Aquaculture Economics

47
Aquaculture Economics & Management Publication details, including instructions for authors and subscription information: http://www.tandfonline.com/loi/uaqm20 FISHY FISH? THE ECONOMIC IMPACTS OF ESCAPED FARMED FISH Yajie Liu a , Jon Olaf Olaussen b & Anders Skonhoft c a SINTEF Fisheries and Aquaculture (Fiskeri og havbruk) , Trondheim , Norway b Trondheim Business School, Sør-Trøndelag University College (HiST) , Trondheim , Norway c DELATE: Centre for Economic Research, Department of Economics , Norwegian University of Science and Technology (NTNU), Dragvoll University Campus , Trondheim , Norway Published online: 16 Jul 2014. b …Trondheim, Đại học Cao đẳng Sør-Trøndelag (HiST), Trondheim , Na uy. c Công bố: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế, Khoa Kinh tế, Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy (NTNU), Đại học Dragvoll, Trondheim, Na Uy đăng trực tuyến: 16 Tháng bảy 2014. To cite this article:Yajie Liu , Jon Olaf Olaussen & Anders Skonhoft (2014) FISHY FISH? THE ECONOMIC IMPACTS OF ESCAPED FARMED FISH, Aquaculture Economics & Management, 18:3, 273-302, DOI: 10.1080/13657305.2014.926466 PLEASE SCROLL DOWN FOR ARTICLE Taylor & Francis makes every effort to ensure the accuracy of all the information (the “Content”) contained in the publications on our platform. However, Taylor & Francis, our agents, and our licensors make no representations or warranties whatsoever as to the accuracy, completeness, or suitability for any purpose of the Content. Any opinions and views expressed in this publication are the opinions and views of the authors, and are not the views of or endorsed by Taylor & Francis. The accuracy of the Content should not be relied upon and should be independently

Transcript of Aquaculture Economics

Aquaculture Economics &Management Publication details, including instructions for authors andsubscription information: http://www.tandfonline.com/loi/uaqm20

FISHY FISH? THE ECONOMIC IMPACTS OF ESCAPED FARMED FISH

Yajie Liu a, Jon Olaf Olaussen b & Anders Skonhoft c a SINTEF Fisheries and Aquaculture (Fiskeri og havbruk) ,Trondheim , Norwayb Trondheim Business School,Sør-Trøndelag University College

(HiST) , Trondheim , Norwayc DELATE: Centre for EconomicResearch, Department ofEconomics , Norwegian Universityof Science and Technology(NTNU), Dragvoll UniversityCampus , Trondheim , NorwayPublished online: 16 Jul 2014.

b …Trondheim, Đại học Cao đẳngSør-Trøndelag (HiST),Trondheim , Na uy.c Công bố: Trung tâm Nghiên cứuKinh tế, Khoa Kinh tế, Đại họcKhoa học và Công nghệ Na Uy(NTNU), Đại học Dragvoll,Trondheim, Na Uy đăng trựctuyến: 16 Tháng bảy 2014.

To cite this article:Yajie Liu , Jon Olaf Olaussen & Anders Skonhoft(2014) FISHY FISH? THE ECONOMIC IMPACTS OF ESCAPED FARMED FISH,Aquaculture Economics & Management, 18:3, 273-302, DOI:10.1080/13657305.2014.926466

PLEASE SCROLL DOWN FOR ARTICLE

Taylor & Francis makes everyeffort to ensure the accuracyof all the information (the“Content”) contained in thepublications on our platform.However, Taylor & Francis, ouragents, and our licensors makeno representations orwarranties whatsoever as to theaccuracy, completeness, or

suitability for any purpose ofthe Content. Any opinions andviews expressed in thispublication are the opinionsand views of the authors, andare not the views of orendorsed by Taylor & Francis.The accuracy of the Contentshould not be relied upon andshould be independently

verified with primary sourcesof information. Taylor andFrancis shall not be liable forany losses, actions, claims,proceedings, demands, costs,expenses, damages, and otherliabilities whatsoever orhowsoever caused arisingdirectly or indirectly inconnection with, in relation toor arising out of the use ofthe Content.

Taylor & Francis hết sức cốgắng đảm bảo tính chính xác củatất cả thông tin ("Nội dung")chứa trong các ấn phẩm trên nềntảng của chúng ta. Tuy nhiên,Taylor & Francis, các đại lýcủa chúng tôi, và những ngườicấp phép của chúng tôi khôngđại diện hay bảo đảm nào về

tính chính xác, đầy đủ, hoặcphù hợp cho bất kỳ mục đích nàovề nội dung. Bất kỳ ý kiến vàquan điểm thể hiện trong báocáo này là những ý kiến và quanđiểm của các tác giả, và khôngphải là quan điểm của hoặc xácnhận bởi Taylor & Francis. Độchính xác của các nội dungkhông nên dựa vào và cần đượcxác nhận độc lập với các nguồnthông tin chính. Taylor vàFrancis sẽ không chịu tráchnhiệm cho bất kỳ thiệt hại,hành động, khiếu nại, tố tụng,nhu cầu, chi phí, chi phí,thiệt hại, và các khoản nợ khácnào ngoại nào có thể xảy raphát sinh trực tiếp hoặc giántiếp liên quan, liên quan đếnhoặc phát sinh từ việc sử dụngcác Nội dung.

This article may be used for research, teaching, and private studypurposes. Any substantial or systematic reproduction,redistribution, reselling, loan, sub-licensing, systematic supply,or distribution in any form to anyone is expressly forbidden. Terms& Conditions of access and use can be found athttp://www.tandfonline.com/page/termsand-conditions

FISHY FISH? THE ECONOMIC IMPACTS OF ESCAPED FARMED FISH

Yajie Liu1, Jon Olaf Olaussen2, and Anders Skonhoft3

1SINTEF Fisheries and Aquaculture (Fiskeri og havbruk), Trondheim,Norway2Trondheim Business School, Sør-Trøndelag University College (HiST),Trondheim, Norway3DELATE: Centre for Economic Research, Department of Economics,Norwegian University of Science and Technology (NTNU), DragvollUniversity Campus, Trondheim, Norway

The escape of cultured fish froma marine aquaculture facility is

a type of biological invasionthat may lead to a variety of

potential ecological and economiceffects on native fish. Thisarticle develops a generalinvasive species impact model tocapture explicitly both theecological and economic effectsof invasive species, especiallyescaped farmed fish, on nativepopulations and harvests. First,the possible effects of escapedfarmed fish on the growth andstock size of a native fishareexamined. Next, a bioeconomicmodel to analyze changes inyield, benefit distribution, andoverall profitability isconstructed. Different harvestingscenarios, such as commercial,recreational, and jointcommercial and recreationalfishing are explored. The modelis illustrated by a case study ofthe interaction between nativeand farmed Atlantic salmon inNorway. The results suggest thatboth the harvest andprofitability of a native fishstock may decline after aninvasion, but the total profitsfrom the harvest of both nativeand farmed stocks may increase ordecrease, depending on thestrength of the ecological andeconomic parameters.

Việc cá nuôi thoát ra từ một cơsở nuôi trồng thủy sản gần biển

là một loại của sự lan tràn sinhhọc mà có thể dẫn đến một loạtcác hiệu ứng tiềm năng sinh tháivà kinh tế về cá trong tự nhiên.Bài viết này phát triển một môhình tác động chung của các loàixâm lấn để nắm bắt một cách rõràng cả các ảnh hưởng sinh tháivà kinh tế của các loài xâm lấn,đặc biệt là cá nuôi thoát ra,trên quần thể tự nhiên và thuhoạch. Đầu tiên, những ảnh hưởngcó thể có của cá nuôi thoát ra vềsự tăng trưởng và stock size củamột con cá tự nhiên được kiểmtra. Kế đến, một mô hình kinh tếsinh học để phân tích những thayđổi trong sản lượng, lợi ích phânphối, và lợi nhuận tổng thể đượcxây dựng. Kịch bản khai thác khácnhau, chẳng hạn như thương mại ,giải trí, và thương mại cổ phầnvà câu cá giải trí được nghiêncứu. Mô hình này được minh họabằng một trường hợp nghiên cứu vềsự tương tác giữa cá tự nhiên vàcá hồi Đại Tây Dương được nuôi ởNa Uy. Các kết quả cho thấy cảhai vụ thu hoạch và lợi nhuận củamột trữ lượng cá tự nhiên có thểgiảm sau một cuộc xâm lược nhưngtổng lợi nhuận từ vụ thu hoạchcủa trữ lượng cá tự nhiên và cánuôi có thể tăng hoặc giảm tùythuộc vào sức mạnh của các yếu tốsinh thái và kinh tế.

Keywords biological invasion (xâm lược sinh học), ecological andeconomic effects (ảnh hưởng sinh thái và kinh tế), escaped farmedfish (cá nuôi), invasive fish (cá xâm lấn.).

INTRODUCTION GIỚI THIỆU

During the last few decades,concerns have been increasingabout the effects of invasivespecies, especially invasivefish. Invasive species can beintroduced intentionally into anew environment forrecreational or commercialpurposes (Williams et al.,1995). In other cases, humanactivities have allowedintruders to become establishedindirectly. For example, globalwarming causes organisms tomigrate to higher latitudes(Carlton, 2000), andtransportation and shippingcarries organisms across theoceans (Enserink, 1999). Small-scale events such as wastewaterdischarges and farmingactivities may releaseorganisms into the surroundingenvironment. Regardless of itsorigins, an invasive species(including fish) potentiallygenerates risks to and effectson native species, localcommunities, and ecosystems(Mooney & Hobbs, 2000).

Trong vài thập kỷ qua, ngàycàng có nhiều mối bận tâm vềcác tác động của các loài xâmlấn, cá đặc biệt là xâm hại.Loài xâm lấn có thể được giớithiệu có chủ đích vào một môitrường mới cho mục đích giảitrí và thương mại (Williams etal., 1995). Trong các trườnghợp khác, các hoạt động của conngười đã cho phép kẻ xâm nhập(intruders) để trở thành thànhlập gián tiếp. Ví dụ, sự nónglên toàn cầu gây ra các sinhvật để di cư đến vùng vĩ độ caohơn (Carlton, 2000), và giaothông vận tải và vận chuyểnmang theo các sinh vật khắp cácđại dương (Enserink, 1999). Cácsự kiện quy mô nhỏ như nướcthải và các hoạt động nôngnghiệp có thể thải ra các sinhvật vào môi trường xung quanh.Dù nguồn gốc của nó, một loàixâm lấn (bao gồm cả cá) có khảnăng tạo ra những rủi ro và tácđộng đến các loài bản địa, cộngđồng địa phương, và các hệ sinhthái (Mooney & Hobbs, 2000).

The potential economic effectsof invasive species consist ofdamages toeconomic enterprises,food safety and human health,markets, particularly seafoodmarkets, and internationaltrade (Lovell, Stone, &Fernandez, 2006; Olsen, 2006).

These economic impacts can besevere. In addition to economicimpacts, invasive species alsogenerate ecological impacts,including losses tobiodiversity and changes in thestructures and functions ofindividual populations and

ecosystems (Mooney & Hobbs,2000).

Tác động kinh tế tiềm năng củacác loài xâm lấn bao gồm thiệthại cho các doanh nghiệp kinhtế, an toàn thực phẩm, sức khỏecon người, đặc biệt là thịtrường thủy sản, thương mạiquốc tế (Lovell, Stone, &

Fernandez, 2006; Olsen, 2006).Những tác động kinh tế có thểgay gắt. Ngoài các tác độngkinh tế, các loài xâm lấn cũngtạo ra những tác động sinh tháibao gồm cả tổn thất đa dạngsinh học và những thay đổitrong cấu trúc và chức năng cácquần thể cá nhân và các hệ sinhthái (Mooney & Hobbs, 2000).

Holmes (1998) argued thatinvasive species are thesecond-most important cause ofbiodiversity losses worldwide,just after habitat degradation.In this article, we analyzeanother potential concernassociated with invasive fish,namely the ecological andeconomic impacts on native fishof invasive fish fromaquaculture facilities. Farmedspecies are reared in confinedfacilities in locations thatprovide suitable conditions forgrowth and are accessible tomarkets. Due to naturaldisasters, accidents, or humanerror, farmed animals canescape from their facilitiesinto the surroundingenvironment, potentiallycreating ecological andeconomic impacts, especiallywhen there are interactionswith native fish.

Holmes (1998) lập luận rằng cácloài xâm lấn là nguyên nhânquan trọng thứ hai của tổn thấtđa dạng sinh học trên toàn thếgiới, chỉ sau suy thoái môitrường sống. Trong bài viếtnày, chúng tôi phân tích mộtvấn đề khác tiềm năng liên quanvới cá xâm lấn, cụ thể là cáctác động sinh thái và kinh tếđối với cá trong tự nhiên củacá xâm lấn từ các cơ sở nuôitrồng thủy sản. Loài nuôi đượcnuôi tại các cơ sở bị giới hạntại các địa điểm cung cấp cácđiều kiện thích hợp cho sự tăngtrưởng và đều có thể vào cácthị trường. Do thiên tai, tainạn, hoặc lỗi của con người,động vật nuôi có thể thoát rakhỏi cơ sở của họ vào môitrường xung quanh, có khả năngtạo ra các tác động sinh tháivà kinh tế, đặc biệt là khi cósự tương tác với cá trong tựnhiên.

