng nhân dân thì nó mới dễ có thể được quần chúng nhân
dân chấp nhận. Một khi những quan điểm đạo đức nào đó quá khác xa so với điều
kiện hoàn cảnh, tập quán, truyền thống... của một cộng đồng thì việc được cộng
đồng chấp nhận là một điều hết sức khó khăn.
Hai là, pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc,
ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức
Là hệ thống qui tắc xử sự do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện
bởi bộ máy quyền lực chuyên nghiệp nên pháp luật có tác động mạnh mẽ tới đạo
đức. Nó không chỉ làm cho các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên
phổ biến trong toàn xã hội, mà quan trọng hơn, nó đảm bảo cho đạo đức được thực
hiện nghiêm chỉnh hơn, đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo
tồn và phát huy giá trị của chúng.
Như đã trình bày, đạo đức được hình thành dựa trên sự thừa nhận của cả
cộng đồng, vì vậy, thông thường nó sẽ được thực hiện một cách khá nghiêm chỉnh.
Mặt khác, đạo đức lại được đảm bảo thực hiện bằng dư luận xã hội, sự tác động có
khi còn có sức mạnh hơn cả biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, điều này chỉ
đúng với những người có đạo đức, dư luận sẽ trở nên vô tác dụng đối với những kẻ
thất đức, trong trường hợp này, nếu chỉ bằng sự tác động theo kiểu “nói suông” của
dư luận xã hội sẽ không thể có kết quả. Trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định,
do sự nhận thức hạn chế, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội...,
dẫn đến không nhận thức được một cách đầy đủ vai trò của đạo đức, làm cho đạo
đức xã hội bị xuống cấp... Trong những trường hợp đó, pháp luật được xem là một
trong những công cụ quan trọng để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống
cấp của đạo đức, bảo vệ, giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức của dân tộc.
Bằng việc ghi nhận thành pháp luật các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, nhà
nước bảo đảm cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Một khi được
thể chế hóa thành pháp luật, việc thực hiện những chuẩn mực đạo đức đó trở thành
nghĩa vụ của toàn thể xã hội, các cá nhân, tổ chức dù không muốn cũng phải thực
hiện theo. Các cơ quan nhà nước trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm
tổ chức thực hiện những qui định đó bằng nhiều biện pháp như tuyền truyền, giáo
dục, tổ chức, hành chính, kinh tế... Đặc biệt, bằng việc xử lý nghiêm những chủ thể
có hành vi đi ngược với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ
gìn các giá trị đạo đức của xã hội, ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức.
79
Sự vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội không chỉ bị lên án bởi dư luận xã hội
mà còn bị tác động bởi các biện pháp nhà nước. Có thể nói, khi được thể chế hóa
thành pháp luật, nhà nước bằng khả năng và trách nhiệm của mình, nó có thể làm tất
cả mọi việc để tác động đến xã hội, làm cho đạo đức được quan tâm đúng mức trên
toàn xã hội, làm “thức tỉnh” ý thức xã hội trong việc giữ gìn và phát huy giá trị của
đạo đức. Nhờ đó, những quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội đã được tôn trọng và
thực hiện một cách nghiêm chỉnh, qua đó, chúng được giữ gìn, bảo vệ và phát huy.
Tùy trường hợp mà pháp luật có qui định các thành viên trong xã hội được
làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào sao cho phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chẳng hạn, điều 7, Luật tổ chức Tòa án Việt Nam
năm 2002 qui định: “Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để bảo
vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc”. Trường hợp khác, pháp luật lại qui định:
"nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức xã hội". Tuy nhiên, như đã đề cập, đạo đức
xã hội thường không được ghi nhận một cách chính thức trong những văn bản
chuyên biệt, vì vậy, quan niệm về hành vi không trái đạo đức xã hội là vấn đề
không đơn giản. Điều này đòi hỏi nhà chức trách không những phải có ý thức giữ
gìn, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội mà còn cần phải có một tri thức đạo đức
phong phú.
Ba là, pháp luật loại trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức không
chính thống, lạc hậu
Bên cạnh việc truyền bá, giữ gìn, bảo vệ những quan điểm đạo đức chính
thống trong xã hội, pháp luật còn giữ vai trò quan trọng trong việc loại trừ những
quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức không chính thống ra khỏi đời sống xã
hội. Đạo đức không chính thống trước tiên là những quan niệm, quan điểm đạo đức
của các lực lượng đối lập, không cầm quyền, bên cạnh đó là những tàn dư đạo đức
của xã hội cũ, những quan niệm đạo đức đang manh nha hình thành nhưng trái tiến
bộ xã hội, vì thế không được cộng đồng công nhận...
Bằng pháp luật, trước tiên, nhà nước tìm cách loại bỏ những quan niệm quan
điểm đạo đức của giai cấp bị trị. Tiếp đó, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc
loại bỏ những quan niệm đạo đức là tàn dư của xã hội cũ. Như đã đề cập, đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ tương đối mạnh mẽ, nó ăn sâu bám rễ
một cách chắc chắn trong tâm lý mỗi người, nó trở thành thói quen ứng xử của mỗi
thành viên cũng như cả cộng đồng. Mặc dù điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi,
nhưng người ta không dễ thay đổi thói quen cũ. Trong những trường hợp này, pháp
luật là phương tiện hữu hiệu để loại bỏ chúng. Một mặt, pháp luật qui định các biện
80
pháp tuyên truyền, vận động các thành viên trong xã hội không thực hiện những
hành vi theo các quan niệm, quan điểm đạo đức cũ, lạc hậu. Mặt khác, pháp luật
nghiêm cấm những hành vi đó, qui định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với
các chủ thể thực hiện những hành vi đó. Đồng thời, pháp luật khuyến khích, bắt
buộc các thành viên trong xã hội thực hiện những hành vi phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức mới... Nhìn chung, khi giai cấp thống trị mới lên, cùng với việc xây
dựng một hệ thống pháp luật mới để thay thế hệ thống pháp luật cũ thì họ cũng xây
dựng các chuẩn mực đạo đức mới để thay thế cho những chuẩn mực đạo đức cũ
không còn phù hợp. Pháp luật mới phải phù hợp với đạo đức mới, vì thế về cơ bản
những quan điểm, quan niệm đạo đức trong xã hội cũ bị xoá bỏ. Tuy nhiên, cần lưu
ý quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Không nắm vững điều này sẽ dẫn
đến cực đoan, phủ định sạch trơn quá khứ.
Vai trò này của pháp luật đối với đạo đức phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là
mức độ thâm nhập của các quan niệm quan niệm đạo đức trong nhân dân; hai là sự
phù hợp của biện pháp chế tài, sức nặng của các biện pháp đó; ba là công tác tổ
chức thực hiện pháp luật của nhà nước...
Bốn là, pháp luật góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức
mới
Khi pháp luật phù hợp với đời sống hiện thực, phản ánh đúng ý chí và
nguyện vọng cộng đồng, nó sẽ được cộng đồng thừa nhận và thực hiện nghiêm
chỉnh, tự nguyện, tự giác. Trong trường hợp này, pháp luật đã mang tính đạo đức.
Các quan điểm, quan niệm về pháp luật vì thế cũng trở thành các quan niệm, tư
tưởng đạo đức, “các yêu cầu của pháp luật cũng được chuyển tải vào các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức, ý thức và hành vi đạo đức của con người” [91, tr.30].
Khi đó, sự đánh giá của cộng đồng đối với một thành viên nào đó không chỉ về mặt
đạo đức mà còn cả ý thức pháp luật của họ. Sẽ không thể được đánh giá là một con
người hoàn hảo từ góc nhìn của đạo đức nếu người đó có các hành vi phạm pháp.
“Một người có nhân cách cao đẹp trước hết phải là một người thực hiện pháp luật
một cách mẫu mực, làm gương sáng cho mọi người chung quanh” [33, tr.40]. Như
vậy rõ ràng pháp luật đã góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức mới.
Bằng việc nghiêm trị các hành vi theo đạo đức cũ, bắt buộc thực hiện những hành vi
theo đạo đức mới, pháp luật góp phần khẳng định quan điểm đạo đức mới, làm cho
nó tồn tại một cách chắc chắn trong đời sống xã hội.
81
3.1.4. Hình thứcbiểu hiện quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Con người là chủ thể của mọi quá trình xã hội, con người sáng tạo ra đời
sống xã hội và trở thành chủ thể của đời sống đó. Không có con người, không có
pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Nói cách khác, thông qua
hoạt động của con người, từ hoạt động nhận thức đến cải tạo thực tiễn mà pháp luật
và đạo đức trở nên có quan hệ với nhau.
Hình thức của một sự vật, hiện tượng là dáng vẻ bề ngoài của nó [103,
tr.330; 1, tr.364; 78, tr.427], là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng [36, tr.106], là phương thức tồn tại, dạng tồn tại thực tế [50, tr.229] của
chúng. Như đã đề cập, nội dung của quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là toàn bộ sự
tác động qua lại giữa chúng. Do vậy có thể hiểu, hình thức thể hiện mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức là là phương thức thông qua đó pháp luật và đạo đức có
sự tác động đối với nhau, là dạng tồn tại thực tế của sự tác động qua lại giữa
chúng. Nói một cách cụ thể hơn, quan hệ giữa pháp luật và đạo đức tồn tại thông
qua hoạt động của con người trong quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp
luật; trong quá trình hình thành những quan niệm, chuẩn mực đạo đức, trong quá
trình hiện thực hóa các quan niệm, chuẩn mực đạo đức bằng hành vi của con người,
thông qua tác động của dư luận xã hội nhằm bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức
được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh...
Xây dựng pháp luật là hình thức trước tiên thể hiện mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức. Xây dựng pháp luật là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng,
tựu trung lại có thể hiểu đó là hoạt động tạo nên các qui định cụ thể của pháp luật.
Đây là quá trình phức tạp, từ việc hình thành các tư tưởng pháp lý, đến việc hoàn
thiện các chính sách pháp luật và cuối cùng là việc thể chế hóa các tư tưởng, chính
sách pháp luật thành các qui định pháp luật cụ thể. Hoạt động này bao gồm việc
thừa nhận các tập quán để biến thành tập quán pháp; thừa nhận cách giải quyết các
vụ việc cụ thể để biến thành tiền lệ pháp và hoạt động ban hành ra những qui phạm
pháp luật mới, đó có thể là việc ban hành một văn bản qui phạm pháp luật mới, hay
sửa đổi, bổ sung, qui định chi tiết, hướng dẫn, giải thích một văn bản qui phạm pháp
luật hiện hành...
Cho dù vai trò của pháp luật và đạo đức được nhận thức như thế nào thì
thông qua hoạt xây dựng pháp luật sự tác động giữa chúng vẫn luôn được thể hiện,
bởi vì như đã đề cập, sự tác động giữa chúng có thể là củng cố, hỗ trợ nhau, cũng có
khi là sự phủ định, loại trừ nhau. Bằng hoạt động xây dựng pháp luật, những quan
niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức phù hợp với ý chí lực lượng cầm quyền, phản ánh
82
ý chí chung của cộng đồng dân tộc, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng
như đạo đức tiến bộ được luật hóa, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp nhà nước trong đó có biện pháp cưỡng chế, nhờ đó chúng được giữ gìn, củng
cố và phát huy trong đời sống xã hội. Ngược lại, cũng thông qua hoạt động này,
những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trái ý chí của lực lượng cầm
quyền, trái thuần phong mỹ tục, lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ bị ngăn chặn việc
hình thành và bị loại trừ khỏi đời sống.
Việc hình thành các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức cũng là một
hình thức thể hiện sự tương tác giữa pháp luật và đạo đức, cho dù đó là quá trình tự
phát hay tự giác. Hoạt động này tạo nên nền tảng đạo đức cho pháp luật, tạo ra
nguồn hỗ trợ, bổ sung thậm chí thay thế cho pháp luật trong những trường hợp cần
thiết. Bởi lẽ đó, việc khuyến khích, thúc đẩy sự hành thành các quan niệm, quan
điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội là việc làm rất cần thiết. Nói một cách cụ thể hơn,
cần khuyến khích các tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư xây dựng các chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp cũng như thể chế hóa các quan niệm, tư tưởng đạo đức
thành các qui tắc đạo đức một cách cụ thể trong các hương ước, qui ước, nội qui...
của các cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội.
Việc thực hiện thực pháp luật, đạo đức của các chủ thể trong xã hội là một
hình thức thể hiện mối quan hệ giữa chúng. Đó là việc con người bằng hành vi của
mình, hiện thực hóa những qui định pháp luật, những quan niệm, chuẩn mực đạo
đức trên thực tế. Thông qua việc thực hiện pháp luật, không chỉ các qui định của
pháp luật được thực hiện mà những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đã
được luật hóa cũng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, đồng thời, những
quan điểm, chuẩn mực đạo đức đã bị loại trừ bởi các qui định pháp luật tiếp tục bị
loại trừ trong thực tế đời sống một cách triệt để. Mặt khác, thông qua hoạt động này,
những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức thực sự phát huy vai trò hỗ trợ,
bổ sung cho pháp luật trong những trường hợp cụ thể trên thực tế. Quá trình áp
dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền là môi trường và điều kiện thuận lợi của
việc giáo dục đạo đức, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật không chỉ nhân danh
công lý ban hành các quyết định pháp lý các biệt, họ còn nhân danh đạo lý để giáo
dục đạo đức cho nhân dân. Việc thực hiện các quan niệm, chuẩn mực đạo đức cũng
thể hiện sự tác động qua lại giữa nó với pháp luật. Mặc dù thói quen xử sự theo đạo
lý đã ngấm vào máu thịt con người phương Đông, nhưng không vì vậy mà họ hoàn
toàn bỏ qua pháp luật. Trong cách hành xử theo đạo đức, khi có tranh chấp xảy ra,
lợi ích bị xâm phạm, người ta đều trông cậy đến pháp luật, “kêu oan” chốn cửa
83
quan. Nói cách khác, trong những trường hợp như vậy, pháp luật như là một sự hỗ
trợ, bổ sung cho đạo đức, khi đạo đức bất lực thì người ta cần đến một sự “ra tay”
của luật pháp.
Giáo dục pháp luật, đạo đức là hình thức khác thể hiện sự tương tác giữa
pháp luật và đạo đức. Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có
mục đích đến nhận thức của con người nhằm trạng bị cho mỗi người một trình độ
kiến thức pháp luật nhất định, để họ có ý thức đúng đắn về pháp luật, xây dựng lối
sống và thói quen xử sự theo pháp luật. Giáo dục pháp luật nhằm mục đích nâng
cao hiểu biết pháp luật, làm hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật, thói
quen xử sự theo pháp luật. Người có tri thức và tình cảm pháp luật, có lối sống theo
pháp luật luôn biết lựa chọn cách xử sự theo pháp luật khi đứng trước một tình
huống cụ thể. Thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu sự tin tưởng vào pháp luật, không có
thói quen xử sự theo pháp luật có thể xử sự một cách duy tình theo kiểu đạo đức, xử
sự theo sự cả tin, cả nể... Nhiều trường hợp như thế có thể dẫn đến những tranh
chấp phức tạp, đạo đức không giải quyết được, đồng thời pháp luật cũng phải bó tay
vì “khẩu thiệt, vô bằng”, không có chứng cứ pháp lý.
Giáo dục đạo đức là hoạt động nhằm làm cho con người nhận thức được nội
dung, ý nghĩa của các chuẩn mực đạo đức, đồng thời khơi dậy tình cảm đạo đức,
qua đó làm hình thành ở họ lối ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Giáo dục đạo đức nhằm nâng cao ý thức đạo đức cá nhân, xây dựng ý thức và lối
sống tôn trọng qui tắc sinh hoạt công cộng, qua đó mà tăng cường việc thực hiện
pháp luật. Như đã đề cập, ý thức đạo đức cá nhân là môi trường quan trọng thúc đẩy
việc thực hiện pháp luật. Thông qua giáo dục đạo đức, các quan niệm, quan điểm,
tư tưởng, chuẩn mực đạo đức xã hội được nội tâm hóa, trở thành phẩm chất đạo đức
cá nhân, thành nếp nghĩ, lối sống của họ. Người có ý thức đạo đức tốt nhìn chung
đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, không vì những "khe hở" của pháp luật mà
làm điều bất chính, nếu vì nguyên nhân nào đó dẫn đến vi phạm pháp luật, họ
thường có ý thức ăn năn hối cải, sửa chữa lỗi lầm. Ngược lại, người ý thức đạo đức
kém, luôn coi thường các chuẩn mực đạo đức, luân lý thì cũng dễ coi thường pháp
luật, lợi dụng khe hở của pháp luật để mưu lợi cá nhân, vi phạm các qui định của
pháp luật, thậm chí vi phạm với tính chất và thủ đoạn thực hiện hành vi một cách
không còn nhân tính. Chính vì vậy, giáo dục đạo đức có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Công tác hòa giải cũng là một hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức. Hòa giải là hình thức các bên tự giải quyết tranh chấp với sự tác
84
động, hướng dẫn, thuyết phục, giúp đỡ của người tiến hành hòa giải nhằm giữ gìn
đoàn kết và sự hòa khí giữa các bên. Hòa giải được tiến hành trên cơ sở phù hợp với
pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân. Thực chất,
hòa giải là việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong đời sống dựa trên yếu tố tình
cảm, dựa trên tinh thần độ lượng, khoan dung, thông cảm lẫn nhau của đạo đức,
“chín bỏ làm mười”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”... Trong công tác hòa
giải nói chung, hòa giải ở cơ sở là phổ biến nhất. Hòa giải ở cơ sở là việc hướng
dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự giải quyết với nhau những
tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn sự đoàn kết và phát huy truyền thống tương thân,
tương ái trong cộng đồng, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm, trật tự
an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải giải quyết tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hòa giải ở cơ sở được thực hiện trong các cộng đồng dân cư như thôn, xóm,
tổ dân phố... Đây là hình thức giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, xích mích giữa
các cá nhân với nhau về quyền lợi phát sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân và gia
đình... tương đối có hiệu quả. Hòa giải thành công sẽ làm giảm thiểu đáng kể các vụ
việc phải giải quyết tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
một hình thức quan trọng thể hiện quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Đây không
chỉ là hoạt động nhằm giữ gìn và bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật mà còn là hình
thức quan trọng nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như
để loại trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ. Ở khía cạnh
khác, như vừa đề cập ở trên, thông qua quá trình xử lý vi phạm pháp luật, đặc biệt là
quá trình xét xử các vụ án, nhà chức trách có thẩm quyền vừa thực hiện việc giáo
dục pháp luật, vừa thực hiện việc giáo dục đạo đức cho các chủ thể, bởi vì trong rất
nhiều trường hợp, hành vi vi phạm pháp luật đồng thời cũng vi phạm các chuẩn
mực đạo đức xã hội. Pháp luật của các nhà nước hiện đại đều qui định nguyên tắc
khi xét xử, thẩm phán độc lập, chỉ tuân theo pháp luật nhưng điều đó không có
nghĩa khi áp dụng pháp luật, thẩm phán hoàn toàn bỏ qua yếu tố đạo đức. Người
thẩm phán không phải là cỗ máy áp dụng pháp luật, chính lương tâm và tình người
đã giúp họ ban hành các bản án không chỉ “thấu lý” mà còn cả “vẹn tình”.
Dư luận xã hội cũng là một hình thức cơ bản thể hiện mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức. Như đã đề cập ở chương hai, dư luận xã hội là biện pháp quan
trọng đảm bảo cho đạo đức được thực hiện. Đồng thời, dư luận xã hội cũng tác
động khá mạnh đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể, sự tác động của dư
luận xã hội khiến người ta sợ không dám vi phạm phạm luật. Ở khía cạnh khác, dư
85
luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến những người chấp pháp, nâng cao tinh thần
tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh của họ, tránh được hiện tượng tùy
tiện, lơ là, tắc trách, thiếu tinh thần trách nhiệm, lạm quyền, tham nhũng... của nhà
chức trách. Dư luận xã hội luôn có tính hai mặt, vì vậy, việc thực hiện pháp luật của
nhà chức trách không thể bỏ qua dư luận, không thể đạp lên dư luận mà hành xử,
tuy nhiên cũng không thể “chiều theo dư luận” mà làm trái pháp luật.
3.2. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Về mặt lý thuyết, pháp luật và đạo đức vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác
biệt, vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức ở các quốc gia khác nhau, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau là
khác nhau. Nói cách khác, “quan hệ giữa pháp luật với đạo đức gắn liền với mỗi xã
hội cụ thể” [14, tr.98]. Điều đó là do bản thân pháp luật, đạo đức cũng như mối
quan hệ giữa chúng luôn bị ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tín ngưỡng tôn giáo, lịch sử truyền thống, yếu tố nhận thức của con người...
Những yếu tố này có thể ảnh hưởng trực tiếp tới pháp luật, đạo đức làm cho từng
yếu tố thay đổi, qua đó sự thống nhất, mâu thuẫn, sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau,
sự tương tác qua lại lẫn nhau giữa chúng... thay đổi theo. Nói tóm lại, do ảnh hưởng
của những nhân tố nêu trên, dẫn đến trên thực tế quản lý xã hội, có nơi, có lúc, pháp
luật được coi trọng, đạo đức bị xem nhẹ, hoặc ngược lại; có nơi, có lúc yếu tố này
lấn sân yếu tố kia, yếu tố này kìm hãm hoặc thúc đẩy yếu tố kia... Dưới đây, luận án
đi sâu phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố đến mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức.
Thứ nhất là yếu tố nhận thức của con người
Có thể nói, đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức. Trên thực tế, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nơi
này hay nơi khác, trong thời đại này hay thời đại khác có biểu hiện khác nhau trước
hết là do nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức và mối quan hệ giữa
chúng. Nhận thức của con người là một quá trình, nó bị chi phối bởi các điều kiện
chủ quan và khách quan, bởi vậy, không phải ở đâu, bao giờ, trong điều kiện nào
con người cũng có thể nhận thức đúng đắn và đầy đủ về đối tượng. Trong khi đó,
pháp luật và đạo đức là những hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp, bởi vậy, để nhận
thức đúng đắn về chúng là một điều không đơn giản. Có thể nói, trong điều kiện
ngày nay, pháp luật đã được xác định là công cụ quản lý xã hội quan trọng nhất, tuy
nhiên không phải là công cụ duy nhất, công cụ vạn năng. Nói cách khác, bên cạnh
những ưu thế, pháp luật cũng có những hạn chế nhất định, pháp luật không điều
86
chỉnh được tất cả các quan hệ xã hội, nó cũng không thể buộc các quan hệ xã hội
phát triển một cách trái qui luật. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải khi nào người
ta cũng ý thức được điều đó, có nơi, có lúc, người ta cho rằng, pháp luật là công cụ
hạng hai, có nơi, có lúc lại cho rằng pháp luật là công cụ vạn năng, có thể dùng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý muốn của con người. Đối với đạo đức, vấn đề
cũng hoàn toàn tương tự. Bởi vậy, nhận thức rõ vấn đề này không chỉ có ý nghĩa
trong hoạt động xây dựng pháp luật mà còn có ý nghĩa đối với việc tổ chức thực
hiện, bảo vệ pháp luật. Khi nhận thức được những hạn chế vốn có của pháp luật
đồng thời cũng nhận thức được vai trò và tác dụng to lớn của đạo đức, người ta sẽ
sử dụng kết hợp một cách hài hòa giữa pháp luật với đạo đức. Không nhận thức
được những điều này, có thể dẫn đến hoặc chỉ sử dụng pháp luật mà không dùng
đạo đức, hoặc ngược lại, chỉ dùng đạo đức mà không sử dụng pháp luật. Ở khía
cạnh khác, sự nhận thức không đúng về từng yếu tố cũng như mối quan hệ giữa
chúng sẽ dẫn đến pháp luật được xây dựng không phù hợp đạo đức, việc tổ chức
thực hiện pháp luật cũng như bảo vệ pháp luật không dựa trên những chuẩn mực
đạo đức. Quan hệ giữa pháp luật với đạo đức vì vậy trở nên méo mó, biến dạng, một
chiều, hoặc coi thường nhau, lấn sân nhau, hoặc xa rời nhau, phủ định, cản trở
nhau…
Lịch sử Trung Quốc còn ghi đậm nét hai trường phái tư tưởng đối lập nhau,
đó là “Đức trị” của Nho gia và “Pháp trị” của Pháp gia. Các tác giả của trường phái
đức trị do nhìn nhận một cách phiến diện vai trò của đạo đức, không thấy được hạn
chế của nó cũng như không thấy được vai trò to lớn của pháp luật nên dẫn đến đề
cao đạo đức một cách quá mức. Khổng Tử nói:
Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để
quản lý dân, làm như vậy tuy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người
phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, chỉ đạo
dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu
được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa
chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng [116, tr.123].
Vì vậy, pháp luật chỉ được sử dụng một cách hết sức hạn chế, chỉ khi nào
thật cần thiết mới phải dùng đến. Khổng Từ và Nho gia đã sai lầm khi quá đề cao sự
tự giác của con người cũng như vai trò của dư luận xã hội. Như đã phân tích ở các
phần trên, ý thức đạo đức của mỗi người là khác nhau, có người có sự tự giác, có
người chưa giác ngộ được, có người rất đề cao sự tự trọng, tự ái, nhưng cũng có
người không biết tự trọng, tự ái… Người ta không thể “nói suông” với những kẻ bất
87
lương, không biết sợ hãi, xấu hổ, đối với những người này, đạo đức sẽ trở nên vô
tác dụng.
Ngược lại, các tác giả của trường phái pháp trị lại quá đề cao vai trò của
pháp luật, coi nhẹ công dụng của đạo đức. Hàn Phi coi việc dùng đạo đức để trị
nước chỉ như “cơm bụi, canh bùn” trong trò chơi của trẻ con. Ông viết:
Kìa như đứa trẻ chơi nghịch, lấy bụi làm cơm, lấy bùn loãng làm canh, lấy
mẩu gỗ làm nem chả, nhưng đến hết ngày cũng phải về ăn cơm; cơm bụi,
canh bùn chỉ có thể chơi nghịch được mà không thể ăn được vậy... Nói rằng
nhân nghĩa của các bậc tiên vương không thể trị được nước, điều đó cũng ví
như có thể chơi đùa mà không thể dùng để cai trị được [129, tr.286].
Ở Việt Nam, trước đây do nhận thức chưa đầy đủ, chúng ta đánh giá chưa
thật đúng đắn về vai trò của pháp luật và đạo đức. Văn kiện Đại hội lần thứ 6 của
Đảng đã khẳng định: “quản lý xã hội phải bằng pháp luật chứ không thể chỉ bằng
đạo lý” [15, tr.121]. Có thể nói, Đại hội 6 là một bước ngoặt, đánh dấu sự thay đổi
hết sức quan trọng trong tư duy của Đảng trên nhiều bình diện, trong đó có tư duy
quản lý nhà nước. Theo đó, Đảng đã nhận thức được vai trò to lớn của pháp luật
trong quản lý xã hội, vì vậy đã khẳng định “quản lý xã hội phải bằng pháp luật”.
Tuy nhiên, theo cách diễn đạt của lời văn, chúng ta dễ nhận thấy, trong quản lý xã
hội, đạo lý rất được coi trọng, thậm chí đã có lúc quản lý xã hội “chỉ bằng đạo lý”.
Từ nhận thức đó, dẫn đến trong thực tiễn, cả pháp luật và đạo đức đều đã không
được sử dụng một cách đúng mức như những ưu thế vốn có của nó.
Ở khía cạnh khác, không nhận thức được mặt tích cực, giá trị to lớn của đạo
đức truyền thống, có thể dẫn đến việc phủ định sạch trơn quá khứ, coi mọi biểu hiện
của quá khứ đều là tàn dư cần phải xóa bỏ, làm cho chúng dần dần bị mai một trong
đời sống xã hội. Điều đó đã gây ra những hệ lụy to lớn trong đời sống, chẳng những
làm cho truyền thống văn hóa, tinh thần của xã hội bị đứt đoạn mà có thể còn làm
cho vi phạm pháp luật gia tăng, đời sống xã hội trở nên mất ổn định.
Nhận thức không đúng về vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức còn có thể
dẫn đến pháp luật không được xây dựng trên cơ sở của đạo đức, không phù hợp với
các giá trị đạo đức, bởi vậy không những không phát huy được vai trò của đạo đức
trong việc thúc đẩy sự thực hiện pháp luật, mà có khi còn gây ra sự cản trở mạnh
mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Trong việc tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật,
nhận thức không đúng về pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng sẽ
dẫn đến một sự thờ ơ, vô cảm, vô tình, đó là một nguy hại không nhỏ trong đời
sống.
88
Thứ hai là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế
Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức. Trước hết, điều kiện kinh tế là những yếu tố có ảnh hưởng to lớn đến bản
thân pháp luật cũng như đạo đức. Các quan hệ kinh tế xã hội là cơ sở cho sự tồn tại
và phát triển của pháp luật và đạo đức. Trong các điều kiện kinh tế khác nhau, có
các hệ thống pháp luật khác nhau, các chuẩn mực đạo đức khác nhau. Ănghen đã
chỉ rõ: “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản
phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [67, tr.137]. Chính vì vậy, mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong các điều kiện kinh tế khác nhau cũng trở
nên khác nhau. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khiến người ta đặt lợi nhuận
lên trên hết, tất cả vì lợi nhuận, tất cả vì đồng tiền, chạy theo đồng tiền, kiếm tiền
bằng mọi giá, bất chấp cả đạo lý… Ngược lại, phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí cao nhất, tất cả vì con người, nhằm giải phóng
con người, bảo đảm, bảo vệ lợi ích về mọi mặt của con người. Vì vậy, quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội là khác
nhau.
Có thể nói, kinh tế càng phát triển thì vai trò của pháp luật càng được coi
trọng. Trong điều kiện của nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, các quan hệ kinh tế xã
hội còn đơn giản, diễn ra trong không gian hẹp, chủ thể các mối quan hệ này thường
có mối quan hệ thân sơ, huyết tộc, láng giềng với nhau, bởi vậy, đạo đức mặc nhiên
được coi trọng hơn. Thực tế chứng tỏ, ở nơi nào mà kinh tế chậm phát triển, thương
mại chậm phát triển thì ở đó đạo đức thường được coi trọng hơn. Ngay như ở nước
ta, ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đạo đức,
phong tục tập quán còn có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, trong khi đó, pháp luật lại chưa
được coi trọng. Ngược lại, khi điều kinh tế xã hội phát triển mạnh, quan hệ xã hội
không còn bị giới hạn trong “lũy tre làng”, sự ràng buộc về quan hệ huyết thống,
thân tộc hay tình làng, nghĩa xóm trở nên lỏng lẻo thì vai trò của đạo đức cũng bị
xem nhẹ dần. Đây chính là lý do giải thích tại sao ở các nước nông nghiệp thì
thường coi trọng đạo đức còn ở các nước công nghiệp thì thường coi trọng pháp
luật.
Khi quan hệ kinh tế thay đổi, pháp luật và đạo đức sẽ có sự thay đổi theo.
Tuy nhiên, pháp luật thường có sự thay đổi khá nhanh nên sẽ nhanh chóng phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội mới. Trái lại, đạo đức thường có tính bảo thủ, trì trệ,
cho nên, trong điều kiện xã hội mới, có khá nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức
tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại, trong khi những quan niệm, chuẩn mực đạo đức
89
mới chưa kịp hình thành. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vì vậy có sự thay đổi
so với trước đó, sự khác biệt, sự mâu thuẫn có thể nảy sinh. Trong trường hợp này,
những quan niệm đạo đức lạc hậu là một lực cản to lớn đối với việc thực hiện pháp
luật của các chủ thể. Chính trong điều kiện này, pháp luật đóng vai trò là phương
tiện hữu hiệu để loại bỏ những quan niệm, đạo đức tàn dư đó.
Thứ ba là yếu tố chính trị
Pháp luật và đạo đức của giai cấp thống trị luôn có sự thống nhất với nhau,
cả pháp luật và đạo đức đều dựa trên quan điểm, chủ trương, đường lối của giai cấp
thống trị. Khi đó, pháp luật và đạo đức của giai cấp thống trị có sự kết hợp chặt chẽ
với nhau, cùng thực hiện những mục đích, bảo vệ những lợi ích của giai cấp thống
trị trong xã hội. Trái lại, quan điểm, quan niệm đạo đức của lực lượng bị áp bức thì
thường có sự mâu thuẫn với pháp luật. Chẳng hạn, theo quan niệm đạo đức của giai
cấp bị trị, việc lấy tài sản của kẻ bóc lột đem chia cho người bị bóc lột có thể được
xem là việc thiện, tuy nhiên, theo pháp luật đương thời, hành vi đó bị coi là vi phạm
pháp luật, bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Trong trường hợp cách mạng xã hội
làm thay đổi giai cấp cầm quyền, quan hệ giữa pháp luật với đạo đức sẽ có sự thay
đổi rất lớn. Một hệ thống pháp luật mới ra đời thay thế hệ thống pháp luật cũ, những
chuẩn mực đạo đức mới cũng sẽ dần được hình thành để thay thế những chuẩn mực
đạo đức cũ. Vì vậy, sự thống nhất, sự khác biệt cũng như sự tác động qua lại giữa
chúng sẽ có sự thay đổi theo. Sau một cuộc cách mạng, thường hệ thống pháp luật
bị thay đổi một cách cơ bản, toàn diện và nhanh chóng. Trái lại, sự biến đổi của đạo
đức thường diễn ra một cách chậm chạp, những chuẩn mực đạo đức mới chưa thể
thâm nhập vào đời sống, trong khi những quan niệm, chuẩn mực đạo đức tàn dư còn
tồn tại dai dẳng. Trong điều kiện đó, pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong việc
truyền bá, những quan điểm, tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị, áp đặt nó vào
trong đời sống, đồng thời pháp luật mới là phương tiện hữu hiệu để loại trừ những
quan niệm chuẩn mực đạo đức là tàn dư của xã hội cũ. Như vậy, sự tác động qua lại
giữa pháp luật với đạo đức được thể hiện rõ nét nhất sau các cuộc cách mạng xã hội,
với sự thay thế giai cấp cầm quyền.
Quan điểm đường lối chính sách của lực lựng cầm quyền thay đổi dẫn đến
luật pháp và đạo đức thay đổi theo, quan hệ giữa chúng vì vậy mà cũng trở nên thay
đổi. Từ quan điểm của Đại hội toàn quốc lần thứ sáu của Đảng cộng sản Việt Nam:
“quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không thể chỉ bằng đạo lý”, đến Đại hội lần thứ
bảy, Đảng có quan niệm mới: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật” [16,
tr.44]. Với quan điểm mới này, vai trò của pháp luật đã được xác định một cách đầy
90
đủ và khẳng định rõ ràng: pháp luật là công cụ quan trọng nhất, công cụ không thể
thay thế để quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, vai trò của đạo đức lại
chưa được xác định một cách đầy đủ. Có thể nói, từ Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 8, khóa 7 trở về sau, cả pháp luật và đạo đức đều mới được chú trọng đúng mức.
Văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa 7 ghi: “Quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức” [19, tr.26]. Quan điểm
này đã thể hiện rõ đường lối xử lý mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức của Đảng
ta. Đảng đã xác định một cách đúng đắn rằng, đạo đức không chỉ là cơ sở chỉ đạo
việc xây dựng pháp luật, nó còn có vai trò đặc biệt quan trọng cả trong hoạt động tổ
chức thực hiện cũng như hoạt động bảo vệ pháp vệ pháp luật. Giáo dục đạo đức
chính là nhằm phát huy vai trò to lớn của nó trong việc thúc đẩy các chủ thể thực
hiện pháp luật.
Trong điều kiện các nhà nước cực quyền, độc tài phát xít, pháp luật chính là
ý chí của nhà cầm quyền, nó được bảo đảm thực hiện chủ yếu bằng biện pháp
cưỡng chế. Đó là thứ pháp luật “quả đấm”, với một hệ thống hình phạt nặng nề và
cách thức thi hành hình phạt dã man, tàn bạo. Một khi pháp luật qui định hình phạt
quá nặng nề, thì đó lại là biểu hiện của sự xa rời các chuẩn mực đạo đức, bởi vì như
đã đề cập, đạo đức là hướng thiện, là nhân đạo, nhân văn. Ngược lại, trong điều
kiện xã hội dân chủ, vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức cũng như mối quan hệ
giữa chúng trở nên thay đổi. Cả pháp luật và đạo đức đều là công cụ nhằm phục vụ
lợi ích của con người, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, hướng con người đến
nhân đạo, nhân văn.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới mối
quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vị
trí tối thượng trong điều chỉnh hành vi con người, quản lý xã hội. Đó là một hệ
thống pháp luật dân chủ, nhân đạo, nhân văn, thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng,
nhu cầu, lợi ích của nhân dân, phù hợp với qui luật của đời sống, phù hợp với
truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Với nội dung đó, mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức trở nên gắn bó chặt chẽ hơn bao giờ hết, bởi chúng
gặp nhau ở một điểm chung đó là xác lập, củng cố, trật tự xã hội nhằm phục vụ con
người, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, giá trị con người, bảo đảm đời sống
ngày càng trở nên nhân đạo hơn, nhân văn hơn. Chính vì vậy, pháp luật và đạo đức
có sự thống nhất với nhau một cách khá toàn diện, một mặt pháp luật được xây
dựng trên cơ sở của đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, mặt khác, pháp
luật góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
91
thống tốt đẹp của dân tộc. Đạo đức không chỉ là nền tảng của pháp luật mà còn trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc thực hiện pháp luật.
Phần sau của luận án sẽ tập trung phân tích những đặc điểm của mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
Thứ tư là yếu tố lịch sử, truyền thống, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức. Ở các nước phương Tây, truyền thống pháp lý đã hình thành từ rất sớm.
Người phương Tây nhìn chung trong xử sự của mình đều đặt pháp luật lên hàng
đầu, mọi vấn đề đều được giải quyết bằng pháp luật. Thậm chí, trong quan hệ gia
đình, pháp luật vẫn là yếu tố chi phối mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, pháp luật cũng chịu
ảnh hưởng của đạo đức, đặc biệt những quan niệm đạo đức Thiên chúa giáo. Chính
những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Thiên chúa giáo đã chi phối tư tưởng và
hành động của các nhà chức trách trong quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng
như hành xử của người dân.
Khác với xã hội phương Tây, ở các nước Á đông, trong đó có Việt Nam, đạo
đức rất được coi trọng, nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ cả trong việc hình thành các
qui định trong hệ thống pháp luật, cả trong việc thực hiện pháp luật. Có thể nói,
pháp luật phong kiến Việt Nam mà điển hình là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia
Long “thực chất là sự thể chế hóa tư tưởng đức trị và lễ nghĩa của Nho giáo” [112,
tr.357]. Sự kết hợp đức trị với pháp trị luôn là “dòng chủ lưu” trong đường lối cai trị
của các triều đại phong kiến Việt Nam. Quan điểm “nội nho, ngoại pháp”; “đức
chủ, pháp bổ” luôn được quán triệt cả trong nhận thức và thực tiễn. Trong thực tiễn
người ta ứng xử với nhau trước hết bằng đạo lý, sau đó mới bằng pháp lý, “trăm cái
lý không bằng tý cái tình”. Với lối ứng xử trung dung, người ta không làm gì đến
mức cực đoan, cạn tàu, ráo máng. Tóm lại, các nước phương Tây có truyền thống
trọng pháp, các nước phương Đông có truyền thống trọng đức, nói cách khác, mối
quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở những khu vực này là khác nhau.
Phong tục, tập quán là những thói quen trong ứng xử của con người. Mỗi địa
phương, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng có những phong tục, tập quán, truyền thống
riêng, trong đó bao hàm cả những tập quán đạo đạo đức và tập quán pháp luật. Trên
thực tế, có không ít quan niệm, qui tắc đạo đức, qui định pháp luật đã trở thành thói
quen ứng xử của một cộng đồng. Trong trường hợp đó, những tập quán đạo đức có
tác động khá lớn đến việc thực hiện pháp luật. Thói quen là yếu tố có tác động hai
mặt, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm việc thực hiện pháp luật cũng như đạo đức.
92
Những tập quán tốt đẹp, phù hợp với pháp luật, đạo đức, lẽ công bằng chính là môi
trường thuận lợi để thực hiện pháp luật và đạo đức [128, tr.9], điều đó làm pháp luật
và đạo đức trở nên gần gũi nhau, thống nhất với nhau. Ngược lại, tập quán lạc hậu
là những cản trở không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật trong xã hội. Có thể nói, ở
Việt Nam hiện nay, chính thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún là một trong những
cản trở rất lớn đối sự kiểm soát bằng pháp luật việc đảm bảo vệ sinh, an toàn thực
phẩm. Những hành vi vô đạo đức, trái pháp luật trong vấn đề vệ sinh, an toàn thực
phẩm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân, nhưng cả đạo lý và
pháp lý đều khó phát huy vai trò của mình trong việc kiểm soát và loại bỏ chúng.
Montesquieu cho rằng, pháp luật cũng như đạo đức đều xuất phát từ các yếu
tố địa lý tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng khí hậu [74, tr.129-146]. Điều này giải thích
hiện tượng “bên này đỉnh núi, bên kia đỉnh núi”, những quan niệm đạo đức là khác
nhau, những qui định pháp luật là khác nhau. Tất cả những yếu tố này đều ít nhiều
có ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với đạo đức.
Như đã trình bày ở phần trên, cả pháp luật và đạo đức đều chịu sự ảnh hưởng
ở những mức độ nhất định bởi các quan niệm, quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo, giáo
lý, giáo luật. Niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến hành vi con người,
trong đó có các hành vi pháp luật, hành vi đạo đức. Nói cách khác, niềm tin tôn giáo
cũng có ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Có thể nói, tôn giáo là
một nhân tố rất quan trọng đảm bảo việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, bởi vì,
giữa tín điều tôn giáo và đạo đức thường có mối quan hệ khá gần gũi, trong hệ
thống giáo lý của các tôn giáo, thường hàm chứa khá nhiều quan niệm, quan điểm
đạo đức. Tôn giáo cũng có thể là nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm việc thực hiện
pháp luật, tùy thuộc vào sự phù hợp giữa tín điều tôn giáo với các qui định trong
pháp luật.
