MUÏC LUÏC - Đảng bộ TPHCM

64
ª VÂN TÂM - Cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam ... 2 ª TRƯƠNG NGUYÊN TUỆ - Karl Marx, nhà tư tưởng thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân thế giới ............................................................................................. 7 ª TS. TRẦN DU LỊCH - TP.HCM đang đứng trước nhiều cơ hội tạo sự đột phá ... 11 QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP ª Những điểm mới trong Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.................................................................................................................... 15 HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ª LÊ ĐỖ - Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh18 ª NGUYỄN VĂN ĐẠO - Vạch trần âm mưu của các luận điệu xuyên tạc HCMinh ............................................................................................22 ª CẨM TÚ - Phường 16 quận 11: “Gần dân” trong thực thi công vụ....................... 26 ª ĐỖ LOAN - Trạm Quản lý đường thủy nội địa số 5: Đi đầu trong công tác bảo đảm an toàn đường thủy nội địa .................................................................................... 29 HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN ª Quy định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn ...................................................................................................... 31 ª Nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 .................................... 34 KINH NGHIỆM CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN ª HOÀI NGUYỄN - Thành phố Hồ Chí Minh: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” .................. 37 ª NGÔ VĂN VỸ - Đảng bộ Khu chế xuất Tân Thuận: Chú trọng công tác xây dựng lực lượng chính trị và chăm lo đời sống người lao động...................................... 41 Ý KIẾN ĐẢNG VIÊN ª HOÀNG VĂN LỄ - Về việc xét xử các vụ đại án ................................................... 43 ª MINH TÂM - Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước........ 46 GƯƠNG ĐẢNG VIÊN ª ÁNH DƯƠNG - MINH CHÁNH - Dương Linh, người nghệ sĩ một đời gắn liền với cách mạng .............................................................................................................. 49 LỊCH SỬ ĐẢNG VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ª Trung tướng, PGS.TS. BÙI MẬU QUÂN - Công tác bảo đảm bí mật chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 .................................................. 52 ª TS. LÊ ĐỨC HOÀNG - Các phong trào thi đua ái quốc trong kháng chiến chống Mcứu nước (1954 - 1975) ......................................................................................... 56 TRANG THÔNG TIN ª Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát công tác quản lý kê khai .....................................................................................................62 NHÂN SỰ MỚI ................................................63 TRANG THÔNG TIN NGÀNH THUẾ ...................................64 * Ñòa chæ: 127 Tröông Ñònh, quaän 3, thaønh phoá Hoà Chí Minh * Ñieän thoaïi: - Ban bieân taäp: 3932 5774 - Phaùt haønh: 3932 6278 * Email: [email protected] [email protected] * Website: www.hcmcpv.org.vn ----------------------- * Giaáy pheùp xuaát baûn soá 123/GP-BTTT, ngaøy 17-1-2012 cuûa Boä Thoâng tin vaø Truyeàn thoâng. In taïi Coâng ty TNHH MTV in Saøi Goøn Giaûi Phoùng THAØNH UÛY TP HOÀ CHÍ MINH BAN TUYEÂN GIAÙO *** Taïp chí SOÅ TAY XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG Toång Bieân taäp Th.S ĐỖ THỊ LAN ANH (HỒNG QUÂN) 0903 732 547 Phoù Toång Bieân taäp Th.S NGUYỄN MINH HẢI 0903 855 175 Hoäi ñoàng Bieân taäp THÂN THỊ THƯ (Chuû tòch) ĐỖ THỊ LAN ANH (Thöôøng tröïc) NGUYỄN VĂN HIẾU NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC VÕ VĂN TÂN TĂNG PHƯỚC LỘC NGUYỄN MINH HẢI Toøa soaïn MUÏC LUÏC 5 - 2018 (407)

Transcript of MUÏC LUÏC - Đảng bộ TPHCM

1Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

ª VÂN TÂM - Cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam ... 2ª TRƯƠNG NGUYÊN TUỆ - Karl Marx, nhà tư tưởng thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai

cấp công nhân thế giới ............................................................................................. 7ª TS. TRẦN DU LỊCH - TP.HCM đang đứng trước nhiều cơ hội tạo sự đột phá ... 11

QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤPª Những điểm mới trong Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW về xử lý kỷ luật đảng viên

vi phạm ....................................................................................................................15

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINHª LÊ ĐỖ - Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 18ª NGUYỄN VĂN ĐẠO - Vạch trần âm mưu của các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh ............................................................................................22ª CẨM TÚ - Phường 16 quận 11: “Gần dân” trong thực thi công vụ .......................26ª ĐỖ LOAN - Trạm Quản lý đường thủy nội địa số 5: Đi đầu trong công tác bảo đảm

an toàn đường thủy nội địa ....................................................................................29

HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬNª Quy định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã,

phường, thị trấn ......................................................................................................31ª Nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công

nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ....................................34

KINH NGHIỆM CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬNª HOÀI NGUYỄN - Thành phố Hồ Chí Minh: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực

hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ..................37ª NGÔ VĂN VỸ - Đảng bộ Khu chế xuất Tân Thuận: Chú trọng công tác xây dựng

lực lượng chính trị và chăm lo đời sống người lao động ......................................41

Ý KIẾN ĐẢNG VIÊN ª HOÀNG VĂN LỄ - Về việc xét xử các vụ đại án ...................................................43ª MINH TÂM - Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước ........46

GƯƠNG ĐẢNG VIÊN ª ÁNH DƯƠNG - MINH CHÁNH - Dương Linh, người nghệ sĩ một đời gắn liền với

cách mạng ..............................................................................................................49

LỊCH SỬ ĐẢNG VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHª Trung tướng, PGS.TS. BÙI MẬU QUÂN - Công tác bảo đảm bí mật chuẩn bị cho

cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ..................................................52ª TS. LÊ ĐỨC HOÀNG - Các phong trào thi đua ái quốc trong kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954 - 1975) .........................................................................................56

TRANG THÔNG TIN ª Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát công tác quản lý

kê khai .....................................................................................................62 NHÂN SỰ MỚI ................................................63 TRANG THÔNG TIN NGÀNH THUẾ ...................................64

* Ñòa chæ: 127 Tröông Ñònh, quaän 3, thaønh phoá Hoà Chí Minh

* Ñieän thoaïi: - Ban bieân taäp: 3932 5774 - Phaùt haønh: 3932 6278* Email: [email protected] [email protected]* Website: www.hcmcpv.org.vn

-----------------------* Giaáy pheùp xuaát baûn soá 123/GP-BTTT,

ngaøy 17-1-2012 cuûa Boä Thoâng tin vaø Truyeàn thoâng. In taïi Coâng ty TNHH MTV in Saøi Goøn Giaûi Phoùng

THAØNH UÛY TP HOÀ CHÍ MINHBAN TUYEÂN GIAÙO

***Taïp chí

SOÅ TAY XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Toång Bieân taäp

Th.S ĐỖ THỊ LAN ANH (HỒNG QUÂN) 0903 732 547

Phoù Toång Bieân taäp

Th.S NGUYỄN MINH HẢI 0903 855 175

Hoäi ñoàng Bieân taäp

THÂN THỊ THƯ (Chuû tòch)

ĐỖ THỊ LAN ANH(Thöôøng tröïc)

NGUYỄN VĂN HIẾUNGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

VÕ VĂN TÂNTĂNG PHƯỚC LỘCNGUYỄN MINH HẢI

Toøa soaïn

MUÏC LUÏC 5 - 2018(407)

2 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

CUỘC CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

VÂN TÂM

Kỷ niệm 43 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2018)

Đi tìm cội nguồn của một chính thểNgày 20-7-1954, Hiệp định Genève

về chiến tranh Đông Dương được ký kết. Theo đó, Việt Nam sẽ tạm thời bị chia cắt bằng ranh giới là vĩ tuyến 17 để quân đội các bên tập kết. Quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và trao quyền quyết định vận mệnh dân tộc Việt Nam cho người Việt Nam. Một năm sau đó sẽ tiến hành hiệp thương và một năm sau nữa sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Tuy nhiên, thực tế đã không diễn ra như vậy. Trong diễn văn mừng Quốc khánh 2-9-1954, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu: “Hiện nay, đình chiến đã ký kết, hòa bình đang trở lại ở Đông Dương, thì chúng (đế quốc Mỹ) ra sức phá hoại việc thi hành đình chiến, phá hoại việc lập lại hòa bình. Từ những việc như: tàu của hải quân Mỹ đến chở dân miền Bắc Việt Nam bị bọn Ngô

Đình Diệm ép đi vào miền Nam; trù tính kế hoạch “viện trợ” cho bọn Ngô Đình Diệm; cho đến âm mưu thành lập “khối phòng thủ Đông Nam Á”, mục đích của bọn can thiệp Mỹ là phá hoại sự thực hiện hiệp định đình chiến ở Đông Dương…”(1).

Năm 1954, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng của Quốc trưởng Bảo Đại. Một năm sau đó, Diệm làm cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và lập nên Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26-10-1955 trở thành “ngày Quốc khánh” của chế độ Diệm.

Trong bộ sách Miền Nam giữ vững Thành Đồng, GS. Trần Văn Giàu khẳng định: “Trên đường thiết lập nền độc tài cá nhân của nó, từ năm 1955 đến năm 1956, Ngô Đình Diệm chẳng những ra sức tiêu diệt các đảng phái và giáo phái đối lập, mà lại còn song song ra sức tạo cho chính quyền

Cuộc chiến tranh 1954 – 1975 tại Việt Nam lâu nay vẫn có nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo nhận thức và chính kiến. Trong đó, vẫn có một số người coi đây là một cuộc “nội chiến” của người Việt Nam; thậm chí có kẻ còn ngang nhiên gọi đó là một “cuộc xâm lược của miền Bắc đối với miền Nam”… Đối với người Việt Nam, cần gọi đúng tên của cuộc chiến này, cũng như hiểu đúng bản chất và không thể mơ hồ về ý nghĩa cuộc chiến…

3Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

độc tài cá nhân đó một cơ sở pháp lý, một bề ngoài dân chủ”(2).

Thực tế cho thấy, đô la, vũ khí, cố vấn Mỹ tung vào miền Nam là yếu tố nền tảng cho việc xây dựng và củng cố chính quyền của Ngô Đình Diệm. Đó chính là nguồn sống của chính quyền Diệm, không có những nguồn sống ấy thì chính quyền này không thể đứng được. Báo cáo tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa II, ngày 12-4-1961, Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Chế độ Ngô Đình Diệm là con đẻ của đế quốc Mỹ, tội ác của gia đình họ Ngô là tội ác của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta ở miền Nam chống Ngô Đình Diệm tức là chống đế quốc Mỹ…”(3).

Rõ ràng, cái được gọi là nền “đệ nhất cộng hòa”, một chính thể tự cho là tự do, dân chủ, độc lập…, thực chất là một thứ tầm gửi. Tính chất tầm gửi đó có thể được nhìn thấy qua hoạt động cưỡng ép di cư. “Mục đích chính trị căn bản của cuộc cưỡng ép di cư này là: Thứ nhất, làm cho dư luận ở xứ này và dư luận ở nước ngoài tưởng rằng đông đảo nhân dân miền Bắc trốn tránh chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đi theo chế độ miền Nam tốt hơn, hấp dẫn hơn. Thứ hai, và điều này mới là chủ yếu, tạo cho chính quyền miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm, một chỗ dựa cần thiết, một nguồn tuyển mộ quân lính, tay sai, bè đảng, để dùng vào việc thực hiện kế hoạch xây dựng nền độc tài của Diệm, tức là chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam”(4).

Cuộc cưỡng ép di cư này còn có một số mục đích khác nữa. Đó là về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kỹ

thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập. Đồng thời, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm tạo “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Điều này có nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử”. Đồng bào di cư còn là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.

Đội quân tóc dài với các má, các chị miền Nam tham gia đấu tranh chính trị thời kỳ

chống đế quốc Mỹ. Ảnh: TL.

4 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Những thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai

Trong những hoạt động nhằm củng cố quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm, được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quan thầy Mỹ, đã có nhiều thủ đoạn tàn bạo. Đó là loại trừ tham mưu trưởng thân Pháp Nguyễn Văn Hinh (và thay bằng Lê Văn Tỵ); tiêu diệt Đại Việt ở Quảng Trị, Phú Yên; tiêu diệt Quốc dân đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum…

Chủ trương tập trung quyền lực của Diệm đã làm các thế lực quân sự cát cứ hoảng sợ. Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên bắt đầu liên kết để chống lại Diệm, thường được gọi là “Tam liên”. Diệm đồng thời chia rẽ trong hàng ngũ Tam liên và trong từng thế lực quân sự, tổ chức các chiến dịch quân sự và dụ dỗ, mua chuộc. Kết quả là Bình Xuyên bị đánh bại hoàn toàn. Giáo phái Hòa Hảo cũng nhanh chóng bị loại trừ, khi một số thủ lĩnh lớp bị giết (Ba Cụt – Trần Quang Vinh), lớp bị mua chuộc (Hai Ngoán – Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ), lớp bị đánh bại rồi chịu đầu hàng (Năm Lửa – Trần Văn Soái)… Còn với Cao Đài, sau khi hai chỉ huy quân sự là Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương hợp tác với Diệm thì lực lượng còn lại dần yếu thế, cuối cùng Hộ pháp Phạm Công Tắc phải bỏ chạy ra nước ngoài để tránh bị Diệm làm hại. Như vậy, chỉ trong vòng hơn 1 năm, các thế lực quân sự cát cứ gần như bị Diệm tiêu diệt hoàn toàn.

Trong lúc vừa trấn áp các giáo phái và thế lực đối lập, trong thời gian 300 ngày,

chế độ Diệm đã thi hành ngay chính sách trả thù những người kháng chiến. Thủ đoạn của Diệm vô cùng đa dạng và hậu quả thì vô cùng nặng nề. Các thủ đoạn đó là:

Thứ nhất, phân loại công dân và phân biệt đối xử. Chúng chia người dân thành 3 loại: loại A (công dân bất hợp pháp, là những người yêu nước, yêu hòa bình, ủng hộ Hiệp định Genève, từng tham gia kháng chiến), loại B (công dân bán hợp pháp, gồm họ hàng, bạn bè của loại A và họ hàng, bạn bè những người đi tập kết ra Bắc), loại C (công dân hợp pháp, gồm những người còn lại). Đường lối của Diệm là dựa vào loại C đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục.

Thứ hai, đàn áp các cuộc biểu tình chống áp bức và đòi thi hành đúng các điều khoản của Hiệp định Genève. Chẳng hạn, vụ Mỏ Cày (Bến Tre, tháng 9-1954), vụ Cây Cốc (Quảng Nam, tháng 9-1954), vụ Trà Ôn (Vĩnh Long, tháng 10-1954)…

Thứ ba, tổ chức khủng bố những người từng tham gia kháng chiến. Một số vụ tàn sát điển hình, như vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị, tháng 7-1955, giết hại 3 lần với tổng cộng 91 người, trong đó có 15 phụ nữ và trẻ em gái bị hãm hiếp), vụ Đại Lộc (Quảng Nam, cuối năm 1957, bắt và giết hại 5.000 người)… Diệm cũng cho xây dựng hệ thống nhà tù và trại tập trung dày đặc. Nhà tù cỡ lớn giam từ ngàn người trở lên thì lúc này miền Nam có khoảng 100 cái, như Chí Hòa (chứa 4.000 người), Phú Lợi (6.000 người), Biên Hòa (3.000 người), Thủ Đức chứa (2.000 người)…

5Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Về quãng thời gian khó khăn này, Đại tướng Văn Tiến Dũng nhận xét: “Trong 5 năm đấu tranh chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền Nam đã chịu đựng nhiều đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắn giết”(5). Tài liệu của Đại tướng dẫn lại cho biết, tính đến cuối năm 1957, lực lượng của Đảng ở các tỉnh đồng bằng khu 5 bị tổn thất nặng nề: 70% đảng ủy viên xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên bị bắt và bị giết. Tỉnh có phong trào khá nhất, chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3 đảng viên, tỉnh yếu còn 2, 3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng mất hết cơ sở đảng.

Tại Nam bộ, tính chung từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên. Từ năm 1955 đến 1958, chúng giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 446.000 người. Chưa hết, tháng 12-1958, chúng đầu độc hàng nghìn tù chính trị tại trại giam Phú Lợi. Tháng 4-1959, Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng khẩn cấp”(6).

Bắt đầu một cuộc chiến chính nghĩaSau khi hết 300 ngày chuyển quân,

Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm phớt lờ và tiếp tục phủ nhận Hiệp định Genève. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị mở hội nghị hiệp thương thì Diệm từ chối. Các luận điệu xuyên tạc (như Hiệp định Genève chỉ nói hiệp thương chứ không nói hội nghị hiệp thương, chính quyền Việt Nam Cộng hòa không ký Hiệp định Genève nên không cần phải thực hiện,

miền Bắc không có dân chủ nên không thể tổng tuyển cử tự do…) đều bị đánh tan.

Hồi ức Đại tướng Văn Tiến Dũng nêu rõ: “Đảng ta đã chỉ rõ rằng: đứng trước chính sách cực kỳ phản động và tàn bạo của Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình. Do đó, mục đích cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm và đánh đổ bằng con đường cách mạng”(7).

Nghị quyết 15 được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1959 đã chỉ rõ: Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 17-1-1960, phong trào đồng khởi nổ ra ở Bến Tre sau đó lan rộng ra khắp miền Nam.

Cuộc chiến vũ trang chống Mỹ và tay sai bắt đầu từ đó. Rõ ràng, chế độ Ngô Đình Diệm là sự khởi đầu của chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam nên cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước bắt đầu từ cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm.

Từ năm 1961, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, bằng cách xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh với vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ, tiến hành “bình định” và lập “ấp chiến lược”, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang miền Nam. Nhưng âm mưu bình định và dồn dân trong các chiến lược không đạt kết quả, buộc Mỹ

6 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

phải tăng dần lực lượng, từ 30.000 cố vấn năm 1964 lên 184.314 cố vấn và binh lính vào năm 1965.

Cuối năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, “tìm và diệt” quân chủ lực miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Lực lượng Mỹ có mặt ở miền Nam đến cuối năm 1968 lên tới 545.000 tên; các nước như Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand và Đại Hàn (nay gọi là Hàn Quốc) huy động thêm 70.000 quân nữa. Số lính Việt Nam Cộng hòa lúc này là 600.000 quân. Đây là những minh chứng thuyết phục cho hành vi xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

Thực tế Mỹ không chỉ xâm lược miền Nam, chiếm đóng thông qua chính quyền tay sai, mà còn nhiều lần xâm phạm miền Bắc bằng đường không (dùng máy bay oanh tạc), đường biển (thả ngư lôi dọc theo bờ biển miền Bắc), đường bộ (dùng biệt kích xâm nhập trực tiếp). Hoạt động chiến tranh của Mỹ tuy không xây dựng chính quyền do người Mỹ đứng đầu như Pháp nhưng hòng biến miền Nam (nếu có thể thì cả Việt Nam) thành vùng phụ thuộc Mỹ, làm tiền đồn chống lại sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở châu Á – Thái Bình Dương, làm thị trường tiêu thụ sản phẩm của Mỹ và cung cấp nguyên vật liệu cho Mỹ…

Nếu chỉ là cuộc chiến nội bộ của người Việt Nam (civil war) thì khắp thế giới nói chung và nước Mỹ nói riêng đã không có hành động phản chiến quyết liệt. Trong suốt cuộc chiến, có hơn 200 tổ chức, ủy ban,

phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam, hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam, hơn 160 triệu người ở nhiều nước ghi tên tình nguyện sang Việt Nam đánh Mỹ, 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị nhân dân đập phá… Tại Mỹ, có nhiều công dân Mỹ tự thiêu để phản đối cuộc chiến, trong đó có nhân vật nổi tiếng là Norman Morison; hơn 200 tổ chức chống chiến tranh xâm lược trên khắp các bang; 16/27 triệu thanh niên Mỹ tới tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch; 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh phản chiến…(8) Cả cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton (1993 – 2001) khi còn là sinh viên cũng từng đấu tranh phản chiến.

Do đó, cuộc chiến tranh tại Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và chống xâm lược của nhân dân Việt Nam. Với nhân dân ta, đó là cuộc chiến chống xâm lược vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX! r---------------------------------

(1) Phạm Văn Đồng, Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.9.

(2) Tổng tập Trần Văn Giàu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.771.

(3) Phạm Văn Đồng, sđd, tr.36-37.(4) Trần Văn Giàu, sđd, 722-723.(5) Đại tướng Văn Tiến Dũng, Cuộc kháng

chiến chống Mỹ - Bước ngoặt lớn, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.12.

(6) Báo Nhân dân, ngày 10-3-2005. Tại địa chỉ http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/14084302-.html.

(7) Đại tướng Văn Tiến Dũng, sđd, tr.11.(8) Báo Nhân dân, ngày 7-4-2005.

7Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Hai thế kỷ trước, ngày 5-5-1818, Karl Marx chào đời tại Trier, một thành phố cổ của nước Đức.

Thân phụ là luật sư Henrich Marx, nhận thấy con có tư chất thông minh nên đặt nhiều kỳ vọng và tạo điều kiện cho con học tập, phát triển về mặt tinh thần. Từ khi còn niên thiếu, Marx đã sớm bộc lộ tính độc lập, sáng tạo, có nhận thức tư tưởng phong phú và sâu sắc. Một văn bản quan trọng nói lên tinh thần của Marx trong thời học sinh là bài luận văn thi ra trường trung học với đề tài Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề (tháng 8-1835). Marx viết: “Nếu một người chọn nghề trong đó người ấy có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại, thì lúc đó người ấy cảm thấy không phải là một sự vui sướng ích kỷ, hạn chế và đáng thương, mà hạnh phúc của người ấy sẽ thuộc về hàng triệu người…”. Cuối năm 1835, Marx học luật ở trường Đại học Tổng hợp Bonn, rồi Đại học Tổng hợp Berlin. Bên cạnh việc nghiên cứu luật học, sử học, ngoại ngữ và lý luận nghệ thuật, Marx bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học, với ý nguyện nhận thức được thực tế xung quanh, giải thích hiện thực trên quan điểm những quy luật nội tại vốn có của nó.

Từ đầu năm 1839, Marx dành toàn bộ thời gian, công sức cho việc nghiên cứu lịch sử triết học, từ tư tưởng triết học của thế giới cổ đại. Ngày 15-4-1841, Marx được nhận bằng tiến sĩ triết học của trường Đại học Tổng hợp Jena.