The escaped fish interact withnative fish in a variety ofways. Ecologically, they mayinteract through competition,predation, hybridization,colonization, or the spread ofdisease or parasites.Ecological interactions maylead to both positive andnegative effects on nativefish. If escaped cultured fishare able to survive in thenatural environment, they

become part of the ecosystem,and they interact directly (andindirectly) with the nativefish. For example, escapedfarmed salmon compete withnative salmon, and escapedfarmed cod and halibut migrateto the open ocean to interactwith native inhabitants,including their congeners.Competition over naturalhabitat, food sources, andmates may result in changes in

the structure and productivityof a native stock (Naylor etal., 2005).

Các cá thoát tiếp xúc với cátrong tự nhiên trong nhiều cáchkhác nhau. Về mặt sinh thái,chúng có thể tương tác thôngqua cạnh tranh, ăn thịt, laitạo, tranh dành lãnh thổ, hoặcsự lây lan của bệnh hoặc kýsinh trùng. Tương tác sinh tháicó thể dẫn đến cả tác động tíchcực và tiêu cực về cá trong tựnhiên. Nếu cá được nuôi thoátcó thể tồn tại trong môi trườngtự nhiên, chúng trở thành một

phần của hệ sinh thái, và chúngtương tác trực tiếp (và giántiếp) với các cá trong tựnhiên. Ví dụ, cá hồi nuôi thoátra cạnh tranh với cá hồi tựnhiên, và cá tuyết được nuôitrốn thoát và cá bơn di cư đếncác đại dương để tương tác vớicác giống cá ở đó, bao gồmnhững con cùng giống với chúnghọ. Cạnh tranh về môi trườngsống tự nhiên, nguồn thức ăn,và bạn tình có thể dẫn đếnnhững thay đổi trong cấu trúcvà sản lượng một loài tự nhiên(Naylor et al., 2005)

In the case of escaped farmedsalmon, it has been reportedthat successful interbreedingbetween escaped farmed andnative salmon reduces fitnessand productivity (McGinnity etal., 2003), dilutes geneticgene pools (McGinnity et al.,2004; Roberge et al., 2008),and threatens the survival ofnative salmon offspring (Hindaret al., 2006). Also, escapedfarmed salmon may spreaddisease and parasites, therebyincreasing the mortality ofnative salmon (Bjørn & Finstad,2002; Gargan, Tully, & Poole,2002; Krkossek et al.,2006).

Trong trường hợp thoát cá hồinuôi, nó đã được báo cáo rằnggiao phối thành công giữa thoátnuôi và cá hồi tự nhiên làmgiảm thể lực và năng suất(McGinnity et al., 2003), làmloãng nguồn gen di truyền(McGinnity et al., 2004;Roberge et al., 2008), và đedọa sự sống còn của con cá hồicó trong tự nhiên (Hindar etal., 2006). Ngoài ra, cá hồinuôi thất thoát có thể lantruyền bệnh và ký sinh trùng,do đó làm tăng tỷ lệ tử vongcủa cá hồi có trong tự nhiên(Bjørn & Finstad, 2002; Gargan,Tully, & Poole, 2002; Krkosseket al.,2006).

If the number of escaped farmedfish is small, the effects maybe negligible; the effectsincrease in severity as thenumber of escaped farmed fishgrows. Some vulnerable nativepopulations potentially couldgo extinct with repeatedinvasions. Escaped farmed fishcan also create economicimpacts in seafood markets. Forexample, depending on theecological impact, invasivefarmed fish could change(increase or decrease) theoverall stock (native andescaped farmed) available forharvest.

Nếu số lượng cá nuôi thoát ranhỏ, các hiệu ứng có thể làkhông đáng kể; các hiệu ứngtăng ở mức độ nghiêm trọng khisố lượng cá nuôi thoát tăng.Một số quần thể tự nhiên có khảnăng dễ bị tổn thương có thể bịtuyệt chủng với cuộc xâm lượclặp đi lặp lại. Cá nuôi thoátra cũng có thể tạo ra những tácđộng kinh tế tại các thị trườnghải sản. Ví dụ, tùy thuộc vàocác tác động sinh thái, cá nuôixâm lấn có thể thay đổi (tănghoặc giảm) trữ lượng tổng thể(tự nhiên và cá nuôi thấtthoát) có sẵn cho khai thác.

In this article, we develop ageneral bioeconomic model tocapture both the ecological andeconomic effects of invasivefarmed fish on native stocksand harvests. The frameworkdiscussed here is transferableto other situations whereescaped fish mix with theirnative counterparts, or wherean ecosystem, for any reason,faces a yearly influx ofinvasive fish. The increasingaquaculture productionworldwide of both salmon andother species such as cod andhalibut highlights theimportance of this issue.

Trong bài viết này, chúng tôiphát triển một mô hình kinh tếsinh học nói chung để nắm bắtcả những tác động sinh thái vàkinh tế của cá nuôi xâm lấn trữlượng có trong tự nhiên và thuhoạch. Khuôn khổ thảo luận ởđây là chuyển giao cho các tìnhhuống khác, nơi cá thoát kếthợp với các con cá ngoài tựnhiên , hoặc nơi một hệ sinhthái, vì lý do gì, phải đối mặtvới một dòng chảy hàng năm củacá xâm lấn. Việc tăng sản lượngnuôi trồng thủy sản trên toànthế giới của cả cá hồi và cácloài khác như cá tuyết và cábơn nhấn mạnh tầm quan trọngcủa vấn đề này.

The article is organized asfollows. A review of theliterature on the economics ofinvasive species with anemphasis on aquatic speciesinvasions is presented. Wederive the mechanisms ofecological and economic impactsof invasive farmed fish onnative fish. We first introducean ecological model of aninvasive farmed fish. Next, theflow of service costs andbenefits are taken intoaccount. We analyze the unifiedplanning solution inequilibrium and apply theframework to Atlantic salmon inNorway to illustrate theecological and economic effectsof escaped farmed salmon onnative salmon stocks andfisheries under differentscenarios, which concludes thearticle.

Bài viết này được tổ chức nhưsau. Một nghiên cứu tài liệu vềkinh tế của các loài xâm lấn (ýlà cá ở nơi khác đến) với mộtsự nhấn mạnh về cuộc xâm lượccủa các loài thủy sản đượctrình bày/giới thiệu. Chúng tôilấy được các cơ chế tác độngsinh thái và kinh tế của cánuôi xâm lấn vào cá trong tựnhiên. Chúng tôi giới thiệu lầnđầu tiên một mô hình sinh tháicủa một loài cá nuôi xâm lấn.Tiếp theo đó là chi phí dịch vụvà lợi ích. Chúng tôi phân tíchcác giải pháp quy hoạch thốngnhất trong trạng thái cân bằngvà áp dụng các khuôn khổ cho cáhồi Đại Tây Dương ở Na Uy đểminh họa cho các tác động sinhthái và kinh tế của cá hồi nuôithoát trên nguồn (stock ko dịchlà cổ phiểu được) cá hồi tựnhiên và thủy sản theo các kịchbản khác nhau mà kết luận bàiviết.

LITERATURE REVIEW

The economic analysis of aninvasion includes estimatingthe actual or potential damagecosts resulting from aninvasion and the costsassociated with managementmeasures such as prevention,control, and mitigation(Hoagland & Jin, 2006). Theeconomics of pest managementand disease control have beenextensively studied inagriculture, forestry, and

fisheries, but less attentionhas been directed to measuringthe costs associated withinvasions (Perrings,Williamson, & Dalmazzone,2000). This limitation is dueto a lack of data as well asuncertainties and measurementproblems. However, there is anextensive literature onmultiple species interactions,such as predator-prey andbiological competition. For

instance, Hannesson (1983) hasexplored the optimal harvestingof a two-species predator-preysystem, Flaaten (1991) hasinvestigated the sustainableharvesting of two competingspecies, and Strobele andWacker (1991) have explored theoptimal harvesting of twospecies under various types ofinteractions. A recent detailedreview of integratedecological-economic models canbe found in Tschirhart (2009).

Phân tích kinh tế của một cuộcxâm lược bao gồm ước tính chiphí thiệt hại thực tế hoặc tiềmnăng do một cuộc xâm lược vàcác chi phí liên quan đến cácbiện pháp quản lý như phòngchống, kiểm soát, và giảm nhẹ(Hoagland & Jin, 2006). Tínhkinh tế của quản lý dịch hại vàkiểm soát dịch bệnh đã đượcnghiên cứu rộng rãi trong nông

nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,nhưng ít chú ý đã được chỉ thịphải đo các chi phí liên quanvới cuộc xâm lược (Perrings,Williamson, & Dalmazzone,2000). Hạn chế này là do thiếucác dữ liệu cũng như không chắcchắn và các vấn đề đo lường.Tuy nhiên, có một tổng quát vềtương tác nhiều loài như độngvật ăn thịt con mồi và sự cạnhtranh sinh học. Ví dụ,Hannesson (1983) đã khám phánhững thu hoạch tối ưu của mộthệ thống động vật ăn thịt conmồi hai loài, Flaaten (1991) đãđiều tra việc thu hoạch bềnvững của hai loài cạnh tranh,và Strobele và Wacker (1991) đãkhai thác thu hoạch tối ưu củahai loài thuộc nhiều loại hìnhtương tác. Một đánh giá chitiết gần đây tích hợp mô hìnhkinh tế sinh thái có thể đượctìm thấy trong Tschirhart(2009).

A general conceptual bioeconomicmodel of the economic impacts ofan invasion has been developed byKnowler and Barbier (2000) andBarbier (2001). These authorsspecify two principles thatshould be followed. First, theexact interaction between theinvader and the native speciesshould be examined, and, second,the correct measure of theeconomic impacts is to comparetheex post andex ante economicvalues (i.e.,profits) of invasionscenarios. The first principle isthe essential step. Theirconceptual model includes bothdiffusion and interspeciescompetition. The authors considera situation in which the invaderis a pest without commercialvalue and the native fish iscommercially harvested.

Một mô hình kinh tế sinh học kháiniệm chung về các tác động kinhtế của một cuộc xâm lược đã đượcphát triển bởi Knowler và Barbier(2000) và Barbier (2001). Các tácgiả này xác định hai nguyên tắccần được theo sau. Đầu tiên, sựtương tác chính xác giữa các kẻxâm lược và các loài bản địa phảiđược kiểm tra, và, thứ hai, cácbiện pháp đúng đắn về tác độngkinh tế là để so sánh theex bàiAndex ante giá trị kinh tế (vídụ, lợi nhuận) của kịch bản cuộcxâm lược. Nguyên tắc đầu tiên làcác bước cần thiết. Mô hình kháiniệm của họ bao gồm cả việctruyền bá và giữa các loài cạnhtranh. Các tác giả xem xét mộttình huống trong đó những kẻ xâmlược là một loại dịch hại màkhông có giá trị thương mại vàcác cá trong tự nhiên được thuhoạch thương mại.

Knowler and Barbier (2000)illustrate a special case byfocusing only on interspeciescompetition. They model thepredator-prey relationshipbetween a native anchovyspecies and an invading comb-jellyfish in the Black Sea. Theanchovy is the prey for thecomb-jelly fish, whose invasionleads to a decline in theproductivity of anchovy. Thestudy concludes that theintroduction of a comb-jellyfish is destructive to the

local fishing communitiesdependent on the anchovyfishery for sustaining theirlivelihoods.

Knowler và Barbier (2000) minhhọa một trường hợp đặc biệtbằng cách chỉ tập trung vào cácloài cạnh tranh. Họ mô hình hóamối quan hệ động vật ăn thịt -con mồi giữa một loài cá cơm tựnhiên và xâm lược sứa ở BiểnĐen. Các cá cơm là con mồi chosứa, mà cuộc xâm lược dẫn đếnmột sự suy giảm trong sản lượngcá cơm. Nghiên cứu kết luận

rằng sự ra đời của một sứa làphá hoại đến các cộng đồng ngưdân địa phương phụ thuộc vào

nghề cá đánh bắt cá cơm để duytrì cuộc sống của họ.

Knowler, Barbier and Strand(2002) and Knowler and Barbier(2005) apply the predator-preymodel to examine theinteractions among nutrientenrichment, invasive comb-jellyfish, and native anchovy in theBlack Sea under differentmanagement strategies. Theanchovy benefits from thenutrient abatement, and suffersfrom competition and predationby combjellyfish. They showthat the outbreak of comb-jellyfish resulting fromnutrient enrichment can dilutethe benefits raised bypollution abatement.

Knowler, Barbier và Strand(2002) và Knowler và Barbier(2005) áp dụng các mô hình hóađộng vật ăn thịt - con mồi đểkiểm tra sự tương tác giữa cácchất dinh dưỡng phong phú, sứaxâm lược, và cá cơm tự nhiên ởBiển Đen theo chiến lược quảnlý khác nhau. Những lợi ích cácơm từ sự giảm đi chất dinhdưỡng, và bị cạnh tranh và bịăn thịt bởi sứa. Chúng cho thấysự bùng nổ của sứa do việc làmgiàu chất dinh dưỡng có thể làmgiảm bớt những lợi ích giúpngăn chặn ô nhiễm.

Similarly, Settle and Shogren(2002) examine the introductionof exotic lake trout intoYellowstone Lake based onpredator-prey relationshipsamong lake trout, cutthroattrout, bears, birds, and humanbeings. The authors find thatif the invasive lake trout isuncontrolled, the nativecutthroat trout populationwould dramatically decline,even go extinct, which furtheraffects the grizzly bearpopulation. The bioeconomicmodels in these studies arefounded on predator-preyrelationships between invasiveand native fish.