Trong điều kiện tôn giáo giữ vai trò thống trị về mặt tinh thần trong đời sống
xã hội thì sự ảnh hưởng của nó đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đức càng mạnh
mẽ. Trong chế độ phong kiến phương Tây, hệ tư tưởng của đạo Thiên chúa giữ vai
trò thống trị xã hội, mọi quan niệm, quan điểm trong xã hội, trong đó có pháp luật
và đạo đức đều phải phục tùng hệ tư tưởng của nhà thờ. Điều này cũng làm cho
pháp luật và đạo đức trở nên thống nhất với nhau và thống nhất trong quan điểm
của nhà thờ. So với các quốc gia có nhiều tôn giáo, sự ảnh hưởng của tôn giáo đến
quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở những nước mà một tôn giáo nào đó được coi
là quốc giáo thường thể hiện một cách rõ nét hơn.
93
Thứ năm là yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại
Vấn đề hợp tác, hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức. Như đã đề cập, người phương Tây có thói quen xử sự theo pháp luật,
thói quen này có ý nghĩa rất tích cực trong điều kiện các quan hệ xã hội ngày càng
đa dạng, phức tạp. Trong điều kiện hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
giữa các nước, thói quen tích cực này của người phương Tây đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến người phương Đông trong đó có Việt Nam. Một khi đã tham gia vào sân
chơi chung, tất cả phải theo một qui tắc, một chuẩn mực chung. Từ việc xử sự một
cách tùy tiện, không theo một chuẩn mực nào, hoặc từ lối ứng xử theo đạo đức, tập
quán... dần dần ở đâu, làm gì, trước tiên người ta nghĩ đến pháp luật, dựa trên chuẩn
mực pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, cứ như thế dần dần hình thành thói
quen xử sự theo pháp luật. Pháp luật vì thế được đề cao một cách tự nhiên, vị trí của
đạo lý vì thế dần dần sẽ bị thay đổi.
Ở khía cạnh khác, hợp tác, hội nhập quốc tế làm cho nền kinh tế xã hội chịu
ảnh hưởng của cả những yếu tố tích cực, cả những yếu tố tiêu cực từ bên ngoài. Nói
cách khác, hợp tác, hội nhập quốc tế làm cho đạo đức, truyền thống, thuần phong,
mỹ tục của dân tộc chịu ảnh hưởng từ bên ngoài theo cả hai hướng. Khi đạo đức xã
hội thay đổi, dù theo xu hướng nào, bị thoái hóa, xuống cấp hay được giữ gìn và
phát huy thì quan hệ giữa nó với pháp luật sẽ bị thay đổi theo một cách tương ứng.
Yếu tố thời đại cũng ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức.Trong lịch sử, ở nhiều nơi trên thế giới, người phụ nữ không có chồng mà có
thai là một điều cấm kị. Chuẩn mực đạo đức này ở nhiều nơi đã trở thành lệ làng,
hương ước…, theo đó, người vi phạm có thể bị cộng đồng xử lý bằng nhiều hình
thức như cạo đầu, bôi vôi, thả bè trôi sông. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội ngày
nay, trên bình diện pháp luật, các biện pháp xử lý như trên của cộng đồng là vi
phạm pháp luật, xâm phạm quyền, tự do của con người, bởi vậy, nó bị pháp luật
nghiêm cấm.
Tóm lại, sự tác động giữa pháp luật với đạo đức chịu sự ảnh hưởng của nhiều
yếu tố. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội tác động đến quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức đều diễn ra thông qua ý thức con người. Nói một cách cụ thể, điều kiện
kinh tế, xã hội tác động đến ý thức con người, làm thay đổi nhận thức của họ, qua
đó mà ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ
giữa chúng. Quan hệ giữa pháp luật với đạo đức cũng chịu ảnh hưởng bởi chính bản
thân pháp luật, đạo đức. Chẳng hạn, pháp luật thể hiện vai trò loại trừ các quan
niệm đạo đức lạc hậu như thế nào phụ thuộc vào sự phù hợp của biện pháp chế tài,
94
hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật... Nó cũng phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của
các quan niệm, tư tưởng đạo đức trong đời sống xã hội, nếu chúng đã ăn sâu bám rễ
chắc chắn trong đời sống, tồn tại trong một thời gian lâu dài thì loại bỏ chúng là vấn
đề không đơn giản.
3.3. Ảnh hƣởng của việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền đến quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức ở Việt Nam
3.3.1. Tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
Ở nước ta, mấy chục năm trở lại đây, vấn đề nhà nước pháp quyền thu hút sự
quan tâm của rất nhiều nhà khoa học. Trên thực tế, đã có rất nhiều công trình khoa
học đề cập một cách khá toàn diện, sâu sắc về vấn đề này. Bởi vậy, trong luận án
này, tác giả chỉ đề cập một cách khái quát những giá trị của nhà nước pháp quyền.
Chúng ta biết rằng, xã hội từ khi phân chia thành giai cấp là lúc con người
rơi vào cảnh áp bức bất công. Chính trong bối cảnh đó mà xuất hiện nhu cầu giải
phóng con người khỏi áp bức, bất công, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do dân chủ
của con người. Tuy nhiên, muốn giải phóng con người, quyền lực nhà nước cần
phải bị hạn chế và có sự kiểm soát. Để hạn chế và kiểm soát quyền lực nhà nước,
pháp luật được coi trọng hàng đầu. Luận giải những vấn đề này, các nhà tư tưởng
xây dựng nên lý thuyết nhà nước pháp quyền. Đưa ra tư tưởng về nhà nước pháp
quyền, các nhà tư tưởng đưa ra những tư tưởng về chống áp bức, cường quyền,
chống độc tài chuyên chế, nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bất công, xây
dựng một xã hội tự do, dân chủ, công bằng, phẩm giá con người được tôn trọng.
Nói cách khác, luận đề trung tâm của nhà nước pháp quyền là sự giải phóng con
người, bảo đảm, bảo vệ các quyền, các giá trị con người.
Trong nhà nước pháp quyền, con người được giải phóng khỏi mọi sự áp bức,
bất công, được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Đó là các quyền mang tính tự
nhiên, sự qui định trong pháp luật chỉ là sự thừa nhận của nhà nước và tất yếu nhà
nước phải thừa nhận nó. Tự do cá nhân trong nhà nước pháp quyền được phát triển
thực sự, người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, mà luật thì
chỉ cấm những gì có hại cho cộng đồng. Nhà nước tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các
quyền và tự do cá nhân, mọi sự xâm hại các quyền và tự do cá nhân đều bị nghiêm
trị. Tất nhiên, dân chủ và tự do cá nhân luôn được đặt trong sự tôn trọng tự do của
người khác, tôn trọng và tuân thủ những nguyên tắc chung của cộng đồng.
Trong nhà nước pháp quyền, nhân dân là người chủ của xã hội, có quyền
quyết định tối cao các vấn đề của nhà nước và xã hội. Nhà nước pháp quyền là tổ
95
chức quyền lực chung của toàn xã hội, do nhân dân tổ chức ra và do nhân dân uỷ
quyền cho, bởi vậy nó phải đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Các cơ quan, nhân
viên nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhà nước pháp quyền như
vậy là phụ thuộc vào xã hội chứ không phải đứng trên xã hội, áp bức xã hội. “Nếu
công thức của nhà nước độc tài chuyên chế là dân (không phải công dân) phục tùng
nhà nước thì công thức của nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng xã hội,
phục tùng các công dân” [124, tr.207,208]. Nói khác đi, nhà nước pháp quyền được
tổ chức ra để phục vụ nhân dân chứ không phải để cai trị nhân dân. Chức năng chủ
yếu của nhà nước là bảo vệ con người, điều tiết xã hội là vì con người, đáp ứng các
nhu cầu, lợi ích của con người. Ngoài mục đích phục vụ nhân dân, nhà nước không
có mục đích tự thân nào khác.
Để giải phóng con người khỏi áp bức bất công, đảm bảo tự do cá nhân, đòi
hỏi quyền lực nhà nước phải bị hạn chế và có sự kiểm soát. Do vậy, bộ máy nhà
nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở có sự phân công, phối hợp, kiểm soát,
giám sát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, sao cho không cơ quan nào có thể thao túng, thâu tóm quyền lực vào tay mình
cũng như không cơ quan nào có thể thiếu tinh thần trách nhiệm. Hiến pháp, văn bản
thể hiện tập trung nhất ý chí của nhân dân là khuôn khổ giới hạn tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Nhà nước cũng chỉ là một chủ thể trong xã hội, nên nó
cũng phải “tự đặt mình dưới pháp luật”, sự tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh,
triệt để hiến pháp và pháp luật của các cơ quan, nhân viên nhà nước là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền có vai trò đặc biệt quan trọng, nó được
thừa nhận và sử dụng là công cụ có hiệu quả nhất, không thể thay thế để tổ chức và
quản lý xã hội. Đó là hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, phù hợp với hiện thực
của đời sống, phù hợp với qui luật vận động và phát triển của xã hội, “được hình
thành từ tính hợp lý của cuộc sống”, phù hợp với tiến bộ xã hội, ghi nhận và phản
ánh các giá trị của cuộc sống mà con người đã tích luỹ và phát triển, phù hợp với lẽ
thường mà ai cũng công nhận, phù hợp với thuần phong, mỹ tục, những quan niệm
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhà nước với tư cách là tổ chức quyền
lực chung của xã hội, nó được xã hội uỷ quyền thay mặt xã hội để ban hành pháp
luật, vì vậy pháp luật phải phù hợp với ý chí nhân dân, theo tinh thần của Rousseau,
nhà nước ban hành pháp luật nhưng phải có sự phê chuẩn của nhân dân và chỉ khi
có sự phê chuẩn nó mới trở thành luật [100, tr.73,140]. Pháp luật phải ghi nhận và
bảo vệ các quyền, tự do, dân chủ, các lợi ích chính đáng của con người, đúng như
96
Mác nói, pháp luật phải là thước đo của tự do. Dĩ nhiên, hệ thống pháp luật ấy phải
toàn diện, đồng bộ, ổn định, minh bạch, được ban hành với kĩ thuật lập pháp cao.
Quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng phải bằng đạo luật là chủ yếu, việc sử dụng
văn bản dưới luật phải trên tinh thần triệt để tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và
luật. Pháp luật khi đã được ban hành trở thành sức mạnh công khai, nó mang tính
bắt buộc đối với tất cả các thành viên trong xã hội. Mọi thànhviên trong xã hội dù
trên cương vị nào cũng đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Khi đó, nếu có sự
mâu thuẫn giữa pháp luật với các qui phạm xã hội khác thì pháp luật luôn có hiệu
lực cao nhất, phong tục, tập quán, truyền thống, đạo lý... đều phải bị đặt dưới pháp
luật.
Sự phân tích trên cho thấy, nhà nước pháp quyền mang lại những giá trị vô
cùng to lớn cho đời sống xã hội. Nhờ có nhà nước pháp quyền mà con người được
giải phóng hoàn toàn khỏi mọi áp bức bất công, các quyền con người được thừa
nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Trong điều kiện của nhà nước pháp quyền,
người dân trở thành chủ nhân của xã hội, từ thân phận bị áp bức họ trở thành người
chủ của xã hội, được nhà nước chăm sóc và bảo vệ. Nhờ có nhà nước pháp quyền,
đời sống xã hội trở nên dân chủ thực sự và rộng rãi trên tất cả các mặt. Với chế độ
dân chủ và do cách thức tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền, các hiện
tượng lạm quyền, chuyên quyền độc đoán, thiếu tinh thần trách nhiệm, vô trách
nhiệm bị hạn chế và bị loại trừ. Trong nhà nước pháp quyền, việc tổ chức, thực thi
quyền lực nhà nước, tổ chức và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, hoạt động của
mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều đặt trong khuôn khổ của pháp luật, việc xử sự
theo pháp luật trở thành lối sống của toàn xã hội.
Với những giá trị to lớn đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành xu
thế phát triển chung của lịch sử nhân loại. Có thể nói, ngày nay các nhà nước trên
thế giới đều phát triển theo xu thế dân chủ, hoạt động của nhà nước ngày càng công
khai, minh bạch, quyền lực nhà nước bị hạn chế và kiểm soát bởi pháp luật, đời
sống xã hội ngày càng được dân sự hóa, các quyền con người ngày càng được tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ. Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền cũng là nằm
trong xu thế chung của sự phát triển của lịch sử. Bên cạnh đó, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta còn xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi khách quan sau
đây:
Một là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền là nhu cầu, đòi hỏi bức thiết của
cuộc sống, đó là nhu cầu về dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bảo đảm, bảo
97
vệ các quyền con người, quyền công dân; xã hội ngày càng được dân sự hóa, tránh
mọi sự can thiệp tùy tiện của nhà nước vào đời sống xã hội.
Hai là, do yêu cầu, đòi hỏi tự thân của bộ máy nhà nước, bộ máy nhà nước
càng ngày càng phải được chuyên nghiệp hóa, có sự phân định rõ ràng, rành mạch
về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, tránh sự chồng
chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong quản lý nhà nước, ngăn ngừa và hạn chế sự lạm
quyền, thiếu trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước.
Ba là, do yêu cầu của việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, bởi vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền là nhằm củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, tăng cường uy tín và địa vị lãnh đạo của Đảng.
Bốn là, do yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế
độ dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. “Đảng ta ý thức sâu
sắc rằng, để đạt được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương
tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” [99, tr.92].
Năm là, do yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc hợp tác, hội nhập quốc tế. Hiện
nay nước ta đang hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Để hợp
tác, hội nhập thành công, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước phục vụ, minh bạch hóa hoạt động của nhà
nước, ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm trong hoạt động của bộ
máy nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều
phải tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh… là những vấn đề then chốt.
Có thể nói, xây dựng nhà nước pháp quyền là công việc phức tạp, bao gồm
nhiều vấn đề cần giải quyết, liên quan tới hầu hết các mặt của đời sống xã hội, từ
kinh tế, đến chính trị, văn hóa xã hội... Việc xây dựng nhà nước pháp quyền hoàn
toàn không phải chỉ chú trọng xây dựng, hoàn thiện thiết chế nhà nước mà cần phải
tập trung giải quyết đồng bộ các vấn đề sau đây:
Một là, dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Muốn có nhà nước pháp
quyền trước tiên phải có một xã hội dân chủ. Trong xã hội đó, người dân được làm
chủ bản thân, làm chủ xã hội, nhân dân được tham gia thực chất vào mọi hoạt động
của đất nước, có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của nhà nước và xã
hội. Nhà nước phải để nhân dân trực tiếp quyết định những vấn đề trọng đại của đất
nước, khi nhân dân đã quyết định, nhà nước bắt buộc phải phục tùng. Nhà nước
phải tôn trọng, bảo đảm tự do cá nhân, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
98
công dân. Các cá nhân trong xã hội được làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm, mà pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho cộng đồng. Nhà nước phải có đầy
đủ điều kiện và biện pháp đảm bảo cho các quyền con người, quyền công dân được
thực hiện trên thực tế, mọi hành vi xâm phạm các quyền tự do, dân chủ, các lợi ích
chính đáng của con người đều phải bị nhà nước nghiêm trị. Nhà nước phải thiết lập
mối quan hệ tương hỗ, trách nhiệm qua lại với công dân (mở rộng ra là các cá
nhân), trong quan hệ đó, các bên phải hoàn toàn bình đẳng về quyền, nghĩa vụ. Nói
một cách ngắn gọn, dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội đó là biến xã hội từ
chỗ nhà nước là chủ thành xã hội người dân là chủ.
Hai là, cải cách, kiện toàn, hoàn thiện bộ máy nhà nước. Các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát, giám sát lẫn
nhau, nhằm giảm thiểu và đi đến xóa bỏ mọi hiện tượng lạm quyền, chuyên quyền
độc đoán, vô trách nhiệm. Xây dựng cơ chế giám sát việc thực thi hiến pháp; đảm
bảo sự độc lập thực sự của quyền tư pháp là những nhiệm vụ trọng tâm của vấn đề
xây dựng nhà nước pháp quyền. Các nhân viên trong bộ máy nhà nước đều phải
được nhân dân lựa chọn một cách dân chủ.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật phải
toàn diện, qui định đầy đủ các quyền, tự do dân chủ cho công dân; hệ thống pháp
luật đó phải thống nhất, đồng bộ, không có sự mâu thuẫn, chồng chéo; hệ thống
pháp luật đó phải minh bạch, có tính khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của đất nước, với qui luật vận động và phát triển của xã hội, phù hợp với ý chí,
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, phù hợp với đạo đức xã hội, tập quán, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc; được xây dựng với kỹ thuật pháp lý ở trình độ cao. Tính
tối cao của hiến pháp phải luôn được tôn trọng trong xây dựng cũng như thực hiện
pháp luật, đó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước pháp
quyền. Quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng cơ bản và quan trọng là phải bằng các
văn bản luật.
Bốn là, nâng cao dân trí, nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật cho
nhân dân, xây dựng lối sống theo pháp luật, thói quen xử sự theo pháp luật trong
nhân dân. Muốn vậy, phải làm cho pháp luật trở nên hết sức quen thuộc, trở thành
một nhu cầu thiết yếu hàng ngày trong ứng xử của mỗi người, thậm chí nó phải
được xem như cơm ăn, áo mặc của con người. Pháp luật phải có mặt ở mọi nhà, mọi
nơi, mọi lúc, phải luôn song hành với mọi người trong cuộc sống. Đối với mỗi
người, phải làm cho việc thực hiện pháp luật trở thành thói quen hàng ngày của họ,
99
trong các xử sự đều lấy pháp luật làm thước đo, ưu tiên đặt pháp luật lên trên tất cả
các công cụ điều chỉnh khác.
Năm là, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền móng vững chắc cho nhà
nước pháp quyền, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền đã làm đời sống xã hội có những
biến đổi to lớn và mạnh mẽ, điều đó cũng làm cho mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức có những thay đổi đáng kể.
3.3.2.Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nƣớc ta trong điều kiện trƣớc khi
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
Để nhận thức toàn diện và đầy đủ về những ảnh hưởng của việc xây dựng
nhà nước pháp quyền đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, trước hết, cần tìm
hiểu một cách khái quát mối quan hệ này ở nước ta trong điều kiện chưa xây dựng
nhà nước pháp quyền.
Chế độ phong kiến ở nước ta kéo dài hàng nghìn năm, trong suốt chiều dài
của lịch sử, tuy có lúc nặng về pháp luật, có lúc nặng về đạo đức đức [94, tr.127],
nhưng nhìn một cách khái quát, có thể khẳng định rằng, các triều đại phong kiến
kiến Việt Nam đã vận dụng một cách kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong quản
lý xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Tất nhiên đó là nền đạo đức nho giáo
và hệ thống pháp luật phục vụ lợi ích cho thiểu số là giai cấp địa chủ phong kiến.
Trong điều kiện đó, pháp luật trói buộc con người trong những chuẩn mực khắt khe
của Nho giáo. Có thể nói, sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật nước ta
thời kỳ này diễn ra song song với sự truyền bá Nho giáo trong đời sống, bởi vì
người xây dựng pháp luật chính là các nhà nho, công lao hình thành nên các bộ luật
thuộc về các nhà nho [127, tr.243]. Sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức được thể
hiện cả trên bình diện tư tưởng, nhận thức, cả trong nội dung các qui định pháp luật
cũng như trong thực tiễn thực thi pháp luật.
Trong xã hội Việt Nam thời kỳ này, về mặt nhận thức và hoạt động thực tiễn,
bề ngoài thì phê phán đường lối pháp trị nhưng bên trong lại coi trọng hình pháp
[127, tr.242]. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức thời kỳ này là “nội nho, ngoại
pháp” cái vỏ bề ngoài là các qui định pháp luật, nhưng nội dung lại chính là các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức. Pháp luật chính là công cụ để truyền bá và củng cố
các chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Pháp luật ghi nhận, củng cố và bảo vệ các chuẩn
mực đạo đức, biến chúng thành thói quen xử sự trong cuộc sống hàng ngày. Chính
vì vậy, các chuẩn mực đạo đức đã được hóa thân vào các qui định trong pháp luật,
ngược lại, các qui định pháp luật thẩm thấu sâu sắc các quan điểm đạo đức. Đặc
100
biệt, trong pháp luật của triều đại Lê sơ, “các qui phạm đạo đức được thể hiện
trong tất cả các chương, điều của Bộ luật Hồng Đức, hoặc là trực tiếp, hoặc là gián
tiếp” [94, tr.132]. Đạo dụ năm 1662 của vua Lê Huyền Tông qui định, làm người
phải lấy tam cương, ngũ thường làm đường lối mà theo. Trên tinh thần đó, pháp luật
qui định khá đầy đủ và chi tiết nghĩa vụ, bổn phận về mặt đạo đức của các thành
viên trong xã hội. Quan lại được coi như cha mẹ dân (quan phụ mẫu), bởi vậy họ
luôn có trách nhiệm, bổn phận giáo hóa dân, răn dạy đạo đức cho dân trong mọi
điều kiện có thể, đặc biệt trong khi áp dụng pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật.
Pháp luật điều chỉnh cả những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo
đức. Bộ luật Hồng Đức, Bộ Hoàng Việt luật lệ đều có các qui định điều chỉnh việc
đính hôn, hôn nhân chỉ có giá trị về pháp lý khi có sự đính hôn bằng văn bản hoặc
trao nhận đồ sính lễ, nếu hứa hôn rồi mà đổi ý thì bị pháp luật trừng phạt…
Pháp luật trong thời kỳ phong kiến, “dù được xây dựng bởi hệ tư tưởng nào
cũng đều mang tính chất tàn khốc” [127, tr.249], xa rời những giá trị đạo đức cơ
bản của con người. Tuy nhiên, với ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, tính chất đó
phần nào được giảm bớt. Thời kỳ đầu của nền quân chủ Việt Nam, do ảnh hưởng
của đạo đức Phật giáo, pháp luật thời kỳ này thấm nhuần tính nhân đạo của đạo
Phật: “cách xử lý các vấn đề pháp lý của chính quyền thể hiện rõ sự từ tâm, nhân
đạo của Phật giáo” [104, tr.161]. Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi rõ:
Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật
pháp trong nước, luật nặng, cốt làm cho khắc nghiệt thêm, thậm chí nhiều
người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định
luật lệnh, châm chước cho thích ứng với thời thế, chia ra môn loại, biến
thành điều khoản, làm thành sách hình thư của một triều đại để cho người
xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện [9,
tr.271,272].
Tuy nhiên, về sau từ thời Trần trở đi, hình phạt trong pháp luật trở nên nặng
nề, cách thức thi hành hình phạt dã man, gây đau đớn về thể xác cho người bị áp
dụng, gây hoảng loạn tinh thần của những người khác. “Hình của nhà Trần thì lỗi ở
nghiêm khắc, nhẹ nặng không đúng mức” [8, tr.287], bởi vậy, đã có nhà nghiên cứu
tỏ ra nghi ngờ: “có lẽ nhà Trần đã vận dụng tư tưởng của phái Pháp gia vào việc
sửa định hình luật” [105, tr.114]. Đến thời Lê, pháp luật cũng rất nghiêm khắc,
cách thức thi hành hình phạt rất dã man. Theo qui định trong bộ Lê triều hình luật,
trượng là một loại công cụ để thi hành hình phạt được làm bằng cây song lớn,
không róc bỏ mấu mắt [62, tr.24]. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, pháp luật thời
101
Nguyễn khắc nghiệt hơn so với pháp luật nhà Lê vì Nho giáo thời kỳ này mang tính
chất khắc nghiệt hơn, Nho giáo thời kỳ này kết hợp chặt chẽ giữa thế quyền với
thần quyền [127, tr.246], như vậy nó xa rời các tư tưởng đạo đức Nho giáo hơn.
Nhiều trường hợp, pháp luật còn mở rộng diện bị trừng trị, qui định chế độ trách
nhiệm tập thể… Tất cả những biện pháp đó đều nhằm bảo vệ tuyệt đối các chuẩn
mực đạo đức Nho giáo: “Để cho các điều giáo lý ấy của đạo Khổng được mọi người
tuân thủ triệt để, nhà làm luật phong kiến đã dùng đến những hình phạt rất nặng,
hay nói cách khác, nếu lễ là mục đích thì hình là biện pháp bảo vệ, hành vi nào xâm
phạm đến lễ đều bị hình trừng phạt” [112, tr.357]. Chính vì vậy, hầu hết các văn
bản pháp luật của nhà nước phong kiến Việt Nam đều là những bộ luật hình sự,
Quốc triều hình luật thời Trần, Lê triều hình luật, Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ thời Nguyễn... Ngay cả dưới thời Lý, như đã đề cập đó là hệ thống pháp luật nhân
từ, nhưng về hình thức, văn bản pháp luật thời kỳ này cũng là một bộ luật hình với
tên gọi Hình thư. Tuy nhiên, công bằng mà nói, việc qui định hệ thống hình phạt
nặng nề, cách thi hành hình phạt dã man của pháp luật phong kiến cũng có mặt tích
cực của nó. Trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, những biện pháp mạnh này đã phát
huy tốt vai trò của pháp luật trong việc truyền bá, giữ gìn và phát huy các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức Nho giáo.
Như vậy, có thể kết luận, trong chế độ phong kiến, pháp luật và đạo đức có
quan hệ hết sức chặt chẽ. Đạo đức Nho giáo là cơ sở của pháp luật, nó chỉ đạo nội
dung của pháp luật, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng như việc bảo vệ
pháp luật. Ngược lại, nhờ có pháp luật và bằng pháp luật mà các quan niệm, chuẩn
mực đạo đức Nho giáo được truyền bá một cách phổ biến, rộng khắp và thâm nhập
một cách sâu sắc trong đời sống xã hội, tạo nên truyền thống coi trọng đạo lý, thói
quen xử sự theo đạo lý trong xã hội Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập nên chế độ dân
chủ cộng hòa, làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật, đạo
đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, chính quyền non trẻ vừa ra đời
đã phải đương đầu với những cuộc chiến tranh thần thánh, vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc. Trong điều kiện đó, quan hệ giữa pháp luật và đạo đức có những nét đặc
thù.
Sau cách mạng, nhiều chuẩn mực đạo đức cũ của Nho giáo còn còn tồn tại và
ảnh hưởng khá mạnh trong đời sống. Trong điều kiện đó, Hồ Chủ tịch và nhà nước
kiểu mới đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng nền đạo đức mới. Dựa
trên các chuẩn mực đạo đức cũ, Người cải biến nó, bổ sung thêm và nâng nó lên
102
tầm cao mới. Chẳng hạn, từ những quan niệm “cần, kiệm, liêm, chính”, “lo trước,
vui sau”…, Hồ Chí Minh cải biến và bổ sung thêm: “chí công, vô tư”, “làm đầy tớ
của nhân dân lao động” [75, tr.468]….“Hồ Chí Minh đã truyền vào những chuẩn
mực đạo đức trong luân lý Nho giáo nội dung mới, phản ánh cái bản sắc dân tộc
của đạo đức truyền thống Việt Nam, có kết hợp với bản chất khoa học và cách
mạng của các nguyên tắc đạo đức hiện đại” [127, tr.203]. Hồ Chủ tịch nói:
Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói
như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong
kiến ngày xưa nêu ra cần kiệm liêm chính, nhưng không bao giờ làm mà lại
bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta
đề ra cần kiệm liêm chính cho cán bộ thực hiện là làm gương cho nhân dân
theo để lợi cho nước, cho dân [70, tr.41].
Người khẳng định,đạo đức cách mạng không phải đạo đức thủ cựu, “nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại vì nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi
ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [70, tr.35] .
Cho đến trước tháng 4 năm 1975, “mặc dù chưa thật đầy đủ về nội dung và
còn có những thiếu sót về hình thức văn bản và thẩm quyền ban hành, pháp luật
thời kỳ này đã có tính bao quát, hầu như lĩnh vực nào cũng có” [72, tr.219]. Hoạt
động xây dựng pháp luật bị chi phối mạnh mẽ bởi những quan niệm, quan điểm đạo
đức mới. Với quan điểm “đạo đức là gốc của pháp lý”, hệ thống pháp luật của nhà
nước ta thời kỳ này được xây dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng, nhằm phục vụ
lợi ích mọi mặt cho nhân dân lao động. Đó là một hệ thống pháp luật khác hẳn về
chất so với pháp luật cũ: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo
vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” [71, tr.187]. Pháp luật mới
đã giải phóng con người khỏi áp bức bất công, đem lại tự do cho con người, đưa
con người từ thân phận nô lệ lên địa vị chủ nhân của xã hội. Nhà nước cũng như
pháp luật kiểu mới là công cụ của nhân dân, để phục vụ lợi ích cho nhân dân: “Các
cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa
là để gánh vác việc chung cho dân” [70, tr.17,18]. Như vậy, hệ thống pháp luật mới
đã tiệm tiến đến những giá trị nhân đạo cao cả của đạo đức mới: giải phóng con
người, phục vụ con người. Chính vì vậy, hệ thống hình phạt nặng nề cũng như cách
thức thi hành hình phạt dã man, vô nhân đạo của pháp luật phong kiến đã hoàn toàn
bị thủ tiêu trong hệ thống pháp luật của chế độ mới.
103
Việc ghi nhận những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ được tiến hành song
song với việc loại bỏ quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu. Bằng việc ban hành hàng loạt văn
bản qui phạm pháp luật mới, nhất là các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước, quyền,
nghĩa vụ của cán bộ, công chức, hôn nhân và gia đình…, pháp luật một mặt ghi nhận
những chuẩn mực đạo đức mới, mặt khác xóa bỏ những quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu,
không còn phù hợp với điều kiện mới như trọng nam khinh nữ, đa thê, gia trưởng, coi
thường lớp trẻ, cá nhân chủ nghĩa… Tuy nhiên nhìn chung, vai trò của pháp luật
trên bình diện này còn nhiều hạn chế bởi điều kiện chiến tranh, bởi kinh nghiệm xây
dựng pháp luật còn thiếu, nhận thức về vai trò của pháp luật cũng như đạo đức còn
hạn chế….
Trong thời kỳ này, đạo đức cách mạng đã phát huy vai trò hết sức quan
trọng, hỗ trợ, bổ sung, thay thế cho pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Đặc biệt trong lĩnh vực cán bộ, công chức, công vụ, đạo đức cách mạng gần như
thay thế hoàn toàn cho pháp luật. Công tác giáo dục đạo đức cách mạng trong thời
kỳ này cũng rất được Hồ Chủ tịch và Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm. Theo Hồ
Chủ tịch “xử đúng đã tốt, nhưng không phải xử còn tốt hơn”. Theo Người, vấn đề
quan trọng hàng đầu là giáo dục ý thức đạo đức, ý thức pháp luật để mọi người tự
giác, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thực thi đạo đức. Vì vậy, có thể nói, ý thức
đạo đức cá nhân, đặc biệt của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân lao động đã
có tác động to lớn trong việc thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên, so với chế độ phong kiến, hoạt động giáo
dục đạo đức thời kỳ này bị thu hẹp đáng kể, bởi cán bộ làm công tác này không còn
là “quan phụ mẫu” của dân, họ không “răn dạy” theo hình thức áp đặt mà chỉ là
tuyên truyền, thuyết phục, động viên và nêu gương.
Sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong thời kỳ này cũng bước đầu được
chú trọng. Đối với Hồ Chủ tịch: “Đi đôi với giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban
hành pháp luật” [5, tr.212]. Trả lời chất vấn trước Quốc hội về trường hợp Bộ
trưởng Chu Bá Phượng buôn lậu, Hồ Chủ tịch nói: “Chính phủ đã hết sức làm
gương và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối
lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết” [5, tr.213]. Tuy nhiên, trong hoạt động xây
dựng, tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật, quan điểm trên đây của Hồ Chủ tịch nhìn
chung chưa được vận dụng một cách triệt để. “Đáng tiếc là ngày nay chúng ta
không theo được gương sáng của Bác Hồ. Chưa hết lòng thương yêu dạy bảo cán
bộ. Đến lúc xảy ra trọng tội thì công lý không sáng, pháp luật không nghiêm. Công
104
tác điều tra, xét xử, thụ án… còn nhiều thiếu xót, sai lầm, bất công, trên nhẹ, dưới
nặng…” [5, tr.215].
Ở góc độ khác, một trong những điểm hạn chế rất lớn trong thời kỳ này là
vai trò của cả pháp luật và đạo đức đều chưa được coi trọng một cách thực sự đúng
mức, dẫn đến nhiều trường hợp không dùng pháp luật, cũng không dùng đạo đức
mà dụng mệnh lệnh hành chính để thay thế chúng. “Điều kiện chiến tranh đòi hỏi
sự ứng phó linh hoạt, chủ động, kịp thời; tính quyết đoán của người chỉ huy; kỷ luật
trong chiến đấu… đã dẫn đến việc quản lý xã hội bằng mệnh lệnh, ý chí, nặng về
biện pháp hành chính” [127, tr.255].
Nhìn một cách tổng quát, trong thời kỳ này, mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức ở nước ta nhìn chung có phần lỏng lẻo hơn so với thời kỳ phong kiến, sự
tác động qua lại giữa hai yếu tố có nhiều hạn chế, sự kết hợp hai yếu tố trong điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội nhìn chung còn đơn giản, pháp luật, đạo đức chủ yếu
được sử dụng một cách đơn lẻ, ý thức về sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng
còn nhiều hạn chế. Như vậy, so với thời kỳ phong kiến, thời kỳ này, quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức ở nước ta có nhiều điểm hạn chế hơn. Nguyên nhân của tình
trạng đó là điều kiện đất nước có chiến tranh, kinh nghiệm quản lý xã hội còn thiếu,
sự nhận thức về vị trí, vai trò của từng yếu tố cũng như mối quan hệ giữa chúng
chưa sâu sắc, toàn diện…
Sau giải phóng miền Nam năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội với niềm lạc quan chiến thắng, hệ thống lý luận mang nặng tính
chất giáo điều và một nền kinh tế lạc hậu được vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa,
tập trung, bao cấp. Như nhận định của Đại hội lần thứ 6 của Đảng, trong giai đoạn
này, do ấu trĩ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, chúng ta đã mắc phải một số sai lầm
nhất định. Chính vì vậy, so với giai đoạn trước, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức thời kỳ này có những thay đổi nhất định.
Trong thời kỳ này, nhận thức về vai trò của pháp luật và đạo đức trong quản
lý xã hội còn có nhiều hạn chế, thậm chí mâu thuẫn. Hiến pháp năm 1980 qui định:
“Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa” (Điều 12). Tuy nhiên, văn kiện Đại hội lần thứ 6 của Đảng lại ghi rõ:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không thể chỉ bằng đạo lý”. Trong
câu văn, chữ “chỉ” là một điểm nhấn quyết định. Lời văn của văn kiện Đảng cho
phép chúng ta suy nghĩ rằng, cho đến trước Đại hội lần thứ 6, thực chất nhà nước
chưa quản lý xã hội bằng pháp luật mà là bằng đạo lý. Đến thời điểm đó, Đảng nhận
thức được rằng, quản lý xã hội “không thể chỉ bằng đạo lý” mà còn phải dùng cả
105
pháp luật nữa! Tuy nhiên, thực tế cho thấy, cho đến thời kỳ này vai trò của pháp
luật vẫn chưa được phát huy đúng mức, trong thực tế quản lý xã hội, người ta lấy
các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng để thay thế cho pháp luật.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, vấn đề khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động,
không chỉ người nông dân và các hợp tác xã nông nghiệp mà trên toàn xã hội, người
ta chỉ biết đến Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng năm 1981 và Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 mà hầu như không thấy nhắc đến các qui định
của pháp luật về vấn đề này.
Trong thời kỳ này, pháp luật được nhận thức theo cả hai khuynh hướng rất
mâu thuẫn nhau. Khuynh hướng thứ nhất là tôn trọng, đề cao pháp luật, coi pháp
luật như công cụ vạn năng có thể xác lập hay loại bỏ một hình thức sở hữu nào đó
một cách duy ý chí. Hiến pháp năm 1980 qui định nền kinh tế quốc dân chủ yếu có
hai thành phần là quốc doanh và tập thể tương tứng với hai hình thức sở hữu là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể của nhân dân lao động, học tập, chữa bệnh không
phải trả tiền, quyền có nhà ở… Khuynh hướng thứ hai hoàn toàn trái ngược lại. Như
trên đã chỉ rõ, do còn bị ảnh hưởng bởi tư duy thời chiến, mặt khác do không đánh
giá đúng vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, vì vậy, trên thực tế, trong nhiều
trường hợp đã dùng mệnh lệnh hành chính như một phương thức quan trọng nhất để
quản lý kinh tế xã hội.
Cũng như đối với pháp luật, vai trò của đạo đức cũng không được nhận thức
một cách đúng đắn. Trong thời kỳ này, các chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa
như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi người, tất cả vì chủ nghĩa xã hội…
được đề cao, thậm chí tinh thần làm chủ tập thể còn được coi là một sáng tạo của
Việt Nam, góp phần bổ sung vào lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi
đó, những giá trị đạo đức truyền thống lại không được coi trọng đúng mức, thậm chí
bị coi là tàn dư của chế độ cũ cần phải bị xóa bỏ. Các nhà lập pháp Việt Nam khi đó
đã không phân biệt các mối quan hệ trong gia đình hay ngoài xã hội, cho dù giữa
các chủ thể có quan hệ vợ chồng hay cha mẹ con cái, trước pháp luật họ đều là
những công dân và mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Theo qui định tại
điều 247 Bộ luật hình sự năm 19851, chẳng những pháp luật không phát huy vai trò
củng cố, bảo vệ các giá trị truyền thống mà ngược lại, nó có một tác động ngược
mạnh mẽ, làm băng hoại các giá trị đó. Tuy nhiên, công bằng mà nói, pháp luật của
nhà nước ta thời kỳ này đã được xây dựng trên các nguyên tắc công bằng, dân chủ,
nhân đạo, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con người… - những nguyên tắc cơ
1Xem điều 247 Bộ luật hình sự năm 1985: Tội không tố giác tội phạm
106
bản nhất của đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhiều qui định trong hệ thống pháp luật của
nhà nươc ta thời kỳ này là sự thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức mới [127, tr.191],
trong khi những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc rất ít được đề
cập.
Vì nhận thức không đầy đủ, không đúng đắn về vị trí, vai trò của cả pháp luật
và đạo đức, không thấy hết được ưu điểm và hạn chế của từng yếu tố nên không
nhận thức được nhu cầu phải có sự kết hợp giữa chúng trong quản lý xã hội. Vì vậy
đã không phát huy được vai trò của đạo đức trong việc hỗ trợ, bổ sung, thay thế cho
pháp luật, đặc biệt trong trường hợp chưa có pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã
hội.
Cho đến trước khi xây dựng nhà nước pháp quyền, trong xã hội vẫn còn thói
quen xử sự theo đạo lý, chưa có thói quen xử sự theo pháp luật. “Lối sống trọng
tình nghĩa, đạo lý, lối ứng xử thiên về tình cảm với tính cách là giá trị truyền thống,
niềm tự hào của dân tộc, góp phần làm ổn định xã hội, tạo nên nét độc đáo của
quan hệ người với người nhưng lại là một trong những nhân tố kìm hãm sự phát
triển của ý thức pháp luật và các quan hệ pháp lý” [48, tr.188]. Cơ chế bao cấp
khiến các quan hệ trao đổi dân sự trong xã hội vắng bóng và tẻ nhạt. Điều đó càng
làm cho con người ít có cơ hội va chạm với pháp luật. Xã hội nông nghiệp với các
quan hệ hàng xóm láng giềng là chủ yếu tất yếu đưa đến cách xử sự trọng tình cảm.
Gặp cái gì không vừa ý, người ta ứng xử theo lối “chín bỏ làm mười”, thông cảm,
chiếu cố cho nhau. Gặp cái gì bất công, họ nhẫn nhịn, “một sự nhịn, chín sự lành”,
chưa có ý thức đấu tranh cho công bằng, bình đẳng, công lý [99, tr.182].
Đất nước đổi mới, cùng với việc xây nền kinh tế thị trường là công cuộc mở
cửa, hợp tác, hội nhập với thế giới. Đời sống xã hội trở nên “ồn ào”, náo nhiệt hơn,
các quan hệ xã hội phong phú, đa dạng và phức tạp hơn. Lối sống thực dụng từ bên
ngoài ùa vào. Do mải chạy theo đồng tiền, do nhận thức không đúng về giá trị của
đạo đức truyền thống, do công tác giáo dục đạo đức, lối sống chưa được coi trọng
đúng mức… dẫn đến sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, sống buông thả, vô cảm,
vi phạm pháp luật, đạo đức ngày càng nhiều hơn, phức tạp hơn, tinh vi hơn.
Tóm lại, có thể khẳng định, giai đoạn từ sau năm 1975 đến trước khi Đảng
đề ra đường lối về xây dựng nhà nước pháp quyền là quá trình từng bước tìm tòi,
đổi mới tư duy và hành động nhằm tìm kiếm phương thức hữu hiệu nhất để tổ chức
và quản lý xã hội. Trong thời kỳ này, có thể nói cả pháp luật và đạo đức vẫn chưa
được nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ, chính vì vậy sự tác động hỗ trợ, bổ
sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được. Thậm chí, chính sự đánh giá
107
không đúng vai trò của đạo đức truyền thống là một trong những nguyên nhân cơ
bản làm đạo đức xã hội thoái hóa, xuống cấp. Đến lượt mình, đạo đức xã hội xuống
cấp ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật vì thế
gia tăng.
Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam sẽ trở nên thay đổi trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
3.3.3. Sự tác động của việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền đến quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức ở nƣớc ta
Ở Việt Nam, khái niệm nhà nước pháp quyền được Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Đỗ Mười lần đầu tiên đề cập trong bài phát biểu tại Hội nghị Tư pháp toàn
quốc năm 1989 và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam được đề cập
một cách chính thức lần đầu tiên trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII của Đảng: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý
mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” [18, tr.56]. Vấn đề này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại
hội toàn quốc của Đảng cũng như các kỳ họp của Ban chấp hành trung ương Đảng.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm
2001 đã chính thức qui định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Sự phân tích các biểu hiện của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở
nước ta qua các thời kỳ lịch sử cho thấy, Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
trong điều kiện có một số điểm đặc thù: một là, nhận thức về vị trí, vai trò của pháp
luật và đạo đức trong đời sống xã hội chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc; hai là,Việt
Nam là quốc gia có truyền thống coi trọng đạo lý, chưa có thói quen xử sự theo
pháp luật, chưa hình thành lối sống theo pháp luật; ba là, hệ thống pháp luật nước ta
chưa hoàn thiện, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm; bốn là, đạo đức xã hội bị
xuống cấp, tác động không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật của cá chủ thể trong xã
hội; năm là, vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của
đạo đức chưa ngang tầm đòi hỏi của cuộc sống; sáu là, sự kết hợp giữa pháp luật
với đạo đức trong quản lý xã hội chưa được chú trọng đúng mức... Trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền, có hai vấn đề lớn, ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ
đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đó là việc đề cao vai trò của pháp luật
108
trong đời sống xã hội và bảo đảm, bảo vệ các quyền, các giá trị con người. Sự tác
động, ảnh hưởng đó được biểu hiện cụ thể như sau:
Trước hết, việc xây dựng nhà nước pháp quyền có tác động mạnh mẽ tới
nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức trong đời sống. Xây dựng nhà
nước pháp quyền là xây dựng cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật, điều này ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhận thức của nhà nước cũng như toàn xã hội về vị trí, vai trò
của pháp luật trong đời sống. Trong thời kỳ trước đây, mặc dù trên thực tế nhà nước
vẫn dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội, tuy nhiên như đã đề cập, nhà nước
vẫn chưa thực sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò đặc biệt quan trọng của nó.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ làm cho việc nhận thức về vị trí, vai trò của
cả pháp luật và đạo đức đều trở nên đúng đắn hơn. Pháp luật phải được quan niệm
là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, quản lý xã hội phải bằng pháp luật
chứ không thể “bằng đạo lý” hay “chỉ bằng đạo lý” như trước đây. Trước đây, hoặc
do quá đề cao pháp luật, không nhận thức được những hạn chế nhất định của pháp
luật cũng như không nhận thức được ưu thế vốn có của đạo đức dẫn đến sử dụng
pháp luật một cách độc lập, riêng rẽ trong quản lý xã hội. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền làm chúng ta nhận thức được rằng quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng
phải được thực hiện trong sự kết hợp một cách chặt chẽ với đạo đức.