Bước đường hoạt động chính trị bắt đầu. Các quan điểm dân chủ và cách mạng thúc đẩy Marx đi tìm một địa bàn hoạt động rộng rãi, một diễn đàn để tuyên truyền cho những tư tưởng của mình. Marx trở thành cộng tác viên và biên tập viên tờ báo lớn ra hàng ngày Rheinische Zeitung và sau đó là nhiều tờ báo khác. Ngày 31-5-1848 tờ Neue Rheinische Zeitung ra số đầu tiên, trên cương vị chủ bút, Marx thể hiện tài năng kiệt xuất của một nhà chính luận cách mạng, với lối hành văn sắc sảo, sáng sủa, vạch mặt kẻ thù của cách mạng một cách chua cay. Tờ Neue Rheinische Zeitung cũng trở thành tờ báo nổi tiếng của nước Đức lúc bấy giờ.

Quá trình hơn 40 năm hoạt động của mình, Marx trải qua vô vàn khó khăn trở ngại, nhiều lúc túng thiếu và bệnh tật, 2 lần bị chính quyền Pháp và Bỉ trục xuất. Nhưng ông đều kiên cường vượt qua. Với tư cách một nhà nghiên cứu, ông để lại câu nói bất hủ, trở thành danh ngôn:

KARL MARX, NHÀ TƯ TƯỞNG THIÊN TÀI, LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN THẾ GIỚI

TRƯƠNG NGUYÊN TUỆ

Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Karl Marx (5-5-1818 – 5-5-2018)

8 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

“Đối với khoa học, không có con đường nào bằng phẳng thênh thang cả, chỉ có những người không sợ chồn chân mỏi gối để trèo lên những con đường nhỏ bé, gập ghềnh của khoa học mới có hi vọng đạt tới đỉnh xán lạn của khoa học mà thôi”. Marx làm đúng, hơn thế, còn nêu tấm gương sáng về điều ông nói ở trên. Khối lượng công trình nghiên cứu khoa học của ông thật đồ sộ và vô giá. Có thể điểm qua: Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hegels (1843), Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 (1844), Gia đình thần thánh (1845), Hệ tư tưởng

dành cho việc nghiên cứu những quy luật của chủ nghĩa tư bản, nhưng cũng nêu lên hàng loạt vấn đề quan trọng về những quy luật căn bản của chế độ cộng sản.

Bằng những tác phẩm kinh điển, Marx đã cùng Friedrich Engels, người bạn chiến đấu chí cốt, sáng lập ra học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học với 3 bộ phận cấu thành của nó là: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa cộng sản khoa học, khẳng định một chân lý là cho đến nay chưa một học thuyết nào chứng tỏ ưu việt hơn, có thể thay thế học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Marx.

Karl Marx và con gái Jenny Caroline Marx. Ảnh: TL.

Đức (1846), Sự khốn cùng của triết học (1847), Ngày 18 tháng Sương mù của Louis Bonaparte (1852), Phê phán cương lĩnh Gothar (1875), Chống During (1878)…

Bộ sách 3 tập Tư bản khởi thảo từ đầu năm 1857 được xem là tác phẩm chủ yếu của Marx. Từ điểm xuất phát là hàng hóa, hiện tượng cụ thể giản đơn nhất của kinh tế, tác phẩm đi sâu nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của tư bản và phát hiện điều bí mật của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, sau đó đưa ra một học thuyết thật sự khoa học về giá trị thặng dư, nói rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư và bản chất thật sự của nó. Bộ Tư bản

9Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Marx cũng như Engels, ôm ấp nguyện vọng sâu xa sớm có một tổ chức vô sản quốc tế để đấu tranh chống lại chế độ tư bản đang thống trị, xây dựng một xã hội mới không giai cấp và không có chế độ tư hữu. Năm 1836, Liên đoàn Những người chính nghĩa ra đời ở London (Anh), mùa hè năm 1847, được Đại hội lần thứ nhất đổi tên thành Liên đoàn Những người cộng sản. Trước đó, Marx và Engels được mời gia nhập Liên đoàn và tham gia dự thảo các văn kiện của đại hội như cương lĩnh, điều lệ. Marx và Engels đề nghị và được Đại hội quyết định bỏ phương châm mơ hồ trước đây “Tất cả mọi người đều là anh em” thay bằng phương châm “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Lời kêu gọi này có một ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, biểu hiện nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản là tư tưởng đoàn kết thống nhất của giai cấp công nhân toàn thế giới vì cuộc đấu tranh chung.

Những năm tiếp theo, Marx và Engels tiếp tục nghiên cứu khoa học nhằm phát triển hơn nữa lý luận và sách lược của phong trào công nhân, đồng thời tích cực hoạt động giúp thành lập đảng vô sản ở nhiều nước như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Ba Lan…, đặc biệt quan hệ mật thiết với các nhà cách mạng nước Nga, mong đợi của cách mạng ở Nga. Quốc tế I (1865 - 1876) do Marx và Engels sáng lập và lãnh đạo. Vượt qua tình trạng bệnh tật, Marx cống hiến sức lực của mình cho việc lãnh đạo tổ chức đông đảo đầu tiên của giai cấp vô sản và đạt được những kết quả

to lớn. Nhờ có Quốc tế I, cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản đã có một giai đoạn phát triển quan trọng nhất, trở thành một nhân tố hùng mạnh của sự phát triển xã hội. Cuộc cách mạng vô sản ngày 18-3-1871 dẫn tới việc tuyên bố thành lập Công xã Paris. Công xã Paris là con đẻ tinh thần của Quốc tế I; Marx coi nó là kinh nghiệm đầu tiên của chuyên chính vô sản là một sự kiện có tầm quan trọng thế giới, mở ra một trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân. Paul Lafargue (1842 – 1911), người thân cận và là con rể ông, đã nói: “Karl Marx là một trong những người hiếm thấy, cùng một lúc có thể đứng ở những vị trí tiên phong trong khoa học lẫn trong hoạt động xã hội; cả hai cái đó ở ông đều hòa làm một không thể tách rời, thành thử không thể nào hiểu được ông nếu không coi ông vừa là một nhà bác học và đồng thời là một chiến sĩ của chủ nghĩa xã hội”.

Trở lại tháng 2-1847, Đại hội lần thứ II của Liên đoàn Những người cộng sản ủy thác Marx và Engels soạn thảo Cương lĩnh dưới hình thức một tuyên ngôn. Với tinh thần khẩn trương, 2 ông hoàn thành Tuyên ngôn của đảng cộng sản được công bố và xuất bản lần đầu tiên tại London ngày 24-2-1848. Sau đó không lâu, Tuyên ngôn tiếp tục được xuất bản bằng các thứ tiếng khác ở nhiều nước với số lượng bản in rất lớn. Tuyên ngôn của đảng cộng sản được đánh giá là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất làm thay đổi thế giới, là “bản khai sinh” của chủ nghĩa cộng sản; là lời khẳng

10 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

định về sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, đồng thời là sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, giai cấp vô sản có sứ mệnh cải tạo xã hội tư bản và xây dựng xã hội cộng sản; phong trào công nhân quốc tế đã phát triển từ tự phát đến tự giác, được dẫn dắt bởi lý luận khoa học và cách mạng, có chính đảng lãnh đạo, có cương lĩnh soi đường dẫn lối.

Tuyên ngôn của đảng cộng sản là một tác phẩm mở, cũng như học thuyết Marx là học thuyết mở, các tác giả không để tác phẩm của mình trở nên giáo điều, lạc hậu, mà lấy thực tiễn làm chân lý, bám sát hiện thực khách quan. Cho nên qua nhiều lần tái bản, các tác giả đều bổ sung những tri thức mới, cập nhật tình hình mới - điều đó làm cho Tuyên ngôn tỏa sáng như một ngọn đuốc lý luận, có giá trị soi đường dẫn lối, có sức sống lâu bền dù đã 170 năm trôi qua.

Là một nhà tư tưởng thiên tài, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, Marx là một người vô cùng bình dị và chân thực. Ông say mê lao động nhưng không quên quan tâm đến những người xung quanh, chan hòa với mọi người bằng bản tính vui vẻ, ân cần, thích hài hước. Ông kết hôn với bà Jenny Von Westphalen năm 1836, bạn gái từ thời thơ ấu, hơn ông 4 tuổi, xuất thân từ một gia đình quý tộc. Bà đánh giá cao tài năng của ông, cố gắng xứng đáng với ông về mọi mặt và mối tình của Marx - Jenny là một biểu tượng cao đẹp, trong sáng về tình vợ chồng. Ông bà sinh được 7 người con (2

con trai và 2 con gái mất sớm); về sau, 3 người con gái đều trở thành những người phụ nữ trí thức giỏi giang, có tư tưởng cách mạng. Trong gia đình, Marx chứng tỏ là người chồng, người cha, người ông nhân hậu, đằm thắm, đầy tinh thần trách nhiệm, được mọi người quý mến bởi tấm gương lao động, chiến đấu hết mình vì sự nghiệp cách mạng. Marx rất hạnh phúc có một đồng chí thân thiết gắn bó trọn đời là Engels. Hai ông cùng theo đuổi một chí hướng lớn, sát cánh hợp tác với nhau trong lao động và chiến đấu, san sẻ mọi nỗi buồn vui, khi cần đã hi sinh cho nhau. Tình đồng chí giữa hai ông là tấm gương, là mẫu mực để các thế hệ chiến sĩ đời sau noi theo.

Marx từ trần ngày 14-3-1883 tại London, sau Jenny 2 năm. Tin buồn nhanh chóng lan đi. Đồng chí bạn bè và những người công nhân bình thường bày tỏ niềm tiếc thương trong các bức điện, trên mặt báo, tại các buổi lễ truy điệu:

…Cái chết của Karl Marx gây ra một sự đau buồn ở tất cả những ai hiểu được tư tưởng của ông và đánh giá cao ảnh hưởng của ông đối với thời đại chúng ta.

…Tư tưởng của Marx sẽ tồn tại mãi mãi và thế kỷ XIX sẽ được gọi bằng tên của ông.

…Tên tuổi của ông và học thuyết của ông sẽ sống mãi chừng nào trên trái đất còn có con người. Thiên tài của ông, giống như mặt trời, sẽ chiếu rọi ánh sáng kỳ diệu xuống tất cả mọi dân tộc và không một sức mạnh nào trên thế giới có thể ngăn cản được điều đó…r

11Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Quy hoạch phát triển TP.HCM đã được thực hiện từ giữa thập niên 1990 với tầm nhìn dài hạn đến năm

2000 và sau này điều chỉnh lại đều theo quan điểm là phát triển đa trung tâm, chống tập trung hóa ở khu trung tâm. Vấn đề tập trung được hiểu ở 2 góc độ nhưng lâu nay, người ta thường nói tập trung là mật độ dân cư trú và lại quên một điều, vấn đề tập trung còn tùy thuộc rất nhiều vào việc xây dựng các cao ốc văn phòng, trung tâm thương mại và tạo nên một dòng di chuyển mang tính vãng lai và gây tắc nghẽn.

Cho đến nay, trên thực tế, việc triển khai thực hiện quy hoạch và phát triển TP.HCM không đạt yêu cầu như đã đề ra. Thứ nhất, hiện nay, một số chung cư, cao ốc xây dựng ở những nơi không có khả năng giải quyết bài toán giao thông. Thứ hai, trong quá trình chỉnh trang đô thị có một yêu cầu rất rõ là chỉnh trang phải gắn với việc xử lý tồn tại của những địa bàn không có không gian công cộng và thành phố hiện rất thiếu

không gian công cộng cho người dân. Điều này đi ngược lại thành phố văn minh, môi trường tốt.

Vấn đề hiện nay không phải là đặt vấn đề quy hoạch trở lại mà phải kiên trì thực thi những ý tưởng, những đề án quy hoạch đã có, nhất là thực hiện vấn đề phát triển xây dựng TP.HCM phải gắn với đô thị TP.HCM mà Thủ tướng Chính phủ mới phê duyệt quy hoạch này từ năm 2013 và vừa rồi mới điều chỉnh. Bên cạnh đó, cần hình thành những đô thị mang tính đối trọng với đô thị TP.HCM. Ví dụ chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một địa bàn rất tốt là Nhơn Trạch, nếu nối kết phát triển đô thị rõ ràng sẽ không có áp lực nhiều đối với TP.HCM, hay chúng ta cũng đã quy hoạch phía Bắc TP.HCM cũng là một hướng cần tập trung hoặc xa hơn nữa phía Nam đã hình thành cảng Hiệp Phước nhưng kéo dài khoảng 2 thập niên vẫn làm chưa đến đâu do nguyên nhân hạ tầng, vì muốn phát triển không gian đô thị phải gắn liền với bài toán nối kết giao thông. Nối kết

TP.HCM ĐANG ĐỨNG TRƯỚC NHIỀU CƠ HỘI TẠO SỰ ĐỘT PHÁ

TS. TRẦN DU LỊCH

Nghị quyết 54/2017/QH14 của Quốc hội về việc thí điểm cơ chế đặc thù phát triển cho TP.HCM đang mở ra nhiều cơ hội tạo sự phát triển mang tính đột phá cho thành phố năng động nhất nước sau 43 năm giải phóng. Song để Nghị quyết này thực sự tạo nên “cú hích” cần phải giải quyết nhiều vấn đề như giải tỏa để thực hiện các dự án, tháo gỡ những gút mắc trong chính sách đầu tư.

12 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

giao thông mới giải quyết vấn đề liên thông trong vấn đề phát triển đô thị.

Dĩ nhiên, vấn đề này có liên quan đến mô hình xây dựng chính quyền đô thị. Những quy hoạch xây dựng lâu nay không phù hợp với định hướng triển khai là thành phố đa trung tâm không phải do thiếu mô hình chính quyền đô thị nhưng có mô hình chính quyền đô thị sẽ thuận lợi trong vấn đề tổ chức. Hiện nay, tuy chưa gọi là chính quyền đô thị nhưng Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng đã quy định một số nguyên tắc chính quyền ở cấp thành phố trực thuộc Trung ương, cấp quận, ở cấp thị trấn; TP.HCM hiện cũng đã có mô hình. TP.HCM có thể vận dụng Luật Tổ chức chính quyền địa phương để tổ chức lại bộ máy cho phù hợp. Ngoài ra hiện nay, Nghị quyết 54 cũng cho phép thành phố điều chỉnh phân quyền cho các quận huyện hoặc tổ chức lại các bộ máy của các sở ngành. Đây cũng là điều cần phải làm để tổ chức chính quyền đô thị. Vấn đề quản lý đô thị và mô hình tổ chức chính quyền là 2 vấn đề có liên quan trực tiếp với nhau. Nếu một mô hình tổ chức chính quyền mà có hiệu lực, hiệu quả thì quản lý đô thị sẽ tốt hơn.

Liên quan đến những khó khăn trong vấn đề giải tỏa để chỉnh trang đô thị, kinh nghiệm từ trường hợp kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Khi đó, thành phố dự định vay tiền của Ngân hàng Thế giới để làm, bấy giờ người cho vay cũng nghi ngại khả năng có thể giải tỏa, nhưng với sự quyết tâm của thành phố vào giữa thập niên 1990 đã làm được một điều là thuyết phục người cho vay thấy rằng, việc đền bù chỉnh trang đô thị mang tính đột

phá thay đổi bộ mặt của thành phố tồn tại do lịch sử để lại. Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Bến Nghé dọc quận 1, quận 5, quận 4, quận 8, đó là những nơi rất khó khăn trong việc giải tỏa đền bù, nơi có đông người dân nghèo nhưng TP.HCM cũng đã làm được. Từ đó rút ra bài học, nếu một vấn đề có khó khăn nhưng xác định mục tiêu phải làm, cần làm thì tập trung nguồn lực xử lý nơi đến chốn những vấn đề phát sinh. Cả hệ thống chính trị tập trung vào cũng sẽ giải quyết được. Dĩ nhiên ở đây có vấn đề hài hòa lợi ích, cần quan tâm đến đời sống của người dân ở những vùng giải tỏa, để chỗ này làm được thì chỗ khác có khó cũng phải làm được.

Trong tương lai, thành phố còn có nhiều dự án gặp khó khăn nữa, trong đó có vấn đề giải quyết chung cư cũ hiện nay xuống cấp phải xây dựng lại. Nhưng thành phố có thể vận dụng bài học đó có thể nhìn vào để thực hiện những dự án khác. Điều khó nhất trong việc giải tỏa là bố trí lại dân cư, tái định cư và việc làm. Những mô hình trước triển khai 2 phương cách, một là tổ chức lại cuộc sống cho họ, hai là tạo điều kiện và đồng thời phát triển những khu nhà ở mới, khu nhà ở xã hội, giá thấp để người dân lựa chọn. Ngoài ra, thành phố còn đào tạo nghề, chuyển nghề, áp dụng cơ chế hỗ trợ để thu hút lao động… Chúng ta đã có nhiều phương thức, vấn đề vận dụng là tùy dự án.

Hiện nay, chúng ta nhìn cái nào cũng cần thiết, chính vì vậy vốn dàn trải mỗi nơi một chút. Có thể nói, trong tiêu dùng thì “liệu cơm gắp mắm” là đúng nhưng trong đầu tư mà để tư tưởng này chi phối là không hướng

13Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

tới dài hạn. Đáng lý chỗ này phải làm cầu vượt nhưng do sức vốn có hạn chỉ làm vòng xoay, vài năm sau phải phá đi để xây cầu vượt. Những cách như vậy do tư tưởng này chi phối. Đầu tư cần tính phí tổn cơ hội, với đồng vốn có sẵn, cái gì cần trước, hiệu quả hơn làm trước chứ không rải khắp nơi. Tức là, vấn đề nào cũng cần nhưng cân nhắc phí tổn cơ hội để chọn cái nào làm trước. Nếu chậm hơn nhưng dồn được nguồn lực để làm đến nơi đến chốn còn hơn là làm được một chút rồi lại 1-2 năm sau công trình lạc hậu, lại mất phí tổn cao hơn.

Hiện nay, thành phố cũng đã có nhiều kinh nghiệm về chủ trương thực hiện dự án đầu tư hợp tác công tư (PPP). Nhưng ở đây, từ kinh nghiệm thực tiễn của TP.HCM, từng dự án một phải xác định trách nhiệm đóng góp của nhà nước trong đó. Thí dụ, trong việc đổi đất lấy công trình nhưng có những dự án, giá trị đất đánh giá để đổi công trình không tương xứng thì ngân sách phải bù. Tức

là phải có “vốn mồi”. Để thu hút được hiệu quả PPP, ngân sách phải có một nguồn vốn và vốn này cũng phải thực hiện theo nguyên tắc là phí tổn cơ hội. Bởi vì “vốn mồi” cũng hữu hạn, cái nào cần trước thì “mồi” trước chứ không “mồi” rải rác vì nhà đầu tư nhìn vào sẽ tính rằng với “vốn mồi” như vậy họ không có hiệu quả để đầu tư, dẫn đến không công trình nào có hiệu quả. Do đó, chúng ta phải xem xét theo từng dự án. Ngoài ra, còn có vấn đề pháp lý, cần phải đặt trách nhiệm của nhà nước khi thực hiện các hợp đồng PPP, nếu nhà nước không thực thi thì bị chế tài thế nào. Cũng giống như khi ký công trình xây dựng dạng ODA của Nhật Bản, nếu nhà nước thực thi không đúng, giải tỏa đền bù không đúng phải bồi thường, trong PPP cũng vậy, mới có thể tạo niềm tin cho cho nhà đầu tư.

Hiện Nghị quyết 54 đã cho thành phố giữ lại một số nguồn vốn, đây là nguồn rất quan trọng để thành phố dùng làm “vốn mồi”.

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của TP.HCM 3 tháng đầu năm 2018 cho thấy, kinh tế thành phố tăng trưởng cao hơn cùng kỳ, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 3 tháng ước đạt 260.317 tỉ đồng, tăng 7,64% (cùng kỳ tăng 7,46%). Trong đó, khu vực dịch vụ tăng 7,98% (cùng kỳ tăng 7,96%), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,25% (cùng kỳ tăng 6,67%), khu vực nông nghiệp tăng 5,83% (cùng kỳ tăng 5,62%). Về cơ cấu ngành trong GRDP, khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng 59,5%, khu vực công nghiệp

Kinh tế TP.HCM tiếp tục tăng trưởng khá

và xây dựng chiếm 26,4%, khu vực nông nghiệp chiếm 0,7%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 13,4%.

Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp tục tăng dần tỉ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế cạnh tranh là 9 nhóm ngành dịch vụ chủ yếu có tiềm năng và là thế mạnh của thành phố như thương mại, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, du lịch, thông tin - truyền thông, vận tải - cảng - kho bãi, khoa học - công nghệ, kinh doanh bất động sản, giáo dục và y tế. 9

14 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

BÌNH MINH (ghi)

nhóm ngành dịch vụ chủ yếu chiếm tỉ trọng cao nhất 55,1% trong tổng GRDP. Trong đó, 3 nhóm ngành bất động sản; thương mại và vận tải kho bãi tiếp tục chiếm tỉ trọng cao với 30,4%. Về tốc độ phát triển dịch vụ, một số ngành có mức tăng cao hơn so cùng kỳ: Thương mại tăng 7,8% (cùng kỳ tăng 7,5%); du lịch tăng 11,7% (cùng kỳ tăng 6,04%); thông tin và truyền thông tăng 1,6% (cùng kỳ tăng 0,3%); khoa học công nghệ tăng 7,6% (cùng kỳ tăng 0,3%); y tế tăng 7,1% (cùng kỳ tăng 4,7%). Ngành giáo dục và đào tạo, bất động sản có mức tăng tương đương cùng kỳ. Riêng ngành ngành vận tải kho bãi tăng 9,05% (cùng kỳ tăng 15,3%); tài chính – ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,9% (cùng kỳ tăng 10,6%). Trong lĩnh vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong tháng 3 ước đạt khoảng 85.824,6 tỉ đồng, tăng 3,7% so tháng trước và tăng 18% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 11,5%). Tính chung 3 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 255.769,1 tỉ đồng, tăng 12,3% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 12,0%).

Về xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp thành phố 3 tháng đầu năm ước đạt 8,83 tỉ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ. Nếu không tính giá trị dầu thô, kim ngạch ước đạt 8,24 tỉ USD, tăng 12,7% (cùng kỳ tăng 9,8%). Mặt hàng xuất khẩu của một số mặt hàng được duy trì và có mức tăng, hạt điều tăng 19%; rau quả tăng 41,3%; máy móc, thiết bị tăng 8,6%… Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 10,83 tỉ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ

(cùng kỳ tăng 19,8%). Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất như: máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng 13,2%; chất dẻo nguyên liệu tăng 16,8%.