Tương tự như vậy, Settle vàShogren (2002) xem xét việcgiới thiệu hồ ngoại lai cá hồivào hồ Yellowstone dựa trên mốiquan hệ động vật ăn thịt - conmồi trong hồ cá hồi, tên của 1giống cá hồi, gấu, chim, và conngười. Các tác giả thấy rằngnếu các hồ cá hồi xâm lấn làkhông kiểm soát được, các cáhồi cutthroat trong tự nhiên sẽgiảm đáng kể, thậm chí tuyệtchủng, ảnh hưởng tới số lượnggấu xám Bắc Mỹ. Các mô hìnhkinh tế sinh học trong cácnghiên cứu được thành lập dựatrên các mối quan hệ động vậtăn thịt - con mồi giữa cá xâmlấn và tự nhiên.

Viewed as a form of biological pollution,an invasion generates externalities oneconomic activities such as commercialand recreational fishing. For example,McConnell and Strand (1989) analyze thesocial returns to commercial fisherieswhen water quality influences the demandand supply of commercial fish productsunder both open access and efficientallocation.

Được xem như một hình thức ô nhiễmsinh học, tạo ra một cuộc xâm lược ngoạiứng vào các hoạt động kinh tế như cáthương mại và giải trí. Ví dụ, McConnell vàStrand (1989) phân tích lợi xã hội bắt cáthương mại khi chất lượng nước ảnhhưởng đến nhu cầu và cung ứng sảnphẩm cá thương mại theo cả truy cập mởvà phân phối hiệu quả.

They show theoretically thatwater quality affects fishgrowth through reproduction andcarrying capacity and affectstotal fishing costs throughchanges in fish stocks.Following this framework,Kataria (2007) applies a cost-

benefit analysis to examine theintroduction of signal crayfishto a fresh watercourse wherenative noble crayfish resides.The analysis suggests that theintroduction of signal crayfishcan generate positive netbenefits if the two species

have different populationgrowth parameters. With similargrowth parameters, on the otherhand, the author shows that theintroduction of signal crayfishwould wipe out native noblecrayfish because the twospecies cannot coexist.

Họ cho thấy lý thuyết rằng chấtlượng nước ảnh hưởng đến sựtăng trưởng cá thông qua sinhsản và năng lực thực hiện vàảnh hưởng đến tổng chi phí cáqua những thay đổi trong nguồncá. Theo khuôn khổ này, Kataria

(2007) áp dụng một phân tíchchi phí-lợi ích để xem xét việcgiới thiệu các tôm càng đến mộtnguồn nước ngọt tự nhiên nơi cưtrú của tôm càng noble. Cácphân tích cho rằng sự ra đờicủa tôm càng signal có thể tạora lợi ích ròng dương nếu hailoài có các thông số tăngtrưởng dân số khác nhau. Vớicác thông số tăng trưởng tươngtự, mặt khác, các tác giả chothấy rằng sự ra đời của tômsignal sẽ quét sạch tôm càngnoble tự nhiên vì hai loài nàykhông thể cùng tồn tại.

In the case of fisheries andaquaculture, however, theliterature dealing with theeconomic impacts of farmed fishon native fish is quitelimited. Earlier work byAnderson (1985a, 1985b)addressed the interactionbetween native capture andranched salmon in terms ofcommon property problems andcompetitive markets. Recentwork by Olaussen and Skonhoft(2008a) studies the economicimpacts of escaped farmedAtlantic salmon on arecreational salmon fishery.

Trong trường hợp của ngư nghiệpvà nuôi trồng thủy sản, tuynhiên, các tài liệu đối phó vớicác tác động kinh tế của cánuôi vào cá trong tự nhiên làkhá hạn chế. Trước đó công việccủa Anderson (1985a, 1985b)giải quyết sự tương tác giữakhai thác bản địa và ranched cáhồi về vấn đề tài sản chung vàthị trường cạnh tranh. Nghiêncứu gần đây bởi Olaussen vàSkonhoft (2008) nghiên cứu cáctác động kinh tế của nuôi cáhồi Đại Tây Dương đã trốn thoáttrên một ngư cá hồi giải trí.

Expanding the models by Knowlerand Barbier (2000) andMcConnell and Strand (1989),they incorporate bothecological and economic effectsand specify four generalmechanisms that may affecteconomically valuable species(i.e., salmon) when exposed tobiological invasions, namely,ecological level, ecologicalgrowth, economic quantity,andeconomic quality.Ecologically, escaped farmedsalmon impose negative impactson the growth but lead topositive impacts on the stockof native salmon. Economically,escaped farmed salmon lead topositive impacts on the supply(quantity) of and negative

impacts on the demand (quality)for native salmon.

Mở rộng các mô hình bởi Knowlervà Barbier (2000) và McConnellvà Strand (1989), họ kết hợphiệu ứng cả về sinh thái vàkinh tế và xác định bốn cơ chếchung mà có thể ảnh hưởng đếncác loài có giá trị kinh tế (vídụ, cá hồi) khi tiếp xúc vớicuộc xâm lăng sinh học, cụ thểlà, sinh thái mức độ, tăngtrưởng sinh thái, kinh tếlượng, chất lượng và kinh tế.Về mặt sinh thái, cá hồi nuôithoát áp đặt ảnh hưởng tiêu cựcđến tăng trưởng nhưng dẫn đếnnhững tác động tích cực trên sốlượng của cá hồi tự nhiên. Vềkinh tế, cá hồi nuôi thoát dẫnđến những tác động tích cực đốivới việc cung cấp (số lượng)

của các tác động tiêu cực đến nhu cầu (chất lượng) cho cá hồitự nhiên.

Other studies have explored theeconomic impacts of aquacultureon native fish species ingeneral. For example, Hoagland,Jin, and Kite-Powell (2003)analyze the effects ofaquaculture on native fishspecies through fish habitatand supply in the productmarket. They assume thecarrying capacity of a fishstock is a downward slopinglinear function of the areadevoted to aquaculture, and thefarmed product competes in thesame market as native fishproducts. The results suggestthat the commercial fish stockdeclines because more space isdevoted to aquaculture. Underan open-access fishery, it iseconomically efficient foraquaculture to displace thefishery completely. An oceanarea could be allocatedexclusively for eitheraquaculture or fisheries at aneconomic optimum whenaquaculture exerts asignificant negative impact onthe fishery.

Các nghiên cứu khác đã khám phácác tác động kinh tế của nuôitrồng thủy sản vào các loài cátrong tự nhiên nói chung. Vídụ, Hoagland, Jin, và Kite-Powell (2003) phân tích nhữngtác động của nuôi trồng thủysản vào các loài cá trong tựnhiên thông qua môi trường sốngvà nguồn cung trong thị trườngsản phẩm. Họ giả định năng lựcthực hiện của một chứng khoáncá là một hàm tuyến tính dốcxuống của các khu vực dành chonuôi trồng thủy sản và các sảnphẩm nuôi cạnh tranh trong thịtrường tương tự như các sảnphẩm cá trong tự nhiên. Kết quảcho thấy các cổ phiếu cá thươngphẩm giảm vì nhiều không gianđược dành cho nuôi trồng thủysản. Theo một ngư truy cập mở,đó là hiệu quả kinh tế cho nuôitrồng thủy sản để thay thủyhoàn toàn. Một khu vực biển cóthể được giao độc quyền cho mộttrong hai nuôi trồng thủy sảnhoặc đánh bắt ở một tối ưu vềkinh tế khi nuôi trồng thủy sảntạo nên một tác động tiêu cựcđáng kể đối với nghề cá.

The ecological-economic modelwe develop here differs fromprevious studies in severalways. First, we explicitlymodel the effects of aninvasive fish species on thegrowth and stock size of a

native fish species using alogistic growth model. Weassume that both the growth andstock effects on the nativefish are negative, and we treatnative and farmed fish speciesas separate stocks with

separate growth functions. Thisapproach is in contrast to thatof Olaussen and Skonhoft(2008a), who regard farmedsalmon as a single exogenousflow into the system. Given oursimplified biological model, wedo not capture explicitlygenetic interactions betweennative and escaped fish.Second, in contrast to Knowler,Barbier, and Strand (2002) andKnowler and Barbier (2005), weconsider the escaped farmedfish as a potentiallycommercially valuable species.

Các mô hình kinh tế-sinh thái,chúng tôi phát triển ở đây khácvới các nghiên cứu trước đótrong một số cách. Đầu tiên,chúng tôi rõ ràng mô hình hiệuquả của một loài cá xâm phạmđến sự tăng trưởng và cổ kíchthước của một loài cá tự nhiên

bằng cách sử dụng một mô hìnhtăng trưởng logistic. Chúng tôigiả định rằng cả hai tăngtrưởng và cổ phiếu tác độngtrên các loài cá bản địa cótính tiêu cực, và chúng tôi đốixử với các loài cá bản địa vànuôi như cổ phiếu riêng biệtvới chức năng tăng trưởng riêngbiệt. Cách tiếp cận này là tráingược với các Olaussen vàSkonhoft (2008a), người nuôi cáhồi coi như một dòng chảy ngoạisinh duy nhất vào hệ thống. Vớimô hình sinh học đơn giản củachúng tôi, chúng tôi không nắmbắt được một cách rõ ràng sựtương tác giữa gen cá tự nhiênvà trốn thoát. Thứ hai, tráingược với Knowler, Barbier, vàStrand (2002) và Knowler vàBarbier (2005), chúng tôi chorằng con cá nuôi thoát như mộtloài có khả năng thương mại cógiá trị.

.

Additionally, farmed fishcoexist with native fish,unlike the crayfish case inwhich the native fish aredisplaced (Kataria, 2007). Anonselective harvestingstrategy is applied to bothescaped and native fish. Third,instead of using cultured areaor aquaculture production asdependent variable to alter thecarrying capacity (Hoagland et

al., 2003), we hold thecarrying capacity unchanged,and we use the biomass ofescaped farmed fish as adeterministicvariable totranslate the ecological risksand effects into growth andstock variables for a nativestock. Fourth, we assume thatthe growth of the invasive fishdepends upon both own andnative fish biomass.

Ngoài ra, nuôi cá cùng tồn tạivới các cá trong tự nhiên,không giống như các trường hợptôm càng mà cá trong tự nhiênđược dời (Kataria, 2007). Mộtchiến lược thu hoạch không chọnlọc được áp dụng cho cả hai cátrốn thoát và cá trong tựnhiên. Thứ ba, thay vì sử dụngdiện tích nuôi, sản xuất nuôitrồng thủy sản biến như phụthuộc vào thay đổi năng lựcthực hiện (Hoagland et al.,

2003), chúng ta giữ được nănglực thực hiện không thay đổi,và chúng tôi sử dụng sinh khốithoát cá nuôi như là một biếnxác định để dịch rủi ro sinhthái và tác động vào sự tăngtrưởng và cổ phiếu biến cho mộtchứng khoán gốc. Thứ tư, chúngta giả định rằng sự tăng trưởngcủa cá xâm hại phụ thuộc vào cảcủa riêng và lượng cá trong tựnhiên

KIỂU SINH HỌC BIOLOGICAL MODELTrong sự vắng mặt của một cá xâm lấn, sự phát triển tựnhiên của một loài cá bản địa dân số x, đo trong sinhkhối, hoặc số lượng cá, tại thời điểm t, (thời gian bảnthảo được bỏ qua) được cho bởi F (X). Các chức năng có thểphát triển tự nhiên thường là một hàm giá trị một đỉnh vàđược quy định như tiêu chuẩn logistic một:

F(x)= rX(1 - XKx) (1)

trong đó r là tỷ lệ tăng trưởng nội tại và KX là năng lựcthực hiện của một môi trường sống cụ thể, hoặc kích thướccân bằng tự nhiên của dân số. Sự tăng trưởng này mô hìnhcho thấy sự tăng trưởng dân số phụ thuộc vào quy mô dânsố, hoặc mật độ, đưa ra một môi trường sống cụ thể, và vềcơ bản kết hợp hai sinh thái các quá trình: sinh sản vàcạnh tranh. Các r tốc độ tăng trưởng nội tại đại diện sinhsản, hoặc khả năng sinh sản, trong khi quy mô dân số mỗinăng lực thực hiện X = KX đại diện cho cuộc thi kể từmang năng lực thể được hiểu là số lượng tối đa của cá môitrường sống có thể hỗ trợ.

Như đã trình bày, khi được thành lập trong môi trường tựnhiên, thoát cá nuôi trở thành một phần của hệ sinh thái

và tương tác với cá bản địa. Do đó, kết hợp với các loạicá nuôi thoát, sự tăng trưởng thay đổi chức năng để F (X,Y), trong đó Y là kích thước cổ phiếu của sự trốn thoátnuôi cá, hoặc một chứng khoán cá xâm hại nói chung, cũngđược đo bằng số lượng cá (hoặc trong sinh khối). Thôngthường, một phương tiện thoát khỏi chứng khoán cá nuôilớn hơn tăng tự nhiên thấp và năng suất trong các cư dân

bản địa, trong từ khác, ∂F(X,Y)∂Y = FY <0

Tác dụng tăng trưởng âm này có thể làm việc thông qua cáckênh khác nhau. Căn cứ vào chức năng tăng trưởng logistic,chúng ta xem xét hai hiệu ứng được thể hiện qua tốc độtăng trưởng nội tại và thông qua năng lực thực hiện. Đầutiên, chúng ta xem xét các tác động chứng khoán nơi cácmô hình cạnh tranh giữa các loài Lotka-Volterra cổ điểnđược sửa đổi và làm việc. Mô hình này sẽ đưa vào tài khoảncác tác động của cạnh tranh trong một loài giữa hai loạicá, tức là, bản địa và thoát cá nuôi. Ở đây sự cạnh tranhcủa một cá nuôi thoát hiểm với cá bản địa được thêm vàomô hình tăng trưởng logistic của cá bản địa bởi các hạnBằng., với b là hệ số cạnh tranh. Nguyên tắc tương tự cũngđược áp dụng đối với các tác động cạnh tranh của các loàicá bản địa trên cá nuôi thoát, xem phương trình (4).