Thứ hai, việc xây dựng nhà nước pháp quyền làm cho pháp luật và đạo đức
trở nên thống nhất với nhau một cách toàn diện hơn. Trong nhà nước pháp quyền,
“quyền lực nhà nước nảy sinh từ đạo đức, lý trí tối thượng, nhà nước là hiện thân
của đạo đức” [35, tr.38]. Xây dựng nhà nước pháp quyền là dân chủ hóa mọi mặt
của đời sống xã hội, làm cho người dân trở thành chủ nhân thực sự của xã hội, tham
gia vào các hoạt động của nhà nước, quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của
đất nước… Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền đồng nghĩa với việc xây dựng
một hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánh đúng đắn và đầy đủ ý chí, nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân. Ở khía cạnh khác, xây dựng nhà nước pháp quyền là
xây dựng cơ chế pháp lý để hạn chế và kiểm soát quyền lực nhà nước, ngăn ngừa
tình trạng lạm quyền, chuyên quyền độc đoán, thiếu trách nhiệm…, nói cách khác,
xây dựng nhà nước pháp quyền là dùng pháp luật để tổ chức, giới hạn và kiểm soát
quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ con người, bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do dân
chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người. Xây dựng nhà nước pháp quyền là
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đó không chỉ là hệ thống pháp luật dân
chủ, nhân đạo, phản ánh đầy đủ ý chí, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp
với thực tế cuộc sống, hệ thống pháp luật đó còn phải phù hợp với bản sắc văn hóa,
109
đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tất cả những yếu tố đó làm pháp luật càng
trở nên gần gũi với đạo đức, thống nhất một cách toàn diện với đạo đức. Cả pháp
luật và đạo đức đều vì con người, nhằm phục vụ con người, bảo đảm và bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của con người.
Thứ ba, xây dựng nhà nước pháp quyền làm cho pháp luật và đạo đức trở
nên gắn bó chặt chẽ hơn, tác động đến nhau mạnh mẽ hơn. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền làm cho đạo đức có ảnh hưởng mạnh hơn đến việc xây dựng, tổ chức
thực hiện, bảo vệ pháp luật của nhà nước cũng như việc thực hiện pháp luật của các
thành viên trong xã hội. Trong giai đoạn trước đây, vai trò của đạo đức truyền thống
đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước ta còn nhiều
hạn chế. Đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả
nước, do mắc phải những sai lầm nhất định, vai trò của đạo đức cách mạng cũng
như đạo đức truyền thống càng bị hạn chế thậm chí bị thoái hóa, xuống cấp. Việc
xây dựng nhà nước pháp quyền làm cho vai trò của không chỉ đạo đức cách mạng
mà cả những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc đều được nâng cao.
Nó có tác động mạnh mẽ, chi phối tư duy và hành động của các cơ quan nhà nước
trong quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời nó cũng chi phối mạnh mẽ
đến nhận thức và quá trình thực hiện pháp luật của mọi thành viên trong xã hội.
Mặt khác, việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng làm cho pháp luật tác
động mạnh mẽ hơn đến nền đạo đức xã hội. Trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong việc gìn giữ, phát huy các
chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, loại trừ các quan niệm đạo đức lạc hậu, ngăn ngừa sự
thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Như đã đề cập, trong nhà nước pháp quyền, mọi
cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tôn trọng pháp luật, thực hiện pháp luật
nghiêm chỉnh. Để đạt dược điều đó đòi hỏi phải hết sức coi trọng đạo đức bởi đạo
đức có vai trò rất lớn đối với việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Pháp luật chỉ
có thể được thực hiện nghiêm chỉnh khi nó phù hợp với đạo đức, thể chế hóa các
quan điểm quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Ý thức đạo đức cá nhân luôn
luôn là nhân tố hết sức quan trọng thúc đẩy việc thực hiện pháp luật. Pháp luật chỉ
có thể được thực hiện nghiêm chỉnh khi mỗi cá nhân trong xã hội đều là những
người có ý thức đạo đức tốt, mỗi người đều tự ý thức được một cách sâu sắc vai trò,
bổn phận, trách nhiệm của mình trong đời sống cộng đồng. Bởi vậy, việc xây dựng
nhà nước pháp quyền làm cho đạo đức xã hội được coi trọng và phát huy vai trò
tích cực của nó. Bằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền, các quan niệm, quan
điểm đạo đức xã hội, đặc biệt là các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được
110
giữ gìn, bảo lưu và phát huy vai trò tích cực của nó trong điều kiện mới, góp phần
quan trọng trong việc xây dựng một xã hội mới văn minh nhưng luôn giữ vững
truyền thống, tạo lập nền tảng văn hóa tinh thần vững chắc cho công cuộc hợp tác,
hội nhập quốc tế. Đồng thời, việc xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ làm cho tình
trạng thoái hóa, xuống cấp của đạo đức bị ngăn chặn, bị đẩy lùi. Chỉ khi ngăn chặn
có hiệu quả sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức thì pháp luật mới được coi trọng
và thực hiện nghiêm chỉnh, bởi một trong những nguyên nhân của hiện tượng vi
phạm pháp luật là sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Như vậy, trong công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền, để pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh thì không thể bỏ qua yếu tố đạo đức. Do vậy, cùng với việc giáo dục ý thức
pháp luật, phải hết sức coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức. Giáo dục pháp luật
phải được thực hiện trong sự kết hợp, lồng ghép với giáo dục đạo đức. Do vậy cũng
có thể nói, nhờ có việc xây dựng nhà nước pháp quyền mà việc giáo dục pháp luật,
giáo dục đạo đức đều được coi trọng, tăng cường và được thực hiện trong sự kết
hợp chặt chẽ với nhau.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là xây dựng lối sống theo pháp luật, thói
quen xử sự theo pháp luật. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến thói quen xử sự theo
đạo lý ở nước ta. Như đã đề cập, Việt Nam là quốc gia có truyền thống coi trọng
đạo lý, người dân đề cao đạo lý trong các ứng xử của mình. Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền có tác động mạnh mẽ đến cách xử sự, lối sống của các thành viên
trong xã hội. Người dân Việt Nam từ chỗ quen xử sự theo đạo lý, theo truyền thống,
dần dần sẽ xây dựng được lối sống, thói quen xử sự theo pháp luật. Tất nhiên, để
xây dựng lối sống theo pháp luật, không khi nào có thể bỏ qua sự phù hợp giữa
pháp luật với đạo đức cũng như vai trò thúc đẩy việc thực hiện pháp luật của ý thức
đạo đức cá nhân. Như vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền làm thay đổi vị trí,
vai trò của đạo đức cả trong tư duy cũng như trong ứng xử hàng ngày của mỗi
người.Từ chỗ trong xã hội vẫn còn thói quen xử sự theo đạo lý, thói quen này sẽ bị
thay đổi, lối sống theo pháp luật, thói quen xử sự theo pháp luật sẽ được từng bước
hình thành.
Ở khía cạnh khác, việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng tạo ra tiền đề
ngăn ngừa có hiệu quả tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội, qua đó góp phần
giữ gìn, nâng cao phẩm chất đạo đức cá nhân. Một mặt hiện tượng vi phạm pháp
luật được giảm thiểu do ý thức pháp luật của các thành viên trong xã hội được nâng
cao, mặt khác, do cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát và giám sát lẫn nhau giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như sự độc lập của tòa án, nên có
111
thể nói, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, các vi phạm pháp luật đều được phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, bất kể người vi phạm là ai, giữ cương gì trong
bộ máy của Đảng, Nhà nước.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền hoàn toàn không phải là làm cho
đạo đức trở nên mất ý nghĩa trong cuộc sống, trái lại nó làm cho một mặt pháp luật
được coi trọng đúng mức, trở thành công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội,
nhưng mặt khác, làm cho pháp luật càng trở nên gần hơn với đạo đức. Điều đó đồng
nghĩa với việc làm cho pháp luật và đạo đức trở nên gắn bó một cách chặt chẽ hơn,
hỗ trợ, thúc đẩy nhau một cách mạnh mẽ hơn.
3.4. Những đặc điểm cơ bản của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong
điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam
Như trên đã đề cập, trong các không gian, thời gian khác nhau, mối quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức có biểu hiện khác nhau. Nói một cách cụ thể, quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong chế độ chuyên quyền khác với trong chế độ pháp
quyền; ở quốc gia này khác ở quốc gia khác; trong giai đoạn này khác trong giai
đoạn khác... Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay,
quan hệ giữa pháp luật với đạo đức có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, pháp luật được coi trọng nhưng đạo đức không bị coi nhẹ
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò tối
thượng, pháp luật luôn được xác định là công cụ hàng đầu, công cụ quan trọng nhất
để quản lý xã hội, pháp luật luôn “ngự trị trong các mối quan hệ xã hội” [89, tr.5].
Đạo đức hay bất kỳ công cụ nào khác không thể hoán đổi vị trí của pháp luật, càng
không thể thay thế cho pháp luật, bởi vì, so với chúng, pháp luật luôn là công cụ có
hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật không
thể được coi là công cụ duy nhất, bên cạnh pháp luật, đạo đức vẫn cần phải được
hết sức chú trọng. “Có quan điểm cho rằng, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật
là tối thượng, đạo đức tụt xuống hàng thứ yếu, hay có chăng cũng chỉ như là một sự
bổ sung cho pháp luật do vì thiếu pháp luật mà thôi” [96, tr.3]. Phải khẳng định
ngay rằng, quan điểm đó hoàn toàn không thuyết phục bởi lẽ, nhà nước pháp quyền
dù hiểu theo ý nghĩa nào cũng luôn “hàm chứa yếu tố đạo đức cả về phương diện tổ
chức, hoạt động của nhà nước, của từng con người nhà nước, cả về phương diện
pháp luật và xã hội dân sự” [96, tr.3]. Trong nhà nước pháp quyền, “quyền lực nhà
nước nảy sinh từ đạo đức, lý trí tối thượng, nhà nước là hiện thân của đạo đức”
[35, tr.38]. Sự phân tích ở các chương trên đã chỉ rõ rằng, đạo đức không chỉ là nền
112
tảng của pháp luật, mà còn là“môi trường cảm nhận và thực hiện pháp luật” [94,
tr.343].Con người là một thực thể có ý chí, lý trí, tình cảm, cho nên, bên cạnh pháp
luật luôn phải có đạo đức và các chuẩn mực khác. “Nếu nhất cử nhất động của con
người đều phải tiến hành theo pháp luật thì con người biến thành cái máy” [47,
tr.91]. Mặt khác, “không phải mọi trường hợp, và nói chung pháp luật đều là vắc-
xin đặc trị những căn bệnh nan y của xã hội hiện đại” [89, tr.8]. Bởi vậy, trong
quản lý xã hội, cần có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp luật với đạo đức. Sự
kết hợp giữa pháp luật với đạo đức được thể hiện trên nhiều phương diện, một là,
pháp luật phải hàm chứa trong nó giá trị đạo đức, ngược lại đạo đức phải được hóa
thân vào trong pháp luật, phải được thẩm thấu vào đời sống pháp luật, từ các qui
định của pháp luật, đến quá trình thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật; hai là, cần
phải xác định rõ đối tượng điều chỉnh của từng yếu tố để sử dụng từng yếu tố một
cách phù hợp; ba là, trong trường hợp một quan hệ xã hội được cả pháp luật và đạo
đức cùng điều chỉnh thì giữa chúng phải hoàn toàn thống nhất với nhau; bốn là, có
sự kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp cưỡng chế của pháp luật với sự tác động bởi dư
luận xã hội của đạo đức; giữa trừng phạt với giáo dục cải tạo.
Trong chế độ xã hội cũ, đạo đức được đặt ra để dành cho vua, quan lại và
giai cấp thống trị, pháp luật được đặt ra dành cho dân chúng, như ngạn ngữ phản
ánh: “quan thì xử theo lễ, dân thì xử theo luật”; “lễ nghi không tới thứ dân, hình
phạt không tới trượng phu”. Trái lại, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, đạo đức
và pháp luật đều có ý nghĩa như nhau đối với tất cả mọi thành viên trong toàn xã
hội, không có bất cứ một ngoại lệ nào, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào.
Hai là, giữa pháp luật và đạo đức luôn có sự thống nhất một cách cơ bản,
sâu sắc và toàn diện
Trong các điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau, sự thống nhất giữa pháp luật
với đạo đức xã hội có biểu hiện khác nhau. Trong các xã hội trước đây, pháp luật
chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của một thiểu số trong xã hội, được xây dựng
trên nền tảng đạo đức của giai cấp thống trị, vì vậy, có nhiều nội dung không phù
hợp với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động, bộ phận quảng
đại của xã hội. Trong điều kiện nhà nước cực quyền, chế độ phản dân chủ, sự thống
nhất giữa pháp luật với đạo đức xã hội có thể nói là rất hạn chế. Trong chế độ đó,
nhà nước một ý chí, nhân dân một ý chí, nó không những trái ngược nhau mà còn
phủ định nhau một cách gay gắt.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền luôn thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích
của nhân dân, bảo đảm, bảo vệ quyền, phẩm giá con người. “Pháp luật trong nhà
113
nước pháp quyền phải đáp ứng những yêu cầu - những “chất lượng” nhất định:
tính khách quan, hợp lý, công bằng, nhân đạo, dân chủ” [89, tr.6]. Khi đó, giữa
pháp luật và đạo đức xã hội có sự thống nhất một cách toàn diện, sâu sắc, cả về bề
rộng, cả về chiều sâu, từ tư tưởng, quan điểm, nhận thức đến hành động thực
tiễn.“Pháp luật trong nhà nước pháp quyền chính là pháp luật phù hợp nhất với
đạo đức” [94, tr.442], bởi vì, như đã đề cập, đạo đức hướng hành vi con người đến
chân, thiện, mỹ, nhân đạo, công bằng, bình đẳng, giải phóng con người, bảo đảm,
bảo vệ các giá trị con người. “Vấn đề đạo đức và pháp luật cũng không ngoài việc
chăm lo đến những lợi ích chính đáng của mỗi người mà họ đáng được hưởng” [14,
tr.103]. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền không đơn thuần là công cụ quản lý
của nhà nước, nó còn phải được xác định là công cụ của con người, bảo vệ con
người; công cụ của xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người
trong cuộc sống nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật tự của đời sống chung. Nói cách
khác, nhà nước không còn được coi pháp luật là của riêng mình mà cần phải coi
pháp luật là của chung xã hội, một loại qui tắc sinh hoạt công cộng tương tự như
đạo đức, phong tục, tập quán…
Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức không chỉ thể hiện ở đối tượng tác
động mà quan trọng là sự thống nhất về quan điểm, tư tưởng, nội dung và phương
pháp điều chỉnh. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật được xây dựng trên nền
tảng đạo đức của nhân dân, thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân, là công
lý, phù hợp với lẽ phải ở đời, là mẫu số chung của tự do và công bằng. Có thể nói,
quan niệm về quyền, tự do của con người, giá trị con người trong nhà nước pháp
quyền là thống nhất với các quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức xã hội. Cả
pháp luật và đạo đức đều thống nhất ở mục đích vì con người, phục vụ con người,
bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, các giá trị con người, đảm bảo cho cuộc sống
con người mỗi người ngày càng hạnh phúc. Có thể nói, cả pháp luật và đạo đức đều
có vai trò bảo đảm “dân quyền tự do”, “dân sinh hạnh phúc”. Tự do và hạnh phúc
luôn thống nhất với nhau, tự do là tiền đề của hạnh phúc; hạnh phúc là mục tiêu của
tự do. Như Hồ Chủ tịch khẳng định, nếu nhân dân không được hạnh phúc thì độc
lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chính vì vậy, pháp luật phải tạo ra một “hành
lang pháp lý” để người dân tự do hoạt động trong khuôn khổ hành lang đó trên nền
tảng đạo đức xã hội. Nói cách khác, pháp luật phải tạo ra cơ chế người dân được
làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm và không trái đạo đức xã hội. Khi xây
dựng, thực thi pháp luật, nhà nước luôn phải tự hỏi, có phục vụ quyền lợi cho dân
không, có thuận lợi nhất cho họ không, dân chúng liệu có tiếp nhận không…[89,
114
tr.6]. Có thể nói, nhân đạo, vì con người, nhằm phục vụ con người là xu thế phát
triển chung của pháp luật, qui luật phát triển của toàn thể nhân loại.
Trên thực tế, sự thống nhất, phù hợp giữa pháp luật và đạo đức là tác nhân cơ
bản đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh trong đời
sống. Bởi lẽ, như đã trình bày, chỉ khi giữa pháp luật và đạo đức xã hội có sự thống
nhất, đạo đức mới phát huy mạnh mẽ vai trò thúc đẩy thực hiện pháp luật của các
chủ thể trong xã hội.
Ba là, giữa pháp luật và đạo đức có sự phân định rõ về đối tượng điều
chỉnh
Mặc dù có sự thống nhất một cách cơ bản, toàn diện và sâu sắc, tuy nhiên,
giữa pháp luật và đạo đức trong nhà nước pháp quyền vẫn có khoảng cách nhất
định, không thể đồng nhất hoàn toàn hai hiện tượng này. “Giữa đạo đức và pháp
luật có sự thống nhất bao hàm sự khác biệt, không đồng nhất, không thay thế nhau”
[93, tr.43]. “Cho dù xã hội phát triển đến đâu, cũng không thể đạt đến sự xóa nhòa
đường biên, ranh giới giữa đạo đức và pháp luật” [96, tr.6], trừ phi trong điều kiện
của chủ nghĩa cộng sản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong những điều kiện xã hội khác, do nhiều yếu tố, vấn đề ranh giới giữa
pháp luật và đạo đức chưa được giải quyết một cách thấu đáo. Bởi vậy, trên thực tế,
nhiều trường hợp có sự lấn sân giữa pháp luật với đạo đức, nhiều trường hợp khác
pháp luật lại bỏ qua, không điều chỉnh chúng. Trong những trường hợp đó, hiệu quả
điều chỉnh bằng pháp luật có thể rất thấp, không đạt được, thậm chí là phản tác
dụng. Điều này gây ra những hệ lụy to lớn, chẳng những pháp luật không được tôn
trọng và thực hiện nghiêm chỉnh mà các quyền con người, giá trị con người cũng
không được bảo đảm, bảo vệ.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền, cần phải có sự phân định rõ ràng về
đối tượng điều chỉnh của pháp luật và đạo đức. Như trên đã đề cập, cả pháp luật và
đạo đức, bên cạnh những ưu điểm, nó cũng có những hạn chế nhất định. Bởi vậy,
cần xác định rõ đối tượng tác động của từng yếu tố để sử dụng chúng đúng lúc,
đúng chỗ, đúng cách. Đạo đức có thể có mặt trong mọi quan hệ giữa người với
người nhưng do tính chất và cách thức tác động của nó mà nhiều trường hợp không
có hiệu quả. Lương tâm cá nhân và dư luận xã hội có tác dụng to lớn trong điều
chỉnh hành vi con người, nhưng nó sẽ trở nên vô nghĩa đối với kẻ thất đức. “Nói
suông” sẽ không có tác dụng đối với kẻ không có lòng tự trọng, không biết xấu hổ.
Trong những trường hợp đó, nhất thiết phải sử dụng pháp luật, chỉ khi đó, trật tự xã
hội mới được giữ vững, các quyền, tự do của con người mới được bảo đảm, bảo vệ.
115
Ngược lại, sự tác động của pháp luật cũng phải có điểm dừng, pháp luật không nên
và không thể tác động vào mọi quan hệ xã hội. Sự tác động của pháp luật cũng phải
đúng cách, nếu ở đâu, bao giờ, con người làm gì đều phải xin phép thì con người
không thể có tự do.
Vấn đề đặt ra, đối với những quan hệ xã hội nào thì pháp luật không nên,
không thể điều chỉnh? Thiết nghĩ, pháp luật chỉ có thể điều chỉnh được những quan
hệ xã hội mà hành vi của các chủ thể bị chi phối bởi yếu tố lý trí, ý chí con người.
Bởi vậy, đối với những quan hệ xã hội mà hành vi của các chủ thể bị chi phối bởi
yếu tố tình cảm, chẳng hạn quan hệ tình bạn, tình yêu, tình làng, nghĩa xóm… pháp
luật không thể và không nên tác động. Ở Việt Nam trước đây, có thời kỳ nam nữ
yêu đương nhau cần phải được sự đồng ý của tổ chức. Dưới chế độ phong kiến,
quan hệ hôn nhân là do cha mẹ sắp đặt, pháp luật can thiệp cả vào chuyện hứa hôn
của đôi bên gia đình… Bộ luật Hồng Đức, Bộ Hoàng Việt luật lệ đều có các qui
định điều chỉnh việc đính hôn, hôn nhân chỉ có giá trị về pháp lý khi có sự đính hôn
bằng văn bản hoặc trao nhận đồ sính lễ, nếu hứa hôn rồi mà đổi ý thì bị pháp luật
trừng phạt… Rõ ràng sự can thiệp của pháp luật trong trường hợp này làm con
người mất tự do, các quyền của con người bị xâm phạm.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền, thay vì quan niệm “người dân chỉ
được làm những gì mà pháp luật cho phép”, một phương châm ứng xử được thừa
nhận đó là “người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”. Tất nhiên,
luật không cấm nhưng trái đạo đức xã hội thì cũng không được thực hiện. Đương
nhiên, pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho cộng đồng, những hành vi vô hại đối
với cộng đồng thì người dân phải được tùy ý thực hiện. Ở đây một vấn đề khác lại
được đặt ra, hành vi gây hại cho xã hội đến mức độ nào thì cần phải có sự tác động
của pháp luật? Về mặt nguyên tắc, mọi hành vi có hại cho xã hội đều có thể bị tác
động bởi pháp luật, tuy nhiên, có lẽ pháp luật không cần và không nên tác động đến
những hành vi gây hại nhỏ nhặt, không đáng kể. Người ta không cần xử lý bằng
pháp luật đối với hành vi trộm cắp mớ rau, nải chuối [81, tr.41], những trường hợp
đó, có lẽ chỉ cần sự tác động bằng đạo đức là đủ. Tất nhiên, nếu dư luận xã hội đã
lên án mà không có hiệu quả thì tất nhiên, pháp luật phải tác động. Do đó, không
nên tuyệt đối hóa hành vi gây hại đến mức độ nào thì cần có sự tác động của pháp
luật. Một công thức chung có thể được áp dụng, đó là trong mọi trường hợp, một
khi đạo lý không có hiệu quả thì pháp lý phải ra tay.
Một vấn đề khác đặt ra, ở độ tuổi nào thì hành vi con người chịu sự tác động
bởi đạo đức, còn đến độ tuổi nào thì hành vi của họ chịu sự tác động của pháp luật?
116
Khá nhiều người cho rằng, chỉ khi đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý, hành vi chủ thể
mới là đối tượng tác động của pháp luật, dưới độ tuổi đó, hành vi chỉ chịu sự tác
động của đạo đức. Có thể thấy rằng, quan điểm trên có nhiều điểm chưa thuyết
phục. Thứ nhất, pháp luật tác động đến hành vi của con người bằng các biện pháp
khác nhau, cưỡng chế tuyệt nhiên không phải là biện pháp duy nhất. Bởi vậy, trong
trường hợp chủ thể chưa đủ tuổi gánh chịu trách nhiệm pháp lý, pháp luật có thể tác
động đến họ bằng biện pháp giáo dục, thuyết phục, biện pháp hành chính, kinh tế…
Thứ hai, giả sử luận điểm trên đây là đúng thì tuổi chịu trách nhiệm pháp lý là bao
nhiêu? Nhiều người do quá nhấn mạnh đến vi phạm hình sự, hành chính, dân sự mà
ít chú ý đến vi phạm kỷ luật nhà nước, chẳng hạn, vi phạm của học sinh trong các
trường học. Đối với những vi phạm này, tuổi gánh chịu trách nhiệm pháp lý là
tương đối thấp mà không nhất thiết phải mười bốn, mười sáu hay mười tám tuổi.
Mười tuổi vi phạm kỷ luật học đường, đương nhiên bị xử lý kỷ luật; học sinh trong
các trường học vi phạm trật tự giao thông hoàn toàn có thể bị xử lý bằng kỷ luật nhà
trường. Nói cách khác, hành vi của lứa tuổi học sinh đã hoàn toàn có thể chịu sự tác
động của pháp luật. Do vậy, như đã đề cập ở chương 2, khi em bé biết nhận thức là
hành vi của nó đã được điều chỉnh bằng đạo đức, lớn dần lên, tham gia vào các hoạt
động xã hội, tùy hành vi cụ thể, nhận thức đến đâu pháp luật tác động đến đó.
Bốn là, luôn kết hợp chặt chẽ giữa cưỡng chế nhà nước với dư luận xã
hội; giữa trừng phạt với giáo dục cải tạo trong việc xử lý vi phạm pháp luật
Trong chế độ nhà nước cai trị, độc tài chuyên chế, có thể nói không có sự kết
hợp này, ở đó, hầu như không có giáo dục thuyết phục mà chỉ có cưỡng chế. Như
đã đề cập trong phần trên, trong pháp luật phong kiến Việt Nam, biện pháp cưỡng
chế được coi trọng đến mức gần như trở thành biện pháp duy nhất, nhà nước luôn
sử dụng hình phạt để tác động vào các mối quan hệ xã hội. Trên thực tế, các qui
phạm pháp luật do nhà nước phong kiến Việt Nam ban hành đều được cấu tạo dưới
dạng một qui phạm pháp luật hình sự, với hình phạt dành cho các hành vi tương
ứng. Nhìn chung, pháp luật đều qui định các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất
nghiêm khắc, đặc biệt cách thức thi hành các biện pháp cưỡng chế thì hết sức dã
man, gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho con người. Bộ Hoàng Việt luật lệ của
nhà nước phong kiến Việt Nam qui định các hình thức thi hành án tử hình là: lăng
trì (cắt xẻo, róc thịt phạm nhân), trảm khiêu (chém bêu đầu), lục thi (giết chết rồi
băm nhỏ xác)… Bộ Luật Hồng Đức được coi là một văn bản chứa đựng nhiều tư
tưởng pháp lý tiến bộ, nhưng với tên gọi là một bộ hình luật cho nên ngay phần mở
đầu của bộ luật đã qui định về các công cụ để thi hành hình phạt (hình cụ), trong đó
117
có qui định “trượng”:“đầu lớn năm phân, đầu nhỏ hai phân năm ly, dài ba thước
năm tấc, làm bằng cây song lớn không róc bỏ mấu mắt” [62, tr.25]. Đặc biệt,
“trong luật Dracon (Hy Lạp), mọi tội lớn nhỏ đều có qui định mức án tử hình”
[113, tr.109]. Ngày nay, những vấn đề trên đây đã lùi dần vào trong quá khứ. Trong
điều kiện của nhà nước pháp quyền, pháp luật thể hiện sự nhân đạo hết sức cao cả
và sâu sắc, nó nhằm phục vụ con người, bảo đảm, bảo vệ các quyền, các giá trị con
người.
Về mặt nguyên lý, pháp luật không thể sử dụng cách thức của đạo đức để tác
động đến các quan hệ xã hội. Trong trường hợp qui phạm pháp luật qui định cách
xử sự mang tính bắt buộc đối với người dân thì nhất định nó phải có biện pháp chế
tài để bảo đảm. Nói cách khác, để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, vẫn cần thiết phải có cưỡng chế. Tuy nhiên, cưỡng chế không bao giờ được
coi là biện pháp duy nhất, cưỡng chế phải được áp dụng trong sự kết hợp với giáo
dục, thuyết phục, theo quan điểm của Lê - Nin, dưới chủ nghĩa xã hội, chỉ khi
không thuyết phục được mới áp dụng cưỡng chế. “Để thực thi pháp luật có hiệu
quả ở mọi nơi, mọi lúc, cần vận dụng đúng đắn phương pháp thuyết phục và cưỡng
chế” [90, tr.8]. Và ngay cả khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thì trong đó vẫn
bao hàm cả ý nghĩa giáo dục cải tạo. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người lương thiện, giáo dục
người khác tôn trọng pháp luật. Ở góc độ khác, cưỡng chế nhà nước phải được kết
hợp một cách khéo léo với dư luận xã hội. Trong hai biện pháp này, mỗi biện pháp
đều có ưu thế riêng của nó, do vậy, không được tuyệt đối hóa biện pháp nào, tùy
trường hợp mà biện pháp nào có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, dư luận
xã hội luôn có tính hai mặt, nó có thể đúng, cũng có thể sai. Do vậy, không quá đề
cao nhưng cũng không coi thường dư luận xã hội. Một khi dư luận xã hội không có
hiệu quả thì đương nhiên phải cần đến cưỡng chế nhà nước. Đây chính là cơ sở xuất
phát điểm trong việc thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức xã hội thành pháp luật.
Để bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, đồng thời bảo đảm, bảo vệ quyền, tự
do, giá trị con người, biện pháp cưỡng chế nhà nước phải được xác định sao cho thật
phù hợp. Nếu biện pháp này quá nhẹ, sẽ không đủ sức răn đe, ngược lại nếu quá nặng,
nó sẽ có ảnh hưởng đến quyền, tự do, giá trị con người, không phù hợp với xu thế dân
chủ, tiến bộ xã hội.
118
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Pháp luật và đạo đức có sự tác động qua lại lẫn nhau một cách khá mạnh mẽ.
Pháp luật bao giờ cũng phải được xây dựng trên cơ sở của đạo đức, phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức xã hội. Những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng nên các quy định cụ thể
của pháp luật. Chính vì vậy, mỗi một hệ thống pháp luật đều là sự ghi nhận, phản
ánh các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức của xã hội đó. Sự tác động của
đạo đức đến pháp luật không chỉ thể hiện trong hoạt động xây dựng pháp luật mà nó
còn thể hiện trong việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Khi pháp luật phù hợp
với đạo đức xã hội, việc thực hiện pháp luật sẽ không chỉ đơn thuần được đảm bảo
bằng các biện pháp nhà nước mà nó còn được đảm bảo bằng dư luận xã hội, và
quan trọng hơn nó còn được đảm bảo bằng chính lương tâm, tình cảm của chủ thể.
Khi đó, pháp luật sẽ được thực hiện một cách khá nghiêm chỉnh và triệt để. Ngược
lại, nếu pháp luật không phù hợp với đạo đức xã hội thì chẳng những sự tự giác
thực hiện sẽ mất đi mà thay vào đó còn là thái độ tìm cách chống đối, tẩy chay của
xã hội, vì thế pháp luật sẽ rất khó đi vào đời sống. Mặt khác, ý thức đạo đức cá nhân
cũng ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong xã
hội. Có thể nói, pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay không một phần rất
quan trọng là do ý thức đạo đức của các thành viên trong xã hội. Đối với các chủ thể
có phẩm chất đạo đức tốt, họ sẽ nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong mọi trường
hợp, ngay cả trường hợp pháp luật có những “khe hở” thì họ cũng không vì thế mà
có hành vi “lợi dụng” làm điều bất chính. Ngược lại những người có ý thức đạo đức
kém thì thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật cũng không cao, họ sẽ
dễ vi phạm pháp luật, thậm chí còn là những vi phạm nghiêm trọng, mất nhân tính.
Ngược lại, pháp luật có tác động mạnh mẽ đến đạo đức, pháp luật ghi
nhận, thể chế hóa các quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội. Nhờ có pháp luật,
những tư tưởng, quan điểm đạo đức được thể chế hóa sẽ được truyền bá một cách
nhanh chóng và rộng khắp trên toàn xã hội, trở thành những chuẩn mực mang tính
bắt buộc chung đối với tất cả mọi người. Đồng thời, được bảo đảm bằng bộ máy
quyền lực chuyên nghiệp của nhà nước, pháp luật là phương tiện vô cùng có hiệu
quả để giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức của dân tộc, góp phần gìn
giữ các giá trị đạo đức truyền thống không bị mai một và ngày càng được phát huy.
Pháp luật cũng giữ vai trò quan trọng trong việc loại trừ những quan niệm đạo đức
lạc hậu, phản tiến bộ khỏi đời sống cộng đồng. Trong những điều kiện, hoàn cảnh
119
nhất định, pháp luật còn góp phần làm xuất hiện các quan niệm, quan điểm đạo đức
mới.
Tuy nhiên, trong những không gian, thời gian khác nhau, quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức có những biểu hiện khác nhau. Điều đó là do mối quan hệ này luôn
bị ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán,
truyền thống của dân tộc, điều kiện lịch sử, địa lý, yếu tố tín ngưỡng tôn giáo và
nhất là nhận thức của con người.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững của Việt Nam
có nhiều điểm đặc thù. Trong điều kiện đó, pháp luật luôn được coi trọng nhưng đạo
đức cũng không bị xem nhẹ; giữa pháp luật và đạo đức có sự thống nhất với nhau
một cách cao độ. Mặc dù có sự phân định khá rõ ràng đối tượng tác động của pháp
luật và đạo đức nhưng ngược lại, luôn có sự kết hợp một cách chặt chẽ giữa chúng
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
120
Chƣơng 4: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta đã và đang thu được những thành tựu rất quan
trọng, dân chủ trong xã hội ngày càng được mở rộng và mang tính thực chất; hệ
thống pháp luật ngày càng trở nên hoàn thiện; quyền lực nhà nước được tổ chức và
kiểm soát bởi pháp luật; các quyền con người, quyền công dân ngày càng được tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ; pháp luật ngày càng phát huy vai trò to lớn, tích cực trong
việc điều chỉnh hành vi con người, quản lý xã hội… Bên cạnh đó, vị trí, vai trò của
đạo đức cũng được nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn hơn. Trong điều kiện đó,
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức càng trở nên gắn bó mật thiết, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người, bảo đảm, bảo vệ các quyền
con người, quyền công dân, duy trì, bảo vệ trật tự xã hội. Có thể nói, trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, về cơ bản, mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức đã được nhận thức và xử lý đúng đắn. Đạo đức có tác động
mạnh mẽ đến việc hình thành các qui định cụ thể trong hệ thống pháp luật, đồng
thời nó cũng phát huy mạnh mẽ vai trò thúc đẩy việc thực hiện pháp luật của các
chủ thể trong xã hội. Hơn bao giờ hết, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng,
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang phát huy vai trò tích cực của mình
đối với pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động trở lại một cách mạnh
mẽ tới đạo đức. Nhờ có pháp luật, các quan niệm quan điểm, chuẩn mực đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc được củng cố, giữ gìn và phát huy; những quan
niệm đạo đức lạc hậu bị xoá bỏ, sự thoái hoá xuống cấp của đạo đức được từng
bước ngăn chặn… Tuy nhiên, trong mối quan hệ này ở nước ta hiện nay vẫn còn
những hạn chế nhất định, vẫn còn có các qui định của pháp luật chưa phù hợp, cần
phải được xem xét ở khía cạnh đạo đức; tình hình vi phạm pháp luật vẫn hết sức
phức tạp, nhiều hành vi phi nhân tính xuất hiện; sự thoái hóa, xuống cấp của đạo
đức chưa được ngăn chặn, hiện tượng vô cảm xuất hiện ngày càng nhiều… Tình
hình đó đặt ra vấn đề phải đánh giá một cách toàn diện, tổng thể mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức ở nước ta hiện nay, chỉ rõ những điểm tích cực, hạn chế trong
mối quan hệ này, xác định rõ nguyên nhân đưa đến thực trạng đó, để từ đó có cơ sở
đề xuất những giải pháp nhằm xử lý một cách có hiệu quả mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
121
Thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện nay được
phản ánh qua những điểm tích cực và hạn chế chủ yếu sau đây:
4.1. Những điểm tích cực chủ yếu
Thứ nhất, đƣợc xây dựng trên nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa, hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện hành bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo đảm,
bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
Có thể nói, nhìn chung các các qui định trong hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện hành đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm bảo đảm, bảo vệ
quyền, lợi ích của nhân dân. Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm
2001 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp năm 1992) qui định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân" (Điều 2). Tất cả các nhân viên nhà nước đều từ nhân dân
mà ra, bởi vậy, họ quán triệt sâu sắc một triết lý cách mạng "vì nhân dân phục vụ".
Hiến pháp năm 1992 qui định:
Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi
mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân" (Điều 3). "Các cơ quan nhà nước, cán bộ,
viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8).
Luật cán bộ, công chức qui định, cán bộ, công chức là công bộc của nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân.
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành được xây dựng trên cơ sở tôn trọng,
bảo đảm và bảo vệ phẩm giá con người, coi việc phục vụ con người là mục đích cao
nhất của nó. Hiến pháp năm 1992 qui định: "Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và luật"
(Điều 50). Có thể nói, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân ngày càng được ghi nhận một cách đầy đủ. Nhà nước và xã hội tôn
trọng, bảo đảm và có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ các quyền con người, quyền
công dân. Các biện pháp để bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích của công dân
122
được pháp luật qui định khá cụ thể. Tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản... của con người được nhà nước bảo hộ. Pháp luật nghiêm trị mọi hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản... của con người. Pháp
luật cũng qui định trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan và nhân viên nhà nước
trong việc bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích của con người, của công dân.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, lợi ích của nhà nước, của xã
hội hay của cá nhân luôn được bảo đảm một cách hài hoà. Bộ luật hình sự năm
1985 phân biệt hai loại hình sở hữu là sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của
công dân và có các qui định khác nhau trong việc bảo vệ chúng. Bộ luật hình sự
năm 1999 có sự đổi mới rất lớn khi coi sở hữu của cá nhân hay của nhà nước đều
phải được tôn trọng và bảo vệ như nhau.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành phản ánh khá rõ nét tƣ
tƣởng nhân đạo, một tƣ tƣởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta
Nhân đạo là một truyền thống đạo đức vô cùng quí báu của dân tộc Việt
Nam. Nội dung cơ bản trước tiên của tư tưởng nhân đạo đó là sự giải phóng con
người. “Giải phóng con người không chỉ làm cho con người thoát khỏi mọi hình
thức bóc lột, áp bức, bất công về mặt thể xác mà còn là giải phóng con người về
mặt tinh thần, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, mở ra những điều kiện tốt đẹp
cho con người phát triển toàn diện về nhân cách” [40, tr.160]. Pháp luật của nhà
nước ta đã đưa người dân từ thân phận tôi đòi, là những người bần cố nông, không
có ruộng đất, phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến, chịu sự bóc lột nặng nề của
chúng trở thành những người dân tự do, trở thành chủ nhân của đất nước. Pháp luật
đảm bảo cho nhân dân ai cũng có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện.
Hiến pháp năm 1992 qui định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2);
Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện (Điều 31); Nhà
nước đầu tư phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật; tạo điều kiện để nhân
dân thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để
phát triển tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật (Điều 32).
Nhân đạo thể hiện ở tư tưởng vì con người, chăm lo cho con người, phục vụ
và bảo vệ con người. Như trên đã đề cập, hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống
pháp luật dân chủ, nó thể hiện ý chí của nhân dân lao động, nhằm phục vụ lợi ích về
mọi mặt cho nhân dân, đảm bảo cho mọi người đều được chăm sóc, bảo vệ. Để bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của con người, nhà
123
nước ban hành Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống mua bán người, Luật xử lý vi
phạm hành chính (vừa được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc Hội khóa 13), các
Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vực. Có thể nói, với các văn
bản này, hầu hết các hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, tài sản… của con người đều bị pháp luật nghiêm trị. Để bảo
vệ và chăm sóc sức khỏe của con người, Quốc hội ban hành Luật bảo vệ sức khỏe
nhân dân, Luật khám chữa bệnh, Luật an toàn thực phẩm... Luật bảo vệ sức khỏe
nhân dân qui định trách nhiệm của nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã hội
trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân; các biện pháp nhằm bảo vệ sức khỏe nhân
dân… Luật an toàn thực phẩm quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm,
sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi
nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với an toàn thực
phẩm; phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm; thông tin,
giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm; trách nhiệm quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm. Luật khám chữa bệnh quy định quyền và nghĩa vụ của người bệnh,
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện
đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật,
phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám
bệnh, chữa bệnh… Như vậy, có thể nói, các qui định trong Hiến pháp năm 1992
cũng như cả hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện rất rõ ràng, nhất quán
quan điểm vì con người, phục vụ con người, chăm lo và bảo vệ con người.
Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở quan niệm về vai trò, bổn phận, trách
nhiệm đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, những người ở vị
thế yếu cần sự chở che, sự giúp đỡ của mọi người, của cộng đồng. Trong xã hội
Việt Nam hiện nay, những người không có khả năng lao động, không còn khả năng
lao động chiếm một số lượng không nhỏ. Trải qua công cuộc kháng chiến, kiến
quốc, rất nhiều người đã hy sinh tính mạng của mình cho nền độc lập của dân tộc,
rất nhiều người còn mang trên mình đầy thương tật. Nước ta lại ở vào vị trí địa lý
thiên nhiên ưu đãi cũng lắm mà thiên tai cũng nhiều, bởi vậy, hàng năm ở nước ta,
số nạn nhân của thiên tai cũng rất đáng kể… Như vậy, do nhiều nguyên nhân, cả
khách quan và chủ quan, cả từ phía thiên nhiên, cả từ phía xã hội đã khiến cho
không ít người rơi vào hoàn cảnh bất lợi, khó có điều kiện tồn tại, khó có cơ hội
phát triển. Trước những vấn nạn đó, cộng đồng luôn thể hiện tinh thần tương thân,
124
tương ái, đùm bọc, xẻ chia. Thông qua sự giúp đỡ của cộng đồng cả về vật chất và
tinh thần mà những khó khăn, bất hạnh của họ được khắc phục hoặc giảm thiểu.