Về hoạt động du lịch, công tác quản lý nhà nước lĩnh vực lữ hành - khách sạn được phối hợp tốt, đã góp phần tăng cường hỗ trợ pháp lý, tuyên truyền hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng quy định pháp luật. Hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch tiếp tục đẩy mạnh thông qua các chương trình như: Phát triển sản phẩm du lịch đường sông, “TP.HCM - 100 điều kỳ thú”, dịch vụ đạt chuẩn du lịch, nghệ thuật phục vụ khách du lịch, Lễ hội Áo dài, Ngày hội du lịch thành phố… Các sự kiện được nâng tầm, nâng chất với quy mô lớn hơn, nội dung phong phú, đa dạng và chú trọng về chiều sâu.

Lượng khách du lịch quốc tế đến thành phố trong tháng 3 ước đạt 652.911 lượt khách, tăng 15% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch ước đạt 10.526 tỉ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ. Trong 3 tháng đầu năm, tổng lượng khách du lịch quốc tế đến thành phố đạt 1,98 triệu lượt, tăng 15,6% so với cùng kỳ, đạt 26,3% kế hoạch năm 2018 (7,5 triệu lượt); 3 tháng đầu năm có 349 doanh nghiệp dịch vụ lưu trú được thành lập, tăng 20,3% (vốn đăng ký 1.256 tỉ đồng), ngoài ra có 1.282 doanh nghiệp có nhu cầu thị trường, tăng vốn 3.096,5 tỉ đồng (tăng 3,8 lần); tổng doanh thu du lịch thành phố (dịch vụ lưu trú, nhà hàng và du lịch lữ hành) ước đạt 31.766 tỉ đồng, tăng 14,4% so cùng kỳ, đạt 23% kế hoạch năm 2018 (138.000 tỉ đồng) r

15Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Để cụ thể hóa các nội dung của Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017 của Bộ Chính trị về

“Xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”, ngày 22-3-2018, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW “Thực hiện một số điều trong Quy định số 102-QĐ/TW” (từ đây gọi là Hướng dẫn 04). Hướng dẫn này giải thích, làm rõ các nội dung của Quy định 102 để dễ dàng áp dụng và thực hiện trong thực tiễn.

Việc xử lý đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu

Đối với việc xử lý đảng viên vi phạm sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu, Hướng dẫn 04 (Khoản 2, Điều 1) quy định: “Đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận; nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì phải thi hành kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước” và các nội dung quy định trong Hướng dẫn 04. Đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu và đã chuyển sinh hoạt đảng mới phát hiện có vi phạm ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của các tổ chức đảng đó xem xét, xử lý theo quy định. Khi đang xem xét, xử lý đảng viên vi phạm mà tổ chức đảng

nơi đảng viên vi phạm đang sinh hoạt bị giải thể, sáp nhập, chia tách hoặc kết thúc hoạt động thì tổ chức đảng có thẩm quyền vẫn tiếp tục xem xét, xử lý hoặc báo cáo tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đó xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên theo quy định.

Về nguyên tắc xử lý kỷ luậtKhoản 3, Điều 2 quy định: “Khi xem

xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu phê bình và sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả đã gây ra”. Chứng cứ đến đâu kết luận đến đấy, không suy diễn. Đồng thời, phải xét hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan, toàn diện nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Đảng viên vi phạm bị kỷ luật cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ) ở Khoản 2 của các điều từ Điều 7 đến Điều 34 thì tổ chức đảng có thẩm quyền căn cứ vào quy định nêu trên để xem xét, quyết định cụ thể: cảnh cáo hoặc cách chức một, một số hoặc tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đảng viên đó. Đảng viên vi phạm bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo, nếu xét thấy không còn đủ uy tín thì tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định cho miễn nhiệm hoặc đề nghị cho thôi giữ chức vụ đó.

Những điểm mới trong Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm

Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp

16 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Khoản 5, Điều 2, Hướng dẫn 04 quy định: “Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không “xử lý nội bộ”. Nếu bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính thì tùy nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách thích hợp”. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra từ cấp huyện trở lên khi phát hiện đảng viên vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan tư pháp có thẩm quyền để xem xét, xử lý, không được giữ lại để xử lý nội bộ.

Đảng viên vi phạm pháp luật đang bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền thụ lý theo quy định của pháp luật thì tổ chức đảng không được can thiệp để đảng viên chỉ bị xử lý kỷ luật về đảng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý về chính quyền, đoàn thể. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án của tòa án tuyên phạt đối với đảng viên từ cải tạo không giam giữ trở lên có hiệu lực pháp luật thì tòa án phải sao gửi bản án đến cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra của cấp ủy quản lý đảng viên. Căn cứ vào nội dung bản án, ủy ban kiểm tra quyết định hoặc đề nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp

ủy quyết định xử lý kỷ luật khai trừ đảng viên theo quy định.

Về thời hiệu xử lý kỷ luật Về thời hiệu xử lý kỷ luật được tính

từ thời điểm có hành vi vi phạm, Khoản 1, Điều 3, Hướng dẫn 04 quy định: “Thời hiệu xử lý kỷ luật về đảng là thời hạn được quy định trong Quy định này mà khi hết thời hạn đó thì đảng viên có hành vi vi phạm không bị xử lý kỷ luật”. Đảng viên vi phạm ở bất cứ thời điểm nào đều phải được tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra, làm rõ, kết luận và biểu quyết hình thức kỷ luật cụ thể. Sau đó căn cứ vào kết quả biểu quyết và đối chiếu với quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật để quyết định thi hành hoặc không thi hành kỷ luật đối với đảng viên vi phạm. Điểm b, Khoản 1, Điều 3, Hướng dẫn 04: “Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm. Nếu trong thời hạn xử lý kỷ luật được quy định tại Điểm a Khoản này, đảng viên có hành vi vi phạm mới thì thời hiệu xử lý kỷ luật đối với vi phạm cũ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới”.

Theo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ví dụ đảng viên A có vi phạm vào ngày 2-5-2015 và còn trong thời hiệu xử lý kỷ luật, đến ngày 8-9-2017 lại có vi phạm mới thì thời hiệu đối với vi phạm cũ được tính lại từ ngày 8-9-2017. Tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét từng nội dung vi phạm và quyết định chung bằng một hình thức kỷ luật.

Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp

17Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm đến thời điểm tổ chức đảng có thẩm quyền ra quyết định kiểm tra, xem xét kỷ luật đảng viên; trường hợp vi phạm xảy ra liên tục kéo dài thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm. Ví dụ: Đảng viên A có hành vi vi phạm liên tục kéo dài trong thời gian 3 năm (từ ngày 8-3-2013 đến ngày 8-3-2016), đến nay mới bị phát hiện hành vi vi phạm trong thời gian đó, thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi phạm ngày 8-3-2016 đến khi tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định kiểm tra, xem xét kỷ luật.

Không tính lại thời hiệu đối với đảng viên đã bị thi hành kỷ luật nhưng sau đó, tổ chức đảng cấp trên quyết định lại (chuẩn y, tăng hoặc giảm) hình thức kỷ luật đối với đảng viên đó. Ví dụ: Đảng viên A bị kỷ luật khiển trách, đảng viên đó khiếu nại lên các tổ chức đảng cấp trên; tổ chức đảng giải quyết khiếu nại cuối cùng quyết định chuẩn y hình thức kỷ luật khiển trách đối với đảng viên đó (thời gian từ khi có hành vi vi phạm đến khi có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là trên 5 năm), vì không tính lại thời hiệu nên đảng viên đó vẫn phải chấp hành quyết định kỷ luật của tổ chức đảng cấp trên.

Đối với các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử lý kỷ luật, Khoản 1, Điều 5, Hướng dẫn 04 quy định: “Đảng viên vi phạm đang trong thời gian

mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức, bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (từ cấp huyện trở lên) xác nhận thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật”. “Bệnh hiểm nghèo” là bệnh nguy hiểm đến tính mạng của người bị mắc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Thời gian chưa xem xét, xử lý kỷ luật nêu trên không tính vào thời hiệu xử lý kỷ luật về Đảng. Ví dụ: Đảng viên A vi phạm cách đây 4 năm, khi tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, kỷ luật về Đảng thì đồng chí bị ốm phải điều trị nội trú ở bệnh viện thì thời gian điều trị này không tính vào thời hiệu xử lý kỷ luật.

Đảng viên qua đời nhưng phát hiện vi phạm đặc biệt nghiêm trọng

vẫn bị xử lý kỷ luậtKhoản 2, Điều 5, Hướng dẫn 04 quy

định: “Đảng viên vi phạm đã qua đời, tổ chức đảng xem xét, kết luận, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp đảng viên đó vi phạm kỷ luật đặc biệt nghiêm trọng”. Đảng viên qua đời, sau đó mới phát hiện có vi phạm thì không tiến hành kiểm tra. Khi đang kiểm tra hoặc xem xét, xử lý kỷ luật mà đảng viên vi phạm qua đời thì chỉ kết luận, không thi hành kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đặc biệt nghiêm trọng qua đời thì vẫn kiểm tra, kết luận và xử lý kỷ luật r

NGỌC ANH (tổng hợp)

Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp

18 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

1. Cách đây 72 năm, trong “Thư gửi điền chủ “nông gia Việt Nam” ngày 11-

4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế ta lấy canh nông làm gốc... Nông dân giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh… Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho công nghiệp hóa nước nhà”. Với cách đặt vấn đề như vậy, Người đi đến một kết luận quan trọng: “Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác xã”.

Người khẳng định: “Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là cách tranh đấu kinh tế hiệu quả nhất, để giúp vào việc xây dựng nước nhà. Hợp tác xã nông nghiệp là một cách làm cho nhà nông đoàn kết, làm cho nhà nông thịnh vượng. Hợp tác xã nông nghiệp giúp cho nhà nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân”. Theo Người, hợp tác xã vừa là một loại hình kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân vừa là “bà đỡ” cho kinh tế hộ nông dân phát triển vững chắc. Người kêu gọi: “Hỡi đồng bào điền chủ nông gia! Anh em ta ai chẳng mong được đầy đủ, giàu có, ai chẳng mong cho nước thịnh, dân cường.

Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn góp sức, lập nên hợp tác xã nông nghiệp ở khắp nơi; từ làng mạc cho đến tỉnh thành đâu đâu “cũng phải có hợp tác xã” . Nhấn mạnh hợp tác xã là để bảo đảm cho nông dân làm giàu và duy trì sự phát triển bền vững cho nông nghiệp, Người khẳng định: “Chúng ta nhất định phải nâng cao dần đời sống của đồng bào nông dân. Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng lẻ thì đời sống không thể nâng cao. Muốn nâng cao đời sống thì chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức hợp tác xã tốt thì mới có thể tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, do đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và văn hóa của nông dân, củng cố khối liên minh công nông”. Người nhấn mạnh: “Chúng ta tổ chức hợp tác xã trước hết là nhằm mục đích nâng cao đời sống của nhân dân”.

Để bảo đảm cho quá trình xây dựng hợp tác xã diễn ra phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải thực hiện theo các nguyên tắc: Trước hết, xây dựng hợp tác xã phải trên tinh thần tự nguyện, không được dùng bất cứ hình thức ép buộc nào để đưa người lao động vào hợp tác xã. Thứ hai, trong quá trình thực hiện, không được nóng vội, phải có những bước đi thích hợp. Chủ tịch Hồ

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LÊ ĐỖ

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

19Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Chí Minh lưu ý: “Trước khi mở rộng quy mô hợp tác xã, phải chuẩn bị thật tốt về tư tưởng và vật chất, tuyệt đối không nên nóng vội”. Thứ ba, xây dựng hợp tác xã trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Người chỉ rõ: “Bất kỳ góp nhiều, góp ít, vào trước, vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”; trong hợp tác xã, mọi xã viên đều công bằng trước lợi ích. Thứ tư, xây dựng hợp tác xã trên tình thần dân chủ. Theo đó, trong việc xây dựng hợp tác xã cũng như quyết định mọi vấn đề chung, mọi người phải được bàn bạc một cách thực sự dân chủ và phải tính toán công bằng hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Muốn quản lý tốt hợp tác xã, cán bộ quản trị phải dân chủ, tránh quan liêu, mệnh lệnh, làm việc gì cũng cần bàn bạc kỹ với xã viên”. Thứ năm, phải có sự lãnh đạo, tổ chức trong xây dựng hợp tác xã. Theo đó, việc xây dựng hợp tác xã phải có sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhà

nước và người lãnh đạo trực tiếp phải có đủ phẩm chất năng lực và đạo đức. Người chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay để phát triển mạnh nông nghiệp là: Chỉnh đốn các ban quản trị hợp tác xã cho thật tốt. Ban quản trị tốt thì hợp tác xã tốt”.

2. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn

đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trị chiến lược quan trọng hàng đầu, từ đó đề ra những chủ trương chính sách phù hợp nhằm ngày càng phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân. Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã phát triển với tốc độ khá cao, kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp dịch vụ, ngành nghề; diện mạo nhiều vùng nông thôn có nhiều thay đổi. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng tự

Bác Hồ và các cháu thiếu niên nhi đồng khi Người về thăm Hợp tác xã

Nông nghiệp Lai Sơn, xã Cộng Hòa, huyện Tam Dương,

tỉnh Vĩnh Phú (nay là phường Đồng Tâm,

thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), ngày

30-3-1958. Ảnh: TL.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

20 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

hào đó, thực tế cũng cho thấy, nông nghiệp Việt Nam tuy đã có những bước phát triển to lớn về số lượng song về chất lượng vẫn chưa có những tiến bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Cùng với sự phát triển chưa bền vững trong nông nghiệp thì kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nông thôn cũng còn yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và công nghiệp hóa nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với thành thị. Mặc dù năng suất tăng nhanh và cao, song thu nhập của người nông dân vẫn tăng chậm và thấp. Cái nghèo và bần cùng vẫn “đeo bám” không ít nông dân bất chấp những con số “kỷ lục” về xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trên thế giới. Điệp khúc “được mùa rớt giá” luôn đè nặng trên vai người nông dân và ngay cả khi giá nông sản thuận lợi nhất thì nông dân vẫn là người hưởng lợi ít nhất. Nông dân vẫn là người luôn chịu “lép vế” và thua thiệt mọi bề.

Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là sự hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế, không còn phù hợp với yêu cầu phát triển. Trước tình hình đó, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10 về khoán sản phẩm đến người lao động, chức năng kinh doanh của hộ nông dân được xác lập trở lại.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX, lần đầu tiên Đảng ta đã ra một

nghị quyết chuyên đề về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đặt trong mối quan hệ của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư nhân với sự phát triển của văn hóa - xã hội. Việc xây dựng và phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới được quan tâm sâu sắc. Thực tế cho thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn không thể không gắn liền với chuyển đổi, xây dựng và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tiên tiến, hiện đại phù hợp tình hình sản xuất, lợi thế sản xuất gắn với chuỗi liên kết, cung ứng sản phẩm nông nghiệp hiệu quả cho bà con nông dân.

Tái cơ cấu lại nông nghiệp hay nói cách khác là tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao hơn và bền vững hơn gắn với xây dựng nông thôn mới là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển và chủ thể quan trọng nhất của quá trình tái cơ cấu nông nghiệp phải là các hợp tác xã. Mục đích của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là giúp đỡ lẫn nhau, mưu lợi chung, chung nhau góp sức cùng có lợi. Thực chất của việc xây dựng, phát triển các hợp tác xã nông thôn kiểu mới là nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo đột phá để phát triển nông nghiệp. Với hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, người nông dân sẽ nhận được sự hỗ trợ rất hiệu quả từ hợp tác xã nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp nhận tối đa các nguồn hỗ trợ của Nhà nước cũng như các nguồn lực của toàn xã hội; có điều kiện để liên kết với doanh nghiệp trong phát triển sản xuất. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới chính là lối ra cho sản xuất nông nghiệp thoát khỏi manh mún, từng bước hiện

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

21Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

đại hóa nông nghiệp nông thôn, giúp người nông dân thật sự trở thành ông chủ trên chính mảnh ruộng của mình. Các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012 có sự đổi mới về chất so với hợp tác xã kiểu cũ. Với Luật Hợp tác xã năm 2012, việc xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là yếu tố nền tảng quan trọng nhất, là khâu đột phá để tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam, nâng cao thu nhập bền vững cho nông dân Việt Nam.

3. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc xây dựng các hợp tác xã nông

nghiệp kiểu mới, nhiều địa phương gặp không ít khó khăn. Đó là quy mô các hợp tác xã còn nhỏ, vốn, phương tiện, công cụ phục vụ sản xuất thiếu và lạc hậu. Do quy mô sản xuất nhỏ, một số hợp tác xã nông nghiệp không đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường; việc tổ chức các dịch vụ, liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng đa dạng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, suy cho cùng là nhằm mục đích làm cho cư dân ở khu vục nông thôn phát triển toàn diện, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.

Hiện nay vẫn còn nhiều hợp tác xã chưa thực hiện đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động theo Luật Hợp tác xã 2012. Trong thực tế, nhiều nông dân vẫn chưa có niềm

tin vào hợp tác xã. Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý cũng như xã viên phải có tính chủ động cao, trình độ kinh doanh giỏi, năng động sáng tạo hơn so với hợp tác xã trong cơ chế cũ, song nhận thức của cán bộ quản lý các cấp cũng chưa thấu đáo, hoạt động điều hành của nhiều hợp tác xã còn mang tính chất “hành chính hóa”.

Để xây dựng, phát triển các hợp hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo động lực mạnh mẽ phát triển nông nghiệp, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền phát triển kinh tế tập thể, Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Bên cạnh đó, cần có nhiều chính sách hỗ trợ vốn, tín dụng khuyến khích phát triển hợp tác xã; hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hợp tác xã, hỗ trợ xây dựng các mô hình tổ chức, quản lý, sản xuất, kinh doanh, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, khuyến khích đầu tư vào sản xuất, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai… Điều quan trọng là các chính sách để phát triển các hợp tác xã nông thôn kiểu mới phải thực sự hướng đến người nông dân, vì nông dân, và nông dân phải là người hưởng lợi từ những chính sách này. Chỉ khi đó, các hợp tác xã mới thực sự “là một tổ chức có lợi to cho nhà nông”, “làm cho nhà nông thịnh vượng”, “đã ích quốc lại lợi dân” như lời dạy của Bác r

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

22 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Sinh thời, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, với tư cách là lãnh tụ của Đảng và dân tộc, Hồ

Chí Minh luôn là đối tượng công kích trực tiếp của các thế lực đế quốc xâm lược và tay sai của chúng. Ngày nay, trong quá trình đổi mới đất nước, những giá trị, ảnh hưởng của Hồ Chí Minh với Đảng, dân tộc và nhân dân không những không mất đi mà ngày càng lan tỏa, thấm sâu trong đời sống chính trị, tinh thần xã hội của đất nước. Theo đó, kẻ thù chống phá Người cũng thay đổi, ngày càng mở rộng về đối tượng và tinh vi, thâm hiểm hơn về phương thức, thủ đoạn.

Vận dụng, phát triển sáng tạo những giá trị Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng luôn song hành với bảo vệ, chống mọi sự tấn công Hồ Chí Minh của các thế lực phản cách mạng. Một trong những biện pháp hữu hiệu vừa tạo sức đề kháng vừa tấn công trực diện với các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh là chúng ta phải vạch trần thực chất âm mưu, động cơ và những phương thức, thủ đoạn của nó.

Xin chỉ ra những âm mưu của các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh:

Một là, luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh nằm trong tổng thể chiến lược, mục tiêu chống cộng của kẻ thù cách mạng.

Hoạt động chống cộng ở Việt Nam đã có từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời là sự chống lại việc du nhập, hiểu biết về học thuyết Mác – Lênin, về chủ nghĩa bônsêvích, về Cách mạng tháng Mười Nga, về nhà nước Nga Xô viết… Sau khi Hồ Chí Minh hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng, hoạt động chống cộng ở Việt Nam đã chuyển hướng sang tấn công vào Đảng và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và Đảng lãnh đạo cách mạng càng giành được nhiều thắng lợi thì những kẻ chống cộng càng tìm mọi cách tấn công vào Hồ Chí Minh và Đảng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ, khi Hồ Chí Minh là biểu tượng, người lãnh đạo trực tiếp và cao nhất của Đảng và cách mạng Việt Nam, Người luôn là mục tiêu tấn công hàng đầu của kẻ thù. Hiện nay, trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đất nước thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng

--------------------------------(*) Học viện Chính trị Khu vực II.

GÓP PHẦN BẢO VỆ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VẠCH TRẦN ÂM MƯU CỦA CÁC LUẬN ĐIỆUXUYÊN TẠC HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN ĐẠO(*)

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

23Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

thực chất là cuộc đấu tranh chính trị chống Đảng, Nhà nước ta dưới hình thức đấu tranh tư tưởng của các thế thực thù địch. Hơn nữa, trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, mặt trận tư tưởng được kẻ thù xác định là mặt trận “quyết định nhất”.

Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, mở đầu các cuộc cách mạng xã hội bao giờ cũng được bắt đầu từ tư tưởng và sự tan rã ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây có nguyên nhân do kẻ thù xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, gạt bỏ ảnh hưởng của nó trong các thế hệ đương thời, kế tiếp.

Hiện nay, một mặt, chúng dùng các chiêu bài của “diễn biến hòa bình”, chiến tranh tâm lý, thành lập các đài phát thanh tuyên truyền, cổ vũ những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh, mặt khác, chúng gián tiếp, tiếp tay, ủng hộ, tài trợ, nuôi dưỡng, bảo vệ những thế lực chống đối Hồ Chí Minh ở trong và ngoài nước. Mục tiêu của chúng là làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

Có thể thấy, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam dù trong lịch sử hay hiện tại và tương lai luôn là hai thực thể gắn chặt với nhau. Kẻ thù của Hồ Chí Minh cũng chính là kẻ thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hai là, luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh được chủ thể đưa ra nhằm mục đích cá nhân, trong đó chủ yếu là lợi ích kinh tế.

Vẻ bề ngoài của các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh thường được chủ thể của

nó biện minh bằng mục đích “trong sáng”, “đơn thuần” như đưa đến “một cái nhìn công bằng, hiện thực” (Lữ Phương); “hiểu rõ, hiểu đúng… với thái độ khoa học, công bằng, không bị tô hồng hay bôi đen” (Bùi Tín); “chỉ có ước mong vẽ lại cho đúng chân dung” (Trần Viết Đại Hưng)... song bản chất thực sự khi đưa ra những luận điệu này chỉ vì tiền, thậm chí đó là một “nghề” của họ: nghề “chống cộng, cứu nước” (ở nước ngoài) hay nghề “đấu tranh dân chủ” (ở trong nước).