Phù hợp với các mô hình cạnh tranh giữa các loài Lotka-Volterra, mô hình tăng trưởng dân số của chúng tôi thườngcho phép khả năng chịu đựng khác nhau đối với các loại cákhác nhau. Lý do cho việc sử dụng năng lực thực hiện khácnhau cho hai quần thể cá là chúng ta xem xét các tìnhhuống mà các cá nuôi thoát là khá giống với các bản địa,nhưng mà nó có thể, hoặc có thể không, làm cho việc sửdụng của môi trường sống cùng. Do đó, trong trường hợp đặcbiệt, nếu dân nuôi thoát là rất tương tự (ví dụ, khithuần thoát cá và cạnh tranh với congeners gốc của nó) vàsử dụng các môi trường sống chính xác giống như các cư

dân bản địa, năng lực thực hiện sẽ là giống hệt nhau. Sửađổi phương trình (1), sau đó chúng tôi có được:

F(X,Y)= r−¿ ¿X(1- X+βYKx ) (2)

Khi 0<β≤1, tác dụng của các loại cá nuôi thoát trên cổ cónguồn gốc là ít hơn so với các tác động của chứng khoángốc vào bản thân. Mặt khác, khi β>1, tác dụng của các loạicá nuôi thoát trên cổ có nguồn gốc là lớn hơn so với tácđộng của chứng khoán gốc vào bản thân. Sự tăng trưởng tựnhiên có nguồn gốc tối đa hiện nay được cho bởi ~r(KX - βY)2/4 khi kích thước cổ phiếu vào sự tăng trưởng tối đa(SMY) được giảm xuống X= XMSY= (KX - βY)2/2. Nói cách khác,cả sự tăng trưởng cao và kích thước các cổ phiếu đó manglại sự tăng trưởng cao điểm này đang giảm(xem hình 1,đường cong tối chấm)

Như đã đề cập trước đó, các sinh vật thoát có thể giaophối với các cá nhân có nguồn gốc, có tiềm năng có thể làmmất cấu trúc gen và giảm thể lực của các chứng khoán gốc.Chúng tôi vài hiệu ứng sinh sản này vào tốc độ tăngtrưởng nội tại, đề cập đến nó như là một hiệu ứng tăngtrưởng. Tốc độ tăng trưởng nội tại được định nghĩa lại như~r= ~r (X,Y) = r (1- e

γXY ), γ>0 là một tham số tỉ lệ đại diện

cho mức độ ảnh hưởng của các cá trốn thoát về cá bản địa.Công thức này cho thấy tỷ lệ tăng trưởng nội tại từ chốivới sinh khối ngày càng tăng của các cá trốn thoát mộtcách phi tuyến tính với~r= ~r (X,0)=r và ~r= ~r (X,∞)=0 moiX>0, Ngoài ra, chúng tôi có~r>0 cho tất cả 0<y<∞. Cần lưuý rằng đặc biệt là trong trường hợp trốn thoát và bảngiao hợp cá, sự giao phối có thể gây tích lũy hiệu ứng ditruyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Lấy hiệu ứng đó vào tài khoản sẽ đòi hỏi một mô hình phứctạp hơn mà rõ ràng có dòng chảy gen vào tài khoản, đó làvượt ra ngoài phạm vi của bài viết này. Tuy nhiên, mộttrong những lý do để bao gồm một sự tăng trưởng

Hình 1 Các hiệu ứng tăng trưởng và cổ phiếu của tù vượtngục về tăng trưởng trữ bản địa. Ánh sáng đường cong rắntượng trưng cho sự phát triển mà không cần bất kỳ tácdụng; đường cong rắn nặng đại diện hiệu trưởng; đường congchấm đại diện cho hiệu chứng khoán và tiêu tan cong đạidiện cho cả chứng khoán và các hiệu ứng tăng trưởng.

hiệu quả là tốc độ tăng trưởng nội tại có thể giảm do ảnhhưởng của gen chưa phù hợp cho các môi trường tự nhiên.Trong thực tế, trong các trường hợp sau cuộc xâm lược,nội tại tốc độ tăng trưởng r là giảm do các '' hoang dãlai '' cá hồi bị ảnh hưởng bởi cá trốn thoát. Mức độ laiđược xác định bằng giá trị tham số của c và số lượng cánuôi thoát. Tuy nhiên, chúng tôi giả định rằng các cá kiểugen hoang dã vẫn chiếm ưu thế này '' lai '' chứng khoán,do đó, để đơn giản, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đếnchứng khoán cá hồi này do cổ phiếu hoang dã hoặc bản địa,thậm chí nếu có sẽ luôn là độ cá tự nhiên và nuôi trongcác trường hợp sau cuộc xâm lược (trừ khi γ=0).

Bây giờ, kết hợp cả cổ phiếu và tăng trưởng tác động vàocác chức năng tăng trưởng hậu cần (1), ta được obain2

F(X,Y)= r(1- eγXY )X(1−

X+βYKy ) (3)

Hình 1 cho thấy cả hai cổ phiếu tăng trưởng và hiệu quảvào sự phát triển cá bản địa. Chú ý rằng trong khi các cổphiếu có hiệu lực thay đổi các giá trị đỉnh bên trái(đường chấm), hiệu quả tăng trưởng thay đổi nó sang bênphải (đường cong rắn đen). Trong cả hai trường hợp, tăngtrưởng tự nhiên tối đa là giảm. Độ lớn của hiệu ứng phụthuộc vào giá trị của β, γ và Y, Các β lớn hơn, γ và Y,mạnh mẽ hơn các hiệu ứng.

Cho đến nay, chúng ta đã giả định rằng cá xâm hại nóichung, và trốn thoát cá nói riêng, có tác động sinh tháitiêu cực về cá bản địa (xem chú 1). Tuy nhiên, trong mộtsố trường hợp, các hiệu ứng có thể được tích cực. Rongbiển Nhật Bản, Sargassum muticum, ví dụ, một loài rongbiển xâm lấn, có thể nâng cao tính đa dạng của địa phươngvà các chức năng hệ sinh thái. Điều này là bởi vì loài nàycó thể cung cấp một môi trường sống cho các loài khácdưới và thực phẩm đối với một số vật không xương sống vàcác loài cá bản địa (Sa'nchez, Ferna'ndez, & Arrontes,2005). Một ví dụ khác là trai ngựa vằn xâm lấn đã trộn ảnhhưởng đến môi trường và động vật bản địa. Một mặt, họ cóthể cải thiện chất lượng nước và sự phong phú của các vĩmô không xương sống trong hồ; Mặt khác, họ làm bẩn các cấutrúc dưới nước và các thiết bị (Ricciardi,2003).

Tuy nhiên, hầu hết các loài sinh vật biển được lựa chọncho nuôi trồng thủy sản nói chung có giá trị cao như cáhồi, cá chẽm, cá bơn, cá tuyết và. Những loài săn mồi hàngđầu nằm tại hoặc gần đầu của chuỗi thức ăn. Vì vậy, họhiếm khi trở thành con mồi của các loài khai thác thươngmại khác. Mặt khác, thoát cá cũng được thu hoạch, và từcác cá thoát tăng cổ phiếu có sẵn cho thu hoạch ceteristố khác không đổi, họ cũng có thể có một tác động kinh tếtích cực. Tăng cường cá hồi ở Na Uy, Canada, Nhật Bản và

Hoa Kỳ là những ví dụ tốt của ceteris tố khác không đổinày hiệu quả kinh tế tích cực (ví dụ, Anderson, 1985a).

Ngoài ra, sự tăng trưởng của cá nuôi thoát như một phầncủa hệ sinh thái phải được xem xét. Giống như cá bản địa,trốn thoát và cá được giả định là mật độ phụ thuộc. Hơnnữa, chúng tôi giả định rằng đó cũng là một hiệu ứng phảnhồi từ các loài cá bản địa về cá thoát tương tự như tácdụng của các cá trốn thoát về cá bản địa. Do đó, sự tăngtrưởng của cá trốn thoát sau một chức năng tăng trưởngtương tự như của các nước, quy định như:

G(Y,X) = S(1- eaYX )X(1−

Y+bYKy ) (4)

S là tốc độ tăng trưởng nội tại của các loài nuôi,Ky lànăng lực thực hiện, chưa a và b là tương đương với γvàβtrong các chức năng phát triển cá bản địa (phương trình(3)), đại diện cho các tham số mở rộng quy mô và cạnhtranh hệ số tương ứng. Trong cùng một cách thức như đốivới cá hoang dã trước đây thảo luận, chúng ta giả địnhrằng các kiểu gen kiểm soát nuôi cá hồi cổ phiếu này, dođó, chúng tôi sẽ đề cập đến quần thể này là trốn thoát(nuôi) cá, thậm chí nếu có những mức độ lai với mọi a> 0.

Các mô hình động chứng khoán của các nước và thoát cáđược hoàn thành khi thu hoạch và dòng cá mới thoát đượcgiới thiệu. Nếu ht và qt biểu thị sự thu hoạch của cácloài bản địa và nuôi tại thời điểm t, tương ứng, và mt làdòng hàng năm của cá vừa trốn thoát, các động chứng khoáncủa các loài cá bản địa và trốn thoát được viết như sau:

Xt+1 – Xt = F(Xt, Yt) – ht (5)

Yt+1 – Yt = F(Yt, Xt) – qt + m (6)

tương ứng3. Trong một trạng thái cân bằng sinh thái, sựtăng trưởng tự nhiên của các cổ phiếu cá bản địa phảichính xác được sự cân bằng thu hoạch của mình, trong khisự tăng trưởng tự nhiên cộng với dòng chảy của một con cá

nuôi mới trốn thoát nên bằng sự thu hoạch của cá trốnthoát. Như vậy, trong trạng thái cân bằng, chúng tôi cóF(X,Y)=h và G(Y,X) + m = q. Lưu ý rằng điều này hàm ý mộtgiả định về một dòng liên tục và liên tục của quân xâmlược theo thời gian.

CHI PHÍ VÀ LỢI ÍCH COSTS AND BENEFITSCá tự nhiên cung cấp các giá trị khác nhau, bao gồm cảgiá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp, và giá trị phi sửdụng như lựa chọn, sự tồn tại, hoặc giá trị nội tại. Ởđây, chúng ta chỉ xem xét các giá trị liên quan trực tiếpđến việc khai thác cá tự nhiên hoặc cá nuôi trốn thoát.Như vậy, trong khuôn khổ kế hoạch thống nhất của chúngtôi, mục tiêu của kế hoạch là tối đa hóa thặng dư ròngthu hoạch được cả cá tự nhiên và cá trốn thoát. Như đã chỉra, hai loại hoạt động thu hoạch được coi là: thu hoạchbằng ngư dân thương mại và thu hoạch bằng cách câu cágiải trí. Lợi ích ròng của thu hoạch thương mại được xácđịnh bởi giá trị thịt và các chi phí cá, trong khi các lợiích ròng của câu cá giải trí được xác định bằng giá củagiấy phép đánh bắt và số giấy phép đánh bắt bán ra, cùngvới các chi phí cung cấp giấy phép đánh bắt.

CÂU CÁ THƯƠNG MẠI

Các chức năng thu hoạch được giả định là các loại tiêuchuẩn Schaefer nơi ht = θEtXt và qt =φ EtXt là mùa thu hoạchcủa bản địa và thoát cá, tương ứng, với θ là (cố định) hệsố catchability cho mẹ đẻ và φ cho thoát, và Et như các nỗlực đo trong ngày cá net (ngày đánh bắt cá lần số lưới).Lưu ý rằng các thông số kỹ thuật nghĩa là họ không chọnlọc trong thu hoạch. Với hệ số catchability giống hệtnhau,θ= φ, thu hoạch sẽ chỉ khác nhau do sự phong phú khácnhau của bản địa và thoát cá, và tỷ lệ thu hoạch sẽ luônbằng với tỷ lệ cổ phiếu; đó là ht/ qt = Xt / Yt .

Với p>0 và v>0 khi giá thu hoạch của các loài cá bản địavà xâm lấn, tương ứng, cả hai giả định cố định và độc lập

với số lượng đánh bắt, và c là chi phí đơn vị nỗ lực, cũngbị coi là cố định, lợi nhuận hiện tại được định nghĩa làπt=pθEtXt + vφ EtXt – cEt (7)

Như đã chỉ ra bởi phương trình (7), cá xâm lấn có thểđược thu hoạch cho giá trị kinh tế của nó.Trong một sốtrường hợp, tuy nhiên, giá trị kinh tế này có thể đượcvắng mặt do ít ham muốn trong thị trường. Ở mức thấp, hoặcthậm chí bằng không, giá cá,v=0, cá xâm lấn là chỉ đơnthuần là một loại sâu, giống như trường hợp con sứa trongKnowler, Barbier, và Strand (2002) và Knowler và Barbier(2005). Đánh cá sau đó xảy ra chủ yếu để kiểm soát sâubệnh, nhưng nó diễn ra như một sản phẩm phụ của cá cho cábản địa vì không chọn lọc trong thu hoạch. Những trườnghợp khác nhau được phân tích sau.