Đặc biệt, bằng pháp luật, nhà nước qui định trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức
trong xã hội trong việc giúp đỡ đối với người khó khăn, hoạn nạn. Nhà nước ta đã
ban hành khá đầy đủ văn bản qui phạm pháp luật về các chính sách xã hội. Pháp
luật qui định cụ thể trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội đối
với thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ...
(Điều 67 Hiến pháp năm 1992); pháp luật qui định trách nhiệm của nhà nước, cộng
đồng xã hội cũng như mọi cá nhân, tổ chức trong việc ưu đãi, phụng dưỡng, chăm
sóc người có công với dân, với nước (Pháp lệnh ưu đãi người có công). Thông qua
những qui định này, pháp luật nước ta đề cao đạo lý truyền thống của dân tộc “uống
nước nhớ nguồn”; “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như già yếu, tàn tật, trẻ em mồ
côi, những người gặp rủi ro do thiên tai, hay các lý do bất khả kháng khác, nhà nước
và xã hội luôn dành cho họ một sự quan tâm đặc biệt. Hiến pháp năm 1992 qui định
"Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được nhà nước và xã hội
giúp đỡ" (Điều 67). Cụ thể hoá các qui định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành
Luật hoạt động chữ thập đỏ, Luật người khuyết tật, Luật người cao tuổi, Chính phủ
ban hành Nghị định 07/2000/NĐ-CP về chính sách cứu trợ xã hội… Những văn bản
pháp luật này đã thể chế hoá khá cụ thể quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Bảo vệ, chăm sóc và tạo điều kiện cho người khuyết tật hoà nhập cộng
đồng là những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Luật người khuyết tật, Luật người cao tuổi và
các văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP về chính sách cứu
trợ xã hội qui định khá cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
kinh tế, xã hội cũng như toàn xã hội đối với người già, người khuyết tật, người cô
đơn, trẻ em lang thang, cơ nhỡ, người có hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt với việc ban
hành Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, pháp luật Việt
Nam đã thể hiện hết sức rõ nét tư tưởng nhân đạo. Luật qui định điều kiện, trình tự,
thủ tục… trong việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống, hiến, lấy mô, bộ
phận trên cơ thể ở người sau khi chết và hiến lấy xác để phục vụ công tác khám,
chữa bệnh đem lại hạnh phúc cho người bệnh và gia đình họ. Với tinh thần nhân
đạo sâu sắc, pháp luật qui định nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội phải cứu
giúp người bị nạn nguy hiểm đến tính mạng. Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005 qui
định: "Khi một người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát
125
hiện có trách nhiệm đưa đến các cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối cứu chữa
mà phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa". Hành vi không
cứu giúp người bị nạn trong một số trường hợp có thể bị coi là tội phạm và bị trừng
trị nghiêm khắc. Điều 102 Bộ Luật hình sự năm 1999 qui định: “Người nào thấy
người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà
không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Các qui định về bắt
buộc mua bảo hiểm đối với chủ phương tiện cơ giới tham gia giao thông cũng chính
là một biểu hiện cụ thể của truyền thống tương thân tương ái, tương trợ, cộng đồng
vì mỗi người, cộng đồng xẻ chia, gánh vác đỡ những rủi ro, hoạn nạn cho mỗi
người. Bằng sự đóng góp, trợ giúp của nhiều người sẽ hạn chế, giảm thiểu khó
khăn, bất hạnh cho một số ít người. Có thể nói, các qui định trên đây của pháp luật
Việt Nam hiện hành thể hiện tính nhân văn, nhân đạo hết sức rõ nét. Đó là những
qui định thực sự vì con người, trước hết là những người ở vào vị thế yếu trong xã
hội.
Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn thể hiện ngay cả trong
các qui định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật. Đề ra các qui định để xử
lý các hành vi phạm pháp, pháp luật không chỉ nhằm trừng trị kẻ vi phạm mà còn
nhằm giáo dục, cải tạo họ cũng như giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung. Điều 27
Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định:
“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục
họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các
qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình
phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm”; “khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn
khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”.
Điều 3 Bộ luật này qui định: "Đối với những người lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng, đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù". Pháp
luật quy định việc xử lý vi phạm pháp luật phải trên cơ sở danh dự, nhân phẩm của
con người. Hiến pháp năm 1992 qui định: "Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức,
nhục hình, xúc phạm danh dự nhân phẩm của công dân" (Điều 71). Luật thi hành
án hình sự qui định nguyên tắc thi hành án là bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án (Điều 4). Đặc
biệt, đối với trường hợp thi hành án tử hình, luật qui định trình tự, thủ tục hết sức
126
chặt chẽ nhằm tìm kiếm cơ hội sống sót cuối cùng cho người bị kết án, hạn chế đến
mức thấp nhất những sai sót có thể xảy ra (Điều 59). Luật này cũng qui định việc thi
hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc (Điều 59).
Tư tưởng nhân đạo còn được thể hiện qua nhiều qui định khác trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện hành. Chẳng hạn, các qui định của Bộ luật hình sự về thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án; các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt nhẹ hơn qui định của Bộ luật, miễn hình
phạt; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; chế định án treo; các
qui định về tạm hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc mới sinh
đẻ, người mắc bệnh hiểm nghèo, người bị kết án là người lao động duy nhất trong
gia đình nếu ở tù sẽ làm cho gia đình đặc biệt khó khăn... Điều 35 Bộ luật hình sự
năm 1999 qui định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi
hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân”.
Thể hiện chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, Bộ
luật hình sự năm 1999 có hẳn một chương riêng (chương 10) để áp dụng đối với họ.
Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 qui định:
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành
niên phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho
người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp
dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình
phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Thể hiện rõ chính sách nhân đạo đối với người ăn năn hối cải, nhà nước ban
hành Luật đặc xá nhằm động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối
cải, tích cực học tập, lao động, cải tạo. Đồng thời, luật cũng qui định trách nhiệm
của nhà nước và xã hội trong việc giúp đỡ người được đặc xá ổn định cuộc sống,
phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài ra, tính nhân đạo trong hệ thống
pháp luật còn thể hiện qua các qui định về trừng trị các tội phá hoại hoà bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh; các qui định về việc cho cư trú đối với người
nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình... mà bị bức
hại.
127
Tóm lại, pháp luật Việt Nam hiện hành là một hệ thống pháp luật thấm
nhuần tư nhân đạo cao cả và sâu sắc. Có thể nói, xã hội càng phát triển, tính nhân
đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam càng thể hiện rõ nét.
Thứ ba, pháp luật góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy
các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Để củng cố, giữ gìn và phát huy những quan niệm quan điểm đạo đức tiến
bộ, ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn sự hình thành những
quan niệm đạo đức mới lệch lạc, phản tiến bộ, nhà nước thể chế hoá các quan điểm,
quan niệm đạo đức, thừa nhận các qui tắc đạo đức thành pháp luật, xác định rõ các
hành vi được phép thực hiện, các hành vi bắt buộc phải thực hiện, các hành vi bị
ngăn cấm, đồng thời qui định các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với chủ thể vi
phạm các qui định đó. Nhờ đó, đạo đức không chỉ được thực hiện tùy thuộc vào
lương tâm và tình cảm của chủ thể, nó đã được pháp luật hoá, đã trở thành những
qui tắc xử sự có ý nghĩa bắt buộc đối với mọi chủ thể trong xã hội. Qua đó, chúng
được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước, trong đó, quan trọng nhất là biện pháp
cưỡng chế nhà nước.
Trước hết, pháp luật thể chế hóa các quan niệm, quan điểm đạo đức cách
mạng, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như những quan niệm đạo đức
tiến bộ trong xã hội. Hiến pháp, các luật, đặc biệt Luật cán bộ, công chức; Luật
viên chức, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí... qui định, cán bộ công chức, viên chức phải có nếp sống lành mạnh, trung
thực, cần kiệm liêm chính, chí công, vô tư; không được quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng
cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao.
Pháp luật qui định tiêu chuẩn để được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các chức vụ nhất
định trong bộ máy nhà nước hay được làm một nghề nhất định. Chẳng hạn, Luật
bầu cử đại biểu Quốc Hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều có
qui định đại biểu Quốc Hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải là người có
phẩm chất đạo đức. Các văn bản qui phạm pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước
đều có qui định về phẩm chất đạo đức đối với công chức nhà nước, chẳng hạn Luật
tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân qui định thẩm phán,
hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, điều tra viên phải có phẩm chất đạo đức tốt, liêm
khiết và trung thực. Luật giáo dục qui định tiêu chuẩn đạo đức đối với nhà giáo.
Luật báo chí qui định nhà báo phải là người có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức
và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định. Luật luật sư qui định luật sư có nghĩa
128
vụ tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, trung thực, tôn trọng sự thật
khách quan... Bộ trưởng Bộ y tế đã có Quyết định số 2088/BYT ngày 06/11/1996
ban hành Bản "Qui định về y đức" trong đó qui định khá cụ thể, chi tết về các tiêu
chuẩn đạo đức đối với những người làm công tác y tế…
Pháp luật hiện hành của nhà nước ta có khá nhiều qui định phản ánh tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước ta từ Hiến
pháp năm 1946 tới Hiến pháp năm 1992 đều qui định về nguyên tắc bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 qui định "Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc".
Đặc biệt, các qui định trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình phản ánh khá rõ
các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việt Nam là
một quốc gia Á Đông, có truyền thống coi trọng gia đình, các quan hệ gia đình đều
được xây dựng trên nền tảng các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi vậy, có thể nói, "so
với các lĩnh vực pháp luật khác, luật hôn nhân và gia đình là lĩnh vực có quan hệ
mặn nồng nhất với đạo đức" [85, tr.8]. Với quan điểm đề cao vai trò của gia đình
trong đời sống xã hội, xây dựng, củng cố gia đình Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kế
thừa và phát huy các truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 qui định việc pháp luật bảo hộ quan hệ hôn nhân và gia đình.
Trên tinh thần đó, pháp luật qui định tương đối đầy đủ, cụ thể về hôn nhân, về các
điều kiện kết hôn, về quyền bình đẳng giữa vợ với chồng, về trách nhiệm, nghĩa vụ
nuôi dạy con cái của cha mẹ; nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà,
cha mẹ của con, cháu; nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên
trong gia đình… Đặc biệt, luật qui định: "vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên
đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người đã thực hiện nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" (Điều 25).... So với Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986, luật này đã pháp luật hoá khá cụ thể, chi tiết các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức về bổn phận giữa các thành viên trong gia đình thành
quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể. Đặc biệt, so với luật năm 1986, luật này
có hẳn một chương mới qui định về quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em
và các thành viên khác trong gia đình đối với nhau. Đây là một biểu hiện cụ thể của
việc khuyến khích, duy trì và phát triển gia đình nhiều thế hệ nhằm giữ gìn và phát
huy các quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Cũng trên
tinh thần đó, Bộ luật hình sự năm 1999 không qui định nghĩa vụ tố giác tội phạm
129
đối với những người thân thích trong gia đình, trừ những tội xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc các tội khác thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng. Luật người cao tuổi qui
định nghĩa vụ phụng dưỡng người cao tuổi của con cháu của họ và những người
khác có nghĩa vụ nuôi dưỡng cấp dưỡng theo qui định của pháp luật (Điều 10). Luật
người khuyết tật qui định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội,
các thành viên trong gia đình và mọi thành viên trong xã hội đối với việc chăm sóc,
bảo vệ, giúp đỡ người khuyết tật (Điều 7, 8).
Rất nhiều nghĩa vụ, bổn phận đạo đức khác của các thành viên trong xã hội
đã được pháp luật hóa, trở thành nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể. Điều 599 Bộ
luật dân sự năm 2005 qui định nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng
không có căn cứ pháp luật:
Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có
căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sử hữu, người chiếm hữu hợp
pháp tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
tài sản đó, thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trừ trường
hợp qui định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này.
Nhiều quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức được thể hiện trong các phong
tục, tập quán của một cộng đồng dân cư cũng được phản ánh trong pháp luật thông
qua việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán và biến chúng thành các tập
quán pháp. Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật
không quy định và các bên không có thoả thuận thì áp dụng tập quán” với điều kiện
tập quán “không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”. Điều
6 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: “Trong quan hệ hôn nhân và gia
đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái
với những nguyên tắc qui định tại luật này thì được tôn trọng và phát huy”.
Tiếp đó, pháp luật qui định nghĩa vụ của nhà nước và xã hội trong việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục của dân tộc.
Hiến pháp năm 1992 qui định:
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến
các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh..." (Điều
30). "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của
dân tộc mình (Điều 5).
130
Hiến pháp năm 1992 cũng qui định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách
nhiệm "phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân"; Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam qui định
cụ thể hơn: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân ...”. Cũng trên tinh thần đó, Bộ Luật dân sự năm 2005 qui định
nghĩa vụ giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền
thống của dân tộc; tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng,
cộng đồng vì mỗi người cũng như các giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc trong quá
trình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự (Điều 8). Bộ luật qui định, hợp đồng
dân sự được "tự do giao kết nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội", trái
điều này, các giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu. Với việc ban hành Luật phòng chống
bạo lực gia đình, nhà nước thể hiện rõ quan điểm giữ gìn và bảo vệ các giá trị gia
đình.
Tiếp nữa, pháp luật có các qui định nghiêm cấm các hành vi trái với đạo đức
xã hội. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 qui định: “Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia
rẽ dân tộc”(Điều 5); “Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi
truỵ" (Điều 30); "nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi
ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam”
(Điều 33)… Điều 2 Luật khoa học công nghệ qui định nghiêm cấm các hành vi lợi
dụng hoạt động khoa học công nghệ để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Luật hôn
nhân và gia đình qui định cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự
nguyện tiến bộ; cấm kết hôn đối với những người đang có vợ hoặc có chồng, những
người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có quan hệ họ hàng trong phạm
vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những người
cùng giới tính. Bằng qui định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, pháp
luật ngăn chặn một cách kịp thời một quan niệm đạo đức lệch lạc, phản tiến bộ đang
có xu hướng manh nha hình thành ở Việt Nam. Luật doanh nghiệp, Luật thương
mại qui định cấm kinh doanh các ngành, nghề, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch
vụ gây phương hại đến truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục
Việt Nam". Luật phòng, chống mại dâm qui định cấm mua bán dâm dưới mọi hình
thức. Pháp lệnh dân số cấm nhân bản vô tính người, cấm thay đổi giới tính thai nhi
dưới mọi hình thức...
Bên cạnh đó, pháp luật qui định các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối
với những hành vi xâm phạm các chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân
131
tộc. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để diệt trừ cái ác, bất lương, vô nhân đạo. Tuỳ
theo mức độ vi phạm, chúng có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Bộ luật hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định về xử phạt
vi phạm hành chính... được ban hành chính là cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi đó.
Bộ luật hình sự có các chương riêng qui định về "Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm của con người"; "Các tội xâm phạm chế độ sở hữu",
"Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình"... Pháp luật hình sự cũng trừng trị
nghiêm khắc các tội sản xuất và buôn bán hàng giả, tội lừa dối khách hàng, đánh
bạc, môi giới đánh bạc, hành nghề mê tín dị đoan, tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại dâm, tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ, độc hại... Đặc biệt, để bảo vệ các
quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Điều 93 Bộ luật hình sự năm
1999 qui định hành vi giết ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, người nuôi dưỡng mình, trẻ
em, phụ nữ (mà can phạm biết là đang có thai) thì bị coi là tình tiết định khung tăng
nặng, kẻ phạm tội có thể phải gánh chịu hình phạt cao nhất là tử hình; Điều 104 qui
định hành vi cố ý gây thương tích đối với những đối tượng kể trên dù là lần đầu, tỉ
lệ thương tật của nạn nhân dưới 11% vẫn bị coi là tội phạm.
Nói tóm lại, pháp luật Việt Nam hiện hành đã được xây dựng trên nền tảng
đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, thể chế hóa khá đầy đủ các quan
niệm đạo đức tốt đẹp của nhân dân, nhằm giữ gìn và phát huy giá trị của nó trong
đời sống. Với câu hỏi: “Theo Ông (Bà), pháp luật Việt nam hiện hành có được xây
dựng trên nền tảng đạo đức hay không?”, kết quả khảo sát cụ thể thể hiện trong các
bảng dưới đây:
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 94 92.2 92.2 92.2
Không 8 7.8 7.8 100.0
Tổng 102 100.0 100.0
Bảng 4.1. Ý kiến của cơ quan xây dựng pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Có 230 83.9 83.9 83.9
Không 44 16.1 16.1 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.2. Ý kiến của cơ quan bảo vệ pháp luật
132
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 281 89.2 89.2 89.2
Không 34 10.8 10.8 100.0
Tổng 315 100.0 100.0
Bảng 4.3. Ý kiến của nhân dân
Những con số 92.2%, 83.9%, 89.2% thể hiện sự đánh giá tương đối thống
nhất của toàn xã hội về việc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành đã được xây
dựng trên nền tảng đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức đang thịnh hành
trong xã hội ta.
Cũng cần nói thêm rằng, tác động giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống, cách mạng của pháp luật còn thể hiện qua vai trò của nó đối với việc
phát triển kinh tế xã hội. "Đói ăn vụng, túng làm liều", đời sống kinh tế kém phát
triển là một trong những nguyên nhân của các hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo
đức. Nhờ hệ thống pháp luật hiện hành, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển khá
mạnh mẽ. Một số lượng rất lớn nguồn vốn trong và ngoài nước đã được đầu tư cho
phát triển kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, thu nhập
của người lao động tăng lên đáng kể. Khi kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất
và tinh thần được nâng cao, các hành vi “ăn vụng”, “làm liều” vì túng thiếu... sẽ ít
dần đi.
Thứ tư, đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật,
tạo điều kiện để pháp luật đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống
Cùng với pháp luật và những công cụ quản lý khác, đạo đức góp phần điều
chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục
con người mới. Đạo đức, phong tục tập quán, qui định của các tổ chức xã hội, các
cộng đồng dân cư..., mỗi yếu tố giữ vai trò nhất định trong đời sống xã hội, tuy
nhiên chúng góp phần hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật, tạo ra sự trật tự xã hội trên tất
các các lĩnh vực của cuộc sống nhất là đối với các quan hệ xã hội mà pháp luật
không điều chỉnh. Trước hết, sự phù hợp của pháp luật với đạo đức xã hội là cơ sở
quan trọng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, đúng đắn trong
cuộc sống. Khi pháp luật phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội, người dân
thực hiện những qui định đó như một bổn phận đạo đức của mình, họ thực hiện nó
một cách có ý thức, có trách nhiệm.
133
Phải khẳng định rằng, về cơ bản, pháp luật nước ta được thực hiện một cách
tương đối nghiêm chỉnh. Tuyệt đại đa số các cá nhân, tổ chức trong xã hội đều thực
hiện một cách đúng đắn các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; kiềm chế không
thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Nhờ đó, các quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước được bảo vệ, trật tự xã hội trên tất cả các lĩnh
vực của cuộc sống được bảo đảm, do vậy, Việt Nam đã được cả thế giới biết đến
như một "điểm đến" an toàn. Có được kết quả đó, đạo đức đóng góp một phần
không nhỏ. Gia đình, nhà trường, các thiết chế xã hội đã phát huy vai trò của mình
trong vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống. Chính vì vậy, về cơ bản, nhìn chung các
thành viên trong xã hội đều có ý thức đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, tôn trọng
mọi người, tôn trọng các qui tắc sống chung của cộng đồng... Đây chính là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh như trong đời sống.
Một số trường hợp, khi pháp luật chưa được ban hành kịp thời, không đầy
đủ, đạo đức giữ vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật. Như trên đã dẫn, theo qui
định tại điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005, những tập quán thể hiện truyền thống tốt
đẹp của dân tộc có thể thay thế cho pháp luật trong những trường hợp pháp luật
chưa qui định, với điều kiện nội dung tập quán đó không trái với nguyên tắc chung
của Bộ luật dân sự và đạo đức xã hội. Khi được hỏi: “Trong trường hợp pháp luật
không quy định cụ thể, Ông(Bà) có dựa vào đạo đức để giải quyết vụ việc hay
không?”, có tới 54% số người được hỏi trong các cơ quan bảo vệ pháp luật trả lời
rằng, trong thực tế gặp trường hợp pháp luật chưa qui định cụ thể, họ đã dựa vào
các chuẩn mực đạo đức xã hội để giải quyết các vụ việc. Trong trường hợp này, đạo
đức đã góp phần tích cực, hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Kết quả khảo sát thu được thể hiện ở bảng dưới dây:
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 148 54.0 54.0 54.0
Không 126 46.0 46.0 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.4. Ý kiến của cơ quan bảo vệ pháp luật
Thứ năm, pháp luật góp phần loại trừ những quan niệm, quan điểm, qui
tắc đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ
Theo quan niệm đạo đức cũ, trong gia đình, vai trò quyết định thuộc về
người gia trưởng. Vợ, con phải hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng, người cha
134
theo quan niệm “tam tòng, tứ đức”; “phu xướng phụ tùy”… Xã hội cũ có sự phân
biệt đối xử giữa con trai với con gái, trọng nam khinh nữ, "nhất nam viết hữu, thập
nữ viết vô", coi người phụ nữ chỉ như là người ở trong gia đình; tư tưởng đa thê,
"trai anh hùng năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng"... Pháp luật
của nhà nước Việt Nam mới ngay từ khi mới ra đời đã có những qui định nhằm loại
bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu này. Mặc dầu vậy, cho đến nay những quan
niệm đạo đức lạc hậu này vẫn còn ảnh hưởng trong một bộ phận không nhỏ dân cư.
Vì vậy, pháp luật hiện hành phải tiếp tục tìm cách loại bỏ chúng. Hiến pháp năm
1992 qui định "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 52); "công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ" (Điều 63); "hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng" (Điều 64) . Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui
định "vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình" (Điều 19). Luật này cũng có các qui định cấm cưỡng ép kết hôn,
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cấm vợ chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ,
xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Luật phòng, chống bạo lực gia
đình quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia
đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo
lực gia đình. Bên cạnh đó, pháp luật tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, tạo mọi điều kiện để phụ nữ giảm nhẹ gánh nặng gia đình. Điều
63 Hiến pháp năm 1992 qui định:
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt,
không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các
nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ
gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập,
chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.
Việc Nhà nước gia nhập Công ước CEDAW về chống mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ và việc Quốc hội ban hành Luật bình đẳng giới chủ yếu
nhằm bảo vệ phụ nữ, tạo điều kiện để bảo đảm và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ
nữ với nam giới.
Pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần loại bỏ những tư
tưởng đạo đức phong kiến khác, chẳng hạn, tư tưởng "sống lâu lên lão làng", tư
tưởng "trời sinh voi, trời sinh cỏ"... Pháp luật qui định giới hạn độ tuổi tối đa đối
với cán bộ, công chức... Pháp luật qui định tiêu chí trình độ chuyên môn nghiệp vụ
135
khi muốn được tuyển dụng hay bổ nhiệm để đảm nhiệm một công việc nào đó. Các
qui định về chính sách trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức; các qui định về bố trí, sắp
xếp, cán bộ; các qui định về tinh giảm biên chế trong các cơ quan của hệ thống
chính trị... là những ví dụ cụ thể thể hiện vai trò trên đây của pháp luật.
Thứ sáu, pháp luật góp phần ngăn chặn sự hình thành những quan niệm
đạo đức trái thuần phong mỹ tục, tạo điều kiện làm hình thành những quan
niệm, tƣ tƣởng đạo đức mới, tiến bộ
Cùng với việc ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức, pháp luật giữ
vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự hình thành và đi tới loại bỏ những quan
niệm đạo đức lệch lạc, phản tiến bộ, trái với thuần phong mĩ tục của dân tộc. Đồng
thời, pháp luật cũng góp phần quan trọng trong việc làm hình thành những quan
điểm đạo đức mới, tiến bộ.
Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của lối sống "hiện
đại" kiểu phương Tây, trong xã hội ta đang manh nha hình thành những quan niệm
đạo đức trái với thuần phong mĩ tục của dân tộc. Bằng pháp luật, nhà nước và xã
hội thể hiện sự phản đối một cách chính thức đối với những quan niệm, quan điểm
đạo đức ấy. Pháp luật qui định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính; cấm
mang thai hộ, cấm nhân bản vô tính người; cấm đánh bạc dưới mọi hình thức, cấm
mại dâm dưới mọi hình thức... Do ảnh hưởng của lối sống phương Tây, một số
người có quan niệm hôn nhân cũng là một dạng hợp đồng dân sự. Thực tiễn xây
dựng pháp luật đã chứng tỏ, các nhà lập pháp Việt Nam chính thức phản đối sự
đồng nhất giữa quan hệ hôn nhân, gia đình với các quan hệ dân sự. Bằng việc xây
dựng một đạo luật riêng về hôn nhân và gia đình, nhà nước mong muốn củng cố các
quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống tốt đẹp, hạn chế và đi tới loại bỏ quan
niệm không đúng đắn về hôn nhân và gia đình... Theo qui định của pháp luật hình
sự Việt Nam, bất cứ người nào có hành vi giúp các bệnh nhân bị ốm đau lâu ngày
không khỏi, không có khả năng chữa trị "được chết một cách dễ dàng" theo quan
niệm "cái chết nhân đạo" đều là hành vi giết người và đều bị nghiêm trị (khoản 2
Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999).
Như đã phân tích ở phần trên, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành là hệ
thống pháp luật của dân, do dân, vì dân, phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng của
nhân dân lao động, bảo vệ có hiệu quả các quyền, các lợi ích của họ. Do đó, nó
được nhân dân tôn trọng, tự nguyện, tự giác thực hiện bằng lương tâm, tình cảm và
ý thức trách nhiệm của họ. Trong một chừng mực nào đó, chúng ta có thể nói, pháp
luật của nhà nước chính là những qui tắc đạo đức của cộng đồng. "Sống và làm việc
136
theo pháp luật" không đơn thuần là một tư tưởng, quan điểm pháp luật, nó đã trở
thành một quan điểm, quan niệm đạo đức. Đánh giá ý thức đạo đức của một cá
nhân, người ta luôn xem xét thái độ của họ đối với pháp luật, xem xét sự thực hiện
pháp luật của họ trên thực tế.
Khi nhà nước ban hành các qui định nhằm loại trừ tư tưởng trọng nam khinh
nữ, tư tưởng đa thê, tư tưởng "phu xướng - phụ tuỳ"... thì đồng thời nó cũng làm
hình thành trong đời sống xã hội những tư tưởng nam nữ bình đẳng, hôn nhân tự do,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng...
Thứ bảy, hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền
đã đƣợc tiến hành trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với
đạo đức.
Khi áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền trước tiên phải dựa vào
các qui định trong hệ thống pháp luật. Đó là các qui định về thẩm quyền cũng như
trình tự thủ tục áp dụng pháp luật, các qui định về nội dung vụ việc cần giải quyết,
các qui định về thời hạn, thời hiệu áp dụng pháp luật… Tuy nhiên, khi áp dụng
pháp luật, nhà chức trách “không thể có được một sự tính toán chính xác về lý trí
cũng như về toán học"; "trong trường hợp này, sự công minh và tình người sẽ giúp
cho thẩm phán hành động đúng” [83, tr.13]. Nói cách khác, trong khi áp dụng pháp
luật, nhà chức trách không chỉ dựa trên các qui định của pháp luật mà phải còn phải
dựa trên các chuẩn mực đạo đức. Có như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật mới vừa
“đạt lý” nhưng cũng “thấu tình”. Tất nhiên, đối với người chấp pháp, chuẩn mực
đầu tiên và quan trọng nhất đối với họ phải luôn là pháp luật. Với câu hỏi, “Trong
quá trình giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền, Ông (Bà) có phải kết hợp
pháp luật và đạo đức để đưa ra quyết định phù hợp không?”, kết quả khảo sát thu
được như sau:
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 206 75.2 75.2 75.2
Không 68 24.8 24.8 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.5. Ý kiến cơ quan bảo vệ pháp luật về việc phải kết hợp pháp luật và đạo đức.
Với câu hỏi, “trong trường hợp giữa pháp luật và đạo đức xã hội có mâu
thuẫn, Ông(Bà) xử lý như thế nào”, kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 24.8% số
người được hỏi trong cơ quan bảo vệ pháp luật trả lời rằng vẫn áp dụng theo đúng
các qui định của pháp luật và chấp nhận sự lên án của dư luận xã hội, trong khi có
137
tới 94.5% số người được hỏi cho rằng cần phải áp dụng phù hợp với đạo đức xã hội.
Cụ thể như sau:
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 68 24.8 24.8 24.8
Không 206 75.2 75.2 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.6. Ý kiến về việc phải áp dụng theo đúng các qui định của pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp
lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Có 259 94.5 94.5 94.5
Không 14 5.1 5.1 99.6
Không hợp lệ 1 0.4 0.4 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.7. Ý kiến về việc phải áp dụng theo theo các chuẩn mực đạo đức
Những số liệu trên cho thấy, trong áp dụng pháp luật, nhà chức trách hết sức
coi trọng yếu tố đạo đức. Họ cũng là những con người biết suy nghĩ, có tình cảm,
biết rung cảm trước các hiện tượng của cuộc sống, vì vậy trong cuộc sống không chỉ
có pháp luật mà còn có đạo đức và các chuẩn mực khác. Mặt khác, Việt Nam vốn là
quốc gia có truyền thống coi trọng đạo lý, coi trọng tình cảm, thậm chí “tình” có khi
còn được coi trọng hơn “lý”. Đây là điều khác nhau cơ bản giữa văn hóa pháp lý
Việt Nam và văn hóa pháp lý phương Tây với hình tượng nữ thần công lý bị bịt mắt
bởi dải băng đen, chỉ tuân theo pháp luật, không bị tình cảm chi phối.
4.2. Một số hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta
trong vẫn còn những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, trong một số trƣờng hợp chƣa phân định rõ ranh giới điều
chỉnh giữa pháp luật với đạo đức
Như đã đề cập, phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức không hoàn
toàn trùng hợp với nhau, mặt khác sự điều chỉnh bằng pháp luật và đạo đức khác
nhau trên nhiều bình diện. Pháp luật điều chỉnh hành vi con người bằng cách tác
động vào ý chí và lý trí của họ, còn đạo đức không chỉ tác động vào ý chí, lý trí mà
nó còn tác động vào tình cảm của con người. Chính vì vậy, đạo đức điều chỉnh được
138
cả những quan hệ tình cảm hay góc độ tình cảm trong các quan hệ xã hội. Yêu
thương, chung thuỷ, tôn trọng... là những phạm trù tình cảm, nằm sâu trong ý thức
của chủ thể, chỉ đạo đức mới có thể tác động đến. Yêu thương ai, tôn trọng ai,
chung thuỷ với ai là xuất phát từ tình cảm của họ. Pháp luật không thể cho phép hay
bắt buộc buộc các chủ thể phải yêu thương, quí trọng nhau... Tuy nhiên, pháp luật
Việt Nam hiện hành trong một số trường hợp đã có sự qui định "vượt ngưỡng", có
sự "lấn sân" của đạo đức. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: "vợ chồng
chung thuỷ, thương yêu, quí trọng nhau" (Điều 18); "cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
yêu thương con" (Điều 34); "con có bổn phận yêu quí, kính trọng biết ơn cha mẹ"
(Điều 35)...
Thiết nghĩ, sự qui định như trên của pháp luật Việt Nam hiện hành là không
phù hợp. Thừa nhận rằng, cách thức điều chỉnh của pháp luật trong những trường
hợp nêu trên là xác định nghĩa vụ để các chủ thể định hướng hành vi của mình. Tuy
nhiên, nếu pháp luật chỉ xác định nghĩa vụ mà không qui định biện pháp bảo đảm
thực hiện thì những qui định đó khó có thể được thực hiện nghiêm chỉnh. Trên thực
tế, người vợ, người chồng không biết sẽ phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý yêu thương
chồng (vợ) mình như thế nào là đúng đắn và đầy đủ. Ngược lại, người vợ (chồng)
khi nào thì cảm thấy quyền được yêu thương của mình đã không được đáp ứng, khi
đó họ có thể yêu cầu nhà nước can thiệp, và nhà nước có thể can thiệp được
không… Mặt khác, như đã trình bày, yêu thương, kính trọng, biết ơn… là những
phạm trù tình cảm, pháp luật không thể điều chỉnh được. Trong lĩnh vực tình cảm,
có trường hợp hành vi chưa chắc đã phản ánh đúng mục đích, ý nghĩa đích thực của
nó, chẳng hạn, người Việt Nam có triết lý “Bằng mặt không bằng lòng”, hay triết lý
dạy con “Yêu cho roi cho vọt”... Chính vì vậy, thật khó mà xác định được các cặp
vợ chồng có thật sự yêu thương nhau, tôn trọng nhau, chung thuỷ với nhau, con cái
có thật sự kính trọng ông bà cha mẹ hay không... Có nhiều gia đình nhìn bề ngoài là
những gia đình hạnh phúc nhưng sự thật ra sao thì chỉ người trong cuộc mới có thể
cảm nhận được. Mặt khác, không phải bất kì hành vi nào của con người cũng đều
cần có sự tác động của pháp luật. Pháp luật chỉ tác động đến hành vi của con người
khi nó đạt đến một “ngưỡng” nào đó. Trong khi đó, yêu thương, chung thuỷ, tôn
trọng, biết ơn... là những đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa, từ khuyến khích đến ngăn
cấm trong xử sự của con người. Để thể hiện sự yêu thương, tôn trọng, chung thuỷ,
biết ơn, đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện từ những hành vi rất “nhỏ nhặt”, đời
thường đến những hành vi có ý nghĩa cực kì to lớn, thậm chí sẵn sàng hi sinh tính
mạng bản thân vì người mà mình yêu thương, kính trọng... Bên cạnh đó, yêu
139
thương, kính trọng, biết ơn… còn đòi hỏi chủ thể không được thực hiện những
những hành vi bị coi là bất hiếu, bất nghĩa, bất chung... Tất cả những hành vi đó đòi
hỏi các chủ thể phải thực hiện chúng bằng sự tự nguyện, tự giác cao độ mà không
phải dựa trên bất cứ sự cưỡng bức nào từ bên ngoài. Sự phân tích này cho thấy, thay
vì qui định như hiện hành, pháp luật chỉ nên qui định những hành vi nào đó là
không yêu thương, không chung thuỷ, không tôn trọng, không biết ơn... đồng thời
qui định các biện pháp xử lý đối với những trường hợp chủ thể thực hiện những
hành vi đó.
Tình trạng nêu trên là do xuất phát từ sự nhận thức không đúng đắn về vai
trò của pháp luật và đạo đức trong xã hội, không phân biệt được một cách rõ ràng
về phạm vi điều chỉnh, mức độ điều chỉnh, ưu điểm cũng như những hạn chế của
mỗi loại phương tiện trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xuất phát từ mong muốn
giữ gìn và phát huy các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống, nhất là các
quan niệm đạo đức trong gia đình nhưng do nhận thức không đúng đắn về vai trò
của pháp luật nên nhà làm luật đã pháp luật hoá cả những quan niệm đạo đức thực
ra không thể pháp luật hoá. Như đã đề cập, pháp luật không thể điều chỉnh được
quan hệ xã hội dựa trên yếu tố tình cảm hay lĩnh vực tình cảm của con người. Một
khi không đánh giá đúng vai trò của pháp luật sẽ dẫn đến sử dụng pháp luật không
đúng cách. Khi đó chẳng những pháp luật không phát huy được vai trò của mình,
ngược lại nó còn gây ra những hê lụy khó lường, gây mất ổn định đời sống xã hội,
tạo ra sự coi thường luật pháp… Ngoài ra, sự hạn chế trên đây cũng có nguyên nhân
là việc quá đề cao sự khác biệt giữa pháp luật xã hội chủ nghĩa với các kiểu pháp
luật khác, giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước khác. Đây là biểu hiện
của cơ chế cũ còn tồn tại, một hạn chế của không ít người nếu không muốn nói đó
là hạn chế chung của tất cả chúng ta.
Thứ hai, trong một số trƣờng hợp, sự pháp luật hoá các quan niệm,
quan điểm, qui tắc đạo đức chƣa cụ thể, vì vậy khó thực hiện trên thực tế
Về cơ bản, nhiều quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đã được luật
hoá một cách tương đối cụ thể, đảm bảo tính khả thi của pháp luật. Tuy nhiên, một
số trường hợp, sự thể chế hoá đạo đức thành pháp luật lại quá khái quát, dẫn tới khó
thực hiện những qui định đó trên thực tế. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự qui định: “các
giao dịch dân sự không được trái với đạo đức xã hội”; Luật doanh nghiệp, Luật
thương mại cũng có các qui định tương tự.
Trả lời câu hỏi: “Với những văn bản pháp luật có chứa đựng các chuẩn mực
đạo đức (chẳng hạn Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Những giao dịch
140
dân sự trái với pháp luật và đạo đức thì bị coi là vô hiệu), theo Ông (Bà) có dễ áp
dụng vào thực tiễn không?”, có tới 57.7% số người được hỏi trong cơ quan bảo vệ
pháp luật cho rằng, những qui định của pháp luật như nêu trên là khó áp dụng trên
thực tế, trong khi đó, số liệu tương ứng trong cơ quan xây dựng pháp luật là 27,5%.
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất dễ áp dụng 5 1.8 1.8 1.8
Dễ áp dụng 106 38.7 38.7 40.5
Khó áp dụng 158 57.7 57.7 98.2
Không thể áp dụng 5 1.8 1.8 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.7. Ý kiến của cơ quan bảo vệ pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất dễ áp dụng 14 13.7 13.7 13.7
Dễ áp dụng 58 56.9 56.9 70.6 Khó áp dụng 28 27.5 27.5 98.0 Không thể áp dụng 2 2.0 2.0 100.0 Tổng 102 100.0 100.0
Bảng 4.8. Ý kiến của cơ quan xây dựng pháp luật
Sự khác nhau trong số liệu trên đây phản ánh một hạn chế của pháp luật Việt
Nam hiện hành, đó là từ quan điểm của nhà lập pháp đến thực tiễn áp dụng pháp
luật còn là một khoảng cách khá xa. Dưới cách nhìn của người áp dụng pháp luật,
đánh giá một hành vi nào đó là trái hay không trái đạo đức xã hội không không phải
là vấn đề đơn giản. Cùng một hành vi nhưng có thể có các cách đánh giá khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Với câu hỏi, “Dựa trên cơ sở nào để đánh giá một hành vi
nào đó là trái hay không trái đạo đức xã hội”, số liệu điều tra cho thấy câu trả lời là
khá phức tạp: 75.9% cho rằng phải dựa vào các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể
(24.1% không tán thành); 25.5% cho rằng phải dựa vào lương tâm của mình (74.5%
không tán thành); 36.9% cho rằng phải dựa vào dư luận xã hội (63.1% không tán
thành). Sở dĩ có điều này là bởi vì xuất phát từ tính đa dạng, phức tạp của đạo đức.
Trong xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất trên cả nước nhưng lại có
nhiều hệ thống đạo đức khác nhau, có đạo đức của các giai cấp, tầng lớp, có đạo
đức của các tôn giáo… Trong điều kiện hiện nay, trong xã hội Việt Nam, về cơ bản,
các hệ thống đạo đức này mặc dù không đối lập nhau nhưng cũng không đồng nhất
141
với nhau. Mặt khác, trong xã hội đang diễn ra sự thay đổi trong các quan niệm,
quan điểm đạo đức, cái mới cái cũ đang có sự đan xen, cái mới hình thành chưa
chắc chắn, cái cũ đang được nhận thức lại... Vì vậy, dễ dẫn đến sự không thống nhất
trong quan điểm, quan niệm đạo đức. Mặt khác, đạo đức không có tính xác định về
hình thức như pháp luật, bởi vậy, không chỉ việc nhận thức về các quan điểm, quan
niệm, qui tắc đạo đức, việc thực hiện chúng cũng như việc đánh giá về các hành vi
đó không dễ có được sự thống nhất. Do đó, sự qui định như pháp luật Việt Nam
hiện hành sẽ gây ra sự khó khăn cho các chủ thể trong việc thực hiện chúng.
Tương tự, trường hợp pháp luật qui định tiêu chuẩn đạo đức đối với cán bộ,
công chức nhà nước, những người làm một số nghề nhất định cũng chưa cụ thể.
Pháp luật qui định “có phẩm chất đạo đức” hoặc “phẩm chất đạo đức tốt”... một
cách quá khái quát. Mặc dù "phẩm chất đạo đức" ở đây có thể được hiểu là cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung với nước, hiếu với dân, khiêm tốn, giản
dị... Tuy nhiên, ngay chính các phạm trù đạo đức này cũng đã là rất khái quát, được
hiểu rất rộng và như trên đã nói, sự nhận thức về nó cũng như sự thực hiện chúng
không phải luôn có sự thống nhất giữa mọi người.
Nguyên nhân của tình trạng trên đây có thể là kĩ thuật lập pháp hạn chế. Mặc
dù đã được nâng cao một cách cơ bản, song nhìn chung kĩ thuật lập pháp ở nước ta
vẫn còn đang ở trình độ thấp. Trình độ cán bộ chưa ngang tầm đòi hỏi là một trong
những lý do, song điều căn bản là cơ chế, trình tự, thủ tục xây dựng pháp luật ở
nước ta còn nhiều điểm bất cập. Cũng có thể là xuất phát từ quan niệm cho rằng văn
bản luật cần khái quát, các vấn đề cụ thể, chi tiết sẽ được qui định trong văn bản
dưới luật. Tuy nhiên, các trường hợp được viện dẫn trên đây lại hầu như chưa được
qui định chi tiết hay giải thích một cách cụ thể. Thiết nghĩ, một trong những nguyên
nhân của tình trạng này đó là do ảnh hưởng của tư duy xây dựng pháp luật cũ.