Đối với thiểu số người Việt chống đối ở nước ngoài, bản chất của họ đã được chính cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ trong phim tài liệu Người Việt 30 năm sau ngày tản cư trên đất Mỹ vạch rõ: Họ chỉ là thiểu số và là “một lũ côn đồ”, “hám danh, hám lợi”, “cứ nhân danh chính nghĩa, quốc gia, chống cộng, tự do, dân chủ để lừa gạt mọi người”(1). Thật vậy, với đa số các tờ báo phản động, có nhiều bài viết, bình luận xuyên tạc Hồ Chí Minh, để ra đời và tồn tại, ngoài nhận tài trợ của các quỹ quốc tế như Quỹ Hỗ trợ dân chủ nhân quyền (NED) và quảng cáo thì phần lớn là từ yêu cầu “đồng bào đóng góp vì sự phát triển của tờ báo” (tờ Hợp lưu, Quê mẹ).

Với cá nhân, như linh mục Nguyễn Hữu Lễ và Trần Quốc Bảo trong phim Sự thật về Hồ Chí Minh, bằng “tuồng” cũ soạn lại(2) là lu loa về chi phí bỏ ra, rồi lừa mị quyên tiền ủng hộ của cộng đồng, chỉ chưa đầy hai tháng công chiếu bộ phim, họ đã thu được 50.000 USD(3). Sau này, Nguyễn Hữu Lễ và Trần Quốc Bảo lại hợp tác, tổ chức ra những “tuồng” mới như Lực lượng Dân tộc cứu nguy Tổ quốc,

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

24 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Đài Phát thanh Đáp lời sông núi. Nhiều đồng bào ở nước ngoài gọi họ là “chuyên viên ăn mày, lừa bịp moi tiền đồng bào”, thậm chí có cả những bài vè để phỉ báng họ: Mục vụ “cứu dân” chưa bế mạc/Chiêu bài “cứu quốc” lại khai trương/Diễn lui diễn tới trò gây quỹ/Mặt nạ rớt rồi lũ bất lương”(4). Hay như Bùi Tín cũng đã hồ hởi thừa nhận viết bài, bình luận phỏng vấn xuyên tạc về Hồ Chí Minh trên báo, đài nước ngoài cũng chỉ bởi nhận được từ họ “những 2.000 USD đấy”. Chả thế mà ngay những người “cùng hội, cùng thuyền” phản động với ông như Võ Văn Ái, Nguyễn Gia Kiểng cũng miệt thị coi Bùi Tín là “phần tử bất hảo không đáng tin”(5)...

Đối với số đối tượng chống đối, có các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh ở trong nước, chủ yếu xuất hiện thời gian gần đây và nhiều người tự nhận hoặc gọi nhau là “nhà dân chủ”, “chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ”. Thực chất, phần nhiều trong số họ chỉ là những người vô công rỗi nghề, kém nhân cách và hạn hẹp về nhận thức. Họ “dấn thân” và cạnh tranh với nhau để trở thành những công cụ, con rối chủ yếu của các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài đang vươn cánh tay về nước, tạo tiếng cho “quan thầy” chính quyền phương Tây, hòng nhận được tiền tài trợ. Họ “chọn” xúc phạm, xuyên tạc Hồ Chí Minh bởi đây là một con đường nhanh và dễ dàng nhất để họ gây tiếng, được chú ý và được nhận tiền tài trợ của các tổ chức phản động. Họ hiểu rất rõ, chỉ cần một hành vi, dù nhỏ nhất như đưa, ghép hình ảnh phỉ báng, bình luận, viết bài bôi nhọ Hồ Chí Minh trên trang mạng

internet, mạng xã hội là tự động sẽ được truyền thông mạng lan truyền. Họ càng nhận được nhiều “gạch đá” của cộng đồng mạng hay ở bên ngoài thì họ càng nổi tiếng, càng nhận được sự “nể trọng” của phe phản động ở nước ngoài. Nhiều người từng ví: “Thất bại trên thực địa trở thành tiêu chuẩn đầu tiên để… có tiền tài trợ”(6) và họ còn truyền tai nhau công thức rằng: “Hoạt động thì có tiền, không hoạt động thì chết đói”. Thực tế qua các cuộc cãi vã, tố nhau biển lận, ăn chặn tiền hay khoe khoang được cơ quan truyền thông nước ngoài trả bao nhiêu tiền cho mỗi bài viết… hay như chính lời của một “nhà dân chủ” trong bài viết Phong trào dân chủ chết vì tiền?(7): “Đồng tiền là một trong những lý do quan trọng khiến phong trào dân chủ Việt Nam không ngừng bê bết” đã minh chứng đầy đủ cho những điều chỉ ra này. Và đó chính là âm mưu, bản chất của những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của các “nhà đấu tranh dân chủ” ở trong nước.

Ba là, xuyên tạc Hồ Chí Minh vì động cơ chính trị của bản thân.

Một số người do ảo tưởng, tham vọng về quyền lực chính trị. Họ có “máu” chính trị, có tham vọng nhưng lại không phấn đấu bằng con đường chính đáng mà chọn cách “đi tắt đón đầu”. Bằng cách đầu quân cho các tổ chức phản động, một số người có ảo tưởng sẽ được “đổi đời” nhanh hơn.

Ở trong nước thời gian qua và hiện nay, nhiều người đã tiếp tay, cổ xúy cho các thế lực thực hiện “diễn biến hòa bình”. Họ tự cho mình là “cấp tiến”, thực hiện “dân chủ”, “yêu nước”, nhưng thực chất là sự cơ

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

25Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

hội về chính trị, như Dương Thu Hương, Lữ Phương, Hà Sĩ Phu, Bùi Tín, Trần Đĩnh...

Những người kể trên do có trình độ học thức, có địa vị nhất định nên việc cố tình xuyên tạc, bôi nhọ Hồ Chí Minh của họ thể hiện một cách rất tinh vi: Một số người tỏ ra gắn bó hoặc hiểu biết về lịch sử, qua hồi ký, mẩu chuyện, bài viết của mình luôn thể hiện như một người “trong cuộc”, là những chứng nhân, “nắm chắc” được bản chất của vấn đề, có khả năng “soi” từng góc cạnh, so đọ từng sự kiện, “vén những tấm màn bí mật” ở chốn “thâm cung bí sử”... để bịa đặt, thêu dệt nên những câu chuyện không có thật, nhất là về tiểu sử, đời tư hòng hạ uy tín Hồ Chí Minh. Một số khác lại ít bộc lộ quan điểm một cách rõ ràng. Họ che giấu bộ mặt thật, tỏ ra ủng hộ đường lối của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thổi phồng một khía cạnh nào đó hợp với mục đích của họ. Có người thì lấy danh nghĩa đổi mới tư duy, bổ sung, phát triển đường lối của Đảng. Họ thêm chi tiết này, sáng tạo quan điểm khác về Hồ Chí Minh, họ tách tư tưởng Hồ Chí Minh và đặt biệt lập, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng thực chất là họ muốn sửa cốt lõi bản chất, tư tưởng đường lối của Hồ Chí Minh và Đảng ta để đi đến mục đích cuối cùng là chống phá Đảng, hướng Việt Nam đi theo con đường mà họ cho rằng đó là đúng đắn, phù hợp, có lợi nhất đối với họ là tư bản chủ nghĩa.

Xét cho cùng, vì không đạt được mục đích nào đó của cá nhân (địa vị, tiền tài...) nên họ đã quay lưng lại nói xấu chế độ, Đảng ta và Hồ Chí Minh. Lý tưởng của họ luôn bị dao

động, khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra rất cấp tiến, khi cách mạng gặp khó khăn thì họ thoái lui, thỏa hiệp. Họ luôn thực dụng tính toán và tìm kiếm cơ hội để đạt danh vọng cá nhân.

Những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh dù biểu hiện dưới hình thức nào và với âm mưu, bản chất gì đi nữa cũng đều nguy hại đến uy tín của Người và của Đảng cũng như sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, tăng cường cuộc đấu tranh phòng, chống các luận điệu xuyên tạc Người là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách của Đảng ta hiện nay r-------------------------------------

(1) VTV4, Người Việt 30 năm sau ngày tản cư trên đất Mỹ, https://www.youtube.com/watch?v=NMpzLMZSzkk.

(2) Tháng 9-2003, Nguyễn Hữu Lễ đã giở trò công bố xuất bản cuốn bút ký của ông ta có tựa đề Tôi phải sống dày hơn 650 trang, kể về “13 năm trong lao tù cộng sản”, sách bán được gần 100.000 USD.

(3) Nguyễn Hữu Lễ và trò lừa mị quyên tiền, https://baomoi.com/nguyen-huu-le-va-tro-lua-mi-quyen-tien/c/3132577.epi, ngày 27-8-2009.

(4) Hồ Công Tâm (2010), Làm giàu nhanh chóng bằng nghề “chống cộng, cứu nước” ở hải ngoại, http://www.dongduongthoibao.net, http://www.dongduongthoibao.net/view.php?storyid=927.

(5) Nguyễn Đăng An, Bùi Tín, buổi xế chiều ở Paris, http://antgct.cand.com.vn/Nguoi-trong-cuoc/Bui-Tin-tuoi-xe-chieu-o-Paris-314317/, ngày 29-3-2012.

(6) Vũ Hợp Lân, Họ đâu có đấu tranh vì dân chủ, http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/27551902-ho-dau-co-dau-tranh-vi-dan-chu.html, thứ Hai, 28/09/2015, 21:02:22

(7) Vũ Hợp Lân, tài liệu đã dẫn.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

26 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Phường 16 nằm trên các trục đường chính là đường Hồng Bàng - Ba Tháng Hai - Nguyễn Thị Nhỏ; dân

số hiện là 15.814 người, người gốc Hoa chiếm 65%. Toàn phường có 837 công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh thương mại dịch vụ, 11 cơ sở tôn giáo và 7 trường học. Nhân dân đa số thuộc thành phần lao động chủ yếu là làm công, buôn bán, sản xuất nhỏ lẻ.

Từ năm 2014, nhu cầu giao dịch hồ sơ sao y chứng thực, công tác tư pháp - hộ tịch, xác minh nhà đất cấp giấy chứng nhận, hồ sơ việc làm… của người dân ngày càng nhiều. Tuy nhiên, có nhiều hồ sơ giải quyết chưa bảo đảm được yêu cầu về thời gian cho công dân và tổ chức do điều kiện khách quan là tất cả lãnh đạo phường phải đi họp đột xuất, làm người dân phải đi lại nhiều lần. Trước nhu cầu bức thiết đó, Đảng ủy phường giao UBND phường tham mưu Đảng ủy và xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực

hiện mô hình “Giao trả hồ sơ hành chính tại nhà” cho công dân và tổ chức; với mục tiêu là “Nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công”, tạo ra một môi trường giao dịch “gần dân” trong thực thi công vụ.

Năm 2017, UBND phường xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch số 58/KH-UBND ngày 31-3-2017 về thực hiện công tác cải cách hành chính trên địa bàn phường 16; Kế hoạch số 66/KH-UBND ngày 11-4-2017 về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X về Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 của phường 16, mở rộng hơn nữa mô hình “Giao trả hồ sơ hành chính tại nhà”. Việc thực hiện mô hình “Giao trả miễn phí hồ sơ hành chính tại nhà” cho công dân và tổ chức dựa trên nguyên tắc tự nguyện lựa chọn. Thay vì nhận kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính trực tiếp tại trụ sở UBND phường thì cá nhân và tổ chức có thể yêu

PHƯỜNG 16 QUẬN 11“GẦN DÂN” TRONG THỰC THI CÔNG VỤ

CẨM TÚ

Chương trình tổng thể Cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 của Chính phủ nêu rõ mục tiêu “…nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công”. UBND phường 16 quận 11 là điển hình tiêu biểu với mô hình “Giao trả hồ sơ hành chính tại nhà”. Mô hình được này đã được UBND quận tặng giấy khen, các cấp, ngành đánh giá cao, tạo được sự hài lòng trong nhân dân và đang được nhân rộng ở nhiều địa phương trên địa bàn thành phố.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

27Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

cầu trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính về một địa chỉ thường trú, tạm trú hoặc một địa chỉ đăng ký kinh doanh trên địa bàn phường với cơ quan giải quyết thủ tục hành chính. Hiện, UBND phường đã triển khai thực hiện các nội dung dịch vụ như: sao y, chứng thực chữ ký cho người già, khuyết tật; hồ sơ đăng ký khai sinh, khai tử; hồ sơ đăng ký thường trú, xóa đăng ký thường trú; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi; hồ sơ cải tạo sửa chữa nhà theo thẩm quyền giải quyết của UBND phường; xác minh phục vụ việc cấp giấy phép xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà theo giấy phép do UBND quận cấp; hồ sơ xác minh tường trình nguồn gốc, tường trình diện tích tăng, trích lục quyết định số nhà, kê khai nhà đất năm 1999... phục vụ cấp giấy chứng nhận.

Quy trình “Giao trả miễn phí hồ sơ hành chính tại nhà” theo trình tự như sau: Bước 1: người dân liên hệ nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp công dân của phường. Cán bộ

và phân loại hồ sơ tại bộ phận “một cửa”, cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển cho bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ để xử lý hồ sơ và trình lãnh đạo UBND phường ký ban hành, giải quyết hồ sơ theo đúng quy định. Bước 3: sau khi nhận kết quả giải quyết hồ sơ hành chính, cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra lại từng loại hồ sơ (bảo đảm đúng và đủ về số lượng hồ sơ mà người dân yêu cầu (bản sao)); sau đó chuyển văn thư cho số, đóng dấu phát hành và lưu hồ sơ. Nhân viên phụ trách công việc phát trả hồ sơ miễn phí tại nhà liên hệ tại địa chỉ theo giấy biên nhận hồ sơ để trả hồ sơ cho người dân. Người dân có trách nhiệm kiểm tra và nhận kết quả hồ sơ. Đồng thời ký nhận vào sổ theo dõi tiếp nhận và trả hồ sơ miễn phí tại nhà và trả lại phiếu biên nhận hồ sơ cho nhân viên phụ trách.

Ngay khi triển khai thực hiện, UBND phường đã tổ chức bằng nhiều hình thức như: phát hành tờ bướm đến từng hộ dân, đăng trên bản tin phường; trong các hội nghị

tiếp nhận hồ sơ kiểm tra thành phần hồ sơ, nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn, hỗ trợ người dân thực hiện đầy đủ theo quy định. Khi hồ sơ hợp lệ và đầy đủ thì cán bộ tiếp nhận hồ sơ vào sổ theo dõi tiếp nhận và trả hồ sơ miễn phí tại nhà; sau đó ghi phiếu biên nhận và hẹn trả hồ sơ theo thời gian ghi trong phiếu hẹn. Bước 2: sau khi tiếp nhận

Trả hồ sơ tại nhà người dân của Bộ phận Tiếp nhận và giao trả hồ sơ UBND phường 16, quận 11. Ảnh: PMM.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

28 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

giao ban khu phố và tổ dân phố, hội nghị nhân dân… đều lồng ghép, tuyên truyền thực hiện mô hình này và phổ biến rộng rãi trong đảng viên, ban điều hành khu phố, tổ dân phố, đoàn viên, hội viên, cơ sở kinh doanh và nhân dân trên địa bàn.

Theo thống kê, trong năm 2017, Bộ phận Tiếp nhận và giao trả kết quả UBND phường đã trả hồ sơ miễn phí tại nhà cho 190 trường hợp. Trong đó, 15 trường hợp chứng thực bản sao từ bản chính; 55 trường hợp xác nhận đơn địa chính, xây dựng; 94 trường hợp chứng thực chữ ký tại nhà; 26 trường hợp khai sinh, khai tử, kết hôn, hộ khẩu và cấp bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi.

Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành, thực hiện tuyên truyền và lồng ghép triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 (trong các lĩnh vực: liên thông đăng ký kinh doanh và cấp mã số thuế, cấp phép xây dựng nhà ở riêng lẻ, thủ tục cấp bản sao trích lục hộ tịch, cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, thủ tục lao động tiền lương, tiền công); thực hiện thư mời họp bằng hệ thống tin nhắn, gửi thư điện tử nhằm hạn chế sử dụng văn bản giấy; tiếp tục thực hiện thư xin lỗi tổ chức và người dân khi chậm trễ trong giải quyết hồ sơ.

Để hoàn thành tốt mục tiêu của mô hình này, Đảng ủy chỉ đạo UBND phường phân công công việc cụ thể, khoa học cho cán bộ, viên chức thực hiện nhiệm vụ tại Bộ phận Tiếp nhận và giao trả hồ sơ (bộ phận 1 cửa), tránh chồng chéo với các công việc khác. Tuy không được thêm phần phụ cấp

trong việc giao trả hồ sơ tại nhà cho người dân, tổ chức, nhưng cán bộ, viên chức của phường đều tự giác, vui vẻ và chủ động sắp xếp thời gian thực hiện các công việc tại chỗ và trao trả hồ sơ tại nhà đúng thời gian, tiến độ quy định.

Đồng chí Lâm Tấn Hùng, Chủ tịch UBND phường 16, chia sẻ: “Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thực hiện mô hình “giao trả hồ sơ tại nhà cho công dân và tổ chức” gặp một số khó khăn nhất định như: đảng viên, cán bộ, công chức là kiêm nhiệm cho nên một số thời điểm có thể bị động trong việc giao trả hồ sơ tại nhà; công tác giao trả hồ sơ không đúng chủ do vào thời điểm giao thì chủ nhà đi vắng hoặc trường hợp có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng thực tế cư trú tại địa điểm khác mà vẫn yêu cầu gửi về nơi đăng ký thường trú… Tuy bước đầu gặp không ít khó khăn, nhưng qua một thời gian không dài, kế hoạch này đã cho thấy hiệu quả tích cực khi mang lại sự hài lòng cho công dân và tổ chức. Sự chủ động và nỗ lực của tập thể Đảng ủy, UBND phường đã góp phần cho kế hoạch thực hiện mô hình “Giao trả hồ sơ hành chính tại nhà” gần gũi hơn với công dân và tổ chức trên địa bàn phường”.

Về vai trò của Đảng ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện cải cách hành chính, đồng chí Nguyễn Văn Tài, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường 16, cho biết: “Đảng ủy thường xuyên chỉ đạo cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể thực hiện nghiêm túc các văn bản của Đảng, nhà nước

(Xem tiếp trang 36)

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

29Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Trạm Quản lý đường thủy nội địa số 5 thuộc Khu Quản lý đường thủy nội địa – Sở Giao thông vận tải

TP.HCM, được thành lập năm 2003 với chức năng tham mưu cho giám đốc Khu trong công tác quản lý kết cấu hạ tầng và trật tự an toàn giao thông trên đường thủy nội địa thuộc phạm vi quản lý được phân giao. Trạm có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, phát hiện và thông báo kịp thời đến các cơ quan, đơn vị về hiện trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn quản lý; phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện công tác quản lý luồng tuyến giao thông đường thủy nội địa, bảo vệ các công trình thuộc hệ thống hạ tầng giao thông đường thủy nội địa; phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Luật Giao thông đường thủy nội địa; phối hợp duy tu và đảm bảo giao thông trong việc tổ chức đo đạc, khảo sát, điều tra hiện trạng đánh giá phục vụ đề xuất công bố luồng… Hưởng ứng phong trào đi làm bằng xe buýt

Trạm có trụ sở tại ấp An Nghĩa, xã An Thới Đông, huyện Cần Giờ. Triển khai kế hoạch của Sở về việc vận động cán bộ công chức, viên chức, người lao động đi làm bằng xe buýt, dù chưa có chính sách hỗ trợ hay

chế tài về việc này, lãnh đạo Trạm, các đảng viên luôn gương mẫu thực hiện, mỗi tuần đi làm bằng xe buýt từ 2 - 3 ngày (ngoài những ngày đi họp hay đi phối hợp kiểm tra...). Trạm có 9 người ( Trong đó có 3 đảng viên và 1 đoàn viên) thì 5 người (cư ngụ tại huyện Nhà Bè, quận 1, Gò Vấp, Tân Bình, Tân Phú) đi làm khá xa, có người đi về cả 100 km nhưng vẫn đều đặn mỗi ngày chọn phương tiện xe buýt để đi làm… Còn lại 4 người cư ngụ tại huyện Cần Giờ, cũng khá xa Trạm, trung bình khoảng 15 km. Các anh chị đi xe buýt đều phải đi làm sớm, gửi xe máy tại Công viên 23-9 và đón xe buýt số 20 đến phà Bình Khánh. Khi qua phà Bình Khánh tiếp tục đón xe buýt số 90 để đến Trạm và ngược lại. Ngoài ra, khi tham dự những buổi họp tại UBND huyện Cần Giờ, các thành viên của Trạm cũng sử dụng xe buýt để đi lại.

Anh Nguyễn Thanh Toàn, Phó trạm phụ trách Trạm Quản lý đường thủy nội địa số 5, cho biết: “Anh em trong Trạm đều sử dụng xe buýt để đi làm do cách nhà quá xa, việc đi lại bằng xe buýt vừa đảm bảo an toàn vừa góp phần giảm ùn tắc giao thông. Tôi tranh thủ thời gian đi lại trên xe buýt để làm việc khá hiệu quả như xem văn bản, gửi email… Dù đi làm xa nhưng anh em rất nhiệt tình, tâm huyết và bám trụ địa bàn”.

TRẠM QUẢN LÝ ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA SỐ 5ĐI ĐẦU TRONG CÔNG TÁC

BẢO ĐẢM AN TOÀN ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊAĐỖ LOAN

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

30 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

An toàn là yếu tố hàng đầu Viên chức, người lao động thuộc Trạm

làm việc trong điều kiện đi xa, phải đi làm sớm và về đến nhà rất muộn; có những ngày do đặc thù công việc phải đi quá sớm hay về quá muộn, anh em phải ngủ lại trạm để hôm sau tiếp tục công tác. Hiện tại, quy chế chi tiêu nội bộ cấp cho người lao động sinh hoạt phí là 500.000 đồng/tháng, nên nói chung đời sống của nhân viên Trạm còn nhiều khó khăn. Trong việc học tập và làm theo gương Bác Hồ, lãnh đạo Trạm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của thanh niên do nhân viên của Trạm đa phần còn khá trẻ để động viên anh chị em vượt qua khó khăn tham gia xây dựng và đóng góp cho đơn vị.

Về công tác an toàn giao thông đường thủy luôn được Trạm chú trọng, mọi sự cố về kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa đều được phát hiện, báo cáo kịp thời. Nhiệm vụ của Trạm bảo đảm an toàn đường thủy của 27 tuyến đường thủy nội địa với chiều dài 172,4 km ở huyện Cần Giờ. Trong năm qua, Trạm đã phát hiện và xử lý 1 trường hợp vi phạm về hành lang bảo vệ bờ sông; thường xuyên kiểm tra an toàn của bến khách ngang sông Vàm Sát - Rạch Cát không để xảy ra sự cố nào.