RECREATIONAL FISHING CÂU CÁ GIẢI TRÍBesides commercial fishing,there may also berecreational fishing.Indeed, in some instances,the recreational fishery ismore important. This is thecase for the NorwegianAtlantic Salmon fisheryexplored further in thisarticle. Although thecommercial fishing of salmontakes place in the fjordsand inlets, salmon also isharvested in the riversduring their upstreamspawning migration in thesummer and autumn. Thefishing activity inNorwegian rivers is almostexclusively recreational innature, dominated byrecreational anglers withfishing rods. Each anglerpurchases a time-restrictedfishing permit from alandowner=river manager, whois authorized by the stateto sell fishing permits. Apermit may be issued for aslittle as a few hours or aslong as a season. The mostcommon permits are issued ona 24-h basis (Olaussen &Skonhoft, 2008b).

Bên cạnh cá thương mại,cũng có thể có câu cá giảitrí. Thật vậy, trong mộtsố trường hợp, ngư nghiệpgiải trí là quan trọnghơn. Đây là trường hợp chocác ngư hồi Đại Tây DươngNa Uy tìm hiểu thêm trongbài viết này. Mặc dù việcđánh bắt cá thương mại củacá hồi diễn ra trong cácvịnh hẹp và cửa hút gió,cá hồi cũng được thu hoạchở các con sông trong mùadi cư ngược dòng của họtrong mùa hè và mùa thu.Các hoạt động đánh bắt cáở sông Na Uy hầu như chỉlà giải trí, chủ yếu ngườicâu cá giải trí với cầncâu. Mỗi người câu cá muamột giấy phép đánh cá vớithời gian bị giới từ mộtchủ đất = quản lý sông,người được ủy quyền củanhà nước để bán giấy phépđánh bắt. Một giấy phép cóthể được cấp cho ít nhấtlà một vài giờ hoặc kéodài một mùa. Các giấy phépphổ biến nhất được banhành trên cơ sở 24-h(Olaussen & Skonhoft,2008b).

Hầu hết các sông được quản lý bởi một chủ đất duy nhất,hoặc một sự hợp tác của các chủ đất, hoạt động như mộtchính duy nhất. Sự sẵn sàng trả tiền cho một giấy phép câucá giải trí thường làm giảm số lượng các giấy phép(Anderson, 1993). Giả sử rằng giá giấy phép câu cá Nó cũngphụ thuộc vào kích thước cổ Xt hoặc Yt, một chức năng cầuđảo ngược có thể được viết như It = (Dt, Xt, Yt) và nơi Dtlà số lượng giấy phép đánh bắt, hoặc số ngày đánh bắt cáThặng dư tổng thể từ câu cá giải trí ở các con sông đượchình thành từ lợi nhuận chủ đất từ việc bán giấy phépđánh bắt cộng với thặng dư angler, định nghĩa là:

Ut = ∫0

Dt

I(ξt, Xt, Yt)dξt, - zDt (8)khi chi phí cho đơn vị cung cấp giấy phép đánh bắt đượccố định bởi z..

Mức giảm giá giấy phép trong số các giấy phép đánh bắt,ID<0. Nó được giả định tăng kích thước của các chứng khoáncó nguồn gốc, ID>0. như một cổ phiếu cá cao hơn cho thấymột chất lượng cao hơn của dòng sông (xem, ví dụ,Olaussen & Skonhoft, 2008b). Mặt khác, giá giấy phép hoặccó thể tăng hoặc giảm sự phong phú của thoát cá nuôi. Đólà ngày càng tăng, IY> 0, nếu kích thước cổ phiếu có sẵncho thu hoạch là tất cả những vấn đề; có nghĩa là, nếungười câu cá xem xét một con cá như một con cá. Điều nàycó thể là do sở thích hoặc chỉ đơn giản là những khó khăntrong việc phân biệt giữa cá nuôi thoát ra và cá tựnhiên. Mặt khác, giá giấy phép chuyển xuống với kích thướccủa các cổ phiếu nuôi trốn thoát nếu sự phong phú của cáhồi nuôi thoát giảm công dụng của các cần thủ. Trongtrường hợp này, những người câu cá đơn giản chỉ muốn thuhoạch người bản xứ thuần túy.

ẢNH HƯỞNG KINH TẾ CỦA CUỘC XÂM LƯỢC Economic Effects ofInvasionNhư trong Knowler và Barbier (2000) và Barbier (2001),ảnh hưởng thực tế của một cuộc xâm lược được xác định

bằng cách so sánh các kịch bản trước và sau cuộc xâmlược. Đó là, hiệu quả kinh tế là sự khác biệt giữa các lợiích ròng thu được từ thu hoạch cá bản địa trước và mộtngười bản xứ và một loài nuôi sau khi cuộc xâm lược. Nếu π0,t, t là giá trị hiện tại ròng trước cuộc xâm lược đánh cácho ngư thương mại, và U0, t cho câu cá giải trí, các tácđộng kinh tế xâm lấn hiện Bt cho cá thương mại và giải trícó thể được thể hiện như:

(9)

(10)EXPLOITATION

Việc quản lý các hệ thống sinh thái đang được xem xét là phântích khi lợi nhuận ròng hiện nay là tối đa bằng một kế hoạch duynhất. Chúng tôi xem xét đầu tiên thu hoạch thương mại. Các kế hoạch

sau đó nhằm mục đích tối đa hóa ∑t=0

∞(pθEtXt+vѱEtYt−cEt), nơi q=

1/1+ϑ là yếu tố giảm giá với ϑ > 0 như lãi suất chiết khấu, chịu sựbiến động dân số hạn chế (5) và (6), một hạn chế về thu hoạch, hoặcnỗ lực Et >= 0, và các điều kiện ban đầu cho chứng khoán. Lagrangiancủa vấn đề này có thể được viết như sau:

(Công thức số 11 ở đây)

nơi λt> 0 và µt là giá bóng của các loài bản địa và nuôi, tương ứng.

Các điều kiện cần thiết đầu tiên để khi Xt > 0 và Yt > 0 là:

(Công thức số 12 ở đây)

(Công thức số 13 ở đây)

(Công thức số 14 ở đây)

Điều kiện điều khiển (12) chỉ ra rằng nó là tối ưu để tăngcường lực khai thác lên đến điểm mà doanh thu biên bằng với tổng chiphí cận biên, được tạo thành bởi các chi phí nỗ lực cộng với các chiphí của các cổ phiếu giảm được đánh giá với giá bóng tối của họ. Vìvậy, nếu doanh thu cận biên nhỏ hơn tổng chi phí cận biên, câu cánên không diễn ra. Hơn nữa, giới hạn trên về mức độ nỗ lực đánh bắt,E, sẽ được thiết lập khi tỷ lệ thu hoạch đang đến gần (hoặc tươngđương) 1.

Điều kiện (13) cho rằng số lượng các loài cá bản địa nên đượcduy trì do đó giá trị của một trong nhiều cá vào lề nên cân bằng chiphí cận biên của nó trừ đi giá trị cận biên của một cá xâm lấn, cảhai đo với giá bóng của mình. Điều kiện (14) có sự giải thích tươngtự cho các cá xâm lấn. Trong giải pháp này, sự sống chung của cả hailoài đều là giả định. Nếu không, một trong những loài sẽ được địnhhướng đến tuyệt chủng.

Những điều kiện này cũng là đầy đủ nếu Lagrangian là lõm ở cácbang và các biến điều. Bởi vì Lagrangian là tuyến tính trong biếnkiểm soát, các điều kiện đầy đủ đun sôi xuống

(công thức)

cái mà thường không hài lòng đối với tài sản cho các chức năngtăng tự nhiên và các giá trị của các giá bóng (xem bên dưới). Tuynhiên, họ giữ cho chắc chắn nếu các giải pháp được tìm thấy trên cácphần lõm của các chức năng tăng trưởng tự nhiên, khi các tác độngcạnh tranh có quy mô nhỏ hoặc vừa phải như thatFXYandGXYare nhỏtrong giá trị và giá bóng là tích cực. Một phần của lý luận này chỉra rằng tổng giá trị sinh khối bị mất do sự cạnh tranh không thể là'quá lớn' (xem, ví dụ, Hannesson, 1983, cho một phân tích kinh tế,và Maynard Smith, 1974 cho một cuộc thảo luận sinh thái cơ bản).(Page 14)

Tiếp theo chúng ta thảo luận về một số tính chất của giải pháptrạng thái ổn định theo các giả định đơn giản hóa nhất định. Tuynhiên, làm thế nào để tiếp cận các trạng thái ổn định trong một cáchtối ưu là phức tạp. Sự phức tạp của việc tìm kiếm các con đường tiếpcận tối ưu trong mô hình đa chiều, mà là tuyến tính trong các biếnđiều khiển (s), được minh họa bằng các mô hình động vật ăn thịt conmồi của Mesterton- Gibbons (1996). Các tác giả cho thấy một cáchtiếp cận nhanh nhất (hoặc '' bang-bang '') cùng với một điều khiểntừ số ít không phải là tối ưu thường trong loại của hệ thống hailoài. Cùng một loại phức tạp cũng sẽ có mặt ở đây. Tuy nhiên, chúngta có thể nghi ngờ rằng vì mức độ cao của tuyến tính trong các môhình cùng với quy định phụ thuộc vào mật độ qua cả đàn cá, trạngthái ổn định ổn định tối ưu đạt được khá nhanh. Sau đó chúng tôithấy rằng điều này sẽ xảy ra khi tỷ lệ chiết khấu thấp.

Chúng tôi nhìn vào trạng thái ổn định theo giả định của sốkhông lãi suất chiết khấu, d = 0, hoặc q = 1, bởi vì các giải phápsau đó trùng với tối đa hóa các thuê bền vững (ví dụ, Clark, 1990).Các trạng thái ổn định được xác định khi Xt = X, Yt = Y, Et = E, kt= k và µt = l. Bỏ qua các mục đăng ký thời gian và viết lại (13) sản

lượng sau đó λ = (p0e + µGx) / (0E - Fx). Vì vậy, nó được nhìn thấymà k> 0 khi thu hoạch giá trị cận biên chi phối các hiệu ứng chi phícổ xâm lấn p0e + µGx > 0 theo giả định rằng các chức năng thu hoạch0Ex giao cắt với các loài cá bản địa tăng trưởng tự nhiên hàm F (.).

Hơn nữa, viết lại phương trình (14) khi d = 0 vẫn giữ như u=(vwE + λFy) / (wE - Gy). Đó là lần đầu tiên quan sát thấy rằng wE -Gy > 0 cũng phải giữ cho cùng một lý do. Sau đó chúng tôi thấy rằngµ >= 0 nếu vwE >= -λFy. Do đó, giá bóng cá trốn thoát là tích cực,cho thấy rằng nó được bán với giá thu hoạch v là '' cao '' cùng vớimột '' hiệu ứng tiêu cực 'nhỏ' vào sự tăng trưởng cá bản địa; nghĩalà, Fy là nhỏ trong giá trị. Đây là '' giá trị '' trường hợp của cátrốn thoát. Trong trường hợp ngược lại, chúng ta có một 'sâu hại',hoặc 'phiền toái' tình hình với một giá bóng tiêu cực, µ < 0.5 Bấtkể cá trốn thoát này gây hại hoặc thương mại có giá trị, nó luônluôn là tối ưu để thu hoạch thoát cá do các phi tính chất chọn lọccủa ngư.

Khi các điều kiện kiểm soát (12) với d = 0 được viết lại nhưsau (p-λ)0X + (v-µ)wY=c nó được nhìn thấy rằng p < λ đúng khi có sựchênh lệch giữa giá thị trường và giá bóng của cá xâm lấn là '' lớn''. Phương trình (13) viết như sau (p-λ)0E = - ( λFx + µGy) chỉ rarằng Fx là đúng tích cực trong một chương trình tối ưu nếu µGy là"nhỏ" về giá trị. Trong trường hợp này, đối với một số lượng tối ưucho cá xâm lấn, tối ưu kích thước cổ bản địa sẽ được đặt ở phía bêntay trái của các giá trị đỉnh của chức năng tăng trưởng tự nhiên,hoặc Xmsy ( Hình 1).

Nếu giá thu hoạch xâm lấn là 'thấp' và µ < 0 cùng với 'thấp'chi phí cá c, chúng tôi có Fx > 0 cho một số. Như minh chứng tiếptheo này là kết quả ban đầu trong mô phỏng số, ngược lại với tiêuchuẩn một loài Gordon-Schaefer mô hình thu hoạch cân bằng (Clark,1990).