Trước đây, không ít người có quan niệm pháp luật cần phải được qui định một cách
khái quát nhất để có thể bao quát tất cả các trường hợp. Chẳng hạn, khi ban hành
một văn bản mới thay thế các văn bản cũ, trước đây hầu như mọi trường hợp đều
qui định: “Các qui định trước đây trái với văn bản này đều bãi bỏ”. Mới đầu, có
thể thấy cách mà nhà làm luật qui định là hết sức khái quát, chỉ bằng một qui định
ngắn gọn, nhà làm luật đã bãi bỏ tất cả những qui định cũ trái với nội dung của văn
bản mới. Tuy nhiên trong thực tiễn, khi áp dụng từng qui định cụ thể, không ít
trường hợp xảy ra tranh chấp vì không thể xác định một cách rõ ràng qui định đó
trái hay không trái với các qui định mới. Cũng có thể do nhận thức chủ quan, cho
rằng qui định như vậy là chặt chẽ, mọi người đều có thể hiểu được và hiểu đúng ý
142
tưởng của nhà làm luật. Dễ nhận thấy, quan niệm như vậy là hoàn toàn sai lầm, đạo
đức và pháp luật là hai hiện tượng khác nhau, một trong những thuộc tính của pháp
luật là minh bạch, cụ thể, xác định. Vì vậy, khi thể chế hoá các quan niệm đạo đức
thành pháp luật đòi hỏi phải rất cụ thể, đảm bảo để các chủ thể xác định được một
cách rõ ràng họ được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay không được làm gì...
khi ở trong điều kiện hoàn cảnh xác định nào.
Thứ ba, nhiều quan niệm, tƣ tƣởng, qui tắc đạo đức lạc hậu chƣa bị
pháp luật xóa bỏ triệt để
Ở phần trên, luận án đã chỉ rõ, một trong những ưu điểm của mối quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta hiện nay, đó là pháp luật đã góp phần quan
trọng trong việc loại bỏ các quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, không còn phù hợp
trong điều kiện mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhiều quan niệm, tư tưởng
đạo đức cũ, không phù hợp vẫn còn tồn tại. Chẳng hạn, tư tưởng gia trưởng, tính
cục bộ, thói cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, tư tưởng coi thường lớp
trẻ... vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong một bộ phận dân cư, kể cả trong nhiều cán
bộ, công chức, nhà nước.
Thực tiễn cho thấy vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân
lấy việc giữ chức này, chức nọ làm mục đích của mình với động cơ danh
phận rõ ràng, mong muốn thông qua cương vị, chức vụ để tìm cách “vinh
thân phì gia”; nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ còn là cái áo khoác bên
ngoài cho những toan tính, thủ đoạn, cho những hành vi đối phó nhau, “thoả
hiệp” nhau để “chia ghế” và “giữ ghế” [131, tr.112].
Bên cạnh đó, bệnh gia trưởng còn khá phổ biến trong xã hội, nó không chỉ
tồn tại trong các gia đình ở nông thôn mà còn cả trong các gia đình cán bộ, công
chức, kể cả trong các cơ quan nhà nước. Một số cán bộ, thủ trưởng các cơ quan, tổ
chức tự cho mình là “ông chủ” của cơ quan, tổ chức đó, dẫn đến coi thường người
khác, coi thường cấp dưới, coi thường nhân viên, độc đoán, chuyên quyền, tự cho
mình quyền quyết định mọi vấn đề, biến cơ quan thành nhà của mình, biến các quan
hệ công thành quan hệ tư, biến quan hệ cơ quan thành quan hệ gia đình. Bệnh gia
trưởng gây tác động xấu trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. “Đây còn là một
trong những nguyên nhân sinh ra và làm trầm trọng thêm các bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, thiếu dân chủ” [131, tr.117,118]. Tình trạng củng cố vây cánh, hiện tượng
kéo bè, kéo cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa… trong các cơ quan, tổ chức không
phải là hiếm. Nhiều địa phương có xu hướng mạnh ai nấy làm, yêu cầu có “qui chế
riêng”, không chú ý đến tính chỉnh thể thống nhất cũng như yêu cầu phát triển
143
chung của cả nước. Trong xã hội, làm gì, ở đâu, bao giờ người ta cũng trước tiên
nghĩ đến lợi ích của bản thân mình. Vì lợi ích cục bộ, khi được giao soạn thảo các
văn bản qui phạm pháp luật, một số cơ quan luôn tìm cách giành thuận lợi về phần
mình, khó khăn đẩy cho cơ quan khác hoặc cho đối tượng bị quản lý. Trong tư duy
của không ít người vẫn còn tàn dư của tư tưởng trọng nam khinh nữ, tư tưởng cần
phải có con trai để nối dõi tông đường, trong tuyển dụng nhân viên, cất nhắc cán bộ
vẫn có tư tưởng ưu tiên nam giới, việc tiếp nhận cán bộ nữ vào làm việc rất khó
khăn… Đặc biệt, thói đạo đức giả vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội ta hiện nay, kể
cả trong các cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước, thậm chí ngay cả một số cán
bộ cao cấp. Biểu hiện của thói đạo đức giả đó là lời nói không đi đôi với việc làm,
nói một đằng làm một nẻo, dùng thuật ngụy biện, lối nói hoa mỹ, sách vở để che
đậy bản chất thực sự của mình, tìm cách đổ lỗi cho khách quan, cho người khác, lấy
bệnh thành tích để che đậy sự yếu kém của bản thân, xu nịnh người khác, xu nịnh
cấp trên… Nghiêm trọng hơn, người có thói đạo đức giả “không chỉ tìm cách khai
thác những điểm còn sơ hở trong chính sách, luật pháp, mà còn tìm mọi cách vô
hiệu hóa pháp luật” [131, tr.132].
Các hiện tượng kể trên có nhiều nguyên nhân, có cả các nguyên nhân về kinh
tế xã hội, cả các nguyên nhân trong bản thân pháp luật và quá trình tổ chức, thực thi
pháp luật, bảo vệ pháp luật. Cơ chế xây dựng pháp luật cũng làm cho hiện tượng
cục bộ, địa phương chủ nghĩa có điều kiện để tồn tại và phát triển. Mặt khác, bản
thân hệ thống pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Trong hệ thống
pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều qui định cần thiết, chẳng hạn, chưa có các qui
định về xử lý các hành vi kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết trong các cơ quan, tổ
chức... Dẫn đến, trên thực tế các hiện tượng như trên xảy ra nhưng chưa có các qui
định của pháp luật để xử lý. “Rất nhiều hành vi không phù hợp đạo đức, không
“ổn” về phương diện đạo đức, song pháp luật lại bỏ trống, không xử hoặc chưa có
qui định” [88, tr.31]. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa tốt, dân chủ ở
cơ sở chưa được phát huy đúng mức. Công tác quản lý, kiểm tra, giáo dục, rèn
luyện cán bộ còn yếu. Đặc biệt, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh ở nhiều nơi vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Khi
được hỏi: “Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở cơ quan Ông (Bà) được thực hiện như thế
nào?”, số liệu khảo sát ở các cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy chỉ có 45.3% cho là
hoạt động được tiến hành rất tốt:
144
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất tốt 124 45.3 45.3 45.3
Tốt 141 51.5 51.5 96.7
Chưa tốt 9 3.3 3.3 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
Bảng 4.9. Về cuộc vận động học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Chưa có cơ chế đảm bảo sự giám sát, thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi
nhiệm của nhân dân đối với các chức vụ dân bầu. Pháp luật Việt Nam có qui định
về quyền bãi nhiệm của cử tri đối với những người do họ bầu ra, tuy nhiên pháp luật
hầu như không có qui định về điều kiện, trình tự, thủ tục… tiến hành hoạt động này,
đây rõ ràng là một khiếm khuyết của pháp luật. Công tác tuyên truyền giáo dục đạo
đức trong xã hội chưa được coi trọng đúng mức trong pháp luật. Có thể nói, hoạt
động giáo dục đạo đức đã được đề cập trong các văn kiện của Đảng từ rất sớm. Như
đã đề cập, tại Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII, Đảng
ta đã xác định phải quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng
cao đạo đức. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động giáo dục đạo đức ở nước ta chủ yếu
còn mang tính tự phát, nhà nước chưa qui định thành nghĩa vụ pháp lý cho các chủ
thể trong xã hội. Trong hệ thống pháp luật nước ta hầu như rất thiếu các qui định về
vấn đề này, vì vậy hoạt động này chưa thực sự trở thành nghĩa vụ, trách nhiệm có
tính chất pháp lý của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, pháp luật không phải là công cụ vạn năng,
pháp luật không thể loại bỏ được tất cả các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức
lạc hậu, không còn phù hợp. Pháp luật cũng không phải là công cụ duy nhất để giữ
gìn và phát huy các quan niệm đạo đức. Để làm được việc này đòi hỏi phải sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó đương nhiên, các biện pháp pháp lý phải được
đặc biệt chú trọng.
Thứ tư, hiện tƣợng suy thoái về đạo đức chƣa đƣợc pháp luật ngăn chặn
có hiệu quả trên thực tế
Có thể nói, trong xã hội Việt Nam hiện nay, hiện tượng suy thoái về đạo đức,
lối sống ngày càng có biểu hiện rõ nét, thậm chí có thể coi đây là một hiện tượng
đáng báo động.
Suy thoái đạo đức là hiện tượng mà những chuẩn mực đạo đức xã hội trở nên
kém giá trị, mất tác dụng, không còn ý nghĩa trong điều chỉnh suy nghĩ và hành vi
của con người, không còn phát huy sự ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội,
145
không còn ý nghĩa là rào cản, ngăn ngừa những hành vi bất chính, bất thiện... Trong
thời kỳ phong kiến, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng trong điều chỉnh hành vi
con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, sự kết hợp pháp luật và đạo đức theo
phương châm “nội nho, ngoại pháp”, “đức chủ, pháp bổ” đã trở thành đường lối
cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam, sự coi trọng đạo đức đã trở thành
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, đạo đức bị thoái hóa,
xuống cấp, nó không còn được coi trọng như trước đây, nó chỉ còn là thứ yếu, nhiều
chuẩn mực đạo đức bị coi thường, thậm chí bị coi là tàn dư của xã hội cũ cần phải
xóa bỏ. Ở khía cạnh cá nhân, sự thoái hóa của đạo đức biểu hiện ở sự suy thoái của
phẩm chất đạo đức, ý thức coi thường các giá trị đạo đức truyền thống, không chú
trọng việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức, mất lòng tin vào các giá trị đạo đức xã hội,
không còn tình cảm đạo đức, sự xấu hổ và lòng tự trọng không còn, danh dự cá
nhân không được coi trọng...
Trước đây, do nhận thức còn ấu trĩ, lại mắc bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, chúng ta đã có những quan niệm sai lầm về đạo đức truyền thống, không ít
người đã đồng nhất đạo đức truyền thống với đạo đức phong kiến cần xóa bỏ. Do
nhận thức giản đơn về quan điểm quản lý xã hội bằng pháp luật, người ta cho rằng
chỉ cần pháp luật là đủ, có thể bỏ qua các qui tắc xử sự chung khác. Do đó, người ta
chủ động tìm mọi cách để cho xã hội không còn coi trọng đạo đức truyền thống và
tìm mọi cách để loại trừ khỏi đời sống xã hội những quan niệm, quan điểm, qui tắc
đạo đức mà họ cho là tàn dư của chế độ phong kiến. Ngược lại, người ta ra sức cổ
súy cho những chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức cộng sản chủ nghĩa như tinh thần
làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi người… Trong nhà trường, ngay từ các lớp cấp
dưới, người ta ra sức tuyên truyền, giáo dục về đạo đức cách mạng, về các tấm
gương hi sinh quên mình vì Tổ Quốc của những người đảng viên kiên trung, về ý
thức công dân, về trách nhiệm của con người mới xã hội chủ nghĩa... Trong khi đó,
luân lý, gia phong, nghĩa vụ, bổn phận làm con, làm em, làm học trò... thì không
được quan tâm đúng mức. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tấm gương
về nền nếp gia phong, về việc bảo lưu giá trị truyền thống, thuần phong mĩ tục của
dân tộc ít thấy xuất hiện, ngược lại, những hiện tượng tiêu cực, phi đạo đức như con
cái cãi lời cha mẹ, mắng chửi, đánh đập cha mẹ ... lại được “phơi bày” khá phổ
biến. Nhiều trường hợp người rao giảng về đạo đức nhưng không phải là tấm gương
về đạo đức, thậm chí có cả những người mất tư cách đạo đức. Trong nhà trường,
nhiều thầy cô giáo đã đánh mất nhân cách của mình. Chính vì vậy, hiệu quả của
việc giáo dục đạo đức không cao, có trường hợp còn phản tác dụng.
146
Mặt khác, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, người ta tìm mọi cách để
kiếm tiền, tất cả vì đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc lên trên hết, tìm kiếm lợi nhuận
bằng mọi cách… Người ta ngày càng “điên cuồng hơn trong việc đuổi theo những
thụ hưởng vật chất” [3, tr.8]. Do ảnh hưởng của công cuộc cải cách, mở cửa, cùng
với những nhân tố tích cực, có giá trị thì những mặt trái của việc hợp tác, hội nhập
quốc tế cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước ta. Đúng như nguyên Tổng bí thư Đỗ
Mười đã nói: “mở cửa ra, gió mát lùa vào thì ruồi muỗi cũng bay vào”… Tất cả
những điều đó đã trực tiếp hay gián tiếp làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, gây ra
những tác động tiêu cực trên nhiều mặt.
Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ, xa rời
các giá trị truyền thống, không phải ngẫu nhiên khi nhiều người cho rằng “nền đạo
đức ở nước ta đang có nguy cơ trượt dốc” [118, tr.19]. Đáng chú ý là “tệ sùng bái
nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong, mỹ tục của dân tộc” [21,
tr.46]. Sự suy thoái đạo đức, lối sống diễn ra trên mọi đối tượng, kể cả cán bộ, đảng
viên. “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng” [22, tr.76]. Theo
thời gian, sự suy thoái này “ngày càng phổ biến hơn, tinh vi hơn, nghiêm trọng
hơn” [40, tr.155]. Suy thoái đạo đức khiến người ta không còn mặn mà với những
chuẩn mực đạo đức truyền thống; khiến người ta thản nhiên làm trái những chuẩn
mực đạo đức xã hội không cảm thấy xấu hổ hay day dứt lương tâm. Suy thoái đạo
đức đức làm cho lối sống thực dụng ngày càng trở thành phổ biến trong xã hội. Đối
với câu hỏi “hạng người nào đang được trọng vọng?”, có 88.15% số người được
hỏi cho là người giàu [123, tr.223]. Đối với không ít người, đồng tiền được coi như
một chuẩn mực để đánh giá con người. Xu hướng thiếu trung thực trong cuộc sống
gia tăng, theo kết quả của một cuộc điều tra xã hội học, chỉ có 43.3% học sinh và
55.7% sinh viên cho rằng cần phải sống trung thực, trong khi đó, khoảng một nửa
số người được hỏi có những biểu hiện thiếu trung thực, cảm thấy không dằn vặt khi
bản thân làm sai pháp luật [32, tr.293,294]. Các hiện tượng con cái có hành vi bất
hiếu đối với cha mẹ, trò vô lễ với thầy cô, chồng đối xử vũ phu với vợ... vẫn xảy ra.
Gần đây, dư luận không khỏi bức xúc đối với hành vi của những người mẹ vứt bỏ
con mới sinh, người cha tẩm xăng đốt con, người vợ phóng hỏa đốt chồng, thầy
giáo lạm dụng tình dục với trò…
Trước tình hình đó, vai trò của pháp luật chưa được phát huy hết trong việc
ngăn chặn có hiệu quả sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. “Sự vi phạm pháp luật,
147
pháp luật không nghiêm làm tiền đề làm rối loạn kỷ cương đạo đức xã hội” [93,
tr.44].Như trên đã đề cập, các qui định của pháp luật về việc giữ gìn và phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc phần lớn mang tính nguyên tắc, chung
chung, ít có những qui định mang tính giải pháp cụ thể. Việc trừng trị các hành vi
suy thoái về đạo đức còn hạn chế, nhiều hành vi suy thoái nhưng không thể trừng trị
bằng pháp luật mà nguyên nhân là sự qui định của pháp luật chưa phù hợp, nhiều
trường hợp, rào cản lại xuất phát từ chính các chuẩn mực đạo đức. Pháp luật đã có
các qui định về xử lý những người có hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng… Tuy nhiên, trên thực tế,
những hành vi này hầu như rất ít khi bị xử lý. Theo qui định của pháp luật hiện
hành, những hành vi nêu trên thông thường chỉ bị xử lý khi có đơn yêu cầu của
người bị hại. Trong khi đó, nhiều ông bố, bà mẹ, nhiều người vợ không dám mạnh
dạn tố cáo những đứa con, những người chồng vô đạo đức đó vì muốn “êm cửa êm
nhà”, “trong ấm, ngoài êm”; vì sợ “vạch áo cho người xem lưng”... Nhiều người
vợ cam tâm nhẫn nhục chịu đựng chỉ vì “xấu chàng thì hổ ai”...
Thứ năm, pháp luật chƣa ngăn ngừa đƣợc hiện tƣợng vô cảm, một hiện
tƣợng đạo đức đáng báo động trong xã hội Việt Nam hiện nay
Có thể nói, trong xã hội chúng ta ngày nay, vô cảm đang là một hiện tượng
rất đáng báo động. Hiện tượng này diễn ra “nhan nhản” trong đời sống, đặc biệt ở
các thành phố đất chật, người đông nhưng các mối quan hệ xã hội lại lỏng lẻo và sự
phân hóa giầu nghèo ngày càng rõ rệt. “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”,
mạnh ai nấy sống, sự thờ ơ với nỗi đau của người khác dường như trở thành chuyện
“thường ngày ở huyện”.
Chính quyền vô cảm với người dân, “việc quan nóng như nước lã”, “dân có
cần nhưng quan không vội”, người ta thờ ơ với yêu cầu, đòi hỏi của dân, người ta
lạnh lùng với dân mỗi khi không thấy có “phong bì”, người ta thản nhiên như không
có chuyện gì xảy ra khi tài sản của nhà nước bị thất thoát, bị hư hại, bị đục khoét,
lãng phí. Bác sĩ vô cảm với bệnh nhân, từ chối, không cho bệnh nhân nhập viện chỉ
vì không đủ tiền viện phí, đã có trường hợp nạn nhân chết vì bác sĩ yêu cầu có tiền
mới cấp cứu [133]. Người dân vô cảm với nhau, người ta làm ngơ khi thấy người
khác vi phạm pháp luật, người ta quay mặt đi, vờ như không nhìn thấy khi đồng loại
bị kẻ ác tấn công. Tai nạn giao thông xảy ra, người ta không những không ra tay
cứu giúp mà còn xông vào “hôi của” để lấy hết tài sản, hàng hóa của nạn nhân.
Theo kết quả của một cuộc điều tra xã hội học, có tới 71.3% học sinh và 75% sinh
viên làm ngơ khi thấy người khác làm sai pháp luật [32, tr.294]. Người sản xuất vô
148
cảm với người tiêu dùng, người ta dùng đủ mọi biện pháp kể cả biện pháp trái đạo
đức, trái pháp luật, cốt là để thu lời bằng mọi giá. Hóa chất kích thích tăng trưởng,
kích thích thị hiếu người tiêu dùng, biến từ sản phẩm thiu thối thành sản phẩm có
chất lượng… ngày càng được nhiều nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm sử dụng. Đặc
biệt, những hành vi trái pháp luật, không còn nhân tính xảy ra trong xã hội ngày
càng nhiều.
Dư luận phẫn nộ, bất bình với hành động của những kẻ máu lạnh! Dường
như cái ác lên ngôi, giá trị nhân bản đang bị chìm lấp. Tình người dường như bị
lãng quên, lương tâm dường như chìm vào dĩ vãng! Cuộc sống là tình người, cuộc
đời là hạnh phúc, cuộc sống sẽ trở nên không còn ý nghĩa khi con người vô tình, vô
cảm, trở thành những “máy sống”. Tất nhiên, vô cảm là một hiện tượng luôn tồn tại
cùng xã hội, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Điều đáng quan ngại là hiện tượng
này ngày càng có biểu hiện lan rộng, đặc biệt trong tầng lớp trẻ. Lý giải điều này,
nhiều nhà khoa học cho rằng, nước ta đang có sự chuyển mình giữa nền văn minh
lúa nước và văn minh công nghiệp nên đang có sự đứt gẫy về hệ thống giá trị sống,
yếu tố huyết thống, yếu tố xóm giềng “thứ nhất cận lân”, “tối lửa tắt đèn có nhau”
bị nhạt nhòa đi, trong khi trình độ văn minh tiến bộ chưa được định hình rõ, cái tốt
không phải là mất nhưng nó không đủ sức mạnh để thắng thế trong đám đông,
không thắng thế được cái ác “đang đục nước béo cò”.
Trong điều kiện đó, hiện tượng vô cảm dường như chưa nhận được sự “quan
tâm” đúng mức của xã hội, đặc biệt là nhà nước. Pháp luật chưa thực sự “mạnh tay”
trong việc ngăn ngừa tình trạng lương thực, thực phẩm không đảm bảo chất lượng.
Tình trạng lợi dụng lòng tin của người bệnh, một số người tự xưng là thầy lang, nhà
ngoại cảm… tổ chức khám chữa bệnh không được ngăn chặn kịp thời. Trong hệ
thống pháp luật hiện hành còn thiếu các chế tài đủ mạnh để xử lý tình trạng cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước thờ ơ, vô cảm trước quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân. Nhiều trường hợp đã có các qui định của pháp luật
nhưng rất khó thực hiện. Đặc biệt, với thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún của nền
nông nghiệp nước ta, thì có thể nói, các biện pháp pháp lý cũng khó có thể phát huy
tác dụng. Điều này đặt ra vấn đề phải đổi mới chủ trương, chính sách, pháp luật đối
với những trường hợp sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún. Theo qui định của pháp luật hiện
hành, có trường hợp người gây tai nạn giao thông làm nạn nhân mất khả năng lao
động phải bồi thường số tiền lớn hơn so với trường hợp làm nạn nhân tử vong. Đây
chính là kẽ hở của pháp luật mà có kẻ vô cảm đến mất nhân tính đã có hành vi “chà
đi chà lại” làm cho nạn nhân chết hẳn. Đối với trường hợp này, xử lý hình sự về tội
149
giết người hết sức khó khăn vì không đủ chứng cứ. Hiện tượng Lê Văn Luyện thảm
sát cả gia đình chủ tiệm vàng ở phố Sàn, Huyện Lục Nam, Tỉnh Bắc Giang bị tòa sơ
thẩm tuyên phạt 18 năm tù cũng đã làm nảy sinh những vấn đề về mặt pháp lý trong
dư luận xã hội. Rõ ràng với thực tế đó, pháp luật khó có thể ngăn chặn có hiệu quả
tình trạng vô cảm trong xã hội.
Thứ sáu, đạo đức trong xã hội xuống cấp là một trong những nguyên
nhân làm vi phạm pháp luật có chiều hƣớng gia tăng
Có thể nói, tình hình vi phạm pháp luật thời gian quan đang có chiều hướng
gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Theo báo cáo của Tòa án nhân dân
Tối cao, năm 2009, toàn ngành tòa án thụ lý 65.578 vụ án, với 114.818 bị cáo, năm
2010 thụ lý 71.680 vụ án, với 121.793 bị cáo, năm 2011, chỉ tính số vụ án đã xét xử
được (đạt 97%) là 75.014 với 127.247 bị cáo [107,108,109]. Như vậy, tính bình
quân, hàng năm số vụ án cũng như số bị cáo tăng thêm khoảng 10%, đặc biệt,
“trung bình mỗi năm, tội phạm là người vị thành niên tăng khoảng 20,24%, lớn gấp
đôi so với mức tăng tội phạm thông thường” [84, tr.29], đây là con số không nhỏ,
phản ánh tình hình phức tạp ngày càng gia tăng của đời sống xã hội. Tình hình tội
phạm trong lĩnh vực ma túy ngày càng trở nên phức tạp, số lượng ma túy bị phát
hiện ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi, táo tợn, mặc dù bị trừng trị cực kì
nghiêm khắc, song vẫn liên tiếp xảy ra mà hành vi sau lại nghiêm trọng hơn hành vi
trước. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, cụm từ “đây là vụ án lớn nhất từ
trước tới nay” xuất hiện ngày càng nhiều. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật thể hiện
tính chất man rợ, côn đồ. Hiện tượng vi phạm pháp luật với cách thức và thủ đoạn
thực hiện hành vi hết sức dã man như giết người rồi chặt nhỏ ra từng khúc, giết
người bằng công cụ có khả năng làm chết nhiều người… cũng xuất hiện ngày càng
nhiều. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật gây ra những hậu quả cực kì nghiêm trọng,
có những vụ gây thất thoát tài sản của nhà nước lên tới nhiều nghìn tỉ đồng. Tình
hình phụ nữ, người chưa thành niên vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Vụ
án Lê Văn Luyện, kẻ chưa đủ 18 tuổi cùng lúc giết ba người trong một gia đình,
trong đó có em nhỏ 18 tháng tuổi là một vụ án gây chấn động dư luận. Hiện tượng
vi phạm pháp luật có tổ chức theo kiểu mafia đã xuất hiện, thậm chí có cả những
"đường dây" vi phạm pháp luật liên quan đến nhiều nước. Nhiều trường hợp, có cả
vợ, chồng, anh, em, bố mẹ, con cái cùng tham gia vào một đường dây vi phạm pháp
luật. Nhiều vụ vi phạm pháp luật có liên quan tới cán bộ, công chức nhà nước, liên
quan tới các cơ quan có chức năng bảo vệ sự tôn nghiêm của luật pháp. Hành vi vi
phạm pháp luật mà giữa người vi phạm và nạn nhân có mối quan hệ đạo đức hết sức
150
gần gũi như quan hệ trong gia đình, quan hệ thầy trò… làm băng hoại đạo đức xã
hội xuất hiện ngày càng nhiều. Hành vi chống đối chính quyền, chống người thi
hành công vụ ngày càng trở thành phổ biến. Như đã đề cập, chất lượng vệ sinh
lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh đang là những vấn đề nhức nhối dư luận
hiện nay. Đáng báo động là trong xã hội ta hiện nay đang xuất hiện một hiện tượng
nghịch lý: tình trạng người lớn sợ trẻ con, người ngay sợ kẻ gian. Tuy nhiên, thực
trạng trên đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng nửa nổi nửa chìm, tình hình vi
phạm pháp luật ẩn có thể nói là không kém phần nghiêm trọng.
Nguyên nhân của tình trạng trên là rất nhiều, có cả những nguyên nhân chủ
quan của người vi phạm, cả những nguyên nhân khách quan thuộc về đời sống kinh
tế xã hội, trong đó sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức là một trong những nguyên
nhân cơ bản. Với câu hỏi: “Ông (Bà) có đồng ý với quan điểm cho rằng: vi phạm
pháp luật gia tăng là do đạo đức xã hội bị tha hóa, xuống cấp không”?, kết quả
khảo sát thu được cho thấy, tuyệt đại đa số người được hỏi đồng tình với quan điểm
này. Cụ thể như sau:
Bảng 4.10. Ý kiến cơ quan bảo vệ pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 255 81.0 81.0 81.0
Không 59 18.7 18.7 99.7
Không hợp lệ 1 0.3 0.3 100.0
Tổng 315 100.0 100.0
Bảng 4.11. Ý kiến người dân
Đạo đức xã hội xuống cấp, những chuẩn mực đạo đức không còn ý nghĩa
ràng buộc, chi phối hành vi, không còn ý nghĩa ngăn ngừa những hành vi vi phạm
pháp luật. “Tính cách, lối sống của cá nhân cộng với sự thiếu trách nhiệm đạo đức
của họ dẫn đến ý thức, thái độ coi thường pháp luật” [95, tr.14]. Ý thức đạo đức cá
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 247 90.1 90.1 90.1
Không 27 9.9 9.9 100.0
Tổng 274 100.0 100.0
151
nhân bị suy giảm, lòng tự trọng không còn, sự xấu hổ biến mất, lương tâm con
người không còn là vị thần khuyến thiện, trừ ác, nó đã bị vẩn đục. Đó chính là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến hiện tượng vi phạm pháp luật.
Trên đây trình bày thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay. Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của
những hạn chế, tồn tại sẽ là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phù hợp, phát huy có
hiệu quả yếu tố tích cực, giảm thiểu đến mức thấp nhất những hạn chế, khiếm
khuyết trong mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
152
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Thực trạng quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện hiện nay ở
Việt Nam như một bức tranh có nhiều điểm sáng, đồng thời có cả những khoảng tối.
Điểm tích cực lớn nhất là nhìn chung pháp luật đã được xây dựng trên nền tảng các
quan niệm, quan điểm đạo đức của nhân dân lao động, ghi nhận, thể chế hóa những
quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đó. Nhờ đó, pháp luật về cơ bản đã phản
ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do
dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Do vậy, cùng với các công cụ
quản lý khác, đạo đức xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật trong việc
điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Đạo đức còn tạo điều kiện để pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống bằng ý thức tự giác của người dân.
Ngược lại, pháp luật Việt Nam hiện hành đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn
và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói, các quan niệm,
quan điểm, chuẩn mực đạo đức cách mạng, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc đã được phản ánh tương đối đầy đủ trong hệ thống pháp luật. Các quan niệm, tư
tưởng qui tắc đạo đức về nhân đạo, đại đoàn kết dân tộc, về nghĩa vụ, bổn phận của
cán bộ công chức nhà nước đối với nhân dân, các quan niệm, quan điểm, chuẩn
mực đạo đức về các mối quan hệ trong gia đình… đã được pháp luật hóa, trở thành
những quy phạm pháp luật, được đảm bảo thực hiện không chỉ bằng dư luận xã hội
và lương tâm của chủ thể mà còn được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng giữ vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự thoái hoá,
xuống cấp của đạo đức, loại trừ những quan niệm, quan điểm, qui tắc tư tưởng đạo
đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ. Đồng thời, pháp luật đã góp phần tích cực trong việc
ngăn chặn sự hình thành và đi tới loại bỏ những quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo
đức lệch lạc, phản tiến bộ, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, tạo điều kiện làm
hình thành những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ.
Bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức ở nước ta hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định. Trong một số trường hợp
chưa phân định rõ ranh giới điều chỉnh giữa pháp luật và đạo đức, đã có sự “vượt
ngưỡng” trong một số quy định của pháp luật, dẫn đến sự “lấn sân” đạo đức. Nhiều
trường hợp, sự pháp luật hoá các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức còn quá
khái quát, chưa cụ thể, vì vậy khó thực hiện một cách thống nhất và hiệu quả trên
thực tế. Nhiều quan niệm, tư tưởng, qui tắc đạo đức lạc hậu, không phù hợp vẫn còn
tồn tại; hiện tượng suy thoái về đạo đức chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
153
Chính sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức ở nước ta trong thời gian vừa qua đã là
một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng vi phạm pháp luật có chiều
hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại sẽ
là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phù hợp, nhằm phát huy có hiệu quả yếu tố tích
cực, giảm thiểu đến mức thấp nhất những hạn chế, khiếm khuyết trong mối quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức. Qua đó, kết hợp một cách chặt chẽ hài hòa pháp luật với
đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
154
Chƣơng 5: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
5.1. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc kết hợp pháp luật và đạo đức
Sự phân tích ở các chương trên đã cho thấy sự cần thiết, tất yếu phải kết hợp
giữa pháp luật với đạo đức trong điều chỉnh hành vi con người, quản lý xã hội, đặc
biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Để đạt được
mục tiêu này, cần quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:
Một là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm đẩy mạnh quá
trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã và đang thu được
những thành tựu khá quan trọng. Một trong những mục tiêu của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, các giá trị con người; xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ:
“Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
[24, tr.246]. Tuy nhiên, quá trình này vẫn đang gặp phải những cản trở không nhỏ,
đó là truyền thống của một xã hội duy tình, coi trọng đạo lý, người dân chưa xây
dựng được lối sống theo pháp luật, thói quen xử sự theo pháp luật. Chính vì vậy,
việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức phải nhằm tháo gỡ những khó khăn, cản
trở, qua đó thúc đẩy quá trình tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức chính là nhằm xây dựng một hệ
thống pháp luật dân chủ, phù hợp với các giá trị chân, thiện, mỹ, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, các giá trị con người. Đồng thời, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức
cũng là làm cho các giá trị đạo đức thẩm thấu vào trong các qui định của pháp luật,
làm cho lương tâm, tình cảm con người trở thành động lực thúc đẩy việc thực hiện
pháp luật. Nói cách khác, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức chính là nhằm
làm cho pháp luật và đạo đức trở nên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau, trở
thành tiền để của nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Như vậy, việc kết hợp giữa pháp
luật trở thành động lực thúc đẩy việc xây dựng nhà nước pháp quyền, làm cho quá
trình này diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, về đích sớm hơn.
Hai là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm xây dựng nền tảng
pháp lý vững chắc cho việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc
155
Có thể nói, hơn bao giờ hết, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường,
hợp tác và hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đang
đứng trước những thách thức gay gắt. Bởi vậy, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo
đức phải đảm bảo một mặt nhằm giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống,
mặt khác nhằm loại trừ những quan niệm, qui tắc đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, trái
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.
Tuy nhiên, cần lưu ý là việc giữ gìn các giá trị truyền thống là nhằm tạo điều kiện
cho kinh tế xã hội phát triển. Nói cách khác, giữ gìn các giá trị truyền thống là để
phục vụ phát triển chứ không được cản trở phát triển. Việc kết hợp giữa pháp luật
với đạo đức nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến nhưng đậm đà bản
sắc dân tộc; xây dựng bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn người Việt, nhất là đối với thế hệ
trẻ, những người ít chịu ảnh hưởng bởi truyền thống, đang có xu hướng xa dần
truyền thống.
Ba là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải đƣợc quán triệt cả trong
hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức phải được quán triệt một cách sâu
sắc từ lý luận đến thực tiễn, từ nhận thức đến hành động. Từ trong tư duy đến các
hoạt động hàng ngày, từ các hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp
luật của nhà nước, đến mọi hành vi thực hiện pháp luật của người dân luôn phải
được quán triệt một cách sâu sắc quan điểm về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp
luật và đạo đức.
Trước hết, về mặt nhận thức, trong tư duy mỗi người phải thực sự thấy được
ý nghĩ to lớn của đạo đức trong quản lý xã hội. Xuất phát từ nhận thức đó, cơ quan
xây dựng pháp luật phải chú trọng quán triệt các quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo
đức trong quá trình xây dựng các qui định của pháp luật: xây dựng pháp luật phải
trên nền tảng đạo đức; không được ban hành những qui định trái đạo đức; ghi nhận,
thể chế hóa những quan điểm, chuẩn mực đạo đức thành pháp luật; qui định các
biện pháp pháp lý nhằm bảo đảm cho những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được thực
hiện cũng như loại trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức lạc hậu khỏi đời sống
xã hội...
Thứ hai, cơ quan thực thi pháp luật, trong quá trình thực thi pháp luật, phải
luôn chú trọng kết hợp yếu tố đạo đức: phải chú trọng công tác tuyên truyền, giáo
dục để toàn xã hội có sự nhận thức đúng đắn về vai trò của pháp luật và đạo đức
trong quản lý xã hội; tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm giáo dục pháp luật, đạo
đức một cách sâu rộng trong nhân dân nhằm trang bị cho họ tri thức pháp luật, đạo
156
đức, khơi dậy ở họ thái độ tôn trọng pháp luật, tình cảm đạo đức trong sáng; làm
hình thành ở họ thói quen xử sự theo pháp luật đồng thời vẫn luôn coi trọng các
chuẩn mực đạo đức… Trong hoạt động áp dụng pháp luật cần hết sức coi trọng việc
giáo dục, thuyết phục, kể cả trong khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
vẫn phải hết sức chú trọng công tác giáo dục ý thức pháp luật, đạo đức cho đối
tượng bị áp dụng pháp luật.
Mọi thành viên trong xã hội trong ứng xử hàng ngày của mình luôn phải đặt
vấn đề kết hợp pháp luật với đạo đức. Phải làm cho các giá trị đạo đức thẩm thấu
vào mọi hành vi pháp luật của chủ thể. Tuy nhiên, cần hết sức phân biệt sự kết hợp
với sự thay thế lẫn nhau giữa pháp luật với đạo đức. Đối với những quan hệ xã hội
đã được pháp luật điều chỉnh, tuyệt đối không thể dùng đạo đức để thay thế, không
thể để yếu tố tình cảm lấn át yếu tố ý chí, không thể vì nể nang, vì sợ mất tình cảm
mà dùng chữ “tín” của đạo đức để thay thế cho các qui định của pháp luật. Ở đây,
cần thực hiện đúng phương châm “mất lòng trước, được lòng sau”, có lý trước, có
tình sau, tình cảm cũng phải đặt trong giới hạn của luật pháp.
Bốn là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải phục vụ quá trình hợp
tác, hội nhập quốc tế.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức nhằm tạo lập nền tảng văn hóa vững
chắc cho hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, khi công cuộc hợp
tác, hội nhập quốc tế càng được mở rộng và đẩy mạnh thì cùng với những yếu tố có
ích du nhập vào trong nước, những yếu tố bất lợi cũng tràn vào. Có thể nói, cùng
với nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học kĩ
thuật…, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức, tôn giáo, văn hóa, nghệ
thuật, lối sống… bên ngoài cũng đồng loạt tràn vào nước ta một cách mạnh mẽ,
trong đó có cả những yếu tố tích cực, cả những yếu tố tiêu cực, trái thuần phong mỹ
tục, trái đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Do vậy, việc kết hợp giữa pháp
luật với đạo đức chính là nhằm tạo ra một màng lọc tốt nhất cho việc tiếp thu những
cái mới, có lợi, có ích cho sự phát triển đất nước, ngăn chặn có có hiệu quả sự tác
động của những yếu tố tiêu cực, độc hại bên ngoài ảnh hưởng đến truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tạo lập nền tảng văn hóa vững chắc đảm bảo cho quá trình hợp tác,
hội nhập thành công.
Năm là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức cần đặt trong việc đổi mới hệ
thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội (hệ thống thể chế xã hội)
Để điều chỉnh hành vi con người, có nhiều công cụ khác nhau, bao gồm đạo
đức, pháp luật, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo (giáo lý, giáo luật), nội qui, kỷ
157
luật của các cơ quan, tổ chức, lệ làng, hương ước… (gọi chung là hệ thống thể chế
xã hội). Giữa các loại thể chế xã hội vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt và
vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa pháp luật và
đạo đức không thể tiến hành một cách riêng rẽ, mà cần đặt trong bối cảnh chung đổi
mới toàn bộ hệ thống thể chế xã hội. Như phần trên đã chỉ rõ, phong tục tập quán,
tín điều tôn giáo có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến bản pháp luật, đạo đức cũng như
mối quan hệ giữa chúng. Do vậy, cùng với việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức không thể không tính đến những yếu tố này. Một mặt cần có
giải pháp loại bỏ những tập quán cổ hủ, lạc hậu còn tồn tại ở nhiều địa phương, mặt
khác cần chú trọng duy trì và phát huy những giá trị của luật tục, nhất là đối với
cộng đồng các dân tộc thiểu số [49, tr.2]. Tìm hiểu những phong tục tập quán tốt
đẹp của dân tộc để lồng ghép chúng vào nội dung của các quy định pháp luật. Các
lệ làng, hương ước vốn được sử dụng lâu đời để điều chỉnh đời sống của cộng đồng
dân cư ở làng xã cần được khôi phục, gìn giữ để phát huy vai trò của chúng trong
đời sống. Khuyến khích các thôn, ấp, làng, bản, tổ dân phố ban hành hương ước, qui
ước, phát động phong trào xây dựng làng văn hóa, khu dân cư văn hóa. Khuyến
khích các tổ chức xã hội ban hành các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Xây dựng
thói quen sống có chuẩn mực, có qui tắc, tôn trọng các qui tắc sinh hoạt công cộng.
Sáu là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm ngăn ngừa, giảm
thiểu có hiệu quả vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức
Có thể nói, tình hình vi phạm pháp luật gia tăng trong xã hội là một trong
những cản trở to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay. Như đã đề cập, một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức xã hội. Chính vì vậy, trong công cuộc đấu
tranh phòng và chống vi phạm pháp luật phải hết sức coi trọng kết hợp pháp luật và
đạo đức. Một mặt, nhà nước và toàn xã hội phải thực sự thấm nhuần sâu sắc vai trò
của pháp luật và đạo đức trong xã hội, các qui định của pháp luật về vi phạm pháp
luật và xử lý vi phạm pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức, phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức. Mặt khác, phải luôn coi trọng công tác giáo dục nâng
cao đạo đức cho các thành viên trong xã hội, giáo dục trách nhiệm của con người
trước đồng loại trong việc khuyến thiện, trừ ác. Công việc này phải có sự phân loại
đối tượng để tiến hành cho phù hợp. Đồng thời, phải phát huy vai trò của tổ chức,
các cộng đồng dân cư, của dư luận xã hội trong công tác đấu tranh phòng và chống
vi phạm pháp luật.
158
5.2. Những giải pháp cơ bản kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng cao hiệu
quả điều chỉnh quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
Việt Nam hiện nay
Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời kết hợp giáo dục nâng cao đạo đức
là nguyên tắc nhất quán, là quan điểm chỉ đạo trong nhận thức cũng như thực tiễn
quản lý xã hội ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Để hiện thực hóa quan điểm
chỉ đạo này, cần thực hiện một cách đồng bộ hàng loạt giải pháp, bao gồm cả
những giải pháp pháp lý, đạo lý và những giải pháp kinh tế xã hội, trong đó nhấn
mạnh cả những giải pháp trong hành động thực tiễn, cả những giải pháp về vấn đề
nhận thức lý luận.
Pháp luật và đạo đức thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, sinh ra từ
tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Bởi vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải tạo và xây dựng những quan niệm quan điểm đạo đức, vấn đề
cơ bản và xuyên suốt là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Về nguyên tắc, một quan điểm, tư tưởng chính trị,
pháp luật, đạo đức... dù lạc hậu, phản tiến bộ, tiêu cực cũng chưa bị thủ tiêu nếu cơ
sở kinh tế sản sinh ra nó, điều kiện cho sự tồn tại của nó vẫn còn hiện diện trên thực
tế. Vì vậy, muốn xoá bỏ một quan điểm, tư tưởng đạo đức lạc hậu nào đó, muốn xây
dựng một tư tưởng, quan điểm đạo đức mới..., trước hết phải xoá bỏ triệt để cơ sở
kinh tế mà trên đó tư tưởng cũ tồn tại, đồng thời phải xây dựng được một nền tảng
kinh tế mới. Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền dựa trên một nền kinh tế tiểu
nông, sản xuất nhỏ, làm ăn cá thể, manh mún. Trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay, yếu tố sản xuất nhỏ vẫn còn khá phổ biến, tư tưởng
tiểu nông vẫn còn ảnh hưởng khá nặng nề. Chính vì vậy, trong xã hội vẫn còn điều
kiện thực tế cho các tư tưởng đạo đức lạc hậu, không phù hợp như tư tưởng trọng
nam khinh nữ, tư tưởng cục bộ, bản vị, thói gia trưởng... tồn tại và phát triển. Cải
tạo cơ sở kinh tế xã hội cũ, xây dựng nền kinh tế mới thực chất là xoá bỏ cơ sở kinh
tế cho sự tồn tại của các quan điểm quan niệm cũ, nhằm tạo môi trường và cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của các quan niệm, quan điểm đạo đức, pháp luật mới.