Ngoài ra, Trạm đã hỗ trợ, phối hợp với địa phương trong công tác khảo sát, cảnh báo các khu vực có nguy cơ sạt lở cao, cũng như diễn tập phòng chống, ứng cứu các sự cố, tai nạn trên đường thủy nội địa. Trong năm 2017, trên địa bàn Trạm quản lý xảy ra 2 sự cố giao thông đường thủy. Trường hợp thứ nhất một chiếc xà lan khi qua cầu Dần Xây

có dấu hiệu bị chìm do vết nứt trên tàu làm nước tràn vào. Trường hợp thứ hai là có một chiếc tàu hướng từ cảng Cái Mép đi miền Tây, vừa đến tuyến sông Thêu thì bất ngờ va vào khu vực nuôi hàu của người dân. Hai sự cố trên không xảy ra thiệt hại về người và phương tiện. Theo anh Toàn, khi xảy ra sự cố, tai nạn, Trạm đã xuống ngay hiện trường ghi nhận sự việc và phối hợp cảnh sát giao thông đường thủy, chính quyền địa phương tổ chức lực lượng đảm bảo giao thông thủy trong khu vực. Đồng thời, Trạm phối hợp xác định nguyên nhân và có báo cáo kịp thời về Sở và ban ngành chức năng để phối hợp xử lý theo quy định.

Bên cạnh đó, vào mùa mưa bão, tập thể Trạm đã được quán triệt luôn trong tình trạng sẵn sàng ứng cứu khi có yêu cầu. Trạm luôn theo dõi và cập nhật tình hình diễn tiến của các cơn bão để kịp thời thông báo cho các hộ dân trong khu vực. Khi có yêu cầu, Trạm phối hợp tốt với địa phương dùng ca nô đi đến từng hộ dân còn chưa sơ tán để vận động kịp thời. Trong các cơn bão số 12, 14, 16 năm 2017, Trạm đã phối hợp với chính quyền các xã An Thới Đông, Lý Nhơn tổ chức 10 lượt công tác bằng ca nô kết hợp với các hình thức thông tin khác. Vận động người dân nuôi hàu đúng quy định

Những người đi ca nô ra sông Lòng Tàu, Mũi Nai luôn gặp các tàu lớn chở hàng đi ngược về phía cảng Cát Lái. Khi thấy tàu, từ xa người lái ca nô đã phải dừng chạy để tránh luồng sóng của tàu. Cứ vậy, mỗi lần gặp tàu lớn, đều dừng chạy, tránh rất xa thế

(Xem tiếp trang 45)

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

31Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

I - CHỨC NĂNGĐiều 1. Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã,

phường, thị trấn là hạt nhân chính trị ở cơ sở; chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của địa phương và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả; chủ động và phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xã, phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh.

II - NHIỆM VỤĐiều 2. Lãnh đạo phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh1. Lãnh đạo thực hiện các chủ trương,

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo nghị quyết đại hội đảng bộ, chi bộ xã, phường, thị trấn và của cấp trên; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân đối với đất nước.

2. Lãnh đạo chính quyền thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật; cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai, khoáng sản, ngân sách, các khoản đóng góp của nhân dân

và các nguồn hỗ trợ khác để phát triển kinh tế, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng, chống cháy, nổ, thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo...; xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, đô thị hiện đại, văn minh.

3. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường kỷ cương, kỷ luật; giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, công tác quân sự địa phương và chính sách hậu phương quân đội; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Điều 3. Lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng

1. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy truyền thống yêu nước trong các tầng lớp nhân dân;

--------------------------------------- (*) Trích Quy định 127-QĐ/TW ngày 1-3-2018 của Ban Bí thư quy định chức năng, nhiệm vụ,

mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn. Quy định này có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Quy định số 94-QĐ/TW và Quy định số 95-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư khóa IX.

QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC CỦA ĐẢNG BỘ, CHI BỘ CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN(*)

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

32 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

xây dựng tình đoàn kết, gắn bó, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở khu dân cư và trong từng gia đình. Tuyên truyền, nhân rộng gương người tốt, việc tốt và những điển hình tiên tiến.

2. Quán triệt, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị và văn bản của các cấp ủy đảng; thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên; tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để giải quyết theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp ủy cấp trên giải quyết.

3. Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm sai trái, hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa hình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, dòng họ, bảo thủ và các tệ nạn xã hội.

Điều 4. Lãnh đạo xây dựng đảng bộ, chi bộ và công tác tổ chức, cán bộ

1. Đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch,

vững mạnh, khắc phục tình trạng thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ động đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

2. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, quy chế, quy định, hướng dẫn của cấp trên; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng bộ, chi bộ và cấp ủy bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu; chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; thực hiện chế độ đảng phí theo quy định.

3. Cấp ủy thực hiện công tác tổ chức, cán bộ theo phân cấp, bảo đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục quy định. Tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ và chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị đối với cán bộ, công chức; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có uy tín để bầu giữ chức vụ chủ chốt các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; tham gia ý kiến lựa chọn, giới thiệu cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo ở cấp trên khi được yêu cầu. Lãnh đạo thực hiện tốt chủ trương bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố.

4. Tăng cường các biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện, nâng cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên, quần chúng ưu tú ở khu dân cư và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

33Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Điều 5. Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng

1. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, quy chế làm việc; thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tệ quan liêu; công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định.

2. Cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện việc xem xét thi hành kỷ luật đảng bảo đảm dân chủ, công minh, chính xác, kịp thời đối với tổ chức đảng, đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định của Trung ương và hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên.

3. Phối hợp chỉ đạo công tác quản lý, kiểm tra đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ đảng viên và nghĩa vụ công dân nơi cư trú.

Điều 6. Lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở

1. Cấp ủy thường xuyên nghiên cứu, vận dụng và tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả các phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.

2. Lãnh đạo xây dựng chính quyền cùng cấp vững mạnh, hoạt động theo hướng dẫn chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả theo

Hiến pháp và pháp luật; thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; kiện toàn, sắp xếp thôn, tổ dân phố theo quy định.

3. Lãnh đạo xây dựng MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội cơ sở vững mạnh; đổi mới phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, gắn bó chặt chẽ với nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tăng cường phối hợp công tác; nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội.

Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, sức mạnh của nhân dân để tham gia xây dựng Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư.

III - CÁC MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC

Điều 7. Đối với cấp ủy cấp trên trực tiếp

1. Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn chịu sự lãnh đạo thường xuyên, toàn diện của cấp ủy cấp trên trực tiếp về công tác xây dựng Đảng và việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

2. Định kỳ hằng quý, 6 tháng và cuối năm hoặc đột xuất, cấp ủy xã, phường, thị

(Xem tiếp trang 40)

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

34 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

* QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU

A - Quan điểm chỉ đạo- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận

dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các điều kiện phát triển của đất nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy ý chí, quan liêu, bao cấp trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách công nghiệp quốc gia; bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hóa của thế giới.

- Chính sách công nghiệp quốc gia là một bộ phận hữu cơ của chiến lược, chính sách phát triển đất nước, gắn liền với chính sách phát triển các ngành kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương mại quốc gia, tài chính - tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược tổng thể phát triển công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp, cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các

mạng sản xuất, chuỗi giá trị công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm.

- Kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.

- Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia; tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hóa, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp. Việc lựa chọn

--------------------------------------- (*) Trích Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22-3-2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng

chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045(*)

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

35Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

các ngành công nghiệp ưu tiên phải khách quan, dựa trên các nguyên tắc, hệ thống tiêu chí rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn công nghiệp hóa của đất nước, phát huy tốt nhất lợi thế quốc gia.

- Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế cho phát triển công nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh công nghiệp thuận lợi, ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp.

- Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh.

B - Mục tiêu1. Mục tiêu tổng quát- Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành

mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

- Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030- Tỉ trọng công nghiệp trong GDP đạt

trên 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế

tạo trong GDP đạt khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%.

- Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.

- Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt bình quân trên 10%/năm.

- Tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm.

- Chỉ số hiệu suất cạnh tranh công nghiệp (CIP) nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.

- Tỉ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đạt trên 70%.

- Xây dựng được một số cụm liên kết ngành công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế.

* ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA

- Chính sách phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp

- Chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên

- Chính sách tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp

- Chính sách phát triển doanh nghiệp công nghiệp

- Chính sách phát triển nguồn nhân lực công nghiệp

- Chính sách khoa học và công nghệ cho phát triển công nghiệp

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

36 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

- Chính sách khai thác tài nguyên, khoáng sản và chính sách bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp

- Nâng cao năng lực lãnh đạo của

Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp quốc gia… r

có liên quan đến công tác cải cách hành chính, nhất là thực hiện giải quyết hồ sơ cho tổ chức và công dân theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008; đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể vận dụng và đề ra các giải pháp linh hoạt để thực hiện nhiệm vụ trong đó có mô hình “Giao trả hồ sơ tại nhà cho công dân và tổ chức”. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nhắc nhở đảng viên, cán bộ, công chức không ngừng học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác, phải thường xuyên tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, tác phong, lề lối làm việc. Phải nghiêm túc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh từ những việc đời thường đến công việc mình thực hiện; phải thường xuyên khắc phục, hạn chế, khuyết điểm, tự soi rọi, chỉnh đốn bản thân mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII đã chỉ ra. Để thực hiện công tác cải cách hành chính, cụ thể là mô hình “Giao trả hồ sơ tại nhà cho công dân và tổ chức”, được hiệu quả thì Đảng ủy phải là đầu tàu trong khảo sát, nghiên cứu, định hướng, thảo luận, đề ra giải pháp phù hợp thực tiễn địa phương. Phải thường xuyên theo dõi, đánh giá việc triển khai thực hiện mô hình qua sự hài lòng của người dân

và tổ chức; nhất là thường xuyên lãnh chỉ đạo theo dõi, giám sát đảng viên, cán bộ, công chức thực thi công vụ. Từ đó, định hướng, điều chỉnh, bổ sung, đề ra các giải pháp sao cho hiệu quả hơn”.

Qua gần 4 năm triển khai mô hình “Giao trả hồ sơ tại nhà cho công dân và tổ chức”, theo Đảng ủy phường, mô hình đã đem lại sự hài lòng rất lớn cho tổ chức và công dân; chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ UBND phường ngày càng hiệu quả; giúp cho các tổ chức, công dân tiết kiệm được thời gian đi lại, đây là một bước tiến tích cực trong tiến trình cải cách hành chính theo hướng văn minh, hiện đại, hội nhập. Đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nói chung và bộ phận tiếp nhận và giao trả hồ sơ nói riêng luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thái độ phục vụ ân cần; tác phong, ngôn phong giao tiếp ứng xử văn minh nơi công sở, niềm nở, gần gủi trong quá trình hướng dẫn hồ sơ thực hiện mô hình “Giao trả hồ sơ tại nhà cho công dân và tổ chức”. Đây cũng là một trong những nội dung được cán bộ, đảng viên đăng ký học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh thiết thực nhất của Đảng bộ phường 16 r

PHƯỜNG 16 QUẬN 11: “GẦN DÂN”... (Tiếp theo trang 28)

Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

37Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Ngày 31-7-2009, Bộ Chính trị ban hành Thông báo số 264-KL/TW về việc thực hiện Cuộc vận động

“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Thực hiện chủ trương đó, ngày 1-9-2009, Thành ủy TP.HCM đã ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU chỉ đạo hệ thống chính trị thành phố triển khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, yêu cầu cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội mỗi địa phương, đơn vị xây dựng chương trình hành động cụ thể; thủ trưởng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội phải nêu gương sử dụng hàng hóa nội địa khi thực hiện mua sắm công; mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức phải tự giác, gương mẫu thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’.

Quá trình tổ chức triển khai thực hiện Cuộc vận động, thành phố đã đạt được kết quả rất cơ bản và khả quan. Công tác tuyên truyền Cuộc vận động từng bước đi vào chiều sâu, được triển khai đồng bộ, sâu rộng trong nhân dân đã góp phần nâng cao nhận thức và hành vi tiêu dùng của người dân theo hướng chọn lựa mua sắm các mặt hàng sản xuất trong nước. Người dân đã có ý thức mua và tiêu thụ hàng Việt như là cách thể hiện lòng

yêu nước, lòng tự tôn dân tộc. Cuộc vận động được triển khai gắn kết chặt chẽ với các giải pháp ổn định và phát triển thị trường, chương trình bình ổn thị trường... của thành phố. Mạng lưới phân phối các mặt hàng thiết yếu ngày càng được mở rộng, giúp người dân tiếp cận được hàng hóa thương hiệu Việt. Công tác quản lý thị trường, chống hàng gian hàng giả đã góp phần làm cho thị trường ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quảng bá hàng sản xuất trong nước đến người tiêu dùng. Cuộc vận động đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Nhận thức của doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc khai thác tốt thị trường nội địa ngày càng được nâng cao, các doanh nghiệp cũng ý thức về việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sở hữu trí tuệ, đã dần dần tiếp cận và nắm bắt nhu cầu thị trường theo từng nhóm dân cư, kể cả vùng sâu, vùng xa và triển khai vận chuyển hàng hóa, mở rộng mạng lưới bán buôn, bán lẻ. Mô hình phân phối hàng Việt đã được triển khai hiệu quả và có tính khả thi cao, đơn cử như đưa hàng Việt về nông thôn, đội xe lưu động bán hàng Việt, điểm bán hàng Việt tại chợ truyền thống, khu công nghiệp, khu chế xuất...

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP TRONG THỰC HIỆN

CUỘC VẬN ĐỘNG “NGƯỜI VIỆT NAM ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM”HOÀI NGUYỄN

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

38 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Thành phố hiện có 239 chợ, trong đó có 3 chợ đầu mối (Chợ nông sản Thủ Đức, Chợ đầu mối Bình Điền, Chợ nông sản thực phẩm Hóc Môn), đã và đang phát huy hiệu quả, làm đầu mối tập hợp và phân bổ phát luồng hàng, điều phối nguồn hàng, ổn định giá cả thị trường, định hướng sản xuất theo hướng văn minh, an toàn, hiệu quả. Bên cạnh đó, thành phố còn có 207 siêu thị, 43 trung tâm thương mại. Đa số các hệ thống phân phối lớn đều tham gia, liên kết với các doanh nghiệp trong Chương trình Bình ổn thị trường thực hiện phân phối, đưa hàng bình ổn thị trường đến tay người tiêu dùng; đồng thời, tích cực tham gia, hưởng ứng tốt Chương trình hành động của thành phố về thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Trong công tác tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Thành ủy biên soạn tài liệu tuyên truyền trong Đảng và trong toàn xã hội về Cuộc vận động; chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin - Truyền thông, Hội Nhà báo, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực hưởng ứng Cuộc vận động; chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng thời lượng phát sóng, tăng cường các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền cho Cuộc vận động; thường xuyên phát hiện, biểu dương các gương tập thể, cá nhân điển hình trong thực hiện Cuộc vận động; tập trung thực hiện nội dung trao đổi với các nhà quản lý doanh nghiệp, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố, Câu lạc bộ Đại sứ hàng Việt về việc làm thế nào để triển khai có hiệu quả Cuộc vận

động. Các chương trình đối thoại “Diễn đàn nhà quản lý”, “Lắng nghe và trao đổi”, “Tôi yêu hàng Việt”, “Thương hiệu Việt”; “Kết nối doanh nghiệp”, “Đồng hành cùng người tiêu dùng”, “Đồng hành cùng hàng Việt”, “Hàng Việt sáng tạo hội nhập”, “Tự hào thương hiệu Việt Nam”, “Người Việt Nam - Hàng Việt Nam”, “Kiến thức tiêu dùng”, “Kinh tế – Tài chính 24 giờ”… đã chuyển tải nội dung thông tin về sự hỗ trợ của khối tài chính, ngân hàng trong hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao tính cạnh tranh hàng Việt Nam trong sản xuất - kinh doanh, phân phối và tiêu dùng, quảng bá cho các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, giúp các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, định hướng và xây dựng nhận thức tiêu dùng hàng Việt trong mua sắm cá nhân, trong xây dựng cơ bản, bình ổn giá thị trường…

MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố hỗ trợ phiếu mua hàng trợ giá đến các hộ nghèo, hộ cận nghèo, phụ nữ, thanh niên có hoàn cảnh khó khăn; tổ chức hội thi “Tôn vinh hàng Việt”, “Hãy chọn giá đúng”, hội thi cán bộ Mặt trận giỏi với nội dung thi tiểu phẩm tuyên truyền Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tổ chức hội chợ hàng tiêu dùng; tổ chức hiệu quả chương trình sinh hoạt hội viên phụ nữ và khách hàng thân thiết; duy trì hoạt động của các cửa hàng liên kết Hội Liên hiệp Phụ nữ - Co.op và tổ chức bán hàng bình ổn tại chợ truyền thống và điểm bán 9 mặt hàng thiết yếu bình ổn thị trường trên địa bàn dân cư và các khu công nghiệp, khu chế xuất; vận động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

39Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, đẩy mạnh việc tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức cho tiểu thương, thương nhân, phụ nữ; thực hiện mô hình “Cửa hàng thanh niên kiểu mẫu” do đoàn viên tại đơn vị quản lý đã triển khai và đem lại hiệu quả về doanh số ban đầu, góp phần phát triển các kênh phân phối của đơn vị, mở rộng mạng lưới kinh doanh hàng Việt; tổ chức hội chợ triển lãm quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng… tạo điều kiện thuận lợi để người dân thành phố có cơ hội mua sắm sản phẩm hàng Việt Nam có uy tín, chất lượng; tổ chức hội thảo về quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản trí tuệ tại doanh nghiệp, giúp nắm bắt các quy định của pháp luật về xác lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời nâng cao kỹ năng quản lý và sử dụng hiệu quả các loại tài sản trí tuệ (như nhãn hiệu, thương hiệu, bằng sáng chế..); triển khai bình chọn danh hiệu “Sản phẩm tiêu biểu”; tổ chức nhiều chợ phiên nông sản, tập huấn khoa học kỹ thuật, tập huấn kỹ thuật nông nghiệp, những biện pháp phòng ngừa dịch bệnh trong chăn nuôi; tuyên truyền, vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên, nhân dân hiểu mục đích ý nghĩa của cuộc vận động, phát huy vai trò giám sát, phát hiện, cung cấp thông tin tố giác hành vi sản xuất, chứa chấp, kinh doanh hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng cho cơ quan chức năng; đưa nội dung Cuộc vận động vào sinh hoạt định kỳ, nhắc nhở cán bộ, đoàn viên, hội viên và vận động gia đình, người thân, tuyên truyền trong khu dân cư thực hiện…

Các sở ngành thành phố căn cứ vào nhiệm vụ chuyên môn được giao, triển khai

nội dung Cuộc vận động trong ngành, góp phần thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động. Sở Giáo dục – Đào tạo đã có 239 đơn vị trực thuộc triển khai nội dung Cuộc vận động đến từng giáo viên, cán bộ, nhân viên và học sinh, sinh viên trong đơn vị; tất cả các cơ sở giáo dục khi trang bị đồng phục, quần áo bảo hộ, văn phòng phẩm, thiết bị văn phòng phục vụ công tác dạy và học đều mua sắm hàng nội địa. Công an thành phố đã ưu tiên mua sắm trang bị phương tiện làm việc, xây dựng nhà xưởng, kho bãi chủ yếu là hàng hóa, nguyên vật liệu sản xuất trong nước, ưu tiên lựa chọn nhà thầu, nhà sản xuất trong nước có uy tín, sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn sức khỏe cộng động, thân thiện môi trường. Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy thành phố trang bị phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ trên 80% là hàng sản xuất trong nước, ngoài các phương tiện, vật tư kỹ thuật đặc chủng phải nhập ngoại do trong nước chưa tự sản xuất. Sở Y tế phát động chương trình “Người Việt dùng thuốc Việt”, vận động các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ đa dạng hóa các loại thuốc điều trị, hạn chế nhập thuốc ngoại, vận động các y, bác sĩ kê đơn thuốc điều trị cho bệnh nhân theo danh mục thuốc sản xuất trong nước; đến nay, đã có 15 doanh nghiệp tham gia; tổng số điểm bán thuốc bình ổn hiện nay là 4.192 nhà thuốc (trong đó gồm 3.425 nhà thuốc tư nhân, 120 nhà thuốc bệnh viện và 647 nhà thuốc, đại lý thuốc doanh nghiệp). Cục Hải quan thành phố đẩy mạnh công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

40 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

mại trên địa bàn, tập trung vào công tác kiểm tra sau thông quan nhằm phát hiện các hành vi gian lận thương mại; phối hợp với các lực lượng chức năng tiếp tục đẩy mạnh kiểm tra, kiểm soát các mặt hàng nhập khẩu lưu thông trong nội địa, từ đó xây dựng được danh mục hàng trọng điểm, doanh nghiệp trọng điểm trong hoạt động xuất nhập khẩu. Sở Công thương tham mưu UBND thành phố tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình hành động của thành phố, thực hiện nhiều giải pháp như tổ chức kết nối doanh nghiệp với thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước thông qua các chương trình kết nối cung cầu hàng hóa giữa thành phố với các tỉnh, thành trong và ngoài nước; đẩy mạnh các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là về vốn; đẩy mạnh các hoạt động xúc

tiến thương mại, các chương trình bình ổn thị trường, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và quản lý thị trường…

Ở cấp quận huyện, nhiều địa phương phối hợp tốt với các sở, ngành thành phố đưa chương trình bình ổn thị trường phục vụ nhân dân trong dịp lễ, tết, góp phần tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước, chống hàng gian, hàng giả, hàng nhập lậu; tổ chức các hoạt động hội chợ - triển lãm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành phố giới thiệu sản phẩm đến với người tiêu dùng. MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các quận huyện, phối hợp với chính quyền triển khai nhiều phong trào, cuộc vận động nhằm tuyên truyền, quảng bá hàng Việt, qua đó nâng cao nhận thức và hành vi tiêu dùng theo hướng ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước... r

trấn báo cáo, xin ý kiến cấp ủy cấp trên trực tiếp về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Điều 8. Đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp trên

Cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn giữ mối liên hệ thường xuyên và phối hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp trên trực tiếp để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương.

Điều 9. Đối với các tổ chức khác có trụ sở đóng trên địa bàn

Cấp ủy lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn chủ

động phối hợp với các tổ chức khác có trụ sở đóng trên địa bàn để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và tham gia các phong trào thi đua yêu nước của địa phương.