Mặt khác, một '' cao '' c kết hợp với một '' thấp '' giá trịcủa các loài cá bản địa có hệ số khả năng bắt h, chúng tôi thườngkết thúc với một '' cổ có nguồn gốc tối ưu 'lớn' và một giải phápbên phải bên tay Xmsy.(Page 15)

Tiếp theo, chúng ta xem xét các ngư giải trí. Harvest vẫn đượcxác định thông qua các chức năng Schaefer h = φDtXt và q=ωDtYt nơinỗ lực được đưa ra trong số ngày đánh bắt cá, hoặc tương đương, sốgiấy phép (xem ở trên), với u và x là hệ số khả năng giải trí đánhbắt cho các loài cá bản địa và xâm lấn, tương ứng. Do đó, cũng giốngnhư trong trường hợp thương mại, với hệ số khả năng đánh bắt bằng

nhau, tức là, φ = ω, chúng ta thấy rằng tỷ lệ thu hoạch tương tự vớitỷ lệ phong phú của cá. Các chức năng Lagrangian bây giờ đọc nhưsau:

(Công thức 15)

Các điều kiện đầu tiên để có sự chung sống của cả hai loài Xt>0, Yt> 0 là :

(Công thức 16)

(Công thức 17)

(Công thức 18)

Các cách diễn giải của các điều kiện tương tự như hệ phươngtrình thương mại cá (12) - (14). Sự khác biệt quan trọng duy nhất làsự sẵn sàng chi trả cho giấy phép đánh bắt, và giá cá do đó, phụthuộc vào các cổ phiếu của các loài cá bản địa và xâm lấn và sốlượng giấy phép. Như vậy, trái ngược với các ngư thương mại, giá cảlà nội sinh trong trường hợp giải trí.

Cơ cấu chi phí cũng khác nhau như không có chi phí khai tháctrực tiếp trong trường hợp giải trí. Các chủ đất có một đơn vị chiphí cố định của việc cung cấp giấy phép, nhưng ngay cả trong sự hiệndiện của chi phí cố định này, điều kiện (16) cho thấy lợi nhuận củachủ đất nói chung là tích cực; ít nhất là khi cả hai giá shadow làtích cực. Cũng như trong các mô hình thương mại, chúng tôi có thểkết thúc với một bản địa cổ nằm về phía bên tay phải cũng như bêntrái của Xmsy.

Bằng trực giác, kết quả đầu tiên có thể xảy ra khi hiệu ứnggiá trị cổ phiếu nhu cầu bản địa là rất đáng kể trong khi thứ hai cóthể xảy ra nếu, ví dụ, hệ số catchability là cao hay sự sẵn sàng trảtiền cho giấy phép là cao. (Page 16)

Trong một trạng thái ổn định, điều kiện đầu tiên để (16) -(18) cùng với các điều kiện cân bằng F(X,Y) = φDX và G(Y,X) + m =ωDY mang năm phương trình xác định kích thước của hai cổ phiếu cá,nỗ lực, và shadow price. Ngoài ra, các trạng thái cân bằng thu hoạchcá bản địa sau khi h = φDX = F(X, Y) và thu hoạch xâm lấn như q =ωDX = G(X,Y) + m.

Kết hợp hai điều kiện sản lượng cân bằng F(X,Y)

G (X,Y )+m=φX /ωY .Do

đó, tác động của dòng chảy hàng năm của cá thoát m trên phong phú

của cá được chuyển trực tiếp thông qua các điều kiện cân bằng hỗnhợp này.

Sự khác biệt hiện nay sản lượng ( 1φX

¿Fx- FX) -

φXωY

Gx¿dX−( 1ωY ){[Gy−G+mY ]−(φXωY )Fy }dY=( 1ωY )dm.Giả sử bây giờ mà F (X,Y)

là lõm trong X tại như tối ưu mà (Fx- FX) < 0, và các chức năng cổ

xâm lấn là lõm trong Y cũng ¿ )< 0. Vì vậy, nếu kích thước tối ưucủa trốn việc tăng lượng cá với một dòng chảy cao hơn, chúng ta thấyrằng các cổ bản địa cũng có thể tăng khi hiệu ứng sinh thái tiêu cựctừ bỏ trốn vào chứng khoán có nguồn gốc Fy là '' nhỏ '' giá trị.

Mặt khác, kích thước cổ bản địa sẽ không đáng ngạc nhiên, trởnên thấp hơn trong trạng thái cân bằng mới với một dòng chảy cao hơnnếu tác động sinh thái này là '' lớn '' trong giá trị và hiệu quảsinh thái tiêu cực từ các nguồn gốc các chứng khoán xâm lấn Gx là ''nhỏ '' giá trị. Nhớ lại rằng kích thước của các tác động sinh tháilà ngũ khi một hiệu trưởng và một hiệu chứng khoán, và từng bị ảnhhưởng bởi hai thông số riêng biệt trong hình thức chức năng cụ thể.Chúng tôi chứng minh rằng các thông số này, và do đó độ lớn của nămtài chính, có hiệu ứng mạnh mẽ về kinh tế của ngư này.

Một quản lý nghề cá thương mại và giải trí kết hợp cũng có thểlà một lựa chọn. Lợi ích ròng hiện tại giá trị của cả thủy sản cùng

(πt + Ut) = (pθXt + vѱEtYt – cEt) + [∫0

Dt

I (ϑt,Xt,Yt )dϑt−zDt] sau đó

tối đa hóa chịu sự ràng buộc sinh thái. Việc kiểm soát thứ tự đầutiên điều kiện của vấn đề này là :

(Công thức 19)

(Công thức 20)

trong khi điều kiện chứng khoán ∂L∂Xt

=0và ∂L∂Yt

=0 chỉ cần thêm lên từ

hai tình huống sau thu hoạch riêng rẽ. (Page 17)

Nếu sẵn sàng chi trả cho câu cá giải trí là "cao" so với giácá thị trường thương mại, chúng tôi thường kết thúc với một giảipháp góc với chỉ câu cá giải trí. Đó là, điều kiện (20) đúng là mộtphương trình trong khi phương trình (19) đúng là một sự bất bìnhđẳng do các định lý Kuhn-Tucker. Phân tích này của một ngư kết hợpngầm ngụ ý rằng câu cá giải trí và thương mại diễn ra cùng một lúc.

Trong thực tế, tuy nhiên, có thể có cá tuần tự (x, ngành thủy sản cáhồi Đại Tây Dương Na Uy tiếp tục xem xét trong các cuộc thảo luận).

Một đề án như vậy phức tạp việc phân tích thêm, như những hạnchế sinh học phải được điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài ra, kể từ khiđánh bắt cá hồi thương mại ở Na Uy là subsistent trong tự nhiên, vàcác giá trị kinh tế từ vụ thu hoạch thương mại hầu như không đáng kểso với giá trị từ câu cá giải trí, chúng tôi thường kết thúc với mộtgiải pháp liên quan đến câu cá giải trí góc chỉ. Do đó, các mô hìnhthu hoạch liên tục dường như không cần thiết trong trường hợp cụ thểnày. Hơn nữa, các mô hình chúng ta xây dựng ở đây là chung chung,theo nghĩa là họ có thể được áp dụng đối với các trường hợp khác,không chỉ cá hồi. Vì vậy, một số thủy sản có thể cho thu hoạchthương mại (thường là thủy sản biển) chỉ và một số có thể được chocâu cá giải trí (một số thủy sản nước ngọt) chỉ. Một ngư tuần tựkhông theo đuổi thêm trong bài viết này (nhưng xem Olaussen &Skonhoft, 2008a).

AN EMPIRICAL APPLICATION TO SALMON

Data and Specific Functional Forms DỮ LIỆU VÀ HÌNH THỨC CHỨC NĂNG CỤTHỂ

Các khuôn khổ phương pháp thảo luận trước đó sẽ được minh họatheo kinh nghiệm sử dụng các trường hợp cá hồi Đại Tây Dương (Salmosalar) cho một dòng sông cá hồi Na Uy điển hình. Cá hồi Đại TâyDương đã trở thành một trong những loài nuôi thành công nhất, vànuôi trồng thủy sản cá hồi là một trong những ngành sản xuất thựcphẩm phát triển nhanh nhất trên thế giới. Chỉ trong vòng hơn ba thậpniên 1970-2008, sản lượng cá hồi nuôi tăng từ 500 đến hơn 1,5 triệutấn (Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc [FAO], 2010). Nuôi trồngcá hồi đã vượt quá sản xuất bản địa trên toàn thế giới kể từ năm1998.

Ngược lại, cổ phiếu cá hồi bản địa đã giảm ở hầu hết các khuvực, đặc biệt là ở Bắc Đại Tây Dương. Một số người cho rằng nuôitrồng thủy sản cá hồi đã góp phần vào sự suy giảm này vì nó sẽ gâyra một sự giảm trong sự tồn tại của cá hồi có nguồn gốc (ví dụ, Ford& Myers, 2008), sự lây lan của dịch bệnh và ký sinh trùng (Bjørn &Finstad, 2002; Gargan, Tully, & Poole năm 2002;.. Krkosek et al,2006), và giao phối (ví dụ, Naylor et al, 2005;. Hindar et al,2006). Na Uy đã được sản xuất cá hồi nuôi số một của thế giới kể từkhi nó bắt đầu. Hôm nay, cá hồi thoát khỏi là một trong những tháchthức nghiêm trọng nhất đối với các ngành công nghiệp nuôi trồng thủy

sản cá hồi và cá hồi cổ phiếu riêng (ví dụ, Esmark, Stensland, &Lilleeng, 2005). (Page 18)

Cá hồi Đại Tây Dương là một con cá bơi ngược sông với một chukỳ sống phức tạp. Sinh sản và phát triển thanh thiếu niên diễn ra ởnước ngọt, và nó ăn và phát triển trên biển trước khi trở về consông sinh của mình để đẻ trứng. Cá hồi có nguồn gốc thường được thuhoạch bằng hai lĩnh vực: đánh bắt cá và câu cá giải trí. Ngư dânthương mại thu hoạch cá hồi trong các vịnh hẹp và cửa hút gió như cáhồi di cư xuống đất đẻ trứng của họ, và câu cá giải trí nhắm mụctiêu cá hồi trên sông. Thu hoạch thương mại được thực hiện cho giátrị thịt trong khi câu cá giải trí được tiến hành bởi các cá nhâncho thể thao và giải trí với khả năng tiêu dùng cá nhân. Thoát cáhồi nuôi trong vịnh hẹp và các con sông cũng đang đánh bắt của ngưdân thương mại và câu cá giải trí.

Các chức năng cầu đảo ngược trong nghề giải trí được quy địnhnhư: I(D,X,Y) = α + n [1−e−k (φX+ωY ) ]−ΦD. Ở đây α > 0 và Φ > 0 là chokevà độ dốc thông số tiêu chuẩn tương ứng, và n >0 và k > 0 mô tả cáchkích thước của cá kho, hoặc chất lượng sông, chuyển thành nhu cầu,và trong đó j chỉ ra sức mạnh của việc thay đổi hiệu ứng nhu cầu cổphiếu này. Các hiệu ứng nhu cầu cổ phiếu được tính xấp xỉ bằng tổngsố đánh bắt trên một nỗ lực đơn vị (hoặc tỷ lệ catch), i.eh+qD

=(φDX+ωDY)

D=φX+ωY, và ở đâu chúng tôi giả định các hiệu ứng

chất lượng như nhau của cả hai bản địa và thoát cá hồi. Đặc điểm kỹthuật theo yêu cầu này hàm ý rằng khi phong phú của cá là nhỏ giásặc giấy phép tiếp cận α, và khi sự phong phú cá cao phương pháptiếp cận của mình giá trị tối đa (α + n).

Các giá trị cơ bản cho các thông số về sinh thái và kinh tếđược thể hiện trên một con sông Na Uy điển hình trong Bảng 1. Một sốcác giá trị tham số được theo kích thước dựa vào đánh bắt cá chungvà thực hành nông nghiệp tại Na Uy. Những giá trị này có thể thayđổi mức độ nào đó phụ thuộc vào điều kiện thực tế và môi trường, vàdo đó phân tích độ nhạy được trình bày cho các thông số quan trọngnhất. Cũng cần phải lưu ý rằng các tác động sinh thái của đồng bàovượt trên cá hồi có nguồn gốc được giả định là giống như những tácđộng của gốc vào hồi thoát, do đó, r = a và β = b.

Hệ số khả năng đánh bắt cá hồi tự nhiên và nuôi được giả địnhlà giống hệt nhau vì không có bằng chứng cho thấy chúng là khácnhau, do đó θ = ѱ và φ = ω. Khả năng chịu đựng của X và Y cũng đượccho là tương tự, Kx = Ky = K và tốc độ tăng trưởng nội tại của cá hồi

tự nhiên và cá nuôi là khác nhau. Thử nghiệm và lĩnh vực nghiên cứusử học mà nuôi và cá hồi lai là cạnh tranh và sinh sản kém, dẫn đếntỷ lệ sống thấp hơn và sinh sản thành công hơn so với cá tự nhiên,tức là, r > s (Fleming et al, 1996, 2000;.. McGinnity et al, 2003,2004). Các dòng chảy hàng năm của cá hồi nuôi thoát là có liên quantrực tiếp đến kích thước của sản xuất nông nghiệp trong net-bút,thực tiễn quản lý trang trại, và điều kiện tự nhiên, chẳng hạn nhưtần suất của các cơn bão và vv.. (Page 19).

(TABLE 1 ở đây)

Vì những lý do khác, những thay đổi m từ năm này sang năm khác(xem Olaussen & Skonhoft, 2008a, bằng chứng). Trong phân tích củachúng tôi, m giả định không đổi và do đó có thể được giải thích làmức trung bình trong khoảng thời gian năm. Giá trị ban đầu của nóđược đặt tại m = 400 cá. Ngoài ra, giá cơ sở cho việc nuôi và bảnđịa được giả định là bằng nhau, p = v mặc dù cá hồi có nguồn gốc cóthể chỉ huy một mức giá cao hơn so với cá hồi nuôi trốn thoát nếughi nhãn phù hợp và mọi người đều nắm rõ. Chúng tôi giả định khôngtỷ lệ chiết khấu trong kịch bản đường cơ sở. Như đã thảo luận, điềunày có nghĩa là trạng thái ổn định trong những vấn đề tối ưu hóanăng động trùng với các vấn đề tối đa hóa lợi ích hiện tại trongtrạng thái cân bằng sinh học. Điều này cho phép một giải thích kinhtế đơn giản hơn các kết quả kinh tế của chúng tôi. (Page 20)

RESULT

Đầu tiên chúng ta cần trình bày những kết quả động từ ngành thuỷsản trong hình 2.Mặc dù chúng ta đã giải quyết được  các mô hình trong thời gian60 năm, nhưng chúng ta chỉ trình bày trong khoảng 40 năm đầutiên.