Cùng với việc xây dựng nền kinh tế mới, phải tiến hành đồng bộ các giải pháp xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống toàn
diện của con người.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, kinh tế không phải là yếu tố duy nhất tác
động đến pháp luật và đạo đức. Bởi vậy, cùng với việc phát triển kinh tế xã hội, cần
phải chú trọng nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa pháp
159
luật, văn hóa đạo đức cho người dân. Đồng thời phải quan tâm giải quyết thật tốt
các vấn đề thuộc đời sống chính trị, văn hóa, tôn giáo... của nhân dân.
Như trên đã đề cập, pháp luật và đạo đức là những yếu tố thuộc lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội, vì thế, chúng có những qui luật riêng. Chính vì vậy, để sử
dụng kết hợp chặt chẽ, hài hòa pháp luật và đạo đức nhằm nâng cao hiệu quả điều
chỉnh các mối quan hệ lý xã hội, cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
5.2.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của pháp luật, đạo đức cũng nhƣ mối quan
hệ giữa chúng
Như đã trình bày, giữa pháp luật và đạo đức, mỗi phương tiện vừa có những
ưu thế, vừa có những hạn chế nhất định, không có phương tiện nào có thể điều
chỉnh một cách có hiệu quả tất cả các quan hệ xã hội. Đạo đức không thể thay thế
cho pháp luật cũng như pháp luật cũng không thể thay thế cho đạo đức.
Nếu con người chỉ sống có tình với nhau theo phương châm "chín bỏ làm
mười", "bán anh em xa mua láng giềng gần" mà quên rằng trong xã hội còn
bọn trộm cướp, lừa đảo, cửa quyền... thì tình nghĩa chỉ là sợi dây trói người
trung thực và mở cửa cho nhân cách xấu xuất hiện. Ngược lại nếu xã hội
nhất cử nhất động đều được qui chuẩn theo luật thì con người sẽ trở thành
cỗ máy [47, tr.91].
Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội, có những quan hệ xã
hội không cần sự điều chỉnh bằng pháp luật, có những quan hệ xã hội pháp luật
không thể điều chỉnh được. Pháp luật cũng không thể điều chỉnh được mọi khía
cạnh, mọi mức độ của các quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ
xã hội không phải khi nào cũng đem lại kết quả như mong muốn. Hiệu quả điều
chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết phải
kể đến sự phù hợp giữa pháp luật với thực trạng của đời sống xã hội, qui luật vận
động và phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, với nhu cầu, nguyện vọng, ý chí,
lợi ích của nhân dân, truyền thống, tập quán của cộng đồng xã hội, tính toàn diện,
thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, kỹ thuật thể hiện điều luật; sự hiểu biết
pháp luật, hiểu biết chuyên môn, tinh thần “phụng công thủ pháp”, “dĩ công vi
thượng” của nhà chức trách… Hiệu quả điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan
hệ xã hội còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý, trình độ dân
trí, ý thức đạo đức, thói quen xử sự theo pháp luật của nhân dân…
Khác với pháp luật, đạo đức có thể điều chỉnh mọi quan hệ trong xã hội. Ở
đâu, bao giờ, khi nào, cứ có sự hoạt động chung của con người là có đạo đức, có sự
điều chỉnh bằng đạo đức đối với hành vi con người. Tuy nhiên, không phải khi nào
160
sự điều chỉnh bằng đạo đức cũng đem lại hiệu quả. Hiệu quả điều chỉnh bằng đạo
đức đối với các quan hệ xã hội cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải kể
đến các yếu tố đó là mức độ phổ biến, thâm nhập của tư tưởng, quan điểm đạo đức
trong nhân dân, truyền thống đạo đức của xã hội, ý thức đạo đức cá nhân, thói quen
xử sự của cộng đồng…
Giữa pháp luật và đạo đức có mối liên hệ, tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Đạo đức xã hội là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đồng thời, đạo đức là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc thực hiện pháp luật. Bên
cạnh sự hiểu biết pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật thì ý thức đạo đức, phẩm
chất đạo đức, nhân cách là nhân tố chủ quan hết sức quan trọng đảm bảo cho các
hành vi hợp pháp được thực hiện. Ngược lại, đạo đức xã hội xuống cấp, ý thức đạo
đức cá nhân thấp kém là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật
gia tăng. Trong trường hợp không có các qui định của pháp luật để áp dụng, đạo
đức như là một nhân tố bổ sung, thay thế cho pháp luật, đảm bảo cho quyết định áp
dụng pháp luật của nhà chức trách trở nên đúng đắn, hợp lý, hợp tình. Pháp luật
cũng có sự tác động mạnh mẽ đến đạo đức. Pháp luật được xây dựng phù hợp với
các quan niệm, quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đạo đức cách mạng và đạo đức tiến bộ có tác động to lớn trong việc củng
cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Pháp luật đóng vai
trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, ngăn
chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức. Bên cạnh đó, pháp luật cũng có vai trò
hết sức quan trọng trong việc loại trừ những quan điểm, qui tắc đạo đức lạc hậu,
phản tiến bộ, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc. "Đạo đức là gốc của pháp lý”,
nhưng pháp lý lại “là chuẩn của đạo đức" [44, tr.25], nghĩa là đạo đức tuy phổ quát
nhưng phải dựa trên cơ sở hệ chuẩn đúng - sai của pháp luật.
Do vậy, trong quản lý xã hội, cần phải nhận thức đúng vai trò, tác dụng, ưu
thế cũng như hạn chế của pháp luật và đạo đức, sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau giữa chúng để sử dụng kết hợp chúng một cách chặt chẽ, nhuần nhuyễn,
có hiệu quả. Quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng phải coi trọng đạo đức, kết hợp
một cách chặt chẽ với đạo đức.
5.2.2. Tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong
lịch sử dân tộc cũng nhƣ của các nƣớc trên thế giới
Trong lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức có thể nói
là được xử lý khá tốt. Trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi con người, đã có sự
kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa pháp luật với đạo đức. Sự kết hợp này không
161
chỉ thể hiện trong hoạt động xây dựng pháp luật mà nó còn quán triệt trong cả quá
trình tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật.
Về mặt quan điểm, tư tưởng, các nhà nước phong kiến Việt Nam luôn có ý
thức kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức. “Sự kết hợp giữa đức trị với pháp
trị từng bước được thẩm thấu vào pháp luật Đại Việt, trở thành tư tưởng chủ đạo
của các nhà làm luật Đại Việt, nhất là từ thời Lê sơ trở đi” [112, tr.357]. Đây là bài
học hết sức quí báu mà ngày nay chúng ta phải tiếp thu. Tất nhiên, điều cần tiếp thu
là quan điểm về sự kết hợp, còn kết hợp như thế nào lại là vấn đề khác. Đương
nhiên, quan điểm “đức chủ, pháp bổ” trong lịch sử không còn phù hợp, trong điều
kiện ngày nay, quan điểm “pháp chủ, đức bổ” phải được xác định là phương châm
hành động khi kết hợp pháp luật với đạo đức.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, pháp luật của các triều đại phong kiến đã
thể chế hóa tương đối đầy đủ những chuẩn mực đạo đức xã hội. Vua Lê Thánh
Tông ban hành 24 điều cụ thể để giáo hóa dân chúng; năm 1662, Vua Lê Huyền
Tông ra một đạo chỉ gồm 47 điều để giáo hóa bổn phận làm con, làm cha mẹ, làm
vợ, làm chồng trong gia đình, làm bạn, làm người trong làng nước, bổn phận của
những người quản dân… Bởi vậy, cùng với “Tài”, “Đức” luôn là yếu tố quan trọng
bậc nhất trong việc đánh giá nhân cách con người. Phương châm dùng người dưới
thời phong kiến luôn là “Lường Tài mà trao chức, so Đức mà định vị”. Để các
chuẩn mực đạo đức xã hội được thẩm thấu và nội tâm hóa thành phẩm chất đạo đức
cá nhân, pháp luật qui định các biện pháp trừng phạt nặng những hành vi xâm hại
các chuẩn mực đạo đức. Nên chăng, trong điều kiện ngày nay, các nhà lập pháp
cũng cần nghiên cứu sâu sắc để tiếp thu bài học này. Trên thực tế, Luật hôn nhân
gia đình Việt Nam năm 2000, Bộ luật dân sự năm 2005… cũng đã qui định một số
nghĩa vụ, bổn phận đạo đức giữa các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, bổn phận
đạo đức của học sinh, sinh viên, của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước… pháp
luật qui định chưa đầy đủ. Thiết nghĩ, trong điều kiện hiện nay, rất cần thiết phải
xây dựng luật đạo đức công vụ.
Về mặt kỹ thuật thể chế hóa quan điểm đạo đức, các nhà lập pháp triều Lê
khi thể chế hoá các quan niệm, quan điểm đạo đức thành pháp luật đã có sự qui định
tương đối cụ thể. Tại các khoản 7, 8, 9, điều 2 Bộ luật Hồng Đức qui định rất cụ thể
những hành vi trái đạo đức (bất hiếu, bất nghĩa…). Chẳng hạn khoản 7, điều 2 Bộ
luật Hồng Đức qui định về các hành vi bị coi là bất hiếu:
Bất hiếu là tố cáo, mắng nhiếc ông bà, cha mẹ; làm ngược lời cha mẹ
dạy bảo; nuôi dưỡng cha mẹ thiếu thốn. Đang khi để tang cha mẹ mà lấy vợ,
162
lấy chồng, gây cuộc vui chơi, ăn mặc quần áo như thường. Nghe thấy tang
ông bà, cha mẹ mà giấu, không khóc thương, cư tang, nói dối là cha mẹ, ông
bà còn sống [62, tr. 33,35].
Điều luật thể hiện khá rõ ràng quan điểm của nhà làm luật. Phạm trù “hiếu
nghĩa” có nội dung rất rộng lớn, bởi vậy, xét về mặt đạo đức, còn nhiều hành vi
khác có thể bị coi là bất hiếu, song pháp luật thì chỉ xử lý các hành vi bất hiếu nêu
trên, các hành vi "bất hiếu" khác nếu có, pháp luật không phán xét chúng. Hoặc
điều 30, đạo chỉ năm 1662 của Vua Lê Huyền Tông ghi rõ: “làm người phải lấy
tam cương, ngũ thường làm đường lối mà theo”. Nội dung của tam cương, ngũ
thường là những vấn đề mà mọi người trong xã hội ai cũng biết. Đây là một bài học
hết sức quí báu mà các nhà lập pháp hiện nay cần nghiên cứu tiếp thu, tránh tình
trạng qui định quá chung chung như điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005: “giao dịch
dân sự có mục đích và nội dung trái đạo đức xã hội thì bị coi là vô hiệu”. Tất nhiên,
Bộ luật cũng giải thích, “đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.
Tuy nhiên, những “chuẩn mực ứng xử” nào được “cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng” thì cách hiểu lại không có sự thống nhất vì mỗi người lại có thể hiểu theo
một cách khác nhau. Như đã chỉ rõ, một trong những sự khác biệt cơ bản giữa pháp
luật và đạo đức là ở tính xác định về hình thức của chúng. Do vậy, nếu một chuẩn
mực ứng xử nào đó đơn thuần chỉ tồn tại dưới dạng đạo đức xã hội thì hoàn toàn có
thể tùy thuộc vào sự “thừa nhận và tôn trọng” của cộng đồng, nhưng một khi đã thể
chế hóa thành pháp luật thì đòi hỏi hình thức thể hiện phải hết sức xác định.
Bộ luật Hồng Đức có qui định về hình phạt biếm tư, có thể nói, đây là một
hình phạt “độc đáo” của pháp luật phong kiến Việt Nam. Theo luận giải của các nhà
khoa học, biếm là hình phạt hạ thấp tư cách của người vi phạm [69, tr.395,396].
Theo qui định pháp luật, người bị biếm một tư sẽ bị hạ một phẩm (trong cửu phẩm)
và do vậy bị hạ thấp chức vụ một bậc. Pháp luật cũng qui định sau chín năm (thời
Nguyễn là 6 năm), qua 3 lần sơ khảo, vị quan lại nào không có sai sót gì sẽ được
thăng một tư, tương đương thăng một phẩm. Trong một chừng mực nào đó, có thể
so sánh hình phạt này với biện pháp khiển trách, cảnh cáo ngày nay, tuy nhiên, ý
nghĩa của nó rộng lớn hơn nhiều. Một khi bị hạ thấp tư cách thì vấn đề trở nên trầm
trọng hơn nhiều so với khiển trách, cảnh cáo. Thực tế cho thấy, tác động của biện
pháp khiển trách, cảnh cáo trên thực tế hầu như rất nhỏ. Vì vậy, cần thiết phải phục
hồi biện pháp biếm tư trong xử lý kỷ luật đặc biệt đối với cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước, học sinh, sinh viên…
163
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đạo đức được các nhà nước phong
kiến hướng đến từng gia đình. Sau khi đã thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức thành
pháp luật, nhà nước“sức cho dân xã thường ngày giảng đọc, để giữ lấy luân thường
đạo lý trong gia đình và thuần phong mỹ tục trong xã hội” [112, tr.357]. Thiết nghĩ,
đây là một bài học quí báu mà chúng ta phải tiếp thu. Theo đó, nhà nước có thể tổ
chức biên soạn những qui định thiết thực nhất, có ý nghĩa nhất trong đời sống hàng
ngày đối với người dân, in thành những cuốn nhỏ, kiểu tờ rơi, phát cho từng gia
đình. Đặc biệt, ở khu vực các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, sự ảnh hưởng bởi
quan niệm đạo đức cũ, tập quán lạc hậu… còn nặng nề, việc làm này thực sự có ý
nghĩa.
Cùng với việc tiếp thu kinh nghiệm của dân tộc trong lịch sử, cần nghiên cứu
tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có điều kiện
kinh tế xã hội tương tự như Việt Nam. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử của chính
Việt Nam đã cho thấy không thể tiếp thu nguyên xi một bài học từ một nước nào
đó, bởi một bài học có thể tốt cho nước này, ở giai đoạn này nhưng lại không tốt
cho nước khác, giai đoạn khác. Vì vậy, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của nước
ngoài cần phải hết sức thận trọng, nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện kinh
nghiệm của nước bạn và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam. Có thể nghiên
cứu, học hỏi một số bài học sau đây của các nước trên thế giới:
Một là, nhiều nước như trên thế giới đều có các bộ chuẩn mực giá trị chung
cho toàn xã hội. Indonesia có “Panca Sila”, Malayxia có “Recunegara”, Thái Lan
có năm giá trị cơ bản do Nhà Vua qui định, Xingapo có năm quan niệm chung về
giá trị do Quốc hội ban hành [123, tr.182-187], Nhật Bản có “Giri” [80] … Có thể
hiểu một cách đơn giản nhất, đó là những bộ chuẩn mực giá trị chung, ngắn gọn, cô
đọng, được toàn xã hội tán thành. Nó có ý nghĩa như là những “triết lý dân tộc”,
chuẩn mực hành động chung cho toàn xã hội. Ở Nhật Bản, qui tắc “giri” có vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, “các quy tắc “giri” -
các quy tắc truyền thống mà người Nhật nghiêm chỉnh tuân thủ đã thay thế vị trí
quan trọng của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội” [80].
Hai là, công tác giáo dục đạo đức, pháp luật ở nhiều nước trên thế giới được
tiến hành hết sức bài bản, khoa học, vì vậy rất có hiệu quả. Chẳng hạn, ở Indonesia,
việc giáo dục bộ qui tắc Panca Sila được xây dựng thành môn học bắt buộc cho mọi
tầng lớp và được đề cao trong các kỳ thi quốc gia, nhà nước tổ chức ra các cơ quan
cấp quốc gia và cấp tỉnh để thực hiện, phát triển, giám sát và đánh giá kết quả giáo
dục Panca Sila trong toàn quốc; ở Thái Lan, nhà nước xây dựng các chương trình
164
hành động cụ thể để giáo dục và phổ cập các giá trị xã hội cơ bản; ở Xingapo, nhà
nước xây dựng thành chiến lược mang tính tổng thể về kinh tế, xã hội, văn
hóa…[123, tr.182-187]. Ở Trung Quốc có Hiệp hội nghiên cứu đạo đức Quốc gia.
Vừa qua, tổ chức này có sáng kiến mở những lớp học 100 ngày để dạy trẻ em về
lòng hiếu thảo với cha mẹ [132].
Thứ ba, cùng với việc xây dựng và giáo dục các chuẩn mực giá trị trong toàn
xã hội, các nước đều hết sức chú trọng công tác ngăn ngừa sự thoái hóa, xuống cấp
của đạo đức, ngăn ngừa sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa nước ngoài. Chẳng hạn,
Chính phủ Thái Lan chủ trương hạn chế thấp nhất các cuộc thi hoa hậu vì cho rằng
nó làm “tổn thương vẻ đẹp dân tộc bởi những trò chơi công nghiệp”; Xingapo luôn
giữ cảnh giác cao đối với văn hóa nước ngoài [123, tr.182-187].
5.2.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng các quan
điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội
Pháp luật phải thực sự phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích
của nhân dân, là công cụ hữu hiệu bảo đảm và bảo vệ các quyền, các lợi ích của
người lao động, là công cụ để bảo vệ chân, thiện, mỹ, diệt trừ cái ác, cái bất công,
thiết lập trật tự, kỉ cương xã hội, thiết lập môi trường nhân đạo, nhân văn, vì con
người, phục vụ con người. Để có được điều đó, phải có sự đổi mới một cách căn
bản từ trong nhận thức, tư duy của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước,
đặc biệt là những người có thẩm quyền xây dựng pháp luật. Tư tưởng nhà nước của
dân, do dân, vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước là công bộc của dân;
nhà nước được tổ chức ra để phục vụ nhân dân... phải được thấm nhuần sâu sắc
trong tất cả mọi nhân viên nhà nước. Có thể nói, ở nước ta, tư duy kinh tế đã được
đổi mới khá căn bản, từ một nền kinh tế tập trung, bao cấp đã chuyển hẳn sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ một nền kinh tế tự cấp, khép kín
đang tích cực chuyển sang hợp tác, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, tư duy chính trị trên đây thì chưa được thấm nhuần trong bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Rất nhiều cán bộ, công chức
viên chức nhà nước vẫn tự coi mình là người có quyền, là người ban ơn, phát lộc
cho dân, dân cần thì phải đi xin, khi đó, nếu có thể được thì mới cho... Chính vì vậy,
rất nhiều qui định của hệ thống pháp luật được ban hành cốt là để thuận lợi cho
công việc quản lý của nhà chức trách, việc thực hiện nó như thế nào là công việc
của dân, dân gặp khó khăn lại phải tìm cách cầu cạnh, xin sỏ nhà chức trách. Để có
thể xoá bỏ được tình trạng trên đây, điều quan trọng là phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ, công chức vừa có Tài, vừa có Đức mà nhiều tác giả đã đề cập một cách
165
hình ảnh là có Tâm, có Tầm, có Tài, trong đó, Đức (Tâm) phải được coi là gốc. Đây
là vấn đề tuy không mới, nhưng để thực hiện lại không hề đơn giản, đặc biệt thời
gian vừa qua, ở nhiều nơi trên cả nước nhất là tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, khá nhiều nhân viên nhà nước đã rời bỏ bộ máy nhà nước ra làm việc cho các
doanh nghiệp nước ngoài, công ty tư nhân. Có nhiều nguyên nhân của hiện tượng
này, một trong những nguyên nhân đó là vấn đề tiền lương, chế độ thù lao chưa
xứng đáng. Do đó, một trong những giải pháp xây dựng đội ngũ nhân viên nhà nước
trong sạch vững mạnh là cải cách chế độ tiền lương sao cho cán bộ, công chức có
thể tồn tại bằng thu nhập chân chính của họ. Đồng thời, xử lý thật kiên quyết những
người có các biểu hiện coi thường dân, sách nhiễu, cửa quyền, ức hiếp dân...
Pháp luật được ban hành phải trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm giữ gìn và phát huy những quan điểm, quan
niệm đạo đức đó. Pháp luật được ban hành phải đóng vai trò là công cụ hữu hiệu để
ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức, góp phần quan trọng vào việc loại
bỏ những quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ. Vì
vậy, khi xây dựng pháp luật cần quán triệt một cách sâu sắc nguyên tắc về sự phù
hợp giữa những qui định cần ban hành với những giá trị đạo đức, truyền thống tốt
đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của nhà
nước pháp quyền. Các giá trị truyền thống là vốn quí báu của tất cả các dân tộc trên
thế giới, giữ gìn giá trị truyền thống thực chất nhằm phục vụ cho sự phát triển. Do
đó, nếu việc giữ gìn truyền thống mà ảnh hưởng đến sự phát triển thì phải lựa chọn
sự phát triển, nói cách khác, sự phát triển luôn phải được xác định là ưu tiên hàng
đầu. Vừa qua, tại Hà Nội, trên công trường thi công đường Văn Cao - Hồ Tây, khi
công nhân thi công trụ móng cầu vượt trên đường Hoàng Hoa Thám có phát hiện
nhiều di vật khảo cổ học từ thời Lý, Trần. Nhiều ý kiến phản đối đồng loạt nổ ra, kể
cả nhân dân trong vùng, kể cả nhiều tổ chức hữu quan, Hội khoa học Lịch sử, Viện
khảo cổ học… cũng vào cuộc. Sau khi có sự bàn bạc trao đổi ý kiến một cách sâu
sắc giữa Thành phố Hà Nội với các cơ quan hữu quan, quyết định cuối cùng được
đưa ra là tiếp tục thi công công trình theo thiết kế. Có thể nói, cách giải quyết đó là
hoàn toàn hợp lý, như đã có dịp đề cập, quá khứ là nền tảng của tương lai, truyền
thống là vốn quí báu của dân tộc, nhưng bảo tồn giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống phải là để phục vụ cho sự phát triển. Không một cá nhân nào có thể
tồn tại nếu chỉ sống bằng hoài niệm, hàng ngày, hàng giờ vấn vương với quá khứ.
Không một quốc gia nào có thể tồn tại nếu chỉ coi trọng yếu tố giữ gìn, bảo lưu
truyền thống mà xem thường yếu tố phát triển, yếu tố hiện đại hóa.
166
Để xây dựng được các qui định pháp luật có chất lượng, có hiệu quả thì bản
thân nhà làm luật phải là những người có đạo đức cách mạng trong sáng, thấm
nhuần một cách sâu sắc các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống của dân tộc
cũng như những quan điểm đạo đức mới tiến bộ. Nhà làm luật phải nghiên cứu thật
kĩ các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội trước khi bắt tay soạn thảo văn bản,
phải xác định được quan niệm, qui tắc đạo đức nào là tốt đẹp, tiến bộ cần thừa nhận,
giữ gìn và phát huy, quan niệm, qui tắc đạo đức nào không còn phù hợp cần phải
loại bỏ... Trước khi ban hành một qui định mới, nhà làm luật cần phải chú ý khía
cạnh đạo đức của nó, xem xét sự phù hợp của nó với các chuẩn mực đạo đức xã hội
cũng như sự tác động tích cực, tiêu cực của nó đối với việc giữ gìn và phát huy các
chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Nói cách khác là xem xét mối quan hệ giữa qui
định cần ban hành với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội để có sự cân nhắc,
điều chỉnh cần thiết sao cho quy định pháp luật đó được ban hành phù hợp nhất, có
lợi nhất và đạt hiệu quả cao nhất về cả hai khía cạnh đạo lý và pháp lý.
Khi luật hóa các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, phải chú ý xác định rõ
phạm vi điều chỉnh, mức độ điều chỉnh của pháp luật, bởi vì như có dịp đã đề cập,
một quan hệ xã hội cụ thể có thể được cả pháp luật và đạo đức cùng điều chỉnh,
nhưng mỗi phương tiện điều chỉnh ở một phạm vi, góc độ, mức độ khác nhau.
Trong quan hệ vợ chồng chẳng hạn, luôn vừa có yếu tố pháp lý, vừa có yếu tố đạo
lý. Pháp luật chỉ nên qui định nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân một vợ một chồng,
vợ chồng bình đẳng, vợ chồng phải tôn trọng nhau, chung thủy với nhau; nghiêm
cấm bạo lực trong gia đình, nghiêm cấm người đang có vợ, chồng kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác… Pháp luật không nên qui định cha mẹ
có nghĩa vụ yêu thương con cái, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương nhau bởi vì, yêu
thương là địa hạt của đạo đức chứ không phải của pháp luật. Qui định như Luật Hôn
nhân gia đình năm 2000 là một sự lấn sân của đạo đức. Những phân tích trên đây
cho thấy sự cần thiết phải xác định đúng đắn giới hạn tác động của pháp luật, bởi
như đã đề cập, mỗi phương tiện điều chỉnh đều có những giới hạn của nó, điều này
cần phải được quán triệt đầy đủ khi xây dựng pháp luật.
Pháp luật được ban hành phải toàn diện, đồng bộ, cụ thể, minh bạch, đảm
bảo tính khả thi... Muốn vậy, phải tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật, đổi
mới qui trình xây dựng pháp luật, nâng cao kĩ thuật lập pháp. Nhiều nhà khoa học
đã đề cập tới qui trình xây dựng pháp luật một đầu mối, đó là Quốc hội, hoặc một
cơ quan chuyên trách của Chính phủ. Đây là cơ chế hữu hiệu đảm bảo cho hoạt
động xây dựng pháp luật ngày càng chuyên môn hoá, đảm bảo tính đồng bộ của hệ
167
thống pháp luật, đồng thời tránh được tình trạng cục bộ giữa các cơ quan, các ngành
với nhau... Một qui định của pháp luật luôn phải được xem xét trên cả hai bình diện,
tư tưởng và cách biểu đạt, vì vậy, trong hoạt động xây dựng pháp luật phải chú ý cả
hai bình diện này. Thực tế có không ít trường hợp vì lỗi diễn đạt mà làm sai lệch
hẳn tư tưởng của nhà làm luật. Phải dân chủ hoá đời sống xã hội cũng như hoạt
động xây dựng pháp luật, phải để cho nhân dân tham gia nhiều hơn, tích cực hơn,
tham gia thực sự đông đảo vào các giai đoạn của qui trình xây dựng pháp luật. Cùng
với việc nghiên cứu tìm hiểu những tinh hoa pháp lý của nhân loại, kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật của các nước trên thế giới, cần tham khảo kinh nghiệm xây
dựng pháp luật của các nhà lập pháp trong lịch sử.
Cần có các qui định về xử lý hiện tượng vô cảm trong cuộc sống. Phải có
chính sách trừng phạt đối với những chủ thể có thái độ vô cảm trong những
trường hợp nhất định. Trong Luật phòng chống bạo lực gia đình cần có qui định
nếu hàng xóm biết có tình trạng bạo lực trong gia đình mà vô cảm thì phải bị trừng
phạt. Đặc biệt phải có cơ chế xử phạt nặng đối với trường hợp cán bộ công chức
nhà nước vô cản với dân, thầy thuốc vô cảm với bệnh nhân.
5.2.4. Nghiên cứu để sử dụng biện pháp chế tài sao cho có hiệu quả nhất
Như các phần trên đã trình bày, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, pháp luật phải mang tính chất đạo đức, được xây dựng theo hướng ngày
càng dân chủ, nhân đạo nhằm bảo đảm, bảo vệ có hiệu quả các quyền con người.
Tuy nhiên, dù dân chủ, nhân đạo đến đâu cũng không thể xóa nhòa được ranh giới
giữa pháp luật với đạo đức, không thể đạo đức hóa hoàn toàn pháp luật. Trong điều
kiện đó, pháp luật được bảo đảm thực hiện trước hết bằng biện pháp giáo dục,
thuyết phục, tuy nhiên, cưỡng chế nhà nước vẫn phải được xác định là biện pháp
quan trọng nhất. Cưỡng chế không chỉ nhằm xử lý người vi phạm, trừng phạt họ mà
còn nhằm giáo dục cải tạo họ, để họ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, trở thành người
tốt, có ích cho xã hội, đồng thời cưỡng chế cũng nhằm răn đe, phòng ngừa chung.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cưỡng chế nhà nước phải được
tiến hành trên cơ sở bảo đảm, bảo vệ quyền con người, giá trị con người, coi đó là
những giá trị thiêng liêng, cao quí nhất trong cuộc sống. Vấn đề đặt ra, biện pháp
cưỡng chế nhà nước ở mức độ nào là phù hợp, nếu quá nhẹ, pháp luật sẽ không đủ
sức răn đe, ngược lại, nếu quá nặng, pháp luật sẽ trở thành vô nhân đạo. Chính vì
vậy, cần thiết phải có sự nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện mọi khía cạnh
của vấn đề để qui định chế tài phù hợp cho từng hành vi vi phạm pháp luật. Đây là
vấn đề hết sức phức tạp nhưng có ý nghĩa rất lớn, đòi hỏi sự quan tâm thực sự của
168
nhà nước và toàn xã hội để có câu trả lời thỏa đáng. Luận án xin gợi ý một số điểm
nhỏ sau đây:
Trước hết, về biện pháp cảnh cáo
Có thể nói, cảnh cáo là một biện pháp cưỡng chế thể hiện rất rõ chính sách
nhân đạo của pháp luật, nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của
người bị áp dụng biện pháp này mà chỉ gây ra một tổn thất nhất định về tinh thần
đối với họ. Tuy nhiên, về mặt thực tế, tác dụng của biện pháp này lại gần như tùy
thuộc vào nhận thức, lòng tự trọng, sự xấu hổ của từng cá nhân. Hiện nay ở nước ta,
liên quan đến biện pháp cảnh cáo, trong giới luật học có hai quan điểm trái ngược
nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên bỏ biện pháp này vì tính cưỡng chế của nó
quá thấp, hiệu quả đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật không cao. Quan điểm
thứ hai cho rằng không nên bỏ biện pháp này vì nó thể hiện tính nhân đạo của pháp
luật, đồng thời nó là cầu nối giữa xử lý tội phạm với các loại vi phạm pháp luật
khác [114, tr.272]. Thiết nghĩ, với điều kiện như hiện nay của Việt Nam, trong xã
hội đang có sự chuyển đổi về hệ thống giá trị với lối sống thực dụng đang trở thành
xu hướng thì biện pháp này là kém hiệu quả. Chính vì vậy, cần nghiên cứu để loại
bỏ biện pháp cảnh cáo trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của pháp luật nước
ta. Thay vào đó, như đã đề cập, có thể phục hồi biện pháp “biếm tư”, trước hết áp
dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên... Đây cũng là biện
pháp cưỡng chế nhằm gây ra một tổn thất về mặt tinh thần, nhưng khác với cảnh
cáo, với việc bị biếm một số “tư” nhất định, sự tổn thất về danh dự của người bị áp
dụng đã được “lượng hóa” làm cho không chỉ bản thân người bị cưỡng chế mà cộng
đồng cũng cảm nhận được hậu quả của nó, vì vậy biện pháp này không chỉ có ý
nghĩa giáo dục, cải tạo người vi phạm mà còn có ý nghĩa răn đe phòng ngừa chung.
Tất nhiên, việc biếm tư cần có giới hạn về thời gian, sau một khoảng thời gian nhất
định, nếu người vi phạm có ý thức phấn đấu rèn luyện, sửa chữa sai phạm, họ sẽ
được phục hồi “tư”.
Về biện pháp phạt tiền:
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, phạt tiền là biện pháp cưỡng
chế chủ yếu trong xử lý vi phạm hành chính, vi phạm hình sự. Đây cũng là biện
pháp cưỡng chế thể hiện khá rõ tính nhân đạo của pháp luật vì dù sao biện pháp này
cũng chỉ tước bỏ một số lợi ích vật chất của người vi phạm, tác động đến điều kiện
kinh tế của họ. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, qui định về
biện pháp phạt tiền vẫn còn nhiều bất cập cần phải sửa đổi. Một là, cần nghiên cứu
nâng cao mức phạt tiền. Theo qui định hiện hành của pháp luật nước ta, nhiều
169
trường hợp, pháp luật qui định về biện pháp phạt tiền là quá thấp. Mức thấp nhất
của biện pháp phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999 là 1 triệu đồng, trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung năm 2008) là 10 nghìn đồng,
đó là những con số quá thấp. Luật xử lý vi phạm hành chính vừa được Quốc hội
thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 qui định mức tiền phạt tối thiểu là 50 nghìn
đồng đối với cá nhân, 100 nghìn đồng đối với tổ chức, tối đa đối với cá nhân là một
tỷ đồng, đối với tổ chức là hai tỷ đồng (Điều 23). Những qui định này là một sự đổi
mới rất lớn, tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục suy nghĩ về những con số này. Thiết
nghĩ, đối với cá nhân, con số một tỷ đồng là quá lớn, và không hợp lý, hành vi của
cá nhân bị xử phạt một tỷ đồng thì khó có thể coi đó là vi phạm hành chính, ngược
lại, đối với tổ chức, mức xử phạt tối thiểu 100 nghìn đồng là hoàn toàn không
thuyết phục. Sự qui định biện pháp phạt tiền với số lượng quá thấp sẽ làm người vi
phạm coi thường pháp luật, do vậy pháp luật không đủ sức răn đe tội phạm và các
loại vi phạm pháp luật khác trong tình hình hiện nay [113, tr.275]. Chính vì vậy,
nhà nước cần nâng cao mức khởi điểm của biện pháp phạt tiền, cả trong lĩnh vực
hình sự, cả trong lĩnh vực hành chính đối với chủ thể vi phạm là các tổ chức. Hai là,
cần phải mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp phạt tiền. Theo qui định của Bộ luật
hình sự hiện hành, hình phạt tiền được qui định là hình phạt chính đối với tội ít
nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý
hành chính và một số tội phạm khác; là hình phạt bổ sung đối với các tội về tham
nhũng, ma túy và những tội khác do Bộ luật hình sự qui định (Điều 30). Tác giả cho
rằng, trong điều kiện hiện nay nên mở rộng phạm vi áp dụng của biện pháp phạt
tiền, trong nhiều trường hợp phạt tiền có thay thế cho biện pháp cưỡng chế khác
như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, kể cả phạt tù có thời hạn. Như phân tích ở
trên, trong điều kiện hiện nay, áp dụng biện pháp cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
không thực sự phát huy tác dụng. Trong điều kiện của lối sống thực dụng, biện pháp
phạt tiền chắc chắn sẽ phát huy tác dụng.
Đối với biện pháp phạt tù có thời hạn
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, hầu hết các điều luật phần các tội phạm cụ
thể đều qui định hình phạt tù có thời hạn, bên cạnh đó, các biện pháp cưỡng chế nhẹ
hơn biện pháp phạt tù đều được qui định là chế tài lựa chọn. Có thể nói, đây là một
hạn chế của Bộ luật hình sự hiện hành, bởi vậy các cơ quan có thẩm quyền cần
nghiên cứu để trong một số trường hợp có thể thay thế biện pháp phạt tù có thời hạn
bằng biện pháp cưỡng chế khác. “Trên thực tế, có khá nhiều trường hợp phạm tội
chỉ cần áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là có thể đạt được mục đích của
170
hình phạt. Chỉ trong trường hợp cần thiết mới tuyên phạt tù cho người bị kết án”
[114, tr.285]. Điều này một mặt tạo điều kiện cho người bị kết án tiếp tục có cuộc
sống, lao động, học tập bình thường, mặt khác mở ra khả năng giải quyết tình trạng
quá tải của các nhà tù ở nước ta hiện nay. Ở khía cạnh khác, trong nhiều trường
hợp, Bộ luật hình sự qui định khung hình phạt không hợp lý. Chẳng hạn, điều luật
qui định phạt tù từ 10 năm, 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (Điều
93, 341, 342, 343…). Qui định khung hình phạt như vậy là quá rộng, vừa thể hiện
tính bất hợp lý trong chính sách xử lý của nhà nước đối với cùng một hành vi, vừa
tạo điều kiện cho sự tùy tiện khi áp dụng pháp luật. Thiết nghĩ, biện pháp phạt tù có
thời hạn chỉ nên được xếp trong cùng một khung hình phạt với biện pháp phạt tù
chung thân hoặc tử hình khi nó có mức độ nghiêm khắc rất cao và tương đối gần gũi
với tù chung thân, như nhiều điều luật khác đã qui định: “bị phạt tù 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình”. Đồng thời, việc tổng hợp hình phạt tù có thời hạn cũng
không nên giới hạn ở 30 năm như hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới việc tổng
hợp hình phạt có thể lên tới hàng trăm năm tù.
Đối với biện pháp tử hình
Đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với người
phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao, xét thấy không còn khả năng cải tạo giáo
dục đối với họ, cần phải loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Hiện nay, xu hướng chung
của các nước trên thế giới là bỏ hình phạt tử hình hoặc tuy có qui định nhưng rất ít
khi áp dụng [114, tr.290]. Vì vậy, trên tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, đồng
thời cũng phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, pháp luật nước ta cần hạn chế
đến mức thấp nhất việc qui định biện pháp tử hình. “Cần tiếp tục nghiên cứu để xóa
bỏ dần hình phạt tử hình, giảm bớt các hành vi bị coi là tội phạm” [27, tr.72,73].
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, ban hành năm
2009 đã có sự giảm thiểu đáng kể các tội phải chịu án phạt tử hình (đã xóa bỏ hình
phạt tử hình ở 8 điều luật). Đây là một tiến bộ vượt bậc, tuy nhiên cần tiếp tục
nghiên cứu để có thể giảm hơn nữa các tội phải chịu án phạt tử hình, trong Bộ luật
hình sự hiện hành vẫn còn 21 điều luật qui định hình phạt tử hình. Tất nhiên, trong
điều kiện hiện nay ở nước ta chưa thể xóa bỏ hoàn toàn hình phạt này. Thay cho
hình phạt tử hình, pháp luật có thể qui định hình phạt tù chung thân, hoặc phạt tù có
thời hạn với khung tối đa có thể trên 20 năm tù. Thiết nghĩ, trong cùng một khung
hình phạt có cả tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình, thì mức cao nhất của biện
pháp phạt tù có thời hạn là 20 năm là chưa hợp lý, đặc biệt đối với trường hợp
người vi phạm đang ở độ tuổi thanh niên. Đối với những người này, bị phạt tù 20
171
năm hay tù chung thân, tử hình là một sự khác biệt ghê gớm. 20 năm tù có thể chưa
tương xứng với hành vi vi phạm của họ, nhưng tù chung thân, tử hình có thể lại là
quá nặng đối với họ. Vì vậy, cùng với việc giảm bớt hình phạt tử hình, có thể mở
rộng khung hình phạt tù có thời hạn. Trong điều kiện chưa bỏ hình phạt tử hình, cần
tính đến phương án không áp dụng hình phạt tử hình đối với người cao tuổi. Điều
này hoàn toàn phù hợp với tinh thần trọng lão, một truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc đã được thể chế hóa thành Luật người cao tuổi.
5.2.5. Xây dựng, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức, trong đó hết sức chú
trọng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
Đồng thời với việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần thực hiện
đồng bộ các biện pháp khác để hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức trên tinh thần giữ
gìn và phát huy các quan niệm, chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp
của đạo đức, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức tiến bộ của nhân loại. Đây là công
việc chung của toàn xã hội nhưng vai trò tổ chức, định hướng phải thuộc về nhà
nước. Trong điều kiện ngày nay, dù đạo đức được hình thành bằng con đường nào,
nhà nước cũng luôn luôn phải giữ vai trò định hướng cho sự phát triển của nó. Bằng
pháp luật, bộ máy thực thi pháp luật và các công cụ tuyên truyền của mình, nhà
nước ghi nhận, bảo vệ những quan niệm, tư tưởng đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu
thế phát triển của xã hội, làm cho chúng trở thành chính thống, được truyền bá rộng
rãi, được bảo vệ, giữ gìn và phát huy trong đời sống xã hội. Cũng bằng các phương
tiện đó, nhà nước ngăn chặn sự hình thành và loại bỏ những quan niệm, quan điểm
đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ khỏi đời sống xã hội. Do vậy, có thể nói, mặc dù nhà
nước không tạo ra các chuẩn mực đạo đức, nhưng nhà nước có vai trò hết sức quan
trọng trong việc định hướng sự phát triển của chúng, truyền bá và đảm bảo cho
chúng đi vào đời sống, bảo vệ và phát huy giá trị và tính tích cực của chúng.
Nhà nước cần hết sức chú trọng việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức
mới cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với từng giới,
từng ngành, từng lứa tuổi..., đây là một kinh nghiệm rất quí báu cho chúng ta. Giáo
sư Huỳnh Khái Vinh hoàn toàn có lý khi ông cho rằng, đã đến lúc cần xây dựng
bảng những chuẩn mực đạo đức, văn hoá đối với con người Việt Nam nói chung với
nội dung ngắn gọn, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, chặt chẽ mà sinh động để mọi người
dù học vấn thấp đều có thể thấm nhuần. Bảng này cần được trình bày một cách
trang trọng, đặt ở những vị trí thích hợp nơi công cộng để mọi người đều dễ dàng
172
nắm bắt và thực hiện tốt [123, tr.272]. Trên cơ ở đó, tuỳ đối tượng mà có sự cụ thể
hoá thành những chuẩn mực đạo đức, văn hoá cho riêng đối tượng đó, sao cho phù
hợp. Đây cũng chính là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã được luận án
đề cập ở phần trên.