IV - ĐIỀU KHOẢN THI HÀNHĐiều 10. Tổ chức thực hiện1. Các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy

cấp trên trực tiếp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn thực hiện Quy định này.

2. Căn cứ Quy định này và các văn bản hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc để thực hiện r

QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC... (Tiếp theo trang 33)

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

41Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Trong triển khai nhiệm vụ hàng năm, từ đầu quý 1 mỗi năm, Đảng ủy Khu chế xuất Tân Thuận đã ban hành

nghị quyết, đồng thời Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy thường xuyên nhắc nhở, hướng dẫn các chi bộ trực thuộc thực hiện tốt Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 2-3-2012 của Ban Tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ. Đảng ủy lãnh đạo các chi bộ nghiêm túc triển khai sinh hoạt chuyên đề, kể những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác; định hướng nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong sinh hoạt định kỳ hàng tháng, để gắn sát với thực tế cơ sở của từng đơn vị.

Từ chỉ đạo đó của Đảng ủy và được Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khảo sát, kiểm tra thường xuyên, các chi bộ trực thuộc đã xây dựng chương trình hành động thiết thực, bám sát các chuyên đề học tập qua các năm. Đặc

biệt, việc triển khai đến đảng viên đăng ký nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn gắn với nhiệm vụ của từng đồng chí, bám sát với công việc hàng ngày được công ty giao. Các cấp ủy phân công đảng viên chọn và kể một câu chuyện có liên hệ thực tiễn trong sinh hoạt chi bộ hàng tháng; tổ chức sinh hoạt chuyên đề định kỳ hàng quý; kết quả có 100% đảng viên thực hiện việc tham gia sinh hoạt chuyên đề, nhiệt tình phát biểu, thảo luận đóng góp ý kiến trong các kỳ sinh hoạt, hội họp tại từng chi bộ.

Về việc thực hiện Đề án Củng cố và phát triển lực lượng chính trị trong các khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công nghệ cao thành phố của Đảng ủy Các khu chế xuất - khu công nghiệp thành phố, Đảng ủy Khu chế xuất Tân Thuận và các bộ phận trực thuộc đã kiên trì lãnh đạo thực hiện nhằm kiện toàn tổ chức và phát triển đảng viên, đoàn viên trên địa bàn. Hàng năm, đã giao chỉ tiêu phát triển đảng viên cho các chi bộ; chỉ đạo các chi bộ trực thuộc

ĐẢNG BỘ KHU CHẾ XUẤT TÂN THUẬNCHÚ TRỌNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ

VÀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG NGƯỜI LAO ĐỘNGNGÔ VĂN VỸ

Thành lập từ ngày 27-5-2007, Đảng bộ Khu chế xuất Tân Thuận từ 3 chi bộ, đảng bộ trực thuộc với 86 đảng viên đến nay đã có 34 chi bộ trực thuộc với 285 đảng viên, trong đó có 30 chi bộ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là đảng bộ được thành lập sớm nhất trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trên địa bàn TP.HCM.

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

42 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

phối hợp với công đoàn và đoàn thanh niên tại doanh nghiệp trong công tác tạo nguồn phát triển đảng viên. 10 năm qua, Đảng bộ đã vận động thành lập 29 tổ chức đảng trong doanh nghiệp, đã kết nạp trong 5 năm 2012 - 2017 được hơn 150 đảng viên, riêng năm 2017 thành lập mới 6 chi bộ, kết nạp 25 đảng viên.

Đảng ủy tập trung lãnh đạo Công đoàn tại từng cơ sở, hướng dẫn chủ doanh nghiệp tổ chức hội nghị người lao động theo định kỳ để kịp thời giải đáp các thắc mắc và giải quyết các kiến nghị chính đáng của người lao động,

thể. Trong năm 2017, phối hợp với các đơn vị tổ chức cuộc đi bộ đồng hành ủng hộ Quỹ “Vì người bạn đoàn viên công đoàn” với sự tham gia hơn 1.000 công nhân lao động trong toàn bộ các doanh nghiệp, thu được trên 100 triệu đồng để góp phần chăm lo thêm cho đoàn viên công đoàn, người lao động có hoàn cảnh khó khăn, hay mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn lao động. Đảng bộ cũng phối hợp các doanh nghiệp trong dịp cuối năm 2017, đã tặng hơn 920 vé tàu xe, 12 vé máy bay miễn phí cho công nhân ở xa nhiều năm chưa về quê

được về quê ăn Tết; tặng 750 phần quà cho công nhân - người lao động; trao 6 suất học bổng cho con em công nhân có hoàn cảnh khó khăn, hiếu học…

Sau 10 năm hình thành và phát triển, Đảng bộ Khu chế xuất Tân Thuận không ngừng nỗ lực phấn đấu Diễn tập phòng cháy chữa cháy tại Khu chế xuất Tân Thuận. Ảnh: TT.

nhất là các dịp lễ tết gắn với chế độ lương, thưởng, phúc lợi tập thể. Nhờ vậy, đã góp phần hạn chế tranh chấp lao động, đình công, lãn công, mang lại sự hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp trên địa bàn, để tăng sức phát triển của từng doanh nghiệp. Một số chi bộ doanh nghiệp trực thuộc, thực sự đã tạo được uy tín với chủ doanh nghiệp; được doanh nghiệp hỗ trợ địa điểm sinh hoạt chi bộ.

Điểm nổi bật khác của Đảng bộ Khu chế xuất trong chăm lo cho người lao động, tổ chức các hoạt động phong trào, thiết thực, cụ

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đạt được thành tích xuất sắc trong công tác xây lượng chính trị cũng như chăm lo đời sống người lao động ở các doanh nghiệp. Số lượng và chất lượng tổ chức, đảng viên, đoàn viên ngày càng được nâng lên; liên tục từ năm 2009 đến nay, Đảng bộ Khu Chế xuất Tân Thuận giữ vững danh hiệu đơn vị “trong sạch, vững mạnh tiêu biểu”.

Từ đó, có thể rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Đó là, đối với tổ chức

(Xem tiếp trang 48)

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận

43Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Những vụ đại án lần lượt được đưa ra xét xử nghiêm minh. Một số người phải nhận mức

án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của họ.

Xét xử những người từng là cán bộ, đảng viên ai mà không đau xót! Xét cho cùng, bản thân họ, người thân trong gia đình, họ hàng của họ không chỉ chịu chế tài của pháp luật mà còn của “bia miệng ngàn năm”. Ở góc độ nhân văn, điều đó là đau xót. Trong số những người phải đứng trước vành móng ngựa có người từng là cán bộ lãnh đạo, từng có những đóng góp nhất định cho địa phương, cho ngành mà họ đứng đầu, có người từng được báo chí, dư luận ca ngợi. Nay phải nhận bản án của tòa án, của công luận, của lương tâm, quả là rất đau đớn.

Không chỉ vậy, mỗi lần có cán bộ, đảng viên bị luật, phải ra tòa, phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc thì đó mà một lần mất mát của tổ chức đảng. Trừ những kẻ cơ hội chính trị, phá hoại, tìm cách “leo cao, chui sâu” để tấn công Đảng ta từ bên trong thì nhiều trường hợp bị xử lý khác vốn là những cán bộ, đảng viên đã được Đảng đào tạo, giáo dục, dìu dắt, đã được trui rèn, thử thách trong nhiều môi trường, qua nhiều cương vị. Xử lý họ dù là cắt đi một phần ung nhọt của cơ thể để cơ thể khỏe mạnh hơn nhưng cũng

là giải pháp đau đớn, chẳng đặng đừng.Đảng ta vốn rất nghiêm minh, rất

trí tuệ, nhưng những “bài toán” từ thực tiễn cách mạng không phải ai cũng có thể giải ra đáp số trọn vẹn. Yêu cầu trên hết là phải giữ cho Đảng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo trong mỗi thời kỳ cách mạng là vấn đề then chốt được nói rất nhiều lần. Hầu hết cán bộ đảng viên là nghiêm túc, có ý thức giữ mình để không làm tổn hại nhân phẩm, danh dự của bản thân và của tổ chức. Nhưng trong hàng ngũ của tổ chức luôn có những kẻ “lờn thuốc” qua các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình, tự mình tìm cách trục lợi hoặc câu kết với nhau để trục lợi, hình thành nên các “nhóm lợi ích”, đó là bọn tham nhũng, là “thù trong”. Họ có muôn ngàn thủ đoạn tinh vi để che đậy, trốn tránh, muốn trừng trị không đơn giản.

Chúng tôi tạm chia bọn tham nhũng ra hai loại:

Loại thứ nhất là “những người tham nhũng bị động”, là người bị thúc đẩy vướng vào tham nhũng, ban đầu không chủ mưu nhưng vi phạm một lần rồi dần nhiều lần. Ở dạng này với các biện pháp tổng hợp giáo dục, vận động... có tác dụng nhất định, do họ còn có lương tâm, tính hướng thiện được khơi gợi, luật pháp chặt

VỀ VIỆC XÉT XỬ CÁC VỤ ĐẠI ÁNHOÀNG VĂN LỄ

Ý kiến đảng viên

44 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

chẽ giúp họ vượt qua cám dỗ và giữ vững “khí tiết”. Chẳng hạn, nếu luật pháp kín kẽ, người muốn tham nhũng cũng không thể hoặc khó “ra tay”. Giáo dục đạo đức thấu đáo, sức đề kháng cao trước mọi cạm bẫy thì có thể tránh được sai phạm; đề cao lòng tự trọng, tác động để họ tự giữ lấy thanh danh hơn tham lam làm nhục phẩm giá.

Loại thứ hai là “kẻ tham nhũng ở thế chủ động”, là kẻ muốn làm giàu với bất cứ giá nào mà không do năng lực thật sự của mình, sẽ không từ bất cứ phương cách nào để đạt mục tiêu giàu có. Họ không theo chuẩn mực chung, chỉ theo “chuẩn” tự mình đề ra, bất chấp lẽ phải, bất chấp đạo lý. Chắc chắn rằng một số không ít nằm trong “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất là “kẻ tham nhũng chủ động”. Họ triệt để lợi dụng các sơ hở trong chính sách, pháp luật để tìm cách khai thác sao cho có lợi cho mình,

Ý kiến đảng viên

cho gia đình mình. Những kẻ làm được việc này đã được Đảng và nhân dân giao phó cho những quyền hạn nhất định và họ sử dụng quyền hạn đó để trục lợi. Hay một dạng tham nhũng chủ động khác nếu có thể sẽ “chạy chức” để có nhiều quyền hơn, nhằm dễ trục lợi hơn, nếu không thể “chạy chức” thì dùng vật chất và các thủ đoạn khác nhằm mua chuộc để khiến người có chức quyền ra quyết định có lợi lớn cho mình, rồi cùng chia chác cái lợi đó... Với loại tham nhũng này, không dùng các giải pháp học tập đạo đức, rà soát pháp luật, giám sát chung chung mà phải có “bàn tay sắt” đồng thời là “bàn tay sạch” để tiêu diệt từng kẻ tham nhũng, từng vây cánh tham nhũng có hệ thống, từ nhỏ tới lớn, làm kiên quyết, kiên trì và khôn khéo.

Việc xử lý kiên quyết qua các vụ đại án được nhân dân phấn khởi, ủng hộ,

Phiên xét xử phúc thẩm vụ án “tham ô”, “cố ý làm trái...” tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Ảnh: LĐ

45Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

thấy được quyết tâm của Trung ương, thấy được hướng giải quyết. Cách làm sao cho minh bạch song cũng ít tổn thất chính trị nhất.

Cán bộ, đảng viên chúng ta nên tin tưởng vào các thông tin chính thức và

chính thống; có thể có những thông tin cơ quan thẩm quyền chưa hoặc không công bố, điều đó không có nghĩa là giấu ém mà còn phụ thuộc rất lớn vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù “nội xâm” này! r

mà chiếc ca nô vẫn phải trườn lên những con sóng cuồn cuộn. Trong khi đó, hiện nay ca nô của trạm được trang bị khá nhỏ, chưa đáp ứng được đặc thù sông nước ở đây... Anh em đi công tác ngoài truyền tai nhau kinh nghiệm của những người đi trước để vượt qua những con sóng lớn thì đều có ý thức tự bảo vệ, như phải né sóng, núp sóng và kể cả phải chuyển hướng di chuyển (đi hướng khác) để đảm bảo an toàn và tự trang bị những vật dụng chống ướt (túi đụng điện thoại, hồ sơ…)

Ở đầu sông Mũi Nai, người nuôi hàu thả những dây phao nuôi hàu nổi lềnh bềnh trên mặt nước hệt như những dải băng màu xanh ngút ngàn. Những dải phao hàu này được nuôi dọc hai bên bờ sông, trong vị trí đã được cắm phao an toàn do Trạm 5 thực hiện. Anh Nguyễn Thanh Toàn cho biết, trước kia khúc sông này, người dân nuôi hàu lấn chiếm cả ra đến giữa sông, gây mất an toàn cho tàu thuyền qua lại. Khó khăn trong công tác vận động người dân là không thể gặp trực tiếp được họ, do đó Trạm đã phối hợp với Phòng Kinh tế, Phòng Quản lý đô thị huyện Cần Giờ đi thực tế hiện trường để xác định phạm vi nuôi trồng thủy

hải sản của các hộ dân trong khu vực, từ đó tham mưu cho lãnh đạo huyện về công tác quy hoạch khu vực được phép nuôi trồng thủy hải sản.

Đồng thời, Trạm đã đề xuất Khu Quản lý đường thủy nội địa triển khai hệ thống phao báo hiệu giúp xác định phạm vi nuôi trồng thủy hải sản. Để đảm bảo an toàn giao thông đường thủy, trên cơ sở đề xuất của Trạm, năm 2017, Khu đã lắp đặt mới 40 bộ phao hướng dẫn luồng, 85 báo hiệu, và thực hiện duy tu, nạo vét 6 vị trí bãi cạn, vật chướng ngại trên địa bàn. Năm 2018, Trạm đã đề xuất lắp đặt 81 phao trên 5 tuyến đường thủy nội địa và hơn 260 biển báo hiệu đường thủy nội địa các loại và đã được Sở Giao thông vận tải phê duyệt, nâng tổng số phao và biển báo ở địa bàn Trạm quản lý là 151 phao và 592 biển báo.

Với những nỗ lực trên, trong năm 2017, Trạm 5 đã được công nhận mô hình văn hóa giao thông đường thủy và tuyến sông Dinh Bà 2 đạt tiêu chí an toàn do Ban An toàn giao thông TP.HCM chứng nhận. Các đảng viên của Trạm hàng năm đều được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ… r

TRẠM QUẢN LÝ ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA SỐ 5... (Tiếp theo trang 30)

Ý kiến đảng viên

46 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Cuối năm 2016, UBND thành phố ban hành chỉ thị về việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan

hành chính các cấp tại TP.HCM. Theo đó, UBND thành phố nhìn nhận nhiều tồn tại, hạn chế trong các cơ quan hành chính nhà nước, như vẫn còn một số cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện chưa tốt, làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Nhiều công việc nêu trong chương trình hành động, các quyết định, các văn bản chỉ đạo điều hành chưa được triển khai đúng tiến độ, chưa đảm bảo chất lượng theo yêu cầu; công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chưa được quan tâm đúng mức, việc phát hiện vi phạm, xác định trách nhiệm và xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm; công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý của nhiều sở ban ngành, UBND quận huyện về kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa được quan tâm đúng mức… UBND thành phố cũng khẳng định, những tồn tại, hạn chế đó đã ảnh hưởng đến kỷ luật, kỷ cương nền hành chính, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và doanh nghiệp, tác động xấu đến kỷ cương xã hội, cần được nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và khẩn trương khắc phục ở tất cả các cấp, các ngành, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu.

Nhìn rộng hơn, những vấn đề đó liệu có ở các cơ quan khác không, như các doanh

nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan đảng, đoàn thể chính trị - xã hội…? Nếu có, mức độ như thế nào và có cần thiết phải chấn chỉnh không? Thực tế cho thấy, một số biểu hiện chưa thực sự tích cực cũng đã xảy ra ở một số loại hình cơ quan, mà các văn bản của Đảng và dư luận nhân dân cũng đã lên tiếng, như hiện tượng hành chính hóa trong một số cơ quan đoàn thể chính trị - xã hội, vấn đề cải cách hành chính trong một số cơ quan của Đảng, sự sâu sát, gần gũi của cán bộ, viên chức đối với nhân dân… Hay vấn đề nêu gương của người đứng đầu thực sự đã thuyết phục được mọi người chưa, việc tiết kiệm chi tiêu đã được thực hiện nghiêm túc chưa, thái độ ứng xử của cán bộ công chức đối với các vấn đề của nhân dân có thực sự đồng cảm, chia sẻ chưa…

Có thể thấy, nếu kỷ luật, kỷ cương ở các cơ quan hành chính được bảo đảm thì sẽ tác động tích cực đến tinh thần, thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động ở các cơ quan đảng, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp. Khi đó, toàn bộ hệ thống chính trị sẽ thực sự chú trọng tính hiệu quả trong công việc, đặt lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân lên trên và bảo đảm các mục tiêu kinh tế - xã hội, các chủ trương của Đảng, các chính sách của Nhà nước đều được thực hiện một cách đầy đủ, trôi chảy.

PHẢI SIẾT CHẶT KỶ LUẬT, KỶ CƯƠNG TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

MINH TÂM

Ý kiến đảng viên

47Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Do đó, việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương phải được thực hiện ở tất cả các cơ quan của Nhà nước, từ cơ quan hành chính đến cơ quan của Đảng, đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp… Từng loại hình cơ quan phải chú trọng tính hiệu quả trong công tác, thái độ ứng xử của cán bộ công chức, viên chức, thực sự quan tâm đến việc giải quyết kịp thời các yêu cầu hợp pháp của nhân dân, như cơ quan đảng thì làm gì, cơ quan hành chính thì làm gì, cơ quan đoàn thể thì làm gì…, thống nhất ở các cấp từ trên xuống, từ thành phố đến cơ sở.

Đó là phải xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; đánh giá đúng chất lượng, trình độ của cán bộ, công chức, viên chức làm cơ sở sắp xếp, điều chuyển, bố trí nhân sự phù hợp với vị trí việc làm để nâng cao hiệu quả hoạt động; chú trọng thực hiện tinh giản số cán bộ, công chức, viên chức năng lực yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của pháp luật…

Đó là thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan nhà nước; lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo hiệu quả thực thi nhiệm vụ, công việc…

Đó là chủ động xử lý công việc thuộc thẩm quyền; tăng cường trách nhiệm trong phối hợp xử lý các nội dung có liên quan; thực hiện nghiêm quy chế phát ngôn và cung cấp

thông tin cho báo chí; có trách nhiệm nghiên cứu, trả lời các nội dung được lấy ý kiến; không đùn đẩy công việc thuộc nhiệm vụ của mình lên cấp trên hoặc sang cơ quan khác…

Đó là quyết liệt khắc phục những tồn tại, hạn chế để tạo sự chuyển biến tích cực trong chỉ đạo, điều hành; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; xử lý nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt là các vấn đề xã hội quan tâm…

Đó là tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương; thực hiện nghiêm túc việc xử lý trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra việc cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình có hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp...

Đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về kỷ luật, kỷ cương bao gồm cả giám sát từ nhân dân, giám sát của tổ chức đảng, giám sát của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội; về văn hóa công sở; về trách nhiệm và đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ…

Đó là rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh nội quy, quy chế, quy trình làm việc của cơ quan, đơn vị; quán triệt, triển khai đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, kiên

Ý kiến đảng viên

48 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

quyết khắc phục tình trạng lãng phí tài sản, lãng phí thời gian, thực hiện văn hóa công sở và sử dụng có hiệu quả thời giờ làm việc; cụ thể hóa trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, bảo đảm cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cấp trên, đồng thời quan tâm, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của cán bộ công chức, người lao động dưới quyền và nhân dân…

Đó là thực hiện tốt các yêu cầu cụ thể đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động tại các cơ quan nhà nước như nghiêm túc thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao, không để quá hạn, bỏ sót nhiệm vụ được phân công; không đùn đẩy trách nhiệm, không né tránh công việc; thực hiện nghiêm các quy định về đạo đức, văn hóa giao tiếp của người cán bộ, công chức, viên chức; không sử

dụng thời giờ làm việc để làm việc riêng; thực hiện đúng quy định trong văn hóa hội họp; không hút thuốc lá nơi công sở, trong phòng làm việc, phòng họp, hội trường; nghiêm cấm việc sử dụng rượu, bia, đồ uống có cồn trong giờ làm việc, giờ nghỉ trưa của ngày làm việc, ngày trực; không được đánh bạc dưới mọi hình thức; tránh lợi dụng chức năng, nhiệm vụ để gây nhũng nhiễu, phiền hà, trục lợi khi xử lý, giải quyết công việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp; cán bộ, công chức, viên chức và người lao động vi phạm kỷ luật, kỷ cương tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị xem xét xử lý kỷ luật theo nội quy cơ quan và quy định của pháp luật…

Dĩ nhiên, để các quy định có ý nghĩa trên thực tế, cần phải có biện pháp và lực lượng kiểm tra, giám sát, đồng thời phải kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm r

đảng có nhiều loại hình kinh tế, trong hoạt động phải luôn đoàn kết, gắn bó, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và làm tốt công tác xây dựng Đảng. Đó là từng cấp ủy phải bám sát nhiệm vụ chính trị từng tháng, quý và hàng năm, thống nhất với ban lãnh đạo từng doanh nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và chăm lo đời sống người lao động, vận động công nhân - người lao động thực hiện nghiêm kỷ luật lao động… Đó là không ngừng phấn đấu nâng cao vai trò những đảng viên trong doanh nghiệp, cả ở hoạt động chuyên môn, thực hiện sự nêu gương và làm tốt công tác

vận động quần chúng... Những thành công bước đầu của Đảng

bộ Khu chế xuất Tân Thuận có một nguyên nhân quan trọng là Đảng ủy nắm chắc các chủ trương của Thành ủy TP.HCM về công tác xây dựng đảng tại các khu chế xuất – khu công nghiệp, ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, Đảng ủy mới quán triệt và có nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động để không ngừng nâng cao nhận thức, tư tưởng và hành động của các cấp ủy trực thuộc, của từng chi bộ và đảng viên, công đoàn viên, đoàn viên tại Khu chế xuất r

ĐẢNG BỘ KHU CHẾ XUẤT TÂN THUẬN... (Tiếp theo trang 2)

Ý kiến đảng viên

49Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Vào một buổi chiều tháng tư, chúng tôi gặp nhà văn Dương Linh tại căn nhà nhỏ đơn sơ trên đường Lê

Quang Định, quận Bình Thạnh. Đó là một ông cụ tóc bạc, da mồi và mấy năm gần đây sức khỏe không được tốt, việc đi lại trở nên khó khăn nhưng ông có một trí nhớ tuyệt vời, nhất là khi được khơi gợi lại những chuyện năm xưa, mắt ông trở nên sáng lạ thường.