(Hình 2 ở đây!)

Figure 2 : Kích thước số liệu động mô hình đánh bắt cá thương mại. Tỉ lệchiết khấu từ 0%(d = 0.00) đến 5%(d = 0.05). X0 và X5 là kích thước cổ phiếucá hồi, Y0 và Y5 là kích thước cổ phiếu cá hồi nuôi cùng với tỉ lệ chiếtkhấu từ 0% đến 5%, tương ứng.

Đó là khoảng thời gian dài cho việc giải quyết các mô hìnhđể đảm bảo rằng những giải pháp báo cáo sẽ được số liệu không thểphân biệt từ những giải pháp báo cáo trong 40 năm. Chúng ta sẽbắt đầu với giá trị cổ phiếu cao hơn giá trị trạng thái ổn định

một chút. Như đã chỉ ra, vì mức độ cao của tuyến tính trong cácmô hình cùng với quy định mật độ phụ thuộc vào chức năng pháttriển tự nhiên, các mô hình tiếp cận trạng thái cân bằng, ổn địnhmà không cần bất kỳ overshooting = undershooting quite fast(không hiểu chổ này, tạm gọi là vượt quá). Với kích thước cổphiếu ban đầu, mô hình thu hoạch theo thời gian là rất giống vớisự phát triển thị trường; đó là ,đợt thu hoạch đầu tiên giảmnhanh chóng và sau đó dần dần chậm lại cho đến khi đạt trạng tháithu hoạch ổn định. Do đó; các động thái chuyển tiếp có điểm tươngđồng với động lực học đường yên.Những ảnh hưởng khác ở tình huốngban đầu kiểm tra cho thấy là tốt. Quan trọng nhất là chúng ta đãgiải quyết được mô hình với giá trị cổ phiếu ban đầu thấp, cũngnhư bắt đầu với giá trị của phần lồi trên chức năng tăng trưởngtự nhiên (Hình 1). Trong tất cả các trường hợp, các trạng thái ổnđịnh cuối cùng đã đạt được, chỉ ra rằng giải pháp tối đa là duynhất, ít nhất là trong phạm vi của các giá trị tham số hợp lý,Chúng ta thấy rằng việc tăng lãi suất chiết khấu, như mong đợi,làm giảm kích thước cổ phiếu,và chúng ta cũng thấy thời gian đểđạt được ổn định đã tăng lên trạng thái mới.Tuy nhiên các độngthái không thay đổi chất lượng.

Bảng 2 chỉ ra những trạng thái ổn định kết quả chi tiếttrước và sau invasion (giống như kiểu chen chân vào) ngành thủysản thương mại. Đối với các thông số cơ bản giá cao sự cùng tồntại cá hồi tự nhiên và cá hồi nuôi với nguồn gốc thống trị hệsinh thái. Đối với các giá trị tham số cơ bản cá hồi nhiên vànuôi cùng tồn tại với bản thống trị hệ thống sinh thái. Hơn nữa,đối với kích thước tối ưu của các cổ phiếu xâm lấn, giá trị cổphiếu đại diện cho đỉnh cao của các chức năng tăng trưởng chứngkhoán có nguồn gốc là Xmsy = 9593.

(Bottom Page 21)

TABLE 2 (Steady-State Commercial Fishing)

Do đó, kích thước tối ưu của các chứng khoán có nguồn gốc lànằm ở phía bên tay trái của đỉnh này (trong table 2). Ta thấyrằng u = -3 (NOK=salmon), do đó (p-u)=53. Cá hồi tự nhiên có giátrị shadow k = 90 (NOK=salmon) là khá cao. Kết quả này thường ngụý một khoảng cách khá lớn giữa giá thu hoạch của cá invasion vàgiá trị shadow của nó. Mặt khác, như mong đợi, chúng ta tìm thấytrữ lượng tối ưu để được ở trên Xmsy = Kx/2 = 12500 trong trườnghợp trước khi xâm lấn (Table 1). Mặc dù các cổ phiếu tăng trưởngtại bản địa là 0,26 trong tình hình trước khi chen vào, nó làm

giảm nhẹ đến r = r (X=Y) =0.26 * 1 (1 – e-5*7010/5813 ) trong trườnghợp sau khi chen vào (Table 1). Mặt khác, những ảnh hưởng của cổphiếu được đưa ra với thuật ngữ sau BY=1*5813=5813 là khoãng 17%dưới sự tối ưu của cổ phiếu cá hồi tự nhiên 5813/7010. Tổng cộnghai tác động này kết hợp có nghĩa là các chứng khoán có nguồn gốctối ưu trở nên thấp hơn trong trường hợp trước sự chen vào đángkể. Do đó, các trạng thái ổn định giảm lợi nhuận cá hồi có nguồngốc thủy sản do sự thoát cá hồi nuôi xâm lấn, giảm từ 77 NOK('000) trước trước invasion xuống 40 NOK (' 000). Tuy nhiên,tổng lợi nhuận vẫn khá ổn định với NOK 73 ('000). Vì vậy, bất kỳtổn thất lợi nhuận cá hồi có nguồn gốc chủ yếu được bù đắp bởilợi nhuận đạt được từ việc thu hoạch cá hồi nuôi thoát. Nếu cáhồi giá thu hoạch trốn thoát là zero, v = 0 và ta giữ tất cả cácgiá trị tham số khác không thay đổi, cá hồi nuôi thoát có giáshadow u= -53 và được thu hoạch chỉ là một loại dịch hại bởi sảnphẩm do không chọn lọc của thủy sản và vì lợi ích của các cổphiếu cá hồi tự nhiên. Tổng lợi nhuận ổn định hiện nay giảm đángkể từ 77 NOK ('000) xuống NOK 40 (' 000) trong trường hợp dịchhại sau cuộc xâm lấn này. Do đó, giá thu hoạch thoát (cá hồithoát ra) ảnh hướng nhỏ không đáng kể và giảm lợi nhuận là cơ bảnliên quan đến sự mất tích giá trị thu hoạch invasion.

Trong trường hợp câu cá giải trí, ta kết quả chỉ trình bàytừ các quốc gia ổn định (kết quả động được cung cấp theo yêucầu). Đối với các giá trị tham số cơ bản, các cổ bản địa cũng nhưcác cổ phiếu xâm lấn trở nên cao hơn so với trường hợp thươngmại.

(Page 22)

Giống trường hợp các cơ sở thương mại tối ưu kích thước cổbản địa nằm ở phía bên tay trái của Xmsy trong các trường hợp sausự xâm nhập. Như đã thảo luận cái này có thể chỉ ra một yêu cầugiấy phép khá cao, và / hoặc cao hơn nghề cá giải trí. Kết quảtrong Table 3 cho thấy rằng kích thước của các cổ phiếu bản địavà thu hoạch của nó giảm hơn 50% sau khi cuộc xâm lược. Tuynhiên, tổng thu hoạch và giá trị thặng dư được giữ tương đối ổnđịnh như kích thước tổng số cổ phiếu chỉ hơi thay đổi. Tương đốiổn định kích thước tổng số cổ phiếu cũng dẫn đến sự khác biệt nhỏtrong giá giấy phép và ngày đánh bắt cá giữa trước và sau cuộcxâm lược từ cá hồi tự nhiên và thoát được đối xử bình đẳng trongcác chức năng yêu cầu.

Đối với các giá trị tham số sinh thái được đưa ra và dòngvốn cố định hàng năm của cá hồi nuôi bị thoát, kết quả cho thấycác tác động sinh thái và kinh tế của thoát cá hồi cá hồi cónguồn gốc là đáng kể, tức là, FY là '' lớn '' trong giá trị. Nhưmột hệ quả, thu hoạch và lợi nhuận suy giảm cá hồi mẹ đẻ sau khitrốn thoát cá hồi nuôi vào môi trường. Tuy nhiên, sản lượng cáhồi nuôi thoát thu hoạch bổ sung và lợi nhuận và thặng dư cho ngưdân và người câu cá. Những bổ sung bồi thường toàn bộ hoặc mộtphần các khoản lỗ của vụ thu hoạch cá hồi tự nhiên. Lý do chođiều này là những hiệu ứng chất lượng như nhau được giả định chocá hoang dã và nuôi cá trong những người đi câu, đó là một giảđịnh giới hạn quan trọng (see Liu et al., 2012).

Cá hồi hiện nay được thu hoạch bởi cả hai ngành đánh bắt cáthương mại và giải trí ở Na Uy. Tuy nhiên, do sự tổng thặng dưtăng cao được tạo ra bởi hình thức đánh bắt giải trí, kết quảchúng ta mang lại là một giải pháp góc, nơi toàn bộ cổ phiếu đượcdành cho câu cá giải trí, tức là, E = 0 và D> 0 là giải pháp tốiưu. Xem điều kiện (19) và (20). Như vậy, các trường hợp cá hỗnhợp không được xem xét ở đây.

(Page 23)

(FIGURE 3 ở đây)

Phân tích (Sensitivity Analysis)

Sự vững mạnh của các kết quả do thay đổi một số thông số vềsinh thái và kinh tế trọng điểm đang được thử nghiệm. Kể từ khicâu cá giải trí tạo ra giá trị thặng dư kinh tế cao điều này cóvẻ câu cá thú vị hơn xem chúng ta chứng minh những hiệu ứng đó.Chúng tôi bắt đầu nhìn vào những thay đổi trong dòng chảy hàngnăm của cá hồi thoát, m, nơi mà chúng tôi sử dụng 400 cá hồitrong kịch bản cơ sở, (xem hình 3.) Những thay đổi này có thể làdo các nguyên nhân khác nhau. Chúng tôi thấy rằng các cổ phiếu vàthu hoạch tự nhiên và nuôi cân bằng thay đổi đáng kể với một dòngchảy hàng năm chuyển dịch của cá hồi nuôi thoát (bảng trên). Khim = 0, các cổ bản địa trở nên nổi trội vì tốc độ tăng trưởng nộitại của nó cao hơn trong khi các loài cá nuôi thoát biến mất. Mặtkhác, với m = 600 cổ phiếu riêng biệt này đã tuyệt chủng, và chỉcòn lại cá hồi nuôi. Vì vậy, cho rằng giá trị cao của dòng, cáccổ phiếu có nguồn gốc là chỉ đơn giản là loại bỏ hoàn toàn.

(Page 24)

Giá trị thặng dư của người câu cá thay đổi một chút trongkhi tổng lợi nhuận hầu như vẫn còn ở mức tương tự, ngoại trừ mộtsự suy giảm nhỏ khi m = 600 (bảng dưới). Những kết quả này cóliên quan đến giá giấy phép khá ổn định và số lượng ngày đánh bắtcá, nhưng quan trọng nhất đối với các giả định về chất lượng hiệuquả nhu cầu tương tự của bản địa và thoát cá.

Chúng tôi thay đổi nghiên cứu tiếp theo trong các tham số βvà b trong đó chỉ đạo các cường độ của các đối thủ cạnh tranh môitrường sống giữa bản địa và cá hồi nuôi bị thoát. A cao hơn β chothấy rằng cá hồi nuôi bị thoát có ảnh hưởng tiêu cực đến chứng khoán mạnhhơn cá hồi tự nhiên, tức là, tăng FY giá trị, trong khi một giá trịcao hơn của β làm việc trong một cách tương tự như trên cá hồinuôi. Các kết quả trong (Bảng 4), nơi cả hai tham số này đượcchuyển đồng thời cho thấy tình trạng mất ổn định sinh khối đểtăng cạnh tranh, và các bản địa cổ phiếu cá hồi tối ưu giảm nhanhchóng với sự cạnh tranh ngày càng tăng chứng khoán.

Khi β = 1.2, các cổ phiếu không còn tồn tại song song; cáhồi riêng biệt này đã tuyệt chủng và chỉ còn lại cá hồi nuôi.Điều này xảy ra không phân biệt các loài cá bản địa tốc độ tăngtrưởng nội tại cao hơn đáng kể, và chủ yếu là do dòng chảy hàngnăm của cá hồi nuôi thoát ra. Các con số của ngày đánh bắt và giágiấy phép đang ảnh hưởng mạnh mẽ là tốt. Như một hệ quả, tổngthặng dư và phân phối lợi ích thay đổi. Ví dụ, khi thay đổi β vàb từ các giá trị cơ bản của 1 đến 1,2, tổng thặng dư giảm từ 2332NOK đến 2067 NOK ('000) trong khi chủ đất tăng lợi nhuận từ 430NOK đến 639 NOK (' 000). Các số thấp của giấy phép được bán bởicác chủ đất là hơn nặng hơn bởi một giá giấy phép cao hơn.