Nhà nước cần khuyến khích các thiết chế xã hội, các cộng đồng dân cư trong
việc xây dựng và truyền bá những chuẩn mực đạo đức mới. Nên chăng, nhà nước
cần qui định thành pháp luật trách nhiệm của các thiết chế xã hội trong việc giữ gìn
và bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhà nước cần
khuyến khích việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Hiện nay, ở Việt
Nam đã xây dựng được các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với luật sư, nhà
báo, thầy thuốc... Trong thời gian tới cần xây dựng các chuẩn mực đạo đức đối với
nhà giáo, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, nghệ sĩ... Nhà nước cần nghiên
cứu cụ thể và sâu sắc để có thể sớm ban hành luật đạo đức công vụ. Trong điều kiện
sản xuất cá thể nhỏ, lẻ của nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay, người nông dân dễ
có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật và đạo đức xã hội trong nuôi trồng, sản
xuất lương thực, thực phẩm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người mà
rất khó kiểm soát. Vì vậy, nên chăng nhà nước cần có chính sách để tập hợp bà con
trong những hình thức hợp tác xã, phường, hội, làng nghề…, đồng thời khuyến
khích xây dựng những chuẩn mực đạo đức áp dụng cho riêng họ, qua đó chính họ tự
kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Thiết nghĩ, đây là một giải pháp thiết thực và có hiệu
quả. Trong bản tin tối 30.5.2012, Đài truyền hình Hà Nội đưa tin về việc hình thành
các nhóm trồng rau hữu cơ ở Huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội. Trong nhóm có
qui định tuyệt đối không sử dụng phân hóa học, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc
bảo vệ thực vật, ai vi phạm sẽ bị đuổi khỏi nhóm. Thiết nghĩ, đây là một mô hình rất
tốt, cần nghiên cứu để nhân rộng trên cả nước.
Cùng với việc tích cực xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với
điều kiện thực tế, trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhà nước phải tăng
cường loại bỏ những quan niệm đạo đức cũ lỗi thời lạc hậu, ngăn chặn sự hình
thành các quan niệm đạo đức mới lệch lạc, phản tiến bộ, trái thuần phong mĩ tục của
dân tộc, chủ động phòng và chống văn hoá độc hại, đồi truỵ, các tệ nạn xã hội.
Giữ gìn, bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống, xây dựng và hoàn thiện các
chuẩn mực đạo đức mới là công việc to lớn, hệ trọng, có tác động, ảnh hưởng mạnh
mẽ trên toàn xã hội. Việc thực hiện đòi hỏi sự tham gia tích cực, mạnh mẽ, nhiệt
tình của toàn thể cộng đồng xã hội cũng như từng cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Nhà nước cần có chính sách và biện pháp thích hợp để động viên, khuyến khích, thu
173
hút sự tham gia của toàn xã hội vào công việc trọng đại này. Trong công việc này,
nhà nước phải phát huy hơn nữa vai trò của chính mình, đồng thời phát huy và sử
dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã hội nhất là tổ
chức tôn giáo, gia đình, nhà trường, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, các lễ hội
truyền thống, các cá nhân có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội như các nhà chính trị,
các vị linh mục, sư sãi, các nhà giáo, các văn nghệ sĩ, các già làng, trưởng bản, các
vị bô lão…
5.2.6. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, coi trọng giáo
dục đạo đức
“Để giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam, trước
hết phải coi trọng và quan tâm một cách thực sự đến công tác tuyên truyền và giáo
dục đạo đức cho toàn xã hội” [118, tr.21]. Giáo dục pháp luật cũng như giáo dục
đạo đức là sự tác động tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người
một kiến thức pháp luật, một tri thức đạo đức nhất định, để từ đó họ ý thức được
yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước và xã hội, tự giác xử sự theo yêu cầu, đòi hỏi đó.
Giáo dục đạo đức, pháp luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân cách, phẩm chất của con người phần nhiều là do
giáo dục. Chỉ trên cơ sở thấm nhuần các quan niệm, quan điểm đạo đức, nắm được
các qui định của pháp luật thì mới có cơ sở cho việc thực hiện chúng một cách đúng
đắn trên thực tế. Như vậy, giáo dục pháp luật cũng như giáo dục đạo đức chính là
cầu nối để đưa pháp luật và đạo đức vào cuộc sống, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức. Hoạt động này có ý nghĩa to
lớn trong việc nâng cao tri thức pháp luật, đạo đức, xây dựng thái độ, tình cảm đúng
mực của mọi người đối với pháp luật và đạo đức, qua đó từng bước hình thành thói
quen xử sự theo pháp luật đồng thời coi trọng các giá trị đạo đức xã hội. Giáo dục
pháp luật và đạo đức còn góp phần quan trọng trong việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách, hoàn thiện năng lực cá nhân và định hướng thái độ hành vi của họ. Hoạt
động này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng quan điếm sống có qui tắc, có
chuẩn mực, tôn trọng người khác, tôn trọng cộng đồng. Nhờ có hoạt động này, mọi
người biết được những điều được làm, nên làm, không nên làm, không được làm
hay phải làm… cũng như hậu quả phải gánh chịu nếu không thực hiện đúng điều
đó. Qua đó, hoạt động này góp phần to lớn trong việc làm giảm thiểu những vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, hạn chế những tổn thất có thể xảy ra do thiếu
hiểu biết pháp luật, đạo đức, có thái độ không đúng mực đối với các chuẩn mực xã
hội.
174
Giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức phải được tiến hành trong sự kết
hợp, lồng ghép với nhau, bởi giữa chúng luôn có sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
“Hiệu quả của mỗi một loại hình giáo dục này chỉ có thể đạt được nếu biết kết hợp,
lồng ghép cả hai” [84, tr.31]. Giáo dục đạo đức tạo điều kiện cần thiết để hình
thành ở mỗi người tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật; ngược lại giáo dục pháp
luật có vai trò to lớn trong việc xây dựng ý thức và lối sống có chuẩn mực, có qui
tắc. Giáo dục đạo đức là hoạt động hướng con người đến chân, thiện, mỹ, nhằm
giảm trừ cái ác, cái bất công, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm thiểu vi phạm
pháp luật. Một người có phẩm chất đạo đức tốt phải là người tôn trọng pháp luật,
tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Ngược lại, một cá nhân tốt, có
lương tâm trong sáng, sống có nhân, có nghĩa, biết trọng tình người chắc chắn sẽ là
một công dân tốt, tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Trên
thực tế, không ít trường hợp hiểu biết pháp luật một cách sâu sắc đầy đủ nhưng vẫn
vi phạm pháp luật, đó không chỉ là biểu hiện của ý thức pháp luật kém mà đó còn là
biểu hiện của sự tha hóa về đạo đức.
Trong công tác giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức, cần chú ý, tuỳ từng đối
tượng mà nhấn mạnh yếu tố đạo đức hay yếu tố pháp luật. Chẳng hạn, đối với độ
tuổi mầm non, tiểu học và bậc học phổ thông cần chú ý giáo dục luân lý, gia phong;
giáo dục cho họ nghĩa vụ, bổn phận làm con, làm em, làm học trò...; đối với thanh
niên cần chú trọng giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng, tư cách công dân...; đối
với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước, trước tiên phải nhấn mạnh
thái độ tôn trọng pháp luật, tinh thần sống và làm việc theo pháp luật, làm đúng
chức trách của mình, đồng thời coi trọng giáo dục, tuyên truyền đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh...
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, trong công tác giáo dục pháp luật hay
đạo đức, cho dù nó được thực hiện với tất cả khả năng và điều kiện thì cũng không
thể làm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều hiểu biết một cách đầy đủ, sâu
sắc về tất cả các qui định trong pháp luật cũng như mọi quan niệm, chuẩn mực đạo
đức. Chính vì vậy, hoạt động này cần phải được thực hiện một cách có trọng điểm.
Phải hướng đến việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục những qui định pháp luật,
những quan niệm, chuẩn mực đạo đức gần gũi nhất, có ý nghĩa thiết thực nhất trong
đời sống hàng ngày của người dân. Điều quan trọng là thông qua hoạt động này
nhằm khơi dậy tình cảm đúng mực, xây dựng thái độ tôn trọng các chuẩn mực pháp
luật, đạo đức.
175
Để hoạt động giáo dục pháp luật và đạo đức thu được kết quả tích cực, cần
thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp, làm phong phú, đa dạng các hình
thức, phương pháp giáo dục pháp luật, đạo đức. Có thể tiến hành việc giáo dục pháp
luật, đạo đức trong nhà trường, trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua
hoạt động của cơ quan chuyên trách trong bộ máy nhà nước, thông qua hoạt động
của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thông qua các thiết chế pháp lý nghề
nghiệp như tổ chức luật gia, tổ chức luật sư, tổ hòa giải, tổ chức trợ giúp pháp lý…
Cần phải có nghiên cứu, đánh giá một cách đúng đắn ưu điểm cũng như hạn chế của
từng hình thức để sử dụng kết hợp giữa chúng một cách phù hợp. Chẳng hạn, giáo
dục pháp luật trong nhà trường mặc dù mang tính khoa học, hệ thống, có kiểm tra
đánh giá… nhưng có hạn chế là chỉ hướng đến nhóm nhỏ đối tượng, trong khi đó,
các phương tiện thông tin đại chúng lại có thể hướng đến quảng đại nhân dân… Vì
vậy, cần thiết sử dụng kết hợp tất cả các hình thức này thì hoạt động giáo dục pháp
luật và đạo đức mới đạt được hiệu quả cao. Cần lưu ý là, giáo dục đạo đức, pháp
luật là việc khó khăn bởi tính lý thuyết khô khan của nó. Do vậy, việc giáo dục pháp
luật, đạo đức cần được kết hợp với các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể thao, cũng
như các hình thức sinh hoạt cộng đồng khác…
Nhà nước cần có chiến lược về giáo dục pháp luật và đạo đức, các biện pháp
phải mang tính hệ thống và đồng bộ. Trong công tác giáo dục pháp luật, đạo đức,
cần lôi kéo một cách rộng rãi sự tham gia của người dân vào các hoạt động chung
của xã hội, làm cho họ quan tâm tích cực đến cuộc sống, tránh tình trạng vô cảm,
"đèn nhà ai nhà ấy rạng", “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, không ai ảnh
hưởng đến mình thì mình cũng không ảnh hưởng đến người khác; cần làm cho mọi
người thấm nhuần phương châm sống hướng thiện, tránh ác, quán triệt quan niệm,
“ở hiền gặp lành”, “ác giả ác bảo”, “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn” thì “đời
cha khát nước”… Bản chất của con người là hướng thiện, vô cảm chỉ là hiện tượng
trong cuộc sống. Vì vậy, cần phải biết đánh thức lòng trắc ẩn đang bị bỏ quên đâu
đó trong mỗi người, phải làm cho mọi người thấy được rằng họ vô cảm với người
khác thì người khác lại vô cảm với chính họ, phải làm cho mọi người cảm thấy xấu
hổ khi vô cảm. Một xã hội biết yêu thương chia xẻ là một xã hội lành mạnh, văn
minh. Cần phải làm cho các thành viên trong xã hội hiểu sâu sắc hơn về mục đích
sống, làm cho mọi người luôn có niềm tin rằng mình sống là có ích cho xã hội, vì
vậy “hãy sống như ngày mai không còn được sống nữa”. Mỗi người hãy tự đặt
mình vào điều kiện khó khăn của người khác để nuôi dưỡng trong mình một tấm
lòng nhân đạo, vị tha, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhất sẽ tự thấy rằng mình
176
thanh thản hơn. Khẩu hiệu “Một giọt máu cho đi, một cuộc đời ở lại” cần phải trở
thành phương châm sống của mọi người. Phải làm cho mọi người có ý thức tiên
phong bởi trong cuộc sống con người luôn bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng đám đông,
một người có hành động, người khác sẽ hành động theo.
Phát huy hơn nữa vai trò tích cực của dư luận xã hội trong đấu tranh phòng
và chống vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội. Có các giải pháp thích hợp để ngăn
chặn thái độ coi thường dư luận, bất chấp dư luận, bỏ qua dư luận... Xây dựng
những tấm gương người tốt và tuyên truyền sâu, rộng về những tấm gương đó trong
xã hội.
Nghiên cứu sử dụng các pano, áp phíc để phổ biến pháp luật, đạo đức. Thực
ra đây không phải là cách làm mới, nhà nước La Mã đã sử dụng hình thức này từ
mấy nghìn năm trước. Nhà nước khắc nội dung bộ luật lên 12 tấm bảng đem dựng ở
những nơi công cộng để tất cả mọi người dân biết chữ đều có thể biết và thực hiện
tốt. Biện pháp này ngày nay hoàn toàn có thể làm được, tất nhiên với hình thức và
cách làm mới. Chẳng hạn, nhà nước nên dựng những tấm bảng lớn tương tự như
những tấm biển quảng cáo, trong đó ghi những qui định thiết yếu nhất đối với tất cả
mọi người. Những tấm bảng đó có thể dựng ở bên đường giao thông, nơi họp chợ,
trường học, bệnh viện, nơi thi đấu thể thao… Tùy thuộc vào đối tượng, thời gian,
địa điểm… mà nội dung những qui định cần phổ biến có thể thay đổi cho phù hợp.
Thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần
của xã hội. Vì vậy, cần sử dụng thông tin đại chúng như là công cụ hữu hiệu trong
công tác giáo dục pháp luật, đạo đức. Tuy nhên, trên thực tế vẫn có những nhà báo,
tờ báo thường chỉ tìm cách đưa tin giật gân nhằm câu khách, khai thác thông tin một
chiều, đưa tin thiếu trung thực, không góp phần định hướng dư luận. Để nâng cao
hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, đạo đức, các phương tiện truyền thông
cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình. Giữa nhà nước và thông tin đại chúng
cần có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng. Phản biện là nhằm tìm ra giải pháp tốt
nhất, tuy nhiên, trong phản biện, cần quán triệt vấn đề có tính nguyên tắc đó là, cần
phải xác định lợi ích nào là lớn hơn cần phải đạt được để tạo ra sự đồng thuận
chung. Trong trường hợp đó, thông tin đại chúng phải là công cụ có hiệu quả của
nhà nước, giúp nhà nước tuyên truyền, giáo dục nhân dân để người dân đồng tình,
ủng hộ và thực hiện đúng đắn chủ trương, chính sách của nhà nước.Với những chủ
trương, chính sách đúng, truyền thông phải ủng hộ và tập trung tuyên truyền để
nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách đó, không khai thác sâu
những khó khăn có thể. Mỗi nhà báo, tờ báo phải luôn luôn ý thức một cách đúng
177
đắn và đầy đủ vai trò và trách nhiệm pháp lý, bổn phận đạo đức của mình trong việc
đưa tin, định hướng dư luận.
Trong điều kiện ngày nay, có thể nói truyền hình là phương tiện truyền thông
có tầm quan trọng bậc nhất, bởi vậy, vai trò của truyền hình trong việc giáo dục
pháp luật, đạo đức càng trở nên quan trọng. Thực tế cho thấy, các chuyên mục giáo
dục pháp luật, đạo đức trên truyền hình thời gian qua là rất có hiệu quả, đặc biệt,
những chương trình truyền hình trực tiếp các phiên họp Quốc hội; các chương trình
Tòa tuyên án, Tôi yêu Việt Nam, Người tốt việc tốt… Vì vậy, cần tiếp tục phát huy
vai trò của truyền hình trong công tác giáo dục pháp luật, đạo đức với những nội
dung mới, cách làm mới…
Trong công tác giáo dục đạo đức, pháp luật, cần đặc biệt coi trọng thiết chế
gia đình, nhà trường; tổ chức tôn giáo và các vị chức sắc tôn giáo; các tổ chức xã
hội.
Gia đình là nơi sinh thành và là môi trường sinh hoạt hàng ngày của mỗi
người. Gia đình có vai trò cực kì quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và pháp
luật. Gia đình là tế bào, là hạt nhân của xã hội, muốn cho xã hội tốt thì gia đình
càng phải tốt. Gia đình ổn định, hoà thuận, mọi người thương yêu, đùm bọc, quan
tâm đến nhau là cơ sở của một xã hội ổn định, trật tự... Vì vậy cần nêu cao trách
nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách mỗi con
người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của
xã hội. Cha mẹ, anh chị phải là những tấm gương sáng cho con, em noi theo.
Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ sau khi đất nước được hoàn toàn
giải phóng, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, do nhận thức không đúng về đạo đức
truyền thống, công tác giáo hóa đạo đức, đặc biệt là đạo đức truyền thống bị coi nhẹ
trên toàn xã hội. Sự coi nhẹ hoạt động này trong các gia đình bắt đầu từ sự buông
lỏng từ phía nhà nước. Đây là một lý do quan trọng làm cho đạo đức xã hội bị thoái
hóa, xuống cấp. Hiện nay, mặc dù các văn bản pháp luật, nhất là Luật hôn nhân và
gia đình đã thể chế hóa khá nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức nhưng trên thực
tế những qui định này chưa thực sự phát huy hiệu quả trong thực tế cuộc sống.
Chưa có một cuộc nghiên cứu tổng thể để đánh giá chính xác sự hiểu biết về quyền
và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối với nhau, tuy nhiên có thể nói
rằng có không nhiều người nắm bắt được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình
đối với thành viên khác trong gia đình. Trên thực tế, họ vẫn răn dạy con, em họ,
nhưng đó là răn dạy dựa trên những hiểu biết rất cảm tính mà họ có được về cả đạo
lý và pháp lý. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, phải làm cho mỗi người dân có được những
178
tri thức đạo đức, pháp luật một cách chính thống, chính thức, làm cơ sở cho việc
giáo dục pháp luật, đạo đức trong các gia đình. Đảm bảo để trong từng gia đình, các
thành viên đều phải ý thức được một cách sâu sắc nhất về nghĩa vụ, bổn phận làm
chồng, làm vợ, làm cha mẹ, làm con, làm anh chị, làm em. Thiết nghĩ, những chuẩn
mực đạo đức truyền thống phu phu - phụ phụ, phụ phụ - tử tử1… vẫn còn nguyên
giá trị. Trên cơ sở sự yêu thương, quí mến, kính trọng, có trách nhiệm lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình, giáo dục cho họ sự yêu thương, quí mến, tôn trọng,
có trách nhiệm với thành viên khác ngoài xã hội. Trong gia đình, cần giáo dục cho
con trẻ biết rung cảm, nó sẽ cảm thấy xúc động, tất nhiên, một điều cần biết rằng
“dạy con biết cười dễ hơn nhiều so với dạy con biết khóc”. Nhà nước cần có chiến
lược về giáo dục gia đình trong đó, đặc biệt chú trọng giáo dục hệ thống chuẩn mực
đạo đức gia đình cũng như những tư tưởng nhân đạo, nhân văn.
Nhà trường là môi trường giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Nhà
trường là một thiết chế rất quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức, pháp luật
bởi nó thực hiện đồng thời các chức năng: dạy chữ, dạy nghề và dạy người. Sau gia
đình và đồng thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho con người hình thành
nhân cách, lối sống. Giáo dục pháp luật, đạo đức trong nhà trường “có vai trò đặc
biệt lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Nó trở thành nền
tảng, hành trang cơ bản cho thế hệ trẻ đạt được những thành tựu và vững bước vào
đời” [31, tr.174,175]. Vì vậy trong nhà trường phải coi trọng giáo dục đạo lý làm
người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, coi trọng công tác giáo dục truyền
thống lịch sử của dân tộc. Khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" cần phải được thực
hiện một cách triệt để trong môi trường học đường. Thời gian qua, do quá chú trọng
công tác “dạy chữ, dạy nghề”, nên công tác “dạy người”, giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh có phần bị coi nhẹ. Nhiều học sinh rất xứng đáng với danh hiệu “trò giỏi”
nhưng thiếu kĩ năng sống, khi hòa mình vào đời sống cộng đồng trở nên hết sức bỡ
ngỡ, lúng túng. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, công tác giáo dục đạo đức, pháp
luật trong các trường học cần phải được chú trọng hơn, với nội dung chương trình
phù hợp với từng cấp học, từng loại đối tượng khác nhau, trong đó cần phải nhấn
mạnh và coi trọng trước hết là giáo dục đạo đức, sau đó mới đặt vấn đề giáo dục
pháp luật. Chương trình nói lời hay, làm việc tốt cần được tiếp tục phát huy, nhân
rộng trong các trường học…
Bên cạnh gia đình, nhà trường, trong công tác giáo dục pháp luật cũng như
giáo dục đạo đức, cần phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội, đặc biệt là tổ
1Chồng cho ra chồng, vợ cho ra vợ; cha cho ra cha, con cho ra con…
179
chức Đảng, Công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến
binh, Đội thiếu niên, Hội phụ lão... Các tổ chức này cần coi công tác giáo dục pháp
luật, đạo đức cho thành viên của tổ chức mình là một nhiệm vụ thường xuyên của
mình. Hoạt động giáo dục pháp luật, đạo đức trong các tổ chức xã hội không chỉ có
ý nghĩa đối với bản thân thành viên tổ chức đó, mà thông qua đó nó còn gián tiếp
ảnh hưởng đến đến thành viên trong gia đình họ.
Trong công tác giáo dục pháp luật và đạo đức, tôn giáo có vai trò hết sức
quan trọng. Tín ngưỡng là chỗ dựa về mặt tinh thần rất quan trọng của người có
đạo. Nhìn chung, giáo lý các tôn giáo đều hướng con người đến chân, thiện, mỹ,
nhân đạo, công bằng, bình đẳng, bác ái. Sự thống nhất giữa pháp luật, đạo đức xã
hội và đức tin tôn giáo là mảnh đất thuận lợi cho việc giáo dục đạo đức, pháp luật.
Vì vậy, các quan điểm, chuẩn mực đạo đức, pháp luật một khi được lồng ghép trong
quá trình truyền bá giáo lý, đức tin sẽ rất dễ dàng thâm nhập vào quần chúng. Mặt
khác, người giáo dân đồng thời là người công dân, vừa có nghĩa vụ kính trọng bề
trên, sống phúc âm trong lòng dân tộc, vừa có bổn phận tuân thủ pháp luật, sống tốt
đời, đẹp đạo, “người giáo dân tốt đồng thời là người công dân tốt”. Bởi vậy, một
mặt cần phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của các tôn giáo; mặt
khác cần phát huy vai trò của các các tổ chức tôn giáo trong việc giáo dục pháp luật,
đạo đức. Trong công tác này, cần tranh thủ triệt để vai trò của các chức sắc tôn giáo,
bởi họ là những người có uy tín rất lớn trong giáo dân.
Giáo dục pháp luật đã được nhà nước hết sức coi trọng, ngày 20 tháng 6 năm
2012, Quốc hội đã thông qua Luật phổ biến, giáo dục pháp luật trong đó qui định rõ
nội dung và hình thức giáo dục pháp luật cho từng loại đối tượng cụ thể, quy định
trách nhiệm của các cơ quan, viên chức, công chức nhà nước, các tổ chức và cá
nhân trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên công tác giáo dục đạo đức
chưa được nhà nước coi trọng đúng mức. Thiết nghĩ, đã đến lúc Quốc hội cần phải
xây dựng và ban hành một đạo luật quy định về phổ biến và giáo dục đạo đức trong
đó xác định rõ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức cần phải phổ biến, giáo dục và
hình thức phổ biến, giáo dục cho từng loại đối tượng, quy định cụ thể trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, nhà trường, gia đình, các phương tiện thông tin đại
chúng, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, viên chức, công
chức nhà nước… trong việc phổ biến, giáo dục đạo đức. Làm như vậy sẽ vừa tạo cơ
sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động phổ biến, giáo dục đạo đức vừa bảo đảm thúc đẩy
và phát triển hoạt động này trong xã hội.
180
Cuối cùng, cần lưu ý là, người làm công tác giáo dục pháp luật, đạo đức phải
là những người có phẩm chất đạo đức tốt, là những tấm gương sáng về đạo đức, có
kiến thức pháp luật vững vàng, có tinh thần và thái độ tôn trọng pháp luật, sống và
làm việc theo pháp luật.
5.2.7. Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở
Công tác hoà giải ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và
đây cũng là một đặc thù của phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Hoạt
động hòa giải là một hình thức giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật rất quan
trọng, có ý nghĩa thiết thực trong đời sống hàng ngày của người dân. Hoà giải ở cơ
sở có tác dụng phát huy tính cộng đồng, vai trò tự quản của nhân dân. Hoà giải ở cơ
sở thành công làm cho vụ việc được giải quyết triệt để mà giữ được tình làng nghĩa
xóm, không để xảy ra tình trạng "bằng mặt không bằng lòng"..., qua đó phát huy
truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư, góp phần
phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, giảm
bớt các vụ việc phải giải quyết tại các cơ quan nhà nước, giảm bớt sự tốn kém của
người dân về thời gian, tiền bạc. Chính vì vậy, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả
của công tác hòa giải ở cơ sở, đảm bảo nguyên tắc thấu tình, đạt lý, giải quyết các
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân trên cơ sở vận dụng những chuẩn mực, nguyên tắc
đạo đức, phù hợp với các qui định trong pháp luật. Nhà nước đã có Pháp lệnh về tổ
chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, tuy nhiên hoạt động này ở nhiều nơi, nhiều địa
phương chưa được chú trọng đúng mức, hiệu quả của công tác này chưa cao. Chính
vì vậy, vấn đề tăng cường công tác hoà giải ở cơ sở là việc làm rất cần thiết. Để làm
tốt công tác này cần chú ý phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã
hội và những cá nhân có uy tín trong công tác hoà giải ở cơ sở, động viên mọi
người tham gia công tác hoà giải. Công tác hoà giải phải được tiến hành một cách
kịp thời, chủ động, kiên trì trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện của các bên, khách
quan, công minh, có lý, có tình, trên cơ sở các qui định của pháp luật và đạo đức xã
hội. Phải đổi mới công tác hòa giải, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp
luật và nghiệp vụ hòa giải, nâng cao hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức xã hội cho
hòa giải viên. Hòa giải viên phải là người có uy tín trong cộng đồng, có phẩm chất
đạo đức tốt, không vi phạm pháp luật, có lòng nhiệt tình, hăng say với công việc.
5.2.8. Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật
Pháp luật sau khi được ban hành và có hiệu lực phải được thực hiện trên thực
tế. Tuy nhiên, pháp luật không thể tự đi vào cuộc sống, mặt khác, có nhiều qui định
của pháp luật người dân không thể tự thực hiện được hoặc không chịu tự giác thực
181
hiện. Chính vì vậy, để pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả điều chỉnh các
quan hệ xã hội, vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Khi
các văn bản qui phạm pháp luật có hiệu lực, các cơ quan nhà nước phải chủ động,
tự giác thực hiện nghiêm chỉnh chúng; phổ biến kịp thời các văn bản đó tới nhân
dân, tuyên truyền, vận động để nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện các qui định của
pháp luật; chủ động tháo gỡ khó khăn vướng mắc của nhân dân khi thực hiện những
qui định mới; khi cần thiết có thể hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân về vật chất hoặc nhân
lực..., đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các qui định của nhà nước đã được ban
hành.
Áp dụng pháp luật là hoạt động có ý nghĩa cực kì quan trọng trong quản lý
xã hội, bởi vì, trong nhiều trường hợp, nhờ có hoạt động này mà các quyền, nghĩa
vụ của cá nhân, tổ chức được xác lập, trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm
pháp luật được áp dụng. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả của
hoạt động của hoạt động áp dụng pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thời gian
vừa qua, ở nhiều cơ quan nhà nước, công tác này làm chưa tốt. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng này là trình độ cán bộ chưa ngang tầm đòi hỏi; phẩm
chất đạo đức của nhà chức trách chưa cao. Do vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động áp dụng pháp luật, một mặt cần nâng cao trình độ cán bộ, công chức
nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Mặt khác phải chú trọng công tác giáo
dục, nâng cao đạo đức của các nhà chức trách. Trong công tác tuyển dụng, bổ
nhiệm cán bộ phải chú trọng cả tài và đức, phải đặc biệt đề cao tinh thần cần, kiệm,
liêm chính, chí công, vô tư, phụng công, thủ pháp của các nhà chấp pháp. Hoạt
động áp dụng pháp luật phải trên cơ sở các qui định trong pháp luật, phải khách
quan, công minh, đúng vụ việc, đúng pháp luật nhưng cũng phải chú trọng cả vấn
đề đạo lý, vấn đề tình người. Phải coi trọng cả mặt hình thức pháp lý, đồng thời
cũng không được bỏ qua khía cạnh đạo đức của hành vi. Trên thực tế không ít
trường hợp, hành vi của các chủ thể có thể là hợp pháp nhưng xét về phương diện
đạo đức có thể không phù hợp. Đạo đức xã hội không khuyến khích những hành vi
có tính chất “giả tạo”, đạo đức xã hội luôn lên án những hành vi theo kiểu “chơi
ngông”. Một hành vi có thể vừa hợp pháp vừa hợp đạo đức, hợp pháp nhưng không
hợp đạo đức, hợp đạo đức nhưng không hợp pháp hoặc không hợp pháp cũng không
hợp đạo đức. Rõ ràng, hành vi vừa hợp pháp vừa hợp đạo đức chính là mong muốn
của việc quản lý xã hội; ngược lại hành vi vừa không hợp pháp vừa không hợp đạo
đức cần phải bị loại trừ một cách triệt để. Đối với trường hợp hành vi hợp pháp
nhưng không hợp đạo đức hoặc hợp đạo đức nhưng không hợp pháp thì tùy trường
182
hợp cụ thể, mà cần sửa đổi pháp luật hay thay đổi quan niệm, chuẩn mực đạo đức.
Tuy nhiên, phương châm xử sự cần phải được quán triệt trong quá trình thực hiện
pháp luật đó là phải luôn coi trọng yếu tố hợp pháp hơn so với yếu tố hợp lý, hợp
đạo đức.
5.2.9. Tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi
phạm đạo đức; coi trọng khía cạnh giáo dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp
cƣỡng chế nhà nƣớc đối với ngƣời vi phạm pháp luật
Như đã đề cập, trong điều kiện đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế, cùng với
yếu tố tích cực là phát triển và tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội, yếu tố tiêu cực
như vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức cũng gia tăng đáng kể. Có thể nói trong
thời gian vừa qua, tình hình vi phạm pháp luật ngày càng trở nên phức tạp, số lượng
vụ việc vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao,
mức độ nghiêm trọng ngày càng lớn. Hiện tượng vi phạm các chuẩn mực đạo đức
truyền thống cũng ngày càng phổ biến. Tất cả những hiện tượng đó làm cho đời
sống xã hội mất ổn định, các giá trị xã hội bị đảo lộn, hậu quả để lại cho xã hội hết
sức nặng nề. Chính vì vậy, tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm
pháp luật, vi phạm đạo đức là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài.
Quan điểm chỉ đạo là phải xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật, bất kể
người vi phạm là ai, giữ cương vị gì trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã
hội. Các hành vi vi phạm pháp luật đồng thời làm đạo đức xã hội bị thoái hoá,
xuống cấp càng phải xử lý nghiêm minh hơn. Cương quyết xử lý, loại trừ ra khỏi bộ
máy của Đảng và Nhà nước những người thoái hoá, biến chất. Xử lý thật nghiêm
khắc các hành vi vi phạm pháp luật của những người thực hiện chức năng bảo vệ
pháp luật. Trong xử lý các vi phạm pháp luật phải triệt để tôn trọng các qui định của
pháp luật về nhân phẩm con người, xử lý nghiêm minh các hành vi mớm cung, ép
cung, dùng nhục hình... Chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật phải luôn
xác định mình vừa là người chấp pháp, vừa là người thi hành đạo đức. Thông qua
việc áp dụng các biện pháp chế tài pháp lý, nhà chức trách có thẩm quyền không
những phải tuyên truyền những qui định pháp luật cho nhân dân mà đồng thời tuyên
truyền các chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Việc xử lý vi phạm pháp luật vừa nhằm
bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật vừa nhằm giữ gìn, bảo vệ các chuẩn mực
đạo đức.
Cần có các biện pháp cụ thể để thu hút sự tham gia đông đảo của mọi tầng
lớp nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm các
chuẩn mực đạo đức, lập lại trật tự kỉ cương xã hội. Công tác đấu tranh phòng, chống
183
vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức phải được coi là công việc của toàn xã hội, mọi
người đều phải có trách nhiệm tham gia một cách tích cực. Tuy nhiên cần phải đảm
bảo an toàn cho những người tích cực, dũng cảm đấu tranh chống vi phạm pháp
luật, đồng thời có các biện pháp khuyến khích về vật chất và tinh thần thoả đáng
cho họ.
Để thực hiện công việc phức tạp và to lớn này, cần phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội, của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan chuyên trách
bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, thông tin đại chúng, các
chức sắc tôn giáo, các già làng trưởng bản, các cộng đồng dân cư… Cần tìm hiểu
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức để từng bước
xóa bỏ chúng. Tăng cường sức mạnh của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật
như công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra… đảm bảo vừa vững vàng về chuyên
môn nghiệp vụ, vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức, được trang bị các điều kiện vật
chất kĩ thuật đủ mạnh để có thể phản ứng kịp thời, có hiệu quả trước các vi phạm
pháp luật, không bị sa ngã trước những cám dỗ trong cuộc sống, toàn tâm, toàn ý
“phụng công, thủ pháp”. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp
luật và đạo đức, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật.
Tạo dựng dư luận rộng rãi để lên án một cách mạnh mẽ các hiện tượng vi phạm
pháp luật cũng như vi phạm đạo đức, làm cho các thành viên trong xã hội không thờ
ơ trước cái ác, cái bất công; thu hút sự tham gia nhiệt tình của mọi người dân vào
công cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức; có cơ chế
động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời, đặc biệt có cơ chế hữu hiệu để bảo
vệ những người dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, cái bất công, tôn vinh, nêu
gương sáng để học tập những cá nhân, tổ chức có thành tích trong công cuộc đấu
tranh chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng các chuẩn mực đạo đức trong tình hình mới. Đẩy mạnh việc tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức trong nhân dân. Cần tạo ra môi
trường gia đình, xã hội lành mạnh và an toàn, mang tính nhân văn cao, tạo ra những
hoàn cảnh và điều kiện tốt để mọi người phát huy cái tốt, cái tích cực, loại trừ cái
tiêu cực. Những nội dung này đều đã được phân tích sâu sắc ở các phần trên. Dưới
đây, luận án đề cập thêm một số điểm:
Đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức là công việc
phức tạp. Với phương châm phòng ngừa là chính, cưỡng chế là quan trọng, phải coi
trọng giáo dục thuyết phục, chỉ khi không giáo dục thuyết phục được mới cưỡng
chế, trong khi cưỡng chế vẫn không bỏ qua khía cạnh giáo dục thuyết phục, bởi lẽ
184
“hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội…, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật”1. Chính vì
vậy, khi truy cứu trách nhiệm pháp lý phải coi trọng ý nghĩa giáo dục của biện pháp
cưỡng chế được áp dụng. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước chỉ được tiến
hành khi không còn phương pháp nào khác. Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý
vừa phải đảm bảo đúng pháp luật, vừa phải đảm bảo khả năng bất lợi thấp nhất cho
người bị truy cứu. Trách nhiệm pháp lý luôn có tính chất bất lợi cho người bị truy
cứu, vì vậy, trong hoạt động của mình, cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền cần
tận dụng mọi khả năng có thể trong phạm vi luật định để sao cho biện pháp cưỡng
chế nhà nước được áp dụng đối với họ là biện pháp “ít bất lợi nhất”. Hoạt động truy
cứu trách nhiệm pháp lý phải luôn quán triệt phương châm “đánh kẻ chạy đi, không
đánh người chạy lại”. Vì vậy, nhà nước và xã hội luôn tạo mọi điều kiện để những
người “lầm đường lạc lối” quay trở lại con đường lương thiện, “làm lại cuộc đời”.
Tuyệt đối tránh tình trạng đẩy người vi phạm vào bước đường cùng, “không còn gì
để mất”. Đồng thời, để khuyến khích người vi phạm tích cực sửa chữa sai phạm,
cần có biện pháp miễn, giảm, xóa trách nhiệm pháp lý cho họ một cách kịp thời.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cốt là để người vi phạm suy nghĩ sâu sắc về
hành vi của mình, “hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội” và “cam tâm tình
nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng” [116, tr.123], có như
vậy mới xóa bỏ được tận gốc rễ vi phạm. Vì vậy, việc theo dõi, giúp đỡ người vi
phạm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Trong
công việc này, vai trò trước hết thuộc về chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức,
tổ dân phố nơi sinh sống của người vi phạm. Các thiết chế này phải theo dõi, giám
sát, giúp đỡ, tạo cơ hội, điều kiện để người vi phạm có ý thức và tích cực sửa chữa
sai phạm. Sau một thời gian nhất định, qua theo dõi chứng tỏ ý thức đạo đức, ý thức
pháp luật của người vi phạm đã thực sự nâng cao, họ “đã trở thành người có ích
cho xã hội” thì phải có những hình thức ghi nhận điều đó. Hình thức xóa án tích
trong lĩnh vực hình sự chính là theo chiều hướng này. Sự phân tích trên đây cho
thấy, cần tuyệt đối tránh tình trạng khi truy cứu trách nhiệm pháp lý, có tư tưởng xử
lý xong là xong mà không theo dõi, giúp đỡ người vi phạm sửa chữa sai phạm. Hoạt
động này được thực hiện tốt, không chỉ giáo dục được người vi phạm, mà còn loại
bỏ cơ hội tái phạm của họ. Ngược lại, nếu hoạt động này bị coi nhẹ thì đó lại là một
trong những nguyên nhân của tình trạng tái vi phạm.
1Xem, điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999.
185
KẾT LUẬN CHƢƠNG 5
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức nhằm chỉ rõ sự gắn bó
chặt chẽ giữa chúng, qua đó chỉ ra rằng, trong quản lý xã hội, điều hết sức quan
trọng là phải biết kết hợp một cách chặt chẽ giữa chúng. Quan điểm chỉ đạo trong
việc kết hợp pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội là: việc kết hợp phải được
quán triệt trong toàn bộ cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi con người;
việc kết hợp là nhằm phục vụ việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam hiện nay, đảm bảo tốt hơn cho việc quản lý xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước; xây dựng nền văn hóa dân tộc, đặc sắc Việt Nam nhằm thúc đẩy
hợp tác và hội nhập quốc tế; xây dựng bản lĩnh con người Việt Nam trong quá trình
hợp tác và hội nhập, tạo nên một màng lọc có hiệu quả trong việc tiếp thu văn hóa,
lối sống từ bên ngoài; giảm thiểu hiện tượng vi phạm pháp luật cả về số lượng và
tính chất nghiêm trọng...
Để thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo nêu trên, cần tiến hành đồng bộ nhiều
biện pháp, trong cả các khâu lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong từng khâu, có
những yếu tố đặc thù của riêng nó, vì vậy, đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc ý nghĩa
của từng khâu, từng giai đoạn để có sự kết hợp tốt nhất. Bên cạnh đó, việc nghiên
cứu tiếp thu kinh nghiệm của dân tộc trong lịch sử cũng như kinh nghiệm của các
nước khác trong việc xử lý mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức là những việc
làm hết sức cần thiết. Tuy nhiên, giải pháp bao trùm, chi phối quán xuyến tất cả các
giải pháp khác đó là đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, đòi hỏi phải nhận thức thật
đúng đắn, đầy đủ về bản thân từng yếu tố pháp luật cũng như đạo đức và mối quan
hệ giữa chúng. Phải thấy rằng, giữa pháp luật và đạo đức có sự tác động tương hỗ,
yếu tố này vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu của yếu tố kia. Do vậy, không chỉ có pháp
luật tác động đến đạo đức mà đạo đức cũng tác động rất mạnh mẽ đến pháp luật.
Chỉ có nhận thức được điều này một cách sâu sắc mới có thể thực hiện có hiệu quả
các giải pháp khác.
186
KẾT LUẬN
Pháp luật và đạo đức là những công cụ quản lý xã hội quan trọng, không thể
thiếu được trong xã hội ta hiện nay. Để sử dụng pháp luật cũng như đạo đức một
cách có hiệu quả nhất trong quản lý xã hội trước hết đòi hỏi phải có sự nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về bản chất, vị trí, vai trò cũng như những ưu điểm và hạn chế của
mỗi yếu tố; chỉ rõ những điểm tương đồng, khác biệt của chúng, đồng thời phải
nhận thức được một cách sâu sắc sự tác động qua lại, bổ sung cho nhau giữa chúng.
Sự tác động giữa pháp luật và đạo đức thể hiện trước hết ở chỗ, đạo đức là cơ
sở của việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Bất kì hệ thống pháp luật nào cũng
luôn được xây dựng trên một nền tảng đạo đức nhất định, khi pháp luật không phù
hợp với đạo đức xã hội, sớm muộn nó cũng phải bị thay đổi cho phù hợp. Đồng
thời, đạo đức là nhân tố quan trọng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh trong cuộc sống. Pháp luật cũng có sự tác động mạnh mẽ đến đạo đức, nó ghi
nhận củng cố và phát huy những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức của
giai cấp thống trị, những quan niệm đạo đức tiến bộ, loại trừ những quan điểm,
quan niệm, qui tắc đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, không phù hợp với lợi ích giai cấp
thống trị cũng như lợi ích của cộng đồng dân tộc. Nó góp phần ngăn chặn sự thoái
hoá, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn sự hình thành những quan niệm, quan điểm
đạo đức phản tiến bộ, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó góp phần làm hình
thành những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức mới.
Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức sẽ trở nên khác nhau trong các
không gian, thời gian khác nhau. Điều đó là do mối quan hệ giữa chúng luôn chịu
ảnh hưởng bởi điều kiện khách quan và chủ quan như hoàn cảnh kinh tế, chính trị,
xã hội, yếu tố truyền thống, phong tục tập quán, lịch sử, địa lý, dân cư; yếu tố quốc
tế, yếu tố thời đại; yếu tố nhận thức của con người.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, mối
quan hệ giữa pháp luật với đạo đức có những yêu cầu riêng của nó. Trong điều kiện
đó, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội nhưng đạo đức
vẫn không bị coi nhẹ, giữa pháp luật với đạo đức có sự thống nhất hơn bao giờ hết,
tuy nhiên, ranh giới điều chỉnh giữa chúng càng được phân định rõ. Hai yếu tố này
luôn được kết hợp một cách chặt chẽ, hài hòa trong quản lý xã hội.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, pháp luật và đạo đức có mối quan hệ rất
mật thiết. Đảng, Nhà nước ta đã xác định quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời
187
coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống và các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Chính vì
vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành đã được xây dựng trên nền tảng đạo
đức cách mạng, đạo đức của nhân dân lao động. Pháp luật nước ta là pháp luật nhân
bản, nhân đạo, pháp luật của nhân dân lao động, vì nhân dân lao động. Để bảo vệ và
phát huy các giá trị đạo đức, nhà nước đã pháp luật hoá các quan niệm, quan điểm,
qui tắc đạo đức truyền thống, đạo đức cách mạng. Pháp luật nước ta đã góp phần
quan trọng vào việc loại bỏ các quan niệm, qui tắc đạo đức cũ lạc hậu như tư tưởng
đa thê, tư tưởng trọng nam khinh nữ, tư tưởng cục bộ bản vị... Pháp luật cũng góp
phần quan trọng vào việc ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức bằng việc
qui định và trừng phạt rất nghiêm khắc các hành vi xâm hại các giá trị đạo đức
truyền thống. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong mối quan hệ này cũng còn
một số khuyết điểm, tồn tại. Đó là một số trường hợp chưa phân biệt một cách rành
mạch phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức, nhiều qui định của pháp luật
còn quá chung chung, không cụ thể, khó thực hiện. Đạo đức xã hội có biểu hiện
xuống cấp làm vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ
nghiêm trọng.