88 năm tuổi đời, 70 năm gắn liền với Đảng, nhà văn Dương Linh là một trong những người chiến sĩ trẻ tuổi nhất được kết nạp đảng từ rất sớm ở miền Nam; từ dấu mốc lịch sử đó, cuộc đời ông cho đến nay suốt một đời sống cho cách mạng, phục vụ cách mạng, vì lợi ích nhân dân.

Nhà văn Dương Linh tên thật là Nguyễn Kim Phương, sinh năm 1930 tại xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Vùng đất ông sinh ra vốn là một cái nôi của văn hóa, nghệ thuật Nam bộ với những câu ca vọng cổ, những tuồng cải lương và điệu múa lâm thôn… nên từ nhỏ máu văn nghệ đã ngấm trong người cậu bé Kim Phương. Năm 15 tuổi, ông gia nhập Thanh niên Tiền phong và được phân công làm Thư ký cho Ủy ban Mặt trận Việt Minh huyện Cầu Ngang. 2 năm sau, ông được cán bộ cấp trên tin tưởng cử đi học các lớp tuyên truyền của tỉnh và miền Trung Nam bộ. Là

một cậu bé sáng dạ, ham tìm tòi, học hỏi, Dương Linh đã không phụ lòng sự tin tưởng của cấp trên, sau khóa học cậu là học viên xuất sắc nhất của lớp. Để phát huy tài năng của cậu trai trẻ này, giữa cuối năm 1947 các đồng chí cán bộ tiếp tục gửi Dương Linh vào ngành tình báo để phục vụ cho công tác cách mạng sau này. Ngày 22-9-1947, ông lên đường nhập ngũ.

Sau những gì Dương Linh thể hiện, năm 1948, ông được cử vào ban lãnh đạo của tình báo tỉnh, tuy nhiên lúc này nhận thấy mình còn quá trẻ để đảm nhiệm một vị trí quan trọng nên Dương Linh từ chối và chỉ nhận làm Chánh Văn phòng cơ quan tình báo tỉnh. Ông vinh dự được kết nạp vào Đảng ngày 15-4-1948.

Suốt chín năm tham gia kháng chiến chống Pháp ông hoạt động chủ yếu ở ngành Quân báo Trà Vinh, Khu 8, Vĩnh Trà, Phân Liên khu miền Tây Nam bộ, và có nhiều cống hiến trong các chiến dịch lớn ở miền Nam.

Sau hiệp định Genève năm 1954, Dương Linh tập kết ra miền Bắc và được cử làm trợ lý văn nghệ của Trung đoàn 660 Sư đoàn 338. Từ đây cái máu văn nghệ ngày xưa trỗi dậy và cái duyên, cái nghiệp văn nghệ với cách mạng cùng song hành với nhau, đeo bám ông suốt một đời với mục

DƯƠNG LINH, NGƯỜI NGHỆ SĨ MỘT ĐỜI GẮN LIỀN VỚI CÁCH MẠNG

ÁNH DƯƠNG - MINH CHÁNH

Gương đảng viên

50 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

đích cuối cùng chỉ để phục vụ cho chiến đấu và cuộc sống. Ông kể lại: “Tôi nhớ lúc đó mọi người định tuyển tôi đi làm tình báo chiến lược, đưa đi nước ngoài vì mình làm tốt công việc, không sai phạm gì và hơn hết đã kết nạp đảng từ rất trẻ. Nhưng tôi mê văn nghệ từ bé, nên tôi kiên quyết chuyển ngành để làm theo ước mơ, ý muốn của mình”.

Với Dương Linh, văn nghệ và cách mạng là một con đường. Văn nghệ phục vụ chiến đấu, làm trỗi dậy tinh thần, chí khí cách mạng. Ông quyết định theo đuổi đam mê nghệ thuật và lấy ngòi bút làm vũ khí đấu tranh cách mạng. Ông nói: “Tôi biết có một người vừa làm cách mạng giỏi, vừa là một cây bút thiện chiến, sắc bén đó là Bác Hồ, tôi chỉ mong rằng những cống hiến về nghệ thuật của bản thân có thể làm được một phần nho nhỏ góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”. Ông xem Bác như ngọn đèn chỉ lối cho tinh thần cách mạng của chính mình.

Sau thời gian làm trợ lý văn nghệ của Trung đoàn 660, năm 1957, ông chuyển ra

làm ban văn nghệ cho Báo Thương nghiệp. Nhận thấy tiềm năng và con mắt nghệ thuật nhạy bén của Dương Linh, anh em làm bên ngành điện ảnh mời ông về biên tập Hãng phim truyện Việt Nam, là một trong bốn biên tập viên đầu tiên của Hãng. Trong thời gian làm việc ở đây, Dương Linh đã cho ra đời nhiều tác phẩm để lại dấu ấn như bài thơ Nhớ U Minh được giải thưởng của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam năm 1957, tác phẩm điện ảnh Bức tranh để lại được Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất năm 1970, vở kịch đầu tiên của ông mang tên Đêm tháng bảy được Đoàn kịch Hà Nội dựng vào năm 1965, kịch Chỗ đứng cuối cùng được Đoàn kịch Điện ảnh dựng năm 1970, tác phẩm Hương tràm chuyển thể cải lương được Nhà hát Cải lương Việt Nam dựng vào năm 1974…

Năm 1975, Đài Truyền hình TP.HCM mời ông về làm biên tập cho chương trình phim truyện, tới năm 1984 ông trở thành

Nhà văn Dương Linh

và vợ. Ảnh: AH.

Gương đảng viên

51Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

trưởng ban sáng tác mảng sân khấu cho đến khi nghỉ hưu năm 67 tuổi. Ở đây, ông cho ra mắt nhiều tác phẩm nổi tiếng như vở Bão táp Nguyên Phong được đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ dựng vào năm 1984, phim truyền hình 2 tập Dọc ngang sông nước được Đài Truyền hình TP.HCM sản xuất năm 1980, phim truyền hình nhiều tập Lục Vân Tiên (cộng tác với Hoàng Tích Chỉ), được Hãng phim Đài Truyền hình TP.HCM TFS sản xuất năm 2004, phim Sụp đổ được báo trước được Đài Truyền hình Việt Nam dựng năm 2008… Bên cạnh những tác phẩm điện ảnh, kịch, cải lương ông còn cho ra mắt nhiều tiểu thuyết, tiêu biểu là tác phẩm Nguyễn Trung Trực, khúc ca bi tráng.

Mang bản chất của người Nam bộ là thuần phác, nhân hậu và cũng rất thông minh, giản dị mà sâu lắng, kiên quyết nhưng rộng lượng, bao dung nên ngòi bút của ông phân tích tâm lý rất sâu sắc, tinh tế, khiến cho người xem, người đọc dễ dàng đón nhận và yêu mến nhân vật của ông. Hẳn không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Vũ Hạnh nhận xét về các tác phẩm của ông trong cuốn Nguyễn Trung Trực, khúc ca bi tráng: “Tác giả Dương Linh không chỉ là ngòi bút lịch lãm có nhiều tác phẩm giá trị, đặc biệt là các kịch bản thời ông tập kết ra Bắc mà còn nhiều ưu thế trong sự sáng tạo nên công trình này: ông là con dân Nam bộ nên thể hiện được sắc sảo ngôn từ cùng các sinh hoạt địa phương, là chiến sĩ nhiều năm trong quân ngũ cách mạng nên thông thạo cách vận động, chiến đấu. Ông là một trí thức uyên bác, đọc rộng, hiểu nhiều nên việc thể hiện

lịch sử ngoài sự phong phú còn có tính trung thực đáng quý”.

Đầu năm 2018, Dương Linh được Thành ủy TP.HCM trao tặng huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ông luôn quan niệm rằng, vào Đảng là mình không còn sống cuộc đời cho riêng mình mà sống vì dân tộc vì nhân dân, mỗi ngày ông đều đặt những mục tiêu rõ ràng riêng cho bản thân và làm việc hết 100% năng lượng; vì bản thân mình là một đảng viên, lời nói phải đi đôi với việc làm. Ông đề cao triết lý sống: “Mỗi ngày sau khi kết nạp vào Đảng tôi luôn làm việc với tinh thần tốt nhất. Cho tới giờ này, trước khi đi ngủ tôi đều nghĩ trong đầu, lại một ngày qua rồi vậy thì mình đã làm được cái gì, đã nói cái gì? Xét cho cùng đời người chỉ có hai việc đó là “nói” và “làm”, có người nói được mà không làm được, có người vừa nói vừa làm, Bác Hồ là một tấm gương điển hình nhất của việc nói đâu, làm đó”.

Với triết lý sống “nói là làm” đến bây giờ cây bút Dương Linh vẫn không ngừng phấn đấu tạo nên những tác phẩm có giá trị cách mạng. Dù sức khỏe hiện đã suy giảm nhưng ông vẫn cần mẫn, say mê với công việc. Một mình một góc làm việc với những cuốn sách được cẩn thận xếp ngay ngắn ở góc bàn, ở tuổi 88 ông vẫn miệt mài với con chữ và trang sách. Ông coi làm việc là vì sự tươi đẹp Tổ quốc, còn ngày nào ở trên đời thì ngày đó vẫn là ngày lao động, ngày cống hiến. Ông đúc rút lại cả cuộc đời mình qua một câu nói: “Cuộc đời con người chỉ là một cái nháy mắt, mình không để lại gì cho đời thì sống chẳng còn nghĩa lý gì”!... r

Gương đảng viên

52 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Mùa Thu năm 1967, trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình địch - ta, Bộ Chính trị quyết định:

“Thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam” vào Tết Mậu Thân năm 1968. Yêu cầu giữ bí mật nghiêm ngặt chủ trương chiến lược và kế hoạch tác chiến được đặt lên hàng đầu. Lực lượng Công an đã triển khai các mặt công tác bảo đảm yêu cầu bí mật như:

Một là, triển khai các mặt công tác công an nhằm bảo đảm giữ bí mật về chủ trương chiến lược, gấp rút đào tạo cán bộ công an, chi viện nhân lực, vật lực cho An ninh miền Nam phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Quán triệt chủ trương “Thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam” của Bộ Chính trị, Đảng đoàn Bộ Công an bí mật gấp rút triển khai công tác chuẩn bị lực lượng, chỉ đạo các vụ, cục ở bộ và các ty công an tuyển chọn cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất và sức khỏe đưa về Trường Công an Trung ương bồi dưỡng

để chi viện cho miền Nam. Từ đợt đầu tiên vào ngày 23-12-1967 đến tháng 5-1968, Bộ Công an chi viện cho An ninh miền Nam 4 đợt gồm 776 đồng chí. Quá trình tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ diễn ra âm thầm, lặng lẽ, đảm bảo bí mật về chủ trương, kế hoạch di chuyển, con người và phương tiện.

Để tập trung đầu mối nắm sát tình hình, theo dõi quản lý cán bộ tăng cường và tham mưu giúp lãnh đạo Bộ các mặt công tác liên quan đến chiến trường, ngày 14-12-1967, Bộ Công an ra quyết định thành lập “Phòng công tác an ninh miền Nam” trực thuộc Bộ trưởng. Phòng quán xuyến toàn bộ các mặt công tác an ninh liên quan đến chiến trường, đồng thời thu thập, cập nhật tình hình chiến sự, không qua nhiều khâu trung gian nhằm tránh lộ lọt bí mật, mà trực tiếp báo cáo đồng chí Bộ trưởng để có những quyết sách kịp thời. Lãnh đạo Bộ còn chỉ đạo các lực lượng chuyên ngành, cử những đồng chí lãnh đạo cốt cán biên soạn tài liệu(1)

và trực tiếp mang vào chiến trường, tổ chức giảng dạy, trang bị kiến thức nghiệp vụ cho

----------------------------------------------(*) Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an. Trích tham luận tại Hội thảo khoa học

lịch sử “Vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy. Xuân Mậu Thân 1968”, ngày 16-12-2017.

CÔNG TÁC BẢO ĐẢM BÍ MẬT CHUẨN BỊ CHO CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968

Trung tướng, PGS.TS. BÙI MẬU QUÂN(*)

Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân (1968 – 2018)

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

53Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

cán bộ, chiến sĩ từ Trung ương Cục đến các địa phương để vận dụng kịp thời khi ta mở cuộc Tổng tiến công.

Hai là, trong điều kiện bố trí lực lượng, di chuyển quân vô cùng khó khăn, nhiều tai mắt của kẻ thù, song lực lượng Công an đã vượt qua, góp phần bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ cho chiến dịch.

Từ giữa năm 1967, Bộ Chính trị cử đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, vào miền Nam trực tiếp làm Bí thư Trung ương Cục và triển khai thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị. Cuối năm 1967, Thường vụ Trung ương Cục quyết định tổ chức lại chiến trường(2). Ban an ninh tất cả các khu, phân khu, tỉnh thành đều xây dựng kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, các vùng nông thôn địch còn tạm chiếm. Mạng lưới cơ sở điệp báo được rà soát lại. Toàn miền đã xây dựng được thêm 117 cơ sở mới và 1.198 cơ sở bí mật trong các cơ quan tình báo, cảnh sát, đoàn bình định, ngụy quyền, đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Mạng lưới giao liên được tăng cường, các tổ cơ yếu, điện đài, trinh sát kỹ thuật, thông tin liên lạc được hình thành phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và công tác đánh địch. Ở các vùng căn cứ giải phóng như Củ Chi, Tây Ninh, Long Xuyên, Châu Đốc, lực lượng an ninh địa phương đã tham gia công tác vận động tân binh, bảo vệ bí mật cho hàng vạn dân công, hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực từ căn cứ vào

các thành phố, thị xã an toàn. Bộ phận kỹ thuật nghiệp vụ của Bộ tăng cường làm hàng nghìn giấy căn cước, giấy miễn hoãn quân dịch, sự vụ lệnh giống như của địch để cấp cho cán bộ, chiến sĩ tạo vỏ bọc bí mật, an toàn hoạt động trong lòng địch.

Cuối năm 1967, Thường vụ Trung ương Cục phân công đồng chí Phạm Thái Bường phụ trách Ban An ninh Trung ương Cục. Cùng với đó, Ban thực hiện kiện toàn bộ máy, tăng cường cán bộ, theo hướng tổ chức lại chiến trường trọng điểm; cử đồng chí Bùi Thiện Ngộ và đồng chí Phan Văn Đáng, Phó Bí thư Trung ương Cục, về khu Tây Nam bộ để chỉ đạo kế hoạch Tổng tiến công. Các mạng lưới thông tin liên lạc cơ yếu được triển khai thông suốt từ An ninh Trung ương Cục với an ninh các khu, phân khu và tỉnh trực thuộc.

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã họp ở chiến khu Dương Minh Châu thảo luận kế hoạch và bố trí tổ chức lực lượng cho 6 phân khu. Thực hiện công tác đấu tranh công khai và bí mật, các cơ quan, ban, ngành, Khu ủy, An ninh khu, phân khu đều có 2 bộ phận chỉ đạo. Bộ phận “xã hội hóa” ở nội ô, hoạt động bí mật về nghiệp vụ nhưng công khai hợp pháp dưới các vỏ bọc khác nhau và một bộ phận ở căn cứ vùng ven hoặc vùng giải phóng. Việc xây dựng tổ chức hệ thống giao thông liên lạc ngầm, làm bàn đạp đứng chân để bảo vệ đầu não chỉ đạo và chiến đấu giữa đô thị, vùng ven và căn cứ là yêu cầu hết sức bức thiết. Lực lượng giao liên Sài Gòn đã vượt qua nhiều khó khăn trong tình hình địch

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

54 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

đánh phá ác liệt, kiểm soát gắt gao để xây dựng được hàng trăm bàn đạp, cơ sở giao liên phục vụ cho cuộc Tổng tiến công. Lực lượng an ninh ở vùng ven đã thiết lập được mạng lưới giao thông liên lạc từ nội thành ra vùng căn cứ kháng chiến(3),vận chuyển vũ khí, trang bị vào nội thành, xây dựng các hầm bí mật để chứa vũ khí, ém quân, nuôi giấu thương binh, bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc Tổng tiến công.

Ba là, lực lượng an ninh thực hiện tốt công tác giao thông liên lạc, nghi binh, lừa địch, bảo đảm giữ bí mật, an toàn cho các đồng chí lãnh đạo Đảng, quân đội tiến và rút lui an toàn.

Trong cuộc Tổng tiến công, các ban an ninh từ Trung ương Cục đến các khu, tỉnh, huyện và cơ sở trong toàn miền Nam đã huy động 3.346 cán bộ, chiến sĩ công khai và bí mật ra trận tuyến, kết hợp với lực lượng tại chỗ tiến công mạnh mẽ vào các cơ quan đầu não, bộ máy kìm kẹp, hệ thống giao thông, sân bay, kho tàng, trại giam của Mỹ ngụy. Thông qua công tác điệp báo, trinh sát kỹ thuật, khai thác tài liệu và bọn địch bị bắt, an ninh các cấp đã nắm được nhiều tình hình về âm mưu và sự phản kích của địch phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và công tác đánh địch, truy bắt những đối tượng chạy trốn. Trên tất cả các mũi tiến công vào thành phố, thị xã, thị trấn, lực lượng Công an tham gia tích cực trong công tác bảo vệ, làm nhiệm vụ dẫn đường và cùng các lực lượng vũ trang khác từ bên ngoài tấn công vào, phối hợp với sự nổi dậy của quần chúng và lực lượng tại chỗ. Kết quả

đã bắt, diệt 15.135 tên gián điệp, tình báo các loại, 35 tên CIA 1.766 cảnh sát, 532 cán bộ bình định nông thôn 269 tình báo, an ninh quân đội Sài Gòn, 492 ác ôn. Hệ thống kìm kẹp của địch bị phá rã nặng nề. Một số tên trưởng, phó ty, cuộc cảnh sát, quận ủy Quốc dân đảng phản động bị trừng trị. Một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch bị phá hủy. Quân và dân ta đã phá 4.200 ấp chiến lược, giải phóng thêm 1/4 triệu dân, giải thoát 6.678 cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt giam giữ.

Đặc biệt, tại khu Sài Gòn đêm 30 rạng 31-1-1968, tổ công tác gồm 12 đồng chí phân đội An ninh vũ trang dưới sự chỉ dẫn của nữ chiến sĩ an ninh Đoàn Lệ Phong đã bí mật mở đường đưa một bộ phận của Bộ Tư lệnh tiền phương gồm có các đồng chí Sáu Dân, Nguyễn Hộ, Tư Trọng, Hai Trúc và nhiều cán bộ chủ chốt của các ban, ngành từ căn cứ Bắc huyện Bình Chánh luồn sâu vào trung tâm thành phố thuộc khu vực trường đua Phú Thọ an toàn, đúng thời gian quy định để chỉ đạo cuộc tiến công. Khi Bộ Tư lệnh vừa dừng chân tại chợ Thiếc thì được chỉ thị khẩn cấp của trên là phải di chuyển nhanh vì đã bị lộ. Đội công tác gồm 12 đồng chí An ninh vũ trang chốt tại trường đua Phú Thọ đã chặn đánh địch, chiến đấu kiên cường suốt 7 ngày đêm mới kết thúc và đã hi sinh nhưng bảo vệ bí mật, an toàn Bộ Tư lệnh tiền phương 2.

Bốn là, lực lượng an ninh tham mưu giúp Trung ương Cục, phát hiện chấn chỉnh kịp thời việc bộc lộ cơ sở, củng cố, bảo toàn lực lượng cho các giai đoạn đấu tranh tiếp theo.

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

55Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Tuy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ban đầu đạt những kết quả nhất định, nhưng do động viên quá mức, khắp các phân khu bộc lộ chủ quan khinh địch, cơ sở bên trong vùng đô thị vùng nông thôn hoạt động quá lộ liễu, nhiều cán bộ cốt cán bị tiêu hao nặng, thất thoát tài liệu. Trước tình hình đó, đầu tháng 3-1968, Ban An ninh tham mưu cho Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị về việc tăng cường công tác phòng gian bảo mật, đẩy mạnh truy kích các cơ sở bí mật của mật thám, tình báo địch, bảo vệ nội bộ ta, bảo vệ vùng giải phóng; ngày 10-4-1968 ra Chỉ thị số 08/CTNT về việc phát động phong trào phòng gian bảo mật, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ quan và tài liệu; ngày 3-5-1968 ra Chỉ thị số 12/CTNT về việc tiếp tục chỉ đạo công tác an ninh trong Tổng tiến công và nổi dậy, nhất là nói rõ hơn về tổ chức bộ máy và lực lượng an ninh; ngày 9-6-1968 ra Chỉ thị số 17/CT-NT về việc đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng lực lượng an ninh vũ trang các cấp. Nội dung các chỉ thị đều đánh giá thành tích công tác tiến công và xây dựng lực lượng an ninh trong tiến công đợt 1; phân tích những khuyết, nhược điểm; nêu ra là phải tiếp tục tiến công địch trên 3 vùng, phải hết sức nắm vững phương thức, phương châm, xây dựng lực lượng an ninh các cấp, đào tạo, bồi dưỡng, trang bị vũ khí và củng cố hệ thống giao liên an ninh các cấp...

Tháng 6-1968, Bộ Công an tăng cường cho Ban An ninh hàng trăm cán bộ trung, sơ cấp về nghiệp vụ công an và công an vũ trang góp phần củng cố lại các tiểu ban. Với việc phát hiện sai sót, tham mưu

giúp Đảng chấn chỉnh kịp thời, lực lượng an ninh đã góp phần quan trọng trong công tác đảm bảo bí mật, bảo toàn lực lượng đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn tiếp theo.

Nhìn từ góc độ công tác an ninh có thể thấy, công tác bảo đảm bí mật về chủ trương chiến lược, bí mật về quá trình chi viện, tổ chức lực lượng đấu tranh, bí mật cho các đồng chí lãnh đạo cấp cao, cho lực lượng quân sự tiến công và rút lui an toàn, củng cố, kiện toàn lực lượng trong tình huống bị lộ quá nhiều là cả một kỳ công lớn của lực lượng Công an, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968. Có thể rút ra mấy vấn đề sau:

Một là, lực lượng Công an nói chung, an ninh nói riêng đã quán triệt, thực hiện tốt chủ trương của Bộ Chính trị, giữ được bí mật về chủ trương chiến lược, kế hoạch tiến công, quá trình gấp rút đào tạo cán bộ, chi viện nhân tài, vật lực cho an ninh miền Nam phục vụ cuộc Tổng tiến công.