Những ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ tăng trưởng nội tạicũng được nghiên cứu (kết quả có sẵn theo yêu cầu). Giữ tốc độtăng trưởng nội tại của cá hồi liên tục bản địa, chúng tôi thayđổi tốc độ tăng trưởng nội tại của cá hồi nuôi. Khi s trở nên nhỏhơn, kích thước cổ phiếu của cá hồi có nguồn gốc tăng trong khitrữ lượng cá hồi nuôi giảm. Tổng trữ lượng trạng thái ổn địnhcũng giảm với giá trị thấp hơn của s. Như một hệ quả, chúng tathấy giá thấp hơn giấy phép và ngày đánh bắt hơn. Vì vậy, giá trịthặng dư của người câu cá tăng giảm lợi nhuận cho người chủ đấttrong khi tổng giá trị thặng dư dư giảm.

(Page 25)

(Table 4 ở đây)

Nếu s tăng dần, kích thước cổ phiếu của cá hồi bản địa giảmtrong khi kích thước của cổ phiếu cá hồi nuôi trốn thoát tăng.Khi s tiếp cận r, cá hồi nuôi trốn thoát dần dần thay thế cá hồibản xứ mà biến mất cuối cùng, tương tự như những gì đã được quansát cho tôm càng (Kataria, 2007).

Sự thay đổi bên trong choke price cũng cần được xem xét. Caở đây có thể thay đổi do điều kiện thu nhập của người câu cá cũngnhư thay đổi các ưu tiên cho câu cá giải trí. (Table 5) cho thấycả hai kích thước tối ưu của bản địa và thoát cổ phiếu hồi đápnhanh chóng để thay đổi điều kiện nhu cầu trong khi tổng thuhoạch và lợi nhuận được tăng cường như các giá đặt phòng tăng hàmý một nhu cầu cao hơn.

Cuối cùng, chúng tôi đã nghiên cứu những ảnh hưởng của sựthay đổi trong việc đánh bắt thủy sản hệ số khả năng giải trí uvà x (không được báo cáo, nhưng có sẵn theo yêu cầu). Thay đổinhư vậy có thể liên quan đến những thay đổi trong các hạn chếthiết bị và sử dụng thiết bị (bay câu cá, mồi câu cá, mồi quay).Khi khả năng nắm bắt hệ số tăng lên, chúng ta thấy, không đángngạc nhiên, chứng khoán nhà nước ổn định thấp hơn kích thước củacả hai thoát nuôi và cá hồi tự nhiên, và thu hoạch cao hơn vàtổng thặng dư. Các nỗ lực đánh bắt cá trong số ngày đánh bắt cóthay đổi một chút, và ảnh hưởng kết hợp của các cổ phiếu nhỏ vàbắt cao hơn hệ số khả năng mang lại một giá cá cao. Như một hệquả, chúng ta thấy sự gia tăng lợi nhuận trong khi owner-landangler giá trị thặng dư vẫn gần như không thay đổi. Các giá trịnhiều hay ít không thay đổi trạng thái cân bằng của cần thủ. Mộtmặt, công nghệ hiệu quả hơn có nghĩa là cổ phiếu nhỏ mà thay đổicác chức năng yêu cầu vào bên trong thông qua các kích thước cổphiếu trong các chức năng yêu cầu. Hiệu ứng này được, tuy nhiên,làm mất tác dụng thông qua việc đánh bắt trên một cổ phiếu cóhiệu lực nỗ lực.

Tóm lại, những thay đổi trong dòng chảy hàng năm của thoátnuôi cá hồi, m, và những thay đổi trong các tham số cạnh tranhmôi trường sống của β và b năng suất có tác động lớn kích thướccổ phiếu của các loài bản địa và nuôi trong các thông số xétnghiệm. Những ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ tăng trưởng nộitại của cá hồi và thay đổi đường α là choke price hơn vào nuôihơn cá hồi tự nhiên. Những thay đổi trong đánh bắt thủy hệ số khả

năng giải trí u và x có tác dụng tương tự trên cả hai loài bảnđịa và nuôi.

(Table 5 ở đây)

CONCLUDING REMARKS

In this article we havedeveloped a general invasionimpact model capturing bothecological and economiceffects of invasive fish onnative fish. More specially,we model the effects of anescaped farmed fish on nativefish. Ecologically, twoeffects, namely growth andstock, are specified andincorporated into the logisticgrowth functions of native andescaped fish. Both lower thenatural growth. Economically,the benefit associated withnative and escaped fish areexplored. A native fish isexploited for commercialvalues, while an escapedfarmed fish is harvestedeither for commercial value oras a pest. Two differentharvesting models aredeveloped, and where thetheoretical underpinnings ofthe commercial fishery as wellas the recreational fisheryare explored. Both fisheriestake place with nonselectiveharvesting technologies.

KẾT LUẬN

Trong bài viết này, chúng tôiđã phát triển một mô hình tácđộng xâm lược chung chụp hiệuứng cả về sinh thái và kinh tếcủa cá xâm phạm đến cá trongtự nhiên. Đặc biệt hơn, chúngta mô hình các tác động củamột cá nuôi trốn thoát vào cátrong tự nhiên. Về mặt sinhthái, hai tác động, cụ thể làtăng trưởng và cổ phiếu, đượcquy định và đưa vào các hàmtăng trưởng logic của cá trongtự nhiên và trốn thoát. Cả hailàm giảm sự tăng trưởng tựnhiên. Về kinh tế, lợi íchliên quan đến cá trong tựnhiên và đã trốn thoát đượckhám phá. Cá trong tự nhiênđược khai thác cho các giá trịthương mại, trong khi một cánuôi trốn thoát được thu hoạchhoặc cho giá trị thương mạihoặc là một dịch hại. Hai môhình khai thác khác nhau đượcphát triển, và nơi mà các cơsở lý thuyết của ngành thủysản thương mại cũng như cácngư nghiệp giải trí được khámphá. Cả hai thủy sản diễn ravới các công nghệ thu hoạchkhông chuyên biệt.

A case study of Atlanticsalmon in Norway illustratesthe interaction between

native and escaped farmedsalmon. We first look atsome basic dynamics of the

models, and where we showthat the stock sizesapproach a stableequilibrium without anyovershooting /undershooting. We find thatincreasing the discountrate, as expected, lowersthe stock sizes, but doesnot change the dynamicsqualitatively. More detailedsteady state results aredemonstrated for thecommercial fishery andrecreational fishery,respectively. We find thatthe ecological effects ofinvasion seem to be quitedramatic with respects tothe stock, growth, andharvest of native fish. Onthe other hand, economicallyit turns out that the totalnet benefits received byfishermen and/or anglers andlandowners decline onlyslightly.

Một trường hợp nghiên cứu cáhồi Đại Tây Dương ở Na Uy

cho thấy sự tương tác giữacá trong tự nhiên và cá hồinuôi trốn thoát. Đầu tiênchúng ta xem xét một số độngthái cơ bản của các mô hình,và nơi mà chúng tôi cho thấyrằng kích thước cổ phiếutiếp cận một trạng thái cânbằng ổn định mà không cầnbất kỳ lố / undershooting.Chúng tôi thấy rằng việctăng lãi suất chiết khấu,như mong đợi, làm giảm kíchthước cổ phiếu, nhưng khônglàm thay đổi động thái chấtlượng. Kết quả trạng thái ổnđịnh chi tiết hơn được chứngminh cho ngành thủy sảnthương mại và giải trí ngưnghiệp, tương ứng. Chúng tôithấy rằng các tác động sinhthái của cuộc xâm lược dườngnhư là khá ấn tượng với khíacạnh với các cổ phiếu, tăngtrưởng, và thu hoạch cátrong tự nhiên. Mặt khác,kinh tế nó chỉ ra rằng tổnglợi ích ròng nhận được ngưdân và / hoặc người đi câuvà chủ đất giảm nhẹ.

In some cases they can evenbe better off fromharvesting both native andfarmed species than solelycatching native fish. Thishighlights an importantfeature of escaped farmed

salmon. Since these escapedfish contribute to theavailable stock for harvest,the incentives amongfishermen, anglers, andlandowners to reduce escapedfarmed fish may be rather

weak. For these reasons, thepotential long term negativeimpacts through ecologicalmechanisms might beneglected by the variousstakeholders. In ourbaseline numerical analysis,it is assumed that there isno distinction betweennative and farmed salmon toanglers. A fish is just afish to them. This might notalways be the case, andresults from Olaussen andLiu (2011) indicate thatanglers are willing to paysubstantially more forfishing native than farmedsalmon.

Trong một số trường hợp, họthậm chí có thể được tốt hơntừ việc thu hoạch các loàitrong tự nhiên và cả nuôihơn chỉ đánh bắt cá trong tựnhiên. Điều này nhấn mạnhmột đặc điểm quan trọng của

cá hồi nuôi trốn thoát. Kểtừ khi những con cá trốnthoát đóng góp vào các cổphiếu có sẵn cho thu hoạch,các biện pháp khuyến khíchngư dân, câu cá, và các chủđất để giảm cá nuôi trốnthoát có thể là khá yếu. Đốivới những lý do này, các tácđộng tiêu cực lâu dài tiềmnăng thông qua các cơ chếsinh thái có thể được bỏ quabởi các bên liên quan khácnhau. Trong phân tích số cơbản của chúng tôi, nó đượcgiả định rằng không có sựphân biệt giữa cá hồi tựnhiên và nuôi để câu cá. Mộtcon cá chỉ là một con cá chohọ. Điều này có thể khôngphải luôn luôn đúng, và kếtquả từ Olaussen và Liu(2011) chỉ ra rằng các cầnthủ sẵn sàng trả nhiều hơnđáng kể cho cá trong tựnhiên hơn cá hồi nuôi.

As indicated earlier, thereare some limitations to ouranalysis. In this article,lumped natural growthfunctions are used. Thus,the accumulated effects ofinterbreeding between nativeand farmed species are notexplicitly modeled. Thepreferred model toincorporate such accumulatedgenetic effects would be anage-structured dynamic model

like the one developed byHindar et al. (2006), whichis studied throughsimulations. Such asimulation model wouldrequire a large amount ofparameters and associatedvalues that are unavailablein most cases. For abioeconomic attempt to modelthe genetic effects ofinterbreeding, see Liu etal. (2012). Further, the

economic analysis includesonly the market values fromharvest of wild and escapedfish. Other values, such asthe native stock’s intrinsicvalue, have not beenincluded here. In the end,since all models, bydefinition, representsimplifications andabstractions of the realworld, we must always beaware that the process ofsimplifications involvesassumptions and imposeslimitations.

Như đã nêu ở trên, có một sốhạn chế để phân tích củachúng tôi. Trong bài viếtnày, hàm tăng trưởng tựnhiên được sử dụng. Vì vậy,những tác động tích lũy củalai giống giữa các loài tưnhiên và nuôi không được môhình hóa một cách rõ ràng.Các mô hình ưa thích để kếthợp hiệu ứng di truyền tíchlũy như vậy sẽ là một môhình năng động tuổi có cấu

trúc như một trong nhữngphát triển bởi Hindar et al.(2006), được nghiên cứu quacác mô phỏng. Như một môhình mô phỏng sẽ đòi hỏi mộtsố lượng lớn các thông số vàcác giá trị mà không có sẵntrong hầu hết các trườnghợp. Đối với một nỗ lựcbioeconomic để mô hình hiệuứng di truyền củainterbreeding, xem Liu etal. (2012). Hơn nữa, cácphân tích kinh tế này chỉ cógiá trị thị trường từ mùathu hoạch hoang dã và cátrốn thoát. Các giá trịkhác, chẳng hạn như giá trịnội tại của cổ phiếu gốc, đãkhông được bao gồm ở đây.Cuối cùng, vì tất cả các môhình, theo định nghĩa, đạidiện đơn giản hóa và trừutượng của thế giới thực,chúng ta phải luôn luôn nhậnthức rằng quá trình đơn giảnhóa liên quan đến các giảđịnh và áp đặt những hạnchế.

ACKNOWLEDGMENTS

This research was conducted atthe Centre for EconomicResearch, Department ofEconomics Norwegian Universityof Science and Technology(NTNU) where the first authorwas employed as a researchassociate. The authors wouldlike to thank the participantsat the Bioecon conference in

Cambridge, 2013, for theirhelpful comments andsuggestions. Specialappreciation is also extendedto the editor of the journaland two anonymous reviewersfor their valuable andconstructive suggestions whichgreatly improved an earlierversion of this manuscript.

LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu này được tiến hànhtại Trung tâm Nghiên cứu Kinhtế, Khoa Kinh tế Na Uy Đại họcKhoa học và Công nghệ (NTNU)nơi mà tác giả đầu tiên đượclàm việc như một nhà nghiêncứu. Các tác giả xin chânthành cảm ơn các đại biểu thamdự hội nghị Bioecon ởCambridge, năm 2013, cho ý

kiến và gợi ý hữu ích của họ.Đánh giá cao đặc biệt cũngđược mở rộng cho các biên tậpviên của tạp chí và hai ngườinhận xét vô danh cho các đềxuất có giá trị và mang tínhxây dựng của họ mà cải thiệnrất nhiều phiên bản trước củabản thảo này.

FUNDING

The research is funded by theResearch Council of Norwaythrough the program ofNorwegian EnvironmentalResearch Towards 2015 (Miljø2015). The opinions expressedhere, certainly, are those ofthe authors and not those ofthe funding agency.

TÀI TRỢ

Nghiên cứu được tài trợ bởiHội đồng nghiên cứu Na Uythông qua các chương trình củaNa Uy nghiên cứu môi trườngHướng tới năm 2015 (MILJO2015). Các ý kiến bày tỏ ởđây, chắc chắn, là của các tácgiả và không những của các cơquan tài trợ.