Để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những khiếm
khuyết, tồn tại trong mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta, dảm bảo kết
hợp một cách chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội, đòi hỏi phải
thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Trước hết, cần có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tác dụng của pháp
luật, đạo đức và mối quan hệ giữa chúng. Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên sự điều chỉnh có hiệu
quả nhất các quan hệ xã hội.
- Nghiên cứu tiếp thu những kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc cũng như của
các nước trên thế giới về xử lý mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nhằm phát
huy hiệu quả sử dụng từng công cụ cũng như sử dụng kết hợp hai công cụ đó trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội.
- Không ngừng củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chuẩn mực đạo
đức. Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở của đạo đức, nhằm giữ gìn và phát
huy các giá trị đạo đức, thuần phong mĩ tục của dân tộc. Chú trọng xây dựng các
chuẩn mực đạo đức mới trong từng lĩnh vực của cuộc sống, phù hợp với từng lứa
tuổi, từng giới, từng nghề nghiệp...
188
- Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong gia đình, nhà trường, xã
hội. Cần lưu ý kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật trong gia đình, nhà trường
và các thiết chế xã hội khác. Thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp giáo
dục pháp luật, đạo đức
- Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp
luật, chú trọng hơn nữa công tác hoà giải ở cơ sở...
189
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1996), Hán Việt từ điển, Nxb TP Hồ Chí Minh.
2. P. Ănghen (1971), Chống Đuy rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Lê Thị Tuyết Ba (2002), “Vai trò của đạo đức đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học,
(5), 26 - 28.
4. Nguyễn Ngọc Bích (2000), Tâm lý học nhân cách, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật.
6. Hoàng Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
7. Phan Bội Châu (2000), Khổng học đăng toàn tập, tập 10, Nxb
Thuận hóa, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Huế.
8. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Phan Huy Chú (1971), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chế ước quyền lực nhà nước, Nxb
Đà Nẵng.
11. Vũ Trọng Dung (chủ biên) (2005), Giáo trình đạo đức học Mác -
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Vũ Trọng Dung (2009), Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức
sinh thái, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Thành Duy (2002), “Vai trò của văn hoá đạo đức trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học (2), 18 -22.
14. Thành Duy (2004), Văn hóa và đạo đức - mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ 7, Nxb Sự thật, Hà Nội.
190
17. Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện hội nghị lần thứ tư
BCH Trung ương khoá 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khoá 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện hội nghị lần thứ tám
BCH Trung ương khoá 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ tám, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ năm
BCH Trung ương khoá 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ chín, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ mười, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần
thứ mười một, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa thông
tin, Hội Nội.
26. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống
xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2011), Pháp luật, lối sống và
văn hóa công sở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
28. Tạ Thị Thu Đông (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và
pháp luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Động (chủ biên) (2010), Xây dựng và hoàn thiện
pháp luật nhằm đảm bảo phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
30. Frangsois Jullien (2000), Xác lập cơ sở cho đạo đức - Đối thoại
của Mạnh Tử với một nhà triết học khai sáng, Nxb Đà Nẵng.
31. Nguyễn Hồng Hà (2001), Văn hoá truyền thống dân tộc với việc
giáo dục thế hệ trẻ, Viện văn hoá và Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
32. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về
phát triển văn hoá và xây dựng con người thời kì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
191
33. Hoàng Thị Hạnh (2009), “Góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa
đạo đức và pháp luật”, Diễn đàn thông tin khoa học xã hội, (7), 38-45.
34. Nguyễn Khắc Hiếu (1999), Giáo trình Đạo đức học Mác - Lênin,
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
35. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Đại hội VIII
những tìm tòi và đổi mới, Thông tin chuyên đề, Tài liệu phục vụ lãnh đạo và
nghiên cứu, Hà Nội.
36. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Giáo trình
Triết học Mác - Lênin (chương trình cao cấp), tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Giáo trình
Triết học Mác - Lênin (chương trình cao cấp), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
38. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Các văn kiện
quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
39. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình
đạo đức học (dùng cho hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
40. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình lí
luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng (dùng cho hệ cử nhân chính trị),
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình
chủ nghĩa duy vật lịch sử (hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
42. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình lí
luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam (dùng cho
hệ lí luận chính trị cao cấp), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Hội đồng trung ương biên soạn sách giáo khoa Mác - Lênin
(1999), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hội Luật gia Việt Nam, Nhà nước và pháp luật, tập 3, Nxb Lao
động.
45. Hội Luật gia Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Hồ Chủ
tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh.
192
46. Đỗ Huy (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
47. Đỗ Huy (2002), Đạo đức học - Mĩ học và đời sống văn hoá nghệ
thuật, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Trương Tiến Hưng (2009), Vận dụng luật tục dân tộc Chăm
trong quản lý cộng đồng người Chăm của chính quyền cơ sở ở tỉnh Ninh
Thuận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
50. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
51. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
52. Khoa Triết học, Học viện CTQGHCM (2000), Giáo trình đạo
đức học (dành cho hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học viện CTQGHCM (2000),
Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (dùng cho hệ cử
nhân chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hoá Việt Nam xã hội và con
người, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Vũ Khiêu - Thành Duy (2000), Đạo đức và pháp luật trong triết
lí phát triển ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hoá thông tin, Hà
Nội
58. Trần Hậu Kiêm (chủ biên), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1996), Giáo trình đạo đức học, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến
trong cán bộ lãnh đạo quản lí của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
61. Trần Bích Lan, Luận triết học, Ngôn ngữ xuất bản, Sài Gòn.
193
62. Lê triều hình luật (1998), Nxb Văn hoá, Hà Nội.
63. Lênin (1979), toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Matxcova.
64. Cao Văn Luận (1963), Đạo đức học, Sài Gòn.
65. Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá
trình hình thành nhân cách, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
66. Mac - Angghen (1984), tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
67. Mac - Angghen (1994), toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
68. Vũ Văn Mẫu (1975), Pháp luật diễn giảng, Sài gòn.
69. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam thông khảo, quyển III, Đại học
Luật khoa Sài Gòn, tr. 395, 395
70. Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
71. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà
Nội.
72. Nguyễn Ngọc Minh (1988), Nghiên cứu những tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, NXB Sự thật, Hà Nội.
73. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản
lí ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb giáo dục, Hà Nội.
75. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
76. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính
tả, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
77. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực
của Nho giáo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
78. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
79. Nguyễn Gia Phu (chủ biên) (1997), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
80. Nguyễn Văn Quang, Trần Minh Hương (2009), Chuyên đề
nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp nhà nước Văn hóa pháp luật Việt Nam
từ lý luận đến thực tiễn, Hà Nội.
194
81. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Một số suy nghĩ về trách nhiệm
pháp lí và trách nhiệm đạo đức”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (3), 34 - 45.
82. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (3), 41.
83. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Một số suy nghĩ về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật, (7), 9 - 19.
84. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Vấn đề kết hợp quản lí xã hội bằng
pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết
học, (12), 28-31.
85. Hoàng Thị Kim Quế (2002), Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Đại học quốc gia Hà Nội.
86. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Xu hướng vận động, phát triển của
pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, (7) (8), 9-12; 17-19.
87. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
pháp luật và đạo đức”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (8), 64 - 71.
88. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Vấn đề kết hợp quản lí xã hội bằng
pháp luật với giáo dục và nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết
học (12), 28 - 31.
89. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Một số đặc điểm cơ bản của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (4), 5-8,19.
90. Hoàng Thị Kim Quế (2004), “Tính con người và những vấn đề
của đạo đức, pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (2), 5-9.
91. Hoàng Thị Kim Quế (2005), “Đời sống pháp luật”, Tạp chí Luật
học, (4), 25-31.
92. Hoàng Thị Kim Quế (2006), “Quan niệm về pháp luật, một vài
suy nghĩ”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (6), 9-13.
93. Hoàng Thị Kim Quế (2006), “Những vấn đề hôm nay của pháp
luật và đạo đức”, Tạp chí Luật học, (7), 42-48.
94. Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính
trị Quốc gia.
95. Hoàng Thị Kim Quế (2008), “Hư vô pháp luật”, Tạp chí nhà
nước và pháp luật, (9), 13-18
195
96. Hoàng Thị Kim Quế (2010), “Bản chất đích thực của mối quan
hẹ giữa pháp luật với đạo đức”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (1), 3-6.
97. Hoàng Thị Kim Quế (2011), “Vai trò của nhà giáo trong giáo
dục đạo đức, giáo dục pháp luật và kỹ năng sống cho người học ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí dân chủ và pháp luật (11), 2-5.
98. Quốc triều hình luật (1998), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
99. Nguyễn Duy Quý (chủ nhiệm) (2005), Báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài KX.04.01 Cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Hà Nội.
100. Rousseuau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb TP. Hồ Chí
Minh.
101. Bùi Ngọc Sơn (2002), Việt Nam tinh hoa đạo đức, Nxb Hà Nội.
102. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
103. Vũ Xuân Thái (1999), Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
104. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (1997), Lịch sử các định
chế chính trị và pháp quyền, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và học nho ở Việt Nam, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
106. Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương đông cổ đại, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
107. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010 của ngành tòa án nhân dân.
108. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2011 của ngành tòa án nhân dân.
109. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2012 của ngành tòa án nhân dân.
110. Trần Văn Toàn (1967), Xã hội và con người, Nam Sơn xuất bản,
Sài Gòn.
111. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (1999), Giáo trình
đạo đức học Mác - Lênin, Hà Nội.
196
112. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lịch sử nhà
nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
113. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lí luận về nhà
nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
114. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Pháp luật Việt Nam trong
tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
115. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lí luận về nhà
nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
116. Khổng Tử (2006), Tứ thư, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
117. Lão Tử (2001), Đạo đức kinh, Nxb Văn học, Hà Nội.
118. Nguyễn Đình Tường (2002), “Một số biểu hiện của sự biến đổi
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và giải pháp khắc
phục”, Tạp chí Triết học, ((6 - 2002), 19 - 22.
119. Đức Uy (dịch) (1986), Sự sai lệch chuẩn mực xã hội, tập 1, Nxb
thông tin lí luận, Hà Nội.
120. Đức Uy (dịch) (1987), Sự sai lệch chuẩn mực xã hội, tập 2, Nxb
thông tin lí luận, Hà Nội.
121. Đào Trí Úc (2000), Luật Hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
122. Đào Trí Úc (2002), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
123. Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên) (1994), Từ điển xã hội học, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
125. Nguyễn Quốc Việt (2002), Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
126. Trần Nguyên Việt (2002), “Giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường”,
Tạp chí Triết học, (5), 20-25.
127. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1994), Xã hội và pháp
luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
197
128. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), Mối quan
hệ giữa tập tục và pháp luật, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.
129. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
130. X.Y.Z (2002), Sửa đổi lối làm việc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
131. Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến
đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
132. Website Vietnamnet.vn
133. Website Vnexpress.net
198
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
CÓ NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, Tạp chí Luật
học số 4/2006, trang 33 - 39.
2. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật, Tạp
chí Luật học số 3/2011, trang 27 - 33.
3. Vai trò của đạo đức trong quản lý xã hội, Tạp chí Luật học số
9/2011, trang 40 - 49.
4. Bàn về hành vi pháp luật và hành vi đạo đức, Tạp chí Luật học số
12/2011, trang 23-33.
199
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
MẪU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
Tên đề tài:Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
Người khảo sát: Nguyễn Văn Năm
****
Phụ lục 1A.MẪU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC DÙNG CHO CƠ QUAN XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT
Nơi khảo sát: Bộ tƣ pháp, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội
Để thực hiện đề tài luận án tiến sĩ: “Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”,
Ông/ bà hãy điền dấu (X) vào ô vuông (□) thích hợp, hay ghi trả lời các câu hỏi sau
đây. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tích cực của ông, bà.
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây? (xin vui lòng đánh dấuX vào ô
tương ứng)
Loại chuẩn mực
Mức độ cần thiết
Rất cần thiết Cần thiết Không
cần thiết
Rất không cần
thiết
Đạo đức
Pháp luật
Phong tục, tập quán
Tôn giáo
Chính trị
Câu 2: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật có cần đƣợc xây dựng trên
nền tảng đạo đức hay không? Vì sao?
1. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức mới phù hợp/ 2.Có nhiều lĩnh
vực pháp luật không thể đưa ra qui định cụ thể mà cần dựa vào đạo đức/ 3. Pháp
luật xây dựng nếu trái đạo đức thì khó thực hiện trong thực tế/ 4. Để đảm bảo
quyền tự do của con người/ 5. Phương án khác
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
200
1. Có/ 2. Không
Câu 4: Khi đạo đức đƣợc đƣa vào pháp luật có dễ áp dụng vào thực tiễn
không? (Ví dụ như Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Những giao dịch
dân sự trái với pháp luật và đạo đức thì bị coi là vô hiệu). (Chỉ được lựa chọn 1
phương án)
1. Rất dễ áp dụng/ 2. Dễ áp dụng/ 3.Khó áp dụng/ 4.Không thể áp dụng
Câu 5: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, với những quy phạm pháp luật không
phù hợp với đạo đức xã hội, cần có những biện pháp nào để có thể áp dụng
hiệu quả vào đời sống xã hội?
1. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật để người dân nhận thức được lợi ích của
việc thực hiện pháp luật./2. Áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với
trường hợp vi phạm./3. Các phương án khác (xin vui lòng ghi rõ):
………………………………
Câu 6: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sƣ, bác sĩ,
nhà giáo…) có cần phải chuyển các quy phạm đạo đức đó thành các quy phạm
pháp luật không?
1. Có/ 2. Không
Câu 7: Giới tính của Ông (Bà)?
1. Nam/ 2. Nữ
Câu 8: Ông (Bà) đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
1. Trình độ trung cấp/ 2. Trình độ cao đẳng/ 3.Trình độ đại học/ 4.Trình độ
thạc sĩ/ 5.Trình độ tiến sĩ
Câu 9: Ông (Bà) ở độ tuổi nào?
1. Từ 20 tuổi đến 35 tuổi/ 2. Từ 35 tuổi đến 50 tuổi / 3.Từ 50 tuổi đến 60
tuổi
Câu 10: Trình độ học vấn hiện nay của Ông (Bà)?
1. Trên đại học/ 2. Cao đẳng,Đại học/ 3.Trung cấp
Câu 11: Nơi làm việc của Ông (Bà)?
Huyện (Quận): ………………………………………….
Tỉnh (Thành phố):……………………………………….
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Quý Ông (Bà)!
201
Phụ lục 1B: MẪU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC DÙNG CHO CƠ QUAN BẢO
VỆ PHÁP LUẬT
Nơi khảo sát: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm; Công
an; Viện kiểm sát tỉnh Yên Bái và Thành phố Yên Bái; Công an, Viện kiểm sát
Tỉnh Quảng Ngãi và Thành phố Quảng Ngãi
Để thực hiện đề tài luận án tiến sĩ: “Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
Ông/ bà hãy điền dấu (X) vào ô vuông (□) thích hợp, hay ghi trả lời các câu hỏi sau
đây. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tích cực của ông, bà.
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây? (xin vui lòng đánh dấuX vào ô
tương ứng)
Loại chuẩn mực
Mức độ cần thiết
Rất cần thiết Cần thiết Không
cần thiết
Rất không cần
thiết
Đạo đức
Pháp luật
Phong tục, tập quán
Tôn giáo
Chính trị
Câu 2: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật có cần đƣợc xây dựng trên
nền tảng đạo đức hay không? Vì sao?
1. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức mới phù hợp/ 2.Có nhiều lĩnh
vực pháp luật không thể đưa ra qui định cụ thể mà cần dựa vào đạo đức/ 3. Pháp
luật xây dựng nếu trái đạo đức thì khó thực hiện trong thực tế/ 4. Để đảm bảo
quyền tự do của con người/ 5. Phương án khác
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
1. Có/ 2. Không
Câu 4: Trong trƣờng hợp pháp luật không quy định cụ thể, ông/bà có dựa vào
đạo đức để giải quyết hay không?
1. Có/ 2. Không
202
Câu 5: Trong quá trình làm việc, với những văn bản pháp luật chứa đựng các
quy phạm đạo đức, theo Ông (Bà) có dễ áp dụng vào thực tiễn không? (Ví dụ
như Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Những giao dịch dân sự trái với
pháp luật và đạo đức thì bị coi là vô hiệu). (Chỉ được lựa chọn 1 phương án)
1. Rất dễ áp dụng/ 2. Dễ áp dụng/ 3.Khó áp dụng/ 4.Không thể áp dụng
Câu 6: Đối với trƣờng hợp pháp luật quy định, hành vi của ngƣời dân không
đƣợc “trái với đạo đức xã hội”, Ông (Bà) dựa trên cơ sở nào để kết luận một
hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội?
1. Dựa vàovăn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung “trái đạo đức xã hội”/ 2.
Dựa vào lương tâm của chính mình/ 3.Dựa vào dư luận xã hội/ 4.Các phương án
khác (xin vui lòng ghi rõ): ………………………………
Câu 7: Khi giải quyết các công việc theo thẩm quyền, Ông (Bà) có gặp phải
những tình huống phải cân nhắc để lựa chọn giữa đạo đức hay pháp luật
không?
1. Có/ 2. Không
Câu 8: Trong quá trình áp dụng pháp luật, Ông (Bà) có phải kết hợp pháp luật
và đạo đức để ra quyết định phù hợp hay không?
1. Có/ 2. Không
Câu 9: Nếu gặp trƣờng hợp pháp luật và đạo đức xã hội có mâu thuẫn, Ông Bà
xử lý nhƣ thế nào?
1. Áp dụng đúng các quy định của pháp luật, chấp nhận sự lên án của dư luận
xã hội/ 2. Cân nhắc giữa đạo đức và pháp luật để đưa ra quyết định phù hợp/ 3.
Áp dụng cho phù hợp đạo đức xã hội, chấp nhận xử lý kỷ luật của cơ quan/ 4. Các
phương án khác (xin vui lòng ghi rõ): ………………………………
Câu 10: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, luật sƣ, ngƣời bảo vệ pháp luật…) có cần phải chuyển
các quy phạm đạo đức đó thành các quy phạm pháp luật không?
1. Có/ 2. Không
Câu 11: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở cơ quan Ông (Bà) đƣợc thực hiện nhƣ thế
nào?
1. Rất tốt/ 2. Tốt/ 3.Chưa tốt
Câu 12: Trong năm vừa qua, ở cơ quan Ông (Bà) có cán bộ vi phạm đạo đức
nghề nghiệp bị phát hiện không?
203
1. Có/ 2. Không
Câu 13: Ông (Bà) có đồng ý với quan điểm cho rằng: vi phạm pháp luật gia
tăng là do đạo đức xã hội bị tha hóa, xuống cấp không?
1. Có/ 2. Không
Câu 14: Giới tính của Ông (Bà)?
1. Nam/ 2. Nữ
Câu 15: Ông (Bà) đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
1. Trình độ trung cấp/ 2. Trình độ cao đẳng/ 3.Trình độ đại học/ 4.Trình độ
thạc sĩ/ 5.Trình độ tiến sĩ
Câu 16: Ông (Bà) ở độ tuổi nào?
1. Từ 20 tuổi đến 35 tuổi/ 2. Từ 35 tuổi đến 50 tuổi / 3.Từ 50 tuổi đến 60
tuổi
Câu 17: Công việc hiện nay của Ông (Bà) là gì?
…………………………………………………………………………………….
Câu 18: Trình độ học vấn hiện nay của Ông (Bà)?
1. Trên đại học/ 2. Cao đẳng,Đại học/ 3.Trung cấp
Câu 19: Nơi làm việc của Ông (Bà)?
Huyện (Quận): ………………………………………….
Tỉnh (Thành phố):……………………………………….
204
Phụ lục 1C: MẪU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC DÙNG CHO NHÂN DÂN
Nơi khảo sát: Hà Nội, Nam Định, Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ngãi
Để thực hiện đề tài luận án tiến sỹ: “Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”
Ông/ bà hãy điền dấu (X) vào ô vuông (□) thích hợp, hay ghi trả lời các câu hỏi sau
đây. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tích cực của ông, bà.
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây? (xin vui lòng đánh dấuX vào ô
tương ứng)
Loại chuẩn mực
Mức độ cần thiết
Rất cần thiết Cần thiết Không
cần thiết
Rất không cần
thiết
Đạo đức
Pháp luật
Phong tục, tập quán
Tôn giáo
Chính trị
Câu 2: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật có cần đƣợc xây dựng trên
nền tảng đạo đức hay không? Vì sao?
1. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức mới phù hợp/ 2.Có nhiều lĩnh
vực pháp luật không thể đưa ra qui định cụ thể mà cần dựa vào đạo đức/ 3. Pháp
luật xây dựng nếu trái đạo đức thì khó thực hiện trong thực tế/ 4. Để đảm bảo
quyền tự do của con người/ 5. Phương án khác
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
1. Có/ 2. Không
Câu 4: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, luật sƣ, nhà báo, bác sĩ…) có cần phải chuyển các quy
phạm đạo đức đó thành các quy phạm pháp luật không?
1. Có/ 2. Không
Câu 5: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở cơ quan, địa phƣơng Ông (Bà) đƣợc thực hiện
nhƣ thế nào?
205
1. Rất tốt/ 2. Tốt
Câu 6: Trong cuộc sống hàng ngày, hành vi xử sự của Ông (Bà) chịu ảnh
hƣởng của yếu tố nào?(Chỉ lựa chọn 1 phương án trả lời)
1. Đạo đức là chủ yếu, pháp luật là thứ yếu./2. Pháp luật là chủ yếu, đạo đức
là thứ yếu./3. Cả hai yếu tố đạo đức và pháp luật
Câu 7: Ông (Bà) có đồng ý với quan điểm cho rằng: vi phạm pháp luật gia tăng
là do đạo đức xã hội bị tha hóa, xuống cấp không?
1. Có./2. Không
Câu 8: Giới tính của Ông (Bà)?
1. Nam./2. Nữ
Câu 9: Ông (Bà) đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
1. Chưa được học./2. Trình độ trung cấp./3. Trình độ cao đẳng./4. Trình độ
trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ)
Câu 10: Ông (Bà) ở độ tuổi nào?
1. Từ 18 tuổi đến 35 tuổi./2. Từ 35 tuổi đến 50 tuổi./3. Từ 50 tuổi đến 60
tuổi
Câu 11: Công việc hiện nay của Ông (Bà) là gì?
Câu 12: Trình độ học vấn hiện nay của Ông (Bà)?
1. Trên đại học./2. Cao đẳng,Đại học./3. Trung cấp./4. Cấp III./5. Cấp II
Câu 13: Chỗ ở của Ông (Bà)?
Huyện (Quận): ………………………………………….
Tỉnh (Thành phố):……………………………………….
206
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
Phụ lục 2A: BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI CƠ
QUAN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội, cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây?
Sự cần thiết của chuẩn mực đạo đức
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Biến
hợp
lệ
Rất cần thiết 67 65.7 65.7 65.7
Cần thiết 35 34.3 34.3 100.0
Total 102 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Biến
hợp lệ
Rất cần thiết 86 84.3 84.3 84.3
Cần thiết 16 15.7 15.7 100.0
Total 102 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực phong tục tập quán
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất cần thiết 20 19.6 19.6 19.6
Cần thiết 78 76.5 76.5 96.1
Không cần thiết 3 2.9 2.9 99.0
Rất không cần thiết 1 1.0 1.0 100.0
Total 102 100.0 100.0
207
Sự cần thiết của chuẩn mực tôn giáo
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất cần thiết 13 12.7 12.7 12.7
Cần thiết 63 61.8 61.8 74.5
Không cần thiết 26 25.5 25.5 100.0
Total 102 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực chính trị
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất cần thiết 21 20.6 20.6 20.6
Cần thiết 68 66.7 66.7 87.3
Không cần thiết 11 10.8 10.8 98.0
Rất không cần thiết 2 2.0 2.0 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 2: Theo quan điểm của ông (Bà), pháp luật có cần đƣợc xây dựng
trên các chuẩn mực đạo đức không? Vì sao?
Pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức mới phù hợp
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Có 76 74.5 74.5 74.5 Không 26 25.5 25.5 100.0 Total 102 100.0 100.0
Có nhiều lĩnh vực pháp luật không thể đưa ra quy định cụ thể mà cần phải dựa vào đạo đức
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 50 49.0 49.0 49.0 Khong 52 51.0 51.0 100.0 Total 102 100.0 100.0
Pháp luật xây dựng nếu trái với đạo đức thì khó thực hiện trong thực tiễn
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 67 65.7 65.7 65.7
208
Khong 35 34.3 34.3 100.0 Total 102 100.0 100.0
Để đảm bảo được quyền tự do của con người
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 34 33.3 33.3 33.3 Khong 68 66.7 66.7 100.0 Total 102 100.0 100.0
Phương án khác
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 1 1.0 1.0 1.0 Khong 101 99.0 99.0 100.0 Total 102 100.0 100.0
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Có 94 92.2 92.2 92.2
Không 8 7.8 7.8 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 4: Khi đạo đức đƣợc đƣa vào pháp luật, có dễ áp dụng vào thực tiễn
không? (Ví dụ như Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Những giao dịch
dân sự trái với pháp luật và đạo đức thì bị coi là vô hiệu). (Chỉ được lựa chọn 1
phương án)
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rất dễ áp dụng 14 13.7 13.7 13.7
Dễ áp dụng 58 56.9 56.9 70.6
Khó áp dụng 28 27.5 27.5 98.0
Không thể áp dụng 2 2.0 2.0 100.0
Total 102 100.0 100.0
209
Câu 5: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, với những quy phạm pháp luật không
phù hợp với đạo đức xã hội, cần có những biện pháp nào để có thể áp dụng
hiệu quả vào đời sống xã hội?
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật để ngƣời dân nhận thức đƣợc lợi ích của việc
thực hiện pháp luật
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 90 88.2 88.2 88.2
Khong 12 11.8 11.8 100.0
Total 102 100.0 100.0
Áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với trƣờng hợp vi phạm
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 45 44.1 44.1 44.1
Khong 57 55.9 55.9 100.0
Total 102 100.0 100.0
Cac phuong an khac
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 2 2.0 2.0 2.0
Khong 100 98.0 98.0 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 6: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, luật sƣ, ngƣời bảo vệ pháp luật…) có cần phải chuyển
các quy phạm đạo đức đó thành các quy phạm pháp luật không?
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 94 92.2 92.2 92.2
Khong 8 7.8 7.8 100.0
Total 102 100.0 100.0
210
Câu 7: Giới tính của Ông, Bà
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Vali
d
Nam 34 33.3 33.3 33.3
Nu 68 66.7 66.7 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 8: Ông, Bà đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Trinh do cao dang 1 1.0 1.0 1.0
Trinh do dai hoc 65 63.7 63.7 64.7
Trinh do thac si 32 31.4 31.4 96.1
Trinh do tien si 4 3.9 3.9 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 9: Độ tuổi của Ông Bà
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Vali
d
20-35 70 68.6 68.6 68.6
35-50 27 26.5 26.5 95.1
50-60 5 4.9 4.9 100.0
Total 102 100.0 100.0
Câu 10: Trình độ học vấn hiện nay của Ông, Bà
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Bo tu phap 75 73.5 73.5 73.5
Van phong quoc hoi 27 26.5 26.5 100.0
Total 102 100.0 100.0
211
Câu 11: Nơi làm việc của Ông, Bà
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Tren dai hoc 49 48.0 48.0 48.0
Cao dang, dai hoc 53 52.0 52.0 100.0
Total 102 100.0 100.0
212
Phụ lục 2B: BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI CƠ
QUAN BẢO VỆ PHÁP LUẬT
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội, cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây?
Sự cần thiết của chuẩn mực đạo đức
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Rat can thiet 146 53.3 53.3 53.3
Can thiet 124 45.3 45.3 98.5
Khong can
thiet 4 1.5 1.5 100.0
Total 274 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực pháp luật
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Rat can thiet 242 88.3 88.3 88.3
Can thiet 31 11.3 11.3 99.6
Khong can thiet 1 .4 .4 100.0
Total 274 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực phong tục, tập quán
Phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can thiet 43 15.7 15.7 15.7
Can thiet 209 76.3 76.3 92.0
Khong can thiet 21 7.7 7.7 99.6
Rat khong can thiet 1 .4 .4 100.0
Total 274 100.0 100.0
213
Sự cần thiết của chuẩn mực tôn giáo
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can thiet 45 16.4 16.4 16.4
Can thiet 183 66.8 66.8 83.2
Khong can thiet 42 15.3 15.3 98.5
Rat khong can thiet 4 1.5 1.5 100.0
Total 274 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực chính trị
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 100 36.5 36.5 36.5
Can thiet 148 54.0 54.0 90.5
Khong
can thiet 18 6.6 6.6 97.1
Rat khong
can thiet 8 2.9 2.9 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 2: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật có cần được xây dựng trên nền tảng các chuẩn mực đạo đức không? Vì sao? (có thể lựa chọn nhiều phương án) Pl phai duoc xdung tren nen tang dao duc moi phu hop
Phương án trả lời Số
lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 211 77.0 77.0 77.0 Khong 63 23.0 23.0 100.0 Total 274 100.0 100.0
Co nhieu linh vuc phap luat khong the dua ra quy dinh cu the ma can phai dua vao dao duc
Phương án trả lời Số Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
214
lượng hợp lệ cộng dồn
Valid Co 148 54.0 54.0 54.0 Khong 126 46.0 46.0 100.0 Total 274 100.0 100.0
Pl xay dung neu trai voi dao duc kho thuc hien trong thuc tien
Phương án trả lời Số
lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 131 47.8 47.8 47.8 Khong 143 52.2 52.2 100.0 Total 274 100.0 100.0
De dam bao duoc quyen tu do cua con nguoi
Phương án trả lời Số
lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 45 16.4 16.4 16.4 Khong 229 83.6 83.6 100.0 Total 274 100.0 100.0
Phuong an khac
Phương án trả lời Số
lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 5 1.8 1.8 1.8 Khong 269 98.2 98.2 100.0 Total 274 100.0 100.0
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Co 230 83.9 83.9 83.9
Khong 44 16.1 16.1 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 4 : Trong trƣờng hợp pháp luật không quy định cụ thể, ông/bà có dựa
vào đạo đức để giải quyết hay không?
215
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 148 54.0 54.0 54.0
Khong 126 46.0 46.0 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 4: Trong quá trình làm việc, với những văn bản pháp luật chứa đựng các
quy phạm đạo đức, theo Ông (Bà) có dễ áp dụng vào thực tiễn không? (Ví dụ
như Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Những giao dịch dân sự trái với
pháp luật và đạo đức thì bị coi là vô hiệu). (Chỉ được lựa chọn 1 phương án)
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat de ap dung 5 1.8 1.8 1.8
De ap dung 106 38.7 38.7 40.5
Kho ap dung 158 57.7 57.7 98.2
Khong the ap dung 5 1.8 1.8 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 6: Đối với trƣờng hợp pháp luật quy định, hành vi của ngƣời dân không
đƣợc “trái với đạo đức xã hội”, Ông (Bà) dựa trên cơ sở nào để kết luận một
hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội?
Dựa vào lƣơng tâm của chính mình
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 70 25.5 25.5 25.5
Khong 204 74.5 74.5 100.0
Total 274 100.0 100.0
Dựa vào dƣ luận xã hội
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 101 36.9 36.9 36.9
Khong 173 63.1 63.1 100.0
Total 274 100.0 100.0
216
Các phƣơng án khác
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 8 2.9 2.9 2.9
Khong 266 97.1 97.1 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 7: Khi giải quyết các công việc theo thẩm quyền, Ông (Bà) có gặp phải
những tình huống phải cân nhắc để lựa chọn giữa đạo đức hay pháp luật
không?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 194 70.8 70.8 70.8
Khong 80 29.2 29.2 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 8: Trong quá trình giải quyết các công việc thuộc quyền, Ông (Bà) có phải
kết hợp pháp luật và đạo đức để đƣa ra quyết định phù hợp không?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 206 75.2 75.2 75.2
Khong 68 24.8 24.8 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 9: Trong trƣờng hợp giữa pháp luật và đạo đức xã hội có mâu thuẫn, Ông
(Bà) xử lý nhƣ thế nào?
Áp dụng đúng các quy định của pháp luật, chấp nhận sự lên án của dƣ luận xã
hội
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 68 24.8 24.8 24.8
217
Khong 206 75.2 75.2 100.0
Total 274 100.0 100.0
Áp dụng cho phù hợp với đạo đức xã hội, chấp nhận xử lý kỷ luật của cơ quan
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 259 94.5 94.5 94.5
Khong 14 5.1 5.1 99.6
3.00 1 0.4 0.4 100.0
Total 274 100.0 100.0
Các phƣơng án khác
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 3 1.1 1.1 1.1
Khong 270 98.5 98.5 99.6
3.00 1 .4 .4 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 10: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, luật sƣ, ngƣời bảo vệ pháp luật…) có cần phải chuyển
các quy phạm đạo đức đó thành các quy phạm pháp luật không?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 247 90.1 90.1 90.1
Khong 27 9.9 9.9 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 11: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở cơ quan Ông (Bà) đƣợc thực hiện nhƣ thế
nào?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
218
Valid Rat tot 124 45.3 45.3 45.3
Tot 141 51.5 51.5 96.7
Chua tot 9 3.3 3.3 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 12: Trong năm vừa qua, ở cơ quan Ông (Bà) có cán bộ vi phạm đạo đức
nghề nghiệp bị phát hiện không?
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 41 15.0 15.0 15.0
Khong 233 85.0 85.0 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 13: Ông (Bà) có đồng ý với quan điểm cho rằng: vi phạm pháp luật gia
tăng là do đạo đức xã hội bị thoái hóa, xuống cấp không?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 247 90.1 90.1 90.1
Khong 27 9.9 9.9 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 14: Giới tính của Ông (Bà)?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 162 59.1 59.1 59.1
Khong 112 40.9 40.9 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 15: Ông (Bà) đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Trinh do trung cap 30 10.9 10.9 10.9
Trinh do cao dang 25 9.1 9.1 20.1
Trinh do dai hoc 184 67.2 67.2 87.2
219
Trinh do thac si 32 11.7 11.7 98.9
Trinh do tien si 3 1.1 1.1 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 16: Ông (Bà) ở độ tuổi nào?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Vali
d
20-35 163 59.5 59.5 59.5
35-50 97 35.4 35.4 94.9
50-60 14 5.1 5.1 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 17: Công việc hiện nay của Ông (Bà) là gì?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Tham phan 38 13.9 13.9 13.9
Thu ky 52 19.0 19.0 32.8
Can bo, cong chuc 62 22.6 22.6 55.5
Tham tra vien 36 13.1 13.1 68.6
Kiem sat vien 2 .7 .7 69.3
Cong an 84 30.7 30.7 100.0
Total 274 100.0 100.0
Câu 18: Trình độ học vấn hiện nay của Ông (Bà)?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Tren dai hoc 48 17.5 17.5 17.5
Cao dang, dai hoc 202 73.7 73.7 91.2
Trung cap 23 8.4 8.4 99.6
6.00 1 .4 .4 100.0
Total 274 100.0 100.0
220
Câu 19: Nơi làm việc của Ông (Bà)?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Ha Noi 85 31.0 31.0 31.0
Quang Ngai 72 26.3 26.3 57.3
Nghe An 55 20.1 20.1 77.4
Yen Bai 62 22.6 22.6 100.0
Total 274 100.0 100.0
Phụ lục 2C: BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI NHÂN
DÂN
Câu 1: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã
hội cần có những chuẩn mực xã hội nào sau đây? (xin vui lòng đánh dấu X vào ô
tương ứng)
Sự cần thiết của chuẩn mực đạo đức
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 249 79.0 79.0 79.0
Can thiet 63 20.0 20.0 99.0
Rat khong
can thiet 3 1.0 1.0 100.0
Total 315 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực pháp luật
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 245 77.8 77.8 77.8
Can thiet 67 21.3 21.3 99.0
Rat khong
can thiet 2 .6 .6 99.7
11.00 1 .3 .3 100.0
Total 315 100.0 100.0
221
Sự cần thiết của chuẩn mực phong tục, tập quán
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 70 22.2 22.2 22.2
Can thiet 224 71.1 71.1 93.3
Khong
can thiet 19 6.0 6.0 99.4
Rat khong
can thiet 2 .6 .6 100.0
Total 315 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực tôn giáo
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 49 15.6 15.6 15.6
Can thiet 196 62.2 62.2 77.8
Khong
can thiet 68 21.6 21.6 99.4
Rat khong
can thiet 2 .6 .6 100.0
Total 315 100.0 100.0
Sự cần thiết của chuẩn mực chính trị
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat can
thiet 99 31.4 31.4 31.4
Can thiet 183 58.1 58.1 89.5
Khong
can thiet 24 7.6 7.6 97.1
222
Rat khong
can thiet 9 2.9 2.9 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 2: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật có cần đƣợc xây dựng
trên nền tảng các chuẩn mực đạo đức không? Vì ao? Pl phai duoc xdung tren nen tang dao duc moi phu hop
Phương án trả lời
Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 223 70.8 70.8 70.8
Khong 92 29.2 29.2 100.0
Total 315 100.0 100.0
Co nhieu linh v phap luat khong the dua ra quy dinh cu the ma can phai dua vao dao duc
Phương án trả lời
Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 148 47.0 47.0 47.0
Khong 167 53.0 53.0 100.0
Total 315 100.0 100.0
Pl xay dung neu trai voi dao duc kho thuc hien trong thuc tien
Phương án trả lời
Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 187 59.4 59.4 59.4
Khong 128 40.6 40.6 100.0
Total 315 100.0 100.0
De dam bao duoc quyen tu do cua con nguoi
Phương án trả lời
Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 99 31.4 31.4 31.4
Khong 216 68.6 68.6 100.0
Total 315 100.0 100.0
Phuong an khac
Phương án trả lời
Số lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ % hợp lệ
Tỉ lệ % cộng dồn
Valid Co 9 2.9 2.9 2.9
Khong 306 97.1 97.1 100.0
Total 315 100.0 100.0
223
Câu 3: Theo quan điểm của Ông (Bà), pháp luật Việt Nam hiện hành có đƣợc
xây dựng trên nền tảng đạo đức hay không?
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 281 89.2 89.2 89.2
Khon
g 34 10.8 10.8 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 4: Theo quan điểm của Ông (Bà), để bảo vệ giá trị đạo đức nghề nghiệp
(của cán bộ, công chức, luật sƣ, nhà báo, bác sĩ…) có cần phải chuyển các quy
phạm đạo đức đó thành các quy phạm pháp luật không?
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 286 90.8 90.8 90.8
Khon
g 29 9.2 9.2 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 5: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở cơ quan, địa phƣơng Ông (Bà) đƣợc thực hiện
nhƣ thế nào?
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Rat
tot 13 4.1 4.1 4.1
Tot 302 95.9 95.9 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 6: Trong cuộc sống hàng ngày, hành vi xử sự của Ông (Bà) chịu ảnh
hƣởng của yếu tố nào?(Chỉ lựa chọn 1 phương án trả lời)
Đạo đức là chủ yếu, pháp luật là thứ yếu
Phương án Số Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
224
trả lời lượng hợp lệ cộng dồn
Valid Co 58 18.4 18.4 18.4
Khon
g 161 51.1 51.1 69.5
3.00 96 30.5 30.5 100.0
Total 315 100.0 100.0
Pháp luật là chủ yếu, đạo đức là thứ yếu
Phương án trả
lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 39 12.4 12.4 12.4
Khong 276 87.6 87.6 100.0
Total 315 100.0 100.0
Cả hai yếu tố đạo đức và pháp luật
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 24 7.6 7.6 7.6
Khon
g 291 92.4 92.4 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 7: Ông (Bà) có đồng ý với quan điểm cho rằng: vi phạm pháp luật gia tăng
là do đạo đức xã hội bị thoái hóa, xuống cấp không?
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Co 255 81.0 81.0 81.0
Khon
g 59 18.7 18.7 99.7
3.00 1 .3 .3 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 8: Giới tính của Ông (Bà)?
225
Phương án
trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Vali
d
Nam 14 4.4 4.4 4.4
Nu 301 95.6 95.6 100.0
Total 315 100.0 100.0
Câu 9: Ông (Bà) đƣợc đào tạo, trang bị kiến thức pháp luật ở trình độ nào?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Chua duoc
hoc 162 51.4 51.6 51.6
Trinh do
trung cap 152 48.3 48.4 100.0
Total 314 99.7 100.0
Missing System 1 .3
Total 315 100.0
Câu 10: Ông (Bà) ở độ tuổi nào?
Phương án trả
lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid 18-35 159 50.5 50.6 50.6
35-50 52 16.5 16.6 67.2
50-60 59 18.7 18.8 86.0
4.00 44 14.0 14.0 100.0
Total 314 99.7 100.0
Missin
g
Syste
m 1 .3
Total 315 100.0
Câu 11: Công việc hiện nay của Ông (Bà) là gì?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Cong chuc,
vien chuc 148 47.0 47.1 47.1
226
Cong nhan 34 42.5 42.7 89.8
Nong dan 132 10.2 10.2 100.0
Total 314 99.7 100.0
Missing System 1 .3
Total 315 100.0
Câu 12: Trình độ học vấn hiện nay của Ông (Bà)?
Phương án trả lời
Số
lượng Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ %
cộng dồn
Valid Tren dai
hoc 67 21.3 21.3 21.3
Cao dang,
dai hoc 40
12.8 12.8 34.1
Trung cap 41 13.0 13.0 47.0
Cap II 166 52.7 52.9 99.4
Total 314 99.7 100.0
Missing System 1 .3
Total 315 100.0
Câu 13: Chỗ ở của Ông (Bà)?
Phương án trả lời
Số
lượn
g Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
hợp lệ
Tỉ lệ % cộng
dồn
Valid Hà Nội 33 10.5 12.0 12.0
Nam Định 126 40.0 45.8 57.8
Yên Bái 20 6.3 7.3 65.1
Nghệ An 51 16.2 18.5 83.6
Quảng Ngãi 45 14.3 16.4 100.0
Total 275 87.3 100.0
Missin
g
System 40 12.7
Total 315 100.0