Hai là, trong điều kiện bố trí lực lượng, di chuyển quân vô cùng khó khăn, vượt qua nhiều tai mắt của kẻ thù, song lực lượng an ninh đã bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ về tổ chức lực lượng đấu tranh, phối hợp giúp lực lượng quân đội tập kết nhân lực, vật lực đến địa điểm dự kiến nổ súng tấn công an toàn, để khi đồng loạt nổ súng khiến địch bất ngờ và ta giành được thắng lợi. Song, còn khuyết điểm là để lực lượng cách mạng, nhất là an ninh ở cơ sở bung ra

(Xem tiếp trang 61)

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

56 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Khi miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, không ngừng đẩy mạnh phong trào thi đua

lao động sản xuất còn miền Nam đã bùng lên phong trào Đồng Khởi, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết ngày 26-1-1961 của Ban Bí thư về đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, các phong trào thi đua yêu nước đã nở rộ trên khắp các lĩnh vực: quân đội, giáo dục, công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp, trong thanh niên, phụ nữ, trí thức, phụ lão...(1).

- Tháng 6-1960, xuất hiện phong trào “Ba nhất” trong quân đội.

“Cờ Ba nhất” được phất lên từ Đại đội 2, Tiểu đoàn 10, Trung đoàn 68, Đoàn Vinh Quang (Sư đoàn 304). Do lập nhiều thành tích về kỹ thuật - chiến thuật, nên đầu năm 1960 được biểu dương là đơn vị bắn gioi nhất, có nhiều người, nhiều đơn vị tham gia thi nhất, đoàn có thành tích đều nhất (giỏi nhất, nhiều nhất, đều nhất), trở thành đơn vị “Ba nhất” đầu tiên trong toàn quân. Từ kinh nghiệm này, ngày 18-6-1960, Tổng cục Chính trị phát động phong trào thi đua “Ba nhất” trong toàn lực lượng vũ trang nhân dân nhằm phát huy cao độ tinh thần chiến đấu, tài năng sáng tạo của tất cả các chiến sĩ với nội dung đạt thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất trong huấn luyện và sẵn sàng chiến

đấu. Mục tiêu cụ thể là: Nhất về huấn luyện quân sự, rèn luyện kỹ thuật; Nhất về gương mẫu, kỷ luật; Nhất về lao động và sản xuất.

- Đầu năm 1961, trong nông nghiệp xuất hiện phong trào “Gió Đại Phong” và thi đua với Đông Hiếu trong nông trường quốc doanh.

Gió Đại Phong bắt nguồn từ Hợp tác xã Nông nghiệp Đại Phong (xã Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) có thành tích xuất sắc trong thi đua đạt và vượt mục tiêu đề ra, tháng 5-1960 được Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến thăm, khen ngợi. Tháng 2-1961, Hợp tác xã được Ban Nông nghiệp Trung ương và Bộ Nông nghiệp tổ chức Hội nghị toàn miền Bắc tại đây nhằm đánh giá kết quả, phổ biến kinh nghiệm, đồng thời phát động phong trào thi đua “Học tập, tiến kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong” trên toàn miền Bắc, với 5 mục tiêu là: Cải tiến kỹ thuật và tăng năng suất; Tăng vụ và vỡ hoang; Phát triển nhiều ngành, nghề; Cải tiến công tác quản lý hợp tác xã; Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng trong hợp tác xã(2).

Ở các nông trường quốc doanh lúc bấy giờ, Nông trường Đông Hiếu (Nghĩa Đàn, Nghệ An) nổi lên như một điển hình toàn diện của cả nước. Với tinh thần sáng tạo, thi đua liên tục, hưởng ứng các chiến dịch “Tiếng

-------------------------------------(*) Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương.

CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA ÁI QUỐC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

TS. LÊ ĐỨC HOÀNG(*)

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

57Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

trống Xô viết”, “An - Ngãi quật khởi”, “Lam - Trà nổi sóng”, “thi đua bốn biến” với khẩu hiệu “làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm”, kết quả Nông trường Đông Hiếu đã đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất, được Bác Hồ cùng nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quan khách quốc tế đến thăm. Từ đó, Nông trường Đông Hiếu trở thành hình mẫu cho nhiều nông trường quốc doanh thi đua thi đua học tập, phấn đấu(3).

- Đầu năm 1961, trong công nghiệp xuất hiện phong trào “Sóng Duyên Hải” và thi đua hợp tác xã Thành Công trong thủ công nghiệp.

“Sóng Duyên Hải” bắt đầu từ việc thi đua với Nhà máy Cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), một điển hình tiên tiến trong lĩnh vực công nghiệp. Đầu năm 1961, hưởng ứng cuộc vận động thi đua hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nhà máy Duyên Hải có sáng kiến phát động công nhân mở hội thao kỹ thuật, động viên “người người thao diễn, ngành ngành thao diễn, đứng máy nào thao diễn máy ấy, dùng dụng cụ nào thao diễn dụng cụ ấy, sản xuất mặt hàng nào thao diễn mặt hàng ấy”. Sáng kiến của nhà máy này được công nhân khắp nơi hưởng ứng sôi nổi, từ đó làm xuất hiện phong trào “Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải”. Tại Đại hội Liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III, Nhà máy Cơ khí Duyên Hải được tuyên dương là lá cờ đầu của phong trào thi đua trong ngành công nghiệp và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Tháng 4-1961, Thủ tướng Chính phủ tổ chức Hội nghị gồm đại

biểu cán bộ các tỉnh, thành tại Hải Phòng để tìm hiểu kinh nghiệm của Duyên Hải. Từ đây đã phát động toàn miền Bắc thi đua với Duyên Hải và Hải Phòng trở thành quê hương của phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp.

Trong quá trình xây dựng và phát triển Hợp tác xã Thành Công (Thanh Hóa) đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng, phát huy sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật và quản lý, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hợp tác xã từ nhỏ thành lớn, góp phần đưa kế hoạch 5 năm lần thứ nhất hoàn thành trước thời hạn, được tuyên dương là đơn vị lá cờ đầu. Từ đó xuất hiện phong trào thi đua Hợp tác xã Thành Công.

- Tháng 9-1961, trong giáo dục xuất hiện phong trào “Hai tốt”.

“Trống Bắc Lý” được vang lên từ trường cấp 2 Bắc Lý (Lý Nhân, Hà Nam) vì có thành tích xuất sắc, dẫn đầu về “dạy tốt, học tốt” (hai tốt) của toàn ngành giáo dục. Tháng 9-1961, trường được công nhận là đơn vị lá cờ đầu toàn ngành, đến Đại hội Liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III năm 1962 được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Từ đó xuất hiện phong trào thi đua Hai tốt, lúc đầu phát động toàn tỉnh Hà Nam, sau lan ra toàn miền Bắc. Các mục tiêu chính: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện phương châm kết hợp học tập với lao động sản xuất, học đi đôi với hành, gắn liền nhà trường với xã hội; nêu cao tinh thần đoàn kết, phục vụ vô điều kiện sự nghiệp giáo dục của Đảng và Chính phủ; phát huy tinh thần

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

58 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

tự lực cánh sinh, đồng thời dựa vào nhân dân xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường. Phong trào “học tập Bắc Lý, tiến kịp và vượt Bắc Lý”, nhanh chóng xuất hiện nhiều trường “Bắc Lý mới”.

- Cuối 1964 đầu 1965, trong thanh niên xuất hiện phong trào “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong”(4).

Trước âm mưu đế quốc Mỹ tiến hành

Đảng, nhân dân, Tổ quốc cần đến mà không đòi hỏi đãi ngộ! Đêm 9-8-1964, Thành đoàn Hà Nội ra lời kêu gọi “Ba sẵn sàng”. Tháng 3-1965, Trung ương Đoàn chính thức phát động phong trào, nội dung được bổ sung thêm thành: Sẵn sàng chiến đấu và gia nhập lực lượng vũ trang; Sẵn sàng học tập và lao động xây dựng cuộc sống mới; Sẵn sàng đi tới nơi nào mà Tổ quốc cần đến.

Từ tháng 3-1965, phong trào “Năm xung phong” được phát động trong thanh niên miền Nam, nhằm tập hợp, đoàn kết rộng rãi thanh niên tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nội dung phong trào là: Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch; Xung phong tòng quân giết giặc; Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến; Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính; Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội.

Thanh niên Hà Tây lên đường chiến đấu trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: TL.

chiến tranh phá hoại miền Bắc, Ban Chấp hành Đoàn trường Đại học Sư phạm Hà Nội phát động phong trào “Tam bất kỳ” (sau đổi là “Ba bất kỳ”), kêu gọi thanh niên phát huy nhiệt huyết cách mạng, với nội dung: Bất kỳ đi đến nơi nào mà Tổ quốc cần; Bất kỳ làm nhiệm vụ gì mà Đảng và nhân dân yêu cầu; Bất kỳ chế độ hưởng thụ nào cũng chấp nhận. Cuối tháng 4-1964, theo đề nghị của nữ sinh viên Khoa Toán, đổi tên thành phong trào “Ba sẵn sàng”. Trong Lễ phát động phong trào Ba sẵn sàng của Đoàn trường tối ngày 30-4-1964 dưới sự chứng kiến của lãnh đạo Trung ương Đoàn và Thành đoàn Hà Nội, các thanh niên hô vang khẩu hiệu: 1) Sẵn sàng nhập ngũ, chiến đấu đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược; 2) Sẵn sàng hi sinh bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 3) Sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi nào mà

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

59Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

“Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” nhanh chóng trở thành phong trào thi đua yêu nước, cuốn hút hàng triệu thanh niên tích cực tham gia, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Tháng 3-1965, trong phụ nữ xuất hiện phong trào “Ba đảm đang”.

Nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của phụ nữ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, tháng 3-1965, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm nhiệm” với nội dung: Đảm nhiệm sản xuất và công tác thay thế nam giới đi chiến đấu; Đảm nhiệm gia đình khuyến khích chồng con yên tâm chiến đấu; Đảm nhiệm phục vụ chiến đấu. Sau đó, phong trào được đổi thành “Ba đảm đang” có nội dung là: Đảm đang sản xuất và công tác, thay thế cho chồng, con, anh em đi chiến đấu; Đảm đang việc gia đình cho chồng, con, anh em yên tâm chiến đấu; khuyến khích chồng, con, anh em tòng quân và phục vụ lâu dài trong quân đội; Đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, tập luyện quân sự để sẵn sàng chiến đấu, phục vụ bộ đội, công an, dân quân tự vệ khi chiến đấu(5). Phong trào nhanh chóng trở thành tiêu chí phấn đấu của phụ nữ cả nước. Đồng thời với “Ba sẵn sàng”, tháng 3-1965, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam phát động phong trào “Xây dựng gia đình vẻ vang” và phong trào “Hội mẹ chiến sĩ” có tác dụng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng chiến sĩ, thương bệnh binh, góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua tòng quân, thi đua giết giặc, lao động sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh.

- Tháng 1-1966, trong giới trí thức phát động phong trào “Ba quyết tâm”.

Nhằm động viên, đoàn kết đội ngũ trí thức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa, tháng 1-1966 Hội nghị Trí thức Việt Nam được tổ chức ở Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự, khẳng định các phong trào thi đua yêu nước trong nông nghiệp, công nghiệp, quân đội, công nhân, thanh niên, phụ lão… đã làm nảy nở nhiều con người mới rất anh hùng, đồng thời đề nghị nên có cuộc vận động trong giới trí thức để góp phần vào phong trào chung ấy. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, phong trào Ba quyết tâm được phát động với nội dung: Quyết tâm phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống; Quyết tâm đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa; Quyết tâm đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Phong trào “Ba quyết tâm” đã nhanh chóng lôi kéo được đông đảo trí thức Việt Nam tích cực tham gia.

Ngoài ra, phải kể đến phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” do Trung ương Cục miền Nam phát động ngày 25-3-1963 nhằm động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ phát huy chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho), đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Mục tiêu phong trào là: Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, xây dựng xã chiến đấu, chống càn quét lấn chiếm, phá ấp chiến lược, binh vận; Đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, nuôi quân, phòng gian bảo mật, ủng hộ bộ đội, du kích; Đẩy mạnh tòng quân, săn sóc thương binh, làm tốt chính sách đối với liệt sĩ và gia đình có công với

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

60 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

cách mạng, chống bắt lính, chống địch vũ trang nhân dân. Từ tháng 4-1963, Đảng ủy Quân sự miền Nam cũng phát động phong trào này trong các lực lượng vũ trang với những yêu cầu cụ thể(6).

Ngày 23-9-1963, Trung ương Cục miền Nam phát động phong trào “Thi đua yêu nước, chống Mỹ” với 4 khẩu hiệu lớn là: Thi đua đoàn kết đấu tranh, thi đua giết giặc lập công, thi đua sản xuất tiết kiệm và thi đua học tập tiến bộ. Ngày 18-4-1964, Ban Bí thư ra chỉ thị phát động phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Ngày 15-10-1964, tuổi trẻ cả nước dấy lên phong trào thi đua noi gương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, biến căm thù thành sức mạnh, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, cứu nước. Ngày 18-11-1964, Đại đội 3 pháo cao xạ dấy lên phong trào thi đua, kiên quyết chiến đấu lập công, trả thù cho Nguyễn Viết Xuân. Tinh thần “nhằm thẳng quân thù mà bắn” trở thành khẩu lệnh chiến đấu thôi thúc bộ đội, dân quân tự vệ bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Tháng 5-1965, phát động phong trào “Quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ngày 20-7-1965, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chống Mỹ cứu nước. Tháng 9-1969, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát động đợt “Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch”, kêu gọi đồng bào cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ở một số địa phương cũng xuất hiện nhiều phong trào với các khẩu hiệu như: “Bám đất giữ làng”; “Một tấc không đi, một ly không dời”, “Giết giặc lập công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ

mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”, “Căng địch ra mà đánh, vây chúng lại mà diệt”…

*Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi

dậy mùa Xuân năm 1975 là kết quả của sự hội tụ nhiều yếu tố, trong đó không thể tách rời vai trò của các phong trào thi đua yêu nước. Thứ nhất, các phong trào thi đua đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, góp phần bồi dưỡng và củng cố niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động, bồi dưỡng, tăng cường tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Thứ hai, các phong trào thi đua yêu nước khơi dậy ý thức tự giác, tích cực của mọi người, là động lực góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị; có tác dụng làm cho chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước nhanh chóng thấm sâu vào thực tiễn; qua đó góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng, trình độ văn hóa, kỹ thuật, năng lực chiến đấu, lao động sản xuất… cho các tầng lớp nhân dân. Thứ ba, các phong trào thi đua yêu nước phát huy tối đa sức sáng tạo, tinh thần xung phong, ý chí quyết chiến, xả thân vì nước, tạo ra hoạt động tự giác, biến những điều tưởng chừng không thể làm được trở thành hiện thực. Thứ tư, sức mạnh các phong trào thi đua yêu nước không chỉ là những khẩu hiệu kêu gọi, tuyên truyền, cổ động mà còn là phát hiện, nêu gương, tôn vinh cá nhân và tập thể tiêu biểu, điển hình tiên tiến, những nhân tố mới, lôi cuốn mọi người sẵn sàng chiến đấu, hi sinh. Thứ năm, các phong trào thi đua yêu nước là động lực

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

61Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, tạo nên sự đoàn kết mọi tầng lớp, giai cấp, ngành nghề, lĩnh vực vì mục đích cách mạng thắng lợi mà còn tích cực góp phần chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, giữ gìn hòa bình và dân chủ trên thế giới r--------------------------

(1) Về thời gian phát động các phong trào, chúng tôi chủ yếu dựa theo sách Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (1955 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

(2) Đảng bộ Hợp tác xã Đại Phong, Đại Phong một làng quê, Quảng Bình, 1995, tr.106-107.

(3) Chiến dịch An - Ngãi quật khởi, Nghệ An và Quảng Ngãi là hai tỉnh kết nghĩa trong thời kỳ

chống Mỹ cứu nước; Chiến dịch Lam - Trà nổi sóng, sông Lam ở Nghệ An và sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi. Bốn biến gồm: biến không thành có, biến khó thành dễ, biến thiếu thành đủ, biến cũ thành mới.

(4) Hiện các tài liệu viết chưa thống nhất về thời gian chính thức phát động phong trào “Năm xung phong”. Có tài liệu ghi là tháng 9-1964 cũng có tài liệu ghi là tháng 2-1965 nhưng đa số tài liệu viết là tháng 3-1965. Chúng tôi dựa theo số đông.

(5) Lê Thị Nhâm Tuyết, Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,1973, tr.311.

(6) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam bộ và Trung ương Cục Miền Nam (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.441.

hoạt động công khai nên bị lộ, lực lượng an ninh miền Nam chịu tổn thất lớn.

Ba là, lực lượng an ninh bằng hình thức công khai, bí mật đã triển khai các mặt công tác nghiệp vụ nhằm bảo đảm thông suốt các tuyến giao thông liên lạc, chuyển một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh chôn giấu ngay trước mắt mà địch không hề hay biết. Thành tích, chiến công ấy của lực lượng an ninh như một kỳ tích, bảo đảm tốt công tác nghi binh, lừa địch để giữ bí mật, an toàn cho các đồng chí lãnh đạo, cho các mũi tiến công của Quân đội khi tiến đánh và rút lui khỏi thành phố.

Bốn là, trước những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động, một mặt lực lượng an ninh đã tham mưu giúp Đảng, có những chỉ thị kịp thời chấn chỉnh công tác đảm bảo an ninh, củng cố kiện toàn lực lượng, mặt khác

trong tình thế cấp bách, lực lượng cách mạng của ta bộc lộ, địch phản công, truy lùng gắt gao, lực lượng ta phải rút khỏi thành phố, đã được lực lượng an ninh bố trí rút lui về căn cứ, bảo toàn lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài tiếp theo r----------------------------

(1) Trong đó có các tài liệu “Những nét cơ bản về an ninh miền Nam” do đồng chí Hồng Hà soạn thảo, “Công tác trấn áp phản cách mạng trong quá trình giải phóng đô thị” của đồng chí Viễn Chi, “Một số nét cơ bản về công tác đặc tình” của đồng chí Nguyễn Sỹ Huynh...

(2) Giải thể khu Miền Đôngvà Đặc khu Sài Gòn - Gia Định, tổ chức thành 6 phân khu lấy tên từ 1 đến 6 và một số đơn vị tỉnh trực thuộc Trung ương Cục.

(3) Mở thêm nhiều tuyến giao thông liên lạc như tuyến quốc lộ 1A từ Trảng Bàng (Tây Ninh) đi Tân Phú Trung (Sài Gòn - Gia Định); tuyến trên sông Sài Gòn theo tàu Thuận Phong chạy đi Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một…

CÔNG TÁC BẢO ĐẢM BÍ MẬT CHUẨN BỊ CHO... (Tiếp theo trang 55)

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

62 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM vừa có văn bản chỉ đạo việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

công tác quản lý kê khai văn bằng, chứng chỉ, kê khai tài sản, thu nhập. Ban Thường vụ Thành ủy xác định, đây là hoạt động nhằm nêu cao trách nhiệm của cấp ủy trong việc thực hiện các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát liên quan đến việc kê khai, sử dụng, quản lý văn bằng, chứng chỉ, kê khai tài sản, thu nhập (gọi chung là kê khai) của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức theo đúng quy định của Đảng và Nhà nước, nhất là nâng cao tính tự giác, trung thực trong kê khai.

Ban Thường vụ Thành ủy yêu cầu ban thường vụ các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp trên cơ sở, đảng ủy cơ sở trực thuộc Thành ủy, các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan thuộc Thành ủy… phải tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc quy định về công tác kê khai, đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý theo quy định và thẩm quyền. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, phát huy trách nhiệm nêu gương, vai trò người đứng đầu, tính tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghiêm túc tự rà soát việc kê khai văn bằng, chứng chỉ,

chứng nhận của bản thân; việc quản lý, cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận theo chức trách, nhiệm vụ được giao; việc kê khai tài sản, thu nhập phải có giải trình về biến động và nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm hoặc giảm đi; việc quản lý, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập theo chức trách, nhiệm vụ được giao; tự giác, trung thực, chủ động báo cáo bổ sung (nếu có) với cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý cán bộ; khi có trường hợp vi phạm cần chủ động thông tin, báo cáo với cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, ủy ban kiểm tra cấp ủy hoặc ban tổ chức cấp ủy có thẩm quyền.

Đồng thời, các cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp ủy, các chi bộ và cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tăng cường lãnh đạo và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra theo quy định đối với các nội dung này. Ban Thường vụ Thành ủy giao Ban Tổ chức, Ủy ban Kiểm tra, Ban Nội chính Thành ủy lập các đoàn kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý trong vấn đề kê khai, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Các trường hợp đã chủ động báo cáo với cấp ủy có thẩm quyền trước khi bị phát hiện vi phạm là tình tiết xem xét giảm nhẹ hình thức xử lý r

PV.

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY CHỈ ĐẠO VIỆC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CÔNG TÁC QUẢN LÝ KÊ KHAI

Trang thông tin

63Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

Số TT Họ và tên Chức vụ cũ Chức vụ mới

1 Nguyễn Hữu HiệpỦy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Dân vận Thành ủy

2 Nguyễn Thị Lệ Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Dân vận Thành ủy

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy

3 Trần Thị Diệu Thúy Thành ủy viên, Bí thư Quận ủy quận Gò Vấp

Thành ủy viên, Bí thư Đảng đoàn nhiệm kỳ 2013 – 2018, Chủ tịch Liên đoàn Lao động thành phố

4 Huỳnh Thanh Nhân Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao

Ủy viên UBND thành phố, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao

5 Dương Anh Đức Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông

Ủy viên UBND thành phố, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông

6 Huỳnh Văn Biết Phó Giám đốc Sở Y tế Chủ tịch Công đoàn ngành Y tế

7 Lý Tấn HòaỦy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Quận ủy quận 4

Phó Bí thư Quận ủy quận 4

8 Lê Tấn TàiỦy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Quận ủy quận 5

Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam quận 5

9 Võ Văn Yên

Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp công nghiệp Trung ương tại thành phố

Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối Doanh nghiệp công nghiệp Trung ương tại thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020

10 Nguyễn Văn Phúc

Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

NHÂN SỰ MỚI(Từ ngày 20-3-2018 đến 20-4-2018)

64 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 5 - 2018

thue trang đầu